KHỞI PHÁT NGUỒN TÂM

Hòa thượng Thích Thiện Siêu

 

I. BỒ- ĐỀ TÂM:

“Tâm dẫn đầu, tâm làm chủ, tâm tạo tác các pháp, nếu nói hay làm với tâm ô nhiễm thì sự khổ sẽ kéo theo nghiệp như bánh xe lăn theo con vật kéo xe”. “Tâm dẫn đầu, tâm làm chủ… nếu nói hay làm với tâm thanh tịnh thì sự vui vẻ sẽ kéo theo nghiệp như bóng theo hình.” “Chế ngự tâm vào một chỗ, không việc gì chẳng nên”. (Kinh Pháp Cú).

Đức Phật dạy những lời này để khuyên chúng ta phải luôn luôn tu tâm, nhận rõ tâm, phát huy hết khả năng tốt đẹp của tâm.

Kinh Tịnh Danh có dạy: “Bồ-đề tâm là cõi Tịnh độ của Bồ-tát”. Tịnh độ của Bồ-tát xây dựng bởi Bồ-đề tâm, nếu không có Bồ-đề tâm thì không xây dựng được Tịnh độ. Lại nữa, kinh Hoa Nghiêm viết: “Bỏ mất Bồ-đề tâm mà làm các thiện pháp thì đều thành ma nghiệp”. Tại sao vậy? Vì làm các thiện pháp tuy là việc tốt, nhưng nếu hành giả làm việc đó xuất phát từ Bồ-đề tâm thì nó dẫn đưa hành giả tiến đến quả vị giải thoát ngoài vòng chấp ngã, chấp nhơn, chấp chúng sanh, chấp thọ giả, tức ngoài vòng hữu vi sanh tử. Ngược lai, hành giả làm việc thiện mà không xuất phát từ Bồ-đề tâm thì không khỏi vướng vào tâm vì ngã, vì danh lợi, vì ích kỷ, và kết quả chỉ đưa đến quả báo là thọ sự an lạc trong cõi trời, cõi người, chứ không đưa đến giải thoát an lạc hoàn toàn. Khi việc thiện đó hết năng lực rồi thì quả báo án lạc trong cõi trời cũng hết và quay trở lại làm các loài thấp hơn để chịu cảnh trầm luân đau khổ. Đấy gọi là ma nghiệp. (Chữ ma ở đây nên theo hiểu theo nghĩa rộng là ở trong vòng lục đạo tam giới).

Vậy Bồ-đề tâm là gì? Bồ-đề tâm là phiên âm từ chữ Bodhicita có nghĩa là tâm giác ngộ, Chánh giác hay là Giác – tức không còn vô minh. Ngôn ngữ học Ấn Độ thường có phúc âm, tiếp vĩ ngữ, ý nghĩa của nó cũng thay đổi theo. Ví dụ Bodhi gọi là Bồ-đề nhưng Buddha là Đấng Giác ngộ. Chữ Buddha, Bodhi đều có nghĩa giác, nhưng khi biến thành Bodhisattva thì đọc là Bồ-đề-tát-đỏa. Chữ Sattva gọi là hữu tình, là một loài sinh vật, loài này được phân biệt cao, thấp, lớn, nhỏ, ngu, trí, trời, người, địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh… đều nằm trong hữu tình, nhưng khi Giác ngộ thì gọi Bodhisattva và dịch là Bồ-đề-tát-đỏa, là giác hữu tình hay hữu tình giác, tức là loài hữu tình đã có sự giác ngộ, có sự phát tâm Bồ-đề và muốn dẫn dắt kẻ khác giác ngộ nên gọi là Bồ-đề-tát-đỏa, gọi tắt là Bồ-tát.

Khi nói đến Bồ-tát, trong kinh thường chỉ cho người có hạnh tự độ và độ tha, hạnh này bắt nguồn từ Bồ-đề tâm, cho nên nói không có Bồ-đề tâm thì không có Bồ-tát và Bồ-tát là sự nghiệp tạo thành đưa đến quả Chánh Đẳng Giác và độ thoát chúng sanh.

Hữu tình nào có phát Bồ-đề tâm thì gọi là Bồ-tát. Do đó, người nào muốn thọ giới Bồ-tát, điều quan trọng trướn tiên là phát Bồ-đề tâm. Trong giới Bồ-tát người nào bỏ mất Bồ-đề tâm thì mất giới, nếu không bỏ mất Bồ-đề tâm thì dù có phạm giới còn có thể theo Luật phát lộ sám hối được.

Người phát Bồ-đề tâm là người thế nào? Trong kinh Phật dạy: “Người phát Bồ-đề tâm là người phát tâm tỉnh giác, nguyện trên cầu thành Phật đạo, nguyện dưới hóa độ chúng sanh (Cầu thành Phật đạo là tự lợi, hóa độ chúng sanh là lợi tha).

Chư Phật ra đời cốt chỉ cho chúng sanh con đường thoát vòng luân hồi sanh tử, dứt hết nghiệp hữu lậu và tâm hữu lậu, tức là tâm chấp ngã, chấp nhơn, chấp chúng sanh, chấp thọ giả. Người chấp như vậy, dù tu và làm việc thiện nhưng tâm còn vướng ngã thì việc thiện ấy chỉ là việc thiện hữu lậu, kết quả chỉ hưởng được phước báo ở cõi người, cõi trời. Vậy nên, muốn hưởng quả vô lậu giải thoát thì phải tu và hành thiện theo tâm vô lậu, tâm vô lậu tức là tâm Bồ-đề, là không chấp ngã, chấp nhơn, chấp chúng sanh, chấp thọ giả.

Người chấp ngã là chấp thân thể và tâm niệm vô thường là ta. Khi đã chấp ngã thì thấy ngã của mình là ngã của một con người, có nhân cách, chứ không phải là súc sanh hay loài địa ngục, ngạ quỷ, thế là chấp nhơn tướng. Lại tự mình thấy mình là một con người, là chúng sinh chứ không phải là loài vô tri vô giác. Đó là chấp chúng sanh tướng. Khi đã chấp mình là một chúng sanh, thì thấy chúng sanh này đang sống trên cõi đời trong khoảng thời gian mấy chục năm gọi là một đời người, chấp như thế gọi là chấp giả thọ tưởng. Khi tâm còn vướng các vọng tưởng chấp tướng thì ấy là tâm hữu lậu, cấu uế, hẹp hòi, chỉ phát sanh những phiền não và đọa lạc trong tam giới. Chỉ khi nào hành thiện, như kinh Kim Cang nói: “Với cái tâm không chấp ngã, không chấp nhơn, không chấp chúng sanh, không chấp thọ giả mà làm tất cả việc thiện thì sẽ được kết quả Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác” mới là sự hành thiện bỉ ngạn.

II. BỐN HOẰNG THỆ NGUYỆN:

Căn cứ Bồ-đề tâm mới có Bồ-tát hạnh, không có Bồ-đề tâm thì không có Bồ-tát hạnh. Bồ-đề tâm có khi còn gọi là Bồ-đề nguyện, cả hai đều cùng một nghĩa, phát Bồ-đề tâm, hay phát Bồ-đề nguyện cũng đều là tâm thượng cầu, hạ hóa. Vậy hành tướng của Bồ-đề tâm như thế nào? Đó là bốn hoằng thệ nguyện:

Chúng sanh vô biên thệ nguyện độ
Phiền não vô tận thệ nguyện đoạn
Pháp môn vô lượng thệ nguyện học
Phật đạo vô thượng thệ nguyện thành.

Bốn lời nguyện trên cũng bắt nguồn nơi giáo lý cơ bản của đức Phật mà khai triển ra.

Đức Phật sau khi thành đạo, trước tiên chuyển Pháp luân tại Lộc Uyển. Ngài dạy về pháp Tứ đế cho năm thầy Kiều Trần Như… gọi là Sơ chuyển pháp luân, đó là Khổ, Tập Diệt và Đạo đế.

Hành giả Thanh văn tu tập Tứ đế thì đạt được quả vị A-la-hán, dứt trừ ái thủ, ái thủ được dứt là Diệu đế, chứng Hưu dư y Niết-bàn, Vô dư y Niết-bàn. Các vị Bồ-tát thì đi xa hơn một bước, cũng từ nơi Tứ đế, nhưng hiểu rõ mục đích siêu việt của đức Phật trong lời dạy đó mà phát bốn thệ nguyện rộng lớn:

– Duyên Khổ để phát ra lời nguyện: Chúng sanh vô biên thệ nguyện độ.

– Duyên Tập để phát ra lời nguyện: Phiền não vô tận thệ nguyện đoạn.

– Duyên Diệt đế phát ra lời nguyện: Phật đạo vô thượng thệ nguyện thành.

– Duyên Đạo đế phát ra lời nguyện: Pháp môn vô lượng thệ nguyện học.

Bốn lời thệ nguyện này rất quan trọng, cần xét đến tác dụng và kết quả của nó để hiểu rõ và áp dụng trong bước đường tu tập.

1.Chúng sanh vô biên thệ nguyện độ:

Trong câu này có chữ “chúng sanh” cần cắt nghĩa. Trong kinh Kim Cang nêu các loại noãn sanh, thai sanh, thấp sanh và hóa sanh, hữu tưởng, vô tưởng, phi hữu tưởng, phi vô tưởng, hữu sắc, vô sắc. Kinh Từ Bi còn nêu chúng sanh hai chân, bốn chân, nhiều chân, đã sanh sắp sanh, hay hiện có hoặc lớn hoặc nhỏ. Chúng sanh giữa thế giới nầy vô cùng vô tận không sao kể xiết, nếu phân thành sáu nẻo thì gồm có chúng sanh cõi Trời, Người, A-tu-la, Địa ngục, Ngạ quỷ, Súc sanh. Nếu chia theo loại sanh thì gồm có bốn loại. Noãn sanh, thai sanh, thấp sanh, hóa sanh. Vậy mà người tu hành phát nguyện độ tất cả là nhờ hiểu biết giáo lý và lòng từ bi của Phật, thấy chúng sanh tuy vô lượng nhưng đều là như huyễn, nên mới phát nguyện được như vậy.

“Độ chúng sanh” là danh từ đặc biệt của Phật giáo. “Chúng đa sanh từ” là loại hữu tình đang còn ở trong vòng luân hồi, nhiều lần sanh tử vì mắc nhiều nghiệp hữu lậu. Khi còn nghiệp hữu lậu thì phải thọ sanh thân hữu lậu trong tam giới và gọi là chúng sanh. Như vậy, hễ còn một chút vô minh, một niệm tham ái, một chút hữu lậu thì còn là một chúng sanh. Chúng sanh có tướng chúng sanh và tánh chúng sanh. Tướng chúng sanh là chúng sanh mang thân hình của tứ đại vô thường. Tánh chúng sanh là những tánh chấp ngã, chấp nhơn, phân biệt mình, người. Nếu còn mắc hình tướng chúng sanh, nhưng không còn tánh chúng sanh là vô minh, thì giờ phút đó không còn là chúng sanh nữa.

Tự bản tánh không là chúng sanh, nhưng nếu còn móng niệm vọng tưởng là còn chúng sanh. Móng niệm tham thì thành chúng sanh của niệm tham, cho nên móng niệm sân, si, chấp ngã, thì thành chúng sanh của các niệm ấy. Nhưng nếu ngộ nhập lý vô ngã, tức là vô lậu, thì không còn luân hồi và bấy giờ không còn là chúng sanh nữa.

Đức Phật mặc dầu Ngài hiện diện trên thế giới chúng ta. Ngài có sanh, có tử như chúng ta, nhưng không thể gọi Ngài là chúng sanh được, mà gọi Ngài là một vị Phật. Vì sao? Vì Ngài đã hết vô minh, hết chấp ngã, cái tướng chúng sanh vẫn còn nhưng tính chúng sanh nơi Ngài không còn nữa. Khi nhìn một chúng sanh, ta thấy người ấy vửa là tính vừa là tướng. Cho nên khi nào ta độ cho ta và cho người thoát khỏi sự ràng buộc của tham, sân, si thì đó là độ sanh.

Như vậy, việc độ sanh rất đa dạng và tế nhị, nếu có Bồ-đề tâm thì lúc nào cũng có thể độ sanh.

Người Phật tử phải theo học hạnh từ bi của Phật, phát nguyện độ vô biên chúng sanh. Lời nguyện đó như không phải là lời nguyện suông không thể thực hành được trong hàng ngày.

Phật dạy có nhiều cách độ sanh: không phá hoại sự sống của muôn loài, đó là độ sanh. Bảo vệ sự sống, phóng thích sự sống cho muôn loài, đó là độ sanh. Làm cho chúng sanh được giác ngộ giải thoát khỏi vô minh ái thủ, đó là cách độ sanh cao thượng nhất. Ta có thể thực hành hạnh bố thí, ái ngữ, lợi hành, đồng sự hoặc thực hành lục độ Ba-la-mật để độ sanh.

Hiểu như vậy, mới thấy rõ lời dạy của Phật vô cùng thấm thía. Khi nào biết nghĩ tới tự độ và độ tha, khi đó là Bồ-tát, là ý nghĩa của câu chúng sanh vô biên thệ nguyện đó.

2.Phiền não vô tận thệ nguyện đoạn:

Kinh nó phiền não có 88 thứ hoặc vô lượng vô biên phiền não, nhưng tóm lại không ngoài vô minh, ái và thủ.

Vô minh là sự chấp ngã, chấp mình có một cái ta riêng khác với mọi người, mọi vật. Nhưng ngã không phải là một cái gì độc lập riêng rẻ với cái khác mà chỉ là sự tương quan tương duyên với cái khác mà có.

Tôi hiện hữu nhờ có anh, anh hiện hữu nhờ có tôi. Tôi hiện hữu được nhờ những yếu tố khác như cha mẹ, cơm áo, ánh sáng, không khí, đất, nước, gió, lửa và nhiều sự vật xung quanh, chứ không phải tách ngoài các cái đó mà có sự hiện hữu của tôi. Người khác cũng thế, không phải tách ngoài mọi người, mọi vật mà co sự hiện hữu tồn tại ngoài cái khác để bảo đó là ta. Ai còn thấy mình khác với người khác thì người đó còn vô minh, chính vì sự thấy ấy không đúng với thực tại. Như vậy, ta chỉ nói ngã trên những cái phi ngã, ngã chính là phi ngã, nên ngã chỉ là giả danh. Thực tại, là đạo lý duyên khởi mà nếu nghĩ khác đi thì đó là vô minh, vì vô minh mới sanh ra ái thủ. Chúng ta lấy ví dụ, có hai người lúc đi ngang qua một cánh đồng, cả hai người cùng thấy hoa, một trong hai người thấy hoa, tự nhiên không để ý đến nó và cứ tiếp tục đi, còn người kia thấy hoa lại cho là đẹp mà không biết bản chất của hoa là không đẹp không xấu, bởi nó nở là nở tự nhiên. Nhưng anh ta vọng tưởng cho hoa là đẹp và ưa hoa đó, muốn hái hoa đó, muốn sở hữu hoa đó cho bằng được. Khi đã yêu thích nó thì ban ngày hái không được sẽ chờ hái ban đêm, đêm không hái được thì ăn cắp cho được. Như vậy là vì anh ta vô minh cho nên mới có ái, có ái cho nên có thủ, dẫn đến hành động tạo nghiệp. Chúng sanh vì ái thủ mà tạo nghiệp nên có luân hồi.

Đức Phật dạy chúng sanh muốn không bị luân hồi thì phải đoạn ái thủ. Ai ngộ được chân lý đó thì bớt đau khổ, ai không ngộ được thì đau khổ lâu dài. Song muốn đoạn tận gốc ái thủ thì phải đoạn vô minh, muốn đoạn vô minh thì phải hiểu rõ thực tướng của vạn pháp là duyên sanh, vô tướng, duyên sanh vô tác… đạo lý Thập nhị nhân duyên đức Phật dạy rõ ràng như vậy. Muốn đoạn phiền não thì phải có tâm tỉnh giác. Cho nên, trong phép tu Thiền luôn luôn dùng hai chữ Tỉnh giác, tỉnh giác trong khi đi, đứng, nằm, ngồi, khi ăn, khi mặc, khi ngủ, khi thức… cho đến khi không tham, không sân, không si, cũng biết mình không có ba thú ấy xâm chiếm. Cách đối trị các phiền não thì nhiều nhưng cách tỉnh giác vẫn là phương pháp hữu hiệu nhất. Ví dụ khi mình khởi tâm tham liền biết và dặn lòng đừng tham, ngay khi ấy lòng tham sẽ lắng xuống. Phép tỉnh giác trong Thiền định giúp ta tỉnh tâm trong những công việc và cử động hàng ngày. Nếu luôn luôn tỉnh giác thì vô minh, ái thủ không làm sao xâm nhập được, tợ như cây bị đốn trụi cành lá, không phát triển được tất sẽ chết.

Tóm lại, phiền não vô tận thệ nguyện đoạn, chủ yếu là đoạn vô minh và thủ, vì nó là một mắt xích rất kiên cố, đoạn nó thì phải dùng đến tâm tỉnh giác.

3. Pháp môn vô lượng thệ nguyện học:

Trong suốt 45 năm giảng dạy chúng sanh, đức Phật không đưa ra một pháp môn nhứt định, nhưng chúng sanh thấy lời Ngài dạy thì thật vô lượng, nó như là một phương thuốc trị bệnh. Chúng sanh bệnh khổ. Nguyên nhân khổ của chúng sanh là vô minh, ái và thủ gây ra. Ba thứ giặc phiền não nầy biến ra muôn hình vạn trạng, nên pháp của Phật cũng có nhiều cách để đối trị. Ví dụ người có tâm tham dục nhiều thì Phật dạy tu pháp quán bất tịnh, người có tâm sân hận nhiều thì Phật dạy tu pháp quán từ bi, người có tâm trì độn nhiều thì Phật dạy tu pháp quán giới phân biệt, quán nhãn duyên. Tóm lại, pháp môn của Phật tùy theo căn bệnh của chúng sanh mà biến chế ra, chứ không có một phương thức gì nhất định. Trong kinh Phật có nêu 37 Pháp trợ đạo, Tứ nhiếp, Lục độ…cũng y như những phương thuốc trị bệnh cho chúng sanh mà thôi.

Trong thời đức Phật tại thế, có một lần, các Tỳ-kheo trong khi đi hóa đạo, có dạy cho hai cư sĩ thợ rèn và thợ giặt, tu hai pháp môn quán bất tịnh và quán sổ tức, cả hai đều tu mà không có kết quả. Họ đi đến hầu Phật trình bày việc trên. Phật hỏi : “Ông ở nhà sống về nghề gì ?” Ông cư sĩ thợ rèn thưa : “Con sống về nghề thợ rèn”. Phật hỏi tiếp : “ Các Tỳ-kheo dạy ông tu pháp gì ?” “ Dạ! Các thầy dạy con tu pháp quán bất tịnh”. Phật hỏi ông cư sĩ thợ giặt sống nghề gì? Ông ta thưa : “Làm nghề thợ giặt”. Phật hỏi : “Các vị Tỳ-kheo dạy ông tu pháp gì ?” Ông đáp : “Dạ! Các thầy dạy con tu pháp Quán sổ tức”. Đức Phật dạy : “ Thôi được, bây giờ Ta chỉ thay đổi phương pháp tu một chút để cho hợp căn cơ hai ông”. Ngài liền dạy : “ Ông thợ rèn nên tu pháp quán sổ tức, vì hàng ngày thợ rèn phải thụt ống lò hợp với hơi thở vô hơi thở ra của pháp quán sổ tức. Còn ông thợ giặt thì nên tu pháp quán bất tịnh, vì hàng ngày thợ giặt phải giặt đồ nhơ thì quán bất tịnh dễ thành”. Phật đổi cho họ phương pháp tu như vậy, họ tu một thời gian sau đó có kết quả. Như thế, pháp môn của Phật chỉ là phương thuốc cứu chúng sanh theo đúng căn cơ. Do vậy, người học đạo phải tìm minh sư, nếu không gặp minh sư thì cố gắng lựa chọn cho được pháp môn thích hợp mà tu thì mới dễ có kết quả. Tóm lại, dù Phật có vô lượng pháp môn nhưng không ngoài ba pháp môn căn bản nhất đó là Giới, Định, Tuệ.

Giới là gì? Là điều để ngăn chặn tai hại xảy ra. Có giới để giúp ta nhận thức rõ hành động của mình như thế nào là đúng, như thế nào là sai để ngăn chặn sự sai quấy của ba nghiệp, bởi vì tâm và ba nghiệp của ta như ngựa không cương, khi buông ra sẽ chạy rong khắp chốn, tức nhiên là tai họa. Giới cũng như dây cương, ngựa như người hành giả, ngựa có cương đó là ngựa tốt, có lợi ích, người tu hành có giới cũng vậy, sẽ có lợi ích lớn.

Định là gì? Là tập trung tư tưởng. Tư tưởng có ổn đinh thì việc làm mới có hiệu quả. Pháp môn Thiền định là pháp môn tu rất quý đã có từ rất xưa tại Ấn Độ, được Đức Phật sửa đổi bổ sung tạo thành một pháp môn ưu việt, đưa thẳng đến giác ngộ cứu cánh, đồng thời cũng từng bước đem lại lợi lạc, hạnh phúc cho hành giả.

Tuệ là gì? Là trí tuệ. Tuệ có ba thứ là Văn tuệ, Tư tuệ, Tu tuệ. Văn tuệ nhờ chú tâm đọc là hiểu rõ được ý nghĩa của câu văn, lời nói. Tư tuệ là nhờ suy nghĩ hiểu rõ văn, lời nói. Nhờ đó mà ta hiểu rõ vấn đế trong thực tế. Tu tuệ là thực hành ngay cái Tư tuệ, tức những gì mình đã suy nghĩ đúng đắn, liền thực hành ngay theo sự suy nghĩ đó. Thí dụ như có một người quá nghèo, không bố thí được nhiều nhưng với tâm từ bi, họ đem một hạt cơm để bố thí cho kiến cũng là một cách Tu tuệ.

Tóm lại, pháp môn nào của Phật, nếu cố gắng suy tư cho thật kỹ và sau đó áp dụng từng bước hay từng hoàn cảnh cụ thể, tự nhiên thấy khai tâm mở trí và ngay khi đó hưởng được sự an lạc.

4. Phật đạo vô thượng thệ nguyện thành:

Lời nguyện này có hai chừng mực áp dụng.

Thành Phật đạo một cách viên mãn như đức Phật và thành Phật đạo từng phần một như những người đang tu. Nếu mỗi ngày mình có độ sanh, có đoạn phiền não, có hành thiện pháp thì cũng là mỗi ngày mình có thành Phật đạo, chứ không hẳn phải chờ một ngày nào đó ngồi dưới cội Bồ-đề mới gọi là thành Phật đạo. Đây là ý nghĩa câu : “Chư Phật là Phật đã thành, chúng sanh là Phật sẽ thành”. Vậy trong việc tu tập, giờ phút nào mình không còn tham ái, không còn sân si, không còn vô minh thì giờ phút đó mình cũng thành Phật đạo, tức thành tựu lời dạy của Phật, thành tựu sự giải thoát giác ngộ từng phần.

Tóm lại, bốn lời nguyện trên là hành tướng của Bồ-đề tâm, ai thành tựu bốn lời nguyện đó là thành tựu Bồ-đề tâm.

Bốn lời nguyện này có thế nói là thâu tóm tất cả các nguyện lực khác. Phật tử tụng kinh hàng ngày với bao nhiêu lời nguyện thì cũng đều là thực hiện Bồ-đề tâm. Thí dụ như tụng:

Nguyện tiêu tan chướng trừ phiền não
Nguyện đắc trí huệ chơn minh liễu
Phổ nguyện tội chướng tất tiêu trừ
Thế thế thường hành Bồ-tát đạo
Hoặc:
Nguyện đem công đức nầy,
Hướng về khắp tất cả,
Đệ tử và chúng sanh,
Đều trọn thành Phật đạo.
Đây là những thể hiện Bồ-đề tâm qua bốn lời thệ nguyện.