ĐẠI PHƯƠNG QUÃNG PHẬT HOA NGHIÊM KINH
SƯ HUYỀN PHÂN TỀ THÔNG TRÍ PHƯƠNG QUỸ

QUYỂN 04

Đời nhà Đường, Sa môn Trí Nghiễm thuật.

 

 

Phần 1

Trong Địa thứ bảy có sáu môn giống như trước.

1. Giải thích tên gọi, khéo léo tu hạnh Vô tướng, công dụng đạt đến cuối cùng, có thể vượt qua đạo xuất thế gian của Nhị thừa thế gian, cho nên gọi là Viễn Hành địa.

2. Trình bày về đã đối trị, theo văn Địa Luận thì chướng ngại do tập khí có tướng vi tế; nếu theo Nhiếp Luận thì tướng hành của Vô minh thô thiển. Văn này thuộc về Địa thứ sáu. Lại có hai Vô minh: Một là tướng vi tế hiện hành khởi lên Vô minh, tức là mê lầm về Tục; hai là luôn luôn không có tướng phương tiện tư duy, tức là mê lầm về Chân; lại có hai nghiệp chướng và một báo chướng về nhân duyên sinh tử.

3. Trình bày về đã hiển bày, là hiển bày về nghĩa của các loại pháp không có khác biệt.

4. Trình bày về đã thành tựu, là thành tựu về Phương tiện Ba-lamật.

5.  Trình bày về đã đạt được quả, thông hiểu về công đức không có khác biệt của các loại pháp, đạt được tất cả tướng diệt, luôn luôn trú trong quả Vô tướng.

6. Giải thích văn, văn kinh có ba: Một là kệ ca ngợi sinh khởi phần sau, hai là trình bày về Thể của Địa, ba là kệ tụng kết thúc phần trước.

Phần một là kệ tụng, có mười bốn kệ: Mười ba kệ đầu là ba nghiệp cúng dường của Đại chúng, tiếp theo một kệ là Giải Thoát Nguyệt thưa thỉnh.

Văn phần một có hai: Mười hai kệ đầu là chính thức ca ngợi thưa thỉnh, tiếp theo một kệ là kết thúc cúng dường thâu nhiếp hành tiến vào phần vị phía trên.

Văn phần đầu phân hai: Ba kệ đầu là chư Thiên tống quát tu ba nghiệp cúng dường, thân-khẩu-ý ba lần thưa thỉnh; tiếp theo chín kệ là riêng biệt.

Trong riêng biệt có ba: Một kệ đầu là Thiên vương nơi ấy cúng dường, tiếp theo có một kệ rưỡi trình bày về Thiên vương nơi khác muốn nghe về lợi ích của pháp, tiếp theo sáu kệ rưỡi trình bày về các Thiên nữ nương theo uy lực ca ngợi công dụng thù thắng trong ba nghiệp của Đức Phật, trong đó hai kệ rưỡi đầu là thân, tiếp một kệ là khẩu, tiếp ba kệ là ý.

Trong phần hai là phân rõ về Thể của Địa, toàn bộ phân định làm năm:

  1. Đối trị sai biệt về vui với hạnh Vô tác, đối trị về vui với tâm Không của Địa trước.
  2. Đối trị sai biệt về chướng kia, đối trị về tâm có tướng của Địa này.
  3. Hai hành sai biệt thực hành thành tựu tướng.
  4. So sánh sai biệt về Địa trên hơn hẳn Địa trước.
  5. Thuần thục sai biệt về quả của Địa.

Trong phần vui với hạnh Vô tác, kinh có ba: Một, tổng quát về sinh khởi; hai, chính thức giải thích; ba, kết luận về lợi ích. Văn thứ hai có hai mươi câu, thâu nhiếp làm mười cặp. Trong mỗi một cặp, đều là câu đầu trình bày về vô lượng cảnh giới ấy, câu sau trình bày về đức nghiệp vô lượng của Phật; cũng có thể câu đầu là trí phương tiện trong Không, câu sau là hạnh thù thắng trong có.

Lại văn Luận nói: Có bốn chướng như nói ở Địa thứ năm, chọn lấy việc làm không não hại và việc làm an vui kia, bởi vì thương xót mà đưa ra từ từ khiến cho tiến vào pháp, đối với bốn hành giáo hóa nói về bốn chướng ngại. Lại bốn chướng ngại về sách luận… thì như Luận mà thôi, văn còn lại như Luận.

Ngay văn về tu hạnh thù thắng đối trị chướng kia, trong kinh có hai:

a) Trình bày về phương tiện quán giải của Bồ-tát. Trong phần phương tiện này Luận có sáu câu hỏi: Một là hỏi về sự lợi ích chúng sinh; hai là hỏi về thế giới đã nương tựa; ba là hỏi về Tuệ nào, hai câu trong pháp của pháp giới ấy bởi vì khó có thể hỏi riêng biệt, cho nên dựa vào trí tuệ chủ động nhận biết mà hỏi; bốn là hỏi về dùng tâm nào, là hỏi về căn tâm; năm là hỏi về dùng hạnh nào, là hỏi về tâm khởi hạnh, đến trong phần Giải sau hợp lại nêu ra, phân rõ về có gồm chung hai nghĩa vốn có mà thôi; sáu là hỏi về Thừa.

b) Từ “Bồ-tát như thị…” trở xuống là chính thức trình bày về tu hành, có năm câu: Một là nêu ra, hai là phân rõ ý, ba là trình bày về phạm vi, bốn là đưa ra Thể, năm là thành tựu về nghĩa đối trị.

Trong văn hai hành có bốn: 1) Hai hành song song không gián đoạn. 2) Tín thù thắng. 3) Có thể làm nghĩa của Đại, văn này có bốn: Một là thiết lập, hai là vặn hỏi, ba là tóm lược trả lời, bốn là mở rộng phân rõ. ) Sai biệt về Bồ-đề phần. Trong phần này văn kinh sót một câu về bốn người (tứ gia), văn còn lại như Luận.

Văn về Địa trên hơn hẳn Địa trước có hai: 1) Hơn hẳn sáu Địa trước; 2) Từ “Hà dĩ cố…” trở xuống là trình bày về hơn hẳn ba Địa hơn hẳn.

Trong sáu Địa trước: Một là trước tiên tóm lược phân rõ Giải Thoát Nguyệt hỏi về tác thành lẫn nhau, hai là Kim Cang Tạng trả lời. Trong trả lời: Một là trước tiên gồm chung đối với các Địa làm sáng tỏ Địa này là hơn hẳn, hai từ “Hà dĩ cố…” trở xuống là riêng biệt đối với các Địa hiển bày Địa này là hơn hẳn. Phần riêng biệt trả lời này có hai: Đầu là hỏi, sau là đáp. Trong phần đáp phân hai: Một là tổng quát, hai là riêng biệt.

Trong phần hai là giải thích về hơn hẳn, có hai: Một là trình bày Địa này hơn hẳn về sau, hai từ “Giải Thoát Nguyệt…” trở xuống là dựa vào Thừa đã luận trước đây trình bày về tướng nhiễm-tịnh của các Địa. Trong phần một phân hai: Đầu là vặn hỏi, sau là trả lời. Trong trả lời phân ba: Đầu là pháp, tiếp là dụ, sau là hợp. Văn còn lại có thể biết.

Trong phần hai dựa vào Thừa trình bày về nhiễm-tịnh, có hai: Đầu là hỏi, sau là đáp. Trong phần đáp có hai: Một là gồm chung phân rõ, hai là dựa theo bảy Địa trình bày riêng biệt về phạm vi. Trong phần một là gồm chung có ba, đó là pháp-dụ-hợp, ba văn có thể biết. Văn thứ hai là phân rõ riêng biệt có ba, đó là thiết lập-vặn hỏi-trả lời.

Ngay trong văn về quả thù thắng của Địa:

1- Văn về một nghiệp thù thắng có ba: Một là tổng quát, hai là riêng biệt, ba là kết luận. Kinh này trong văn kết luận sót một câu, văn riêng biệt có bốn như Luận.

2- Trong phần Tam-muội thù thắng: Một là tổng quát, hai là riêng biệt, ba là tổng quát kết luận. Kinh sót câu tổng quát, còn lại như Luận.

3- Trong phần vượt qua Địa thù thắng, phân văn có ba: Một là thực hành tu tập khéo léo cho nên vượt qua, hai là việc làm rộng lớn cho nên vượt qua, ba là thực hành tu tập thù thắng tiến vào cho nên vượt qua.

Trong phần một phân hai: Một, nhắc lại phần trước phát khởi phần sau; hai, giải thích về nghĩa riêng biệt. Trong phần vượt qua thứ hai: Một, chính thức phân rõ về nghĩa vượt qua; hai, từ “Giải Thoát Nguyệt…” trở xuống là hiển bày về phạm vi vượt qua. Phần này có hai: Đầu là hỏi, sau là đáp. Đáp có ba, đó là pháp-dụ-hợp. Văn còn lại có thể biết.

Văn về đạt được hạnh thù thắng có hai: Một là trình bày về Tammuội thù thắng, hai là phát khởi thù thắng. Văn phần một có hai: Đầu là hỏi, sau là đáp. Văn đáp có ba, đó là pháp-dụ-hợp. Trong phát khởi thù thắng: Đầu là kết thúc phần trước sinh khởi phần sau, hai là chính thức trình bày về phát khởi công hạnh thù thắng. Nhưng trong văn Luận này tổng hợp làm tám câu: Đầu là một câu về hạnh Tự lợi, hiện thân ở thế gian là hạnh thù thắng, thâm tâm Niết-bàn là trí phương tiện; trong hạnh Lợi tha về sau, ba câu đầu là thuận theo thế gian, một câu tiếp là chuyển đổi Tiểu thừa, hai câu tiếp là tùy theo ma, một câu cuối là chuyển đổi thế gian. Quyến thuộc vây quanh là hạnh thù thắng, tâm thường rời xa là trí phương tiện, các câu ví dụ như vậy. Nguyện đạt được quả báo, là đầu tiên giáo hóa thì nhất định phải nhờ vào nguyện. Gia đình không đoạn dứt, là nêu rõ có sự ái nhiễm. Lìa xa sử, là lìa xa tánh của sử. Tiến vào hạnh, là có thể chuyển đổi Nhị thừa hướng lên tiến vào Phật trí. Giúp đỡ sinh ra hạnh, là nêu rõ có ăn uống ngủ nghỉ… Lui sụt hạnh, là nêu rõ về già-bệnh… Nói đến hạnh chuyển, là chuyển tâm hết sức phiền não của các phàm phu. Chuyển thấy tham, là chuyển kiến chấp mê hoặc. Chuyển chướng ngại, Vô minh không hiểu rõ gọi là chướng ngại, nay chuyển đổi diệt trừ, là trí thuộc năm Minh đối trị mà thôi. Chuyển tham, là chuyển đổi kiết tham. Bồ-tát hiện tại thọ sinh ở nơi năm dục thù thắng mà không đắm trước, khiến cho chư Thiên đều rời bỏ những ham muốn vốn có của mình.

Trong văn về quả của Địa, ba quả giống như trước. Trong quả Điều nhu, văn lại có bốn: Một là hành tướng Điều nhu, hai là Trí giáo thanh tịnh, ba là đức của Địa riêng biệt, bốn là kết luận về tướng của Địa. Trong hạnh Điều nhu có ba: Đầu là pháp thuyết, tiếp là dụ, sau là hợp. Trong pháp thuyết có ba: Đầu là thấy chư Phật; tiếp là năng lực luyện tập thực hành; sau là sự luyện tập thanh tịnh. Văn còn lại có thể biết.

Thứ ba là phần trùng tụng có hai: Một là trình bày về ý tuyên thuyết, hai là chính thức kệ tụng. Kệ có bốn mươi hai, phân văn có bảy: Chín kệ đầu tụng về hạnh Vô tác, ba kệ tiếp theo tụng về đối trị chướng kia, sáu kệ tiếp theo tụng về hai hành, mười một kệ tiếp theo tụng về Địa trên hơn hẳn Địa trước, tám kệ tiếp theo tụng về quả của hai hành, bốn kệ tiếp theo tụng về ba quả như Điều nhu-Nhiếp báo…, một kệ sau cùng là kết luận ca ngợi.

Địa thứ tám, từ Địa này về sau tên gọi đưa ra pháp thiện xuất thế, vì vậy phân tích các Địa trên-dưới, Nhất thừa-Tam thừa, người-trời, khởi Tín sinh Giải dần dần giống-khác về pháp môn.

Trong Địa thứ nhất, Thập Nguyện là pháp thực hành chung của Nhất thừa và Tam thừa, mười pháp như Tín… là pháp thực hành riêng biệt của Tam thừa và nơi nương tựa của trời người. Địa thứ hai, Giới hạnh là nơi nương tựa của trời-người, Tiểu thừa và Tam thừa. Địa thứ ba, Thiền định là pháp luyện tập của trời-người, Tiểu thừa và Tam thừa. Địa thứ tư, Đạo phẩm… là pháp đạt được của Tiểu thừa và Tam thừa. Địa thứ năm, Tứ đế là pháp thực hành chung của Tiểu thừa-Tam thừa và Nhất thừa. Địa thứ sáu, Duyên sinh là pháp thực hành chung của Tiểu thừa-Tam thừa và Nhất thừa. Địa thứ bảy, Phương tiện song hành… là pháp thực hành của Đại thừa. Địa thứ tám-thứ chín-thứ mười, là pháp luyện tập của Đại thừa-Nhất thừa. Như vậy, nếu nói chung về thấy-nghe-tu chứng, thì như nhau không khác; nếu dựa theo tướng riêng mà nói, thì có phần khác nhau. Lại trong các Địa, quả Điều nhu là Hạnh môn, quả Phát thú là Giải môn, quả Nhiếp báo là Báo môn, quả Nguyện trí là Đức dụng môn, cũng là pháp thực hành chung của Nhất thừa và Tam thừa. Lấy điều này làm chuẩn mực, Thập Địa thiện xảo viên thông thâu nhiếp rộng rãi cho nên có được tên gọi là Tạng. Vì vậy Thôi Quang nói: “Kinh Thập Địa, chính là khu vườn huyền diệu của thần giác, ngôi nhà tuyệt vời của linh tuệ, nền tảng vững chắc của mọi điều thiện, giềng mối chủ yếu của mọi công hạnh, lý bao gồm bí mật của các Tạng, nghĩa đứng đầu sâu xa của các kinh; tích lũy dần dần tâm thực hành, đến cùng nguồn gốc của Nhẫn Học; sùng kính mở rộng trú vào đức, cuối cùng vào phủ của Đạo Tuệ.”

Nay trong Địa thứ tám có sáu môn giống như trước.

1- Giải thích tên gọi, báo hành thuần thục, Vô tướng không gián đoạn, cho nên gọi là Bất Động địa.

2- Trình bày về đã đối trị, theo văn Địa Luận thì có chướng ngại về Hành đối với Vô tướng; theo văn Nhiếp Luận thì dấy lên công dụng của tâm đối với Vô tướng. Vô minh lại có hai Vô minh: Một là dấy lên công dụng đối với Vô tướng, hai là tự tại đối với tướng của Hành; có hai nghiệp chướng và một báo chướng có quả báo của sinh tử.

3- Trình bày về đã hiển bày, là hiển bày do nghĩa không tăng giảm.

4- Trình bày về đã thành tựu, là thành tựu về Nguyện Ba-la-mật.

5- Trình bày về đã đạt được quả, nếu thông hiểu về công đức không tăng giảm, thì đạt được nghiệp quả trí tuệ uy đức bình đẳng cùng với chư Phật, và đạt được quả của Pháp thân.

6- Giải thích văn, toàn bộ phân định có ba: Một là kệ tụng sinh khởi, hai là trình bày về Thể của Địa, ba là dùng kệ để kết thúc.

Phần một là kệ tụng, có mười lăm kệ: Mười bốn kệ đầu là chư Thiên và Bồ-tát ca ngợi thưa thỉnh cúng dường, tiếp theo một kệ là Giải Thoát Nguyệt thưa thỉnh.

Trong mười bốn kệ đầu: Hai kệ đầu là Thiên vương-chư Thiên và Bồ-tát vui mừng vì pháp mà mưa hoa cúng dường Phật và Đại chúng, mười hai kệ tiếp theo là Thiên nữ ca ngợi đức của Phật. Văn này có ba: Một kệ đầu là trỗi nhạc cúng dường, mười kệ tiếp theo là tụng ca ngợi đức của Phật, một kệ tiếp theo là cúng dường xong tiến vào lý quán sát.

Thứ hai là trong mười kệ có hai: Một kệ đầu là Thiên nữ ca ngợi Phật, chín kệ tiếp là uy lực của Phật khiến cho Bồ-tát… cúng dường đều phát ra âm thanh ca ngợi công đức của Phật và ba thế gian tự tại. Trong chín kệ: Ba kệ đầu là khí thế gian, một kệ tiếp là chúng sinh thế gian, bốn kệ tiếp là trí Chánh giác, một kệ tiếp là kết luận ca ngợi về Vô tận. Trong văn về trí Chánh giác: Một kệ đầu là ca ngợi khẩu nghiệp của Phật, hai kệ tiếp là thân nghiệp, một kệ tiếp là ý nghiệp.

Phần hai là Thể của Địa, có bảy: Một, tổng quát trình bày về phần phương tiện làm quy tụ Địa, làm phương tiện xa có hai, đầu là tổng quát nói cho biết, sau là giải thích có thể biết. Hai, phần đạt được hạnh Nhẫn thanh tịnh, làm phương tiện gần, hai loại này cùng làm phương tiện hướng về Địa trước. Ba, phần đạt được hạnh thù thắng, bắt đầu tiến vào hạnh của Địa. Bốn, phần làm thanh tịnh quốc độ Phật. Năm, phần đạt được tự tại, hai phần này an trú trong phạm vi của Địa. Sáu, rộng lớn thù thắng. Bảy, phần giải thích tên gọi. Hai phần này là đầy đủ trong Địa, văn còn lại có thể biết.

Thứ hai là phần Nhẫn thanh tịnh có mười lăm câu, có ba phần: Đầu có mười câu trình bày về Vô sinh Nhẫn, tiếp theo bốn câu trình bày về Nhẫn thanh tịnh ấy, sau cùng một câu là tổng quát kết luận. Dựa vào kinh không đầy đủ, sót câu về Tự tánh Vô sinh và câu về Tướng phủ khắp tất cả các pháp, văn còn lại như Luận.

Trong phần hạnh thù thắng có hai: Đầu là hạnh thù thắng, sau là phát khởi hạnh. Phần đầu có hai: Trước là tổng quát, sau là riêng biệt. Trong riêng biệt thì trước là pháp, sau là dụ. Bảy câu trong pháp thuận theo nhau phân làm ba: Ba câu đầu trình bày về phần cảnh rất tuyệt vời trong Địa này; hai câu tiếp theo là Chánh hạnh rộng lớn, trong kinh sót một câu về tu hạnh sâu xa; hai câu tiếp theo là lìa chướng vắng lặng. Trong dụ thuận theo sau hướng về trước lần lượt mà ví dụ. Trong phần phát khởi hạnh thù thắng, trong đó có hai: Một, trình bày về nhờ bổn nguyện này cho nên được chư Phật khuyến khích phát khởi; hai, từ “Nhược bất dữ…” trở xuống là trình bày về khuyến khích làm lợi ích. Phần này có hai: Một là trình bày về trú trong lực của bổn nguyện, hai từ “Hựu chư Phật…” trở xuống là do trú mà phát nguyện. Văn này có hai: Một, tổng quát trình bày trong làn nước giáo pháp của chư Phật cùng khởi lên Trí môn; hai, từ “Thiện tai…” trở xuống riêng biệt trình bày qua lại dựa vào nhau khuyến khích có thể thành tựu. Hai là trong riêng biệt: Trước là ca ngợi về môn Vô sinh Nhẫn đã đạt được, sau là làm sáng tỏ về pháp chưa đạt được để khuyến khích tu tập. Văn này có bảy, thâu nhiếp vào làm hai: Trước có sáu câu khuyến khích nêu ra nhiều pháp chưa làm để chuyển đổi tâm trú ấy, sau cuối một câu là trình bày về ít làm có thể thành tựu để tăng thêm tâm rời bỏ ấy. Lại trong sáu câu trước phân làm ba cặp về Tự lợi và Lợi tha. Trước là trong cặp thứ nhất: Trước một câu là trình bày về đức Tự lợi chưa thành tựu, sau một câu là hiển bày về sự hóa độ chưa phát sinh. Trong phần này kinh sót một câu. Trong cặp thứ hai: Trước một câu là trình bày về nguyện hóa độ chưa đầy đủ, sau một câu là làm sáng tỏ về đức Tự lợi chưa thù thắng. Trong cặp thứ ba: Đầu một câu là trình bày về sự nghiệp hóa độ chưa rông rãi, sau một câu là làm sáng tỏ về chính mình đã đạt được pháp môn chưa tận cùng. Trong phần này kinh sót một câu, văn còn lại như Luận.

Hai là văn trình bày về khuyến khích làm lợi ích, có ba: Đầu là pháp, tiếp là dụ, sau là hợp. Trong pháp có ba: Một, trình bày chư Phật cùng khởi lên Trí môn; hai, từ “Ư nhất niệm…” trở xuống trình bày nhờ vào khuyến khích cho nên nhanh chóng phát khởi hạnh; ba, từ “Sở dĩ giả…” trở xuống là hỏi đáp giải thích. Văn còn lại như Luận.

Trong phần quốc độ có ba: Một là hành tự tại thuộc khí thế gian, hai là chúng sinh thế gian, ba là trí Chánh giác. Văn phần một có hai: Một, tổng quát nêu ra; hai, từ “Tri thế giới sinh…” trở xuống là hiển bày riêng biệt. Văn này có hai: 1) Biết phạm vi của pháp, có hai: Đầu là biết, sau là kết luận. Văn đầu có năm: Một, biết thế giới sinh khởi là trình bày về tùy tâm mong muốn; hai, từ “Tri dĩ hà nghiệp…” trở xuống là trình bày về tùy mong muốn gì; ba, kinh sót về đúng lúc mong muốn; bốn, từ “Thị Bồ-tát…” trở xuống là trình bày về tùy theo mong muốn rộng hẹp; năm, từ “Thị Bồ-tát nhập như thị…” trở xuống là tùy tâm mong muốn bao nhiêu. 2) Từ “Thiện phân biệt…” trở xuống là trình bày về nghi thức tự tại, văn này có bốn, đó là pháp-dụ-hợp-kết luận. Văn còn lại như Luận.

Trong phần giải thích về chúng sinh thế gian có bốn: Một, tổng quát trình bày về tự tại; hai, từ “Nhược ư Sa-môn…” trở xuống là riêng biệt trình bày về tự tại; ba, phân rõ về ý hiện tại; bốn, từ “Sở hữu bất khả thuyết…” trở xuống là tổng quát kết luận về tự tại. Cũng có thể trong phần hai là riêng biệt phân rõ và trong phần ba là ý hiện tại: Một là thân hóa hiện giống như chúng sinh, hai từ “Dĩ Thanh văn…” trở xuống là tâm hóa hiện giống như chúng sinh.

Văn về trí Chánh giác: Một là trình bày về trí Đệ nhất nghĩa, sở dĩ trình bày về trí này, là bởi vì thành tựu do tướng của pháp Thế trí; hai từ “Thị Bồ-tát thiện tri…” trở xuống là trí Thế đế. Trong này thâu nhiếp tùy theo sự hóa độ có mười thân, cùng với chính mình thì có mười một thân, có ba: Một là nêu ra số, hai là phân rõ về tướng làm ra, ba là đưa ra Thể giải thích về nghĩa có thể biết.

Hỏi: Vì sao trình bày về khí thế gian mới phân rõ về ba thế gian?

Đáp: Bởi vì tướng của ba pháp xen nhau khó nhận biết, muốn tách biệt cho nên phải trình bày. Trong này các câu phần nhiều bị sót, dựa vào Luận để chọn lấy.

Trong phần rộng lớn thù thắng có ba: Một là trình bày về Trí rộng lớn, hai là Nghiệp rộng lớn, ba là trú vào công đức rộng lớn của hai loại ấy. Văn còn lại như Luận.

Trong phần giải thích tên gọi, có hai: Một là giải thích tên gọi của Địa, hai là giải thích tên gọi của Trí. Văn còn lại có thể biết.

Phần một là Trí rộng lớn, có hai: Một, chính thức trình bày về Bất Động; hai, từ “Bất chuyển tướng cố…” trở xuống là tổng quát để kết luận. Trong phần một gồm có hai mươi lăm câu: Một là mười lăm câu đầu luôn luôn Bất Động, hai từ “Thị Bồ-tát nhập…” trở xuống là mười câu cùng một Thể Bất Động.

Trong văn về quả của Địa, ba quả giống như trước. Trong quả Điều nhu, có bốn: Một là hạnh Điều nhu, hai là Trí giáo thanh tịnh, ba là hành của Địa riêng biệt, bốn là kết luận về tướng của Địa. Trong hạnh Điều nhu có ba: Đầu là pháp, tiếp là dụ, sau là hợp. Trong pháp có ba:

Đầu là trình bày thấy chư Phật làm duyên của khởi hạnh; tiếp là phát khởi năng lực luyện tập thực hành; sau là sự luyện tập thanh tịnh. Trong phần Trí giáo thanh tịnh cũng có ba: Đầu là pháp, tiếp là dụ, sau là hợp. Văn còn lại như Luận.

Thứ ba trong phần trùng tụng, văn phân có hai: Một là nói đến ý kệ, hai là chính thức kệ tụng. Văn này có bốn mươi bốn kệ: Ba kệ đầu tụng về phương tiện làm quy tụ, ba kệ tiếp theo tụng về Nhẫn thanh tịnh, mười lăm kệ tiếp theo tụng về đạt được hạnh thù thắng, mười hai kệ tiếp theo tụng về Tịnh độ, một kệ tiếp theo tụng về tự tại, hai kệ tiếp theo tụng về rộng lớn thù thắng, hai kệ tiếp theo tụng về giải thích tên gọi, năm kệ tiếp theo tụng về ba quả như Điều nhu-Nhiếp báo…, một kệ sau cùng nêu ra tóm lược hiển bày mở rộng để kết luận về nghĩa trước đây.

Trong phần hạnh thù thắng: Năm kệ đầu tụng về Thể của hạnh thù thắng, sáu kệ tiếp theo tụng về bảy câu khuyến khích mà không tụng câu khuyến khích thứ năm-thứ sáu, bốn kệ tiếp theo tụng về nên ra khuyến khích làm sáng tỏ về hạnh thù thắng.

Trong phần lợi ích của Tịnh độ: Bốn kệ đầu tụng về khí thế gian, năm kệ tiếp theo tụng về chúng sinh thế gian, ba kệ tiếp theo tụng về trí Chánh giác.

Trong Địa thứ chín có sáu môn giống như trước.

1) Giải thích tên gọi, bởi vì năng lực vô ngại, thuyết pháp thành tựu hạnh Lợi tha, cho nên gọi là Thiện Tuệ địa.

2) Trình bày về đã đối trị, nếu theo Địa Luận, thì chướng ngại không có thể khéo léo làm lợi ích cho chúng sinh; theo Nhiếp Luận thì đối với việc làm lợi ích cho chúng sinh không do công dụng. Lại có hai Vô minh: Một là vô lượng pháp chánh thuyết, vô lượng ý nghĩa của danh cú khó trả lời, lời nói khéo léo tự tại của Đà-la-ni, làm chướng ngại cho Tự lợi; hai là dựa vào bốn Vô ngại giải, quyết đoán nghi ngờ sinh khởi hiểu biết, làm chướng ngại cho Lợi tha; có hai nghiệp chướng và một báo chướng có quả báo của sinh tử.

3) Trình bày về đã hiển bày, là do dựa vào Định tự tại, do dựa vào cõi tự tại, do dựa vào trí tự tại, nghĩa thuận theo nhận biết về pháp giới.

4) Trình bày về đã thành tựu, là thành tựu về Lực Ba-la-mật.

5) Trình bày về đã đạt được quả, nếu thông hiểu về dựa vào cõi tự tại và dựa vào trí tự tại, thì đạt được quả của Ứng thân, quả gồm chung giống như Địa trước.

6) Giải thích văn, toàn bộ phân định có ba: Một là kệ tụng sinh khởi phần sau, hai là trình bày về Thể của Địa, ba là dùng kệ để kết thúc phần trước.

Phần một là kệ tụng, có mười chín kệ: Hai kệ đầu trình bày về nói đến lợi ích của Địa trước, tiếp theo có mười bảy kệ phân rõ về bốn chúng ca ngợi thưa thỉnh. Trong phần mười bảy kệ này: Đầu là một kệ về Bồ-tát cúng dường, tiếp theo một kệ về Phạm Vương thiết lễ cúng dường ca ngợi, tiếp theo có mười bốn kệ về Thiên nữ ca ngợi thưa thỉnh, sau cùng một kệ là Giải Thoát Nguyệt thưa thỉnh.

Trong phần Thiên nữ gồm mười bốn kệ có ba: Đầu là một kệ rưỡi tổng quát ca ngợi về đức của Phật; tiếp theo là mười một kệ rưỡi ca ngợi các Bồ-tát trình bày đầy đủ về đức của người khác, ngay văn thứ hai này có hai, đầu là ba kệ rưỡi tổng quát ca ngợi về Tự nhân thù thắng, tiếp theo có tám kệ riêng biệt ca ngợi về quả dụng của Lợi tha; sau cuối là một kệ về thâu nhiếp tán loạn thuận theo vắng lặng. Ngay trong tám kệ về riêng biệt: Đầu là một kệ về thân nghiệp, tiếp theo sáu kệ về khẩu nghiệp, tiếp theo một kệ về ý nghiệp. Ngay trong khẩu nghiệp có hai: Một là tổng quát ca ngợi về tuyên thuyết tự tại, hai là dựa theo căn phân rõ về tướng. Tiếp theo một kệ dựa vào thân để ví dụ hiển bày, văn này có bốn, Thanh văn-Duyên giác-Tiệm-Đốn đều phân làm bốn, cũng có thể là Nhất thừa-Tam thừa phân làm bốn.

Trong phần thứ hai là Thể của Địa có bốn sai biệt: Một là Pháp sư thành tựu phương tiện, hai là thành tựu trí, ba là thành tựu tiến vào hạnh, bốn là thành tựu tuyên thuyết.

Văn phần một có ba:

  1. Nhắc lại phần trước phát khởi phần sau.
  2. Chính thức phân rõ để giải thích.
  3. Kết luận về tướng tiến vào Địa. Văn còn lại như Luận.

Trong phần hai là thành tựu trí: 1-Nhắc lại phần trước phát khởi phần sau để tổng quát phân rõ; 2-Từ “Hữu lậu…” trở xuống là chỉ mở rộng về pháp thiện.

Trong văn phần ba là tiến vào hạnh có ba:

  1. Tổng quát về mười một môn.
  2. Riêng biệt phân rõ.
  3. Tổng quát để kết luận.

Văn còn lại như Luận. Trong phần 1 là tổng quát về mười một môn, Luận chủ nói: Cùng nhau dựa vào, bởi vì tâm dày đặc là nơi các pháp cùng nhau nương tựa. Nói cùng nhau dựa vào là dựa vào đây mà biết vậy thôi. Lại nữa, cùng nhau là căn-dục-tánh-thâm tâm…, bốn loại giống nhau cho nên nói là cùng nhau. Văn kinh trong phần vấn nạn về Sử, văn về nơi nào sót câu thứ tư; trong phần vấn nạn về Sinh, kinh sót câu thứ hai; trong phần vấn nạn về Tập khí, kinh sót câu thứ chín. Tướng còn lại có thể biết.

Ngay trong phần thành tựu tuyên thuyết, kinh có hai đoạn: Một là tổng quát trình bày về thành tựu tuyên thuyết, hai từ “Thị Bồ-tát hóa chúng sinh…” trở xuống là riêng biệt.

Trong phần riêng biệt phân rõ thì nghĩa có ba, văn kinh có bốn. Nghĩa có ba: Một là thành tựu trí, hai là thành tựu khẩu nghiệp, ba là Pháp sư thành tựu. Văn kinh có bốn, là theo Luận phân văn. Lại một đoạn thứ hai về nghĩa thâm diệu của Pháp sư, văn kinh cũng đưa vào trí, cũng đưa vào khẩu nghiệp, suy nghĩ có thể biết. Văn về khẩu nghiệp có bốn: Một là lập tông, hai từ “Thị Bồ-tát…” trở xuống trình bày về ngôn từ kiên cố, ba là nêu ra tên gọi, bốn là giải thích riêng biệt qua từng pháp. Văn còn lại như Luận, thuận theo biết mà thôi.

Pháp sư thành tựu có bốn sự việc thị hiện: Một là thành tựu về Trì có bốn: 1) Lập tông; 2) Giải thích; 3) Kết luận; ) Dùng mở rộng để hiển bày tóm lược. Hai từ “Thị Bồ-tát ư nhất Phật sở…” trở xuống là thành tựu về Thuyết, phần này có mười câu có thể biết. Ba từ “Thị Bồtát tam thiên…” trở xuống là thành tựu về hỏi đáp, phần này có bốn câu có thể biết. Bốn từ “Ư thị trung sinh…” trở xuống là thành tựu về thọ trì, phần này có một câu nên biết.

Hỏi: Thọ trì này cùng với Trì trước đây có gì khác nhau?

Đáp: Trì trước đây là lúc sắp nói ra, Trì sau này là lúc bắt đầu thọ nhận mà thôi.

Trong văn về quả của Địa, ba quả giống như trước. Trong quả Điều nhu phân bốn giống như trước: Một là hạnh Điều nhu, hai là Trí giáo thanh tịnh, ba là đức của Địa riêng biệt, bốn là kết luận về tướng tuyên thuyết. Trong hạnh Điều nhu có ba: Đầu là pháp, tiếp là dụ, sau là hợp. Trong pháp có ba: Đầu là thấy chư Phật làm duyên của khởi hạnh; tiếp là năng lực luyện tập thực hành; sau là sự luyện tập thanh tịnh. Văn còn lại như Luận.

Thứ ba trong phần trùng tụng: Một là trình bày về ý tuyên thuyết, hai là chính thức kệ tụng. Trong tụng có bốn mươi hai kệ rưỡi: Bốn kệ đầu tụng về Pháp sư phương tiện, bốn kệ tiếp theo tụng về thành tựu trí, mười hai kệ tiếp theo là văn về tiến vào hạnh, mười bốn kệ rưỡi tiếp theo tụng về thành tựu tuyên thuyết, bảy kệ tiếp theo tụng về ba quả, 22 một kệ tiếp theo là kết luận ca ngợi.

Trong phần thành tựu tuyên thuyết: Một kệ đầu tụng về thành tựu trí, bốn kệ tiếp theo tụng về thành tựu khẩu nghiệp, chín kệ rưỡi tiếp theo tụng về Pháp sư thành tựu. Trong phần này, hai kệ đầu tụng về thành tựu Trì, một kệ tiếp theo tụng về thành tựu Thuyết, một kệ tiếp theo tụng về hỏi đáp, năm kệ rưỡi tiếp theo tụng về thành tựu thọ trì.

Trong Địa thứ mười có sáu môn giống như trước:

1. Giải thích tên gọi, đạt được Đại Pháp thân, đầy đủ tự tại, vì vậy gọi là Pháp Vân địa.

2. Trình bày về đã đối trị, theo Địa Luận, là chướng ngại không được tự tại ở trong các pháp; theo Nhiếp Luận thì giống như Địa Luận. Lại có hai chướng: Một là tuệ của sáu thần thông, hai là tiến vào pháp vi tế bí mật của Phật. Có hai nghiệp chướng và một báo chướng có quả báo của sinh tử, đây là ở trong tâm bắt đầu và tâm trú vào. Lại có hai chướng: Một là đắm trước vi tế đối với tất cả các cảnh thuận theo nhận biết, hai là chướng ngại vi tế đối với tất cả các cảnh thuận theo nhận biết. Có hai nghiệp chướng và một báo chướng không có quả báo của sinh tử, đây là ở tâm cuối cùng của Địa.

3. Trình bày về đã hiển bày, là do nghiệp tự tại dựa vào Đà-la-ni môn và Tam-ma-đề môn, tự tại dựa vào thuận theo nhận biết về pháp giới.

4. Trình bày về đã thành tựu, là thành tựu về Trí Ba-la-mật.

5. Trình bày về đã đạt được quả, thông hiểu về nghiệp dựa vào, đạt được quả của Hóa thân, quả gồm chung giống như trước.

6. Giải thích văn, toàn bộ phân định có ba: Một là kệ tụng sinh khởi, hai là trình bày về Thể của Địa, ba là dùng kệ để kết thúc.

Trong phần một là kệ tụng có hai mươi lăm kệ, có năm: Hai kệ đầu là trời Thủ Đà Hội phát khởi cúng dường ca ngợi, bởi vì Địa này đầy đủ công hạnh cho nên trời Sắc Cứu Cánh ca ngợi; tiếp theo một kệ là Bồ-tát ca ngợi và cúng dường; tiếp theo hai kệ là chư Thiên cùng Thiên vương ca ngợi và cúng dường; tiếp theo mười tám kệ là Thiên nữ ca ngợi và cúng dường; sau cùng hai kệ là Giải Thoát Nguyệt thưa thỉnh. Trong phần Thiên nữ có năm: Đầu là hai kệ tổng quát nêu ra âm nhạc cúng dường, tiếp theo năm kệ ca ngợi Báo Phật, tiếp theo sáu kệ ca ngợi Hóa Phật, tiếp theo ba kệ ca ngợi Thể của Pháp thân, sau cùng hai kệ là khuyến khích thực hành. Phần này có hai, một kệ đầu khuyến khích tiến vào quán về Thể, một kệ sau kết luận lợi ích quy về gốc.

Trong phần hai là văn về Thể, toàn phần có tám: 1) Phần phương

tiện làm đầy đủ Địa; 2) Phần đạt được Tam-muội; 3) Phần được tiếp nhận địa vị; ) Phần tiến vào Đại tận; 5) Phần giải thích tên gọi của Địa; ) Phần thần thông lực vô thượng-hữu thượng; 7) Phần ảnh tượng của Địa; ) Phần lợi ích của Địa.

Văn phần một có ba: Một là tổng quát, hai là riêng biệt, ba là kết luận.

Phần hai là Tam-muội có ba: Một là nhắc lại phần trước phát khởi phần sau, hai là nghĩa chính, ba là kết luận về sự thành tựu.

Trong phần ba là tiếp nhận địa vị có sáu: Đầu là chỗ ngồi có ba, đó là chủ-quyến thuộc và kết luận, thân có hai, quyến thuộc có ba, tướng có sáu. Trong văn đầu về chỗ ngồi, trong phần mười đức thì kinh sót một câu về công đức thứ tám, và sót văn kết luận thứ ba. Văn về ánh sáng trên đỉnh đầu (đỉnh quang) trong phần nơi chốn phát ra (xuất xứ) có tám đoạn có thể biết. Sáu là văn về tiếp nhận địa vị có ba: Một là giải thích về Giác, hai là phân rõ về Tướng, ba là kết luận. Văn kết luận có ba có thể biết. Văn phần hai có ba, đó là pháp-dụ và hợp. Trong pháp có ba: Một, Bồ-tát chín Địa cúng dường có hai có thể biết; hai, cùng chung địa vị thêm uy lực có hai có thể biết; ba, Phật chính thức trao cho địa vị. Văn này có ba: Một là giải thích về ánh sáng, hai là chẳng khác gì Phật, ba là kết luận. Văn phần một có ba: 1) Phát ra ánh sáng; 2) Nơi quay về có hai câu; 3) Phân rõ về lợi ích. Phát ra ánh sáng có tám nghiệp có thể biết. Ánh sáng tụ vào đỉnh đầu có ba: Một, dựa theo sự đưa vào sự; hai, dựa theo hành đưa vào hành; ba, dựa theo quả đang tiếp nhận ngay lúc ấy tiến vào tâm hành. Có thể theo đúng như Luận nên biết.

Trong phần bốn là Đại tận như Luận nên biết: Lại từ Đại tận này về sau, Nhất thừa-Đốn giáo-Tam thừa-Tiểu thừa đều trở thành phạm vi của quả Phật, có thể theo nghĩa làm mất dần văn, ở trong các kinh thì câu cũng có tăng giảm, dùng Luận để làm chuẩn mực.

Trong phần năm là giải thích tên gọi, toàn phần có ba: Một, chính mình được Phật nói pháp như mây mưa, cho nên gọi là Pháp Vân địa. Hai, từ “Phật tử nãi chí tự tùng nguyện lực khởi Từ Bi…” trở xuống, là chính mình rưới mưa pháp dập tắt ngọn lửa phiền não trần lao của các chúng sinh, cho nên gọi là Pháp Vân địa, văn này đầu là giải thích-tiếp là kết luận có thể biết. Ba, từ “Phục thứ Phật tử nãi chí Bồ-tát trú Pháp Vân địa tùng Đâu-suất…” trở xuống, là chính mình cùng chung quả đức, rưới nhiều mưa pháp sinh khởi căn thiện của chúng sinh, cùng với mây tương tự, cho nên gọi là Pháp Vân địa.

Văn phần một có hai: Một là tổng quát trình bày về Niệm lực có thể duy trì Phật pháp, hai từ “Năng ư nhất niệm chí thập phương vô lượng Phật sở…” trở xuống là riêng biệt trình bày về tiếp nhận giáo pháp.

Trong riêng biệt có ba: Một, lắng nghe tiếp nhận nhiều giáo pháp ở cõi Phật; Hai, từ “Thí như đại hải…” trở xuống là lắng nghe tiếp nhận Chánh pháp ở nhiều cõi Phật, phần này có ba văn về dụ-hợp và kết luận; Ba, từ “Giải Thoát Nguyệt ngôn nãi chí ư nhất niệm trung năng kham thọ kỉ sở…” trở xuống là hỏi đáp trình bày về phạm vi của hai loại trước.

Trong phần một có ba: Đầu là pháp, tiếp là dụ, sau là hợp.

Trong phần ba là hỏi đáp về phạm vi của hai loại, văn có hai: Đầu là hỏi, sau là đáp. Trong đáp có bốn: Một là lập nghĩa, hai là hỏi đáp giả thuyết nêu ra tóm lược để hiển bày về mở rộng, ba là hiển bày về nghĩa chân thật, bốn là kết luận có thể biết.

Trong phần sáu là thần thông lực vô thượng-hữu thượng, có sáu: Một là dựa vào bên trong, hai là dựa vào bên ngoài, ba là tự tướng, bốn là dấy lên trú trì, năm là khiến cho hoan hỷ, sáu gọi là rất thù thắng. Ngay trong sáu phần này, nghĩa của một phần đầu nối thông bốn phần trước, văn ở đây không có; tiếp theo có một đoạn nối thông với bốn phần sau. Sở dĩ như vậy là bởi vì Luận chủ khéo léo nhận biết văn hàm chứa nhiều nghĩa, muốn đan xen để hiển bày về pháp, cho nên phân định theo cách này. Bốn phần còn lại thì văn nghĩa đều có đủ, văn còn lại như Luận.

Trong phần bốn là trú trì, trong-ngoài phân làm hai, trong hai phần này đều có hai có thể biết mà thôi.

Trong phần năm là khiến cho hoan hỷ, có sáu: Một là hỏi, phần này có hai, đó là nghĩ đến và thưa thỉnh phân làm hai; hai là nêu ra sự việc của Định để trả lời; ba là trình bày về công dụng của Định, có hai có thể biết; bốn là thâu nhiếp nghiệp dựa vào căn bản; năm là kết luận ca ngợi, có hai có thể biết; sáu là hỏi đáp để hiển bày về phạm vi của Định, phần này có hai, đầu là nhân-sau là quả, đều có hỏi đáp. Trong phần đầu là nhân: Trước là hỏi, sau là kết luận có hai có thể biết. Một là có tên gọi của Dụng, hai là hỏi đáp về quả. Trong phần đáp có bốn có thể biết.

Phần Đại tận như Địa trước. Ba quả như Điều nhu… giải thích có thể biết, rộng ra như Luận phân rõ.

Trong phần bảy là ảnh tượng của Địa, như Luận nên biết.

Trên đây là căn cứ vào Phật pháp viên thông của Nhất thừa, dựa theo ghi lại phạm vi của giáo. Nay lại dựa theo Tam thừa để hiển bày về hai phần vị như kinh: Một gọi là phần vị Đẳng Giác, hai gọi là phần vị Diệu Giác.

Phần vị Đẳng Giác là từ trong đạo Kim Cang vô ngại của Địa thứ mười tiến vào tâm pháp giới, gọi là Tam-muội Dũng phục định pháp quang, dựa vào trong Định này tu tập thực hành mười pháp:

  1. Học về thần thông biến hóa không nghĩ bàn của Phật.
  2. Quy tụ Bồ-tát quyến thuộc.
  3. Trở lại tu pháp môn đã thực hành trước kia.
  4. Thuận theo tất cả các cõi Phật thăm hỏi hết thảy chư Phật.
  5. Cách biệt với cha mẹ Vô minh.
  6. Tiến vào cửa huyền diệu sâu xa.
  7. Hiện rõ giống như Phật hiện bày tất cả các hình tướng
  8. Đầy đủ hai loại Pháp thân.

a/ Không còn hai tập khí.

b/ Bước lên đỉnh núi Trung đạo Đệ nhất nghĩa đế. Phần vị này nói ở Thiền thứ ba. Nếu dựa theo tướng bên ngoài thì chính là Bồ-tát Bổ xứ, cũng thị hiện tám tướng thành tựu vi tế, trải qua trăm kiếp-vạn kiếp biến hóa như Phật, Bồ-tát gặp Phật, Phật biết rõ Bồ-tát này, do đạt được Tam-muội Kim Cang cho nên biến hiện tự tại, chỉ vì sinh tử là khác. Rộng ra như trong kinh Anh Lạc.

Phần vị Diệu Giác thì kinh chỉ nói ở Thiền thứ tư, bởi vì nghĩa phần nhiều giống nhau cho nên không phân tích.

Hỏi: Kinh này vì sao không nói đến hai phần vị Đẳng Giác và Diệu Giác?

Đáp: Nếu dựa theo phần nghĩa thực hành riêng biệt của Tam thừa, thì bởi vì dựa theo phần vị chọn lấy tướng làm chính, cho nên Đẳng Giác và Diệu Giác so sánh với nhau phân thành hai tướng. Nếu căn cứ vào kinh này, thì bởi vì viên thông tự tại không dùng pháp nhất định để so sánh với nhau làm chính, cho nên thâu nhiếp vào trong hai nghĩa nhân-quả.

Trong phần 8 là lợi ích của Địa, văn phân chia có năm:

1) Chính thức hiển bày về lợi ích của Địa.

2) Từ “Như thử thế giới Tứ thiên dĩ…” trở xuống là làm sáng tỏ về lợi ích rộng lớn của Địa.

3) Từ “Dĩ Phật lực thập phương Bồ-tát…” trở xuống là trình bày về các Bồ-tát vân tập làm chứng hiển bày thành tựu đáng tin.

4) Từ “Kim Cang Tạng thuyết Như Lai hỷ…” trở xuống là trình bày về pháp đã nói, trên thuận với Thánh tâm Như Lai tùy hỷ, dưới thỏa mãn tâm nguyện của Đại chúng.

5) Bốn tụng về công đức thứ tư. Văn còn lại có thể biết.

Phẩm 23: THẬP MINH

Bốn môn giống như trước.

1. Phân rõ về tên gọi, Thập là số đếm, Minh là tác dụng, từ hai nghĩa mà được tên gọi là Thập Minh.

2. Từ đây trở xuống năm phẩm, bởi vì trình bày về phạm vi tác dụng thù thắng thuộc đức của Địa, cho nên lần lượt đưa ra. Đây chính là phần hai trình bày về Ý đưa ra.

3. Trình bày về Tông, phẩm này cùng giải thích năm phẩm theo thứ tự và Thể của Tông. Sở dĩ trình bày trước, là trước đây đã đạt được Thể, tiếp đến trình bày dựa vào Thể khởi Dụng tự tại, cho nên tiếp theo là Minh. Dụng của Minh không tự khởi lên, dùng pháp gì để trở thành Chứng? Vốn là lý về Pháp, cho nên tiếp theo phân rõ về Thập Nhẫn, tức là lý về Dụng. Nhân hạnh của Đại quả không phải là số mười mà đo lường được, cho nên trình bày về A-tăng-kỳ để kể ra pháp hành. Đã mở rộng về đức đã thành tựu, không phải là một thời gian ngắn mà có thể di chuyển, cho nên tiếp theo trình bày về phẩm Thọ Lượng. Đức đã không có nơi chốn tùy duyên dựa vào mà hiện bày, cho nên tiếp theo trình bày về trú xứ của Bồ-tát mà thôi.

Đầu là Thập Minh, là tướng của đức dụng, tức là trả lời một câu hỏi về mười Tự Tại trước đây, cũng có thể trả lời trong Địa. Đây là trả lời chung về câu hỏi trước đây mà thôi. Tiếp là Thập Nhẫn, tức là trả lời một câu hỏi về mười Định trước đây, mười Nguyện trả lời ở Địa thứ nhất. Tiếp là Thập Đảnh và mười câu như tâm tùy hỷ…, A-tăng-kỳ về sau ba phẩm là trả lời tổng quát, cũng có thể trả lời chung về hai phẩm trước.

Hỏi: Từ đây về sau năm phẩm thuộc về mười Địa trước, vì sao không nói đến Kim Cang Tạng?

Đáp: Nếu như Thể của đức khó trình bày, thì cần phải dựa vào con người nương nhờ sự để nói rõ; năm phẩm sau dựa vào nhau để hiển bày về nghĩa riêng biệt, cho nên Minh và Nhẫn là do Phổ Hiền nói, là biểu thị cho Đại Dụng cao rộng của đức thù thắng.

4. Giải thích văn, thứ nhất là văn về Thập Minh có bốn: Một là tổng quát đưa ra số theo thứ tự, hai là dựa vào câu hỏi, ba là phân rõ về đức dụng, bốn từ “An trú dĩ…” trở xuống là tổng quát trình bày để kết luận ca ngợi.

Văn thứ ba lấy sáu Thông để làm Thập Minh.

Hỏi: Minh và Thông khác nhau thế nào?

Đáp: Thể một mà nghĩa khác không có gì che lấp, mặt trời nối thông Thức-Căn, nhờ mặt trời mà sáng tỏ. Trong mười Minh thì thứ nhất là Tha tâm thông; thứ hai-thứ tư là Thiên nhãn thông, tức là phần hiện tại và vị lai như nhau; thứ ba là Túc mạng thông; thứ năm-thứ bảy là Thiên nhĩ thông, cũng có thể thứ bảy là ý-pháp-trần thâu nhiếp; thứ sáu-thứ tám là Thần túc thông, tức là Thân thông; thứ chín-thứ mười đều là Lậu tận trí. Vì sao biết? Bởi vì hai loại này đều là tánh thông suốt, cho nên biết. Thứ bảy là Thanh và thứ tám là Sắc, có thể phân ra thấy-không thấy, còn thứ mười là Diệt tận định. Vả lại, phân rõ sáu Thông-ba Minh là giáo của Tam thừa, mười Minh-mười Thông là giáo của Nhất thừa, không thể nào thâu nhiếp lẫn nhau, bởi vì phạm vi sâu cạn không giống nhau.

Thứ nhất trong Tha tâm thông, có ba: Một là hỏi, hai là phân rõ về tướng, ba từ “Thị danh…” trở xuống là kết luận về tên gọi. Chín loại còn lại đều như vậy mà thôi.

Văn thứ hai có hai: Một là trình bày nhận biết về cõi này, hai từ “Như thị đẳng…” trở xuống là thâu nhiếp tất cả các phương khác. Trong Minh thứ nhất, phần từ “Quần cơ Đại chúng đồng hân ngũ Phật tại…” trở xuống là tổng quát để kết luận. Đây là dựa vào Luận phân rõ.

Dựa vào kinh có ba: Một là tổng quát ca ngợi, hai từ “Thuyết thị phẩm thời…” trở xuống là dựa theo sự việc để hiển bày về Địa thù thắng, ba từ “Dĩ Phật thần lực…” trở xuống là Bồ-tát làm chứng.

– Văn phần một có ba:

  1. Tổng quát ca ngợi.
  2. Có hai lần hỏi đáp hiển bày về nghĩa thù thắng.
  3. Kết luận về nghĩa thù thắng.

– Trong văn phần hai về sự việc, có năm:

  1. Mặt đất chấn động.
  2. Hiển bày nguyên cớ.
  3. Mưa hoa….
  4. Cất tiếng lớn ca ngợi về đức của Địa.
  5. Đều nối thông với phương khác.

– Trong văn phần ba là Bồ-tát chứng minh thành tựu, có sáu:

  1. Bồ-tát đến nơi này.
  2. Ca ngợi về đức của Địa.
  3. Hiển bày cùng nhau làm chứng.
  4. Nêu ra nhiều thuyết để làm chứng.
  5. Suy ra nguyên cớ của Chứng.
  6. Cùng giống nhau.

– Dựa vào Luận, văn phần một có hai:

  1. Lợi ích của pháp.
  2. Lợi ích của sự.

Văn về pháp có ba: Một là hiển bày ngược lại, hai là thuận theo phân rõ, ba là kết luận. Văn thuận theo có bốn, đó là hỏi-đáp-vặn hỏigiải thích có thể biết. Văn kinh tóm lược mà không có đủ.

Thứ ba trong trùng tụng: Một là trình bày về ý tụng và ngay tướng của tụng ấy sinh khởi phần sau, hai là chính thức làm sáng tỏ về kệ tụng.

Phần một có hai:

  1. Quán sát về pháp.
  2. Hiển bày về ý.

Phần hai có hai: Một, vì lợi ích chúng sinh; hai, từ “Thị bất tư nghị…” trở xuống là vì muốn hiển bày về lý. Văn phần một có ba: Một là ca ngợi về đức của người, hai từ “Thị Bồ-tát…” trở xuống là thêm cho phần Tự lợi, ba từ “Tùy chúng sinh…” trở xuống là Dụng của Trí đoạn thêm cho phần Lợi tha. Phần hai hiển bày về lý, văn có ba: Một là tổng quát biểu hiện rõ ràng, hai là nêu rõ về tướng, ba là phân rõ về ý thuyết giảng.

Trong phần hai là chính thức tụng, có chín mươi kệ: Đầu là sáu mươi chín kệ chính thức tụng về các Địa như Pháp Vân…, tiếp từ “Vi đắc Phật trí…” trở xuống là hai mươi mốt kệ tụng về phần ảnh tượng, còn lại thì tóm lược không tụng.

Trong văn đầu có bảy: Hai mươi chín kệ đầu tụng về phương tiện quy tụ của Địa, cũng có thể hai mươi sáu kệ trước tụng chung về chín Địa trước, ba kệ tiếp tụng về phần đầy đủ của Địa. Tiếp theo hai kệ tụng về phần Tam-muội. Tiếp theo mười kệ tụng về phần tiếp nhận địa vị. Tiếp theo bảy kệ tụng về phần Đại tận. Tiếp theo sáu kệ tụng về phần giải thích tên gọi. Tiếp theo mười ba kệ tổng quát tụng về các văn Vô thượng-Hữu thượng… Tiếp theo hai kệ là Kim Cang Tạng tổng quát kết luận, cũng có thể các văn này tụng chung về mười Địa, dựa theo suy nghĩ phân định giải thích có thể biết.

Trong phương tiện quy tụ của Địa, hai kệ đầu tụng về các văn quy tụ khởi lên công đức-trí tuệ-hành tướng-tu hành Phật đạo…, tiếp theo hai mươi bảy kệ tụng về văn Đồng tướng và Biệt tướng, văn này trước là Biệt sau là Đồng.

Trong phần Biệt, đầu là sáu kệ ba câu tụng về tướng Địa thứ nhất, tiếp theo một kệ một câu tụng về Địa thứ hai, tiếp theo một kệ tụng về Địa thứ ba, tiếp theo hai kệ tụng về Địa thứ tư, tiếp theo hai kệ tụng về Địa thứ năm, tiếp theo hai kệ tụng về Địa thứ sáu, tiếp theo hai kệ tụng về Địa thứ bảy, tiếp theo ba kệ tụng về Địa thứ tám, tiếp theo ba kệ tụng về Địa thứ chín, tiếp theo từ “Đệ nhất diệu…” trở xuống là ba kệ tụng về Đồng tướng, ba đạo cũng được.

Trong phần ảnh tượng, mười chín kệ đầu tụng về phần ảnh tượng, hai kệ sau là kết luận về đức của Địa vô tận.

Trong phần đầu mười một kệ tụng về công đức thù thắng thứ hai, tiếp theo bốn kệ tụng về công đức thứ ba, phân hai: Một là thẳng thắn biết tâm-biết pháp sai biệt có hai có thể biết, hai từ “Thanh văn tâm…” trở xuống là dựa theo chủng loại quả báo của phàm Thánh để phân rõ về công năng khác nhau của trí dụng. Văn này có hai: Một là tùy theo thực hành phương tiện, hai từ “Thiên tâm…” trở xuống là phân rõ trí phương tiện tùy theo chủng loại.

Thứ hai là Thiên nhãn Minh, có hai: Đầu là giải thích, tiếp là kết luận. Văn phần đầu có hai: Một là tùy theo quả báo riêng biệt không biết giống nhau, hai từ “Bồ-tát dĩ vô chướng ngại minh…” trở xuống là biết tạo nghiệp thành tựu nghi thức của cảnh giới.

Thứ ba là Túc mạng Minh, có hai: Đầu là giải thích, tiếp là kết luận. Văn phần đầu có hai: Một từ “Tri tự tha…” trở xuống là cảnh giới của phần vị có hai, đầu là tổng quát-sau là riêng biệt; hai từ “Biệt hựu ức quá khứ…” trở xuống là biết cảnh giới ở phần vị bậc Thượng của Phật.

Thứ tư là Vị lai trí Minh, có hai: Đầu là giải thích, tiếp là kết luận. Văn phần đầu có hai: Một từ “Tri thiện ác…” trở xuống là phần vị của người và pháp có hai, đầu là tổng quát-sau là riêng biệt; hai từ “Tri vị lai vô lượng…” trở xuống là biết pháp hành ở phần vị bậc Thượng của Phật.

Thứ năm là Thiên nhĩ Minh, có ba: Một là thiết lập, hai là giải thích, ba là kết luận. Trong văn phần hai có hai: Một, phân rõ về đức nghe và duy trì(văn trì)của Thiên nhĩ, phần này có bốn câu; hai, từ “Thập phương viễn cận…” trở xuống là trình bày về sự tác dụng của Thiên nhĩ.

Trong phần này có ba: Một là tổng quát, hai từ “Ư Đông phương…” trở xuống là riêng biệt; ba từ “Như Đông phương…” trở xuống là tương tự chín phương.

Trong phần hai là phân rõ riêng biệt về Đông phương, phân làm ba: 1) Phật; 2) Phân rõ Thể của pháp; 3) Từ “Thiện giải vô lượng…” trở xuống là đối với người thuyết pháp.

Trong phần hai là Thể của pháp đưa ra hai giáo về Lý-Hạnh: Một, những pháp đã nói là phân rõ về Lý giáo; hai, từ “Sở chế…” trở xuống là Hạnh giáo. Pháp tóm lược có mười câu: 1) Tướng về Thể của giáo; 2) Tướng phát khởi của Tín; 3) Tướng nêu rõ nghĩa của Tông; ) Tướng của giải thích; 5) Tướng của Chế học; ) Tướng của Thọ học; 7) Tướng của nêu ra sự khuyến khích tiến lên; ) Quy phạm về nghe; 9) Quy phàm về suy nghĩ; 10) Quy phạm về tu.

Tiếp đến trong phần thứ 3 là đối với người, có ba: Một, cơ thuộc Lý pháp; hai, từ “Sở đắc công đức…” trở xuống là cơ thuộc Hạnh pháp; ba, từ “Quảng thuyết…” trở xuống là cơ thuộc Giáo. Ý văn này ít thấy, suy nghĩ có thể hiểu. Đây đều là ca ngợi về đức của Thiên nhĩ Minh.

Thứ sáu là Thân thông Minh, có ba: Một là thiết lập danh nghĩa, hai là giải thích, ba là kết luận. Văn thứ hai có ba: 1) Thể của thân nghiệp; 2) Từ “Nhược văn thập phương…” trở xuống là phân rõ về Thể dụng của nghiệp có hai có thể biết; 3) Từ “Tất tự liễu tri…” trở xuống là kết luận về phạm vi của nghiệp. Vả lại, Thông này dựa theo uy lực, thứ tám là dựa theo Sắc hiện có.

Thứ bảy là Phân biệt ngôn âm tri Minh, có hai: Đầu là giải thích, tiếp là kết luận. Văn phần đầu có hai: Một là nhận biết âm thanh, hai từ “Bồ-tát tùy kỳ đẳng…” trở xuống là phân rõ về lý do nhận biết. Văn phần một có hai: Một, phân rõ nhận biết về âm thanh thuộc quả báo của chúng sinh, phần này có ba, một là tổng quát-hai là riêng biệt-ba là kết luận về nhận biết; hai, từ “Thiện phân biệt tri…” trở xuống là nhận biết về giáo pháp hai Đế và căn khí.

Thứ tám là Xuất sắc thân trang nghiêm trí Minh, có hai: Đầu là giải thích, tiếp là kết luận. Văn phần đầu có ba: Một là đạt được tánh của Sắc, hai từ “Bồ-tát nhập thâm pháp giới trú trì…” trở xuống là phân rõ về duyên Tập thành Sắc tức là trình bày về Dụng, ba từ “Phật tử Bồtát nhập Vô sắc pháp giới…” trở xuống là phân rõ về nguyên cớ của Thông thành tựu tướng của Dụng mà thôi. Văn thứ hai về hiện Sắc có ba:

  1. Trình bày về Sắc của Thể thù thắng thuộc Tự hành.
  2. Từ “Đại Từ sắc…” trở xuống là trình bày về Lợi tha cho nên hiện bày Sắc thanh tịnh.
  3. Từ “Xuất sinh Như Lai…” trở xuống là phân rõ về Sắc tướng

nhân quả thành tựu Đại dụng. Sắc của Phổ Hiền tổng quát và riêng biệt có một trăm mười câu, Sắc này có Thể-Dụng; hai mươi lăm Sắc của phàm ngu vốn chính là Không.

Thứ chín là Chân thật trí Minh, có hai: Đầu là giải thích, tiếp là kết luận. Văn phần đầu có hai: Một là dựa theo lý đã nhận biết hiển bày về Thể của Minh thuộc trí, hai từ “Bồ-tát tri như thị…” trở xuống là phân rõ về Dụng khéo léo của Trí, tức là trình bày về tướng ấy. Văn phần một có hai: 1) Dựa theo cảnh Vô tướng; 2) Từ “Tri nhất thiết pháp biệt dị…” trở xuống là dựa theo cảnh Vô sinh.

Văn thứ hai về Dụng, trong đó có hai: 1) Nhắc lại pháp đã nhận biết trước đây; 2) Từ “Bất trước…” trở xuống là phân rõ về Dụng khéo léo của Trí. Trong Dụng có ba: Một, trình bày về Dụng tự tại không đắm trước; hai, từ “Bất xả nhất thiết…” trở xuống là giải thích về tướng Dụng thành tựu thuận với vắng lặng; ba, từ “Quán sát chư pháp…” trở xuống là trình bày về Dụng tự tại.

Thứ mười là Nhất thiết pháp Tam-muội Chánh thọ trí Minh, có hai: Đầu là giải thích, tiếp là kết luận. Trong văn phần đầu có ba: Một là phân rõ về Danh-Thể trú trong vắng lặng có hai có thể biết, hai từ “Diệc bất xả…” trở xuống tức là Dụng thường vắng lặng, ba từ “Bồ-tát ư nhất thiết pháp diệt tận Chánh thọ văn…” trở xuống là phân rõ về phạm vi. Trong văn phần tiếp là kết luận có ba: 1) Kết luận; 2) Ca ngợi đức dụng của hành Định sâu rộng; 3) Ngưỡng mộ tôn sùng người nhận biết.

Đoạn lớn thứ tư là văn kết luận có hai: Một là kết luận, hai là trình bày về đức lượng có thể biết.

Phẩm 24: THẬP NHẪN

Bốn môn giống như trước.

Thập là số đếm, Nhẫn là cảnh và thần tụ hội, tình thức tường tận thích hợp. Hai ý còn lại đã phân rõ trước đây.

Giải thích văn. Văn này có ba: Một là tổng quát nêu ra tên gọi, hai là giải thích, ba là kệ trùng tụng.

– Văn phần một có sáu:

  1. Tổng quát nói cho biết.
  2. Ca ngợi thành tựu tướng thù thắng về nhân quả của Nhẫn, nhân quả tức là hai.
  3. Hỏi.
  4. Nêu ra tên gọi.
  5. Từ “Thị danh…” trở xuống là kết luận.
  6. Dẫn chứng chư Phật cùng nói để chứng minh thành tựu.

Văn phần hai là giải thích có hai: 1) Phân rõ; 2) Kết luận. Mười Nhẫn này do hai gia hạnh trước đây thâu nhiếp, tiếp là Vô sinh Nhẫn do Chánh Thể thâu nhiếp, bảy Nhẫn sau do nhận biết về sau thâu nhiếp. Dựa theo phần vị thì thuận âm thanh là Địa thứ ba trở về sau, thuận Nhẫn tức là Địa thứ tư-năm-sáu, Vô sinh Nhẫn tức là Địa thứ bảy trở lên, bảy Nhẫn sau từ Địa thứ chín trở lên. Nếu nối thông với thời gian thì như nhau. Nhẫn này đối với cảnh của ba tâm mà được tên gọi, bảy Nhẫn sau từ ví dụ mà được tên gọi.

– Giải thích riêng biệt:

  1. Nhẫn có ba, một là nêu ra, hai là giải thích, ba là kết luận.
  2. Thuận Nhẫn có ba phần giống như trước.
  3. Vô sinh Nhẫn có ba phần cũng giống như trước.

Ngay trong phần hai là giải thích có ba: Một là thiết lập, hai là hỏi, ba là đáp.

Bảy Nhẫn sau theo thứ tự phát sinh lẫn nhau như Luận. Nghĩa này thế nào?

Nghi ngờ rằng: Nếu như pháp không có thì tại sao hiện có kinh?

Đáp: Như huyễn.

Nghi ngờ rằng: Pháp huyễn không sinh chọn lấy Thức, pháp thế gian thì không như vậy, tại sao giống nhau? Đáp: Bởi vì kinh như ngọn lửa cũng sinh tâm khao khát.

Nghi ngờ rằng: Ngọn lửa ấy không thọ dụng được, pháp thế gian thì không như vậy, tại sao giống nhau? Đáp: Như mộng.

Nghi ngờ rằng: Mộng thì người tỉnh không nghe âm thanh ấy, pháp thế gian thì phàm Thánh cùng đạt được, điều này tại sao giống nhau?

Đáp: Như tiếng vang tuy cùng nhau mà không phải là thật.

Nghi ngờ rằng: Tiếng vang thì trước đây đạt được là vô ích, pháp thế gian thì không như vậy, điều này thế nào?

Đáp: Như ánh sáng chớp điện không có gì tạo tác mà có tác dụng tiếp xúc soi sáng.

Nghi ngờ rằng: Chớp điện nếu có tác dụng thì chính là pháp thật?

Đáp: Như hóa hiện làm lợi ích chúng sinh lẽ nào là thật hay sao?

Nghi ngờ rằng: Nếu tất cả là không có thì ai chủ động dấy lên hóa hiện?

Đáp: Như bầu trời trở thành các sắc, lẽ nào là có hay sao?

Bốn là Huyễn, văn có ba: Một là hỏi, hai là đáp, ba là kết luận. Văn đáp có hai:

a) Phân rõ về pháp đã quán, văn này có ba: Một là tổng quát nêu ra; hai từ “Bồ-tát đẳng…” trở xuống là phân rõ về tướng của quán; ba từ “Thí như huyễn hóa…” trở xuống là mở rộng phân rõ về tướng của huyễn, phần này có hai văn về dụ-hợp.

b) Từ “Bồ-tát quán sát…” trở xuống là phân rõ về hành Nhẫn, văn này có hai: Một là gia hạnh Nhẫn, hai từ “Xuất sinh…” trở xuống là hậu đắc Nhẫn.

Năm là Như diệm Nhẫn, có ba: Một là hỏi, hai là đáp, ba là kết luận. Văn đáp có pháp-dụ-hợp và phân rõ về tướng của quán, bốn văn có thể biết.

Sáu là Mộng Nhẫn, văn giống như Diệm Nhẫn có thể biết.

Bảy là Hưởng Nhẫn, có ba: Một là hỏi, hai là đáp, ba là kết luận. Văn đáp có hai dụ, đều có ba văn pháp-dụ-hợp, dụ trước là Tự lợi, dụ sau là Lợi tha.

Tám là Điện Nhẫn, có ba: Một là hỏi, hai là đáp, ba là kết luận. Văn đáp có bốn: 1) Pháp; 2) Từ “Bất hành Bồ-tát…” trở xuống là dụ; 3) Từ “Thị danh…” trở xuống là kết luận; ) Từ “Nhược Bồ-tát…” trở xuống là phân rõ về lợi ích của Dụng thù thắng. Phần hai là dụ có hai dụ: Một là hướng về Thể của lý, hai là hướng về Dụng của sự. Đều có ba văn pháp-dụ-hợp có thể biết.

Chín là Hóa Nhẫn, có hai: Một là hỏi, hai là đáp. Văn đáp có năm: 1) Nói về một pháp; 2) Dụ; 3) Từ “Như thị Bồ-tát xử ư…” trở xuống là hợp; ) Từ “Thị vi…” trở xuống là kết luận; 5) Từ “Phật tử Bồ-tát thành tựu thử Nhẫn…” trở xuống là trình bày về lợi ích của Dụng. Văn phần một là pháp có hai: Một là trình bày nhận biết về Thể của hành, hai từ “Phật tử thị vi…” trở xuống là kết luận về nhận biết khởi dụng tự tại. Trong phần ba là hợp có ba: Một là tổng quát hợp lại; hai từ “Bất trước thế gian…” trở xuống là phân rõ về tướng, cũng có thể dựa theo pháp thí dụ để hiển bày về hành nghi mà thôi; ba từ “Thí như hóa…” trở xuống là Pháp-dụ cùng kết luận về lợi ích của dụng thù thắng.

Mười là Hư không Nhẫn, có hai: Một là hỏi, hai là đáp. Văn đáp có năm: 1) Mười câu trình bày về Thể của Nhẫn, mỗi một câu đều có pháp-dụ; 2) Từ “Phật tử như thị Bồ-tát…” trở xuống là bảy câu kết luận thành tựu hành của Nhẫn; 3) Từ “Thí như hư không…” trở xuống lại dùng ví dụ để so sánh về Thể của hành, dùng hợp-dụ để thành tựu đức của Nhẫn trước đây; ) Từ “Thị danh…” trở xuống là kết luận; 5) Từ “Nhược Bồ-tát thành tựu vô lai thân…” trở xuống là phân rõ lợi ích về dụng thuộc hành của Nhẫn.

Trong mười câu phần một: Một câu là tổng quát, chín câu là riêng biệt có thể biết. Trong phần ba là mở rộng ví dụ để so sánh về hành của Nhẫn, văn có hai: Một, mười một câu đầu là trình bày về hành thành tựu; hai, từ “Hà dĩ cố…” trở xuống là giải thích về thành tựu hành của Nhẫn. Văn đáp này có hai, ý này khó hiểu nên suy nghĩ. Tại sao nghi ngờ rằng: Nếu pháp như hư không? Ở đây có hai nghi ngờ: 1) Thể của Không là không có, chúng sinh và pháp cũng có thể như vậy? 2) Như sự việc thế gian phân tích thành Không, chúng sinh dựa vào pháp hiện có cũng như vậy, phân tích có thuộc Không khác? Tướng đáp có thể biết.

Trong phần thứ ba là trùng tụng, văn có một trăm hai mươi chín kệ: Đầu là mười kệ tụng về Âm thanh Nhẫn, tiếp theo mười kệ tụng về Thuận Nhẫn, tiếp theo mười kệ tụng về Vô sinh Nhẫn, tiếp theo mười kệ tụng về Huyễn Nhẫn, tiếp theo mười kệ tụng về Diệm Nhẫn, tiếp theo mười lăm kệ tụng về Mộng Nhẫn, tiếp theo mười bảy kệ tụng về Hưởng Nhẫn, tiếp theo hai mươi kệ bảy chữ tụng về Điện Nhẫn, tiếp theo mười kệ tụng về Hóa Nhẫn, tiếp theo mười kệ tụng về Hư không Nhẫn, tiếp theo bảy kệ tổng quát tụng về văn kết luận ca ngợi, làm sáng tở về lợi ích của Nhẫn.

Phẩm 25: A TĂNG KỲ

Bốn môn giống như trước.

Tăng-kỳ là tên gọi bắt đầu của mười số. Phẩm này từ ba nghĩa mà được tên gọi. Ý đưa ra và Tông đã phân rõ ở trên.

Giải thích văn. Nguyên cớ Tâm Vương hỏi Đức Phật tự nói, là bởi vì bắt đầu dựa vào nhân của Đại quả này, không phải là người trong quả thì không có năng lực phân rõ về phạm vi ấy, cho nên Đức Phật tự nói; pháp dựa vào tâm mà thành, cho nên Tâm Vương dấy lên hỏi. Lại bởi vì nhân quả hiển bày lẫn nhau mà thôi, cũng có thể kể ra pháp là biết sự nối thông với quả, cho nên Đức Phật tự nói mà thôi. Vì vậy văn nói: Như Lai Đẳng Chánh Giác là nghĩa của Phật trí.

Phẩm này có hai: Đầu là hỏi, sau là đáp. Ý hỏi về hành đức của Bồ-tát đến tận cùng số cao nhất, chưa biết pháp của Bồ-tát kể ra thế nào? Cũng có thể rằng cảnh của Thánh đã rộng rãi, Bồ-tát hiểu rõ đến tận cùng, chưa biết dùng pháp nào kể ra được cùng tận phạm vi ấy, để chỉ rõ cho người đời sau? Trong đáp tổng quát nêu ra một trăm hai mươi số để trả lời, số Đại có mười: Một gọi là A-tăng-kỳ; hai ở sau gọi là Vô lượng, ở đây gọi là Bất khả lượng; ba gọi là Vô phần tề; bốn gọi là Vô châu biến; năm ở sau gọi là Vô số, ở đây gọi là Bất khả số; sáu gọi là Bất khả xưng; bảy gọi là Bất khả lượng, ở đây sót chữ Bất Khả; tám gọi là Bất khả tư nghị, như sau thuộc về thứ bảy; chín gọi là Bất khả thuyết; mười gọi là Bất khả thuyết Bất khả thuyết. Câu hỏi này, văn có ba có thể biết.

Ngay trong phần Đức Phật trả lời có bốn: Một là khen ngợi câu hỏi của Tâm Vương, hai là khuyến khích lắng nghe, ba là nghe lời đồng ý, bốn từ “Phật cáo…” trở xuống là chính thức trả lời câu hỏi. Ngay phần này có hai: Đầu là trường hàng, sau là kệ tụng. Trường hàng tức là pháp của số có thể kể ra, kệ tụng tức là số đã kể ra. Đây chính là đan xen hiển bày về đức dụng của nghĩa về số mà thôi.

Trong trường hàng có một trăm hai mươi loại kể ra pháp môn: Một là một trăm làm thành Tăng-kỳ, hai từ “Tăng-kỳ…” trở xuống là theo thứ tự làm thành mười số để trả lời câu hỏi trước. Vả lại, phạm vi của một trăm hai mươi số, là từ câu “Câu-lê” thứ nhất làm nhân, tiếp từ “Bất biến” trở về sau có riêng biệt một trăm câu làm số đầy đủ; tiếp theo có hai mươi câu, là từ mười câu như Thọ… làm nhân, từ mười câu như Tăng-kỳ… làm đầy đủ số câu.

Trong kệ tụng, chỉ chọn lấy pháp của số thứ chín ở trên để so sánh

đức hạnh chứ không tụng ở trên văn, trong phần này có hai trăm bốn mươi lăm kệ. Trong này, các kệ tổng quát tăng lên dựa theo có hai loại ý: Một là tổng quát, hai là riêng biệt.

Phần tổng quát thì hoặc là sự-hoặc là lý, hoặc là hành-hoặc là cảnh, hoặc là nhân-hoặc là quả, hoặc là văn-hoặc là nghĩa…, cho đến văn tướng hiển bày-phát khởi-giải thích… tự làm sáng tỏ, điều này có thể suy nghĩ.

Phần riêng biệt có hai:

a) Dựa theo cảnh có ba, một là trí Chánh giác, hai là chúng sinh thế gian, ba là quốc độ thế gian.

b) Dựa theo tâm thì gọi là Chánh và Trợ. Văn này có ba: Một là mười bốn kệ trình bày về số có thể kể ra, trong đó có mười lớp tích lũy về pháp của số, tức là mười văn. Hai là đối với sự phân rõ số đã kể ra, trong phần này có hai, một là dùng pháp của số thứ chín, hai là chọn lấy không thể nào trình bày để chuyển đổi về sau chuyển sang chọn lấy nhân của số thứ mười dùng để lường tính về pháp. Sở dĩ như vậy, là chỉ muốn trình bày về pháp của số tăng lên không phải chỉ có như vậy. Ba là một kệ sau cùng tổng quát về kết luận.

Hỏi: Vì sao không dùng số thứ mười?

Đáp: Bởi vì số thứ mười vốn thuộc về Phật, trong văn tuy trình bày về pháp của quả Phật, nhưng cần phải chọn lấy căn thiện có thể hồi hướng thuộc pháp ở phần vị của nhân. Sở dĩ như vậy, là bởi vì tướng của quả bao gồm nhân hiển bày ở hai nơi, điều này có thể suy nghĩ, đây tức là số đối với vô số mà thôi.

Phẩm 26: THỌ MẠNG

Bốn môn giống như trước.

Phân rõ về tên gọi, Thọ là Mạng căn, cũng có thể Mạng và Thọ không hai. Theo Đại thừa thì tức là Ấm nối tiếp nhau, theo Tiểu thừa thì có riêng tánh Bất tương ưng. Ý đưa ra và Tông đã phân rõ ở trên.

Phân rõ về văn. Từ đây về sau hai phẩm, Tâm Vương tự nói, là bởi vì Mạng xứ không nhất định tùy tâm mà thành tựu, cũng có thể chỉ riêng phần vị của nhân có các loại nghĩa về tự tại, tức là Thọ đối với Vô thọ. Trong phẩm này vì sao nêu ra cõi của quả? Bởi vì phẩm này là nêu ra nơi chốn, cho nên chọn lấy người có năng lực tu hành. Vì vậy ở dưới nói: Phổ Hiền đầy đủ trong đó. Văn này có ba: Một là tổng quát nói cho biết, hai là nêu ra cõi làm chỗ dựa, ba từ “Phổ Hiền…” trở xuống là phân rõ năng lực tu tập tiến vào nhân hạnh. Trong văn thứ hai, đầu là tóm lược về mười cõi, hai là mở rộng về so sánh mà thôi.

Phẩm 27: BỒ TÁT TRÚ XỨ

Bốn môn giống như trước.

Giải thích về tên gọi, nghĩa về con người và ba nghĩa về chỗ dựa mà được tên gọi, có thể biết. Ý đưa ra và Tông đã phân rõ ở trên.

Giải thích văn. Dựa theo phần vị dưới giống nhau cho nên phân rõ về nơi chốn. Đây tức là Trú đối với Vô trú mà thôi. Vả lại, tuy con người giống nhau, mà Vô sinh làm Sinh, Vô trú làm Trú. Văn này có hai: Một là bởi vì không trú vào có, cho nên trình bày về tám trú xứ thanh tịnh ở mười phương; hai là bởi vì phân rõ về hữu vi không cùng tận, cho nên dựa vào bốn biển-mười lăm xứ nhiễm.

Phẩm 28: PHẬT BẤT TƯ NGHỊ PHÁP

Từ đây trở xuống trả lời ba mươi hai câu hỏi trong Hội thứ hai, sau là mười ba câu hỏi về quả đức mà thôi. Nhưng hỏi đáp phân rõ về nghĩa, là trình bày về Bí giáo thuộc Viên tông, hiển bày vào lúc lắng nghe tu tướng phương tiện làm sáng tỏ ở lòng nghĩ mắt nhìn, khiến cho người thuyết pháp được lợi ích không che kín tông thú, người phát tâm cao xa không ngăn ngại luyện tập mong cầu. Vì vậy kinh nói: Ở trong Chánh thuyết an trí tùy theo nghĩa của lời nói, ở trong Chánh nghĩa an trí tùy theo lời nói về nghĩa. Tùy theo nghĩa của lời nói thì nghĩa không phải là nghĩa của Thể riêng biệt; tùy theo lời nói về nghĩa thì lời nói không phải là lời nói của sự giải thích riêng biệt, đây là lời nói chính xác thì không thể nào chấp trước, giải thích tên gọi để xác định về Thể của pháp. Vì vậy trong Chánh tông của kinh này, nhân quả thuận theo nhau, hỏi đáp nối liền theo nhau, không ẩn mất một ý nào, đây chính là sự khéo léo của Đại Thánh, trong phương tiện tu tập thành tựu nhân quả. Trên đây là trả lời về nhân hạnh xong.

Tiếp theo xuống ba phẩm sau là trả lời về quả. Đầu là phẩm Bất tư nghị tức là đức của Pháp thân, hai là phẩm Tướng hải tức là đức của Ứng thân, ba là phẩm Tiểu tướng tức là đức của Hóa thân. Đây là dựa vào Tam thừa. Nếu dựa vào Nhất thừa, thì phẩm đầu là Thể, phẩm hai là Tướng, phẩm ba là Dụng.

Bốn môn giống như trước.

1. Phân rõ về tên gọi: Phật bất tư nghị pháp, đây là căn cứ vào quả cho nên nêu rõ Phật làm đầu tiên của quả, không phải là Địa dưới mà suy lường được; pháp là nhờ vào con người mà làm quy phạm, cũng có thể là tự Thể; dựa vào ba nghĩa mà được tên gọi.

2. Vì sao đưa ra Phẩm? Bởi vì nhân hạnh đầy đủ rồi, tiếp theo hạnh thành tựu đạt được quả mà thôi.

3. Trình bày về Tông. Phẩm này, trong ba thân thì dùng Pháp thân làm Tông; nếu dùng Thể-Tướng-Dụng để phân thì tự Thể của quả đức làm Tông, cũng có thể đầu là Thể-tiếp là Tướng-sau là Dụng, dựa theo ba thân nối thông ba loại này mà thôi.

4. Giải thích văn. Sở dĩ Thanh Liên Hoa tuyên thuyết, là bởi vì quả không tự mình làm sáng tỏ. Đây là nhờ vào nhân mà hiển bày về hoa, bởi vì Thanh Liên Hoa là thù thắng. Sở dĩ nói cho Liên Hoa Tạng biết, bởi vì không phải là nhờ vào Tạng thanh tịnh thì không biết từ đâu thâu nhiếp tiếp nhận quả thù thắng? Văn này có hai: Một là Tựa, hai từ “Nhĩ thời Thanh Liên Hoa thừa Phật…” trở xuống là trình bày về chính thức tuyên thuyết.

Văn về Tựa có ba: Một, ý niệm nghi ngờ của chúng hội, văn này có hai, một là tổng quát sinh khởi ý niệm, hai là đưa ra pháp đã nghi ngờ. Hai, từ “Nhĩ thời Thế Tôn…” trở xuống là uy và lực gia hộ. Ba, từ “Nhĩ thời Thanh Liên Hoa tức nhập…” trở xuống là trình bày nhập Định

300 quán xét về pháp, cũng có thể là không nhập Định. Nguyên cớ thế nào? Do pháp của quả này đã tự sâu xa, lại nhập Định để hiển bày. Tín Giải lui sụt bởi vì pháp sâu xa, cho nên chỉ quán xét về pháp giới. Hai phẩm sau thuận theo như vậy mà thôi. Do đó phân tích trong văn trên dưới, thì pháp giới là cảnh của quán nào?

Đáp: Dựa vào văn kinh này và Địa Luận thì có hai nghĩa: Một, nếu dựa vào Địa Luận phân định, thì chính là cảnh của quán lý Đệ nhất nghĩa đế, đây là dựa theo Tam thừa phân định; hai, nếu dựa vào văn trên dưới của kinh, thì gồm chung cảnh của hai quán lý-sự, pháp ấy rộng lớn thông suốt chứ không phải là hạn hẹp, nhưng phần vị thuộc về Vô vi mà thôi.

Trong phần một là hỏi tóm lược nghĩ đến mười pháp, là pháp của quả này chứ không phải là cảnh của suy nghĩ, cho nên đều không suy nghĩ. Nghĩa của mười câu này có năm: Một câu đầu phân rõ về quả của Y báo(y quả), tiếp theo hai câu là hỏi về nhân hạnh, tiếp theo một câu là hỏi về quả đức của Chánh báo, tiếp theo ba câu là hỏi về đức tướng ba nghiệp-trí tuệ-âm thanh của Pháp thân Phật, ba câu sau cuối là hỏi về thần lực tự tại. Trong mười câu trong phần ba là quán xét về pháp, năm câu đầu là Tự lợi, năm câu sau là Lợi tha.

Hai là từ “Nhĩ thời Thanh Liên Hoa…” trở xuống là chính thức tuyên thuyết: Phẩm này trả lời xa về mười câu trên, tức là đức của Pháp thân; tiếp là phẩm Tướng hải trả lời về một câu thuộc Bất động, tức là đức của Báo thân; tiếp là phẩm Tiểu tướng trả lời về hai câu thuộc Phật trí-sáu căn của Phật trước đây, tức là quả của Hóa thân. Ở đây nói cho Thanh Liên Hoa Tạng biết, là pháp khí thù thắng sâu sắc.

Trong văn đáp phân hai: Một, mười câu đầu là tổng quát mà cũng là riêng biệt; hai, từ “Thử cú…” trở xuống là riêng biệt. Trong riêng biệt tóm lược nêu ra ba trăm hai mươi loại công đức pháp môn để chỉ rõ, có năm:

  1. Năm mươi câu đầu trả lời một câu hỏi về quốc độ trước đây.
  2. Từ “Thập chủng xuất sinh trú trì…” trở xuống là năm mươi câu trả lời hai câu hỏi về nguyện thanh tịnh và chủng tánh trước đây.
  3. Từ “Hữu thập chủng Phật sự…” trở xuống là sáu mươi câu trả lời một câu hỏi về Phật xuất thế trước đây.
  4. Từ “Nhất thiết chư Phật hữu vô ngại trú…” trở xuống là chín mươi câu trả lời ba câu hỏi về tướng ba nghiệp của Phật.
  5. Từ “Thập chủng tối thắng lực…” trở xuống là bảy mươi câu trả lời ba câu hỏi về tác dụng của thần lực trước đây.

Trong năm mươi câu phần một: Một, mười câu phân rõ về diệu trú là chỗ dựa của hành đức; hai, mười câu về thật tánh tùy duyên để thành tựu mười loại hành đức; ba, mười câu về pháp tương xứng khởi hạnh để thành tựu mười trí phương tiện; bốn, mười câu về khéo sử dụng tùy duyên đầy đủ đức Tự-tha không sai thời gian; năm, mười câu về cảnh không suy nghĩ là trình bày về cảnh giới khéo sử dụng hợp cơ không sai lầm cho nên quả vượt lên trên chỉ có tuyệt vời.

Trong mười câu phần một có ba: Đầu là hai câu phân rõ về hành đức tương ưng với Tự phần, tiếp theo bảy câu là hạnh nhiếp hóa Lợi tha, tiếp theo một câu là Tự-tha thật sự hợp nhau bình đẳng không hai. Trong mười câu phần hai có ba: Đầu là bảy câu trình bày về tác dụng sáu căn thuộc công đức của Pháp thân, tiếp theo hai câu trình bày về thần thông tự tại của hai pháp Y-Chánh, tiếp theo một câu trình bày về nhân viên mãn… của Phật mà chư Phật đã chứng. Trong mười câu phần ba có thể biết. Trong mười câu phần bốn có hai: Đầu là hai câu về Tự lợi, sau là tám câu về Lợi tha. Trong mười câu phần năm có thể biết.

Trong năm mươi câu phần hai: Một, ba mươi câu trả lời về nguyện thanh tịnh trước đây; hai, từ “Ly ác…” trở xuống là hai mươi câu trả lời về chủng tánh.

Mười câu thứ nhất từ Chánh trí phát ra, sau đạt được công dụng của Nguyện trí trú trì. Phần này có hai: Đầu là ba câu về Tự lợi, sau là bảy câu về Lợi tha. Mười câu thứ hai lấy công dụng bên ngoài dựa vào thành tựu bên trong, tức là pháp của đức bên trong. Trong đó: Đầu là ba câu về ba nghiệp đầy đủ đức, tiếp theo bảy câu là công đức nhiếp hóa của ba nghiệp. Mười câu thứ ba là do thành tựu đức bên trong trước đây thật sự làm sáng tỏ công dụng bên ngoài, cho nên chỉ có thù thắng chứ không thêm gì nữa. Trong đó: Đầu là hai câu về hạnh Tự lợi, tiếp theo hai câu là phương tiện Lợi tha, tiếp theo một câu là đầy đủ đức Tự lợi, tiếp theo năm câu là đầy đủ đức Lợi tha. Mười câu thứ tư là đức nổi bật cho nên thanh tịnh, đầu là sáu câu về không đắm nhiễm bởi Tự hành, tiếp theo bốn câu là không đắm trước đối với Lợi tha. Mười câu thứ năm là thanh tịnh quyết định cho nên cứu cánh, đầu là sáu câu về nhân hạnh thanh tịnh đầy đủ, tiếp theo bốn câu là quả của ba thân thanh tịnh đầy đủ. Trong bốn câu thì một câu đầu là Hóa thân, một câu tiếp là Pháp thân, hai câu còn lại là Báo thân.

Trong sáu mươi câu phần 3: Một, mười câu trình bày về đức của Hóa thân; hai, năm mươi câu là đức của Báo thân, đều là đức của Pháp thân này. Phật sự là có thể phát khởi công dụng to lớn, Hóa thân thâu 302 nhiếp tướng của lợi ích.

Mười câu phần một có hai: Đầu là năm câu về phương tiện Lợi tha, tiếp theo năm câu là lợi ích đích thực của Lợi tha. Trong năm mươi câu phần hai: Mười câu thứ nhất là một trí Vô tận có công dụng như biển, một câu đầu trình bày về chỗ dựa của Pháp thân. Mười câu thứ hai là đức dụng chủ động dựa vào, đầu là bốn câu về hạnh Tự lợi, tiếp theo sáu câu là Thể của hạnh Lợi tha. Mười câu thứ ba là Thường pháp, đầu là bốn câu về hạnh Tự giác đầy đủ, tiếp theo sáu câu là hạnh Giác tha đầy đủ. Mười câu thứ tư là pháp của Đức Phật thuyết vô lượng có thể biết. Mười câu thứ năm là thường làm Phật sự, đầu là bốn câu trình bày về ba nghiệp thực hành giáo hóa thâu nhiếp lợi ích đối với Tịnh độ, tiếp theo ba câu là hiện rõ trú trì bằng Sắc, tiếp theo hai câu là hiện rõ trang nghiêm bằng vật báu, tiếp theo một câu là nhập Định làm lợi ích cho các Bồ-tát, cũng có thể là chỉ im lặng chứ không phải là Định. Mười câu thứ sáu là kiên cố, đầu là năm câu trọn vẹn đức của Tự phần, tiếp theo hai câu là hạnh hồi hướng thắng tiến, tiếp theo ba câu là tu thành tựu lợi ích giáo hóa.

Trong chín mươi câu phần 4, có ba: Một, ba mươi câu trả lời một câu hỏi về Pháp thân trước đây; hai, ba mươi câu trả lời về khẩu nghiệp như âm thanh… trước đây; ba, ba mươi câu trả lời về ý nghiệp của Phật trí.

Mười câu thứ nhất là Vô ngại trú, đầu là ba câu về Tự hành vô ngại, tiếp theo là bảy câu Lợi tha vô ngại. Mười câu thứ hai là trang nghiêm thù thắng nhất, đầu là ba câu về trang nghiêm Thể của ba nghiệp, tiếp theo là sáu câu về Dụng của ba nghiệp, tiếp theo một câu là đầy đủ đức hành Lợi tha. Mười câu thứ ba là Chánh pháp tự tại có thể biết. Nói không phải là không giác ngộ trước Chánh pháp của chư Phật cũng không trú vào Giác địa mà thành tựu Chánh giác, ở đây có hai ý: Một là chọn lấy nghĩa trong văn, trong này Phật thì không phải là giống như Phật của Tiểu thừa, bởi vì chính là Phật của Đại thừa thuộc về nhân của Cọng giáo; hai là dùng nghĩa của Phổ Hiền chọn lấy môn Tín riêng biệt của dị sinh, giả sử Phật ấy trước sau hiện rõ thành tựu thì đều giống như giác ngộ trước, đều giống như thuộc về cứu cánh lìa xa địa vị của Học và không giác ngộ, là pháp của Phổ Hiền thâu nhiếp cho nên tự tại cả ba đời. Ý này nên suy nghĩ! Mười câu thứ tư là một Bất tư nghị thành tựu Chánh giác, đầu là bốn câu về nhân trọn vẹn, tiếp theo là ba câu về thành tựu hạnh Lợi tha, tiếp theo là ba câu về ba thân đầy đủ đức trọn vẹn thành Phật. Mười câu thứ năm là phương tiện khéo léo diệu kỳ, đầu là bốn câu về Tự hành, tiếp theo là sáu câu về Lợi tha. Mười câu thứ sáu là Phật sự có thể biết. Mười câu thứ bảy là Pháp Vương, đầu là bảy câu về đức Tự lợi, tiếp theo là hai câu về hạnh Lợi tha, tiếp theo là một câu về Tự-tha, bởi vì hai quả thâu nhiếp lẫn nhau không sai khác. Mười câu thứ tám là trú vào pháp, đầu là bốn câu về đức Lợi tha, tiếp theo là sáu câu về khởi dụng về Bi… vô tận. Mười câu thứ chín là biết rõ không có gì sót, đầu là ba câu nhận biết không hề sót về pháp giới…, tiếp theo là hai câu nhận biết về khí thế gian nhiễm trược, tiếp theo là năm câu nhận biết về các pháp thuộc nhân xuất thế.

Trong bảy mươi câu phần năm: Một, mười câu trả lời một câu hỏi về thần lực trước đây; hai, năm mươi câu trả lời về Vô ngại trú trước đây, ba, mười câu trả lời về giải thoát trước đây.

Mười câu thứ nhất là lực thù thắng, đầu là nêu ra-sau là giải thích, đầu là bốn câu thành tựu Tự hành, tiếp theo sáu câu là đầy đủ hạnh Lợi tha. Nghĩa về bốn Trú trong câu thứ mười: Nơi Đức Phật an trú, tức là Ngã thù thắng nhất, là Phật trú; tiếp theo là Vô ngại, tức là Định thuộc Chân Không, là Thánh trú; tiếp theo là tâm Vô ngại, tức là Thiên trú; tiếp theo là Đại Bi, tức là Phạm trú. Mười câu thứ hai là Định, có thể biết. Mười câu thứ ba là Pháp, đầu là năm câu đạt được đầy đủ thiện của thế gian, tiếp theo năm câu là thành tựu hạnh xuất thế. Mười câu thứ tư là pháp thanh tịnh, đầu là sáu câu tiến vào nhân hạnh, tiếp theo bốn câu là tiến vào cảnh giới của ba thân Phật. Mười câu thứ năm là Nhất thiết trí an trú lìa tướng chướng ngại thuận theo Bất động, đầu là hai câu nhận biết về tánh của căn khí, tiếp theo một câu là tổng quát, từ “Tam luân hóa…” trở xuống là bảy câu riêng biệt. Trong riêng biệt, đầu là ba câu về Thần thông luân, tiếp theo một câu là Chánh giáo luân, tiếp theo ba câu là Ký tâm luân hóa. Mười câu thứ sáu là Tam-muội không thể nghĩ bàn, đầu là hai câu về phương tiện Lợi tha, tiếp theo ba câu là phương tiện Tự lợi, tiếp theo một câu là Lợi tha thuần thục, tiếp theo một câu là Tự lợi thuần thục, tiếp theo ba câu là tác dụng vắng lặng giải thoát tự tại cứu cánh. Mười câu thứ bảy là Vô ngại giải thoát, đầu là năm câu về hiện bày chư Phật chuyển pháp luân giáo hóa ở trong một mảy trần, tiếp theo năm câu là ở hiện tại thâu nhiếp chư Phật ba đời hiện bày ở trong một môn.

Lại trong kinh Đại Thừa Đồng Tánh nói: “Phật có mười loại Địa, thiện trượng phu Phật địa có mười, tất cả Bồ-tát và Thanh văn Bích-chiPhật… vốn không có thể thực hành được. Thế nào là mười? Đó là:

  1. Tên là Thậm thâm nan tri quảng minh trí đức địa.
  2. Tên là Thanh tịnh thân phần uy nghiêm bất tư nghị minh đức địa.
  3. Tên là Thiện minh nguyệt tràng bảo tướng hải tạng địa.
  4. Tên là Tinh diệu kim quang công đức thần thông phước đức địa.
  5. Tên là Luân uy tạng minh đức địa;
  6. Tên là Hư không nội thanh tịnh vô cấu diệm quang khai tướng địa;
  7. Tên là Quảng thắng pháp giới tạng minh giới địa
  8. Tên là Tối tịnh thiện giác trí tạng năng tịnh vô cấu vô biên vô ngại trí thông địa;
  9. Tên là Vô biên ức trang nghiêm hồi hướng năng chiếu minh địa;
  10. Tên là Tỳ-lô-giá-na trí hải tạng địa. Thiện trượng phu này là danh hiệu mười Địa của Như Lai, trí tuệ của chư Phật không thể nào nói đầy đủ về Thiện trượng phu Phật.”

Địa thứ nhất, là trừ bỏ tất cả tập khí vi tế, lại được tự tại đối với tất cả các pháp. Địa thứ hai, là chuyển pháp luân, nói về pháp sâu xa. Địa thứ ba, là nói về các pháp thức của Thanh văn, lại còn hiển bày nói về Tam thừa. Địa thứ tư, là nói về tám vạn bốn ngàn pháp môn, lại còn làm hàng phục bốn loại ma. Địa thứ năm, là như pháp làm hàng phục các ngoại đạo, lại còn làm hàng phục ngạo mạn và số đông. Địa thứ sáu, là giáo hóa thị hiện vô lượng chúng sinh trong sáu Thần thông, lại còn hiển hiện sáu loại Đại thần thông, đó là hiện bày cõi Phật công đức trang nghiêm thanh tịnh vô biên, hiện bày Đại chúng vây quang vô biên Bồ-tát, hiện bày cõi Phật rộng lớn vô biên, hiện bày tự Thể của cõi Phật vô biên, hiện bày trong vô biên các cõi Phật từ trời Đâu-suất xuống thác thai cho đến lúc pháp diệt, thị hiện các loại thần thông vô biên. Địa thứ bảy, là vì các Bồ-tát nói về bảy Bồ-đề phần đúng như thật, không có gì vốn có, lại không có gì đắm trước. Địa thứ tám, là thọ ký cho tất cả Bồ-tát về bốn loại A-nậu Đa-la Tam-miệu Tam-bồ-đề. Địa thứ chín, là làm phương tiện khéo léo cho các Bồ-tát. Địa thứ mười, là nói cho các Bồ-tát về tất cả các pháp không có gì vốn có, lại nói cho biết về tất cả các pháp xưa nay vắng lặng vốn là Đại Niết-bàn. Đây là thuận theo Tam thừa mà thôi.

Phẩm 29: NHƯ LAI TƯỚNG HẢI

Bốn môn giống như trước.

1. Giải thích về tên gọi: Tướng của Phật vô cùng tận cho nên như biển. Nay dựa vào giống như con người mà nói là ba mươi hai tướng tốt, hơn hẳn chư Thiên cho nên nói là tám mươi vẻ đẹp, cũng có thể là thuận theo thần sắc mà thôi. Đây là dựa theo cách giải thích của Tam thừa. Nay văn này là tướng của Nhất thừa, cho nên như biển. Vì lẽ đó mà Phổ Hiền nói là dựa vào đức vô biên.

Hỏi: Phẩm Bất tư nghị pháp trên đây nói riêng cho một người, nay vì sao không như vậy?

Đáp: Pháp trên đây là Thể hiển bày thù thắng cho nên nói riêng mà thôi.

2. Ý đưa ra, bởi vì trước là Thể-sau là Tướng, cho nên đưa ra.

3. Trình bày về Tông, dựa vào Tam thừa dùng ba mươi hai tướng Đại trượng phu làm Tông, cũng có thể mở rộng thêm không giống như ba mươi hai tướng, tức là như văn phân rõ về tướng đức làm Thể mà thôi.

4. Giải thích văn. Văn này có hai: Một, khuyên nhủ lắng nghe đồng ý thuyết giảng; hai, phân rõ rộng ra. Phần này có hai: Một là tóm lược phân rõ về chín mươi ba loại tướng của bậc Đại Nhân, hai là về sau tổng quát trình bày mười tướng của bậc Đại Nhân ở thế giới Liên Hoa Tạng. Văn phần một: Đầu là bảy tướng trên đảnh; tiếp từ “Danh viên mãn…” trở xuống là hai mươi hai tương trang nghiêm trên đảnh; tiếp là ba tướng giữa chặng mày; mắt mũi đều có một tướng; lưỡi có bốn tướng; nứu răng là một tướng; răng cửa có bốn tướng; răng hàm có một tướng; vai có năm tướng; ngực có một tướng; sườn có một tướng; bụng có bảy tướng; phần dưới có hai tướng; tay có mười hai tướng; mã tàng có ba tướng; bắp vế có hai tướng; mu chân có hai tướng; đầu lông có một tướng; chân có mười ba tướng. Văn về mỗi một tướng có bốn: Một là nêu ra tên gọi; hai là đưa ra Thể; ba là ánh sáng; bốn là ánh sáng chiếu đến cảm được lợi ích, đối với phạm vi của duyên.

Phần 2

Phẩm 30: PHẬT TIỂU TƯỚNG QUANG MINH CÔNG ĐỨC

Bốn môn giống như trước, theo thứ tự như trên đã nói.

Tiểu tướng là so sánh với nhau về đức riêng biệt. Sở dĩ Đức Phật tự nói, là bởi vì dụng của Hóa thân thì chỉ riêng Đức Phật mới hiểu đến tận cùng; cũng có thể Hóa thân tùy vật yếu kém khiến cho sinh khởi niềm tin, bởi vì có đức chân thật, cho nên Đức Phật tự nói.

Văn này có hai: Một, tổng quát nêu ra hình tướng tốt đẹp có được lợi ích; hai, từ “Như Lai túc hạ hữu thiên bức…” trở xuống là mở rộng phân rõ về tùy theo công đức thâu nhiếp lợi ích.

Văn phần một có bốn: Một là nêu ra tên gọi; hai là trình bày về tướng của Dụng; ba là phân rõ về quyến thuộc; bốn là nêu ra nhân trước kia để phân rõ về lợi ích của Dụng, phỏng theo thành tựu đức dụng về tiểu tướng của Như Lai khó cùng tận. Phần này có bốn nên suy nghĩ!

Trong phần hai là mở rộng có sáu: Một là phân rõ hình tướng tốt đẹp thâu nhiếp lợi ích; hai từ “Nhữ đẳng ưng đương…” trở xuống là khuyên dạy hướng về báo ân và nhận biết về nhân quả; ba từ “Chư Thiên tử văn thị âm thanh…” trở xuống là phát khởi thực hành cúng dường; bốn từ “Thị cố chư Thiên tử…” trở xuống là khuyên dạy phát tâm sám hối lỗi lầm; năm từ “Thuyết thị pháp thời…” trở xuống là phân rõ về đạt được lợi ích quay trở lại để hồi hướng; sáu từ “Nhĩ thời chư Thiên tử…” trở xuống là đạt được lợi ích cho nên lưu truyền khắp nơi không dứt đoạn.

Văn phần một, có hai:

1/ Phân rõ về tướng ánh sáng xoay tròn soi chiếu thâu nhiếp lợi ích, phần này có hai có thể biết.

2/ Từ “Sinh Thiên thượng dĩ…” trở xuống là khuyến khích thành tựu công hạnh thù thắng. Trong phần này có hai: Một, từ “Chánh cử…” trở xuống là so sánh để khuyến khích; hai, từ “Chư Thiên tử Lô-xána…” trở xuống là nêu ra lợi ích thù thắng để chỉ rõ.

Văn phần một là so sánh có ba: Một là chính thức khuyến khích, hai là Thiên tử ca ngợi, ba là trở lại chỉ rõ. Trong phần trở lại chỉ rõ có hai: Một, tổng quát nêu ra đức để khuyến khích; hai, từ “Như ngã…” trở xuống là dẫn ra ví dụ để chỉ rõ. Phần này có sáu Dụ, trong đó đều có hai văn có thể biết:

  1. Dụ về pháp tánh Vô ngã.
  2. Dụ về không có người đến.
  3. Dụ về không có phương hướng trú xứ.
  4. Dụ về lìa tạo tác thành pháp thiện.
  5. Dụ về pháp không có phương hướng.
  6. Dụ về các pháp không có lỗi lầm.

Trong phần hai là khuyên dạy hướng về, có bốn:

  1. Nêu ra lợi ích để khuyên dạy khuyến khích;
  2. Từ “Chư Thiên kỳ hữu…” trở xuống là nêu ra tổn hại để khuyến khích.
  3. Từ “Nhữ tích…” trở xuống là nêu ra ân đức để chỉ rõ.
  4. Từ “Chư Thiên tử…” trở xuống là chỉ ra pháp để khuyến khích.

Văn phần ba là phát khởi thực hành cúng dường, có sáu:

  1. Thiết bày vật dụng cúng dường.
  2. Hướng đến.
  3. Không thấy.
  4. Thiên trở lại chỉ rõ.
  5. Trở lại sinh niệm cung kính.
  6. Từ “Nhĩ thời Thiên diệu âm…” trở xuống là tôn trọng cung kính. Đối với trong-ngoài đều có năm trăm phiền não, là tự tướng của mười sử-mười ác nương nhau tức là thành một trăm, mê lầm đối với năm trần bên trong sinh ra năm trăm, mê lầm đối với năm trần bên ngoài sinh ra năm trăm. Hai vạn một ngàn… thì có thể hiểu.

Trong phần bốn là khuyên dạy phát tâm, có ba:

  1. Khuyên dạy phát tâm và sám hối lỗi lầm, Thiên tử đạt được lợi ích tóm lược có ba câu.
  2. Từ “Thời chư Thiên tử…” trở xuống là trở lại hỏi có hai câu.
  3. Từ “Nhĩ thời Thiên thanh…” trở xuống là trả lời. Văn trả lời có bốn: Một là chỉ rõ nghi thức sám hối có năm câu, hai từ “Thí như minh tịnh…” trở xuống là ví dụ so sánh có ba câu, ba từ “Thí như huyễn sư…” trở xuống là giải thích để điều phục nghi ngờ, bốn từ “Nhược như thị…” trở xuống là kết thúc về nghĩa dạy dỗ.

Trong phần năm là đạt được lợi ích, văn có hai:

  1. Trình bày về đạt được lợi ích có hai câu.
  2. Từ “Do vị năng kiến…” trở xuống là kết thúc về phạm vi trả lời.

Trong phần sáu từ “Nhĩ thời Thiên tử…” trở xuống là lần lượt chuyển tiếp tu hành theo quỹ phạm của giáo không dứt đoạn, có bốn:

  1. Dùng hương hoa… để tu hạnh cúng dường.
  2. Từ “Nhĩ thời bỉ hương vân…” trở xuống là tự hành đã thuần thục, tiếp tục chỉ dạy thâu nhiếp người khác, có bốn câu.
  3. Từ “Ma-ha-tát an trú như thị…” trở xuống là thành tựu lợi ích thực hành cho nên chuyển sang làm lợi ích.
  4. Từ “Tả thủ trì…” trở xuống là nêu ra ví dụ để so sánh thành tựu về quán pháp giới. Trong văn có bốn: Một là nêu ra ví dụ rộng lớn làm sáng tỏ về pháp khó tin, có ba câu; hai từ “Phật cáo Bảo Thủ Bồ-tát như thị…” trở xuống là pháp hợp thành tựu đức dụng sâu rộng; ba từ “Phật cáo Bảo Thủ Bồ-tát thí như thiên ức…” trở xuống là mở rộng thêm để ví dụ so sánh; bốn từ “Phật cáo Bảo Thủ Bồ-tát thí như định quang…” trở xuống là nêu ra phạm vi của ví dụ để kết luận về pháp sâu rộng, văn này khó hiểu cần phải suy nghĩ.

Vả lại, Đức Phật Thích-ca lúc làm Bồ-tát, có một tướng lợi ích ở một đời làm lợi ích cho một chúng sinh, một chúng sinh ấy lần lượt chuyển tiếp làm lợi ích cho tất cả chúng sinh, đều một đời đến được Tam-muội Ly Cấu. Như vậy tất cả chúng sinh lại làm lợi ích cho tất cả chúng sinh, như vậy tận cùng thời gian vị lai, xuống đến tất cả bàng sinh, hóa làm ngọc châu Như ý cũng làm lợi ích tận cùng thời gian vị lai. Một tướng của Bồ-tát đã có tác dụng như vậy, nên biết đức dụng của tướng Phật thì không thể nói. Một tướng nhỏ của Phật mà đức đã như vậy, tướng hải to lớn của Phật dựa theo đó có thể hiểu. Ý văn như vậy, tướng còn lại có thể biết.

Phẩm 31: PHỔ HIỀN BỒ TÁT HẠNH

Bốn môn giống như trước.

1. Giải thích về tên gọi: Hành rộng khắp pháp giới gọi là Phổ, Thể thuận theo điều hòa với thiện gọi là Hiền; Bồ-tát là con người; Hạnh là trình bày về nhân. Thể của Hạnh từ hai nghĩa mà được tên gọi.

2. Ý đưa ra. Vì sao đưa ra? Có hai: Thứ nhất là nghi ngờ rằng nhân quả trước đây lấy gì làm Thể, dựa vào đâu mà thành tựu? Vì giải quyết mối nghi này. Đây tức là nhân quả của tự Thể thứ hai, phẩm này là nhân, phẩm Tánh Khởi là quả. Nhân quả của phẩm này cùng với tu thành của phẩm trước đây chọn lấy khác biệt thế nào? Nếu chọn lấy dựa theo phạm vi của duyên, tức là thuộc về phẩm trước đây; lìa tánh mất dần trước sau, tức là thuộc về phẩm này.

Hỏi: Trong Địa trước đây mở rộng trình bày về lìa tánh, phẩm này nói gì?

Đáp: Bởi vì trước đây cần phải thâu nhiếp công hạnh riêng biệt làm phương tiện hướng về Thể, trong phẩm này đã trình bày chính là tánh của hành thuận với lý, mà không có hai Thể, nghĩa không phải là tướng, dùng duyên thì tất cả là duyên, dùng tánh thì tất cả là tánh.

Hỏi: Tánh khởi tuyệt ngôn lìa tướng, sao nói là có nhân quả?

Đáp: Có hai ý, một là bởi vì trong kinh, trong nhân phân rõ về Tánh khởi, trong quả trình bày về Tánh khởi, cho nên là hai; hai là tánh bởi vì không trú vào cho nên khởi lên, lúc khởi lên thì lìa tướng thuận theo pháp, cho nên có nhân quả.

Hỏi: Lúc khởi lên thì lìa cùng với duyên tu có gì khác biệt?

Đáp: Duyên tu lìa tu thì không thành tựu, tánh khởi lên không có duyên vẫn không tổn hại, cho nên khác biệt.

Hỏi: Hạnh Phổ Hiền ấy cũng như phần Tánh khởi thuận với Tu sinh, vì sao văn sau nói do nhiều pháp mà thành tựu xuất hiện ở thế gian?

Đáp: Đây là hướng về hiểu biết, không phải là dựa theo Thể của tánh, cho nên văn sau nhiều lần nói: Nếu như vậy nhận biết.

Hỏi: Nếu không nhận biết thì làm sao phân rõ về dấy khởi?

Đáp: Bởi vì quán khác-thấy khác, duyên tu thì không như vậy.

Thứ hai lại giải thích: Thâu nhiếp công hạnh riêng biệt trước đây để thành tựu về đức rộng khắp ấy, bởi vì biểu đạt về tánh khởi cho nên đưa ra. Nếu đưa ra cách giải thích này thì bởi vì thuộc về Tu sinh, tánh khởi về sau thì văn đi vào Bổn hữu.

Hỏi: Hạnh Phổ Hiền thành tựu ở phần vị nào?

Đáp: Thật sự thì không dựa vào phần vị, ngay phần vị Giải kia trở đi đã thành tựu, là bởi vì ở văn kinh trước đây nói từ phần vị Giải trở lên, còn lại dựa theo suy nghĩ thâu nhiếp.

3. Trình bày về Tông, có hai môn phân biệt: a) Dựa theo con người; b) Dựa theo pháp. Con người là Thể-Đức-Dụng Tu sinh lìa, bắt đầu rộng lớn khác với trước đây mà thôi. Pháp là pháp thuộc hạnh Phổ Hiền, cũng có Thể-Tướng-Dụng, có đủ lý-giáo-hạnh-quả…, nhưng nghĩa khác nhau mà thôi.

Hỏi: Hai phẩm này không có Định và gia hộ-quy tụ chúng, sao nói là có Thể-Tướng?

Đáp: Thể của hai phẩm này biểu thị về sâu xa khó hiểu, bởi vì làm sáng tỏ về Thể của pháp vô cùng sâu rộng, gia hộ-quy tụ chúng… như đầu phẩm Thập Địa đã giải thích. Pháp nhờ vào con người hiển bày, cho nên phẩm này nói về con người.

4. Giải thích văn. Văn này có bốn: Một, phần Tựa; hai, chính thức tuyên thuyết; ba, kết luận chứng minh thành tựu; bốn, kệ tụng.

Văn phần Tựa có ba: Một là nêu ra tóm lược hiển bày mở rộng phân rõ về phạm vi tuyên thuyết, hai từ “Hà dĩ cố…” trở xuống là vặn hỏi, ba là trả lời.

Văn trả lời về ý của phẩm trước đây đối với duyên cho nên thu hẹp, Thể của phẩm này bao gồm duyên và không phải duyên cho nên rộng rãi; cũng có thể là duyên tu trước đây nêu ra Thể thuận theo tướng cho nên thu hẹp, phẩm này dấy khởi theo tướng tiến vào Thể cho nên rộng rãi. Hữu ở phẩm này thâu nhiếp Bổn hữu Tu sinh-Tu sinh Bổn hữu. Lại trước đây đối với cơ của một phẩm-hai phẩm, phẩm này thì rộng khắp. Phẩm này tổng quát dựa theo năm nghĩa: 1- Phần vị; 2- Căn; 3- Sự; – Bệnh; 5- Các hành. Văn có bốn: Một là tổng quát phân rõ về ý thuyết giảng ít trước đây, hai từ “Ngu si chúng sinh…” trở xuống là riêng biệt phân rõ về ý tùy thuận thuyết giảng; ba từ “Vi như thị…” trở xuống là kết luận, bốn từ “Phật tử nhược Bồ-tát…” trở xuống là sơ lược chỉ ra sai lầm của mê hoặc.

Hỏi: Ý văn mở rộng này thì giáo trước đã lớn, sao nói là hạn hẹp không có một cơ nào?

Đáp: Bởi vì công lực của phiền não rất lớn, thành tựu ít mà tổn hại nhiều.

Trên đây tuy không phải là ít mà bởi vì đối trị không dễ dàng. Nếu hướng về pháp giới Phổ Hiền thì không gọi là rộng, đây là dựa theo công năng làm mê hoặc của Sân mà phân rõ về sai lầm. Nếu dựa theo Thể của tất cả các Hoặc, thì chỉ là ba Hoặc trong tâm.

Trong này có sáu:

  1. Tổng quát phân rõ về sai lầm.
  2. Vặn hỏi.
  3. Tóm lược trả lời.
  4. Mở rộng giải thích.
  5. Kết luận.
  6. rở lại mở rộng.

Phần hiển bày mở rộng có ba có thể biết:

– Trăm chướng dựa theo phần vị có sáu:

  1. Thập Tín.
  2. Từ “Bất lạc Phật pháp…” trở xuống là chướng về Thập Trú.
  3. Từ “Ly Bồ-tát hạnh…” trở xuống là chướng về Thập Hạnh.
  4. Từ “Phỉ báng Phật pháp…” trở xuống là chướng về Thập Hồi Hướng.
  5. Từ “Bất lạc Bồ-tát trú…” trở xuống là chướng về Địa thứ nhất trở lên.
  6. Không thuận với chư Phật ba đời tức là chướng về Phật, đây là thuộc về nơi cuối cùng của Thập Địa, lý đều bao gồm mà thôi.

Trong phần hai là chính thức tuyên thuyết có ba có thể biết. Văn phần hai có sáu mươi câu, năm mươi câu đầu là nhân hạnh, mười câu tiếp theo là quả trong nhân.

Trong năm mươi câu đầu: Mười câu thứ nhất là Thập Tín, mười câu thứ hai là Thập Giải trở lên, mười câu thứ ba là Địa thứ nhất trở lên, hai mươi câu còn lại là Địa thứ chín và Địa thứ mười. Lý vẫn là nối thông mà thôi. Trong mười câu thứ nhất, bảy câu trước là Tín tu trong pháp Tự lợi, ba câu sau là Tín tu trong pháp Lợi tha. Trong mười câu thứ hai, sáu câu đầu là Tự hành, ba câu tiếp là hành Lợi tha thanh tịnh, một câu cuối là phần vị nhân thanh tịnh. Trong mười câu thứ ba là trí lần lượt phối hợp với Thập Địa. Trong mười câu thứ tư là khéo léo tùy thuận có thể biết. Trong mười câu thứ năm là tâm thẳng thắn, bảy câu trước là tướng của Địa thứ chín, trong đó hai câu đầu là nhận biết về căn, tiếp hai câu là nhận biết về thuốc, tiếp hai câu là nhận biết thuận theo phương tiện đích thực chứng được, tiếp một câu là loại trừ chướng; ba câu sau là tướng cảu Địa thứ mười có thể biết. Mười câu thứ sáu là phương tiện khéo léo, bốn câu đầu là quả của Pháp thân, bốn câu tiếp là quả của Báo thân, hai câu tiếp là quả của Hóa thân. Tiếp theo từ “Thị 312 cố…” trở xuống là kết luận khuyến khích tu hành, có ba có thể biết.

Phần ba là chứng minh thành tựu có thể biết, có bốn: Một, mặt đất chấn động mưa hoa…, phần này có hai có thể biết; hai, cùng nối thông với phương khác; ba, mười phương cùng chứng minh; bốn, lại tổng quát để kết thúc.

Trong phần bốn là kệ tụng có hai: Một là trường hàng nêu ra ý tuyên thuyết để sinh khởi, hai là chính thức kệ tụng. Văn kệ có một trăm hai mươi hai hàng: Hai hàng đầu tổng quát tụng về phạm vi của nhân hạnh đã nói, tiếp theo mở rộng ca ngợi về đức của hạnh Phổ Hiền, không phải là tụng về văn trước đây. Lại cũng một hàng một câu tức là một đức, không cần phải trải qua phân tích, điều này có thể suy nghĩ.

Văn nói cùng với các Như Lai giống nhau, là nhân-quả đều không có tướng, bởi vì nhân duyên tạo tác và không tạo tác, hai lực phát sinh của quả vốn như nhau. Quá khứ tức là vị lai, cả hai đời như nhau, nghĩa về nhân của quả Tập này, vốn chỉ là một tướng của ba đời, cho nên Thập Tín tức là các phần vị. Như vậy tất cả chỉ đưa vào tướng của thời gian, tức là pháp của mỗi một thời gian đưa vào thời gian hiện tại, không chứng phần vị trở thành so sánh. Đây là dựa theo thành tựu về hạnh sai biệt của Tam thừa. Lại cũng chín đời tự tại thâu nhiếp tiếp nhận đều chứng. Đây là dựa theo Phổ Hiền tự tại cho nên như vậy. Các pháp nhân quả đều như vậy, đó là chuẩn mực. Nếu đưa vào tướng biến hóa tạm thời…, thì không thuộc về giới hạn này, thích hợp có thể suy nghĩ!

Phẩm 32: BẢO VƯƠNG NHƯ LAI TÁNH KHỞI

Bốn môn giống như trước.

1. Phân rõ về tên gọi. Bảo Vương: Thâu nhiếp đức tự tại là Vương, đáng quý gọi là Bảo. Như Lai là đạo như thật sẽ thành tựu Chánh giác. Tánh là Thể, Khởi là tâm địa hiện tại mà thôi. Đây chính là quy tụ tướng khởi lên ấy đưa vào thật.

2. Ý đưa ra, trước là Phổ Hiền trình bày về duyên chủ động khởi lên, tiếp là phân rõ về thụ động khởi lên.

3. Phân rõ về Thể của Tông, phân biệt có hai: a) Dựa theo con người; b) Dựa theo pháp. Con người chỉ là Bổn hữu khác với trước, pháp thì như văn mà thôi.

Hỏi: Phạm vi của Tánh Khởi thế nào? Đáp: Điều này có hai nghĩa, một là trước-sau đối lập với nhau, hai là rộng-hẹp đối lập với nhau trình bày về phạm vi. Bắt đầu mới phát tâm đến Phật Tánh Khởi, cuối cùng đến Đại Bồ-đề Đại Niết-bàn lưu thông xá-lợi. Đốn ngộ rộng-hẹp và Tam thừa trước-sau, xuất thế đến Thanh văn-Duyên giác, thế gian xuống đến các phần vị như địa ngục…, vẫn khởi lên Đại giải-Đại hạnh-Đại thấy nghe ở trong tâm, văn nghĩa đều phân rõ ở sau, đến nơi sẽ đưa ra giải thích.

Hỏi: Nếu Thanh văn… có tánh khởi lên, thì tại sao văn nói căn không sinh ở hai nơi?

Đáp: Nói không sinh là không sinh ra mầm tánh khởi của tâm Bồ-đề, chứ không nói là không có lá quả. Nếu không có thì trong mảy bụi không nên có quyển kinh, dựa theo ví dụ có thể biết. Nếu phân biệt tường tận thì địa ngục không có lá quả mà có Thể, Thanh văn có Thể và lá quả.

4. Giải thích văn. Sở dĩ Tánh Khởi hỏi-Phổ Hiền nói, là hiển bày về căn khí thiện-pháp thù thắng rộng lớn khắp nơi. Văn này có ba: Một, phần Tựa; hai, từ “Nhĩ thời Phổ Hiền Bồ-tát đáp…” trở xuống là chính thức tuyên thuyết; ba, từ “Nhĩ thời thập phương…” trở xuống là kết thúc tuyên thuyết chứng minh thành tựu.

Văn phần Tựa có năm: Một là giữa chặng mày phóng ánh sáng phát khởi có hai, có thể biết; hai từ “Nhĩ thời nhất thiết Đại chúng…” trở xuống là sinh khởi ý niệm nghi ngờ; ba từ “Nhĩ thời Như Lai Tánh Khởi…” trở xuống là trình bày hướng về Phật muốn thưa thỉnh; bốn từ “Thời Như Lai khẩu trung…” trở xuống là trong miệng phát ra ánh sáng, để nêu rõ người tuyên thuyết cũng cùng chung gia hộ mà thôi; năm từ

“Nhĩ thời Như Lai Tánh Khởi vấn…” trở xuống là phát khởi chính thức thưa hỏi.

Trong phần một là phóng ánh sáng, có tám nghiệp:

  1. Nghiệp thưa thỉnh.
  2. Nghiệp của nhân.
  3. Nghiệp cung kính.
  4. Nghiện giác ngộ.
  5. Nghiệp dừng lại.
  6. Nghiệp hàng phục.
  7. Nghiệp thị hiện.
  8. Nghiệp tán tụ. Có một thân ánh sáng.

– Trong phần ba là muốn thưa thỉnh, có ba:

  1. Trường hàng thị hiện nghi thức thưa thỉnh.
  2. Kệ bày tỏ ý của mình.
  3. Kết thúc.

Phần kệ có năm: Một, sáu kệ ca ngợi về đức của Phật; hai, từ “Thiện học…” trở xuống là bày tỏ điều mình đã nói; ba, từ “Đại chúng giai tịnh…” trở xuống là ca ngợi về căn thù thắng vi diệu; bốn, ca ngợi về pháp đã nói; năm, từ “Chánh giác…” trở xuống là thành tựu ý đã mong muốn.

Trong phần bốn là phát ra ánh sáng, văn có ba:

  1. Phân rõ về ánh sáng giống như trước.
  2. Trình bày về nơi quay lại.
  3. Từ “Nhĩ thời phổ…” trở xuống là trình bày về tướng lợi ích.

Phần thứ hai là chính thức tuyên thuyết, văn có ba: Một là nêu rõ tên gọi để trả lời tổng quát, tức là phần căn bản; hai từ “Nhĩ thời Như Lai Tánh Khởi vấn…” trở xuống là trở lại thưa thỉnh; ba từ “Nhĩ thời Phổ Hiền Bồ-tát cáo…” trở xuống tức là phần tuyên thuyết.

Trong phần một là căn bản, có ba:

  1. Nêu ra sự việc trước đây.
  2. Kết thúc tuyên thuyết.
  3. Phân rõ về lợi ích.

Trong phần hai là thưa thỉnh, có hai: 1) Trường hàng; 2) Kệ tụng. Trong trường hàng có bốn: Một là tổng quát thưa thỉnh, hai là ca ngợi căn khí thuần thục của chúng, ba từ “Nhân giả…” trở xuống là ca ngợi người tuyên thuyết thật có năng lực, bốn từ “Thiện tai…” trở xuống là kết thúc thưa thỉnh.

Trong phần hai ca ngợi về căn khí thuần thục, có ba:

  1. Nêu ra chúng quy tụ.
  2. Ca ngợi về đức.
  3. Kết luận.

Trong phần ca ngợi về đức: Một là đức về Tự lợi, hai từ “Đại Bi…” trở xuống là đức về Lợi tha.

Trong phần ba ca ngợi người tuyên thuyết thật có năng lực, có hai: 1) Tự lợi; 2) Từ “Ư chư Phật pháp…” trở xuống là đức Lợi tha.

Phần hai là văn kệ, có hai: Một là trường hàng sinh khởi, hai là chính thức kệ tụng. Văn kệ có ba: Một, hai kệ đầu tổng quát ca ngợi về đức của người nói-người nghe để thưa thỉnh; hai, có mười ba kệ rưỡi chính thức thưa thỉnh riêng biệt; ba, từ “Thập phương…” trở xuống là bốn kệ ca ngợi về chúng hội ít có để thưa thỉnh. Trong phần hai là thưa thỉnh riêng biệt, có hai: Đầu là mười kệ rưỡi hỏi về quả, tiếp theo ba kệ hỏi về nhân. Trong quả, đầu là bảy kệ rưỡi nói rõ về sự việc, tiếp theo ba kệ ca ngợi về đức.

Trong phần ba là tuyên thuyết, có ba: 1) Tổng quát ca ngợi; 2) Từ “Sở dĩ…” trở xuống là vặn hỏi; 3) Từ “Phi thiểu nhân duyên…” trở xuống là mở rộng trả lời.

Trong trả lời có hai: Một là do nhiều nhân mà thành tựu, tổng quát ca ngợi về không nghĩ bàn được; hai từ “Dĩ thập chủng Vô lượng…” trở xuống là phân rõ về tướng. Phần này có hai: Một là trả lời câu hỏi về nhân, hai từ “Phật tử vân hà tri kiến Như Lai thân…” trở xuống là trả lời câu hỏi về quả trên đây.

Đây là phần đầu, tức là trả lời câu hỏi về nhân trên đây. Văn này có hai: Một, tổng quát trình bày về mười môn; hai, riêng biệt giải thích.

Phần một có bốn có thể biết: Phần hai là riêng biệt giải thích, văn có hai ý: Một là giải thích về mười môn trước đây; hai là trong mười môn trước đây, mỗi một môn đều có hai, đầu là trường hàng, tiếp là kệ tụng.

Trường hàng có hai: Một là phân rõ về Thể của nhân; hai từ “Phật tử Bồ-tát hựu phục ưng tri…” trở xuống là phân rõ về đức dụng của tánh khởi, ở đây hoặc là nhận biết về con người, hoặc là nhận biết về pháp.

Trong Môn thứ nhất là phân rõ về Thể có mười loại. Phần một có hai: Đầu là giải thích, sau là kết luận. Giải thích có hai: Đầu là dụ, sau là hợp. Còn lại đều giống như vậy. Một là trình bày dụ về các duyên cùng dấy khởi; hai là dụ về Đại cơ có thể tiếp nhận; ba là dụ về duyên thành tựu lìa tạo tác; bốn là dụ về trí thù thắng khéo thông hiểu; năm là dụ về Đại dụng hiện rõ trước mắt; sáu là dụ về cơ cảm tùy theo hiện rõ; bảy có hai dụ, một gọi là dụ về duyên thù thắng có ích trước, hai là dụ về tùy theo mong muốn mà thành tựu, đây là trừ bỏ nghi ngờ mà thôi; tám là dụ về thành tựu việc lớn của mình; chín là dụ về Thể-Dụng dựa vào nhau; mười là dụ về thành tựu lợi ích không phải là giả dối. Trong mười loại này, hai loại đầu và loại thứ tư là dựa vào duyên phân rõ về duyên, bảy loại còn lại thì dựa theo tự Thể phân rõ về duyên.

Thứ hai trong trùng tụng, có hai: Đầu là trường hàng sinh khởi phần sau, tiếp là kệ tụng. Trong kệ phân làm chín:

  1. Hai kệ đầu tổng quát ca ngợi về tánh khởi vô thượng.
  2. Tám kệ tiếp riêng biệt ca ngợi so sánh về đức của tánh khởi.
  3. Mười kệ tiếp nêu ra pháp để so sánh.
  4. Hai kệ tiếp kết luận về thành tựu Thể-Dụng tự tại.
  5. Hai kệ tiếp chỉ rõ khuyên dạy người nhận biết.
  6. Hai kệ tiếp khuyến khích lắng nghe phân rõ về phạm vi tuyên thuyết.
  7. Hai kệ tiếp nêu ra sự việc nhận lời tuyên thuyết.
  8. Ba mươi lăm kệ tiếp là chính thức tuyên thuyết.
  9. Hai kệ tiếp là khuyên dạy khuyến khích.

– Trong phần tám là chính thức tuyên thuyết:

  1. Năm kệ đầu kết luận tụng về dụ thứ nhất.
  2. Bốn kệ tiếp tụng về dụ thứ hai.
  3. Bốn kệ tiếp tụng về dụ thứ ba
  4. Ba kệ tiếp tụng về dụ thứ tư.
  5. Ba kệ tiếp tụng về dụ thứ năm.
  6. Ba kệ tiếp tụng về dụ thứ sáu.
  7. Hai kệ tiếp tụng về dụ thứ hai trong loại thứ bảy.
  8. Bốn kệ tiếp tụng về dụ thứ nhất trong loại thứ bảy.
  9. Hai kệ tiếp tụng về dụ thứ tám.
  10. Hai kệ tiếp tụng về dụ thứ chín.
  11. Ba kệ tiếp tụng về dụ thư mười mà thôi.

Trong Môn thứ hai là phân rõ về Thân. Đây là theo thứ tự trả lời câu hỏi về quả trên đây, có hai: Một là dựa vào phát khởi, hai từ “Thử Bồ-tát tri kiến vô lượng…” trở xuống là trả lời. Trong trả lời, đầu là trường hàng, tiếp là kệ tụng.

Trường hàng có bốn: Một là tổng quát trả lời, hai là vặn hỏi, ba là tóm lược trả lời, bốn từ “Thí như…” trở xuống là mở rộng giải thích. Trong phần ba là tóm lược có hai, có thể biết. Trong phần bốn là mở rộng, có hai: Một, phân rõ về Thể của pháp; hai, từ “Bồ-tát cụ túc thành tựu…” trở xuống là phân rõ về đức dụng. Dụng này hoặc là thuộc về nhận biết con người, hoặc là thâu nhiếp ở pháp. Tướng của mười văn còn lại giống như trước. Một là dụ về thân bí mật thâu nhiếp khắp nơi; hai là dụ về ở duyên lìa xa không trú; ba là dụ về phân rõ sự việc lợi ích chúng sinh; trong bốn có hai dụ, một là dụ về duyên thù thắng có ích trước, hai là dụ về cơ cảm tùy theo hiện rõ; năm là dụ về Dụng ẩn kín giúp đỡ thành tựu, trong hợp có ba, một là chính thức hợp cùng dụ trước, hai là dẫn ra ánh sáng chứng minh thành tựu, ba là phân rõ về lợi ích của ánh sáng; sáu là dụ về tùy theo căn cơ hiện bày sai khác; bảy là dụ về một thân mà cảm được nhiều; tám là dụ về thành tựu sự việc không suy nghĩ; chín là dụ về vật báu lớn thâu nhiếp đức; mười là dụ về thâu nhiếp đối trị theo nguyện.

Thứ hai trong trùng tụng, có hai: Đầu là sinh khởi, tiếp là chính thức kệ tụng. Kệ có bốn mươi hai, phân làm mười:

  1. Bốn kệ đầu tụng về dụ thứ nhất.
  2. Bốn kệ tiếp tụng về dụ thứ hai.
  3. Bốn kệ tiếp tụng về dụ thứ ba.
  4. Năm kệ tiếp tụng về dụ thứ tư.
  5. Bốn kệ tiếp tụng về dụ thứ năm.
  6. Bốn kệ tiếp tụng về dụ thứ sáu.
  7. Bốn kệ tiếp tụng về dụ thứ bảy.
  8. Năm kệ tiếp tụng về dụ thứ tám.
  9. Bốn kệ tiếp tụng về dụ thứ chín.
  10. Bốn kệ tiếp tụng về dụ thứ mười.

Hỏi: trên đây đã phân rõ, nhiều nghĩa giống với phần thứ nhất là thế nào?

Đáp: Dựa vào đức của pháp chủ động để hiển bày tức là thuộc về nhân ban đầu, nay ở đây nêu ra pháp chủ động dẫn đến nơi nương tựa.

Trong Môn thứ ba là Âm thanh, có hai: Một là dựa vào câu hỏi, hai là trả lời. Trong trả lời có hai: Một là tổng quát, hai là riêng biệt.

Trong riêng biệt có hai: Đầu là trường hàng, tiếp là kệ tụng.

Trường hàng có hai: Một là phân rõ về Thể của pháp, hai từ “Bồtát tri kiến âm thanh thập chủng vô lượng…” trở xuống là trình bày về đức dụng, cũng gồm chung cả hai gọi là chủ động và thụ động (năngsở). Thể của pháp có mười, văn phần đầu có năm: 1) Pháp; 2) Từ “Như hô hưởng…” trở xuống là dụ; 3) Từ “Tri kiến…” trở xuống là hợp; ) Từ “Thí như thế giới…” trở xuống là trở lại dụ để chỉ rõ; 5) Từ “Như Lai diệu âm diệc nhĩ…” trở xuống là hợp. Dụ trước bởi vì Vô tánh cho nên thuận với lý, dụ sau bởi vì Vô tánh cho nên có đủ đức. Thứ ba trong Hợp, đầu là ca ngợi về thấy biết thù thắng, sau là đối với pháp thành tựu hiểu biết để hợp với dụ trên mà thôi, đây gọi là dụ về âm thanh không có tánh ban đầu; hai là dụ về âm thanh không có thể chất của mình; ba là dụ về có tác dụng lợi ích chúng sinh; bốn là dụ về tùy theo căn mở mang hiểu biết; năm là dụ về tùy theo cơ cảm được thấy; sáu là dụ về dựa vào duyên mà hiện bày sai khác; bảy là dụ về Dụng không có gì nương tựa, cũng có thể là dụ về Đại dụng giúp đỡ khắp nơi; tám là dụ về xét kỹ căn cơ mà trao cho thuốc; chín là dụ về Đại có đủ đức; mười là dụ về tùy theo lợi ích không phải là hư dối.

Thứ hai trong trùng tụng, có hai: Đầu là sinh khởi, tiếp là trùng tụng. Tụng có bốn mươi kệ phân làm mười, mỗi bốn kệ tụng về một dụ có thể biết.

Trong Môn thứ tư là Tâm Bồ-đề tánh khởi, có hai: Một là dựa vào câu hỏi, hai là trả lời. Trong trả lời có hai: Một là pháp, hai là dụ.

Hỏi: Tâm-ý-thức không phải là tức Phật thì thế nào?

Đáp: Ở đây gồm chung cả hai, bởi vì văn nói trí vô lượng cho nên tâm cũng vô lượng, bình thường thì có thể biết.

Trong phần dụ phân hai: Đầu là trường hàng, tiếp là kệ tụng.

Trong trường hàng phân hai: Một là phân rõ về mười tâm pháp, hai từ “Bồ-tát như thị…” trở xuống là kết luận về lợi ích nhận biết. Dụ thứ nhất này gọi là dụ về trí không có gì nương tựa.

Hỏi: Vì sao ở đây phân rõ dựa theo trí?

Đáp: Có hai ý, một là bởi vì Thể của một tâm gồm chung nhiễmtịnh cho nên không dựa theo tâm; hai là bởi vì nay luận về tánh khởi, trí tức là tâm cho nên dựa theo tịnh mà phân rõ. Vì vậy văn nói trí không có nơi nương tựa.

Một là dụ về trí không có gì nương tựa; hai là dụ về tánh không có tăng giảm; ba là dụ về phát khởi tác dụng lợi ích chúng sinh; bốn là dụ về trí quý báu thâu nhiếp công đức; năm là dụ về trí có tác dụng loại hết sai trái; sáu là dụ về trí có thể tiếp nhận tất cả (hàm thọ).

Hỏi: Xét kỹ văn tướng ấy tựa như nói chỉ riêng Phật là tánh khởi thì thế nào?

Đáp: Cần phải nhận biết về ý chính, nhưng Bồ-tát thuận theo người khác mà có được giáo pháp, tức là quả Phật ấy và Bồ-tát có năng lực trao truyền giáo pháp cho người, vốn có hạnh đức tức là thuộc về mầm của quả ấy, điều này nên suy nghĩ chuẩn xác!

Bảy là dụ về kiên cố thuận theo lợi ích.

Hỏi: Lúc cây nảy mầm thì các cây nảy mầm, nghĩa đã so sánh là thế nào?

Đáp: Điều này không khác nhau. Vì sao? Bởi vì chỉ ở trong một tâm vốn có mới sinh là khác mà thôi.

Hỏi: Nếu như vậy thì cùng với chúng sinh trước đây không rõ ràng mà có tánh khởi, nghĩa khác biệt trái ngược nhau?

Đáp: Đây là môn khác nhau. Vì sao biết? Bởi vì trong nghĩa trước thì Thanh văn phàm phu không nhận biết bổn tánh cũng là tánh khởi, nay ở đây không nhận biết thì không phải là tánh khởi, có thể biết hẳn là môn khác nhau. Đây là dựa theo tánh khởi mà nói về mầm, cho nên khác với trước mà thôi.

Lại hỏi: Hai nơi trái ngược nhau, vì sao không trở thành mâu thuẫn?

Đáp: Tất cả căn thiện có tà-có chánh, chỉ thuận với Bồ-đề thì không cần phải hỏi, căn thiện trời-người… đều là tánh khởi; không thuận với Bồ-đề thì không phải là tánh khởi. Đây là dựa theo phần thô-tế nơi quả, vì vậy không trái ngược mà thôi.

Tám là dụ về tác dụng của trí giúp đỡ khắp nơi; chín là dụ về khéo léo không hết quả báo, cũng có thể là dụ về phương tiện khéo léo để lại phiền não; mười là dụ về tánh nối gồm chung bình đẳng. Văn này có ba: Đầu là pháp, tiếp là dụ, sau là hợp. Văn còn lại có thể biết.

Thứ hai trong kệ tụng, có hai: Đầu là trường hàng sinh khởi, tiếp là kệ tụng. Tụng có ba mươi bảy kệ, có hai: Một kệ đầu là tổng quát chỉ ra nhận biết về Phật tâm; còn lại kết luận về mười dụ:

  1. Ba kệ đầu kết luận về dụ thứ nhất.
  2. Ba kệ tiếp tụng về dụ thứ hai.
  3. Bốn kệ tiếp tụng về dụ thứ ba.
  4. Bốn kệ tiếp tụng về dụ thứ tư.
  5. Ba kệ tiếp tụng về dụ thứ năm.
  6. Ba kệ tiếp tụng về dụ thứ sáu.
  7. Năm kệ tiếp tụng về dụ thứ bảy.
  8. Ba kệ tiếp tụng về dụ thứ tám.
  9. Bốn kệ tiếp tụng về dụ thứ chín.
  10. Bốn kệ tiếp tụng về dụ thứ mười.

Trong Môn thứ năm là Cảnh giới, có hai: Một là dựa vào câu hỏi, hai là trả lời. Trong trả lời có hai: Đầu là trường hàng, tiếp là kệ tụng.

Trường hàng có hai: Một là phân rõ về Thể của cảnh, hai từ “Nhiêu ích chúng sinh…” trở xuống là phân rõ về tác dụng lợi ích. Trong phần một có ba: Đầu là pháp, tiếp là dụ, sau là hợp.

Trong phần đầu là pháp thuyết, có bốn: Một, tổng quát nêu ra Phật cảnh; hai, từ “Phi cảnh giới…” trở xuống là phân rõ về phạm vi của Phật cảnh; ba, từ “Phật tử nhất thiết chúng sinh vô lượng…” trở xuống là phân rõ về cảnh sâu rộng; bốn, từ “Phật tử Bồ-tát tri tâm…” trở xuống là dựa theo pháp xác định về Thể để trình bày nghĩa sâu xa.

Trong phần tiếp là dụ, có ba: Một là dụ về phạm vi của Phật cảnh; hai là dụ về nhân duyên dấy khởi của cảnh; ba là dụ về cảnh giới sâu rộng. Cảnh giới có hai:

  1. Cảnh sở duyên.
  2. Phạm vi của cảnh. Phần này gồm chung cả hai.

Thứ hai trong kệ tụng, có hai: Đầu là sinh khởi, tiếp là chính thức kệ tụng. Kệ có mười, phân làm bốn:

  1. Hai kệ đầu tụng về pháp thuyết trước đây.
  2. Ba kệ tiếp tụng về dụ thứ nhất. 3) Một kệ tiếp tụng về dụ thứ hai.
  3. Bốn kệ tiếp tụng về dụ thứ ba.

Trong Môn thứ sáu là Phật hạnh, có hai: Một là dựa vào câu hỏi, hai là trả lời. Trong trả lời có hai: Đầu là trường hàng, tiếp là kệ tụng.

Trường hàng có ba: Một là pháp thuyết, hai từ “Thí như pháp giới…” trở xuống là ví dụ so sánh; ba từ “Phật tử Bồ-tát như thị đẳng…” trở xuống là kết luận về Dụng của đức nghiệp. Trong phần hai là dụ có năm, đều có dụ-hợp: Một là dụ về hoàn toàn đoạn tuyệt ba đời; hai là dụ về tánh của nghiệp vô ngại; ba là dụ về dụng tận cùng pháp giới; bốn là dụ về khởi lên nghiệp cứu giúp chúng sinh; năm là dụ về không có công mà thành tựu sự việc.

Thứ hai trong kệ tụng, có hai: Đầu là sinh khởi, tiếp là kệ tụng. Kệ có mười, phân làm năm, mỗi hai kệ tụng về một dụ có thể biết.

Trong Môn thứ bảy là Bồ-đề, có hai: Một là dựa vào câu hỏi, hai là trả lời. Trong trả lời có hai: Đầu là trường hàng, tiếp là kệ tụng.

Trường hàng có ba: Đầu là pháp; tiếp là dụ; sau từ “Phật tử Bồ-tát dĩ như thị…” trở xuống là kết luận về nghiệp dụng ấy.

Đầu là pháp thuyết, có hai: Một là phân rõ về Thể, hai từ “Tri xứ đẳng…” trở xuống là phân rõ về Dụng; cũng có thể đầu là Tự lợi, tiếp là Lợi tha.

Trong phần tiếp là dụ có hai, đều có dụ-hợp: Một gọi là dụ về hiện rõ cơ để xác định căn khí; hai là dụ về hết sức vắng lặng lìa xa tánh.

– Văn hợp dụ thứ nhất, có bốn:

  1. Chính thức hợp cùng dụ trên.
  2. Từ “Phật tử nhất thiết Phật…” trở xuống là phân rõ về Bồ-đề lìa xa ngôn ngữ.
  3. Từ “Phật tử thành Bồ-đề thời…” trở xuống là phân rõ về tướng lìa xa ngôn ngữ.
  4. Từ “Phật tử Như Lai thân trung…” trở xuống là giải thích về tác dụng của việc lìa xa ngôn ngữ. Phần ba là phân rõ về tướng, văn có ba: Một là giải thích về tướng, hai từ “Phật tử tùy Như Lai…” trở xuống là tương tự để thành tựu pháp, ba từ “Như Lai cụ túc…” trở xuống là kết luận thành tựu. Phần là tác dụng của sự việc, có ba: Một là phân rõ về tác dụng của sự việc; hai từ “Giai tất nhất tánh…” trở xuống là giải thích về nguyên cớ mà thôi; ba từ “Như thị…” trở xuống là kết luận.

Văn hợp dụ thứ hai, có hai: 1) Phân rõ về pháp; 2) Từ “Phục thứ Phật tử ư nhất mao đạo…” trở xuống là phân rõ về dựa vào pháp trở thành hiểu biết. Văn phần một có hai: Một là phân rõ về Thể của pháp, hai từ “Phật tử Như Lai thành Chánh giác dĩ…” trở xuống là thành tựu tác dụng của thân nghiệp. Văn này có hai, đầu là phân rõ-tiếp là kết luận. Văn phần một về Thể của pháp có hai, đầu là phân rõ-tiếp là kết luận. Văn phần đầu có hai: Một, chính thức hợp cùng dụ trên. Hai, từ “Phật tử thiết hữu…” trở xuống có hai: Một là hỏi đáp giả thiết tương tự thành tựu; hai là thành tựu về hiểu biết, văn có hai: Đầu là kiến lập Thể nối thông với vạn tượng, tiếp từ “Phục thứ Phật tử…” trở xuống là hiểu biết về Tự-tha không có sai lầm. 3) Kết luận có thể biết.

Thứ hai trong kệ tụng, có hai: Đầu là trường hàng sinh khởi, tiếp là kệ tụng. Kệ có mười hai, phân làm sáu: 1) Hai kệ đầu tụng kết luận về pháp thuyết; 2) Hai kệ tiếp tụng về dụ thứ nhất; 3) Hai kệ tiếp tụng về dụ thứ hai; ) Hai kệ tiếp tụng về văn giả thiết tương tự; 5) Hai kệ tiếp tụng về thành tựu công dụng của thân; ) Hai kệ tiếp tổng quát ca ngợi về đức dụng.

Trong Môn thứ tám là Chuyển pháp luân, có hai: Một là dựa vào câu hỏi, hai là trả lời. Trong trả lời có hai: Đầu là trường hàng, tiếp là kệ tụng.

Trường hàng có hai: Một là giải thích, hai là kết luận. Trong giải thích có ba: Đầu là tổng quát phân rõ về Thể, hai từ “Thí như…” trở xuống là ví dụ so sánh mở rộng phân rõ, ba từ “Phật tử nhược như thị…” trở xuống là kết luận xác định về lợi-hại.

Trong phần đầu là tổng quát phân rõ, có sáu: Một, phân rõ về Thể; hai, phân rõ về phạm vi; ba, trình bày về pháp đã lìa xa; bốn, ví dụ 322 so sánh; năm, giải thích về thành tựu; sáu, tương tự để giải thích.

Trong phần hai là mở rộng phân rõ, có hai: Một là dựa theo Thể để phân rõ; hai từ “Phục thứ Phật tử…” trở xuống là dựa theo Dụng để phân rõ thành tựu. Phần một là dựa theo Thể có hai ví dụ, đều có dụhợp: 1-Dụ về âm thanh to lớn vô tận; 2-Dụ về tiếng vang to lớn khắp mọi nơi. Văn thứ hai là hợp, có ba: 1-Thiết lập; 2-Vặn hỏi; 3-Trả lời, có thể biết. Phần hai là dựa theo Dụng để phân rõ thành tựu, có năm có thể biết.

Thứ hai trong kệ tụng, có hai: Đầu là sinh khởi, tiếp là kệ tụng. Kệ có mười, phân làm năm:

  1. Một kệ đầu tụng về văn tổng quát phân rõ;
  2. Một kệ tiếp tụng về dụ thứ nhất;
  3. Hai kệ rưỡi tiếp tụng về dụ thứ hai;
  4. Ba kệ rưỡi tiếp tụng về văn dựa theo Dụng để phân rõ thành tựu;
  5. Hai kệ tiếp là tổng quát ca ngợi.

Trong Môn thứ chín là Niết-bàn, có hai: Một là dựa vào câu hỏi, hai là trả lời. Trong trả lời có hai: Đầu là trường hàng, tiếp là kệ tụng.

Trường hàng có hai: Một là phân rõ về Thể của pháp, hai từ “Phục thứ Bồ-tát như thị tri Niết-bàn…” trở xuống là kết luận nhận biết về nghiệp dụng. Văn phần một có hai: Đầu là pháp tổng quát phân rõ, hai là dụ mở rộng giải thích.

Văn về pháp có bốn:

  1. Tổng quát dựa theo pháp khuyến khích nhận biết.
  2. Đưa ra Thể của Niết-bàn có ba có thể biết.
  3. Từ “Phật tử Như Lai…” trở xuống là trình bày không nói về Thể của Niết-bàn vốn có mà chỉ phân rõ về tánh khởi, văn có năm có thể biết.
  4. Từ “Phật tử đản Như Lai…” trở xuống là trình bày nói về Niếtbàn trên sự tướng, văn có ba có thể biết.

Trong phần hai là mở rộng phân rõ, có hai: Một là dựa theo Dụ để phân rõ; hai từ “Như Lai thị hiện Niết-bàn thời…” trở xuống là hiển bày về tác dụng sự việc duyên theo phạm vi của tướng, văn có hai là giải thích và kết luận có thể biết. Phần trước là dựa theo Dụ có ba, đều có ba văn dụ-hợp và kết luận:

  1. Dụ về hiện bày hạn chế mà Thể thông suốt.
  2. Dụ về chuyển hóa đến cùng tận của diệt.
  3. Dụ về khởi lên tác dụng tùy theo cơ cảm.

Thứ hai trong kệ tụng, có hai: Đầu là sinh khởi, tiếp là kệ tụng. Kệ có mười hai, phân làm năm:

  1. Hai kệ đầu tụng về dụ thứ nhất.
  2. Hai kệ tiếp tụng về dụ thứ hai.
  3. Hai kệ tiếp tụng về dụ thứ ba.
  4. Bốn kệ tiếp tụng về văn tùy duyên của Dụng.
  5. Hai kệ tiếp là tổng quát ca ngợi mà thôi.

Trong Môn thứ mười là thấy-nghe được lợi ích, có hai: Một là dựa vào câu hỏi, hai là trả lời. Trong trả lời có hai: Đầu là trường hàng, tiếp là kệ tụng.

Trường hàng có hai: Một là phân rõ về lợi ích lưu thông điều thấynghe ở hiện tại và vị lai, hai từ “Nhĩ thời chư Bồ-tát…” trở xuống là hỏi về tên gọi của kinh, phân rõ về nghi thức lợi ích duy trì văn nghĩa của kinh.

Văn phần một có hai: Đầu là giải thích, hai từ “Phật tử thị vi…” trở xuống là kết luận.

Văn về giải thích có ba: Một, tổng quát về pháp thuyết; hai, ví dụ so sánh mở rộng giải thích; ba, từ “Ư Như Lai…” trở xuống là phân rõ về công hạnh thấy-nghe rộng lớn khó nói. Phần này có ba: 1) Thiết lập; 2) Vặn hỏi; 3) Trả lời.

Trong phần một là pháp thuyết, có bốn: Một là tổng quát phân rõ về thành tựu lợi ích không hư dối, có hai câu có thể biết; hai là phân rõ về hạnh thù thắng trong Hữu; ba là thành tựu trí phương tiện trong Không; bốn là trình bày tận cùng quả vị ấy đầy đủ đức thù thắng. Trong phần hai là ví dụ so sánh mở rộng, văn có hai: Một là phân rõ về lợi ích của Thể hiện tại; hai từ “Nhược hữu đắc kinh…” trở xuống là Dụng trú trì ở vị lai, phần này có hai có thể biết. Phần một là lợi ích của hiện tại, văn có ba dụ, hai dụ đầu là ví như hành đức kiên cố do phước đức đã đạt được, một dụ sau là tác dụng thù thắng của tánh đức. Trong hai dụ đầu: Dụ thứ nhất là dụ về hành vô cùng kiên cố vững chắc khó hư hoại, dụ thứ hai gọi là dụ về trí bé nhỏ có thể đốt cháy phiền não to lớn; như vậy đều có dụ-hợp. Dụ thứ ba là dụ về tánh khởi khéo léo giúp đỡ thành tựu.

Văn phần hai là hỏi về danh nghĩa của kinh và nghi thức…, có hai: Một là hỏi, hai là trả lời. Trong trả lời có năm: Một, nêu ra tên gọi của kinh và tác dụng về nghĩa của kinh; hai, từ “Như thị kinh điển…” trở xuống là trình bày về phạm vi của việc làm; ba, từ “Thị cố Bồ-tát…” trở xuống là đưa ra lợi ích khuyến khích giữ gìn; bốn, từ “Phật tử Bồ tát

tuy vô lượng ức…” trở xuống là hiển bày về sự thù thắng quan trọng của kinh, văn này có hai, một là phân rõ về tổn hại, hai là trình bày về lợi ích có thể biết; năm, từ “Phật tử Bồ tát văn thử kinh dĩ…” trở xuống là trình bày về chỉ dạy phương pháp nghi thức tu tập làm lợi ích.

Trong phần hai là phạm vi của việc làm: Đầu là pháp, tiếp là dụ, sau là hợp.

Thứ hai trong kệ tụng, có hai: Đầu là sinh khởi, tiếp là kệ tụng. Kệ có tám, phân làm bốn:

  1. Hai kệ đầu tụng về tổng quát.
  2. Hai kệ tiếp tụng về dụ thứ nhất.
  3. Hai kệ tiếp tụng về dụ thứ hai.
  4. Hai kệ tiếp tụng về dụ thứ ba.

Phần thứ ba từ “Nhĩ thời thập phương…” trở xuống là kết thúc tuyên thuyết chứng minh thành tựu, có hai: Đầu là trường hàng, tiếp là kệ tụng. Cũng có thể phần kệ này là phần trùng tụng thứ hai trong phần mở rộng giải thích mà thôi.

Văn trường hàng có năm: Một, mặt đất chấn động và mưa hoa có hai, đầu là phân rõ, tiếp là kết luận lưu thông; hai, Phật hiện thân, cũng có hai có thể biết; ba, thành tựu lợi ích thực hành, cũng có hai có thể biết; bốn, trình bày về nguyên cớ có được hiệu quả; năm, Bồ-tát vân tập làm chứng, cũng có hai có thể biết.

Tiếp là kệ tụng, có hai: Một là trường hàng trình bày về ý tuyên thuyết, hai là chính thức kệ tụng. Văn tụng có bảy kệ, phân làm ba:

  1. Hai kệ đầu là tổng quát phân rõ về pháp sâu xa khó dùng ví dụ để hiển bày.
  2. Ba kệ tiếp là ca ngợi về lợi ích nghe pháp.
  3. Hai kệ tiếp là nêu ra lợi ích khuyến khích giữ gìn, có ba có thể biết.

Phẩm 33: LY THẾ GIAN

Giải-hạnh pháp tướng động tĩnh vô ngại thành tựu ở Hội này.

Bốn môn giống như trước.

1. Giải thích về tên gọi: Ly là nghĩa thanh tịnh về Thể của hành, Thế gian là pháp thụ động lìa xa. Thế là thời gian, Gian là ở giữa, chỉ ở trong thời gian thì gọi là Thế gian.

2. Ý đưa ra, có hai: Một là phân rõ lý do của Hội về phát triển giáo pháp, từ đây về sau là phần thứ ba dựa vào duyên tu hành thành tựu đức. Vì sao đưa ra? Bởi vì trước đã đạt được pháp, tiếp theo cần phải y theo pháp, dựa vào duyên để tu tập thành tựu công đức của hành. Vốn là trong văn của hai phẩm sau đều có lời lẽ khuyến khích, cho nên biết được. Hai là đưa ra Phẩm, Thánh tánh trước đây hiện rõ trước mắt, bởi vì muốn đạt được phạm vi không cùng chung với phàm phu, cho nên theo thứ tự đưa ra.

3. Trình bày về Tông, phân biệt có hai: Một là dựa theo con người, người thì có chính thức và hỗ trợ, hai người đều có Thể-Tướng-Dụng.

Hỏi: Người ở đây và người tri thức ở sau có gì khác nhau?

Đáp: Người ở đây là người chủ động tuyên thuyết về giáo, người tri thức ở sau là người truyền dạy về giáo đã được giải thích, dựa theo để chọn lấy.

Hai là dựa theo pháp, pháp gọi là pháp hành, tức là Đạo phẩm của Nhất thừa; tên gọi và số lượng của Tam thừa-Tiểu thừa tuy cùng là ba mươi bảy, nhưng mà ý khác nhau. Nói rộng ra như các kinh. Hành của Nhất thừa thì Học cũng có bắt đầu, như dựa vào Định học để trình bày về phạm vi bắt đầu. Nếu dựa theo người hồi tâm, thì dùng Định Vị chí và Định Sơ thiền… là bắt đầu Học. Nếu dựa vào người thẳng tiến, thì dùng Định chỉ đạt được ý lời nói là bắt đầu Sơ học. Nếu dựa theo giáo Bất cọng của Nhất thừa, thì dựa vào Tam-muội tịch tịnh thù thắng là bắt đầu Sơ học. Nếu dựa theo Hành giải thì Định Hoa Nghiêm là bắt đầu Sơ học. Nếu dựa theo Hành vị thì Định ở phần vị Thập Hạnh là bắt đầu Sơ học. Nếu dựa theo người tri thức quỹ tắc thì dùng Định Sư tử phấn tấn là bắt đầu Sơ học. Nếu dựa theo Tín giải… thì dùng Định Tịnh tạng… là bắt đầu Sơ học. Nếu dựa theo Chánh giải thì dùng pháp môn Tánh khởi là bắt đầu Sơ học. Nếu dựa theo Giải vị thì Định ở phần vị Thập Giải là bắt đầu Sơ học. Như vậy đều dựa theo hướng về nguồn gốc chân thật để nói. Người đốn ngộ thì ý nghĩ và lời nói vô phân biệt, Định là đầu tiên.

Còn lại có thể dựa theo biết mà thôi.

4. Giải thích văn. Từ đây về sau có hai phần: Một, phẩm này trình bày về phần dựa vào pháp tiến tu; hai, phẩm Nhập Pháp Giới ở sau trình bày về phần dựa vào con người Nhập chứng.

Hỏi: Vì sao đối với pháp thì không trình bày về Nhập chứng, sau dựa theo con người mới bắt đầu Nhập chứng?

Đáp: Pháp là chỗ dựa, khéo léo nhờ vào trí; nếu không dựa vào con người thù thắng khéo léo thông hiểu căn cơ, thì tuy tự có pháp nhưng không có thể chứng được. Vì vậy trong kinh nói tri thức đầy đủ Phạm hạnh.

Hỏi: Pháp trên đây và hạnh thành tựu ở đây hoàn toàn không có Thanh văn, vì sao tri thức trong phẩm Pháp Giới sau này thì gồm chung phân rõ về Thanh văn?

Đáp: Pháp trên đây là Đốn, hạnh ở đây cũng là Đốn, vì vậy không có Thanh văn. Trong phẩm Pháp Giới sau này có hai ý: Một là người có phương tiện thù thắng, dẫn dắt Tiểu trở thành Đại, bởi vì trình bày về đức của người cho nên nói đến Tiểu; hai là hiển bày phát tâm đối với pháp giới cho nên bắt đầu nối thông với hai Hồi hướng.

Hỏi: Hai phẩm này vì sao phân ra nói ở hai nơi?

Đáp: Bởi vì ở Trùng Các tinh xá Kỳ Hoàn là bắt đầu nhiếp hóa, ở Phổ Quang đường là mở đầu khởi hạnh, cho nên trên đây trình bày về Bồ-tát khởi hạnh bắt đầu từ Phổ Quang đường, sau này trình bày về Văn Thù giáo hóa phát khởi tại Trùng Các. Vì sao biết được? Bởi vì trở lại Hội này, bản riêng biệt(biệt bản) nói rằng mới có thể trở lại bắt đầu thưa hỏi về nghĩa này, cho nên biết vậy.

Văn này có bảy: 1) Phần Tựa; 2) Nhập Định; 3) Khởi Định; 4) Thưa thỉnh; 5) Từ “Nhĩ thời Phổ Hiền cáo…” trở xuống là chính thức tuyên thuyết; 6) Cuối phẩm là chứng minh thành tựu; 7) Kệ tụng.

Văn phần một là Tựa có bốn: Một là thời gian; hai là Phật; ba là nơi chốn; bốn là chúng cùng nghe. Trong phần ba là nơi chốn, có hai: Một, phân rõ về nơi chốn; hai, dựa vào nơi chốn thành tựu về Phật đức. Vì sao ở đây ca ngợi về đức? Bởi vì nhân quả thuần thục thì công đức quy về Hóa chủ, lại bởi vì hành tướng có thể vặn hỏi. Văn về đức, có ba: Một là tổng quát phân rõ, hai là hạnh Tự lợi, ba từ “Năng dữ nhất thiết…” trở xuống là hạnh Lợi tha. Phần bốn là chúng cùng nghe, có hai: Một, tổng quát nêu ra số ca ngợi về đức. Văn phần một này, có bốn: Một, nêu ra đầy đủ. Hai, sơ lược ca ngợi về đức, có hai: Một là luyện tập trước khác với sau, hai là luyện tập mới khác với cũ. Ba, từ “Cụ túc thành tựu…” là riêng biệt ca ngợi về đức. Bốn, từ “Cụ tức như thị…” trở xuống là kết luận.

Trong phần ba là riêng biệt ca ngợi về đức, có hai: Một là đức của Tự phần, hai từ “Ư nhất niệm trung…” trở xuống là đức của Tha phần. Trong Tự phần: Một là Tự lợi, hai từ “Thiện nhiếp chúng sinh…” trở xuống là Lợi tha.

Trong phần hai là nêu ra tên gọi ca ngợi về đức, có hai: Một là nêu ra tên gọi, ở đây lược bớt nêu ra tên gọi, sở dĩ văn này Bồ-tát cùng chung tên gọi là Phổ, bởi vì Thể của hành thuận với lý thành tựu cho nên không có tướng khác nhau. Hai là trong ca ngợi về đức, có bốn: Một, tổng quát; hai, từ “Tùy chư thế…” trở xuống là nhiếp pháp làm hạnh đứng đầu; ba, từ “Tất năng thọ trì…” trở xuống là hạnh hộ trì Chánh pháp; bốn, từ “Tùy chư…” trở xuống là hạnh thị hiện thành tựu Đại sự.

Trong phần hai là Nhập Định, có ba: Một là nhập Định; hai là nêu ra tên gọi; ba là trình bày về Định lực. Sở dĩ Định này gọi là Định Hoa Nghiêm, bởi vì biểu thị về quả trang nghiêm của hạnh.

Phần ba trình bày về Khởi Định giống như trước có thể biết.

Trong phần tư là Thưa thỉnh, sở dĩ một mình Phổ Tuệ vì pháp thưa hỏi trước, là làm sáng tỏ nay chỉ dùng Tuệ để dẫn dắt hạnh. Lại bởi vì hiển bày về cơ rộng lớn, chỉ có Tuệ phát ra Thể, cho nên Phổ Tuệ tóm lược thưa hỏi hai trăm câu; bởi vì khéo léo thực hành tùy duyên, cho nên Phổ Hiền mở rộng trả lời hai ngàn câu.

Trong phần này về sau có mười ý, vốn là hạnh phát triển giáo pháp:

1) Bởi vì cùng hạnh với người thù thắng;

2) Được Phật hộ niệm.

3) Thành tựu các căn thiện không thể nghĩ bàn.

4) Đầy đủ căn của Bồ-tát.

5) Sinh trong nhà Phật.

6) Đạt được lực của Thiện tri thức.

7) Thần lực của hết thảy chư Phật gia trì.

8) Lực bổn nguyện của Phật Lô-xá-na.

9) Căn thiện thuần thục.

10) Có thể tiếp nhận công hạnh của Bồ-tát Phổ Hiền.

Văn này chính là do nghĩa Thiện tri thức nối thông với phẩm này mà thôi, điều này có thể suy nghĩ!

Trong phần hỏi có ba: Một, tổng quát nói cho biết; hai, chính thức hỏi; ba, từ “Thiện tai…” trở xuống là tổng quát kết thúc thưa thỉnh. Sở dĩ Phổ Hiền trả lời là bởi vì biểu thị về hành rộng lớn.

– Văn này có sáu, tức là sáu phần vị:

  1. Hai mươi câu đầu là phần vị Thập Tín.
  2. Từ “Hà đẳng phát Phổ Hiền tâm…” trở xuống là hai mươi câu về phần vị Thập Trú.
  3. Từ “Hà đẳng vi trì…” trở xuống là ba mươi câu về phần vị Thập Hạnh.
  4. Từ “Hà đẳng Bảo trú…” trở xuống là hai mươi chín câu về phần vị Thập Hồi Hướng.
  5. Từ “Hà đẳng thân nghiệp…” trở xuống là năm mươi câu về phần vị Thập Địa.
  6. Từ “Hà đẳng quán sát…” trở xuống là năm mươi mốt câu hỏi về quả vị sai biệt.

Do đó bản riêng biệt nói rằng: Nguyện xin giải thích về hạnh Bồtát từ đầu đến cuối khiến cho không có nghi ngờ!

Từ “Nhĩ thời Phổ Hiền cáo…” trở xuống là phần thứ 5 chính thức tuyên thuyết, mở rộng trả lời về sáu phần vị trên.

Thứ nhất trong phần vị Thập Tín, có ba: Một, chín mươi câu đầu là hạnh của Tự phần đầy đủ; hai, từ “Thập chủng nhập…” trở xuống là tám mươi câu về hạnh của phần thù thắng; ba, từ “Thập bất khả hoại trí…” trở xuống là ba mươi câu về hạnh Lợi tha.

Trong chín mươi câu: Một là năm mươi câu đầu về hạnh Tự lợi, hai từ “Chánh hy vọng…” trở xuống là hai mươi câu về hạnh Lợi tha, ba từ “Thập giới…” trở xuống hai mươi câu là ngay nơi phần vị của nhân mà thành tựu quả đầy đủ.

Thứ nhất dựa vào quả, rộng ra có bốn loại:

  1. Quốc độ… dựa vào quả.
  2. Tập khí dựa vào quả trước đây sinh ra.
  3. Tập nhân tập quả.
  4. Thể tướng của nhân dựa vào nhân quả.

Trong này không nói đến hai loại trước, cũng có thể nói giống như loại thứ nhất, điều này có thể suy nghĩ chuẩn xác!

Văn này có hai: Tám câu đầu là Tự phần, hai câu sau là thắng tiến có thể biết. Mười câu trong những văn này, mỗi mười câu đều có bốn: Một là đưa ra số, hai là nêu ra tên gọi để giải thích, ba là kết luận, bốn là đưa ra lợi ích khuyến khích tu học, chỉ trừ ra Phật địa và cùng chung pháp hành, bởi vì học thêm nữa không có gì khác với các pháp về quả…

Nhân quả đã thiết lập mà năng lực hiểu biết không phải là thù thắng, bởi vì trí không thành tựu cho nên trình bày mười câu về Tưởng lạ lùng. Trong này, tám câu đầu là Tự phần, hai câu sau là Tha phần. Đã có hiểu biết rộng lớn (Đại giải) thì cần phải khởi lên công hạnh to lớn (Đại hạnh), cho nên tiếp theo trình bày mười câu về Hạnh. Tu hành thành tựu nhất định phải dựa vào Thiện hữu, cho nên trình bày mười câu về Tri thức: Một câu đầu là tâm Bồ-đề yên ổn bền vững, ba câu tiếp là dựa vào tâm Đạo thành tựu hạnh Tự lợi, bốn câu tiếp là dựa vào tâm thành tựu hạnh Lợi tha, một câu tiếp là dựa vào tâm thành tựu hạnh Phổ Hiền, một câu tiếp là dựa vào Đại hạnh tiến vào pháp giới.

Nếu không chịu khó thúc đẩy thì không biết từ đâu mà tiến đạo, cho nên tiếp theo trình bày mười câu về Tinh tiến, muốn trình bày về Tinh tiến hợp với lý thì phải trình bày mười câu về Hy vọng: Tám câu trước là Tự phần, hai câu sau là thắng tiến. Lìa xa nghiêng lệch thì gọi là Chánh mà thôi. Dựa vào lực của pháp đích thực hiếm có, cho nên phân rõ mười câu về thành tựu chúng sinh: Một câu đầu là Bố thí nhiếp, hai câu tiếp là Ái ngữ, hai câu tiếp là Đồng sự, năm câu tiếp là Lợi hành. Bởi vì lợi ích chúng sinh, cho nên không có ác nào không lìa xa, không có thiện nào không tích lũy, do đó trình bày mười câu về Giới, đã thành tựu đức trước đây, cho nên trình bày mười câu về Thọ ký, cả hai đều có tám mươi, hạnh thuộc phần thù thắng có ba: Hai mươi câu đầu là Tự hành, bốn mươi câu tiếp là đưa vào hạnh Lợi tha, hai mươi câu tiếp đưa vào trong nhân quả Lợi tha. Tự hành đã thành tựu, tiếp theo tiến vào cảnh thù thắng, hạnh thù thắng cho nên tiến vào mười cảnh của Như Lai: Một câu đầu là thị hiện thành tựu Bồ-đề, tám câu tiếp là ba nghiệp lợi ích chúng sinh, một câu tiếp là nhập Niết-bàn. Trong tám hạnh: Bốn câu đầu là khẩu, hai câu tiếp là thân, hai câu tiếp là ý.

Dụng đã hòa vào Dụng thù thắng thì cần phải nhận biết về tánh của căn khí, cho nên trình bày mười câu về Nhập chúng sinh tâm hành. Đã nhận biết căn khí, tiếp theo trình bày về nơi yên ổn, cho nên trình bày mười câu về Nhập thế giới. Đã có được nơi nương tựa, thì cần phải biết thời gian dài ngắn, cho nên phân rõ mười câu về Nhập kiếp. Tuy thời gian tự tại, nhưng nói ra không rõ ràng thì lý cũng khó thích hợp, cho nên phân rõ mười câu về Thuyết ba đời. Đã nhận biết thời gian, tiếp theo trình bày về pháp trong thời gian, cho nên tiếp đến phân rõ về ba thế gian.

Văn nói về Nhập thế gian: Một là biết về ba pháp trong thời gian hiện tại; hai là phù hợp với lực nói pháp thông suốt nghĩa, lại có thi thiết thông suốt tình thức gọi là Đạo; ba là phù hợp với Thể tánh ngữ nghĩa; bốn là phù hợp với ngữ nghĩa tùy theo nơi chốn mà thi thiết; năm là phù hợp với tưởng hiểu biết về ngữ nghĩa; sáu là phù hợp với nhân của ngữ ngôn; bảy là nhận biết phạm vị của ngữ ngôn; tám là phù hợp với nghĩa của lời nói chuyển đổi lẫn nhau không hết; chín là nhận biết trong thời gian lìa nhiễm, nghĩa của lời nói cũng như vậy; mười là nhận biết trong thời gian tánh tịnh, nghĩa của lời nói cũng như vậy.

Đã thông hiểu về pháp trong thời gian, cho nên đạt được lợi ích hiểu biết về pháp, thứ tám là mười câu rời xa buồn lo khổ sở, tâm không có gì chán ngán hối hận: Bốn câu đầu là Tự lợi, năm câu tiếp là hạnh Lợi tha, một câu tiếp là Tự-tha cùng thực hành.

Trong phần thứ ba là Lợi tha, đầu là thành tựu tâm kiên cố làm việc không có gì hối hận, tiếp theo trình bày mười câu về trí Lợi tha không thể nào hủy hoại: Hai câu đầu là Lợi tha, tám câu tiếp là Tự lợi. Đã có trí cho nên có năng lực giữ gìn pháp, tiếp theo là mười câu về Đà-la-ni: Chín câu trước là giữ gìn pháp thuộc về nhân, một câu tiếp là giữ gìn pháp thuộc về quả. Bởi vì giữ gìn thành tựu cho nên giải thích về pháp thuộc quả, tiếp theo thứ ba là phân rõ mười câu về Phật giáo hóa phủ khắp mọi nơi: Ba câu đầu là Báo Phật, ba câu tiếp là Hóa Phật, bốn câu tiếp là Pháp Phật. Đây chỉ là một tướng giải thích mà thôi. Nếu dựa vào kinh này thì đều thâu nhiếp tất cả.

Thứ hai từ “Phổ Hiền tâm…” trở xuống là trả lời phần hỏi về phần vị Thập Giải, có ba: Một, năm mươi câu trình bày về phương tiện của Giải; hai, từ “Thập thanh tịnh…” trở xuống là bảy mươi câu về phần vị Giải chính thức tu hạnh đối trị; ba, từ “Thập thuyết pháp…” trở xuống là tám mươi câu về hạnh Lợi tha.

Trong phần một Đại tâm làm căn bản cho nên phát tâm Phổ Hiền: Ba câu đầu là tâm bảo vệ chúng sinh, ba câu tiếp là tâm hướng về quả trí, bốn câu tiếp là tâm chán ngán lìa xa hữu vi. Đã thành tựu Đại tâm, tiếp đến thành tựu Đại hạnh, thứ hai là mười câu về hạnh Phổ Hiền: Chín câu đầu là pháp hành của Tự phần, một câu tiếp là pháp hành thắng tiến. Đại hạnh đã đầy đủ, tiếp đến phân rõ về tâm Bi cứu giúp chúng sinh, thứ ba là mười câu về Đại Bi. Tâm Bi đã đầy đủ, tiếp theo dựa vào Bi trình bày về phát tâm đầy đủ, thứ tư là mười câu về nhân duyên phát tâm Bồ-đề. Đại tâm đã thành tựu rồi, tiếp theo cần phải dựa vào Thiện hữu làm cho tăng lên, thứ năm là gần gũi Thiện tri thức: Tám câu trước là hạnh phát khởi về nhân, hai câu tiếp là hạnh phát khởi về quả.

Phần vị Giải thứ hai có bảy mươi câu, phân làm ba: Một, hai mươi câu đầu trình bày về tu phương tiện; hai, từ “Tùy thuận giác…” trở xuống là ba mươi câu trình bày về thành tựu Giải; ba, hai mươi câu còn lại trình bày về pháp môn sai biệt đã nhận biết.

Bởi vì gần gũi Thiện hữu cho nên có thể lìa xa các mê hoặc, thứ nhất là mười câu về Thanh tịnh. Đã lìa xa chướng ngại, cho nên lên cao trên bờ bên kia, thứ hai là mười câu về Ba-la-mật. Thể của hành đã thành tựu, ở trong sự nhận biết tùy thuận giác ngộ thông suốt, thứ ba là mười câu về Tùy thuận giác tri. Đã tùy thuận nhận biết rồi, thành tựu nhận biết thiết lập tường tận, thứ tư là mười câu về Quyết định tri. Đã quyết định có nhiều năng lực chịu đựng, thứ năm là mười câu về Lực. Trí lực đã có thể chịu đựng, thứ sáu là phân rõ mười câu về Bình đẳng. Đã đạt được Lý quán thì cần phải khởi lên Trí dụng, thứ bảy là phân rõ mười câu về Pháp cú phương tiện của Phật.

Ngay phần thứ ba là Lợi tha có tám mươi câu, lại phân làm ba: Một, bốn mươi câu đầu là chính thức đối với duyên thuyết pháp, hiển bày đầy đủ về đức biện tài; hai, từ “Thập vô trước…” trở xuống là ba mươi câu phân rõ thành tựu về trí không có gì đắm trước; ba, mười câu còn lại phân rõ đầy đủ về đức giáo hóa.

Bắt đầu đã hiểu biết rồi, cần phải sinh khởi giảng nói, thứ nhất là phân rõ mười câu về Thuyết pháp. Đã thuyết pháp rồi, tiếp theo cần phải thọ trì, thứ hai là mười câu về Phương pháp thọ trì: Bảy câu trước là giữ gìn nhân hạnh, ba câu sau là giữ gìn quả pháp. Đã thọ trì rồi thì cần phải đọc tụng, thứ ba là mười câu về Tài năng. Do tài năng không có gì ngưng trệ, đức tướng đặc biệt xuất hiện, thứ tư là phân rõ mười câu về Pháp thù thắng: Tám câu trước là tu phương tiện thù thắng, hai câu tiếp là công dụng tự tại thù thắng. Đích thực dùng đức để phát khởi công năng thù thắng, không chấp vào cảnh duyên, thứ năm là phân rõ mười câu về Vô trước. Bởi vì không đắm trước cho nên thành tựu về Chứng bình đẳng, thứ sáu là phân rõ mười câu về Tâm bình đẳng: Tám câu trước là bình đẳng trong hạnh của Tự phần, hai câu tiếp là bình đẳng trong hạnh thắng tiến. Tâm đã đạt được bình đẳng, dựa vào Chứng mà phát khởi Hậu đắc trí, thứ bảy là phân rõ mười câu về Trí sinh ra. Từ Hậu trí khởi Dụng, thứ tám là phân rõ mười câu về Biến hóa.

Thứ ba từ “Thập trì…” trở xuống là ba trăm câu trả lời phần hỏi về Thập Hạnh trên đây, có ba: Một, sáu mươi câu là hạnh thù thắng thanh tịnh hết chướng ngại tiến vào cảnh Phật; hai, từ “Thập bất tư nghị…” trở xuống là chín mươi câu phân rõ về thành tựu đạo đối trị hành đức thanh tịnh; ba, từ “Thập viên lâm…” trở xuống là một trăm năm mươi câu ở 332 ngay phần vị tu tập thành tựu đầy đủ.

Trong phần một có ba: Mười câu đầu phân rõ về Thể của hạnh, hai mươi câu tiếp là tiến vào cảnh giới Phật, ba mươi câu sau là hạnh thành tựu loại trừ chướng.

Thứ nhất là Trì có bốn: Một là nhân duy trì quả, như duy trì chủng tánh; hai là quả duy trì nhân, như Địa trì-Gia trì…; ba là thêm lực trú trì; bốn là tâm-cảnh duy trì lẫn nhau, như luận. Trong này gồm chung.

Đã duy trì chủng tánh thành tựu, đối với pháp hy vọng không chán ngán, cho nên thứ hai phân rõ mười câu về Chánh hy vọng. Chính vì pháp mong mỏi mà thành tựu trí, tâm thấu suốt không ngăn ngại, cho nên thứ ba phân rõ mười câu về Thâm nhập Phật pháp: Bốn câu đầu là dựa theo khí thế gian trình bày về Phật pháp, hai câu tiếp là chúng sinh thế gian, ba câu tiếp là trí Chánh giác, một câu còn lại là tổng quát pháp giới làm Phật pháp. Đã tiến vào Phật pháp, duyên không có gì không chân thật, đều là chỗ dựa để khởi hạnh, cho nên thứ tư phân rõ mười câu về Y chỉ. Đã có nơi nương tựa, đối với duyên không có gì lo sợ, cho nên thứ năm phân rõ mười câu về tâm Vô úy. Chính vì đối với duyên không có gì lo sợ, tự biết mình quyết định đạt được, cho nên thứ sáu phân rõ mười câu về tâm Vô ngại: Ba câu đầu là Tự hành, bốn câu tiếp là Lợi tha, ba câu tiếp là Tự-tha cùng thành tựu.

Trong phần hai là chín mươi câu phân rõ về thành tựu đạo đối trị hành đức thanh tịnh, có ba: Ba mươi câu đầu là hành phương tiện đối trị, tiếp từ “Thập chánh thọ Tam-muội…” trở xuống là ba mươi câu về hành và Thể đều vô ngại, tiếp từ “Thần thông…” trở xuống là ba mươi câu về hành thành tựu tác dụng.

Chính vì vô ngại ở trong pháp sâu xa mà trí có thể thông hiểu, cho nên phân rõ mười câu về Bất tư nghị; cũng có thể vô ngại tiến vào pháp sâu xa, cho nên không nghĩ bàn được. Đã đạt được trí sâu xa giải thích khéo léo thuận theo chúng sinh, cho nên thứ hai phân rõ mười câu về Phương tiện khéo léo có thể nói lời bí mật sâu xa. Đã có được lời nói bí mật, lại khéo léo nhận biết nơi tiến vào, cho nên thứ ba phân rõ mười câu về Trí phân biệt phương tiện khéo léo: Hai câu đầu dựa theo khí thế gian trình bày về trí, sáu câu tiếp là chúng sinh thế gian, hai câu tiếp là trí Chánh giác. Đã thường xuyên vắng lặng, cho nên thứ tư phân rõ mười câu về Chánh thọ Tam-muội. Bởi vì từ Định khởi lên thông Tuệ, không có gì không thông hiểu, cho nên thứ năm phân rõ mười câu về Nhất thiết xứ. Chính vì không có nơi nào không có mặt, Thể bao trùm vô ngại, cho nên thứ sáu phân rõ mười câu về Pháp môn. Khởi Dụng tự tại, cho nên thứ bảy phân rõ mười câu về Thần thông. Chính vì thần thông tự tại, không có duyên nào không thông hiểu, cho nên thứ tám phân rõ mười câu về Minh. Bởi vì trí sáng suốt khởi lên thì Vô minh ràng buộc không còn, cho nên thứ chín phân rõ mười câu về Giải thoát.

Từ “Viên lâm…” trở xuống là phần ba về hành đức đầy đủ, có một trăm năm mươi câu, có ba: Một, bốn mươi câu trình bày về Báo tướng đầy đủ; hai, từ “Thập bất động tâm…” trở xuống là bốn mươi câu phân rõ về hiểu biết chân thật làm căn bản của Hạnh; ba, từ “Thập vô cấu…” trở xuống là bảy mươi câu về Đại Dụng thành tựu đầy đủ.

Thứ nhất là dựa vào tác dụng của hành, trí dạo khắp cảnh giới, cho nên phân rõ mười câu về vườn rừng: Bảy câu trước là phương tiện của hành, ba câu tiếp là đức của quả. Đã dạo khắp bên ngoài rồi, lại cần phải yên ổn bên trong, cho nên thứ hai phân rõ mười câu về Cung điện. Bởi vì thù thắng vi diệu có thể sinh ra lợi ích cho đạo, vì chúng sinh vui mừng, cho nên thứ ba phân rõ mười câu về niềm vui. Tâm vui mừng thành tựu rồi, đức phát ra Pháp thân, cho nên thứ tư phân rõ mười câu về Trang nghiêm: Tám câu trước là trang nghiêm hành phương tiện, hai câu tiếp là trang nghiêm hành thuần thục.

Trong bốn mươi câu ở phần thứ hai, đức trang nghiêm thân rồi, bởi vì hành đức kiên cố, cho nên thứ nhất trình bày về tâm Bất động. Bởi vì Thể của hành kiên cố, tâm ở trong lý thù thắng có thể thông hiểu tận cùng, cho nên thứ hai phân rõ mười câu về Thâm tâm không rời bỏ. Đã sâu xa rất khó hủy hoại, khéo léo có thể đạt được lý, cho nên thứ ba trình bày về Trí tuệ quán sát. Đã thông hiểu không có gì sót, đối với pháp có thể khéo léo chọn lựa sai khác, cho nên thứ tư phân rõ mười câu về Pháp phân biệt.

Trong bảy mươi câu ở phần thứ ba, có hai: Một có ba mươi câu trình bày về thanh tịnh lìa chướng, hai có bốn mươi câu về thành tựu đức của hành.

Thứ nhất phân rõ mười câu về trí Vô cấu. Trí hành sạch sẽ ổn định, cho nên thứ hai phân rõ mười câu về Trí ấn.

Hỏi: Văn nói biết pháp Như Lai là Trí ấn văn tự, thì dựa theo nghĩa nào mà nói?

Đáp: Bồ-tát và Phật đều biết pháp vô biên, nếu dùng hai Thánh so sánh với nhau thì Bồ-tát không sánh bằng Phật, Phật thì vượt quá Bồ-tát. Vì sao? Bởi vì trên Thể của pháp tánh đầy đủ hai môn, cho nên pháp vốn như vậy. Đây là giải thích dựa theo Nhất thừa.

Hành đã không hư hoại, biết rõ Dụng vô ngại, cho nên thứ ba

phân rõ mười câu về Trí quang minh. Ánh sáng của trí vô ngại, không có ý chỉ nào không phù hợp, cho nên thứ tư phân rõ mười câu về Trú bất khả xưng lượng. Thể của hành thù thắng khó có, dũng mãnh không gián đoạn, cho nên thứ năm trình bày mười câu về Tâm phát khởi không có lười nhác. Bởi vì thúc đẩy thành tựu Đại tâm quyết định đích thực hướng về, cho nên thứ sáu phân rõ mười câu về Tâm ngay thẳng là mười tâm núi chúa Tu-di. Bởi vì ở trong tâm ngay thẳng, quyết định không lay động ở trong thế gian, thành tựu quả Lợi tha, cho nên thứ bảy phân rõ mười câu về Trí tuệ tiến sâu vào biển lớn thành tựu Tam Bồ-đề: Tám câu đầu là Tự hành, hai câu sau là Lợi tha.

Thứ tư từ “Bảo trú…” trở xuống là hai trăm chín mươi câu trả lời phần hỏi về Thập Hồi Hướng trên đây, có ba: Một, một trăm mười câu trình bày về mười Hồi Hướng lìa chướng thành tựu Thể của hạnh; hai, từ “Thập tự tại…” trở xuống là một trăm hai mươi câu phân rõ về Tướng của hành tự tại vô ngại; ba, từ “Thập du thần thông…” trở xuống là bảy mươi câu phân rõ về Dụng của hành đến cuối cùng.

Phần một có hai: Một là bốn mươi câu về hành thành tựu lầu cao ở bờ bên kia; hai từ “Thập Tín…” trở xuống là bảy mươi câu về thành tựu đạo đối trị, lìa chướng thanh tịnh.

Thứ nhất là hành thành tựu xứng với lý, Vô trú gọi là Bảo trú. Hành đã hợp với lý, đức vị kiên cố, cho nên thứ hai phân rõ mười câu về tâm Kim Cang phát khởi. Đại thừa hiển bày rõ ràng, quả vị đầy đủ trọn vẹn, cho nên thứ ba phân rõ mười câu về Đại sự phát khởi: Ba câu đầu là Tự lợi, ba câu tiếp là Lợi tha, bốn câu tiếp là quả Bồ-đề đầy đủ. Chính vì Phật sự đầy đủ, các hành đầy đủ trọn vẹn, cho nên thứ tư phân rõ mười câu về Đại sự đến cuối cùng, nhưng trước là trình bày về phát hạnh, sau là phân rõ về cuối cùng, có khác nhau ở điểm này: Tám câu trước là thành tựu về hành của Tự phần, hai câu tiếp là thuần thục về hành của Tha phần mà thôi.

Trong bảy mươi câu của phần hai: Ba mươi câu đầu trình bày về Thể của hành Hồi Hướng, bốn mươi câu tiếp là năng lực sinh ra hành xuất thế gian.

Thứ nhất là mười câu về Tín bất hoại: Ba câu đầu là niềm tin bất hoại đối với Tam Bảo, hai câu tiếp là đối với người đồng hành, một câu tiếp là đối với chúng sinh, bốn câu tiếp là đối với pháp thành tựu bất hoại. Bởi vì thành tựu về Tín sinh vào nhà Phật, cho nên thứ hai phân rõ mười câu về Thọ ký. Đạo chủng đã thành tựu thì tất nhiên là hướng đến quả, cho nên thứ ba phân rõ mười câu về Thiện căn: Bốn câu đầu là hồi hướng Bồ-đề, bốn câu tiếp là cùng các Bồ-tát hồi hướng chúng sinh, hai câu tiếp là hồi hướng Bồ-đề. Phần vị Hồi Hướng thành tựu trí dụng tự tại, cho nên thứ tư phân rõ mười câu về Trí tuệ: Bốn câu đầu là tự tại về hành của Tự phần, sáu câu tiếp là tự tại về hành của Tha phần mà thôi. Bởi vì trí dụng soi chiếu rõ ràng rộng khắp pháp giới, cho nên thứ năm phân rõ mười câu về Tâm rộng mở vô lượng: Bảy câu trước là nhân hạnh của Tự phần, ba câu tiếp là nhân hạnh thù thắng. Trí dụng rộng khắp mọi nơi, Thể bao gồm không có gì ngoài, Đức cùng tận biển sâu, cho nên thứ sáu phân rõ mười câu về Tạng: Bảy câu trước là hành của Tự phần, ba câu sau là hành của phần thù thắng. Đức đã tích lũy đầy đủ trọn vẹn, tất cả chỉ có ở đây, cho nên thứ bảy phân rõ mười câu về Điều thuận: Bốn câu trước là điều hòa trong cảnh của phần thù thắng, sáu câu tiếp là thuận theo trong hành của Tự phần.

Phần hai từ “Thập tự tại…” trở xuống là một trăm hai mươi câu phân rõ về Tướng của hành tự tại, trong đó: Một, mười câu đầu tổng quát phân rõ về tự tại; hai, có một trăm mười câu riêng biệt phân rõ về tự tại.

Trong phần tổng quát phân rõ: Năm câu đầu là hạnh của Tự phần, năm câu sau là hạnh thắng tiến. Tự tại này ở sáu phần vị cùng có, nhưng dựa theo Tín sinh khởi hơn-kém là khác nhau mà thôi.

Trong một trăm mười câu riêng biệt phân rõ: Một là thiết lập riêng biệt mười chương môn, hai là dựa vào chương để giải thích về môn.

Trong phần một có năm: Một, hai chương đầu dựa vào Y-Chánh để phân rõ về tự tại; hai, hai chương tiếp dựa theo người-pháp; ba, hai chương tiếp dựa theo cảnh-trí; bốn, hai chương tiếp dựa theo trí-dụng; năm, hai chương tiếp đối chiếu lực-dụng để hiển bày.

Trong phần hai là riêng biệt phân rõ giải thích: Đầu là giải thích, tiếp là kết luận. Phần đầu: 1) Chúng sinh; 2) Lợi ích; 3) Pháp; ) Thân; 5) Nguyện; ) Cảnh giới; 7) Trí; ) Thông; 9) Thần lực; đây chỉ dựa theo Sắc mà thôi; 10) Lực tự tại.

Phần ba từ “Thập du thần thông…” trở xuống là bảy mươi câu: Một, hai mươi câu đầu là hành thù thắng rộng khắp; hai, Vô úy-Bất cọng… là năm mươi câu trình bày về hành đức đến kết quả cuối cùng.

Thứ nhất là mười câu về Du hý thần thông trình bày khéo léo chuyển biến vô ngại. Dùng trí dụng đi khắp nơi giáo hóa tức là Thể thù thắng vi diệu, cho nên thứ hai phân rõ mười câu về Hạnh thù thắng. Đức ấy đã thù thắng, trí lực có thừa, cho nên thứ ba phân rõ mười câu về

Lực: Bảy câu trước là nhân hạnh, ba câu sau là quả đầy đủ. Công năng của trí lực mạnh mẽ, bên ngoài không có gì sợ hãi, cho nên thứ tư phân rõ mười câu về Vô úy. Trí-Đoạn đầy đủ, không giống như Nhị thừa, cho nên thứ năm phân rõ mười câu về Pháp bất cọng. Bất cọng khác với Tiểu thừa, có thể làm nhân cho Tịnh độ, cho nên thứ sáu phân rõ mười câu về Nghiệp. Nhờ vào đức hạnh kiên cố, cho nên thứ bảy phân rõ mười câu về Thân.

Thứ năm từ “Thập thân nghiệp…” trở xuống là năm trăm câu trả lời phần hỏi về tướng của nhân vị Thập Địa trên đây, có bốn: Một, một trăm hai mươi câu phân rõ chính thức tu tập về Thể của hành, nương vào Địa thứ nhất; hai, từ “Thập phương tiện…” trở xuống là chín mươi câu là phân rõ về thành tựu tu tập lìa xa chướng, Địa thứ hai trở lên; ba, từ “Thập ly sinh…” trở xuống là chín mươi câu phân rõ về tu đức thuần thục, Địa thứ tư trở lên; bốn, từ “Thập túc…” trở xuống là hai trăm câu phân rõ về Báo tướng đầy đủ, Địa thứ tám trở lên.

Văn phần một có ba: Một là hai mươi câu đầu phân rõ về thân nghiệp, hai là bốn mươi câu tiếp phân rõ về khẩu nghiệp, ba là sáu mươi câu tiếp phân rõ về ý nghiệp.

Thứ nhất trong hai mươi câu về thân nghiệp: Mười câu đầu là Thể, mười câu tiếp là Dụng-Tướng riêng biệt.

Thứ hai trong bốn mươi câu về khẩu nghiệp: Mười câu thứ nhất phân rõ về Thể; mười câu thứ hai phân rõ về nhân hạnh của khẩu nghiệp, bốn câu đầu là Tự lợi, sáu câu sau là Lợi tha, khẩu nghiệp thiện cho nên được các thần gia hộ; mười câu thứ ba là giữ gìn, nhờ giữ gìn cho nên thành tựu đức bên trong, có thể giáo hóa bên ngoài; mười câu thứ tư phân rõ về mười Đại sự.

Thứ ba trong sáu mươi câu về ý nghiệp: Mười câu thứ nhất là Thể của ý nghiệp, năm mươi câu sau phân rõ về tác dụng của ý nghiệp.

Thứ nhất trong Thể: Ba câu đầu là Lợi tha, bảy câu sau là hành Tự lợi. Đã đạt được Thể rồi, cần phải thuận với lý để thành tựu về tu, cho nên thứ hai phân rõ mười câu về Phát tâm. Phát tâm thực hành thành tựu cuối cùng là pháp giới, cho nên thứ ba phân rõ mười câu về Mãn tâm. Nhờ vào Chánh trí có thể phát sinh các căn Hậu đắc như Tín…, cho nên thứ tư phân rõ mười câu về Căn. Thể của hành đã thiết lập, tâm hiểu biết hợp với lý, cho nên thứ năm phân rõ mười câu về Trực tâm. Lý quán đã mở mang rõ ràng phù hợp tận cùng thật tế, cho nên thứ sáu phân rõ mười câu về Thâm tâm: Chín câu trước là Tự lợi, một câu sau là Lợi tha.

Văn phần hai trong chín mươi câu: Một là ba mươi câu đầu trình

bày về Tự hành, hai từ “Thập nhập chúng sinh…” trở xuống là ba mươi câu về Lợi tha, ba từ “Thập thú…” trở xuống là ba mươi câu phân rõ về thành tựu hạnh Tự-tha.

Thứ nhất là nhân hạnh khéo léo tu tập, cho nên trình bày mười câu về Phương tiện. Dùng phương tiện khéo léo mà có thể vui mừng mong cầu các hạnh, cho nên thứ hai phân rõ mười câu về niềm vui tu tập. Do vui với tu tập cho nên chướng ngại dây dưa này mất đi, đạo vị dần dần hiện rõ, vì vậy thứ ba phân rõ mười câu về Giải thoát. Do giải thoát cho nên biết rất rõ về tánh của chúng sinh, vì vậy thứ tư phân rõ mười câu về Nhập tánh. Do tiến sâu vào tánh, đạo vị dần dần vi tế, cho nên thứ năm phân rõ mười câu về Tập khí. Đạo vị dần dần tăng lên, thành tựu Đại Dụng ấy, cho nên thứ sáu phân rõ mười câu về Xí nhiên, tức là hăng hái dũng mãnh tu tập. Bất động thắng tiến không có mức độ nào không đạt đến, đều hợp với sự hướng về của bậc Thánh, cho nên thứ bảy phân rõ mười câu về Thú. Đã dựa vào sự hướng về chính xác, đức hạnh nổi bật ở bên ngoài, cho nên thứ tám phân rõ mười câu về Sự đầy đủ Phật pháp. Đã có được Phật pháp thì cần phải hiểu rõ lỗi lầm lui sụt, cho nên thứ chín phân rõ mười câu về Thối thất Phật pháp: Bốn câu đầu là hạnh Lợi tha không thành tựu, sáu câu sau là hạnh Tự lợi không thành tựu.

Văn phần ba trong chín mươi câu, có ba: Một là ba mươi câu đầu trình bày về Thể của nhân hành, hai từ “Thập danh hiệu…” trở xuống là hai mươi câu phân rõ về Dụng sai biệt của hành, ba từ “Thập vô lượng đạo…” trở xuống là bốn mươi câu về nhân thành tựu đức.

Thứ nhất là mười câu về Ly sinh, bởi vì không còn chướng ngại của phương tiện sinh tử. Bởi vì hành thành tựu kiên cố thuận với Vô sinh, cho nên thứ hai phân rõ mười câu về Pháp quyết định: Năm câu đầu là Tự phần, năm câu sau là hành thuộc phần thù thắng. Bởi vì tự Thể kiên cố, cho nên thứ ba phân rõ mười câu về sinh ra Phật pháp. Bởi vì hành thành tựu cho nên đức nổi bật ở thời gian, vì vậy thứ tư phân rõ mười câu về Danh Hiệu. Bởi vì hiển bày rõ ràng về đức trọn vẹn, sự bít lấp ấy không còn, tự Thể rỗng rang thông suốt, cho nên thứ năm phân rõ mười câu về Đạo. Đây chính là dựa theo số tăng để trình bày về Thể của Đạo. Tự Thể của Đạo trước đây phân rõ vô lượng cảnh của Đạo, cho nên thứ sáu phân rõ mười câu về Đạo vô lượng, tức là trình bày về phạm vi. Chính là vì vô lượng cảnh giới của Đạo đã quán, cho nên pháp của Đạo chủ động quán cũng vô lượng lại không có pháp riêng biệt, cũng có thể là số của Đạo. Đạo và pháp đã thành tựu, tiếp đến trình bày về nhân chủ động thành tựu, tức là thứ bảy. Thứ tám là mười câu về Tu đạo, vốn là một Viên giáo, tức là phân rõ về phương tiện thúc đẩy tu tập. Thứ chín là mười câu về Đạo trang nghiêm, do riêng biệt thúc đẩy tu tập mà hiển bày về đức vốn có. Lại nói đầy đủ đạo vô lượng, là khởi lên nhân duyên của Đạo. Lại thuộc về mình có thể giúp đỡ cho Đạo, cho nên gọi là đầy đủ. Vô lượng Tu đạo là thuộc về pháp, do mình có năng lực có thể tiến lên đạt được, cho nên gọi là Tu đạo. Vô lượng Đạo trang nghiêm, là bởi vì các hành trang nghiêm lẫn nhau. Như vậy đầu đuôi do Chân Như mà lưu thông, duyên khởi cùng nhau thành tựu, cho nên đưa ra một nơi, trình bày theo thứ tự. Như vậy nếu từ thụ động nhìn thấy thì Đạo là Đạo pháp, nếu thuộc về mình thì vốn là Đạo của Đạo hạnh.

Từ “Thập túc…” trở xuống là hai trăm câu trong văn phần bốn, có bốn: Một là hai mươi câu đầu phân rõ về căn hành thuần thục ngoài dụng phương tiện từ Địa thứ tám trở lên, hai từ “Thập phúc…” trở xuống là sáu mươi câu phân rõ về Thể sai biệt của báo, ba từ “Thập nhãn…” trở xuống là sáu mươi câu phân rõ về Tướng sai biệt của báo, bốn từ “Thập hành dĩ…” trở xuống là sáu mươi câu phân rõ về Dụng sai biệt của báo. Địa thứ tám trở lên vốn có thân nghiệp… giống như Phật.

Thứ nhất là mười câu về Chân, là căn bản vận dụng của báo, bắt đầu phát động tiến lên. Thành tựu công dụng của phương tiện, trao truyền và tiếp nhận Tự-tha, cho nên thứ hai phân rõ mười câu về Tay.

Thứ hai là trong sáu mươi câu về Thể sai biệt của báo: Thứ nhất mười câu về Bụng là toàn bộ có thể dung nạp thâu nhiếp. Lại có thể cất chứa tích lũy, cho nên thứ hai phân rõ mười câu về Tạng. Duyên khởi về công dụng của hành từ căn bản chân thật này mà lập, cho nên thứ ba phân rõ mười câu về Tâm. Bởi vì đức nghiệp thành tựu trang nghiêm lẫn nhau mà phát khởi Pháp thân, cho nên thứ tư phân rõ mười câu về Trang nghiêm. Hành đức tự đề phòng nghiêm ngặt diệt hết các lỗi lầm, cho nên thứ năm phân rõ mười câu về Khí trượng, làm cho các ma phải hàng phục. Các hành quy tụ dấy khởi đức thành tựu thù thắng nhất, cho nên thứ sáu phân rõ mười câu về Đầu.

Thứ ba từ “Thập nhãn…” trở xuống là sáu mươi câu phân rõ về Tướng sai biệt của báo: Thứ nhất là hành đức thanh tịnh thù thắng soi chiếu rõ ràng duyên khởi, cho nên gọi là mười Mắt, năm câu đầu tức là năm mắt, năm câu sau nhờ tác dụng mà được tên gọi. Đại Luận nói: “Nhục nhãn Vô thường sợ Phong đại cho nên không nhìn thấy phương khác, Nhục nhãn này là Thường cho nên tự tại nhìn thấy Sắc của phương khác. Hai là Thiên nhãn nhìn thấy pháp của hai đời. Ba là Tuệ nhãn nhìn thấy các căn như Tín… Bốn là Pháp nhãn nhìn thấy tướng chân thật của tất cả các pháp. Năm là Phật nhãn nhìn thấy mười phương.” Như vậy các kinh cũng không nhất định, thứ tự năm loại có thể biết.

Đã có công dụng soi chiếu, lại có thể thâu nhiếp các Thanh giáo, cho nên thứ hai phân rõ mười câu về Tai. Mười đức vốn đầy đủ, hành tiếp nhận Hương giới, cho nên thứ ba phân rõ mười câu về Mũi. Các đức tụ hội thành tựu, có thể nói rõ quy phạm, cho nên thứ tư phân rõ mười câu về Lưỡi. Hành vững chắc tự tại, không có hình dáng nào không hiện bày, cho nên thứ năm phân rõ mười câu về Thân. Sắc tướng bên ngoài đã làm sáng tỏ, Tâm sáng suốt phát khởi bên trong, cho nên thứ sáu phân rõ mười câu về Ý: Chín câu trước là nhân hạnh, một câu sau là quả hành.

Thứ tư là trong sáu mươi câu về Dụng sai biệt của báo: Dựa theo Pháp thân thành lập công năng thù thắng của đức dụng đầy đủ oai nghi, cho nên trình bày về thực hành bốn oai nghi. Thành tựu phương tiện tu tập cần phải tiến phát chứ không dừng lại, cho nên thứ nhất phân rõ mười câu về Hành pháp. Phương tiện tiến tu thì có thành lập Tự phần, cho nên thứ hai phân rõ mười câu về Trú hành. Đã thành lập vững chắc bất động, cho nên thứ ba phân rõ mười câu về Tòa: Bốn câu đầu là đức của Tự hành, sáu câu sau là đức của Lợi tha. Tiến lên thực hành bình đẳng, các tướng vĩnh viễn vắng lặng, cho nên thứ tư phân rõ mười câu về Ngọa. Các hành đã đầy đủ nhất định phải có cảnh tương ưng, cho nên

Thứ năm phân rõ mười câu về Trú. Trước đây là pháp chủ động Trú, ở đây trình bày về pháp thụ động Trú, có pháp làm chỗ dựa thì tất cả đều là hành, cho nên thứ sáu phân rõ mười câu về Hành pháp. Hành trước là bắt đầu tu, cho nên dựa theo nghe…, ở đây dựa theo cuối cùng thành tựu, cho nên Niệm… là hành, còn gọi là hành.

Thứ sáu từ “Quán sát…” trở xuống là năm trăm mười câu trả lời về nghĩa hành đức trọn vẹn đầy đủ, nhân tròn quả đầy của phần hỏi thứ sáu trước đây, có hai: Một, ba trăm hai mươi câu đầu là phân rõ về nhân hạnh đến cuối cùng thanh tịnh không còn chướng; hai, từ “Phật trú Đâu-suất Thiên…” trở xuống có một trăm chín mươi câu phân rõ về quả đức đến cuối cùng. Trong này, Đẳng giác và Diệu giác hợp lại để trình bày.

Văn phần một có ba: Một là một trăm bốn mươi câu đầu trình bày về nhân hạnh thành tựu; hai từ “Thập nghĩa…” trở xuống là tám mươi câu phân rõ về phương tiện tu tập thuận với nghĩa thắng tiến; ba từ “Thập ma…” trở xuống là một trăm câu phân rõ về nhân hạnh thành tựu thanh tịnh không còn chướng.

Một trăm bốn mươi câu đầu, có ba:

  1. Bốn mươi câu phân rõ về hành phương tiện.
  2. Sáu mươi câu là Thể của hành Tự lợi về Lục độ.
  3. Từ “Thập Từ…” trở xuống là bốn mươi câu phân rõ về Thể của hành Lợi tha thuộc Tứ đẳng.

Thứ nhất là mười câu về Quán sát, tất cả phân rõ về hành tướng cần phải khéo léo hiểu rõ thông suốt và tắc nghẽn: Bốn câu đầu là hạnh thuộc Tự phần, sáu câu sau là pháp hành thuộc Tha phần. Luôn luôn không hết, cho nên thứ hai phân rõ mười câu về Quán sát rộng khắp. Quán sát đã chu tất thì không có hành nào không kiến lập, uy lực vốn có mạnh mẽ, cho nên thứ ba phân rõ mười câu về Phấn tấn. Mạnh mẽ không sợ hãi, có thể quyết định thuyết giảng, cho nên thứ tư phân rõ mười câu về Sư tử hống.

Đã có thể tuyên thuyết, nếu tự mình không có đức thì không biết từ đâu làm lợi ích cho chúng sinh, cho nên tiếp đến phân rõ mười câu về Thí… trở xuống là Thể của của hành Tự lợi về Lục độ, theo thứ tự như Nhiếp Luận: 1) Thí; 2) Giới; 3) Nhẫn; ) Tinh tiến có ba, bốn câu đầu là thường xuyên mạnh mẽ, câu thứ năm là gia hạnh, năm câu sau là không thua khó hoại không đủ để tinh tiến; 5) Định; ) Tuệ.

Tiếp từ “Thập Từ…” trở xuống là bốn mươi câu về Thể của hành Lợi tha. Thứ nhất là mười câu về Từ, ý trước tiên vốn là mang lại niềm vui: Hai câu đầu là bình đẳng thâu nhiếp tất cả, ba câu tiếp là khiến cho lìa chướng, năm câu sau là làm cho hạnh thành tựu. Tiếp đến thứ hai là mười câu về Bi, thứ ba là mười câu về Hỷ, thứ tư là mười câu về Xả.

Phần hai từ “Thập nghĩa…” trở xuống là tám mươi câu phân rõ về phương tiện thắng tiến, có hai: Bốn mươi câu đầu là thành tựu hành của Tự phần, bốn mươi câu sau là thành tựu tu tập thắng tiến.

Thứ nhất là mười câu dùng Nghĩa để thành tựu hạnh, bảy câu trước là Tự phần, ba câu sau là thắng tiến. Nghĩa về Như Lai là thuận với Như mà đến. Thứ hai là mười câu về Pháp dùng pháp để thành tựu hạnh. Thứ ba là mười câu về Công đức đầy đủ, phân rõ về nhân duyên của hành, sau trình bày về nhân duyên thành tựu trí tuệ. Thứ tư là mười câu phân rõ về trí tuệ đầy đủ. Bốn mươi câu sau, thứ nhất là mười câu về tâm sáng suốt đầy đủ hiểu biết trải qua các pháp môn. Đã có phương tiện tiến lên, nhất định không có gì chán ngán đối với pháp của Tam thừa…, cho nên thứ hai phân rõ mười câu về Hạnh cầu pháp. Đạt được pháp do mình khéo léo hiểu biết rõ ràng thông suốt, cho nên thứ ba phân rõ mười câu về Minh liễu. Pháp thiện thực hành thành tựu hướng về Vô thượng Đạo, cho nên thứ tư phân rõ mười câu về Pháp hồi hướng.

Phần ba là phân rõ về nhân hạnh không còn chướng, văn có hai: Một là năm mươi câu phân rõ về thành tựu hạnh thấy Phật tiến vào cảnh Phật; hai từ “Thập mạn…” trở xuống là năm mươi câu tiến vào cảnh giới Phật được Phật gia hộ.

Trong năm mươi câu phần một, có ba: Hai mươi câu đầu là trình bày về chướng Đạo hiện rõ trước mắt, mười câu tiếp là đối trị loại trừ chướng, hai mươi câu sau là chướng hết được thấy Phật.

Thứ nhất là mười câu về Ma, bởi vì đối với Đạo có chướng ngại. Thứ hai là mười câu về Nghiệp ma. Trước là Thể, nay ở đây là lực dụng có mười một câu: Bảy câu trước là Tự hành không thành tựu, ba câu tiếp là Lợi tha không tồn tại, một câu sau là quả đức không đầy đủ. Nhưng chướng Đạo xen nhau nổi lên, không trừ bỏ mà tự diệt, cho nên thứ ba phân rõ mười câu về Xả ly ma nghiệp: Bảy câu trước là thành tựu hành của Tự phần, ba câu sau là thiết lập hành thuộc thắng tiến. Thể ngăn ngại đã không còn, hành tiến vào cảnh Phật, cho nên thứ tư phân rõ mười câu về được thấy Phật. Bắt đầu Tín trước đây chỉ là hiểu biết, nay hành thành tựu cho nên nhìn thấy. Đã đạt được Thể tương ưng mà Đại Dụng không biết phương pháp, cho nên thứ năm phân rõ mười câu về nghiệp của Phật.

Trong năm mươi câu sau là được Phật gia hộ, có ba: Hai mươi câu đầu là thành tựu hành phương tiện đối trị thù thắng về chướng, mười câu tiếp là chướng sau lại khởi lên thâu nhiếp hành vào chướng, hai mươi câu sau là quả đức tăng thêm tiến vào cảnh giới Phật.

Thứ nhất là nghiệp Mạn, không nhận ra phần thù thắng về tướng bình thường của Đạo, vốn là ở lúc đầu. Nhận biết chướng không dấy khởi, kính lý trọng pháp, cho nên thứ hai phân rõ mười câu về nghiệp Trí. Nếu không nhận biết về tướng của Đạo thì thuận theo hữu vi, không tránh khỏi ràng buộc, cho nên thứ ba phân rõ về thâu nhiếp giữ gìn do ma. Bởi vì đích thực thông hiểu về tướng của Đạo tức là Chánh giác mở rộng rõ ràng, cho nên thứ tư phân rõ mười câu về Phật thâu nhiếp giữ gìn. Bởi vì phù hợp đúng như thật tức là pháp che phủ đối với mình, cho nên thứ năm phân rõ mười câu về pháp thâu nhiếp giữ gìn.

Tiếp đến trong phần hai từ “Phật trú Đâu-suất Thiên…” trở xuống một trăm chín mươi câu phân rõ về quả đức đầy đủ, có bốn: Một là bốn mươi câu phân rõ về nhân hạnh thắng tiến tương ưng với pháp môn Bátnhã, hai từ “Thập sinh…” trở xuống là năm mươi câu trình bày về kiến lập tự tại về hạnh thù thắng để tự trang nghiêm, ba từ “Thập xuất gia…” trở xuống là sáu mươi câu thành tựu hạnh đối trị thù thắng thanh tịnh không còn chướng, bốn từ “Thập giác Như Lai lực…” trở xuống là bốn mươi câu trình bày về quả đức đầy đủ Phật sự đến cuối cùng.

Thứ nhất là mười câu về sự nghiệp trú ở Đâu-suất, Tự-tha cùng lợi ích, về sau thực hành đầy đủ mà thôi. Tự-tha thực hành đầy đủ rồi, mong muốn tùy duyên nhiếp hóa, nếu không rời bỏ không có sinh tử, thì Đại quả không biết từ đâu mà đạt được, cho nên thứ hai phân rõ lúc sắp mạng chung thị hiện mười sự. Thị hiện rồi tiếp theo mười sự về sau giáng thần vào thai mẹ, trong đó năm câu đầu là Lợi tha, năm câu sau là thâu nhiếp nhân quả tương ưng. Sự việc đã thị hiện khó lường, chỉ thú vô cùng sâu xa, cho nên thứ tư phân rõ mười câu về chỗ vi tế. Vô sinh làm sinh, cho nên thứ năm phân rõ mười câu về Sinh.

Từ đây trở xuống là năm mươi câu phần hai, từ mẹ sinh ra xuất hiện giữa thế gian, trong đó thứ nhất là mười câu về Chủng Sinh, sáu câu trước là Tự phần, bốn câu sau là thắng tiến. Đức tướng làm sáng tỏ bên ngoài, cho nên thứ hai phân rõ mười câu về Trang nghiêm. Các đức tụ hội đầy đủ, Đạo biểu hiện vượt lên trên thế gian, hành ấy rộng khắp không có công đức nào không kiến lập, cho nên thứ ba phân rõ mười câu về đi vòng quanh bảy bước. Đạo ấy bắt đầu thiết lập thanh tịnh không nhiễm, cho nên thứ tư phân rõ mười câu về thị hiện Đồng tử. Nếu thân không còn nhiễm thì làm sao có thể hiển bày về sự thanh tịnh cao vời ấy, cho nên thứ năm phân rõ mười câu về thị hiện trong cung. Ở giữa thế gian không đắm trước, duyên vốn không phải là chướng ngại, cho nên thứ sáu phân rõ mười câu về Xuất gia.

Từ đây trở xuống là sáu mươi câu phần ba, trình bày về hành tướng đối trị. Dùng tánh lìa tướng trái với duyên không ngăn ngại, luyện tập thân tâm hăng hái không lười bỏ, cho nên thứ hai phân rõ mười câu về Khổ hạnh. Rời bỏ hai bên tùy thuận Trung đạo, cho nên thứ ba phân rõ mười câu về đi đến Đạo tràng. Tùy thuận Trung đạo thâu nhiếp quả tương ưng, cho nên thứ tư phân rõ mười câu về an tọa Đạo tràng. Thâu nhiếp quả thuộc về mình vượt lên trên cao chỉ có tuyệt vời, cho nên thứ năm phân rõ mười câu về lạ lùng. Thiện giác Tam-muội… là trong Như Lai lực ở phần sau, dẫn đem vào đây là muốn vượt lên trên các Hoặc để hiển bày về lực trọn vẹn sáng ngời của trí dụng, cho nên thứ sáu phân rõ mười câu về Hàng phục ma quân.

Hữu vi sinh diệt không đoạn mà tự ngừng, tác dụng chân thật của Đại trí không làm trái mà tự rõ ràng, cho nên đoạn thứ tư phân rõ từ “Thập Như Lai lực…” trở xuống là bốn mươi câu trình bày về điều đó. Đây tức là lập tức đạt được mười Lực trong đạo Giải thoát. Thiện giác Tam-muội này tức là câu chín trong mười câu về lạ lùng. Tướng chân thật bên trong hiển bày sau lúc làm sáng tỏ quy phạm đúng đắn, cho nên thứ hai trình bày mười câu về Chuyển pháp luân. Dùng giáo pháp phủ khắp căn cơ, không có duyên nào không lợi ích, cho nên thứ ba phân rõ mười câu về pháp thiện đi vào tâm chúng sinh. Cùng nhau giáo hóa đã xong, tránh bóng trở về chân thật, cho nên thứ tư phân rõ mười câu về Niết-bàn, tức là thứ nhất của mười văn mà thôi. Cũng có thể Niết-bàn là Thường, dựa vào duyên ẩn hiện, cho nên trình bày sau, tức là mười câu sau mà thôi.

Từ “Phật tử thị vi Đại diệu pháp môn…” trở xuống là phần thứ sáu kết thúc chứng minh nói về thành tựu, có hai: Một là tổng quát, hai là riêng biệt.

Trong riêng biệt, có ba: Một, kết thúc khuyến khích tu hành. Hai, từ “Phật tử thử kinh xuất sinh…” trở xuống là phân rõ tên gọi của kinh, ca ngợi đức dụng của kinh, có ba có thể biết. Tên gọi của kinh có bốn nghĩa: 1) Hành; 2) Giải; 3) Lìa xa; ) Lợi tha. Như văn nên biết mà thôi. Ba, từ “Thuyết thử xuất sinh…” trở xuống là trình bày về mưa hoa… chứng minh thành tựu.

Văn phần một, có ba: Một là kết luận về pháp ca ngợi về đức; hai từ “Phật tử nhược chúng sinh…” trở xuống là phân rõ về lợi ích tu hành, có ba có thể biết; ba từ “Phật tử thị cố…” trở xuống là trình bày về khuyến khích tu tập.

Phần ba từ “Thuyết thử xuất nhất thiết…” trở xuống là chứng minh thành tựu, có ba: Một là nhắc lại tên kinh; hai là mặt đất chấn động; ba là chư Phật mười phương cùng khen ngợi, có ba có thể biết. Phật cùng chung tên gọi hướng về chỉ ra Phổ Hiền là trình bày về Đại hạnh không hư dối.

Trong phần thứ bảy là trùng tụng, có hai: Một là trường hàng sinh khởi phần sau, hai là kệ tụng. Văn tụng có hai trăm ba mươi mốt kệ, có hai: Một, hai kệ đầu là tổng quát đưa ra khuyên nhủ lắng nghe. Hai, phần còn lại là mở rộng phân rõ.

Văn mở rộng, có ba: 1) Một trăm bốn mươi chín kệ rưỡi tổng quát tụng về ý hai ngàn câu trả lời của Phổ Hiền; 2) Từ “Thường y Như Lai trí…” trở xuống là bốn mươi ba kệ chính thức tụng về hai ngàn câu trả lời; 3) Từ “Bồ-tát tu chư hạnh…” trở xuống là ba mươi tám kệ rưỡi tụng về văn kết luận ca ngợi.

Văn phần một có ba: Một, có mười bốn kệ ca ngợi về đức sâu rộng không phải là lời nói có thể hết được; hai, từ “Trì chúng sinh…” trở xuống là sáu mươi bảy kệ về đức sâu xa của Bồ-tát, mở rộng đưa ra sự việc để so sánh; ba, từ “Nhất thân vô biên tế…” trở xuống là sáu mươi sáu kệ rưỡi chính thức ca ngợi về hành tướng nhân quả và đức dụng tự tại.

Trong phần hai là sự việc so sánh, có ba: Một là năm mươi sáu kệ rưỡi đưa ra hơn ba mươi sự việc để ví dụ về nhân hành sai biệt; hai từ “Bồ-tát đẳng Như Lai…” trở xuống là sáu kệ so sánh kết thúc, tổng quát trình bày về hành tướng; ba từ “Bồ-tát tất thành tựu…” trở xuống là bốn kệ rưỡi kết luận về đức khuyến khích lắng nghe.

Từ “Nhất thân vô biên tế…” trở xuống là phần ba, sáu mươi kệ rưỡi phân làm hai: Một là ba mươi sáu kệ rưỡi ca ngợi về nhân hạnh thâu nhiếp lợi ích; hai từ “Bồ-tát nhất niệm trung…” trở xuống là ba mươi kệ ca ngợi về quả đức thâu nhiếp lợi ích tự tại.

Phần một ca ngợi về nhân hạnh, có hai: Một, mười một kệ rưỡi ca ngợi nhân hạnh của Tự phần tiến vào cảnh giới Phật; hai, từ “Thị hiện chủng chủng…” trở xuống là hai mươi lăm kệ phân rõ về tác dụng lợi ích của nhân hạnh.

Ngay trong hai mươi lăm kệ, mười tám kệ đầu trình bày về Tha hạnh tự tại, từ “Như thị chúng sinh…”trở xuống là bảy kệ trình bày về thuận theo cơ trao cho pháp.

Từ “Bồ-tát nhất niệm…” trở xuống là ba mươi kệ về quả đức thâu nhiếp lợi ích, văn có ba: Một, mười bốn kệ về quả đức của Tự-tha nhiếp hóa; hai, từ “Quán sắc như tụ mạt…” trở xuống là mười một kệ phân rõ về đạo Bồ-tát khéo léo thông hiểu chân tánh; ba, từ “Quảng nhập…” trở xuống là năm kệ kết luận thành tựu lợi ích của công hạnh. Ý chỉ ấy sâu xa làm sao có thể nói ra hết được, đành cố nói đến một mảy trần để so sánh về nơi sâu xa mà thôi.

Tiếp theo nửa kệ từ “Thường y Như Lai…” trở xuống là phần hai có bốn mươi ba kệ, tụng về hai ngàn câu trả lời trên đây, có sáu: Một, bốn kệ tụng về phần vị Thập Tín trên đây; hai, bốn kệ tiếp tụng về phần vị Thập Trú trên đây; ba, sáu kệ tiếp tụng về phần vị Thập Hạnh trên đây; bốn, sáu kệ tiếp tụng về phần vị Thập Hồi Hướng trên đây; năm, từ “Thanh tịnh thân nghiệp…” trở xuống là mười kệ tụng về nhân vị Thập Địa trên đây; sáu, từ “Quán sát…” trở xuống là mười ba kệ tụng về nhân tròn quả đầy Phật sự đến cuối cùng trên đây.

Tiếp từ ““Bồ-tát tu chư hạnh…” trở xuống là phần ba có ba mươi tám kệ rưỡi, tụng về văn kết luận trên đây, có hai: Một, ba mươi hai kệ rưỡi kết luận về đức tự tại của nhân quả; hai, sáu kệ còn lại là đưa ra để khuyến khích tu tập.

Trong văn phần một: Một là sáu kệ rưỡi tóm lược kết luận ca ngợi về hành dụng tự tại, hai là hai mươi sáu kệ còn lại mở rộng phân rõ về hành dụng tự tại.

Trong hai mươi sáu kệ: Một là mười sáu kệ ca ngợi về nhân hạnh tự tại, hai từ “Tịnh thân đẳng hư không…” trở xuống là mười kệ ca ngợi về quả hành tự tại.

Trong nhân hạnh: Một là hai kệ ca ngợi về ý nghiệp, hai là bốn kệ rưỡi ca ngợi về khẩu nghiệp, ba là mười kệ ca ngợi về thân nghiệp.

Trong quả hành: Một là hai kệ chính thức ca ngợi thành tựu ba nghiệp của quả đức, hai là tám kệ dụ về quả tự tại.

Trong phần hai là khuyến khích tu tập: Một là hai kệ tổng quát đưa ra hành đức của nhân quả, hai là hai kệ về ví dụ so sánh khó hết, ba là hai kệ khuyến khích Đại chúng cùng Hội tu tập.

 

Pages: 1 2 3 4 5