ĐẠI PHƯƠNG QUÃNG PHẬT HOA NGHIÊM KINH
SƯ HUYỀN PHÂN TỀ THÔNG TRÍ PHƯƠNG QUỸ

QUYỂN 03

Đời nhà Đường, Sa môn Trí Nghiễm thuật.

 

Phần 1

Phẩm 22: THẬP ĐỊA

(Hội thứ sáu ở cõi trời Tha Hóa)

Bắt đầu Hội này có bốn môn phân biệt giống như trước:

Một, phân rõ tên gọi: Tha Hóa Tự Tại Thiên Hội là từ nơi chốn mà được tên gọi. Thập Địa Phẩm là dùng nghĩa về số để làm sáng tỏ tên gọi.

Hai, ý đưa ra có hai: Một, ý đưa ra Hội, bởi vì trước là A-hàm, sau là Nhập chứng cho nên đưa ra; hai, ý đưa ra Phẩm, bởi vì thực hành phương tiện hồi hướng trước đây hướng đến Bồ-đề, nay hành tướng thêm sáng tỏ chuyển sang tiến vào Thập Địa, vốn là nghĩa theo thứ tự cho nên đưa ra.

Ba, Tông có hai: Một là Hội, hai là Phẩm. Hội thì có bốn:

1. Trình bày về pháp thụ động đối trị (sở trị), đó chính là chủng tử của tâm trong ba chướng thuộc sử phiền não-nghiệp báo và tánh.

2. Pháp chủ động đối trị (năng trị), đó chính là trí vô phân biệt và trí tánh khởi của Phổ Hiền.

3. Đức đã thành tựu thì có hai, đó là người và pháp; người có hai loại, gọi là Chánh hóa và Trợ hóa, đều có Thể-Tướng-Dụng, cùng gồm chung tánh khởi…; pháp thì gọi là Lý-Giáo-Hạnh-Quả, cùng gồm chung tánh khởi và tu sinh…, dựa theo để suy nghĩ thâu nhiếp có thể biết.

4. Trình bày về phần vị đã thành tựu, đó là phần vị Thập Địa và pháp môn vô lậu thuộc tánh khởi của Phổ Hiền… Nếu luận về bốn nghĩa thuộc Tông của Phẩm, thì dựa theo trên chỉ chọn lấy tu sinh là khác biệt mà thôi. Vả lại, Phẩm này lấy không nói để làm nghĩa của nói tức là 192 chứng phần vị đức của Phổ Hiền, bởi vì nói là Tông của ba Thừa.

Bốn, giải thích văn. Hỏi: Hội này và các Hội hai-ba-bốn-năm trước đây khác nhau thế nào? Đáp: Tạm thời có bốn khác nhau, một là khác về lậu-vô lậu, hai là khác về bổn-mạt, ba là khác về cọng-bất cọng, Thập Địa thì người-trời-Thanh văn… cùng chọn lấy, vì thế trong Địa Luận nói : “Cũng có thể phát sinh công hạnh thành tựu ở trờingười, còn lại thì không như vậy.” Có thể dựa theo đó, bốn là khác về phần vị, tất cả là như vậy.

Hỏi: Vì sao chỉ riêng Hội này không hiển bày về xứ khác và ThểDụng hòa hợp, phóng ánh sáng, chúng qua lại quy tụ, vật dụng trang nghiêm ở đó?

Đáp: Bởi vì muốn hiển bày Hội này là chứng được pháp không hai, Thể-Dụng xa gần đều không có gì khác biệt, cho nên không cần biểu hiện về xứ khác…. Vả lại, Hội này đều là chứng pháp, không thể nào dùng sự việc để nêu bày ý nghĩa sâu xa nào khác, chỉ có thể hiển bày về tướng tổng quát mà thôi, dựa theo trên để suy nghĩ.

Hội này có mười một phẩm, toàn bộ có hai: Phần một có chín phẩm phân rõ về duyên thành tựu Đức-Dụng, phần hai có hai phẩm trình bày về Thể-Dụng của tánh khởi, để làm pháp tu học của các Hội.

Trong chín phẩm đầu, toàn bộ có hai: Phần đầu có sáu phẩm phân rõ nhân hạnh đầy đủ, phần tiếp từ phẩm Bất Tư Nghị về sau có ba phẩm phân rõ nhân thành tựu mà được quả.

Hỏi: Vì sao quả không nói ở xứ khác?

Đáp: Kinh này từ trên xuống dưới hiển bày về pháp đến lý cuối cùng, suy ra Phật địa cao nhất không thể nào nói là chính. Trong này nói là làm sáng tỏ về chứng được như nhau, tóm lược để nêu ra quả hiển bày về nhân cho nên nói.

Ngay trong sáu phẩm đầu có hai: Một phẩm đầu phân rõ về Thể của hành vị, năm phẩm tiếp theo phân rõ về Đức dụng. Ngay phần Thể có ba, hoặc là phân làm sáu, hoặc là phân làm chín, hoặc phân định làm mười, hoặc lại tách ra làm bốn mươi tám. Vả lại, trong này đã phân rõ bao gồm văn giải thích chất vấn trong Luận. Vì sao như vậy? Bởi vì phần giải thích này cùng với Luận hợp lại thành một bộ sớ giải.

Thể có ba, đó là Tựa-Chánh tông và Lưu thông. Ngay trong ba phần này, pháp yếu đã phân rõ chỉ là chứng giáo, chứng giáo đã khác thì ba phần cũng khác. Ngay phần Giáo có ba: Từ đầu đến phần phát khởi là Tựa về nguyên do, bởi vì từ đây phát khởi phần Chánh thuyết. Từ văn chính trở đi là phần Chánh tông, trong đó tuy lại có mở rộng-có tóm lược, nhưng cùng nói về pháp của Địa cho nên phân định làm phần Chánh tông. Từ lợi ích của Địa trở xuống là khuyến khích tin tưởng lưu truyền giữ gìn, làm lợi ích đến đời sau phân định làm phần Lưu thông. Cũng có thể phân bốn, sau có thêm phần kệ trùng tụng. Ngay phần Chứng có ba: Một phần Tựa đầu phân định làm Tựa về nguyên do, tiến vào Tam-muội là Chánh tông về Chứng, bởi vì tiến vào Tam-muội chính thức hiển bày về Thật chứng. Địa Luận nói Tam-muội này là Thể của pháp. Nghĩa của phần Lưu thông giải thích có hai loại:

a) Dùng đức của mình lưu truyền khắp nơi nói về Tín Địa là Lưu thông, nếu theo nghĩa này thì từ phần gia hộ trở đi đều là Lưu thông, bởi vì nói về sự đạt được của mình khiến cho Bồ-tát ở phần vị Tín chứng thực tiến vào Địa.

b) Lưu truyền đến đời sau gọi là Lưu thông, nếu theo nghĩa này thì phần lợi ích của Địa gọi là phần Lưu thông.

Nói đến phân làm sáu, là thuận theo công hạnh để phân: Từ đầu đến phần phát khởi là nguyên do phát khởi hóa độ, làm phát sinh niềm tin của chúng sinh. Thứ hai là phần căn bản nói tóm lược về pháp của Địa, ca ngợi sự thù thắng làm phát khởi niềm vui mong muốn của chúng sinh. Thứ ba là phần thưa thỉnh làm sáng tỏ từ Địa phát ra lời nói khiến cho chúng sinh hiểu biết đúng đắn. Thứ tư là phần tuyên thuyết mở rộng trình bày về tướng của tu khiến cho chúng sinh phát khởi thực hành. Thứ năm là phần ảnh tượng dựa vào ví dụ để hiển bày về đức. Thứ sáu là phần lợi ích của Địa trình bày về đức đã thành tựu bởi vì hợp với pháp chứng được của Địa. Địa Luận nói do lực của pháp đạt được cho nên mặt đất rung chuyển…

Nói đến phân làm chín, là bắt đầu từ phần Tựa cho đến phần thưa thỉnh thì cho là sáu, phần tuyên thuyết trở đi phân định là thứ bảy, phần ảnh tượng của Địa nói là thứ tám, phần lợi ích của Địa là thứ chín. Cũng có thể phân làm mười, bởi vì thêm phần trùng tụng.

Ngay trong mười phần này đã phân rõ có ba:

  1. Dựa vào tướng hóa độ gồm chung làm phần phát khởi thuyết giảng.
  2. Dựa vào ý hóa độ gồm chung làm phần hiển bày về chứng.
  3. Tùy theo Tông yếu cùng phân rõ về chứng giáo.

Nói đến phát khởi thuyết giảng, lúc Như Lai sắp tuyên thuyết, trước hết là dựa vào thời gian-nơi chốn, hiện tướng quy tụ chúng, phát khởi về pháp tuyên thuyết, lấy đó làm Tựa. Bởi vì Tựa đã phát khởi, cho nên sẽ vì chúng tuyên thuyết. Lúc ấy Kim Cang Tạng im lặng tiến

vào Tam-muội, hiển bày về pháp tự mình chứng được, bởi vì có thể vì chúng tuyên thuyết, cho nên lại được gia hộ. Tiếp theo là thứ hai trình bày về phần Tam-muội, bởi vì tiến vào Tam-muội, cho nên chư Phật mười phương khen ngợi trao cho năng lực. Tiếp theo là thứ ba trình bày về phần gia hộ, bởi vì đã có được năng lực của Thánh, mong muốn vì chúng tuyên thuyết, nhưng trong Định không có lời nói cho nên từ trong vắng lặng đứng lên. Tiếp theo là thứ tư trình bày về phần phát khởi, từ trong Định đứng lên rồi, bởi vì tóm lược nói về tướng của Địa, cho nên sau khi đứng lên rồi giải thích rộng ra. Tiếp theo là thứ năm trình bày về phần căn bản, nhưng trong phần căn bản ấy nói tóm lược về tên gọi của Địa chứ không phân biệt rộng ra, bởi vì đại chúng khao khát chờ đợi được nghe tên gọi muốn biết ý nghĩa, cho nên cùng nhau cúi đầu thưa thỉnh. Tiếp theo là thứ sáu trình bày về phần thưa thỉnh, bởi vì chúng đã thưa thỉnh rồi, cho nên đích thực vì chúng trình bày rộng ra. Tiếp theo là thứ bảy trình bày về phần tuyên thuyết, bởi vì cho đến mười Địa, tất cả cũng là nói về pháp khó hiểu, cho nên dùng ví dụ để hiển bày. Tiếp theo là thứ tám trình bày về phần ảnh tượng của Địa, bởi vì giải thích đã xong, cho nên hiển bày về lợi ích thù thắng để khuyến khích tín tưởng lưu truyền rộng ra. Tiếp theo là thứ chín trình bày về phần lợi ích của Địa, bởi vì hiển bày về pháp của Địa rồi, cho nên dùng kệ để thuật lại. Tiếp theo là thứ mười nói kệ ca ngợi kết luận về phần trước.

Nói đến hiển bày về Chứng là ý của giáo hóa, Tông là hiển bày về chứng. Trong đó phần đầu hiển bày Chứng là Tựa về nguyên do, chín phần sau là chính thức hiển bày.

Trong chín phần: Ba phần trước là dựa vào tướng để hiển bày về Chứng; tiếp theo có bốn phần là dựa vào giải thích để hiển bày về Chứng; tiếp theo có một phần là dựa vào sự nhiếp hóa để hiển bày về lợi ích của Chứng; tiếp theo có một phần thuật lại đức của Chứng.

Trong ba phần trước: Thứ nhất là phần Tam-muội dựa vào Nhập để hiển bày về Chứng. Thứ hai là phần gia hộ dựa vào gia hộ để hiển bày về tướng của đạt được Chứng, cho nên Địa Luận nói: “Vì sao gia hộ? Bởi vì đạt được pháp quang minh của Đại thừa.” Thứ ba là phần phát khởi dựa vào xuất Định để hiển bày về vắng lặng, bởi vì thuyết giảng thì nhất định phải đứng lên, tức là hiển bày đã tiến vào tịch diệt cho nên lìa xa ngôn ngữ, Địa Luận nói: “Định không có ngôn thuyết, vì vậy cho nên đứng lên.”

Trong bốn phần tiếp theo: Thứ nhất là phần căn bản nói tóm lược để hiển bày về Chứng. Thứ hai là phần thưa thỉnh lướt qua tướng để hiển bày về vắng lặng. Phần tuyên thuyết và phần ảnh tượng dựa vào tướng để biểu thị về đức, trong phần tuyên thuyết dựa vào tu để biểu thị về đức, phần ảnh tượng của Địa mượn ví dụ để hiển bày về đức. Phần lợi ích của Địa dựa vào sự nhiếp hóa để hiển bày về lợi ích của Địa, cho nên văn sau nói do lực của pháp đạt được cho nên mặt đất rung chuyển, trời mưa hoa. Phần kệ tụng giống như trước. Những sai biệt này đều là hiển bày về Chứng.

Nói tùy theo Tông yếu cùng phân rõ về chứng giáo, Tông yếu của phẩm này không đưa ra chứng giáo. Trong chín phần: Một phần đầu là Tựa về nguyên do, tám phần sau là chính thức hiển bày về tướng của Chứng giáo.

Trong tám phần: Một phần đầu là phần tiến vào Tam-muội biểu hiện rõ ràng chính thức về Chứng, bảy phần sau theo thứ tự trình bày về phát khởi niềm tin đối với Giáo. Nói về nghĩa theo thứ tự như phần thứ nhất.

Nói đến phân làm mười, là tùy theo Địa không giống nhau mà phân làm mười. Từ đây trở lên ba Hội đều giống như vậy, dựa theo có thể dùng suy nghĩ để thâu nhiếp.

Nói đến bốn mươi tám phần: Địa thứ nhất có tám phần, Địa thứ hai có hai phần cho đến Địa thứ mười có tám phần sai biệt, một phẩm gồm có bốn mươi tám phần. Văn kinh này có nhiều thêm bớt so với bản kinh về Địa Luận, ngay trong văn không giống nhau dùng bốn pháp để lựa chọn, về sau đến văn là biết:

1. Trong các văn ít sót thì sẽ tăng, vạch thẳng đặt ở mặt ngoài bên trái, chấm giữa chân mấy câu thiếu để ghi nhớ.

2. Các văn trái mà ý thuận, thì chấm giữa chữ thứ nhất trong câu.

3. Trong các loại mười câu cùng với Luận trước sau, thì chấm ngang ở mặt ngoài bên trái câu đó để ghi nhớ.

4. Các câu tăng nhiều, thì mặt ngoài bên trái từ trên xuống dưới hạn chế lẫn nhau. Đây đều là dựa theo Luận dẫn đến xác định mà thôi. Nếu Luận không phân rõ thì các phần cũng không bàn đến. Vả lại, trong Luận tăng thì dựa vào đây mà biết. Nhưng văn trong bốn mươi tám đoạn này, chỉ một Địa thì trở thành bốn mươi tám, Địa khác cũng tương tự như vậy. Như vậy suy ra, cho nên biết là Luận chủ ấy tự mình phân chia các Địa trước sau che kín lấy bỏ không giống nhau, lấy nghĩa mà suy ra thì theo lý lẽ cùng có.

Ngay phần Tựa thứ nhất phân bốn: Một, trình bày về thời gian

tuyên thuyết; hai, phân rõ về Hóa chủ; ba, trình bày về nơi chốn nương tựa để thuyết pháp; bốn, phân rõ về chúng cùng nghe.

Ngay phần trú xứ có hai: Một là trình bày về nơi thông thường, hai từ “Ma-ni bảo điện…” trở xuống là trình bày về nơi riêng biệt.

Trong phần bốn trình bày về chúng cùng nghe có sáu: Một là lựa chọn xác định về con người, hai từ “Thử chư Bồ-tát…” trở xuống là ca ngợi đức của người ấy, ba từ “Kỳ danh viết…” trở xuống là nêu ra tên gọi của đức ấy, bốn từ “Vô lượng…” trở xuống là phân rõ về số của tên gọi ấy, năm là trình bày về nơi đến, sáu là nêu ra Thượng thủ. Kinh sót câu thứ năm.

Trong phần một có bốn:

  1. Chọn lấy Đại khác với Tiểu.
  2. Từ “Ư A-nậu…” trở xuống là chọn lấy Sau khác với Trước.
  3. Chọn lấy Trú khác với Thối.
  4. Từ “Tùng tha phương…” trở xuống là chọn lấy Mới khác với Cũ.

Trong phần một trước tiên là xác định con người đã nêu ra, tiếp theo là trình bày ý của các kinh phân rõ về con người. Con người giải thích rộng ra có hai: Một, bậc Thánh hóa độ đã che phủ chúng đương cơ, như Luận đã nói về người Tín Địa…; Hai, bậc Thánh hóa độ đã hướng về người ảnh hưởng, như các Bồ-tát… ở đây đã nêu ra. Ý phân rõ về con người, các kinh nêu ra con người gồm có bốn ý:

1. Làm sáng tỏ về lợi ích do hóa độ, như kinh Niết-bàn phân rõ nêu ra các hạng người học về Vô thường.

2. Bởi vì đối với con người cho nên hiển bày nói về quyết định, kinh nói tuy ở nơi trống rỗng mà có nhiều điều đã nói, không có thể gọi là Sư tử gầm thật sự, nay ở trong con người Đại trí như vậy có điều đã tuyên thuyết, mới có thể gọi là Sư tử gầm thật sự.

3. Bởi vì dựa vào con người làm sáng tỏ về pháp riêng biệt ấy, như nói Thập Tín mở rộng hướng về các vị Thượng thủ….

Nêu ra chúng cùng nghe để chứng minh về thành tựu đáng tin. Nay ở đây nêu ra nghĩa chúng gồm đủ ba loại sau.

Chọn lấy Trú khác với Thối, luận rộng về lui sụt(Thối) có ba: Một là đạt được rồi lui sụt, nghĩa là trước đã đạt được sau trở lại thối thất; Hai là chưa đạt được mà lui sụt, nghĩa là đối với thắng tiến lui sụt dừng lại chứ không tiến vào; Ba là luyện tập thực hành mà lui sụt, trước luyện tập thực hành nhiều cùng thành tựu do mình. Một loại sau luôn luôn hiện rõ, còn lại thì không hiện rõ, do nơi không hiện rõ mà gọi là lui sụt.

Nay dùng ba loại này dựa theo phần vị của Địa, không phải là không có nghĩa ấy. Giải và Hạnh trở về trước phần vị chưa kiên cố, tùy theo pháp đã đạt được có thể lui sụt mất đi, có đầy đủ ba loại lui sụt. Địa thứ nhất trở lên cho đến Địa thứ sáu theo thứ tự tu đạo không có thể nhanh chóng phát khởi, cho nên có luyện tập thực hành và chưa đạt được mà lui sụt. Địa thứ bảy trở lên phần vị chưa đến cùng, có chưa đạt được mà lui sụt. Tướng lui sụt như vậy, tùy theo nơi đã lìa xa tức là không lui sụt.

Nhưng ba loại lui sụt ấy mở rộng phân làm năm, ngay loại thứ nhất là đạt được rồi lui sụt thuận theo nghĩa phân làm ba: Một là diệt mà lui sụt, nghĩa là phàm phu vốn có căn thiện mà bị tà kiến kia làm cho đoạn diệt; Hai là sai lầm mà lui sụt, nghĩa là người ở nẽo thiện bởi vì niềm tin chưa thành thì có thể lui sụt, sai lầm khởi lên tâm Nhị thừa, như Xá-lợi-phất…, tuy không lui sụt diệt đi làm Nhất xiển đề, mà tâm Bồ-đề không còn có thể hiển hiện; Ba là phế bỏ mà lui sụt, nghĩa là từ chủng tánh trở lên có lúc tạm thời khởi lên dấu tích của nghiệp-phiền não, bỏ dở sự luyện tập ấy không làm cho hiện rõ trước mắt, gọi là phế bỏ mà lui sụt. Bởi vì ba loại này gồm chung hai loại lui sụt khác, hợp lại nói là năm. Năm loại này thì ngoại phàm có đủ, phần vị Tín ở nẽo thiện chỉ không có diệt mà lui sụt nhưng nhất định có bốn loại còn lại. Bởi vì không đoạn mất thiện làm Xiển đề, từ chủng tánh trở lên không có diệtkhông có sai lầm, nhưng nhất định có ba loại còn lại. Địa thứ nhất trở lên không có ba loại trước, nhưng nhất định có hai loại còn lại. Địa thứ bảy trở lên chỉ có chưa đạt được mà lui sụt, bốn loại còn lại đều không có. Trong Địa thứ mười, hạn định dựa vào nhân vị thì năm loại lui sụt đều không có, nếu hướng về quả Phật thì có trải qua chưa đạt được mà lui sụt. Tướng lui sụt như vậy, không lui sụt có thể biết. Vả lại, nếu dựa vào kinh này, thì phần vị Tín-Hạnh và Giải trở đi chỉ có chưa đạt được mà lui sụt, còn lại đều không có. Đây là dựa theo một tướng, nếu dựa theo tự Thể của Phổ Hiền thì hoàn toàn không có các lui sụt, dựa theo trên suy nghĩ mà thâu nhiếp.

Pháp của Địa sâu xa vi tế, không phải là trí thô thiển nhận biết. Vì sao như vậy? Bởi vì giáo pháp của Địa nhờ vào các Thừa kia và việc thiện của thế gian, để hiển bày phạm vi về nghĩa của pháp A-hàm, tuy nhờ cậy để hiển bày về lý Nhất thừa, nhưng Tông chỉ của Tiểu thừaTam thừa ấy tự tồn tại chứ không mất đi Tông chỉ của mình; như muối nấu thành canh, tánh muối tự tồn tại mà nghĩa của canh được thành tựu.

Nghĩa của văn sau nên dựa theo đây mà biết.

Bồ-đề có ba loại:

  1. Tiến vào tánh Địa gọi là đạt được Bồ-đề.
  2. Địa thứ nhất.
  3. Phật địa. Vì vậy trong kinh Niết-bàn nói: “Tu-đà-hoàn đến tám vạn kiếp, cho đến Bích-chi Phật đến mười ngàn kiếp, nghĩa là đến tánh Địa.”

Hỏi: A-nậu Bồ-đề thuộc về quả vì sao bao gồm nhân?

Đáp: Bởi vì điều này cũng không nhất định, trong kinh Đại Phẩm nói: “Năm Bồ-đề, đó là phát tâm-điều phục tâm làm cho phát sinh rõ ràng đến Vô thượng Bồ-đề.” Nhất thừa có mười Bồ-đề, như nói ở phẩm Ly Thế Gian sau này.

Sinh có năm loại:

  1. Pháp tánh sinh, là sáu Nhập thù thắng từ vô thỉ đến nay pháp vốn như vậy.
  2. Thật báo sinh, đó là từ trước đến nay do tu thiện mà có được.
  3. Sinh diệt biến dị Pháp thân, đó là duyên y theo vô lậu mà có được.
  4. Phần đoạn thân, đó là tất cả thân ấy luôn luôn do nghiệp của ba cõi mà có được.
  5. Ứng hóa thân, là tùy theo chúng sinh thị hiện mà có được. Những loại này đều dựa theo ba Thừa mà giải thích chứ không phải là Nhất thừa. Vì sao Hội này ban đầu phần nhiều dựa theo ba Thừa để trình bày? Bởi vì phẩm Thập Địa gồm chung Tín-Hướng của ba Thừa.

Ngay trong văn ca ngợi đức có hai: Một là riêng biệt, hai là tổng quát. Bởi vì công đức của Bồ-tát không có thể nhanh chóng làm sáng tỏ, cho nên trước phải ca ngợi riêng biệt, không phải là riêng biệt có thể nói hết cho nên cần phải tổng quát để kết luận.

Trong riêng biệt lại có hai: Một là ca ngợi tóm lược, hai từ “Thiện năng hóa…” trở xuống là tùy theo đức mà ca ngợi rộng ra. Bởi vì đức rộng lớn của Bồ-tát không thể nào lập tức làm sáng tỏ, cho nên trước phải ca ngợi tóm lược, không phải là tóm lược có thể đầy đủ vì vậy cần phải ca ngợi rộng ra. Trong tóm lược có hai: Một là ca ngợi về phần mình, hai từ “Chư Phật Như Lai…” trở xuống là ca ngợi về sự thắng tiến ấy.

Trong văn ca ngợi rộng ra có hai mươi câu, mười hai câu trước mở rộng trên phần mình, tiếp theo có tám câu mở rộng về sự thắng tiến trước đây.

Trong văn mở rộng về phần mình thâu nhiếp để làm hai: Sáu câu đầu trình bày về hạnh tu tập đầy đủ, tiếp theo có sáu câu trình bày về đức dụng đầy đủ trọn vẹn. Trong hạnh tu tập đầy đủ, ba câu đầu là Lợi tha, ba câu sau là Tự lợi. Văn trước về Lợi tha, câu đầu là tổng quát, hai câu sau là riêng biệt. Y theo kinh thì trong văn riêng biệt sót một câu. Trong văn sau về Tự lợi có ba: Một là Nguyện, hai là Tu, ba là trình bày về Hạnh thành tựu. Trong văn thứ hai về đức dụng đầy đủ trọn vẹn có sáu câu, ba câu trước là Lợi tha, ba câu sau là Tự lợi. Trong văn Lợi tha: Đầu là trình bày về thân nghiệp, tiếp là trình bày về ý nghiệp, sau là làm sáng tỏ về khẩu nghiệp. Trong văn thứ hai là Tự lợi có ba: Một là hạnh tu tập thù thắng, hai là các đức đầy đủ trọn vẹn, ba từ “Chư sở…” trở xuống là diệu dụng tự tại.

Thứ hai là văn mở rộng về sự thắng tiến trước đây riêng biệt có tám câu, bốn câu trước trình bày về ba nghiệp thù thắng ấy thâu nhiếp tu tập các hạnh, bốn câu sau trình bày về ba nghiệp rộng lớn ấy đầy đủ mọi công đức. Trong phần trước, ba câu đầu trình bày về ba nghiệp thù thắng, một câu sau trình bày về thâu nhiếp tu tập các hạnh ấy. Bốn câu sau cũng như vậy, ba câu đầu trình bày về ba nghiệp rộng lớn ấy, một câu sau làm sáng tỏ về đầy đủ mọi công đức. Trong ba nghiệp thù thắng đầu: Trước là trình bày về thân nghiệp, tiếp là khẩu nghiệp, sau là ý nghiệp. Ngay văn bốn câu sau, đầu có ba câu trình bày về ba nghiệp rộng lớn, thân hiện bày khắp nơi là thân nghiệp rộng lớn, âm thanh nghe khắp nơi là khẩu nghiệp rộng lớn, tâm thông đạt là ý nghiệp rộng lớn; một câu thứ tư là đầy đủ mọi công đức.

Cảm quả nơi này, cảm là căn, quả là mong muốn, nhưng quả của người ở Địa dưới quyết định có thể thành tựu mà thôi, còn lại như Luận phân rõ. Lại trình bày về Bất cọng, một là ngoại đạo bất cọng, hai là Nhị thừa bất cọng. Lại hai Pháp-Dụ trong Kim Cang, về Pháp thì trước là chủ động phá, sau là kiên cố; về Dụ thì cây trước là chọn lấy tâm kiên cố, mang thai con thì chọn lấy con là chủ động phá.

Trong phần Tam-muội nương theo uy lực tiến vào Định có ba: Một là suy ra giáo hóa thuộc về Như Lai cho nên hiện rõ nương theo uy lực; hai là tuy tự mình đạt được nhưng đối với Phật thì người thù thắng không thể nào tự tại, mà cần phải nương theo uy lực; ba là đối với Định này tuy chứng được từng phần, mà đầy đủ đến cùng là do Phật. Nay ở đây bởi vì mong muốn được sự giáo hóa thù thắng của Phật, vì thế cần phải nương theo uy lực. Văn phân định có thể biết.

Ngay trong phần gia hộ có ba: Một là tiến vào Tam-muội cho nên chư Phật cùng gia hộ, hai từ “Dục tuyên nhất thiết…” trở xuống là trình bày về gia hộ bằng việc làm, ba từ “Kim Cang Tạng nhữ đương thuyết…” trở xuống là thị hiện tướng gia hộ.

Văn phần một có ba: Một, chư Phật vì muốn gia hộ khen ngợi cho nên cùng nhau đều hiện thân; hai, từ “Đồng thanh tán…” trở xuống là chư Phật cùng khen ngợi, thuận theo tiến vào Định hiển bày về Chứng có thể tuyên thuyết trước đây; ba, từ “Như thị thập phương…” trở xuống là Phật làm sáng tỏ đã gia hộ, thuận theo tiến vào Định vì có được uy lực của Phật trước đây. Vả lại, giải thích về nguyên do được gia hộ, cùng biểu hiện rõ ràng nhiều Đức Phật, vốn là nhiều Đức Phật cùng chứng về pháp này, văn còn lại như Luận nên biết.

Văn phần hai là gia hộ bằng việc làm: Một là đối với pháp của Địa trình bày về gia hộ bằng việc làm, hai từ “Sở vị nhập trí tuệ…” trở xuống là đối với người đã hóa độ trình bày về gia hộ bằng việc làm. Lại nữa, thấy Trí đạt được Chứng, thì trước là hai Quán giải, sau là hai Hành giải, thấy trước Trí sau, đạt được trước Chứng sau. Lại nữa, Tín-Lạc đạt được Chứng thì cũng giống như trước, nhưng bởi vì chưa đạt được hướng về đạt được cho nên đặt tên gọi là Tín-Lạc. Trong phần đối với người trình bày về gia hộ bằng việc làm có hai mươi câu, mười Nhập trước là hành Tự lợi, mười Thỉ Chung sau là hành Lợi tha.

Hỏi: Vì sao Tự lợi gọi là Nhập, hành Lợi tha nói là Thỉ Chung?

Đáp: Nghĩa về Nhập và Thỉ Chung là một chứ không khác nhau, nói là Nhập thì nhất định từ đầu đến cuối, luận về Thỉ Chung thì cần phải có chỗ Nhập, là phân ra hai hành nhưng đều thuận theo một nghĩa.

Ngay trong hai mươi câu về Nhập và Thỉ Chung, đều có một câu đầu là tổng quát, những câu còn lại là riêng biệt, trong câu thứ bảy lại có căn thiện có thể làm nhân của xuất thế gian, là những căn thiện gia hạnh trong Địa. Nhưng trong Thỉ Chung thì kinh sót câu thứ hai. Vả lại, Luận nói A-hàm là có chín loại:

1. Hành và Giáo đối lập với nhau, âm thanh ngôn giáo gọi là Ahàm, tất cả công đức nói ra để làm Chứng, giống như là hai Tạng về nghĩa của chữ trong phần tuyên thuyết ở sau.

2. Phần vị và Địa đối lập với nhau, giải hạnh trở về trước dựa vào giáo tu hành gọi là A-hàm, Địa thứ nhất trở lên nói ra để làm Chứng, giống như là chúng ca ngợi trong phần thứ hai thưa thỉnh về giải thoát ở sau; Địa tiền đã phát khởi Văn-Tư-Tu… gọi là A-hàm tịnh, Địa thứ nhất trở lên thì tất cả hành đức gọi chung là Chứng tịnh.

3. Tu và Thành đối lập với nhau, Văn-Tư-Tu-Tuệ-Báo-SinhThức-Trí trong tất cả các Địa, những loại này duyên theo bốn tâm soi chiếu mà hiểu rõ gọi là A-hàm, trí chân thật phát ra lời nói để làm Chứng, vì vậy phần sau Luận nói: Văn-Tư-Tu… là bởi vì có thể nói, bởi vì có thể nói cho nên gọi là A-hàm, trí của Địa lìa xa văn tự cho nên gọi là Chứng.

4. Chân và Ngụy đối lập với nhau, thật giả kết hợp tu tập trong tất cả các Địa gọi là A-hàm, rời bỏ giả hợp với thật gọi đó là Chứng, giống như Nghĩa Đại và Thuyết Đại đã trình bày ở sau, Thuyết Đại là phương tiện tu A-hàm, Nghĩa Đại là hành thành tựu về Chứng.

5. Tướng và Thật đối lập với nhau, trong pháp tu thế gian đạt được tướng Chứng kia gọi là A-hàm, hợp với Thật tướng vốn có gọi đó là Chứng, giống như pháp môn quang minh-diệu pháp tăng thượng đã nói ở sau, tăng thượng là Chứng, quang minh là Giáo.

6. Thể và Đức đối lập với nhau, ngay trong hành đã thành tựu về tướng xa lìa kia, pháp tánh từ vô thỉ vốn ẩn kín mà nay hiện rõ gọi đó là Chứng, dựa vào vốn có mà thành tựu hành đức phương tiện, dựa vào giáo tu tập sinh khởi gọi là A-hàm, giống như ví dụ về luyện vàng trong văn sau, Thể của vàng dụ cho Chứng, đồ vật trang sức là vòng xuyến dụ cho A-hàm.

7. Thể và Dụng đối lập với nhau, Thể và Đức trước đây theo nhau là Chứng, dựa vào đây mà phát khởi, tùy thuận công dụng của giáo trí thế gian gọi là A-hàm, giống như là pháp đã ví dụ như ngọc châu-ánh sáng… trong văn sau, vòng ngọc… trong sáng dụ cho Thể của Chứng, ánh sáng ngọn lửa… dụ cho A-hàm.

8. Tự phần và Thắng tiến đối lập với nhau, tự phần đã thành tựu Thể-Đức và Dụng đều gọi là Chứng, có thể tiếp nhận giáo pháp của Phật gọi là A-hàm, giống như là ca ngợi hai Lực của Kim Cang Tạng trong văn sau, Diệu trí và Biện gọi là Lực của Chứng, niệm kiên cố-tuệ thanh tịnh đối với giáo pháp của Phật gọi là Lực của A-hàm.

9. Dựa theo giải thích và dựa vào thật tế đối lập với nhau, Thể của Chân trí nói ra để làm Chứng, ngay Thể của Chứng này dựa theo ngôn từ phân làm mười gọi là A-hàm, giống như là pháp đã ví dụ như dấu tích-hư không trong văn sau, hư không bình đẳng dụ cho Trí về Chứng của Địa. Vì vậy phần sau Luận nói: Trú xứ của bản thân văn tự (tự thân) do Trí về Chứng thâu nhiếp. Dấu tích giữa hư không dụ cho A-hàm của Địa, vì vậy phần sau Luận nói: Đều là Danh-Cú-Tự thân thuộc về Trí của Địa, Danh-Cú-Tự thân là pháp A-hàm. A-hàm và Chứng này nối thông từ trên xuống dưới, có thể dựa theo suy nghĩ để thâu nhiếp, tướng còn lại có thể biết.

Trong văn thứ ba về Tướng gia hộ, đó là khẩu-ý và thân. Khẩu thì khuyến khích nói ra để tăng thêm năng lực, ý thì ngầm che chở để thêm uy lực, thân thì xoa đầu để khiến cho cảm nhận được. Vì sao trước là khẩu-tiếp là ý-sau là thân? Nương theo chư Phật trước đây hiển bày về gia hộ bằng việc làm, bởi vì khuyến khích nói ra, cho nên trước phải trình bày về khẩu, thân tiếp xúc thì đứng dậy lẽ ra nên ở sau, ý không có nghĩa này cho nên dựa vào phần giữa mà nói.

Trong phần khẩu nghiệp gia hộ có hai, đầu là tổng quát, sau là riêng biệt. Lại trong phần thân thanh tịnh, kinh sót một câu về Phật tận.

Văn thứ hai về ý gia hộ có hai mươi câu, mười câu đầu là chính thức trình bày về ý gia hộ, mười câu sau là giải thích riêng về nguyên cớ gia hộ. Vì sao dựa vào ý để giải thích riêng về gia hộ, phần khác thì không như vậy? Bởi vì ý là căn bản của gia hộ cho nên dựa vào để giải thích. Vả lại, khẩu nghiệp gia hộ trước đây có biện tài của hai lực tựtha, ý gia hộ cũng như vậy. Mười câu trước chính thức trình bày về Tha lực gia hộ, mười câu sau giải thích hiển bày về Tự lực gia hộ, cho nên giải thích như vậy.

Ngay trong văn trước, đầu là thân Vô úy vừa tổng quát vừa riêng biệt, thâu nhiếp tất cả mười câu làm thân Vô úy, cho nên tất cả đều là tổng quát và riêng biệt. Ở trong phần riêng biệt, một câu đầu hiển bày về Sắc thân thù thắng, vì vậy gọi là riêng biệt, chín câu còn lại luôn luôn là riêng biệt.

Vả lại, trong này luận về pháp thành tựu, là dựa vào giải thoát nối tiếp nhau. Trong kinh có bốn loại thành tựu:

  1. Đã có thành tựu, các pháp nhân duyên-danh tướng-ngôn thuyết được thành tựu.
  2. Việc đã làm thành tựu, tất cả mọi việc đã làm đều có phân biệt về thành tựu.
  3. Pháp thành tựu, thành lập tánh tướng của tất cả các pháp.
  4. Giúp đỡ thành tựu, dùng trí giảng nói để giúp đỡ thành tựu các pháp. Nay nói về duyên, là duyên ấy đã có thành tựu, bởi vì có nhân duyên mà các pháp được thành tựu, cho nên gọi là duyên. Pháp tức là pháp trong duyên ấy. Thành tựu việc làm là do duyên ấy mà việc làm thành tựu. Thành tựu tức là trong duyên ấy giúp đỡ thành tựu.

Vả lại, ba loại trí cùng tướng là giải thích không như nhau về chủng loại, dựa vào luận Kim Cang Tiên nhận biết tất cả các pháp đều là Vô thường-Khổ và Vô ngã, dựa vào luận Biệt Phiên nhận biết tự tướngcùng tướng-không hai tướng của tất cả các pháp, gọi là Thế đế-Chân đế và một Thật đế, lại nhận biết về Không-Vô tướng và Nguyện.

Vả lại, sáu Chánh kiến là trí chủ động nhận biết (năng tri), dựa vào luận Kim Cang Tiên:

  1. Chánh kiến về một nghĩa chân thật, có thể nhận biết về pháp thuộc Lý.
  2. Chánh kiến về hành, có thể nhận biết về pháp thuộc Hành. Hai loại này thuộc về Giáo chỉ.
  3. Chánh kiến về giáo, có thể nhận biêt về pháp thuộc Giáo.
  4. Chánh kiến về lìa hai bên, nhận biết về pháp thuộc Lý trước đây không giống như sự chấp thủ của tình thức.
  5. Chánh kiến không nghĩ bàn, nhận biết về pháp thuộc Hành trước đây thành tựu đức vượt ngoài tình thức.
  6. Chánh kiến về tánh ham muốn của căn, nhận biết về pháp thuộc Giáo trước đây giảng giải tùy theo tâm của chúng sinh.

Thứ hai trong phần giải thích về gia hộ bằng việc làm, đầu là vặn hỏi tại vì sao, tiếp theo là trả lời. Văn trả lời có hai, một câu đầu là tổng quát, chín câu sau là riêng biệt. Vả lại, lúc Phật pháp sắp hoại diệt thì mượn pháp tôn trọng khác để tụng trì, lúc hoại diệt theo thì tôn trọng giáo nào?

Văn thứ ba là thân gia hộ có bốn câu:

  1. Không lìa căn bản.
  2. Dùng thần lực.
  3. Duỗi tay phải.
  4. Xoa đỉnh đầu.

Kinh thiếu hai câu đầu. Ngay trong văn giải thích về phần căn bản có hai, đầu là nói cho biết, tiếp là thuật lại. Văn thứ hai có ba: Một, trình bày về Nguyện lấy thiện làm Thể của Địa; hai, nêu ra mười tên gọi để hiển bày về Tướng của Địa; ba, nêu rõ chư Phật cùng khen ngợi để hiển bày về sự thù thắng của Địa. Trong ba phần này mỗi phần đều có hai.

Trong phần một về Thể của Địa, đầu là một câu tổng quát, hai từ “Vô hữu quá…” trở xuống là riêng biệt, còn lại như Luận phân rõ. Trong phần thứ hai về Tướng, văn riêng biệt có hai, đầu là hỏi, tiếp là trả lời. Văn trả lời có ba: Một là thiết lập có hai, hai là nêu ra có hai, ba là kết luận. Đoạn thứ ba, văn riêng biệt có hai: Một, Ta không thấy là nêu rõ chư Phật cùng khen ngợi để hiển bày về sự thù thắng của Địa; hai, từ “Hà dĩ cố…” trở xuống là làm sáng tỏ về sự thù thắng của Địa

giải thích hiển bày lý do chư Phật cùng khen ngợi. Văn này có hai, đầu là hỏi, tiếp là đáp. Văn đáp có bốn câu: Câu thứ nhất nêu rõ Chứng hành này để giải thích về chư Phật cùng khen ngợi; câu thứ hai không phải chỉ là đã chứng pháp xuất thế ấy, mà cũng là đã thực hành phương tiện của pháp thế gian; câu thứ ba đó là một câu hiển bày về pháp môn quang minh thứ hai trước đây; câu thứ tư từ “Chư Phật tử…” trở xuống là hiển bày về diệu pháp tăng thượng thứ nhất trước đây. Đây là dựa theo sự phân định của bản kinh trong Luận, văn còn lại có thể biết.

Vả lại, Luận nói về quyết định, dựa vào luận Địa Trì có ba loại:

  1. Chủng tánh quyết định bởi vì chắc chắn là Phật chủng.
  2. Giải hạnh quyết định là bởi vì nhất định phát tâm.
  3. Chứng quyết định là bởi vì chắc chắn đạt được pháp. Đây tức là thứ ba.

Vả lại, thiện quyết định: Một là phân rõ về thiện, quyết định theo đến; hai là quyết định phân rõ về nghĩa của quyết định, chữ thiện theo đến, dựa vào thiện để giải thích về nghĩa của quyết định; ba là trong thắng thiện quyết định, dựa vào Luận hợp lại có bốn nghĩa để giải thích, một nghĩa đầu là tổng quát, ba nghĩa sau là riêng biệt. Trong ba nghĩa riêng biệt, đó là Chứng-Trợ và Bất trú. Lại giải thích một là Lý, hai là Trí, ba là phần vị và giáo pháp, bốn là dựa theo Tướng tức là Vô lậu cũng tức là Trợ đạo, dựa theo suy nghĩ thâu nhiếp.

Dựa vào Luận về kinh Đại Phẩm có tên gọi của mười Địa thuộc ba Thừa: 1-Càn Tuệ địa; 2-Tánh địa; 3-Bát Nhân địa; -Kiến địa; 5Bạc địa; -Ly Dục địa; 7-Dĩ Tác địa; -Bích chi Phật địa; 9-Bồ tát địa; 10-Phật địa. Mười Địa này là công dụng của Nhất thừa, là nơi tiến vào của ba Thừa. Trong này, phần căn bản dựa vào nghĩa riêng về A-hàm mà nói.

Ngay trong văn của phần thưa thỉnh, toàn bộ phân định có hai: Một, Kim Cang Tạng nói rồi đứng im lặng, Bồ-tát và Phật thảy đều cùng nhau thưa thỉnh; hai, từ “Quán sát…” trở xuống là nêu rõ phạm vi tuyên thuyết khiến cho chúng nhận biết chính xác.

Trong phần một tùy theo người phân thưa thỉnh làm ba: Một là Giải Thoát Nguyệt thưa thỉnh, hai là đại chúng thưa thỉnh, ba là Phật gia hộ thưa thỉnh. Ngay trong ba phần này, trong phần một là Giải Thoát Nguyệt thưa thỉnh, văn tách biệt ba cặp, đều ban đầu là người nói im lặng làm trái không nói, sau là trình bày bắt đầu thưa thỉnh.

Trong cặp thứ nhất, đầu là Kim Cang Tạng nói rồi đứng im lặng, sau là Giải Thoát Nguyệt biết tâm nghi ngờ của chúng, vì thưa thỉnh mà hỏi: Nhân giả có thể nói, Đại chúng có thể nghe, vì sao không nói?

Trong cặp thứ hai, đầu là Kim Cang Tạng nương theo câu hỏi thưa thỉnh trước đây hiển bày về ý im lặng của mình để mà trả lời: Bởi vì pháp khó nói, Chứng-Tín khó đạt được, cho nên tôi không nói. Sau là Giải Thoát Nguyệt nương theo đây ca ngợi để chúng trở lại thưa thỉnh: Tôi nói là Nhân giả còn có ý gì, mới nói Chứng-Tín khó đạt được cho nên không nói, nay Bồ-tát này khéo léo thanh tịnh, chúng quy tụ có Chứng-có Tín, Nhân giả nên nói! Đây là cặp thứ hai. Hai cặp trên đây là ca ngợi người để thưa thỉnh.

Trong cặp thứ ba, đầu là Kim Cang Tạng nương theo lời thưa thỉnh trước đây, nêu ra điều tổn hại để làm trái: Tuy chúng này thanh tịnh nhưng còn người thích pháp Tiểu thừa, nghe rồi sinh khởi nghi hoặc, nhận chịu khổ não lâu dài, bởi vì có hai điều tổn hại này cho nên tôi không nói. Sau là Giải Thoát Nguyệt nương theo đây ca ngợi về pháp trở lại thưa thỉnh: Nhân giả chỉ nói, đừng lo buồn vì chúng nghi ngờ, chư Phật hộ niệm khiến cho người dễ hiểu, nói có nhiều lợi ích, đừng sợ khổ não! Nhưng nghĩa thưa thỉnh của Giải Thoát Nguyệt có khác, Kim Cang Tạng lúc ấy làm trái lời thưa thỉnh, lý cuối cùng ở tại lời từ chối này, chỉ vì pháp quan trọng cho nên im lặng chờ đợi thưa thỉnh lần khác.

Cặp thứ nhất trong kinh, đầu là Kim Cang Tạng nói rồi đứng im lặng, lúc ấy tất cả chúng… trở xuống là trình bày về tâm nghi ngờ của chúng, Giải Thoát Nguyệt vì chúng mà thưa thỉnh. Hai câu trong phần trước: Một, Kim Cang Tạng nói về tên gọi của Địa rồi, là nhắc lại phần trước phát khởi phần sau; hai, im lặng không nói chính là chờ đợi thưa thỉnh lần sau, cả chúng đối với điều này sinh khởi mong muốn, sinh khởi nghi ngờ.

Ngay trong lần thưa thỉnh sau, đầu là trình bày về đại chúng nghe tên gọi mong muốn biết nghĩa nhưng thấy im lặng mà sinh tâm nghi ngờ, từ “Lúc ấy Đại Bồ-tát…” trở xuống là trình bày về Giải Thoát Nguyệt biết chúng nghi ngờ, vì chúng mà thưa thỉnh.

Lại ngay trong phần một, đầu là đối với tên gọi nói ra nghe rồi mong muốn biết nghĩa, từ “Đều dấy lên nghĩ rằng…” trở xuống là đối với không phân biệt thấy im lặng sinh ra nghi ngờ. Vì sao người nghe đối với người nói ấy mà sinh ra ý niệm nghi ngờ? Vì sao người nói đối với chúng lắng nghe mà sinh ra ý niệm nghi ngờ?

Trong phần thứ hai là Giải Thoát Nguyệt biết chúng nghi ngờ mà thưa thỉnh, câu riêng biệt có ba:

  1. Nêu ra Bồ-tát Giải Thoát Nguyệt là người thưa thỉnh.
  2. Biết chúng nghi ngờ vì chúng mà bắt đầu thưa thỉnh.
  3. Nêu ra lời thưa thỉnh.

Trong lời thưa thỉnh và kệ, phần văn có năm: Hai môn phân biệt, đưa ra và thưa thỉnh phân biệt, đưa ra là đưa ra rồi im lặng lướt qua làm cho chúng nghi ngờ, thưa thỉnh là thưa thỉnh nói rõ để thỏa lòng mong muốn của chúng.

Trong kệ: Hai kệ đầu nêu ra hỏi về ý im lặng, kệ thứ ba thưa thỉnh tuyên thuyết, hai kệ sau tóm lược không có đưa ra và thưa thỉnh. Lý ra thì phải có đủ.

Hai là phân biệt về người nói-người nghe dựa vào sự ca ngợi: Kệ đầu ca ngợi về người nói ấy có thể nói, để loại bỏ tâm vì sao nghi ngờ của đại chúng; bốn kệ sau ca ngợi về chúng có thể nghe, để loại bỏ vì sao nghi ngờ tâm của đại chúng.

Ngay trong bốn kệ về người nghe: Hai kệ đầu ca ngợi về chúng đồng pháp, tiếp theo có một kệ ca ngợi về chúng dị pháp, một kệ sau cùng tổng quát ca ngợi về hai chúng. Nhưng chúng này cũng gọi là đồng sinh-dị sinh. Vả lại, Luận nói: Có lúc không phải là quyết định hiện tiền-không có hiện tiền…, là hai quyết định về Chứng và Giáo không phải là quyết định mong muốn hiện tại.

Lại nữa, chữ Tuệ ở hàng thứ nhất là Giác ngộ trong Luận; chữ Hà (tỳ vết) trong hàng thứ tư tức là không mong muốn trong Luận; chữ Uế tức là oai nghi hỗn loạn trong Luận; chữ Thật tức là trừ bỏ tưởng khác trong Luận; còn lại dựa theo có thể biết mà thôi.

Ngay trong phần thứ hai là thưa thỉnh có hai: Đầu là Kim Cang Tạng nương theo sự thưa thỉnh trước đây để hiển bày về ý im lặng của mình, sau là Giải Thoát Nguyệt nương theo lời trở lại thưa thỉnh.

Văn trước có hai: Một là trường hàng sinh khởi về ý nói ra ở phần sau; hai là kệ giải thích. Kệ có sáu kệ: Hai kệ đầu trình bày về pháp khó nói, tiếp theo có hai kệ làm sáng tỏ về pháp khó nghe, tiếp theo có một kệ dụ về khó nói-khó nghe, sau cùng là một kệ nêu ra khó để kết luận về im lặng. Vả lại, ý văn trong dụ, thì hư không dụ về chứng được Thể của Địa, gió vẽ ra dụ cho câu chữ lời lẽ giải thích, trú xứ do gió vẽ ra dụ cho mười Địa sai biệt đã nói.

Hỏi: Dụ ở phần này và phần sau có gì khác nhau?

Đáp: Phần sau lấy dấu tích của chim làm dụ, để so sánh về Chứng; trong này tuyên thuyết có tác dụng như nét bút lay động nhẹ nhàng theo gió, để làm dụ so sánh về Thuyết, cho nên có điều này điều kia mà thôi. Vả lại, nét vẽ ở phần này và dấu chân chim cùng với dụ trong chương Tất Đàm ở sau, cho đến phẩm Phổ Hiền sau này, tổng hợp làm một loại, là nói rõ ràng về Chứng của mười Địa, sau dấu tích của chim… đã không nói rõ ràng về Chứng của mười Địa là bởi vì mình đồng ý nói ra tên gọi của mười Địa. Điều này cũng nên hiểu chính xác. Nguyên cớ thế nào? Bởi vì tên gọi chung của mười Địa, cũng có thể là tên gọi thuộc về Thục giáo của ba Thừa.

Trong hai kệ trước về pháp có bốn lớp:

  1. Tổng quát nêu ra pháp khó.
  2. Bậc nhất hiển bày về tướng khó.
  3. Bồ tát hạnh vượt ngoài Thể khó của pháp.
  4. Vi tế khó thấy… trở xuống là làm sáng tỏ nguyên cớ về khó. Đây là dựa vào kinh của Luận, có thể dựa theo chọn lấy suy nghĩ thâu nhiếp.

Trong văn thứ hai là Giải Thoát Nguyệt nương theo thưa thỉnh có hai: Đầu là trường hàng, tiếp là kệ tụng. Trường hàng có ba:

  1. Giải Thoát Nguyệt nghe từ chối trở lại thưa thỉnh.
  2. Từ “Thị Đại Bồ-tát chúng trực tâm thanh tịnh…” trở xuống là mở rộng ca ngợi về chúng thanh tịnh.
  3. Từ “Thị cố…” trở xuống là kết thúc thưa thỉnh để nói. Trong văn mở rộng ca ngợi về chúng thanh tịnh, đầu là tổng quát, tiếp là riêng biệt. Trong A-hàm tịnh riêng biệt, câu thứ hai trong văn kinh ở Luận là câu thứ tư, câu thứ năm trong kinh ở Luận là câu thứ hai, cũng có thể dựa vào văn xác định nhưng cần phải tư duy. Trong văn phần hai là trùng tụng có hai: Một là trường hàng sinh khởi, hai là kệ tụng. Trong kệ, một tụng đầu về kết thúc thưa thỉnh trước đây, tiếp theo có một kệ tụng về văn thưa thỉnh trước đây.

Trong lần thưa thỉnh thứ ba, đầu là Kim Cang Tạng nêu ra điều tổn hại để làm trái, sau là Giải Thoát Nguyệt ca ngợi về lợi ích trở lại thưa thỉnh. Văn phần đầu phân hai, trước là trường hàng, sau là kệ tụng. Văn trước có hai: Một là tiếp nhận sự ca ngợi trước đây mà nêu ra được và mất, hai từ “Kỳ dư lạc tiểu…” trở xuống là chọn lấy không ca ngợi mà nêu ra điều tổn hại để làm trái. Văn này có ba:

  1. Tổn hại vì làm hỏng căn thiện;
  2. Từ “Thị nhân…” trở xuống là tổn hại vì mất đi niềm vui nhận chịu khổ não lâu dài;
  3. Từ “Ngã mẫn…” trở xuống là kết luận về nguyên cớ im lặng.

Hai là văn trùng tụng: Một là trình bày về ý nói ra; hai là chính thức nói tụng. Văn này có hai: Một kệ rưỡi đầu là kết thúc nhắc lại văn trước, tiếp theo một kệ rưỡi là kết thúc phần trước làm sáng tỏ về mất mát.

Thứ hai trong phần Giải Thoát Nguyệt thưa thỉnh: Đầu là trường hàng, sau là kệ tụng. Trường hàng có ba:

  1. Tự nói rõ tâm mình làm sáng tỏ mong muốn trở lại thưa thỉnh;
  2. Từ “Nguyện thừa Phật lực…” trở xuống là chính thức thưa thỉnh để nói ra;
  3. Từ “Thị cố…” trở xuống là kết thúc thưa thỉnh để nói ra. Dựa vào trong đoạn một có thể biết. Văn đoạn hai là chính thức thưa thỉnh có hai: Một, thiết lập tông chỉ thưa thỉnh nói về pháp không thể nghĩ bàn; hai, từ “Phật sở hộ niệm…” trở xuống là phân rõ về pháp của chư Phật thuận theo hộ niệm. Văn này có bốn: Một là hộ niệm nhưng có ba có thể biết; hai từ “Hà dĩ cố…” trở xuống là phân rõ về thù thắng quan trọng; ba từ “Thí như…” là ví dụ; bốn từ “Như thị Phật tử…” trở xuống là pháp hợp lại.

Hai là văn trùng tụng có năm: Một kệ rưỡi đầu là trình bày tụng về văn thưa thỉnh nói ra, tiếp theo một kệ tụng về hộ niệm thứ nhất trước đây, tiếp theo một kệ tụng về thù thắng quan trọng thứ hai, tiếp theo nửa kệ tụng về dụ, tiếp theo nửa kệ tụng về hợp dụ thứ tư.

Thứ hai là văn về Đại chúng thưa thỉnh. Trên đây Giải Thoát Nguyệt vì chúng mà thưa thỉnh trước, thưa thỉnh tuy nói là chúng có thể nhưng chưa biết hư thực thế nào? Đại chúng cần phải tự làm sáng tỏ năng lực của mình mà thành lời lẽ thưa thỉnh trước đây, lại bởi vì bắt đầu nói để hiển bày về pháp tôn trọng, cho nên sau đó cùng nhau thưa thỉnh. Văn thưa thỉnh có hai: Một là đồng thanh sinh khởi, hai là chính thức nói kệ thưa thỉnh. Văn kệ có năm kệ rưỡi, bốn kệ rưỡi đầu ca ngợi về người để thưa thỉnh, một kệ sau là ca ngợi về pháp. Ngay trong đoạn đầu, hai kệ trước ca ngợi về người nói, hai kệ rưỡi sau ca ngợi về chúng có thể nghe. Đầu có năm câu ca ngợi Kim Cang Tạng tự thành tựu về lực của Chứng và lực của A-hàm, ba câu sau ca ngợi Kim Cang Tạng có thể khiến cho người nghe tiến vào Chứng và A-hàm. Văn đầu có hai: Một là có bốn câu ca ngợi về thành tựu lực của Chứng; hai là có một câu ca ngợi thành tựu về A-hàm. Ngay trong phần ca ngợi về người nghe: Một kệ rưỡi đầu là Đại chúng tự ca ngợi có đủ Trí đức-Đoạn đức và trước đã có căn, tiếp theo có một kệ ca ngợi có thể suy nghĩ giữ gìn.

Thứ ba trong phần Đức Phật gia hộ thưa thỉnh. Trên đây tuy là chúng Bồ-tát thưa thỉnh, thẳng thắn cảm được mà bởi vì sâu xa, biểu hiện về pháp chưa đến mức cao nhất, cho nên tiếp theo Đức Phật thưa thỉnh. Vả lại, Bồ-tát thưa thỉnh biểu hiện về pháp chưa thù thắng cho nên chờ đợi Đức Phật gia hộ thưa thỉnh. Văn này có hai: Đầu là trình bày về thân gia hộ, sau là trình bày về miệng gia hộ.

Thân gia hộ, trong kinh có năm:

  1. Đức Thích-ca phóng ánh sáng soi chiếu khắp mười phương;
  2. Chư Phật mười phương phóng ánh sáng soi chiếu cõi này;
  3. Đại chúng ở cõi này theo ánh sáng thấy được các cõi kia;
  4. Đại chúng ở các cõi kia theo ánh sáng thấy được cõi này;
  5. Trên đài ánh sáng nói kệ. Trên đài ánh sáng nói kệ lẽ ra thuộc về miệng gia hộ, vì sao ở phần thân gia hộ này? Nhưng âm thanh đã phát ra là do miệng gia hộ thâu nhiếp, nay ở phần này chủ yếu chọn lấy nghiệp chủ động phát ra âm thanh mà phân định là thuộc về thân. Nếu dựa vào bản kinh thì không có, ở cõi này thấy được cõi kia và ở cõi kia thấy được cõi này, cả hai đều không có. Vả lại, kinh sót nghiệp hàng phục thứ năm. Nhưng ánh sáng này là hiển bày về phạm vi của Phật lực và gia hộ cho người nói, không phải là quy tụ chúng…, văn còn lại như Luận.

Đến phần thứ hai là miệng gia hộ, văn có hai: Một là trường hàng sinh khởi, hai là kệ tụng. Trong kệ có bảy kệ rưỡi, trong đó có hai:

a) Phân biệt về giáo và thưa thỉnh, sáu kệ trước là thưa thỉnh nói ra, một kệ rưỡi sau là giáo nói ra. Thưa thỉnh là làm sáng tỏ về pháp thù thắng khiến cho người tôn trọng cung kính, giáo là hiển bày về nói ra chân thật khiến cho chúng tin tưởng sâu sắc.

b) Phân biệt về gia hộ và thưa thỉnh, ngay phần kệ này trong sáu kệ trước có ba: Một có một kệ rưỡi là chính thức gia hộ, hai có một kệ là gia hộ bằng việc làm, ba có ba kệ rưỡi là làm sáng tỏ về đạt được lợi ích. Văn này có ba: Một kệ đầu là lợi ích về nghe, tiếp theo nửa kệ là lợi ích về lúc tu tập, tiếp theo hai kệ là lợi ích về chuyển sinh. Vả lại, trong văn về chuyển sinh này, kệ hạn hẹp khó hiểu. Ý nghĩa của văn, là lực thù thắng của kinh pháp ấy gia hộ cho người nghe, thậm chí nếu lúc kiếp lửa hủy hoại tất cả, thì nhờ được nghe kinh mà trong hai tai họa khác đều được nghe.

Hỏi: Người ấy làm sao nghe?

Đáp: Vị trời ấy trước đây được nghe từ Đức Phật, nay nói ra cho nghe. Đây là ở nơi cao nhất mà nói, không phải là giới hạn ở lúc này, trong loài rồng trước đây có kinh, cho nên đưa ra mà thôi. Vả lại, ba loại theo thứ tự tức là ba trí Gia hạnh-Chánh thể và Hậu đắc. Điều này nên suy nghĩ chính xác để thâu nhiếp, cũng có thể là không trú vào Giáo Chứng mà thôi.

Thứ hai từ “Nhĩ thời Kim Cang Tạng Bồ-tát…” trở xuống là nêu ra phạm vi tuyên thuyết khiến cho chúng nhận biết chính xác. Dựa vào trong kinh này, ban đầu kết tập kinh là trình bày về tướng của Kim Cang Tạng sắp nói và hiển bày về ý nói ra, sau là chính thức trình bày về lời lẽ của kệ đã nói ra. Dựa vào trong văn trước, ban đầu nêu rõ về tướng nói ra, quán sát bên ngoài để nói ra, trong tâm xem xét so sánh gọi là quán, cũng có thể mắt nhìn mà nói là quán, hiển bày đã không còn thiên lệch, cho nên nhìn mười phương; sau trình bày về ý nói ra có thể biết.

Kim Cang Tạng có hai ý cho nên nói kệ: 1-Tự hiển bày có trí có thể nói ra, lướt qua tâm vì sao nghi ngờ của đại chúng; 2-Làm sáng tỏ đã không sợ Đại chúng không có thể lắng nghe, lướt qua tâm vì sao nghi ngờ của đại chúng.

Hỏi: Chúng có lợi ích gì?

Đáp: Có hai nghĩa cho nên lợi ích:

a) Lợi ích về Nghĩa Đại, làm sáng tỏ thật sự phát ra lời nói chỉ có sâu xa là vui thích, cho nên được lợi ích.

b) Thuyết giáo Đại được nghe bây giờ, vì vậy vui mừng sinh khởi niềm tin đích thực sâu sắc.

Ngay trong văn kệ có mười ba kệ rưỡi: Trước là bảy kệ rưỡi trình bày về Nghĩa Đại, sau có sáu kệ trình bày về Thuyết Đại.

Ngay trong văn về Nghĩa Đại, văn phân làm hai: Đầu là ba kệ rưỡi hiển bày về pháp của Đức Phật, tiếp theo là bốn kệ nêu ra pháp của Đức Phật ấy giảng giải rõ ràng về Địa.

Nay là trình bày về Địa, đâu cần phải hiển bày về pháp vi diệu của Đức Phật ấy? Bởi vì phân rõ nghĩa sâu xa ẩn kín của Địa ở tại nhân, làm sáng tỏ nghĩa sâu xa hiển bày về pháp của Đức Phật ở tại quả, cho nên trình bày về giáo pháp của Đức Phật để làm rõ về sự sâu xa vi tế của Địa. Nhân và quả cao thấp khác nhau, làm thế nào hiển bày lẫn nhau? Nhưng ở đây tuy là tùy theo người cao thấp, mà Thể của pháp không khác biệt, điều ấy giống như hư không dựa theo giới hạn khác nhau, khác nhau tức là Không, pháp của Địa cũng giống như vậy.

Ngay trong văn đầu: Một kệ rưỡi trước là đích thực làm sáng tỏ về pháp vi tế, hai kệ sau là đưa ra Thể tướng vi tế, đó là hai Niết-bàn. Văn trước có hai: Một là tổng quát phân rõ về vi tế, hai từ “Duy trí…” trở xuống là giải thích về tướng. Văn phần một có bốn:

  1. Vi tế.
  2. Đạo khó biết.
  3. Không phải là suy nghĩ luận bàn, tên gọi không phải là phân biệt.
  4. Tên gọi Vô cấu trược. Kinh không có câu này, ba câu sau thì có.

Vả lại, từ Vô cấu trược trở xuống có bốn nghĩa, cũng có thể là khó đạt được thuộc về phía trên, Vô cấu thuộc về phía dưới, nhưng đều thuộc về hai hướng, nên suy nghĩ chuẩn xác:

  1. Quán giải thanh tịnh.
  2. Từ “Trí giả…” trở xuống là hành chứng phù hợp với chân thật.
  3. Từ “Tự tánh đẳng…” trở xuống là Thể tánh thanh tịnh.
  4. Từ “Bất diệt đẳng…” trở xuống là Đức dụng tự tại. Đây là dựa vào Luận phân rõ, kinh cũng giống như vậy.

Lại có trí tuệ thế gian tùy theo nghe mà nhận biết rõ ràng, văn sau nêu ra tùy trí thế gian để hiển bày trí chân thật không tùy theo nghe. Vả lại, Luận kết luận rằng:

  1. Quán giải rất vi tế là kết luận về thanh tịnh (bất trược).
  2. Y chỉ là kết luận về trí…, lý làm nơi nương tựa cho trí mà thôi.
  3. Thanh tịnh rất vi tế là kết luận về tự tánh diệt…, công đức… là kết luận về không sinh-không diệt… Vả lại, thứ nhất là pháp xuất thế cho nên không giống với Định thế gian, thứ hai là thật sự thành tựu cho nên không giống với ngoại đạo, thứ ba là vốn thanh tịnh cho nên không giống với Tôn giả mới thanh tịnh, thứ tư là vắng lặng luôn luôn sử dụng cho nên không giống với Thanh văn…, nghĩa còn lại có thể biết.

Ngay hai kệ sau là đưa ra Thể tướng vi tế, văn có hai: Đầu có hai câu là tướng giống nhau, sau có một kệ rưỡi là tướng không giống nhau. Tướng không giống nhau có hai: Một, thoát nơi nào, đó là lìa xa các nẽo; hai, có năm câu là làm sao thoát. Năm câu thì phân làm năm:

1. Quán giải tiến vào Như, đó là cùng giống như tướng Niết-bàn.

2. Đối trị lìa xa chướng.

3. Trình bày về Thể-Đức đầy đủ trọn vẹn.

4. Pháp thân ấy là Thường cho nên vượt ra.

5. Có một câu là giải thoát tự Thể vô ngại. Vả lại, Luận nói: Không phải là chỉ đầu-giữa-sau mà chọn lấy trước-giữa-sau, đây là dựa theo nghĩa của trí chứ không phải là dựa theo sự của trí. Nghĩa nói trí khởi lên thì phiền não (Hoặc) lần lượt diệt, hay là trí sinh thì phiền não diệt, hay là cùng lúc? Đây gọi là giữa (Trung) mà thôi. Lại phiền não diệt rồi sau đó trí thành tựu chăng? Điều này hoàn toàn không thích hợp, bởi vì cùng có lỗi như luôn luôn sinh-luôn luôn không sinh, luôn luôn diệt-luôn luôn không diệt…, cho nên đầu-giữa-sau chọn lấy như tánh duyên khởi. Lại nữa, như vậy quán trí… là theo thứ tự kết luận về tướng không giống nhau-phương tiện-hủy hoại và Niết-bàn trước đây, năm nghĩa có thể biết.

Trong phần hai nêu ra pháp của Đức Phật trước đây hiển bày về Địa lìa xa nói năng. Trong đó có bốn kệ: Một kệ rưỡi đầu nêu ra hai loại Niết-bàn trước đây bởi vì giống như pháp của Địa, tiếp theo một kệ rưỡi chính thức trình bày về Thể của Địa khó nói-khó nghe, tiếp theo có một kệ dụ về khó nói-khó nghe. Ba câu trong phần trước nhắc lại pháp của Đức Phật trước đây vắng lặng nói năng, sau có ba câu hiển bày về Địa khó nói lại còn khó nghe. Vả lại, Luận nói: Địa là cảnh giới, Quán thì hoặc gọi là phạm vi, hoặc là sở duyên mà thôi.

Trong văn thứ hai về Thuyết Đại có sáu kệ, nghĩa phân ra có năm: Một kệ ba câu đầu tiên làm sáng tỏ phạm vi của Thuyết, ba câu tiếp theo làm sáng tỏ đã không còn lỗi lầm để khuyến khích chúng trừ bỏ sai lầm, tiếp theo một kệ rưỡi hiển bày về tướng Thuyết ấy tóm lược mà không phải là mở rộng, tiếp theo có một kệ khuyến khích chúng cung kính lắng nghe là làm sáng tỏ đã khéo nói khiến chúng sinh tâm cung kính mến mộ, tiếp theo có một kệ hiển bày đã có được năng lực kết luận về phạm vi của Thuyết. Vả lại, Luận nói: Chỉ nói một phần ấy gọi là phần Nhân. Địa có hai phần, một là nhân, hai là quả. Nhân gọi là phương tiện thực hành tu tập về pháp thế gian, tức là phạm vi của trí gia hạnh. Quả gọi là chân thật Chứng lìa tướng sinh ra, tức là phạm vi đích thực của Chứng. Chân thật Chứng nói năng, tướng của Nhân có thể luận bàn. Nay chỉ nói về Nhân cho nên nói là một phần. Lại cũng có thể dựa theo phần vị, Nhân từ từ thành tựu gọi là Văn-Tư… chứ không phải là lập tức từ từ thành tựu. Lại dựa theo nghĩa giúp đỡ thành tựu, phần này có hai nghĩa:

  1. Giúp đỡ thành tựu về Nhân ấy.
  2. Giúp đỡ thành tựu Chứng ấy.

Trong giáo thuyết tu có hai:

1. Chân tâm cứu cánh thành tựu đức đầy đủ.

2. Quán tu là Chân tâm lìa xa hư vọng bên trong hiểu rõ pháp giới. Hai loại này tương ưng với Hậu đắc Chánh thuyết cho nên gọi là Giáo Thuyết, nghĩa không tương ưng thuộc về Nghĩa Đại mà thôi, văn còn lại có thể biết.

Ngay trong phần văn về Thuyết có sáu môn phân biệt:

  1. Giải thích tên gọi.
  2. Trình bày về chướng đã loại trừ.
  3. Trình bày về lý đã hiển bày.
  4. Trình bày về hạnh đã thành tựu.
  5. Quả đã đạt được.
  6. Giải thích văn các Địa cùng ở tại nơi này.

1. Giải thích tên gọi, thứ nhất gọi là Hoan Hỷ, thành tựu hạnh tự lợi-lợi tha Vô thượng, lần đầu chứng được trú xứ bậc Thánh sinh tâm rất hoan hỷ, cho nên gọi là Hoan Hỷ địa.

2. Trình bày về chướng đã loại trừ: Theo Địa Luận gọi là chướng về tướng Ngã của phàm phu, theo Nhiếp Luận gọi là Vô minh của tánh phàm phu. Lại phân ra hai chướng: Một là phân biệt ngã-pháp, hai là nghiệp của đường ác. Lại đối trị hai loại nghiệp và một loại báo, gọi là phương tiện sinh tử. Đối trị thế nào? Như hư không…, rộng ra như Luận giải thích.

3. Trình bày về lý đã hiển bày: Đó là hiển bày về nghĩa khắp nơi pháp giới.

4. Trình bày về hạnh đã thành tựu: Thành tựu Bố thí độ và mười Nguyện…

5. Trình bày về quả đã đạt được: Nếu giới hạn chọn lấy quả thì chỉ thông hiểu về nghĩa Không của chướng, đạt được quả về diệt tất cả các chướng và phần vị của Địa…; nếu gồm chung phân định về quả thì đạt được Lý về ba Vô tánh chỉ có Thức, và đạt được Xa-ma-tha cùng Tỳ-bát-xá-na…

6. Giải thích văn thì có hai, đầu là trường hàng, sau là kệ tụng. Trường hàng có hai: Một là kết thúc phần trước sinh khởi phần sau; hai từ “Nhược chúng sinh…” trở xuống là phân rõ về Thể tướng của Địa. Văn này có hai: Một, phân rõ về phần Thuyết; hai, từ “Bồ-tát như thị an trú…” trở xuống là phần so sánh thù thắng.

Văn phần Thuyết có một trăm câu: Bốn mươi câu đầu gọi là phần Trú, ba mươi câu tiếp theo gọi là phần Giải thích tên gọi, ba mươi câu sau cùng nói là An trú. Bốn mươi câu trước như Luận nên biết, nhưng trong mười câu đầu thì kinh sót “Tịnh tâm tập”.

Ngay trong ba mươi câu về Giải thích tên gọi, đầu là mười Đa hỷ, trong phần này kinh sót văn “Khánh hỷ”. Theo trong Luận nói: Tâm hỷ, Thể của tâm không phải là hỷ mà thâu nhiếp hỷ theo tâm, Thể của hỷ cũng như vậy; Căn hỷ là lấy Thể sau khi thành tựu làm Căn, không phải là Hỷ căn. Tiếp theo là mười Niệm sẽ đạt được, sau cùng là mười

Niệm đang đạt được.

Ngay trong Niệm đang đạt được có hai: Một là chính thức trình bày về những Niệm đang đạt được, hai từ “Hà dĩ cố…” trở xuống là mở rộng giải thích về lìa xa năm loại sợ hãi, cũng có thể ngay trong Niệm thứ mười mà phân ra. Ngay trong văn giải thích về sợ hãi có hai, một là vặn hỏi, hai là trả lời. Trong phần trả lời có ba: Một, trình bày về quả đã lìa xa; hai, từ “Hà dĩ cố…” trở xuống là giải thích về thành tựu tướng lìa xa; ba, từ “Như thị Bồ-tát…” trở xuống là tổng quát để kết thúc. Vả lại, Luận nói: Trước là nói về sợ hãi của thân, sau là sợ hãi của thân khác, trước là trình bày tổng quát, sau là phân rõ riêng biệt, cho nên nói là thân khác, không phải là ngoài thân mà thôi.

Ngay văn về phần An trú có ba: Một là trình bày tổng quát về An trú, hai từ “Sở vị tín tâm…” trở xuống có ba mươi câu trình bày riêng biệt về An trú, ba từ “Bồ-tát thành tựu như thị…” trở xuống là tổng quát kết luận về An trú. Ngay trong ba mươi câu mở rộng phân rõ, đầu là mười Tín, tiếp theo là mười Hạnh, tiếp theo là mười Hồi hướng, văn còn lại như Luận.

Thứ hai là văn so sánh về Nguyện có ba:

  1. So sánh thù thắng về Nguyện.
  2. So sánh thù thắng về Hạnh.
  3. So sánh thù thắng về Quả.

– Nói về mười Nguyện:

  1. Nguyện cúng dường chư Phật;
  2. Nguyện hộ trì Chánh pháp;
  3. Nguyện thâu nhiếp về pháp Thượng thủ;
  4. Biết tâm của chúng sinh;
  5. Tên gọi cảm hóa chúng sinh;
  6. Nhận biết thế giới;
  7. Đều là Tịnh độ;
  8. Tâm hành như nhau;
  9. Ba nghiệp không uổng phí;
  10.  Thành tựu Bồ-đề.

– Theo Nhiếp Luận có mười Nguyện:

  1. Nguyện cúng dường là nguyện cúng dường bậc Pháp Chủ đầy đủ phước điền thắng duyên.
  2. Nguyện thọ trì là nguyện thọ trì Chánh pháp vi diệu thù thắng.
  3. Nguyện chuyển pháp luân là nguyện ở giữa Đại chúng quy tụ chuyển pháp luân chưa từng có.
  4. Nguyện tu hành là nguyện như thuyết tu hành tất cả Chánh hạnh của Bồ-tát.
  5. Nguyện thành tựu là nguyện thành tựu căn thiện ba Thừa của khí thế giới chúng sinh này.
  6. Nguyện thừa sự là nguyện đến các cõi Phật thường thấy chư Phật luôn luôn được cung kính hầu hạ lắng nghe tiếp nhận Chánh pháp.
  7. Nguyện Tịnh độ là nguyện chúng sinh ở cõi mình thanh tịnh an trú trong Chánh pháp và luôn luôn tu hành
  8. Nguyện không xa lìa là nguyện đối với tất cả mọi nơi sinh ra luôn luôn không lìa xa tất cả chư Phật Bồ-tát được cùng chung ý hành.
  9. Nguyện lợi ích là nguyện ở tất cả mọi lúc luôn luôn làm việc lợi ích cho chúng sinh không hề có trôi qua trống rỗng.
  10. Nguyện Chánh giác là nguyện cho tất cả chúng sinh cùng đạt được Vô thượng Bồ-đề luôn luôn làm Phật sự. Lại mười Nguyện này cùng với nghĩa của mười Nguyện trước giống nhau không khác.

Ngay trong văn kinh có bốn: Một là kết thúc phần trước sinh khởi phần sau; hai là chính thức trình bày về Thể của Nguyện, nhưng Nguyện thứ nhất sót hai câu, trong Nguyện thứ chín sót “Như ý bảo thân”; ba từ “Chư Phật tử…Đại Nguyện…” trình bày về tu phương tiện của Nguyện; bốn từ “Dĩ thập bất khả…” trở xuống là tổng quát để kết luận. Nếu dựa vào bản Luận thì trình bày riêng biệt về mười Vô tận thành tựu Đại Nguyện trước đây; nếu dựa vào bản kinh thì chính là Vô tận thứ tư kết thúc về Nguyện vô tận. Ngay trong văn này có bốn: Một, nêu ra pháp và Nguyện để lập Tông; hai, từ “Hà đẳng vi thập…” trở xuống là nêu ra mười pháp Tận, có hai có thể biết; ba, từ “Nhược chúng sinh tận…” trở xuống là lấy pháp đối với Nguyện hiển bày ngược lại thành Tận; bốn, từ “Nhi chúng sinh…” trở xuống là kết luận thuận theo Vô tận. Lại trong Nguyện thứ sáu, Luận nói: Phân rõ trong thô tế, đều nói tùy theo sự thô tế của ý-thức-thân-sắc-tâm nào do đó cõi cũng thô tế, tướng còn lại như Luận.

Lại ba loại-ba chuyển, thì ngay trong câu riêng biệt về mười Tận, bốn loại về Chúng sinh giới, Thế giới, Không giới và Tâm duyên giới là Thế gian chuyển; Pháp giới, Niết-bàn giới, Phật trí nhập giới, ba loại này gọi là Pháp chuyển; Phật xuất thế giới, Như Lai trí giới, hai loại này là Trí chuyển.

Văn thứ hai là so sánh thù thắng về Hạnh, có ba: Một là nhắc lại phần trước phát khởi phần sau, hai là chính thức giải thích về Thể của Hạnh, ba từ “Chư Phật tử tất tri dĩ…” trở xuống là tổng quát để kết luận. Trong văn phần hai là giải thích về Thể của Hạnh có ba: Một, Đại Nguyện xông ướp tâm thành tựu lợi ích về an lành…; hai, từ “Như thị tắc thành…” trở xuống là người thành tựu về Tín; ba, từ “Lạc dĩ tín phân biệt…” trở xuống là mở rộng trình bày về tướng của Tín. Văn này thì mười Hạnh tức là mười đoạn. Thứ nhất là Tín, văn có ba: Một là tổng quát về lập Tông, hai là giải thích riêng biệt, ba từ “Cử yếu ngôn chi…” trở xuống là tổng quát để kết luận. Thứ hai là giải thích về Từ Bi, văn có hai: Một là nêu ra ba môn làm sở quán, hai là hướng về phát khởi Từ Bi. Văn phần một có ba, như Luận nên biết. Vả lại, Luận nói: Phân rõ về ba Không lìa xa ba chướng trong rời xa Đệ nhất nghĩa Lạc, đó là phân biệt về tướng lấy-bỏ… tức là chướng thuộc về ba tánh. Hạnh còn lại như Luận có thể hiểu.

Văn thứ ba là so sánh thù thắng về Quả, có bốn quả, như Luận nên biết. Thứ nhất trong quả Điều nhu: Đầu là pháp, tiếp là dụ, sau là hợp. Trong pháp có bốn: Một là thấy nhiều Đức Phật là duyên của khởi hạnh, hai từ “Tâm đại hoan hỷ…” trở xuống là trình bày về năng lực luyện tập thực hành, ba từ “Đa dĩ nhị nhiếp…” trở xuống là nương theo sự luyện tập thực hành trước đây trình bày riêng biệt về đức của Địa, bốn từ “Thị Bồ-tát…” trở xuống là trình bày sự luyện tập thanh tịnh. Thứ hai trong quả Phát thú, văn phân làm hai: Một là giải thích, hai là kết luận. Văn phần một có bốn:

  1. Pháp.
  2. Dụ.
  3. Hợp.
  4. Kết luận.

Trong Pháp-Dụ-Hợp đều có bốn câu: Một là hỏi về pháp của Địa, hai từ “Thị Bồ-tát thiện tri…” trở xuống là trình bày về pháp hiểu biết, ba từ “Chư Phật tử…” là trình bày về năng lực thực hành công hạnh, bốn từ “Đắc chư Địa trí…” trở xuống là trình bày về năng lực đến được. Bốn câu trong Dụ và Hợp đều giống như vậy. Thứ ba trong quả Nhiếp báo, văn có hai: Một là quả tại gia, hai là quả xuất gia. Tại gia có hai: Một là quả thù thắng phía trên, hai từ “Năng dĩ Đại thí…” trở xuống gọi là dựa vào quả báo của vua mà phát khởi công hạnh thù thắng. Thứ tư là quả Nguyện trí, như Luận nên biết.

Thứ hai trong phần kệ tụng có bốn mươi lăm kệ rưỡi: Hai mươi hai kệ đầu tụng về phần Thuyết trên đây, tiếp từ “Bồ-tát như thị…” trở xuống là hai mươi mốt kệ rưỡi tụng về phần so sánh thù thắng, tiếp theo hai kệ là tổng quát kết luận ca ngợi. Trong văn phần đầu: Mười một kệ đầu tụng về phương tiện của Địa và văn về Trú Địa, tiếp từ “Thị Bồtát…” trở xuống năm kệ rưỡi tụng về giải thích tên gọi của Địa và năm sự sợ hãi, tiếp từ “Thường hành…” trở xuống năm kệ rưỡi tụng về văn An trú. Tiếp đến trong văn hai mươi mốt kệ rưỡi: Năm kệ rưỡi đầu tụng về kết luận mười Nguyện và văn Vô tận, tiếp theo sáu kệ tụng về văn mười Hạnh như Tín…, tiếp từ “Trí giả ư nhật dạ…” trở xuống là mười kệ tụng về so sánh quả. Trong đó một kệ đầu tụng về quả Điều nhu, tiếp theo ba kệ tụng về quả Phát thú, tiếp theo năm kệ rưỡi tụng về quả Nhiếp báo, tiếp từ “Nhược dĩ nguyện lực…” về sau nửa kệ tụng về quả Nguyện trí.

Trong Địa thứ hai có sáu môn giống như trước.

1. Nói đến giải thích tên gọi, thì lìa xa những phiền não cấu trược có thể khởi lên tâm sai lầm phạm giới, giới thanh tịnh đầy đủ cho nên gọi là Ly Cấu địa.

2. Trình bày về đã lìa xa, theo Địa Luận thì tà hạnh chướng ngại đối với thân của chúng sinh…, theo Nhiếp Luận thì dựa vào thân nghiệp… đối với các chúng sinh khởi lên tà hạnh vô minh. Lại đối trị hai chướng: Một là phạm sai lầm vi tế, hai là các loại nghiệp hạnh về tướng. Lại đối trị hai nghiệp chướng và một báo về phương tiện sinh tử.

3. Đã hiển bày, là hiển bày về nghĩa thù thắng nhất.

4. Đã thành tựu, là thành tựu về Giới độ.

5. Đã đạt được quả, nếu thông đạt về công đức thù thắng nhất của pháp giới, thì đạt được quả Vô đẳng Bồ-đề thù thắng nhất đối với tất cả chúng sinh; quả gồm chung giống như Địa thứ nhất.

6. Giải thích văn thì có ba: Một là kệ sinh khởi, hai là trường hàng chính thức giải thích, ba là kệ tụng kết luận về phần trước.

Thứ nhất là kệ có hai: Văn ba kệ đầu là Đại chúng được lợi ích, ba nghiệp cúng dường tức là ba; tiếp theo có hai kệ là Giải Thoát Nguyệt thưa thỉnh sinh khởi văn của Địa sau.

Thứ hai là chính thức giải thích, trong văn có hai đoạn kinh: Một là phát khởi thanh tịnh, hai là tự Thể thanh tịnh. Phát khởi là hướng về Địa, phương tiện sinh khởi ba tụ tịnh giới trong Địa sau gọi là phát khởi thanh tịnh. Ba tụ tịnh giới là Chánh hạnh trong Địa, cho nên gọi là tự Thể thanh tịnh.

Ngay trong văn phần một có ba: Một là Bồ-tát Kim Cang Tạng kết thúc phần trước sinh khởi phần sau, hai từ “Hà đẳng vi thập…” trở xuống là chính thức giải thích về phát khởi, ba từ “Bồ-tát dĩ thị…” trở xuống là kết luận thành tựu lợi ích.

Hai là văn về tự Thể, toàn phần có hai: Một, trình bày về Thể của hạnh; hai, phân rõ về quả của Địa. Một là Thể của hạnh, văn có ba: Trước là giải thích về luật nghi, tiếp là giải thích về thâu nhiếp thiện, sau là phân rõ về thâu nhiếp chúng sinh.

Trong mười Địa này phân văn không nhất định, Địa thứ nhất và thứ mười cùng phân là tám, Địa này là hai, Địa thứ ba-bốn-chín là bốn, Địa thứ năm-sáu cùng phân là ba, Địa thứ bảy là năm, Địa thứ tám là bảy, đều tùy theo một pháp mà thôi. Đây là bởi vì pháp của Địa rất sâu xa cho nên phương tiện phỏng theo để hiển bày, không phải là chỉ một Địa có một môn này.

Ngay trong luật nghi, toàn phần có hai: Thứ nhất là trình bày về tánh giới thành tựu lập tức lìa xa mọi lỗi lầm, thứ hai từ “Bồ-tát như thị…” trở xuống là hộ trì suốt đời. Ngay trong văn thứ nhất lại phân có hai: Một là trình bày về tự tánh thành tựu, hai từ “Viễn ly nhất thiết…” trở xuống là lập tức lìa xa mọi lỗi lầm. Lại trong Luận nói: Hai loại này là bạn, nhớ lại lời nói của hai người, tìm đến hai người ấy giả làm bạn thân. Còn trong kinh nói nghe ở đây không đến nói ở nơi khác, bởi vì điều này không tốt…, là phân rõ về ý giữ gìn, sợ rằng hai bên làm hại lẫn nhau cho nên không nói.

Lại bảy loại tà kiến khác tướng trong tà kiến thứ mười: Một loại là tà kiến Thừa khác dựa vào hạnh xuất thế riêng biệt; tiếp là hai loại dựa vào pháp tương tự mà khởi lên, nhưng Ký và Vô ký phân hai; tiếp là một loại dựa vào vọng chấp không đúng; tiếp là hai loại dựa vào pháp ẩn kín mà sinh khởi, nhưng một dụng bên trong-một dụng bên ngoài phân hai; tiếp là một loại dựa vào pháp thế gian mà sinh khởi. Trong kinh sót các văn về câu thứ nhất-thứ ba… Lại quyết định tin sâu sắc là Thừa khác, nhân duyên tội phước là kiến che lấp, như văn nên biết, cần phải suy nghĩ chính xác, văn còn lại như Luận.

Thứ hai là văn về nhiếp thiện pháp giới, văn riêng biệt có năm, nghĩa riêng biệt có bốn, chủ yếu thâu nhiếp làm hai. Nói về văn có năm thì như trong văn sau, năm chỗ nêu ra kinh-luận giải thích riêng biệt. Nghĩa riêng biệt có bốn: 1-Trí; 2-Nguyện; 3-Quán; -Hạnh. Đầu tiên suy nghĩ về chúng sinh, tùy theo tất cả điều ác đều bởi vì mười bất thiện đạo, đó là Trí; mình nên tự an trú…, đó là Nguyện. Văn này có ba có thể biết. Lại từ “Thâm tư duy…” trở xuống cho đến “…Như Lai”, đó là Quán, từ “Thị cố ngã ưng…” trở xuống, đó là Hạnh. Chủ yếu là hai, hai loại đầu là một cặp, Trí làm phương tiện về sau phát khởi Chánh nguyện; hai loại sau là một cặp, Quán làm phương tiện về sau phát khởi Chánh hạnh. Văn còn lại như Luận.

Thứ ba là văn về nhiếp chúng sinh giới, toàn phần có hai: Một là mở rộng trình bày về thâu nhiếp chúng sinh, hai từ “Chư Phật tử thị Bồtát như thị…” trở xuống là tổng quát kết luận về thâu nhiếp chúng sinh.

Nghĩa còn lại như Luận.

Hỏi: Sát sinh… sao cảm được hai loại quả trong loài người?

Đáp: Tập này không phải là Tập khí, Tập này gọi là Tập còn thừa lại, thuận theo nghiệp của loài người ở trong loài người nhận lấy Báo khác, Chánh báo tùy theo Đoạn… vẫn là Báo không nhất định trong loài người, nên có thể dựa theo. Nếu dùng danh ngôn mà mong cầu hai Báo thì cũng có hơn kém, bởi vì có và không có đều không nhất định, điều này nên suy nghĩ. Trải qua ba đường thì nghĩa cũng không nhất định, nói rộng ra như Đại Luận.

Lại hai điên đảo ác ý chuyên niệm hành, quán sát về duyên gọi là ý. Bởi vì hai điên đảo về Thường-Lạc hiện khởi trong duyên cho nên gọi là ý, trái với lý gọi là ác, là tác ý khởi lên phiền não mà phát sinh gọi là chuyên niệm hành. Hai điên đảo ác tâm không phải là chuyên niệm, Tập khởi căn bản là nghĩa của tâm, hai điên đảo về Ngã-Tịnh hướng đến Thường-Lạc trước đây. Bởi vì Tập khởi căn bản cho nên nói là tâm, Ngã là gốc của Thường, Tịnh là nguồn của Lạc. Hai tánh này thành tựu, bởi vì không phải là tác ý sinh khởi, cho nên gọi là không phải chuyên niệm. Lại trong truy tìm Hậu báo, kinh sót câu thứ tám trong Chướng và câu thứ nhất trong Cọng. Lại trong phần về cõi sai biệt, trong câu riêng biệt thứ hai, thì câu thứ nhất trong kinh là câu thứ ba trong luận.

Trong văn thứ hai về quả của Địa, ba quả giống như trước. Trong quả Điều nhu có ba: Một là tướng Điều nhu, hai từ “Bồ-tát nhĩ thời…” trở xuống là phân biệt về hành tướng của Địa, ba từ “Phật tử thị danh…” trở xuống là kết luận nói về tướng của quả. Trong phần một có ba: Đầu là pháp, tiếp là dụ, sau là hợp. Trong pháp có ba: Một, thấy chư Phật là duyên của khởi hạnh; hai, năng lực luyện tập thực hành; ba, sự luyện tập thực hành thanh tịnh. Trong năng lực có ba: Đầu là trình bày về cúng dường, tiếp là trình bày về hồi hướng, sau là thọ mười pháp thiện để thực hành. Dựa vào kinh tóm lược không có hồi hướng. Quả Nhiếp báo giống như Địa thứ nhất.

Theo trong Nhiếp Luận từ Địa thứ hai trở đi có tám loại thanh tịnh, trong này thấy chư Phật tức là thấy Phật thanh tịnh ở Luận kia, trong này khoác y cho đến tâm cung kính tức là niềm tin thanh tịnh ở Luận kia, trong này giới thanh tịnh tức là Ba-la-mật ở Luận kia, trong này làm vua tức là thứ sáu thành thục chúng sinh ở Luận kia, trong này niệm Phật tức là tâm thanh tịnh ở Luận kia, trong này làm đầu… tức là Từ Bi ở Luận kia, trong này trú ngàn kiếp… tức là Sinh thân thanh tịnh ở Luận kia, trong này mặt đất chấn động… tức là uy đức ở Luận kia, Địa còn lại dựa theo như vậy.

Ba là trùng tụng, văn có hai: Một là trình bày về ý tuyên thuyết, hai là chính thức tụng. Tụng có hai mươi sáu kệ, văn phân có bốn: Hai kệ đầu tụng về phát khởi, tiếp theo mười sáu kệ tụng về tự Thể thanh tịnh, tiếp có bảy kệ tụng về lợi ích của quả, tiếp là một kệ tụng kết luận ca ngợi. Trong văn về tự Thể: Đầu có bốn kệ tụng về lìa xa giới thanh tịnh, tiếp có bốn kệ tụng về thâu nhiếp pháp thiện, tiếp có tám kệ tụng về thâu nhiếp lợi ích chúng sinh. Trong văn về chúng sinh: Đầu có ba kệ tụng về quy tụ nguyện hạnh…, tiếp có năm kệ tụng về văn quy tụ quả. Trong phần ba là lợi ích của quả: Đầu là hai kệ tụng về quả Điều nhu, tiếp có bốn kệ tụng về quả Nhiếp báo, tiếp là một kệ tụng về quả Nguyện trí.

Trong Địa thứ ba có sáu môn giống như trước.

1/ Giải thích tên gọi, tùy theo Văn-Tư-Tu… soi chiếu pháp hiển bày rõ ràng, cho nên gọi là Minh địa.

2/ Đã lìa xa, theo Địa Luận thì tướng tối tăm làm chướng ngại quên mất đối với các pháp Văn-Tư-Tu…, theo Nhiếp Luận thì Vô minh làm cho tâm chậm chạp khổ sở, Vô minh làm quên mất Văn-Tư-Tu. Lại có hai loại Vô minh: 1-Dục ái vô minh; 2-Đầy đủ Văn trì Đà-la-ni vô minh. Có hai nghiệp chướng và một báo về phương tiện sinh tử.

3/ Trình bày về đã hiển bày, là hiển bày về nghĩa của chủng loại thù thắng.

Trình bày về đã thành tựu, tức là thành tựu về hạnh Nhẫn và bốn Định.

5) Trình bày về đã đạt được quả, thông đạt về công đức văn cú thuộc chủng loại thù thắng của pháp giới, đạt được pháp âm vô biên, cho đến có thể đầy đủ ý muốn của tất cả chúng sinh về quả và phần vị của Địa thứ ba; quả gồm chung giống như Địa thứ nhất.

6/Giải thích văn có ba: Một là kệ tụng phát khởi, hai là chính thức trình bày về Thể an trú của Địa, ba là kệ trùng tụng.

Một là trong văn kệ có hai: Một, có sáu kệ về ba nghiệp của Đại chúng cung kính ca ngợi phần tuyên thuyết trước đây; trong phần này có ba, một kệ đầu là vui mừng, một kệ tiếp là mưa hoa, bốn kệ tiếp ca ngợi về đức. Hai, có bốn kệ sinh khởi phần thưa thỉnh sau; trong phần này ba kệ đầu là Đại chúng thưa thỉnh, tiếp một kệ là Giải Thoát Nguyệt thưa thỉnh.

Hai là văn về Thể của Địa, sai biệt có bốn: Một, phần hạnh sinh khởi chán ngán; hai, phần hạnh chán ngán; ba, trình bày về phần chán ngán; bốn, phần quả chán ngán.

Văn phần một có ba: Một là kết thúc phần trước sinh khởi phần sau khuyến khích tu tập bắt đầu tiến vào, hai từ “Hà đẳng vi thập…” trở xuống là chính thức phân rõ về sinh khởi chán ngán, ba từ “Bồ-tát dĩ thị…” trở xuống là kết luận về hạnh có thể tiến vào.

Trong phần hai là hạnh chán ngán có ba: Một là tu về hạnh bảo vệ phiền não, hai là tu về hạnh bảo vệ Tiểu thừa, ba là tu về hạnh phương tiện thâu nhiếp thực hành.

Văn phần một có hai: Mười câu đầu phân rõ về Vô thường, mười câu tiếp theo là không có người cứu giúp.

Trong phần hai là bảo vệ Tiểu thừa có ba mươi câu: Đầu có mười câu là trình bày về mong cầu trí Phật bảo vệ tâm Tiểu thừa kia, sau có hai mươi câu nghĩ về lợi ích chúng sinh bảo vệ tâm hẹp hòi kia. Văn phần đầu có hai: Đầu là tổng quát, sau là riêng biệt. Trong phần sau là bảo vệ tâm hẹp hòi, mười câu đầu là khởi tâm Bi, mười câu sau là cứu độ, Độ là lợi ích của tâm Bi; cũng có thể mười câu đầu là tâm Bi, mười câu sau là tâm Từ. Ở trong mười câu trước, đầu là tổng quát, sau là riêng biệt; ở trong mười tâm cứu độ sau, đầu là nhắc lại phát khởi trước đây, sau là trình bày tổng quát về tâm cứu độ.

Thứ hai là riêng biệt trình bày về tâm cứu độ. Trong riêng biệt có chín câu: Ba câu đầu là nơi cứu độ, tiếp hai câu là hành cứu độ, tiếp ba câu là phân rõ về phần trước, sau cùng một câu là quả của cứu độ.

Trong phần ba là phương tiện thâu nhiếp. Trong phần này có năm:

  1. Khởi lên quán sát phương tiện, nhắc lại ba tâm trên phát khởi quán sát mong cầu về sau;
  2. Từ “Tức thời dục cụ…” trở xuống là nêu ra hướng về phương tiện, nêu ra Phật tuệ làm sáng tỏ nơi hướng về;
  3. Từ “Tác thị tư duy…” trở xuống là quán sát mong cầu phương tiện, quán sát suy xét tìm tòi phương pháp cứu độ chúng sinh;
  4. Từ “Tức thời tri trú…” trở xuống là chính thức biết rõ phương tiện;
  5. Từ “Bồ-tát như thị tri dĩ…” trở xuống là chuyển sang tu pháp phương tiện, tu hạnh nghe pháp thâu nhiếp giữ lấy Chánh pháp.

Phần thứ tư là chính thức biết rõ phương tiện, trước nghĩ đến chúng sinh rơi vào trong nghiệp khổ phiền não, dùng phương tiện gì mà cứu giúp họ, khiến cho đạt được niềm vui trọn vẹn của Niết-bàn, liền biết rõ không lìa xa Trí không có chướng ngại là Trí của Như Lai. Trí từ đâu sinh ra? Liền biết rõ không lìa xa Giác ngộ như thật từ Địa thứ tám trở lên mà phát khởi. Giác ngộ từ đâu sinh ra? Liền biết rõ không lìa xa Tuệ hành Vô sinh từ Địa thứ tư trở lên. Tuệ từ đâu có được? Liền biết rõ không lìa xa Thiền định của Địa thứ ba. Định từ đâu sinh ra? Liền biết rõ không lìa xa nghe pháp. Vì vậy Bồ-tát trước hết mong cầu Chánh pháp, đã nghe pháp rồi ở nơi vắng lặng tư duy, tư duy rồi tu tập tiến vào Thiền định Vô sắc, dựa vào Thiền định này quán về pháp Vô sinh phát khởi Tuệ xuất thế, dựa vào Tuệ vô sinh mà Giác ngộ như thật, dựa vào Giác ngộ như thật mà đạt được Trí vô ngại, đã đạt được Trí rồi liền đến cứu độ chúng sinh, biết rõ về tướng như vậy.

Phần thứ năm là phương tiện thâu nhiếp chúng sinh, trong văn có hai: Một là trình bày về cầu pháp sinh ra ý tưởng khó gặp mà có thể xả bỏ tài vật bên ngoài. Văn này có hai: Một, sinh ra ý tưởng khó gặp. Hai, từ “Đản ư thuyết pháp giả…” trở xuống là coi trọng người xem nhẹ vật báu, trong này có năm câu, đây chính là câu thứ nhất; bởi vì cầu pháp cho nên…, là câu thứ hai; vì pháp mà bố thí, lại vì cầu pháp mà làm người phục vụ cho pháp, là câu thứ ba; phá trừ kiêu mạn không có gian khổ nào không chịu đựng, là câu thứ tư; đối với trên không cung kính là Kiêu mạn, đối với dưới chấp ngã gọi là Ngã mạn, đối với ngang hàng tự cho mình lớn hơn gọi là Đại mạn; nếu có được một câu rồi về sau đạt được tâm là tài sản thù thắng, tức là câu thứ năm. Trong này, đưa vào so sánh tổng quát thành ra có ba câu, so sánh thứ nhất này làm thành một câu, từ “Đắc văn nhất kệ…” trở xuống là so sánh thứ hai, từ “Thị Bồ-tát nhược hữu nhân lai…” trở xuống là so sánh thứ ba, văn còn lại có thể biết. Hai từ “Hựu như sở văn…” trở xuống là tùy theo văn có thể thực hành.

Giải thích trong phần chán ngán, văn phân có ba: Một, nhắc lại nghe pháp rồi ở nơi vắng lặng suy nghĩ trong phần trước để phát khởi giảng giải phần sau; hai, trình bày về Thể của chán ngán; ba, trình bày về ý tiến vào, là thuận với pháp hành mà không đắm trước.

Trong văn thứ hai, trong Sơ thiền thì lìa pháp dục ác-bất thiện tức là lìa chướng. Loại trừ có bốn loại:

1. Tổng quát về tướng loại trừ ác-bất thiện của cõi Dục cho nên gọi là lìa pháp dục ác-bất thiện.

2. Theo Long Thọ thì lìa xa năm dục gọi là lìa dục, đoạn trừ năm Cái gọi là lìa bất thiện, cho nên Long Thọ nói hướng đến Sơ thiền lìa xa năm pháp đoạn trừ năm pháp.

3. Theo Tỳ-đàm luận thì năm dục lìa bỏ cho nên gọi là lìa dục, đoạn trừ mười ác cho nên gọi là lìa ác, trừ bỏ năm Cái cho nên gọi là lìa bất thiện.

4. Dựa vào Thành Thật luận thì đoạn trừ tâm tham dục gọi là lìa dục, cũng rời bỏ sát sinh… gọi là lìa pháp ác-bất thiện.

Có giác có quán là đối trị, tư duy thô gọi là Giác, tư duy tế gọi là Quán. Vì vậy Long Thọ nói: “Ví như lắc chuông, âm thanh thô dụ cho Giác, âm thanh tế dụ cho Quán. Ly sinh hỷ lạc là lợi ích, vui mừng rời bỏ dục ác, vì vậy sinh khởi niềm vui lìa xa, lỗi lầm nhờ đó chấm dứt, cho nên gọi là Lạc.” Tiến vào hành Sơ thiền là chi Nhất tâm thuộc về Thể của Định. Vì sao chỉ riêng chi này gọi là thiền hạnh? Bởi vì Nhất tâm là Thể của thiền cho nên gọi là thiền hạnh.

Ngay trong Nhị thiền, diệt mất giác quán là diệt trừ chướng ngại ấy. Trong diệt trừ chướng ngại, giác quán có ba:

  1. Chính là tâm Định.
  2. Lúc xuất Định.
  3. Giác thô động trong Thức thân.

Hai loại này đều là tâm loạn động, Nhị thiền vắng lặng thù thắng đều cùng diệt trừ. Nói là thanh tịnh bên trong (nội tịnh), đó là chi Đối trị. Nếu có giác quán thì loạn động không vắng lặng, Nhị thiền vắng lặng thù thắng lìa xa loạn động bên ngoài, cho nên nói là thanh tịnh bên trong. Nói là một nơi(nhất xứ), đó là làm sáng tỏ về tướng đối trị, tâm thanh tịnh bên trong trú vào một cảnh, lại không duyên với pháp khác, cho nên nói là một nơi. Vì vậy trong luận Xá-lợi A-tỳ-đàm nói: “Trong Địa của cõi Dục, tâm hoạt động ở sáu nơi, bởi vì sáu Thức thân chọn lấy sáu trần; trong Địa của Sơ thiền, tâm hoạt động ở bốn cảnh, bởi vì bốn Thức thân hoạt động ở bốn cảnh. Bởi vì từ Sơ thiền trở lên không có Tỷ-Thiệt thức, cho nên chỉ nói là bốn mà thôi; từ Nhị thiền trở lên, tâm hoạt động ở một nơi, bởi vì chỉ có Ý thức thân duyên với pháp trần, lại còn nối tiếp nhau không gián đoạn, không dứt mất cũng gọi là một nơi.” Phần sau trong Luận giải thích có đủ hai nghĩa này.

Không có giác quán là hiển bày về chủ động đối trị, chủ động đối trị giác quán, trước đây diệt mất giác quán là thẳng thắn làm sáng tỏ lìa xa lỗi lầm, như nói Diệt đế bởi vì là vô lậu; nay dựa vào chủ động đối trị làm sáng tỏ không có giác quán, như nói Đạo đế bởi vì là vô lậu. Định

sinh hỷ lạc là lợi ích, trước đây trong Sơ thiền bắt đầu rời bỏ dục ác, vui mừng lìa xa cho nên Hỷ; nay trong Nhị thiền thì pháp sinh khởi từ bên trong, vui mừng đạt được cho nên Hỷ; Lạc giải thích giống như trước. Tiến vào hành Nhị thiền là chi Nhất tâm thuộc về Thể của Thiền.

Ngay trong Tam thiền, nói đến Ly Hỷ là diệt trừ chướng ngại. Nhị thiền thì tâm Hỷ phân biệt, tưởng sinh ra loạn động nhiều lỗi lầm; Tam thiền thì tâm Định chuyển sang vắng lặng cho nên diệt mất, Hành Xả-Niệm Tuệ là đối trị của nó. Nói đến Hành Xả thì đó là chi Xả, tâm hành điều hòa dừng lại, rời bỏ lỗi lầm về Hỷ kia, cho nên gọi là Xả. Đây là Xả về Số chọn lấy khác với Xả về Thọ, bởi vì làm sáng tỏ về hành. Nói đến Ức Niệm thì đó là chi Niệm, nghĩ đến lỗi lầm về Hỷ trước đây, giữ tâm ở một cảnh, cho nên gọi là Niệm. Nghĩ đến và nhớ lại cùng chung là bạn mà nói, cho nên gọi là ức niệm. Nhớ lại có thể gợi mở hiểu biết giúp cho Niệm lực mạnh lên, vì lẽ đó cùng nêu ra; cũng có thể dựa vào nói về Niệm mà gọi là Ức, như Thể tánh của bốn Niệm xứ là Tuệ mà gọi là Niệm, ở đây cũng giống như vậy. Nói đến An Tuệ thì đó là chi An Tuệ, phân biệt về lỗi lầm của Hỷ gọi là Tuệ, Tuệ vắng lặng gọi là An. Thân cảm thọ vui sướng(thọ lạc) đó là lợi ích, làm cho vui sướng gọi là Lạc. Nói đến Thân thọ, Thọ có hai loại, đó là thân và tâm phân biệt có hai:

1. Dựa vào căn phân biệt, Thọ trong năm Thức dựa vào Sắc căn mà sinh khởi, cho nên gọi là Thân thọ; Thọ trong ý thức từ Ý căn mà sinh khởi, cho nên gọi là Tâm thọ.

2. Dựa vào lợi ích của thân tâm mà phân biệt, Thọ thuộc phẩm Hạ vui sướng ở tâm gọi là Tâm thọ, Thọ thuộc phẩm Thượng vui sướng tràn đầy thân tâm, dựa vào những nơi tràn đầy từ ngọn mà gọi tên, cho nên nói là thân tâm. Nay theo nghĩa sau, vui sướng nơi tâm pháp, từ nơi này tăng lên tràn đầy thân tâm, cho nên nói là Thân thọ. Hiển bày về vui sướng tăng lên, vui sướng là tâm pháp, nghĩa về Thọ trong tâm không cần phải bàn luận. Nói đến các bậc Hiền Thánh có thể nói Xả, niềm vui này sâu xa thù thắng chỉ có Hiền Thánh có thể nói là lỗi lầm, có thể tự mình rời bỏ được, chứ không phải là năng lực của hàng phàm phu, mà có thể làm sáng tỏ về niềm vui sâu xa này. Nói đến Niệm thọ lạc tiến vào Tam thiền, đó là chi Nhất tâm thuộc về Thể của Thiền, nghĩa là nghĩ đến lỗi lầm cảm thọ niềm vui của Địa mình mà tiến vào Nhất tâm.

Ngay trong Tứ thiền, đoạn Khổ-đoạn Lạc diệt hết Ưu-Hỷ là diệt trừ chướng ngại, cách tuyệt bốn Thọ trình bày về thiền bất động. Nói về đoạn Khổ thì Khổ thật sự diệt hết ở trong Nhị thiền, bởi vì muốn thiền làm sáng tỏ Tứ thiền là bất động tuyệt dứt bốn Thọ, cho nên ở đây nói đến Đoạn; cũng có thể chỉ cho Lạc của Tam thiền kia, bởi vì là Khổ cho nên đoạn Lạc của Tam thiền thì gọi là đoạn Khổ. Vì sao như vậy? Bởi vì Lạc của Tam thiền kia hướng về tâm thô của người mà nói là Lạc, hướng về tâm vắng lặng sau này thì chính là Khổ rất lớn; giống như ở thế gian đưa tay đánh cây, đối với người thức thì nói đó là vui, đối với người ngủ thì cho là rất khổ sở, ở đây cũng như vậy, cho nên nói là đoạn Lạc. Đoạn Lạc là đoạn Lạc của Tam thiền, bởi vì Lạc ấy thô động, cho nên ở Tứ thiền đoạn hết. Trước diệt Ưu là diệt ở Sơ thiền, trước diệt Hỷ là diệt ở Tam thiền, đều diệt ở trước đây, cho nên nói là trước. Đã không phải là diệt ở Tứ thiền, vì sao luận đến? Cũng bởi vì hiển bày về Tứ thiền là bất động. Nếu như đoạn Ưu-Hỷ ở Địa trước vốn là làm sáng tỏ về diệt trước, thì Khổ cũng diệt trước, sao không nói là trước? Giải thích rằng làm sáng tỏ về trước, lý cũng không có gì tổn hại, nhưng ở đây bởi vì trình bày về Khổ tuy là đoạn trước, mà đối với Lạc của Khổ bởi vì đoạn ở trong này, cho nên đối với Khổ của Lạc không có thể nói là trước. Nếu như nói rằng đoạn Khổ trước, thì người cho rằng Lạc kia cũng là đoạn trước, vì vậy không làm sáng tỏ trước. Ưu và Hỷ chủ động đối trị-thụ động đối trị, đều là đoạn trước, cho nên nói là diệt trước. Không Khổ-không Lạc thì đó là lợi ích, trong các thiền đều trước là trình bày về đối trị, nay Tứ thiền vì sao trước tiên nói đến lợi ích? Bởi vì nương theo trước đây đã trình bày về đoạn Khổ-đoạn Lạc, đối trị pháp ấy thì trình bày về không Khổ-không Lạc, dễ dàng làm sáng tỏ về nghĩa lợi ích, cho nên nói đến trước, mà hành thật sự ở sau. Đây chính là Xả thọ không giống như Khổ-Lạc, vì vậy gọi là không Khổ-không Lạc. Vì sao không gọi là không Ưu-không Hỷ? Giải thích có ba nghĩa:

1. Bởi vì Tứ thiền chính thức đoạn Lạc thọ mà lại không có Khổ vượt qua, bởi vì đối trị hai loại ấy, cho nên gọi là không Khổ-không Lạc;

2. Bởi vì trong văn trước đây đoạn Khổ-Lạc trước, cho nên ở đây chỉ đối trị mà trình bày về không Khổ-không Lạc;

3. Trong năm Thọ thì tên gọi Ưu-Hỷ khác nhau, ba Thọ phân biệt, hai tên gọi Ưu-Hỷ thâu nhiếp vào Khổ-Lạc, bởi vì Khổ-Lạc rộng rãi, Xả thọ đối trị hai loại ấy cho nên gọi là không Khổ-không Lạc. Xả niệm thanh tịnh thì đó là đối trị, Xả là chi Xả, Niệm là chi Niệm. Trong Tam thiền trước đây có Lạc cho nên Xả niệm bất tịnh, nay Tứ thiền không có cho nên Xả niệm thanh tịnh. Tiến vào hành Tứ thiền, đó là chi Nhất tâm thuộc về Thể của Thiền.

Nghĩa về bốn Không Định, rộng ra như chương khác, ở đây cần phải nói đến, văn về bốn Không Định như luận phân biệt.

Tùy pháp hành, là dựa vào thiền định, thuận theo khởi lên Vô lượng-Thần thông…, cho nên đưa vào các thiền định, không phải là ái trước, văn còn lại như luận.

Trong phần giải thích về quả chán ngán, văn có ba:

  1. Trình bày về Vô lượng;
  2. Trình bày về Thần thông;
  3. Tổng quát kết luận về tự tại. Nghĩa còn lại như luận nên biết. Lại trong bốn Vô lượng, kinh sót hai câu trong phần Bất nhị và thanh tịnh cùng Vô niệm; lại trong Thân thông thì kinh sót câu Chú thủy thứ sáu, trong Tha tâm thì kinh sót câu Vọng hành Chánh hạnh thứ bảy.

Ngay văn giải thích về quả của Địa có ba, ba quả giống như trước.

Trong quả Điều nhu, toàn bộ phân định có bốn:

  1. Hạnh Điều nhu.
  2. Hạnh Nhẫn nhục.
  3. Trình bày về hạnh riêng biệt của Địa.
  4. Kết luận nói về tướng.

Trong phần một có ba: Đầu là pháp, tiếp là dụ, sau là hợp. Trong pháp có bốn: Một, thấy chư Phật là duyên của khởi hạnh; hai, từ “Cúng dường…” trở xuống là trình bày về năng lực luyện tập thực hành; ba, từ “Ư bách thiên kiếp…” trở xuống là trình bày về chướng ngại cấu trược giảm đi; bốn, từ “Bất phục tích tập…” trở xuống là trình bày về sự luyện tập thanh tịnh. Văn còn lại như Luận.

Thứ ba là phần trùng tụng, văn có hai: Một là sinh khởi, hai là chính thức tụng. Tụng có ba mươi lăm kệ: Hai kệ đầu tụng về mười tâm sâu xa, hai mươi bốn kệ tiếp theo tụng về văn của hành chán ngán, hai kệ tiếp theo tụng về phần chán ngán và phần quả, sáu kệ tiếp theo tụng về văn kinh thuộc ba quả như Điều nhu…, một kệ tiếp theo là tổng quát kết luận. Trong hai mươi bốn kệ về chán ngán: Bốn kệ đầu tụng về bảo vệ phiền não, sáu kệ tiếp theo tụng về bảo về Tiểu thừa, mười bốn kệ tiếp theo tụng về phương tiện thâu nhiếp.

Trong Địa thứ tư có sáu môn giống như trước.

  1. Giải thích tên gọi, bởi vì không quên củi phiền não thì lửa trí luôn luôn đốt cháy, cho nên gọi là Diệm địa.
  2. Trình bày về đã lìa xa, theo Địa Luận thì lìa chướng kiêu mạn của sự hiểu biết về pháp; theo Nhiếp Luận thì phiền não hoạt động vi tế, cùng sinh ra Vô minh như Thân kiến…

Vô minh lại có hai loại:

  1. Ái về Tam-ma-bạt-đề.
  2. Ái về pháp hành. Lại diệt hai nghiệp chướng và một loại phương tiện sinh tử.
  1. Trình bày về đã hiển bày, là hiển bày về nghĩa của không thâu nhiếp.
  2. Trình bày về đã thành tựu, là thành tựu về hạnh Tinh tiến và Đạo phẩm…
  3. Trình bày về đã đạt được quả, nếu thông đạt về công đức không thâu nhiếp của pháp giới, thì đạt được quả về sự lợi ích của tất cả chúng sinh và phần vị của Địa thứ tư như mong muốn; quả gồm chung giống như Địa thứ nhất.
  4. Giải thích văn, trong văn có ba: Một là kệ tụng sinh khởi phần sau, hai là chính thức phân rõ về Thể của Địa, ba là dùng kệ kết thúc phần trước.

Một là kệ tụng, có tám kệ: Đầu có hai kệ về Bồ-tát cúng dường, tiếp là một kệ về Thiên nữ cúng dường, tiếp là ba kệ về Thiên vương vui mừng được gặp mà phát khởi cúng dường, tiếp là một kệ về Đại chúng thưa thỉnh, tiếp là một kệ về Giải Thoát Nguyệt thưa thỉnh. Sở dĩ ở đây có Thiên vương và Thiên nữ thưa thỉnh, là bởi vì làm sáng tỏ về Trí là Thể chính thức của Địa này và vật dụng bên ngoài đều thành tựu.

Ngay trong văn về Thể, tất cả phân định có bốn:

  1. Phần thanh tịnh đối trị tu hành tăng trưởng về nhân.
  2. Phần thanh tịnh.
  3. Phần đối trị tu hành tăng trưởng.
  4. Phần quả của Địa.

Văn phần một có ba: Một là nhắc lại phần trước sinh khởi phần sau khuyến khích tu tập để tiến vào, hai là trình bày về Thể của hành, ba từ “Bồ-tát dĩ thử…” trở xuống là kết luận về lợi ích của hành. Nhưng trong Luận nói: Nơi thuận theo hành, là Địa tiền phương tiện suy nghĩ về Địa chính thức mà chưa chứng được, đang ở trong Địa gọi là đã chứng, hành ở hai nơi này cùng dựa vào pháp đã nói cho nên gọi là thuận theo hành. Văn còn lại như Luận.

Phần thanh tịnh có ba: Đầu là tổng quát, tiếp là riêng biệt, sau là kết luận. Trong tổng quát có ba: Một là trình bày về nhà của Phật chuyển sang có thế lực, hai là đạt được pháp bên trong, ba là thành tựu mười Trí giáo hóa. Lại trong Luận nói: Tự thân Như Lai vốn có các pháp, dùng các pháp này để biểu hiện rõ ràng Như Lai, là người và pháp cùng hiển bày về pháp của Phật chứng được, vẫn dùng pháp thù thắng để biểu hiện rõ ràng về Như Lai.

Văn về tu hành tăng trưởng có hai: Một, bảo vệ phiền não là hạnh Tự lợi; hai, bảo vệ Tiểu thừa là hạnh Lợi tha. Hai phần này đều có trước là tổng quát-sau là riêng biệt.

Lại trong phần bảo vệ phiền não, ngay trong Thân niệm: Trước là quán sát về thân bên trong, tiếp là quán sát về thân bên ngoài, sau là hợp lại quán sát cả hai. Vì sao thân bên trong mà lại nói là bên ngoài? Nếu như ngay trong mười hai Nhập kia phân ra bên trong-bên ngoài, hoặc là chính mình-hoặc là người khác thì sáu căn là bên trong, sáu trần là bên ngoài; nay trong bốn Niệm, tự thân gọi là bên trong, thân khác là bên ngoài. Vì sao trước là riêng biệt mà sau lại tổng quát? Giải thích có hai nghĩa:

1. Phá trừ bệnh không giống nhau, có người chấp nhiều vào tình bên trong, chấp ít vào tình bên ngoài, như người vì thân mà bỏ việc làm, vợ con và các tài vật, chấp nhiều vào bên trong do đó cần phải dạy quán sát bên trong; có người chấp nhiều vào tình bên ngoài, chấp ít vào tình bên trong, như người vì ham muốn tài sản mà mất thân, vì ham muốn mà mất mạng, chấp nhiều vào bên ngoài do đó cần phải dạy quán sát bên ngoài; có người bên trong-bên ngoài đều chấp, do đó cần phải kết hợp để quán sát.

2. Tùy theo thực hành quán sát trước sau, trước đây ở trong tự thân chấp có tướng thanh tịnh, cho nên trước phải quán sát bên trong; bên trong cầu không được nói là bên ngoài có, cho nên cần phải quán sát bên ngoài; trước đây quán sát bên trong không bằng bên ngoài, lúc quán sát bên ngoài lại không bằng bên trong, vì vậy thứ ba là kết hợp để quán sát bên trong và bên ngoài.

Quán sát về thân bên trong là nêu ra nơi quán sát riêng biệt, thuận theo thân quán sát là trình bày về tướng quán sát ấy. Quán sát biết rõ về tướng của thân ấy gọi là thuận theo thân quán sát. Nhất tâm chịu khó tập trung là trình bày về nghi thức quán sát. Hành giả nay muốn phá hoại tướng của thân, không phải là chịu khó thì không phân rõ, do đó cần phải chịu khó tập trung. Vì thế Long Thọ nói: “Xa cách người bình thường thì dễ, xa cách người hiểu biết thì khó; xa cách người hiểu biết thì dễ, xa cách người thân thích thì khó; xa cách người thân thích thì dễ, xa cách tự thân thì khó.” Hành giả nay muốn xa cách chính mình thì nhất định phải chịu khó tập trung, chịu khó nhờ vào ý chuyên nhất, cho nên nói là Nhất tâm.

Loại trừ tham-ưu của thế gian là làm sáng tỏ do quán sát mà lìa xa. Vì sao trong này chỉ lìa xa tham-ưu? Như Long Thọ nói: “Hành giả trong này phần nhiều sinh khởi tham-ưu.” Vì thế chỉ loại trừ nó. Vì sao phần nhiều sinh khởi? Bởi vì bỏ năm dục nghĩ đến sự yêu thích ban đầu, cho nên sinh ra tâm tham; chưa đạt được pháp của đạo, cho nên sinh ra lo buồn. Vì vậy chỉ nói là loại trừ tham-ưu của thế gian. Vả lại, tham thì phàm phu sinh khởi nhiều, đắm theo cảnh khó rời bỏ, là gốc của thọ sinh, là đầu tiên của ba độc, cho nên trong phiền não chỉ nói đến loại trừ tham. Tâm ưu luôn luôn khởi lên tham dục, chướng ngại cho Định rất nặng, trong thiền lìa xa trước tiên, cho nên trong năm Thọ chỉ nói đến loại trừ ưu. Nếu nói loại trừ kiết tham thì những pháp khác đều loại trừ theo, nếu nói loại trừ ưu thì các Thọ khác loại bỏ theo; ví như chẻ tre, đốt đầu tiên là khó, nếu chẻ toạc đốt đầu tiên thì những đốt còn lại đều toạc theo, tham-ưu cũng như vậy. Về sau quán sát thân bên ngoài và quán sát bên trong-bên ngoài, tương tự cũng giống như vậy.

Ngay trong Thọ niệm, cũng đầu là quán sát bên trong, tiếp là bên ngoài, sau là kết hợp.

Trong mười hai Nhập, Thọ chỉ do Nhập thuộc pháp bên ngoài thâu nhiếp, cho nên nay trong bốn Niệm tự Thọ là bên trong, Thọ khác là bên ngoài. Lại nữa, ý tương ưng với Thọ thì nói là bên trong, năm Thức tương ưng thì gọi là bên ngoài; cũng có thể Thọ ổn định thì nói là bên trong, Thọ phân tán thì gọi là bên ngoài. Ở trong này, đầu là riêng biệt, sau là tổng quát.

Ngay trong Tâm niệm, cũng đầu là quán sát bên trong, tiếp là bên ngoài, sau là tổng quát. Trong mười hai Nhập, Tâm chỉ là bên trong, bởi vì ý căn thâu nhiếp. Nay trong bốn Niệm, tự Tâm gọi là bên trong, Tâm khác gọi là bên ngoài. Lại nữa, ý thức gọi là bên trong, năm Thức gọi là bên ngoài; cũng có thể Tâm ổn định thì nói là bên trong, Tâm phân tán thì gọi là bên ngoài.

Ngay trong Pháp niệm, cũng đầu là quán sát bên trong, tiếp là bên ngoài, sau là tổng quát. Bên trong gọi là tâm Pháp, bên ngoài gọi là không phải Sắc-không phải Tâm, bất tương ưng hành và ba Vô vi.

Thứ hai là nghĩa về Chánh cần, hai loại đầu là đoạn trừ pháp ác, hai loại sau là thâu nhiếp pháp thiện. Trước là trong lìa ác, trước đoạn ác chưa sinh, sau đoạn ác đã sinh, đây chính là nói đến thời gian chứ không phải là Thể của hành; cũng có thể ác đã sinh là trước đó trở thành Vô minh trú địa, vi tế cho nên đoạn sau, ác chưa sinh là bốn trú hiện khởi, thô thiển cho nên đoạn trước. Ác chưa sinh là nêu ra pháp đã đoạn, khiến cho không sinh là việc làm của Cần, muốn sinh ra tiến lên là tâm phương tiện của Cần, phát tâm đoạn trừ là chính thức trình bày về Thể của Cần. Trong pháp ác đã sinh, tương tự như vậy có thể biết. Đã sinh rồi tàn lụi đi, làm thế nào có thể trừ bỏ? Đây chính là đoạn trừ đối với chủng loại đã sinh ở vị lai khiến cho không nối tiếp nhau, không phải là nói đoạn trừ đối với chủng loại khởi lên rồi diệt mất. Sau là trong sinh thiện, trước khởi lên thiện chưa sinh, sau mở rộng thiện đã sinh. Thiện không phải là vốn có, huân tập mới sinh khởi, vì vậy cần phải trước khởi lên thiện chưa sinh, sau mở rộng thiện đã sinh. Thiện chưa sinh là nêu ra pháp đã tu, khiến cho sinh ra là việc làm của Cần, muốn sinh ra thường xuyên là tâm phương tiện của Cần, phát tâm thực hành là chính thức trình bày về Thể của Cần. Pháp thiện đã sinh giống như trước. Đã sinh rồi tàn lụi đi, làm thế nào có thể thúc đẩy? Pháp này nhất định thúc đẩy chủng loại đã sinh của nó ở vị lai khiến cho nó nối tiếp phát khởi, không phải là nói thúc đẩy chủng loại của nó khởi lên rồi diệt mất.

Thứ ba là nghĩa về Như ý, ngay trong văn này, đầu là tổng quát nêu ra, sau là giải thích riêng biệt. Nói đến Dục định là thẳng thắn nêu ra Thể của hành, Dục có thể sinh ra Định, nhân thuận theo quả phù hợp, cho nên gọi là Dục định; cũng có thể Tâm định do Dục mà sinh, nêu ra nhân gọi đến quả, cho nên gọi là Dục định. Đoạn hành thành tựu là phân rõ về công năng, bởi vì thực hành Định này có thể đoạn trừ các kiết, cho nên gọi là Đoạn hành thành tựu; cũng có thể tên gọi của Niếtbàn kia gọi là Đoạn, Đoạn quen rồi hành thành tựu gọi là Đoạn hành thành tựu.

Tu pháp Như ý là dựa vào Dục định trước đây để trình bày về tu pháp ấy. Nương tựa chán ngán trở xuống là trình bày về Đoạn hành thành tựu thứ hai trước đây. Đối với các phiền não, bắt đầu là đạo phương tiện quán sát về lỗi lầm mà chán ngán rời bỏ, thì gọi là Yếm; đích thực đoạn không ngăn ngại, thì gọi là Ly; giải thoát chứng được trừ bỏ, thì gọi là Diệt; hướng về Niết-bàn, gọi là hướng về Xả. Nếu tùy theo phạm vi của phần vị, Kiến đạo về trước thì gọi là Yếm, trừ mê hoặc về Kiến đế thì gọi là Ly, đoạn kiết của Tu đạo thì gọi là Diệt, đạt được quả Niết-bàn thì gọi là Xả. Đây chính là các hành đối trị kiết theo thứ tự, không cần phải đối trị riêng biệt các hành như Niệm xứ…, hành còn lại tương tự như vậy. Vì sao Niệm Cần không trình bày về điều này? Bởi vì thành tựu được Định mới có công năng này, cho nên trước đây không nói, Tinh tiến có thể hiểu.

Tâm định thì trong kinh-luận khác gọi là Niệm định, giữ ý trú vào duyên cho nên gọi là Niệm, chuyên tâm giữ lấy cảnh cho nên gọi là Tâm. Tư duy định thì trong kinh-luận khác gọi là Tuệ định, Tuệ tâm suy tính cho nên gọi là Tư duy; còn lại rộng ra như Luận mà thôi.

Hai là năm hàng trong phần bảo vệ Tiểu thừa, trong kinh sót câu thứ ba.

Trong quả thù thắng của Địa, đầu là trình bày về quả của hành, tiếp là riêng biệt về quả của Địa. Phần đầu là quả của hành có sáu, bắt đầu từ lìa phiền não cho đến thứ sáu là tâm giới vốn có đầy đủ, trong kinh tóm lược không có nghiệp nhiễm ô thứ hai, nghĩa còn lại có thể biết. Lại trong phần lìa phiền não, văn tuy khác nhau mà ý cũng có thể đầy đủ. Lại nghiệp nhiễm ô trong Luận thì có hai nghĩa về không làm:

1/ Bởi vì kính Phật, cho nên Phật đã quở trách thì không làm.

2/ Bởi vì sợ tiếng xấu làm mất lợi ích của người, sinh khởi phiền não làm mất lợi ích của mình, cho nên không làm. Trong phần Dục tăng thượng, thứ ba là lìa xa lỗi lầm, trong câu riêng biệt sót câu thứ nhất. Trong phần Phát cần tinh tiến, kinh-luận tựa như không có thứ tự, nhưng dựa vào thứ tự trong văn của Luận, ý cũng không có gì sai. Trong phần tâm giới vốn có cũng như vậy.

Trong văn về quả của Địa, ba quả giống như trước. Trong quả Điều nhu, văn phân ra có bốn: Một, hạnh Điều nhu; hai, từ “Ma ni châu…” trở xuống là trình bày về Trí giáo thanh tịnh, bởi vì Địa này thành tựu thanh tịnh về Chứng từ Thể khởi Dụng, cho nên có Trí giáo không giống như Địa trước; ba, từ “Tứ nhiếp…” trở xuống là trình bày về hành của Địa riêng biệt, bản kinh tóm lược không có câu này; bốn, từ “Thị danh…” trở xuống là tổng quát kết luận về tướng tuyên thuyết. Trong phần một có ba: Đầu là pháp, tiếp là dụ, sau là hợp. Trong pháp có ba: Một, thấy chư Phật là duyên của khởi hạnh; hai, từ “Cung kính…” trở xuống là phân rõ về năng lực luyện tập thực hành; ba, từ “Thị Bồ-tát lạc tâm…” trở xuống là trình bày về sự luyện tập thanh tịnh. Nghĩa còn lại như Luận nên biết.

Thứ ba trong phần trùng tụng: Một là phân rõ về ý tuyên thuyết, hai là chính thức kệ tụng. Tụng có hai mươi chín kệ: Hai kệ đầu tụng về nhân tăng trưởng, ba kệ tiếp theo tụng về phần thanh tịnh, bảy kệ tiếp theo tụng về phần tăng trưởng tu hạnh đối trị, chín kệ tiếp theo tụng về quả tăng trưởng, bảy kệ tiếp theo tụng về ba quả như Điều nhu-Nhiếp báo…, một kệ tiếp theo là tổng quát kết luận ca ngợi.

Phần 2

Trong Địa thứ năm có sáu môn giống như trước.

1. Giải thích tên gọi, đạt được phương tiện khéo léo của trí xuất thế gian, có thể hóa độ những chúng sinh khó hóa độ, cho nên gọi là Nan Thắng địa.

2. Trình bày về đã lìa xa, nếu theo Địa Luận thì lìa chướng ngã mạn về thân thanh tịnh; nếu theo Nhiếp Luận thì Vô minh về Bát Niếtbàn của Thừa bậc Hạ. Lại có hai chướng: Một là Sinh tử và Niết-bàn luôn luôn tư duy dẫn đến trái ngược, hai là do phương tiện thâu nhiếp tu tập về Đạo phẩm. Lại đối trị hai nghiệp chướng và một Báo về nhân duyên sinh tử.

3. Trình bày về đã hiển bày, là hiển bày về nghĩa nối tiếp nhau không khác.

4. Trình bày về đã thành tựu, là thành tựu về Thiền Ba-la-mật và Học về bốn Đế.

5. Trình bày về đã đạt được quả, thông đạt về công đức của pháp giới nối tiếp nhau không khác, đạt được quả Pháp thân không sai biệt với chư Phật ba đời, và thành tựu phần vị của Địa thứ năm; quả gồm chung giống như Địa thứ nhất.

6.  Giải thích văn, trong văn toàn bộ phân định có ba: Một là kệ tụng sinh khởi phần sau, hai là giải thích về Thể của Địa, ba là dùng kệ kết thúc phần trước.

Phần một là kệ tụng, có mười lăm kệ: Đầu có hai kệ về ba nghiệp vui mừng tùy thuận tu pháp cúng dường của Bồ-tát, tiếp theo hai kệ của Thiên vương ca ngợi về công đức không nhiễm ô của Phật Bồ-tát, tiếp theo mười kệ của Thiên nữ ca ngợi về công dụng trọn vẹn của hai phần

vị nhân và quả Đại Từ Bi, tiếp theo một kệ là Giải Thoát Nguyệt thưa thỉnh hiển bày tiến vào phần sau của Chứng.

Ngay trong phần Thiên nữ: Bảy kệ đầu ca ngợi về nhân, tiếp theo hai kệ ca ngợi về quả, tiếp theo một kệ hiển bày về hạnh thành tựu nhân của Chứng.

Phần hai là Thể của Địa, có ba: Một là đối trị về mạn hơn hẳn; hai là hạnh thù thắng không trú vào đạo; ba là quả thù thắng của Địa.

Văn trước có hai, dựa theo hai loại mạn: Một là mạn thuộc Địa mình, hai là mạn thuộc Địa khác. Địa khác là trong bốn Địa trước đây đạt được trí xuất thế, chấp lấy tướng thù thắng ấy thì gọi là mạn, về sau dùng mười loại tâm thanh tịnh để đối trị. Hai là mạn thuộc Địa mình, ở trong mười loại tâm này mong cầu về tướng thù thắng, lại cho là mạn, về sau dùng tùy thuận như đạo để đối trị. Trong hai phần này cùng gọi là mạn hơn hẳn(thắng mạn), bởi vì mạn đối trị giống nhau.

Văn phần một có ba: Một là nhắc lại phần trước sinh khởi phần sau khuyến khích tu tập tiến vào, hai là phân rõ về mười tâm, ba từ “Bồtát dĩ thị…” trở xuống là kết luận về thành tựu lợi ích.

Lại cùng niệm tâm không thối chuyển, là tâm phương tiện thanh tịnh và tâm chứng không thối chuyển cùng duyên với Chánh lý không khác. Lại bảy loại thanh tịnh trong văn: 1) Giới; 2) Định; 3) Kiến; 4) Độ nghi; 5) Đạo và phi đạo. Năm loại này thì Đại thừa và Tiểu thừa cùng chung tên gọi, tên gọi hai loại sau khác với Tiểu thừa.

Hai loại sau là: 1) Hành tịnh; 2) Hành đoạn. Bởi vì tông chỉ của Tiểu thừa vốn là Diệt. Tên gọi ở Đại thừa, một gọi là Hành đoạn, hai gọi là Tư lượng Bồ-đề phần pháp thượng thượng tịnh, bởi vì tông chỉ của Đại thừa là dựa vào Hành đoạn mà khởi lên mong cầu thù thắng. Hành tuy có bảy loại mà văn có sáu câu, trong câu thứ ba có hai loại thanh tịnh, đó là Kiến hành thanh tịnh và Độ nghi thanh tịnh, tướng còn lại có thể biết.

Về phần vị, nếu dựa vào Tiểu thừa thì Giới và Định là trước Kiến đạo, tiếp theo ba loại là Kiến đạo, tiếp theo một loại là Tu đạo, tiếp theo một loại là đạo Vô học. Theo Đại thừa thì nói đến ba phần vị, Hành đoạn và Hành ở trong Tu đạo, còn lại đều giống như trước, nguyên cớ như trong Đại sớ.

Hai là hành tùy thuận như đạo, có ba: Một, nêu ra phần trước phát khởi phần sau tổng quát hiển bày về như hành; hai, từ “Đắc Đại nguyện…” trở xuống là riêng biệt trình bày hành tướng tùy thuận như đạo; ba, từ “Sinh định bất thối…” trở xuống là tổng quát để kết luận.

Ngay trong phần một là tổng quát, Thể của pháp có ba, câu riêng biệt có bốn. Thể của pháp có ba:

  1. Đạo phẩm đã tu của bốn Địa.
  2. Mười loại tâm thanh tịnh trước Địa này.
  3. Hành tùy thuận như đạo trong Địa này, văn có bốn có thể biết.

Trong phần không trú vào đạo, văn kinh có hai: Một, nêu ra bốn Đế phân biệt về thật pháp, bảo vệ phiền não là hành Tự lợi; hai, phân biệt về hóa độ chúng sinh, bảo vệ Tiểu thừa là hành Lợi tha. Kinh trước có hai: Đầu là nêu ra bốn Đế phân biệt về thật pháp, sau là dựa vào bốn Đế này trình bày về mười môn Quán, tức là phân biệt về hóa độ chúng sinh.

Văn này có hai: Một là nêu ra mười tên gọi, hai là theo thứ tự giải thích về văn. Trong môn bốn Đế thì nghĩa bao gồm pháp giới, Bồ-tát ở trong đó hiểu rõ cùng tận không có gì sót, tùy theo trí bàn luận khác nhau mở rộng tách biệt khó hết, nay ở đây tạm thời dựa vào một số tròn tóm lược làm mười môn.

Nhưng mười môn này Bồ-tát tự biết, tướng biết khó trình bày, cho nên dựa vào hóa độ chúng sinh để hiển bày khác nhau. Đây chính là dựa theo sự hóa độ để hiển bày về tự biết mà thôi, cho nên lấy điều này làm tên gọi chung là trí thanh tịnh trong pháp đã nhận biết.

Nói về khai-hợp thì toàn bộ mười môn này chỉ là một phần phân biệt về hóa độ chúng sinh. Nếu tùy theo Đại-Tiểu đã hóa độ thì phân làm hai: Chín môn trước hóa độ Tiểu thừa, một môn sau hóa độ Đại thừa.

Tùy theo hóa độ mà phát khởi thì phân làm ba: Năm môn trước hóa độ chúng sinh khiến cho họ sinh ra hiểu biết, bốn môn tiếp theo hóa độ chúng sinh khiến cho họ phát khởi thực hành, một môn sau cuối hóa độ chúng sinh khiến cho họ tiến vào Chứng đắc.

Dựa theo người không giống nhau thì tách ra làm bảy: Môn thứ nhất là bốn Đế hóa độ đối với người căn chưa thuần thục, môn thứ hai hóa độ đối với người căn đã thuần thục, môn thứ ba hóa độ đối với người nghi ngờ về pháp sâu xa, môn thứ tư hóa độ đối với người hiểu sai lầm về pháp, môn thứ năm hóa độ đối với người lìa xa Chánh niệm, môn thứ sáu-thứ bảy-thứ tám-thứ chín hóa độ đối với người Chánh kiến, môn thứ mười hóa độ đối với Đại thừa.

Có thể hóa độ tùy theo pháp không giống nhau thì phân ra làm mười. Nếu mở rộng phân biệt thì số tách biệt vô lượng.

Nói đối với thật pháp phân rõ về chung-riêng, mười môn này hướng về bốn Đế trước thì tất cả đều là chung: Đầu tiên Thế đế là quán chung về tướng pháp sai biệt của bốn Đế. Đệ nhất nghĩa là quán chung về Thể tánh rỗng lặng của bốn Đế. Nói đến Tướng đế là quán chung về bốn Đế không phải có-không phải. Nói đến Sai biệt là quán chung về bốn Đế có-không đều khác nhau. Nói đến Thành đế là quán chung về bốn Đế duyên khởi tập hợp mà thành tướng trạng của sự việc. Nói đến Sự đế là quán chung về mê lầm bốn Đế tạo thành sự việc như Khổ… Nói đến Sinh đế là mê lầm chung về bốn Đế khởi lên tạo tác tụ tập. Tận vô sinh là hiểu biết chung về bốn Đế có thể Chứng Diệt. Nói đến Nhập đạo là hiểu biết chung về bốn Đế có thể Thành Đạo. Bồ-tát ở Như Lai địa, Thành đế là thông suốt tận cùng về cõi thanh tịnh, thật tánh duyên khởi về bốn Đế, thành tựu nhân quả của đạo Đại thừa.

Vả lại, Đế ở đây thì bốn Đế trước thẳng thắn trình bày về Thể tánh của pháp giới là không, chứ không phải là bốn Đế; bốn Đế như Sự… trở xuống là có, chứ không phải là bốn Đế. Năm Đế ở giữa là tướng tu phương tiện hiểu rõ về quán theo thứ tự; một Đế sau cùng trình bày đích thực hợp với tự Thể cùng khắp pháp giới, nhân tròn vẹn bao gồm diệu đạo, đức đầy đủ không có gì chướng ngại.

Nếu dựa theo giáo duyên với tướng sai biệt của pháp: Bốn Đế đầu tiên thẳng thắn trình bày về Thể của pháp. Tiếp là Thế đế-Đệ nhất nghĩa đế trình bày về Tướng. Tiếp là Tướng đế thì trình bày về tướng của một Thật đế. Tiếp là Sai biệt thì trình bày về tướng pháp của pháp giới. Thành đế là trình bày về tướng của pháp giới như vậy, bởi vì phàm phu mê lầm điên đảo, cho nên Bồ-đề trở thành phiền não, ba cõi phát triển mạnh mẽ, quy tụ tạo thành các tướng ở thế gian. Tiếp là trình bày về bốn Đế thuộc Sự để làm rõ đích thực tu hạnh phương tiện đối trị. Như vậy là có chứ không phải là bốn Đế, chính là Bồ-tát đích thực tu pháp phương tiện, nhưng mà bởi vì pháp chung không có giới hạn, cho nên Nhị thừa cũng có thể tu tập tiến lên từ trong đó, xuống đến nghiệp thiện của hàng trời-người cũng thực hành từ trong đó. Nay chỉ có Bồ-tát này đích thực tu đạo phương tiện đối trị đầy đủ, có thể hiển bày phát khởi hợp với tự Thể cùng khắp pháp giới, đạo vô cùng trọn vẹn không có gì chướng ngại, bởi vì muốn trình bày về Bồ-tát địa cho nên theo thứ tự tiến vào Đế thuộc trí của Như Lai. Quán này ý như Luận.

Trí của Tín giải không phải là trí nhận biết về Vô tận, là giải thích về văn thuộc Như Lai đế trước đây, nghĩa là trí nhận biết về nhân không phải là trí nhận biết về quả Vô tận. Lại có thể nói văn tự A-hàm, trí nhận biết của Tín không phải là trí nhận biết về nghĩa Vô tận không có thể nói, văn này dựa theo Giải mà chọn lấy thôi. Trong phẩm Ly Thế Gian sau này lại tiếp tục chọn lấy văn, là dựa theo Hành mà chọn lấy.

Giải thích rằng trí của cảnh tượng, ba Thừa trước Kiến đạo dựa vào Định mà thành tựu, như cảnh tượng trong gương thành tựu tự tại. Phần vị ấy không nhất định, hoặc là bốn tâm thiện như Noãn… trước Kiến, hoặc là bốn Định như Quang đắc…, hoặc là bốn mươi tâm của Địa tiền, hoặc là Thập Hạnh-Thập Hồi hướng…, hoặc là Tu tuệ thế gian, cho đến đạt được Định trở đi chính là phần vị ấy.

Hai là văn về phần phương tiện chịu khó bảo vệ Tiểu thừa, có hai: Một, quán sát hữu vi hư vọng giả dối não loạn chúng sinh mà khởi niệm Từ Bi; hai, từ “Đắc như thị trí tuệ…” trở xuống là riêng biệt trình bày về Từ Bi. Văn này có hai: Một là trình bày về nguyện Hóa tha, hai từ “Như thật quán nhất thiết hữu vi…” trở xuống là trình bày về tâm Hóa tha. Văn này có hai: Trước là Bi, sau từ “Như thị khổ não đẳng…” trở xuống là phân rõ về Từ. Văn về Bi có hai: Một là phát khởi phương tiện về Bi, hai từ “Tri chúng sinh…” trở xuống là chính thức trình bày về Bi quán. Trong đó có hai: Một, quán sát khổ như thật nhận biết về Thể tánh của khổ; hai, từ “Hựu tác thị niệm…” trở xuống là quán sát về khổ sâu nặng. Dựa vào con người làm rõ về lỗi lầm để trình bày điều ấy thật đáng thương xót.

Ngay trong khổ sâu nặng, văn kinh có hai:

a) Quán sát chúng sinh rất lạ lùng bởi vì nhận chịu khổ đau mà không biết chán ngán lìa xa.

b) Từ “Vô minh si cố…” trở xuống là trình bày về nguyên cớ thật đáng quái lạ của các chúng sinh. Trong đó có hai: Một là trình bày về rất khổ, hai từ “Như thị sinh tử…” trở xuống là trình bày về khổ đau nặng nề ấy.

Hai là trong văn giải thích về Từ, toàn bộ phân định có hai: Một, tu tập pháp thiện vì chúng sinh; hai, từ “Như thị tư duy…” trở xuống là tùy theo sự tu tập phát nguyện làm lợi ích. Văn phần một có hai: Một là đối với niệm ác của chúng sinh từ vô thỉ, phần này văn kinh sót câu thứ ba-câu thứ năm-câu thứ sáu; hai là chỉ một mình ta quy tụ pháp thiện. Trong phần hai là phát nguyện làm lợi ích: Một câu đầu là tổng quát, chín câu sau là riêng biệt. Trong này văn kinh cũng không có thứ tự, dựa vào thứ tự làm mất văn thì nghĩa cũng không có gì sai.

Văn giải thích về phần quả, toàn bộ phân định có bốn: Một là thâu nhiếp công đức thù thắng, hai là tu hạnh thù thắng, ba là giáo hóa chúng sinh thù thắng, bốn là khởi trí tùy thuận thế gian thù thắng. Hai phần trước là Tự hành, là quả thanh tịnh của trí nhận biết trước đây, thâu nhiếp công đức là phần mình đã thành tựu, tu hạnh thù thắng là thắng tiến đã thành tựu. Hai phần sau là Lợi tha, là quả phương tiện chịu khó làm lợi ích chúng sinh trước đây, giáo hóa chúng sinh thù thắng là hạnh của Hóa tha, trí tùy thuận thế gian là trí của Hóa tha. Văn còn lại có thể biết.

Trong phần bốn là trí tùy thuận thế gian: Một, tổng quát phân rõ về ý; hai, từ “Tri thế sở hữu…” trở xuống là giải thích riêng biệt về trí hóa độ. Trong phần riêng biệt có mười: 1) Biết sách vở; 2) Biết tánh của đá…; 3) Phương pháp trị bệnh; ) Viết luận…; 5) Ngày tháng…; ) Trì giới…; 7) Không làm điều não hại; ) Làm điều an lạc; 9) Thương xót cho nên đưa ra; 10) Từ từ khiến cho tin vào Phật pháp Vô thượng. Kinh thiếu hai câu trong nghĩa thứ ba, trong nghĩa thứ tư không có một câu, văn còn lại như Luận.

Lại trong Luận khó hiểu, cát-hung-nhập… thường xuyên thay đổi tướng trạng, tướng toàn thân là tướng nhất định của quả báo. Thường xuyên thay đổi tướng trạng có tám: 1) Mặt trời; 2) Mặt trăng; 3) Sao (tinh), sao là năm sao, sao Tuế ở phương Đông, sao Oánh ở phương Nam, hoặc là sao Thái bạch ở phương Tây, sao Thần ở phương Bắc, ở giữa có sao Trấn, lấy làm năm Sao; ) Sao (tú), là hai mươi tám vì sao, đó là sao Giác-Cang…, bởi vì ở trong năm Sao lớn(tinh) cho nên gọi là Sao nhỏ (tú); 5) Mặt đất rung chuyển; ) Mộng; 7) Tưởng; ) Lành dữ, chồn cáo kêu… đều thuộc về điềm lành dữ. Lại bảy Diệu chính là mặt trời-mặt trăng và năm sao lớn. Nhập là thuận theo. Nghiệp là tám tướng của đời quá khứ, lại thuận theo tám tướng của vị lai mà biểu thị cho quả. Lại các tướng toàn thân là tướng nhất định của quả báo yêu quý-không yêu quý (ái-phi ái). Lại năm hành đối với năm nhiễm, là trì giới đối trị phá giới, bốn thiền đối trị tham dục, thần thông đối trị hướng về tà vạy, bốn Vô lượng đối trị việc làm xằng bậy như sát sinh cúng tế cầu phước…, bốn Không đối trị tu tập xằng bậy như giải thoát ngoại đạo tà tu…

Ngay trong văn về quả của Địa, ba quả giống như trước. Trong quả Điều nhu phân bốn: Một là tướng Điều nhu, hai từ “Hựu như nhật nguyệt…” trở xuống trình bày về Trí giáo thanh tịnh, ba là hành của Địa riêng biệt, bốn là kết luận về tướng tuyên thuyết. Trong kinh thiếu câu thứ ba.

Trong phần một có ba: Đầu là pháp, tiếp là dụ, sau là hợp. Trong pháp có ba: Đầu là trình bày về thấy chư Phật làm duyên của khởi hạnh; tiếp là năng lực luyện tập thực hành; sau là sự luyện tập thanh tịnh. Trong phần năng lực luyện tập thực hành: Trước là cúng dường, tiếp là tu hồi hướng, sau là thọ pháp thực hành. Trong kinh phần nhiều không đủ. Lại trong Địa thứ tư-thứ năm, quả xuất gia ở trong Điều nhu, nguyên cớ là vì từ Địa thứ tư trở đi đạt được hành vô lậu xuất thế, cho nên hiển bày về nghĩa của xuất gia, nghĩa còn lại như Luận nên biết.

Thứ ba là văn trùng tụng: Một là phân rõ về ý tuyên thuyết, hai là trình bày về lời lẽ trong kệ. Có ba mươi chín kệ: Mười một kệ đầu tụng về văn Mạn hơn hẳn, mười ba kệ tiếp theo tụng về không trú vào đạo thù thắng, bảy kệ tiếp theo tụng về không trú vào quả, bảy kệ tiếp theo tụng về ba văn như Điều nhu-Nhiếp báo…, một kệ sau cùng là kết luận.

Trong phần đầu về Mạn hơn hẳn: Hai kệ đầu tụng về bình đẳng, chín kệ tiếp theo tụng về hành tùy thuận như đạo. Trong phần tiếp là không trú vào đạo: Bốn kệ đầu tụng về Trí thanh tịnh, chín kệ tiếp theo tụng về văn chịu khó phương tiện làm lợi ích cho chúng sinh. Trong Địa thứ sáu có sáu môn giống như trước.

1) Giải thích tên gọi, thực hành Bát-nhã Ba-la-mật có gián đoạn mà Đại trí hiện ở trước mắt, cho nên gọi là Hiện Tiền địa.

2) Trình bày về đã lìa xa, theo Địa Luận thì vốn có chướng ngại do tập khí phiền não vi tế; nếu theo Nhiếp Luận thì tướng hành của Vô minh vi tế. Văn này thuộc về Địa thứ bảy. Lại có hai chướng: Một là chứng các pháp sinh khởi nối tiếp nhau, tức là mê lầm về Tục; hai là tướng của Tưởng thường xuyên khởi lên, tức là mê lầm về Chân. Lại đối trị hai nghiệp chướng và một Báo về nhân duyên sinh tử.

3) Trình bày về đã hiển bày, là hiển bày về nghĩa không có nhiễm tịnh.

4) Trình bày về đã thành tựu, là thành tựu về Bát-nhã Ba-la-mật và hiểu rõ được duyên khởi.

5) Trình bày về đã đạt được quả, thông hiểu về công đức không có nhiễm tịnh-chân như-mười hai duyên sinh, đạt được quả thanh tịnh nối tiếp nhau và có thể làm thanh tịnh tất cả nhiễm trược của chúng sinh, đến được phần vị của Địa thứ sáu; quả gồm chung giống như Địa thứ nhất.

6) Giải thích văn, trong văn này có ba: Một là kệ tụng sinh khởi phần sau, hai là phân rõ về Thể của Địa, ba là kệ tụng kết thúc phần trước.

Phần một là kệ tụng, có mười tám kệ: Đầu có hai kệ là Bồ-tát ca

ngợi, tiếp theo hai kệ là ba nghiệp cúng dường của chư Thiên, tiếp theo hai kệ là Thiên vương cùng với quyến thuộc ca ngợi về nghĩa của Địa, tiếp theo có mười một kệ là Thiên nữ ca ngợi về Thể của Địa và các hành khác, tiếp theo một kệ là Giải Thoát Nguyệt thưa thỉnh tiến vào phần sau của Chứng.

Văn về Thiên nữ ca ngợi, phân ba: Một kệ đầu là trỗi nhạc cúng dường, tiếp theo chín kệ là chính thức ca ngợi về quả đức và nhân, sau cùng một kệ là im lặng ngắm nhìn Đức Phật. Ngay trong văn của chín kệ trước: Bốn kệ đầu là ca ngợi về quả, năm kệ sau là ca ngợi về nhân. Văn về nhân có ba: Một kệ đầu là hành Đại Bi, tiếp theo ba kệ là hành sáu Độ, sau cùng một kệ là kết luận về thành tựu đức dụng.

Trong văn về Thể của Địa, toàn bộ phân định có ba: Một là đối trị về mạn hơn hẳn; hai là hạnh thù thắng không trú vào đạo; ba là trình bày về quả thù thắng của Địa.

Văn phần một có ba: Một là nhắc lại phần trước sinh khởi phần sau khuyến khích tu tập tiến vào, hai là phân rõ về tướng, ba là kết luận về hành thành tựu.

Đầu là trình bày về đối trị Mạn hơn hẳn, là trình bày về mười pháp bình đẳng, có hai ý: 1-Cảnh của Giải; 2-Cảnh của Hành. Nói đến cảnh của Giải thì chính là mười môn này làm pháp chuẩn mực, không trú vào đạo trở xuống trình bày dựa vào hành là phương tiện của Quán môn. Nói đến cảnh của Hành thì chính mười bình đẳng là Quán giải, bắt đầu không trú vào đạo trở xuống trình bày về tướng thành tựu của Quán, nhưng dựa vào Luận khác phân định thì văn ấy cũng thích hợp.

Dựa vào mười bình đẳng giải thích về tướng có hai: Một loại đầu là tổng quát, chín loại sau là riêng biệt. Trong chín có ba: Bảy loại đầu là lấy không để phá có, tiếp một loại là lấy có để phá không, tiếp một loại là có-không đều phá. Văn về bảy loại có ba: Một loại đầu là Không giải thoát môn thì quán về Vô tướng, tiếp theo năm loại là Vô tướng giải thoát môn thì quán về Vô sinh, tiếp theo một loại là Vô nguyện giải thoát môn thì quán về Vô tánh.

Thực hành theo thứ tự thì ở đây nêu ra Giải thành tựu ngoài Hạnh. Nghi ngờ rằng nếu các pháp là không có thì làm sao quyết định trú trì lâu dài? Bởi vì giải đáp nghi ngờ này, cho nên trong kinh nói vốn là Vô tánh. Nói là Vô tánh thì không có tánh thật. Lại nói nếu các pháp là không có thì làm sao hiện tại thấy thật có? Bởi vì phá bỏ nghi ngờ này, cho nên trong kinh nói tất cả các pháp bình đẳng Vô tướng. Lại nghi ngờ rằng nếu pháp là Vô tướng thì có nơi pháp sinh-có nơi pháp diệt, dẫn

20 đến tâm thường xuyên thấy chứ không do ý mình, sao nói là Vô tướng? Bởi vì phá bỏ nghi ngờ này, cho nên trong kinh nói tất cả các pháp bình đẳng Vô sinh.

Từ đây trở xuống là tự Thể thuộc Không, bởi vì không bằng Vô tướng… cho nên khác với trước. Nói là Vô sinh thì tất cả các pháp đều từ niệm sinh khởi chứ không có tự lập, làm sao nói là có? Bởi vì như Luận nói niệm lần lượt chuyển đổi.

Lại hỏi: Nếu pháp từ niệm sinh khởi thì nhân duyên không phải là một, các duyên như niệm… tôi đều không thấy, chỉ thấy pháp an lập đã thành tựu, không thấy niệm… thì tự nhiên thật là không có, pháp đã thành tựu nên nói là có? Bởi vì phá bỏ nghi ngờ này, cho nên trong kinh nói không có thành tựu. Nói là không có thành tựu, đã là pháp từ nơi khác sinh khởi, nhưng ông không thấy pháp ấy từ duyên mà phát sinh; đã chấp nhận là pháp từ nơi khác sinh khởi, nhưng ông không thấy tướng của pháp này, thì nên biết rằng pháp đã thấy tức là tự mình nói chứ không đạt được cảnh thật. Do vọng thấy mà thành tựu, cho nên Luận nói bình đẳng không có thành tựu. Hai loại này mê lầm về Khổ đế.

Lại hỏi: Nếu các pháp từ nơi khác sinh khởi chứ không có tánh tự mình sinh khởi, tôi chấp nhận không phải là có, nhân có thể thành tựu đã được thành tựu, nơi khác có năng lực này, thì nên nói là có? Bởi vì giải đáp nghi ngờ này, cho nên trong kinh nói lìa xa tất cả vốn là tất cả các pháp bình đẳng. Dựa vào kinh ở câu thứ tám, nói lìa xa là chỉ do tình đã chấp vào cảnh mà nói là thật. Luận về cảnh đã thấy thì không có nơi bắt đầu, một là không phải trước đây đã có, hai là không có lý thật, cho nên biết nếu từ duyên sinh khởi thì tương tự chứ không phải là thật. Vì vậy biết rằng cảnh đã thấy tức là tướng chứ không phải là có, cho nên Luận nói là tướng nhiễm ô. Đây chính là chấp về Tập đế.

Hỏi: Nếu là Tập đế thì thuộc về tụ của tâm, Giải đã thuộc về cảnh, làm sao thuận theo Tập?

Đáp: Luận về Thể chủ động chọn lấy chính là thuận theo duyên tương tự, bởi vì nghiệp phiền não chấp là trong cảnh, cảnh tức là không có, nghĩa thuộc về tướng chọn lấy, cho nên nói là Tập.

Lại hỏi: Các pháp nhân duyên tìm đầu đuôi của nó đều không thể nào đạt được, suy xét về ý này, pháp nhiễm dựa vào Thật mê lầm Chân mà sinh khởi, nhiễm có thể nói là không có, đã mê lầm Chân-Tục thì Diệt đế và Đạo đế theo lý phải là có?

Đáp: Ông cho rằng Chân-Tục theo lý là thật, nghĩa này không đúng, Diệt-Đạo Chân-Tục chính là cảnh giới của Chánh trí Phạm hạnh, làm sao lại nói rằng Như gọi là Thật? Bởi vì phá bỏ nghi ngờ này, cho nên trong kinh nói vốn có thanh tịnh bình đẳng. Nếu như Như gọi là thật, thì tâm tạp nhiễm sinh khởi không có thể nói là vốn có thanh tịnh, cho nên Luận nói là tướng thanh tịnh. Đây là mê lầm về Diệt đế và Đạo đế.

Lại hỏi: Nếu pháp không giống như đã thấy là thật có, thì không nên khởi lên ngôn thuyết thế gian, hiện tại có đủ loại tên gọi không giống nhau thì nghiệm về nghĩa của từng loại không phải là không có? Đáp: Như nói về tên gọi đã chấp thì không phải là một, đều là thế gian thi thiết chứ không phải là thật có từ trước. Vì sao biết được? Bởi vì chỉ thấy thế gian được nghĩa mà không được tên gọi, được tên gọi mà không được nghĩa, cho nên biết các tên gọi không nhất định theo nghĩa. Ông cho rằng nghĩa thật sự khởi lên tên gọi…, đây chính là hý luận chứ không phải là thật có. Bởi vì phá bỏ nghi ngờ này, cho nên trong kinh nói không có hý luận. Tên gọi không thật có nhưng nhờ vào nghĩa mà sinh khởi, nghĩa không tự mình làm sáng tỏ nhưng dựa vào tên gọi mà hiển bày, dựa vào điều này để nghiệm xét thì đều là nhân duyên hý luận. Lại quán xét về nhân của nghĩa thì không thấy quả của tên gọi, nhưng quán xét về quả của tên gọi thì không thấy nhân của nghĩa, bởi vì điều này tựa như hý luận cũng không có, cho nên Luận nói là tướng phân biệt. Sở dĩ chỉ nói đến phân biệt, là bởi vì hiển bày ngay nơi tướng Không. Đây là mê lầm về tên gọi bốn Đế. Trên đây đã nói về quán Vô sinh.

Lại hỏi: Tôi đã biết tướng là không có, rõ ràng sinh khởi không phải là có, thì nghiệm đúng như thật quyết định có thể hướng về chăng? Đáp: Ông cho rằng tự thấy là hư vọng không phải là có, thấy riêng lìa niệm là có thể hướng về, thì cũng là phân biệt, cho nên trong kinh nói không có lấy-bỏ. Không có lấy-bỏ vốn là tình thức, nghĩa là chọn lấy pháp đã thấy thì tất cả đều không chân thật, nay còn thấy lìa niệm là nơi hướng về, thì giống như hư vọng trước đây, cho nên Luận nói vốn là tướng ẩn hiện. Sở dĩ chỉ nói ẩn hiện bởi vì ẩn hiện tức là Không. Trên đây là lấy không để loại bỏ có.

Lại hỏi: Tôi tìm tướng sinh khởi là không có, lại biết lìa niệm không phải là có, nên biết các pháp như chân-tục nhiễm-tịnh… đều không có Thể của nó, không thể nào tiến tới để hướng về chăng?

Đáp: Ông thấy nhiễm-tịnh không thể nào tiến tới để hướng về, nói là không có pháp thì nghĩa này không đúng. Bởi vì phá bỏ nghi ngờ này, cho nên trong kinh nói như huyễn mộng… Nếu pháp đều không có thì tại sao có nơi mộng, có nơi không mộng? Nghiệm xét điều này thì biết, tất cả các pháp không nhất định là không có, cho nên Luận nói Ngã không phải là tướng có. Sở dĩ vì phá bỏ Ngã không có, cho nên chỉ nói Vô ngã, đây là bởi vì lìa Ngã cho nên không trú vào Vô ngã. Duyên thành tựu sự việc huyễn ảo ở đây không giống như kiến chấp ở trên, đây chính là lấy có để phá không.

Lại hỏi: Vì sao trước đây khởi lên tám loại kiến chấp, bởi vì không hết lý cho nên lấy không để phá có; lại khởi lên một kiến chấp, cũng không hết lý cho nên lấy có để phá không; nay tôi hiểu là suy tìm không thể nào chọn lấy riêng có-không, nay thành tựu đầy đủ hai nghĩa, điều này có thể hợp lý chăng?

Đáp: Như pháp đã thấy bên ngoài bởi vì không vượt qua tình thức, cho nên biết như cảnh đã thấy không có nghĩa không phải là có nghĩa, có nghĩa không phải là không có nghĩa, căn cứ vào lý này, thì không là có, có-không là một. Bởi vì phá bỏ nghi ngờ này, cho nên trong kinh nói có-không không hai. Nói không hai là pháp không tự mình tồn tại, thuận theo duyên thành tựu mà khởi lên. Lại không phải là duyên cho nên thành tựu pháp của quả, tìm các pháp ấy không vượt qua tự-tha, tự-tha không tồn tại, ngay nơi sự việc mà phân rõ về Không. Nếu như thấy có-không thì đây là bởi vì không vượt qua hai ranh giới tự-tha, cho nên Luận nói vốn là thành hoại. Sở dĩ chỉ nói đến thành hoại, bởi vì nói thành hoại tức là Không, cho nên không tìm cầu riêng biệt. Nên biết rằng pháp bình đẳng không hai, không phải là trừ diệt có-không mà nói là không hai. Đây tức là như thật mà nghiệm xét, nghĩa là tên gọi cókhông là hý luận, cũng không phải là trong hai pháp có-không thiết lập riêng một pháp cho là không hai. Không cùng chọn lấy giống như trên, bởi vì pháp nhân duyên có-không chung một Thể, đều không phải là tự tánh. Nói đến pháp không kia bởi vì có, có thì không phải là có; lại nói đến pháp có kia bởi vì không, không thì không phải là không. Bởi vì có không phải là có, cho nên ngoài không lại không, riêng có là hai. Bởi vì không không phải là không, cho nên ngoài có lại không, pháp không là hai. Do đó nói là có-không không hai. Lại nữa, nói đến pháp có-không kia vốn là không hai, cũng không có tự tánh không hai có thể chọn lấy. Đây là phá về có-không đều chấp.

Thứ ba là văn kết luận có hai có thể biết, nghĩa về tướng như Luận mà thôi.

Trên đây dựa theo mười hai Nhập để trình bày về pháp chuẩn

mực, dưới đây dựa theo mười hai Duyên sinh để phân rõ về nơi nương tựa của Quán môn.

Hỏi: Trên đây trình bày về pháp chỉ dựa theo mười hai Nhập, các Quán môn dưới đây vì sao chỉ dựa vào Duyên sinh?

Đáp: Bởi vì thâu nhiếp về pháp cho nên chọn lấy rộng rãi, dựa theo mười hai Nhập để gồm chung y-chánh, nay dựa theo Quán môn thâu nhiếp bên ngoài, bởi vì từ bên trong cho nên giới hạn ở Duyên sinh. Văn này có hai:

1/ Dựa vào bắt đầu trú để trình bày về không trú, tức là tổng quát về Lập tông.

2/ Từ “Tác thị niệm…” trở xuống là dựa theo chính thức trú để mở ra Quán môn, tức là riêng biệt giải thích. Địa trước yếu kém cho nên chính thức trú trong Địa mới gọi là không trú, Địa này mạnh mẽ cho nên bắt đầu trú trong Địa thì gọi là không trú.

Văn phần một có hai: Một, quán về tướng của pháp… là nhắc lại phần trước để phát khởi phần sau, nói đến tướng của pháp là nhắc lại mười pháp bình đẳng trong văn trước đây, tùy thuận nhắc lại phần trước có thể tiến vào Địa thứ sáu, đây là theo Luận, kinh có thể biết. Hai, từ “Phục dĩ thắng Đại Bi…” trở xuống là chính thức hiển bày về không trú, trong đó nối thông xuống dưới sáu câu phân biệt.

Một là giải thích về tên gọi: Bởi vì đối với Quán trước đây cho nên nói Quán này là lại (phục), Đại Bi đầu tiên là tâm nghĩ đến chúng sinh, trừ diệt đau khổ là Bi, Bi tăng lên gọi là Đại. Đại Bi tăng lên là tâm mong cầu thương xót vô cùng gọi là tăng thượng, cũng có thể mong cầu đối với quả tăng thượng cho nên gọi là tăng thượng. Bởi vì cầu Phật trí làm lợi ích chúng sinh, cho nên gọi là Đại Bi. Nói là đầy đủ, bởi vì tâm lìa hữu vi, chán ngán hữu vi cho nên quán sát về duyên khởi, quán sát đến cùng tận gọi là đầy đủ. Điều này thì trong kinh-luận không giống nhau. Nếu theo văn Luận thì có bốn câu, tức là dùng một câu sinh diệt thứ tư dựa vào ba môn trước để thành tựu hành tướng. Nếu theo bản kinh thì câu thứ ba là sinh diệt, tức là dùng sinh diệt để quán sát đầy đủ. Căn cứ vào kinh-luận, thì có hai ý giải thích về môn sinh diệt:

1- Dựa vào luận, đó gọi là nhân duyên Bồ-đề và chúng sinh đều là hữu vi, nay dùng trí nhận biết cho nên nói là quán sinh diệt.

2- Dựa vào kinh, pháp nhân duyên thì thuận với sinh mà trái với diệt, chính là vì cứu giúp chúng sinh cho nên nói là Đại Bi. Vả lại, nếu dựa vào kinh làm thành bốn câu, thì cũng có thể biết được.

Hai là trình bày về nghĩa của ba tâm theo thứ tự: Nương theo pháp

Không quán sát trước đây, liền nghĩ đến chúng sinh do hư vọng ràng buộc, cho nên trước tiên khởi lên tâm Bi; bởi vì ý niệm về Bi cho nên cầu mong trí tuệ của Phật, muốn làm lợi ích cho nên khởi lên tâm thứ hai; trí tuệ của Phật nhất định phải do lìa xa lỗi lầm mà thành tựu, cho nên khởi lên tâm thứ ba.

Ba là phân biệt về Tự lợi-Lợi tha: Một tâm trước là Lợi tha, hai tâm sau là Tự lợi.

Bốn là phân biệt về bảo vệ phiền não-bảo vệ Tiểu thừa: Hai tâm trước là bảo vệ Tiểu thừa, một tâm sau là bỏa vệ phiền não.

Năm là phân biệt về nhân quả: Hai tâm đầu và sau thâu nhiếp về nhân, tâm thứ hai là mong cầu về quả.

Sáu là phân biệt về không trú: Một tâm đầu là Lợi tha không trú vào Niết-bàn, hai tâm sau là Tự lợi không trú vào thế gian.

Văn phần hai là dựa vào chính thức trú để phân rõ riêng biệt về Quán môn, thứ nhất là gồm chung kinh-luận phân định lựa chọn Quán môn, thứ hai là giải thích về nghĩa.

Phần thứ nhất có ba: Một là dựa vào kinh phân định, hai là dựa vào luận phân định, ba là lấy kinh-luận đối lập với nhau để phân văn.

Một là dựa vào trong kinh phân định: Một, trình bày riêng biệt về mười quán; hai, trở lại kết luận về mười quán. Mười quán là những gì?

  1. Phần nhân duyên theo thứ tự.
  2. Từ “Tam giới hư vọng…” trở xuống là trình bày về Nhất tâm thâu nhiếp.
  3. Từ “Vô minh hữu nhị chủng…” trở xuống là trình bày về tự nghiệp giúp đỡ thành tựu.
  4. Từ “Vô minh linh hành bất đoạn…” trở xuống là không rời bỏ nhau.
  5. Từ “Vô minh ái thủ…” trở xuống là hành của ba đường.
  6. Từ “Vô minh hành thị quá khứ…” trở xuống là trình bày về quán sát thời gian trước sau.
  7. Từ “Vô minh hành nãi chí lục nhập…” trở xuống là trình bày về Tập của ba Khổ.
  8. Từ “Vô minh nhân duyên hành sinh…” trở xuống là phân rõ về nhân duyên phát khởi.
  9. Từ “Vô minh nhân duyên thị sinh phược…” trở xuống là phân rõ về nhân duyên sinh diệt ràng buộc.
  10. Từ “Vô minh nhân duyên thị tùy thuận hữu…” trở xuống là tùy thuận quán sát tất cả không gì vốn có. Trong đó tất cả đều có quán thuận-nghịch, tức là hai loại, văn kinh như vậy.

Hai là dựa vào luận phân định, Luận gia ngay trong mười loại quán này phân biệt làm ba môn:

a) Ngay trong tâm chán ngán lìa xa hữu vi, quán sát về mười hai nhân duyên, đây tức là môn sinh diệt đầy đủ ở trước.

b) Ngay trong tâm suy nghĩ sâu sắc đến chúng sinh, quán sát về mười hai duyên, sau này nói là quán về Bi tùy thuận, nói đến tùy thuận thì đây chính là khởi tâm Bi tùy thuận duyên sinh, tức là Bi trước đây làm đầu tiên.

c) Tâm mong cầu Phật, quán sát về mười hai duyên, văn Luận gọi là quán Nhất thiết tướng trí phân biệt, đây chính là quán về Bi tăng thượng ở trước.

Hỏi: Trước đây bắt đầu trú thì trước là trình bày về Bi làm đầu tiên, tiếp là nói về tăng thượng, sau là làm sáng tỏ về Bi đầy đủ; nay ở đây vì sao trước là đầy đủ, tiếp là Bi, sau là nói về tăng thượng?

Đáp: Trước đây trong bắt đầu trú, bởi vì tâm sinh khởi theo thứ tự, cho nên trước là Bi làm đầu tiên, sau là nói về Bi đầy đủ; nay ở đây thì bởi vì Chánh hạnh theo thứ tự, cho nên trước là Bi đầy đủ, sau là nói về tăng thượng. Nghĩa này thế nào? Trước đây trong bắt đầu trú nương theo mười pháp trên đây quán sát về pháp rỗng lặng, liền nghĩ đến chúng sinh bị ràng buộc vì pháp hữu vi hư vọng, vì vậy trước là phát khởi Từ Bi; muốn diệt trừ đau khổ thì cần phải đạt được trí tuệ của Phật, tiếp theo phát khởi tăng thượng; trí tuệ của Phật nhất định phải do lìa xa hữu vi mà thành tựu, cho nên trình bày về quán Sinh diệt đầy đủ… Nay trong Chánh hạnh thì lìa xa lỗi lầm làm bắt đầu, trước là chán ngán hữu vi, nhờ đó tự mình lìa xa lỗi lầm, liền nghĩ đến nơi chúng sinh không vượt ra.

Tiếp theo phân rõ về tùy thuận, hai loại trước thâu nhiếp về nhân, lý nhất định phải ở trước, Nhất thiết tướng trí là hành mong cầu về quả, lý cần phải ở sau. Trong ba môn này đều có mười loại về quán Nhân duyên-Tập thì trở thành ba mươi môn, trong mỗi một môn đều có nghịch-thuận thì trở thành sáu mươi loại. Trên đây phân biệt chỉ dựa vào trú Địa để trình bày về sáu mươi loại, đối với phần quả sau này có một trăm tám mươi môn về quán Nhân duyên. Sở dĩ biết như vậy, là bởi vì tìm theo văn của phần quả dùng ba môn về Không để phân biệt về duyên Tập, cho nên căn cứ vào môn này về sau đều thâu nhiếp không giống nhau. Kinh nói dựa vào Không giải thoát đạt được mười Tam-muội Không, Vô sinh-Vô nguyện cũng lại như vậy. Căn cứ vào ba Không này thì có ba nghĩa: Nếu dùng Tam-muội Không để quán sát về mười hai duyên thì mười hai duyên đều Không, sở dĩ biết như vậy là bởi vì Luận chủ đem Vô tướng phân biệt kết hợp với Tam-muội Không; nếu dùng Vô tướng môn để quán sát về mười hai duyên thì mười hai duyên tức là tương tự; nếu dùng Vô nguyện môn để quán sát về mười hai duyên thì mười hai duyên tức là thật. Trong Luận lại nói: Môn quán Vô tướng là tánh chân thật, do chân thật lìa tướng cho nên dùng để kết hợp, dùng Vô nguyện kết hợp với Vô sinh, bởi vì Vô sinh dựa vào nơi khác không có nguyện cầu gì, cho nên dùng để kết hợp. Pháp môn giống-khác về nhân duyên như vậy, dựa theo mười Tam-muội Không sau này suy nghĩ thì có thể hiểu.

Ba là lấy kinh-luận đối lập với nhau để phân văn, phạm vi của văn lại có ý khác, trước đây dựa vào mười loại trong bản kinh thì trở thành quán về nhân duyên chán ngán xa lìa hữu vi…, do đó căn cứ vào mười loại trước sau của bản kinh thành ra một trăm tám mươi môn.

Lại hỏi: Nếu dựa vào kinh-luận không có sáu mươi môn về quán tướng, thì làm sao có thể trở thành một trăm tám mươi môn?

Đáp: Dựa vào kinh ban đầu mở ra ba quán môn, sau Luận chủ vẫn chấp nhận hai mươi loại của bản kinh, mà lại riêng biệt phân rõ về ba môn-bốn môn-chín môn…; nay lấy ba quán môn mở ra trước đây để nghiệm xét, sau Thể của quán trong kinh, thì biết chắc chắn có sáu mươi môn.

Nay dùng Luận so sánh với kinh thâu nhiếp mười môn làm ba loại, ý thuận theo một quán chán ngán xa lìa hữu vi. Ý này về sau lại phân biệt, như vậy thì Luận thâu nhiếp phạm vi của kinh.

Ngay trong quán về chán ngán xa lìa hữu vi, thâu nhiếp mười loại quán môn trong kinh ấy để làm môn thứ nhất trong ba mươi loại, tức là lấy làm một, gọi là Thành đáp tướng; tiếp có nửa môn lại lấy làm một, gọi là Đệ nhất nghĩa; sau có tám môn rưỡi hợp lại làm một, gọi là Thế đế sai biệt.

Thứ hai là trong quán Đại Bi tùy thuận thâu nhiếp mười làm bốn, môn thứ nhất làm một, gọi là quán chúng sinh ngu si điên đảo; tiếp theo một môn làm một, gọi là cầu giải thoát ở nơi khác; tiếp theo ba môn làm một, gọi là cầu giải thoát ở đạo khác; sau cùng bốn môn làm một, gọi là cầu giải thoát khác nhau.

Trong quán Nhất thiết tướng trí phân biệt thâu nhiếp mười làm chín, đầu có nửa môn nói đó làm một, gọi là quán nhiễm tịnh; tiếp theo một môn rưỡi lại lấy làm một, gọi là quán nhiễm y chỉ; tiếp theo có năm môn phân biệt làm một; tiếp theo có hai môn lại hợp làm một, gọi là quán vô thỉ; tiếp theo một môn làm một, gọi là quán các loại, gồm chung các môn trước làm chín. Văn trong ba môn này, trước mà lại sau nên phân ra để giải thích.

Thứ hai là giải thích về nghĩa: Dựa vào bản kinh Đại, thì pháp giới duyên khởi mới có chúng sinh. Nay dùng phần chủ yếu để tóm lược thâu nhiếp làm hai: Một là dựa theo pháp nhiễm của phàm phu để phân rõ về duyên khởi, hai là dựa theo phần thanh tịnh của Bồ-đề để trình bày về duyên khởi.

Dựa theo phần thanh tịnh thì chủ yếu thâu nhiếp làm bốn:

  1. Vốn có.
  2. Vốn có tu sinh.
  3. Tu sinh.
  4. Tu sinh vốn có.

Nói đến vốn có (bổn hữu), duyên khởi vốn có thật, Thể lìa xa gọi là tình, pháp giới rõ ràng dễ thấy, ba đời không lay động. Trong phẩm Tánh Khởi nói: “Trong tâm chúng sinh có vô lượng quyển kinh, có cây lớn Bồ-đề, các Thánh cùng chứng, người chứng trước sau không giống nhau, cây đó không phân biệt sai khác, cho nên biết là vốn có.” Nhưng văn về duyên sinh này, mười hai nhân duyên tức là Đệ nhất nghĩa.

Nói đến vốn có tu sinh, nhưng các phẩm loại thanh tịnh vốn không có tánh khác biệt, nay dựa theo các duyên phát sinh pháp thiện mới, dựa vào các duyên ấy chính là pháp vọng, đã phát trí chân thật chính là hợp với Phổ Hiền. Thể của tánh vốn không phân biệt, Trí của tu cũng không phân biệt, bởi vì trí thuận với lý mà không thuận với các duyên, cho nên biết tu sinh tức là từ vốn có, cùng tánh mà phát ra. Vì vậy phẩm Tánh Khởi nói: “Gọi tâm Bồ-đề bởi vì là tánh phát khởi.”

Hỏi: Vốn có tu sinh đã là nghĩa mới phát, không phải là đã từng có, tại sao lại nói là thuận theo tánh vốn có ấy?

Đáp: Phẩm này bởi vì là nghĩa mới sinh cho nên nói là tu sinh, thân thiết với nghĩa vốn có cho nên thuận theo tánh phát khởi; như ngũ cốc hiện tại không phân biệt về kiếp bắt đầu, thuận theo thân thiết với ngũ cốc vốn có, không thân đối với duyên hiện tại, cho nên không nói là mới đạt được, điều này suy nghĩ có thể hiểu.

Nói đến tu sinh, căn thiện như Tín… trước đây chưa hiện rõ trước mắt, nay hướng về giáo thanh tịnh, nhờ vào duyên mới phát khởi, cho nên nói là mới sinh, vì vậy Luận nói bởi vì căn thiện ấy không có trí vô phân biệt.

Nói đến tu sinh vốn có, tánh Như Lai Tạng ấy ẩn kín ở các ràng buộc (triền), phàm phu thì mê lầm nơi chốn mà không giác ngộ, nếu đối với lúc mê lầm thì không gọi là có. Trong luận Vô Tướng nói: “Nếu có thì phải thấy.” Lại theo Nhiếp Luận nói: “Bởi vì có được-không được, thấy-không thấy…, nay đạt được trí vô phân biệt mới hiển bày Pháp thân ở trong ràng buộc thành tựu thanh tịnh, trước không có lực giống như pháp ấy không có, nay đạt được trở thành Dụng, khác với lúc đầu trước đây không có, cho nên không có thể nói là vốn có, mà nói là tu thanh tịnh.

Hỏi: Nếu nói bắt đầu hiển bày là tu khởi lên gọi là tu sinh, thì tại sao nói là hiển bày?

Đáp: Chỉ là hiển bày về nghĩa thành tựu vốn có trong môn tu sinh, trước đây ở tâm mê lầm không nói về Thể dụng, lúc này mới nói là có Pháp thân ấy, cho nên biết là thân thiết với pháp mới sinh khởi kia. Trước đây có nghĩa không thân, như Luận nói: Lìa-không lìa Vô thường, đã nói là Vô thường thì không có thể thuận theo vốn có.

Bốn nghĩa trên đây đối với lý duyên sinh này thật sự nối thông với có. Nếu đối với phần văn của kinh, thì mười loại duyên sinh này chỉ có hai môn, một là tu sinh, hai là tu sinh vốn có, hai loại còn lại thuộc về phẩm Tánh Khởi.

Thứ hai là pháp nhiễm phân biệt về duyên sinh, có hai nghĩa:

  1. Môn duyên khởi nhất tâm.
  2. Môn y trì nhất tâm.

1) Môn duyên khởi nhất tâm, toàn phần có ba: Một là môn Chânvọng duyên Tập, hai là môn Thâu nhiếp gốc theo ngọn, ba là môn Thâu nhiếp ngọn theo gốc.

Nói đến duyên Tập là luận về tướng tổng quát, mười hai nhân duyên cùng một Thức căn bản dấy lên không có chân-vọng khác biệt, như Luận nói: Dựa vào một tâm pháp có hai môn, bởi vì hai môn này không lìa xa nhau. Lại trong kinh này nói chỉ riêng tâm chuyển. Lại như Luận nói: Chân-vọng hòa hợp gọi là A-lê-da, chỉ riêng chân không sinh khởi, chỉ riêng vọng không thành tựu, chân-vọng hòa hợp mới có việc làm; như sự việc trong mộng, biết và ngủ hòa hợp mới có thể Tập khởi. Đây là môn Chân-vọng duyên Tập.

Hai là Thâu nhiếp gốc theo ngọn, bởi vì chỉ riêng vọng tâm dấy lên. Luận nói: Gọi là chủng tử của Thức và quả báo của Thức, lúc đạo đối trị thì Thức vốn có đều không còn, Pháp thân lưu chuyển trong năm đường gọi là chúng sinh, tùy theo nơi lưu chuyển ấy mà trở thành ý vị riêng biệt ấy. Pháp gieo trồng các khổ như vậy không phải là một, cho nên biết là Thâu nhiếp gốc theo ngọn của pháp ấy.

Hỏi: Lúc đang tùy theo nhiễm thì chính là nhiễm, hay là tịnh?

Đáp: Thể là tịnh ban đầu lại là tịnh, thì không thể nào gọi là tùy theo, cho nên biết lúc nhiễm thì không thể là tịnh. Nếu như vậy thì không nên nói dựa vào Như Lai Tạng có tâm sinh diệt, thích hợp chỉ là riêng sinh diệt. Nay nói là dựa vào nhau, như cách nói này thì người có trí cùng chứng nhiễm-tịnh, cho nên đưa ra cách nói này, không phải là giới hạn trong môn nhiễm.

Ba là Thâu nhiếp ngọn theo gốc, mười hai nhân duyên chỉ là chân tâm dấy lên, như sóng từ nước dấy lên, cũng như sự việc trong mộng chỉ là báo của tâm dấy lên, bởi vì vốn là chân tánh. Kinh nói các pháp như năm Ấm-mười hai nhân duyên-Vô minh… đều là Phật tánh. Lại kinh này nói ba cõi hư vọng chỉ do một tâm dấy lên. Luận giải thích rằng vốn là Đệ nhất nghĩa đế.

Hỏi: Thâu nhiếp ngọn theo gốc phải là phẩm tịnh, vì sao lại phân biệt ở môn nhiễm?

Đáp: Thâu nhiếp ngọn theo gốc này, lý thuộc về duyên sinh ở phẩm tịnh, nay bởi vì đối với nhiễm hiển bày về nhiễm như huyễn cho nên thuộc về môn nhiễm.

Hỏi: Nghĩa nếu như vậy thì tất cả pháp tịnh đều đối với nhiễm hiển bày về vọng, tại sao chỉ phân rõ Thâu nhiếp ngọn theo gốc thuộc về duyên sinh của nhiễm?

Đáp: Luận về duyên khởi của phẩm tịnh thì có hai loại của nó, một là vì đối với nhiễm để hiển bày về pháp vọng, cho nên kinh nói không biết đúng như thật về Đệ nhất nghĩa của các Đế; hai là chỉ hiển bày về duyên khởi của phẩm tịnh, tức là môn hiển bày về lý, chính là như các phẩm Phổ Hiền-Tánh Khởi… Nghĩa còn lại dựa theo đây có thể hiểu. Thâu nhiếp ngọn theo gốc này tức là Như Lai Tạng Bất Không, trong này cũng có nghĩa Không, bởi vì tự Thể thuộc Không, sau này sẽ phân biệt.

2) Môn y trì nhất tâm, các Thức thứ sáu-thứ bảy dựa vào A-lê-da mà thành tựu, cho nên Luận nói mười hai duyên sinh dựa vào Thức Alê-da, bởi vì Thức A-lê-da là nhân gồm chung.

Hỏi: Vì sao chọn lấy khác biệt với duyên khởi nhất tâm trên đây?

Đáp: Duyên khởi nhất tâm trên đây, bởi vì nhiễm-tịnh chính là Thể, không phân biệt khác nhau; môn y trì nhất tâm này, bởi vì năng-sở

250 không giống nhau cho nên phân làm hai.

Hỏi: Các nghĩa như trên đều là mỗi một môn riêng biệt, làm sao có thể thành tựu cảnh giới Chứng như nhau?

Đáp: Trên đây đã phân rõ đều dựa theo duyên hiển bày riêng biệt, tức là cảnh của Chứng duyên với đạo phương tiện, ham thích (dục lạc) đã khác nhau thì quán môn đã dựa vào không phải là một. Nếu tìm theo cảnh của Chứng thì như trên nói về mười bình đẳng.

Trên đây là phần thứ hai giải thích về nghĩa môn, xong.

Tiếp theo đối với văn giải thích về tướng riêng biệt của Quán môn. Dựa vào mười quán trong bản kinh, đầu là trình bày về quán thuận, sau là phân rõ về quán nghịch, còn lại đều giống như vậy, tướng của quán nghịch ấy về sau sẽ giải thích.

1) Quán theo thứ tự của phần nhân duyên, có ba loại phân biệt: Một là trình bày về chướng đã đối trị, hai là phân rõ về Thể của quán, ba là giải thích văn.

Nói về đối trị chướng là đối trị kiến chấp về Ngã, đó là nói mười hai phần đều do Ngã dấy lên, tức là tà kiến về Thân kiến ở tất cả mọi nơi. Nếu phân văn riêng biệt thì chỉ đối trị về kiến chấp của con người, đối trị về Hoặc này đều do ba Không kia. Tướng đối trị thế nào? Thật sự không có tướng của con người, thấy tướng thật của con người thì do Không môn mà đối trị; duyên khởi tựa như Ngã sinh, không như Sinh đã giữ lấy,chấp làm tướng tương tự, thì do Vô sinh mà đối trị. Sở dĩ có thể biết có Ngã tương tự kia, là bởi vì Luận nói Thức của tự-tha sai biệt từ Ngã kiến huân tập mà sinh khởi, cho nên có thể biết. Thành tựu Sinh tương tự và tướng thật của pháp, tức là Vô nguyện môn, cùng đối trị hai chấp trước đây; cũng có thể đối trị về tướng thấy Vô ngã-Không kia và thành tựu tám tự tại. Sở dĩ có thể biết, là bởi vì Luận nói tự Thể của Không là có. Đây là thành tựu tánh của Vô tánh, tức là môn đối trị về Hoặc.

Hai là Thể của quán, tức là hiển bày về nghĩa sinh khởi theo thứ tự của lý nhân duyên, dùng ba tánh là Không và tương tự-chân thật… làm Thể của quán thuận; nghịch thì trở thành quán về tánh Vô tánhKhông của một duyên khởi, tức là dùng lý duyên khởi theo thứ tự làm Thể của quán này, đây là dựa vào kinh phân rõ. Nếu dựa vào luận phân rõ thì chỉ dựa theo mà suy nghĩ thâu nhiếp.

Ba là giải thích văn, dựa vào phần nhân duyên tức là phần Nhân; theo thứ tự là từ từ từng bước; quán là nghĩa về hiểu biết rõ ràng. Dựa vào đây lấy làm đề mục của chương.

Văn này có bốn, thuận theo nhau làm ba, quy phạm chủ yếu làm hai, thâu nhiếp toàn bộ làm một, môn riêng biệt là bốn: Một, nêu ra Hoặc kia đã loại bỏ hiển bày thành tựu về Vô ngã môn; hai, theo luận từ “Ngu si…” trở xuống, theo kinh từ “Nhất thiết phàm phu…” trở xuống, là vặn hỏi về tình để hiển bày về Lý môn; ba, theo luận từ “Vô trí…” trở xuống, theo kinh từ “Thường tùy tà niệm…” trở xuống , là phân rõ về tướng để hiển bày về Thật môn; bốn, từ “Bất tri chư Đế, Đệ nhất nghĩa đế…” trở xuống là dựa vào Thật để phân rõ về Tướng môn. Thuận theo nhau làm ba, trong bốn môn thì một môn đầu gọi là Thành, trong giải thích về thành tựu Vô ngã thì hai môn gọi là Đáp, đáp hiển bày về Vô ngã thì một môn sau gọi là Tướng, đó là dựa vào hai Đế thiết lập về tướng của nhân duyên. Quy phạm chủ yếu làm hai, Tông của ba môn trước hiển bày về Vô ngã, tức là tánh của nhân duyên, một môn sau tổng quát hiển bày về tướng của nhân duyên. Thâu nhiếp toàn bộ làm một, toàn bộ làm thứ tự của phần nhân duyên thứ nhất.

Ngay trong phần thứ ba là phân rõ về tướng để hiển bày về Thật, chỉ bởi vì Si-Ái mà khởi lên các nghiệp hành, cho đến Lão-Tử không phải là bởi vì Ngã. Trong đó đầu là thuận, tiếp là nghịch, sau là kết luận.

Trong thuận, đầu tiên nói không có trí về có-không (hữu-vô), kinh nói “Thường tùy theo tà niệm”, là chi Vô minh, không có trí là Si, mong cầu là Ái, mong cầu Thường gọi là có, mong cầu Đoạn gọi là không. Quá khứ chỉ là Si, Thật tức là quá khứ có đủ các phiền não, lực của SiÁi mạnh mẽ, cho nên chỉ nêu ra hai loại này. “Luôn luôn tùy theo…” trở xuống là Hành, Hành có sáu câu, ba câu trước là lỗi lầm của Hành, ba câu sau là Thể của Hành; theo kinh thì ba câu về lỗi lầm của Hành cũng là chi Vô minh, bởi vì trong luận thiếu chi Vô minh. “Bởi vì Hành này…” trở xuống là chi Thức: Một là bởi vì Hành này khởi lên chủng tử của tâm, dựa theo loại trước phát khởi loại sau, do Hành xông ướp tâm khiến cho tâm về sau phát khởi, cho nên nói là Chủng tử, tâm là A-lê-da. Hai từ “Hữu lậu…” trở xuống là đối với sinh tử sau này hiển bày về nghĩa của Chủng tử trước đây, Hữu lậu là Ái, giữ lấy Tưởng là Kiến; theo kinh thì giữ lấy tâm, tâm tức là nối thông với Tưởng. “Đó gọi là nghiệp làm đất…” trở xuống là tiếp tục sinh ra thân đời sau (hậu hữu), là chi Danh Sắc. Sinh khởi Danh Sắc… có bảy câu: 1) Nghiệp làm đất; 2) Thức làm chủng tử; 3) Vô minh phủ lấp; ) Nước Ái thấm ướt; 5) Tâm Ngã tưới nước; ) Các loại Kiến chuyển vận; 7) Mầm Danh Sắc nảy sinh.

Hỏi: Như nghĩa huân tập, lẽ ra nghiệp làm chủng tử, Thức làm đất nương nhờ, vì sao nay Thức làm chủng tử?

Đáp: Thông thường luận về nghiệp chủng phân biệt có hai, một là lúc huân tập trở thành chủng tử, hai là lúc chuyển sinh cảm đến quả. Nếu lúc huân tập trở thành chủng tử, thì nghiệp làm chủng tử mà Thức làm đất, vì Thức chưa được huân tập thì chưa phân rõ là có chủng tử, nay vì huân tập mới nói là chủng tử nảy sinh, tức là thân thiết với nghĩa chủ động huân tập trên tâm, không thân với nghĩa của Thức, cho nên Thức làm đất, chủng tử là chủ động nương nhờ, tức là thuộc về nghiệp. Hai là chuyển sinh cảm đến quả, lấy Thức làm chủng tử, dùng nghiệp làm đất. Nay nói đến nghiệp là trước khi sinh, lúc ấy Trung ấm cầu sinh, nghiệp tâm làm nghiệp chủng chính thức, hãy còn thuộc về Thức vốn có chưa phát ra. Nay trên tâm này cầu sinh, Trung ấm là tướng dụng của chủng tử, tướng dụng này đã không phải là Thể của nghiệp, chỉ có thể dẫn dắt nghiệp cảm được chi Thức, như đất khiến cho hạt giống có thể thành tựu quả. Nói nghiệp làm đất, chủng tử ở trong Thức, cùng với Thức vốn có kia đều là tánh Vô ký, trước đây tạo ra nghiệp thức trên tâm rồi tàn lụi, nay chủng tử hiện khởi cùng với Thức vốn có đều thành tựu, thân thiết với nghĩa của Thức, không thân với chủ động huân tập, cho nên phân định thuận theo Thức hợp lại làm chủng tử. Điều này có hai nghĩa, một là ngay nơi Thể, hai là Thể khác. Nghĩa này nói như trong phần phân tích trên đây.

Hỏi: Nghiệp lực Vô minh và các Kiến…, hiện nay cầu sinh dùng Thức làm chỗ dựa, lẽ ra từ nơi Thức làm chủng tử, vì sao phân biệt là đất làm chỗ dựa?

Đáp: Lý cùng dựa vào Thức, nhưng có nghĩa khác không giống như chủng tử, bởi vì chủng tử hiện hành cùng với Thức là tánh Vô ký, một Thể mà hai tướng, cả hai là một cho nên không phân biệt; Vô minh cầu sinh tuy cùng hiện hành với Thức nhưng thay đổi trở thành SắcTâm… khác nhau, không như hai nghĩa về Thể và Tướng của Thức vốn có, cho nên không thể nào từ Thức làm chủng tử, văn còn lại có thể biết.

2) Quán về Y chỉ nhất tâm, tức là chủ động nương tựa (năng y) như mười hai duyên…, tâm tức là tâm A-lê-da. Dựa vào đây lấy làm đề mục của chương.

Dùng duyên khởi của A-lê-da làm Thể của quán này, ba môn giống như trước. Một là pháp thụ động đối trị (sở trị), đối trị về chấp tự tánh ở cảnh bên ngoài, nghĩa là tất cả các cảnh, đối trị riêng chỉ vì ba loại Hoặc về tự tánh-sai biệt và tích tụ…, đối trị chung thì có thể biết. Hai là pháp chủ động đối trị (năng trị) về chỗ dựa là Thể của quán, vẫn dùng ba Không về tánh tướng của Không-tương tự-chân thật và Vô sinh làm quán thuận này. Vì vậy Luận nói Thức A-lê-da vốn là Đại Không cho nên Vô sinh, tương tự-chân thật và Vô nguyện như Luận suy nghĩ nên biết. Nghịch thành một quán giống như môn thứ nhất. Chỉ do Thức (duy thức) có hai loại: Một là Thức A-lê-da duy trì sinh khởi các pháp, lìa Thức thì không có; hai là trình bày về Ý thức chỉ do Thức, các pháp như sinh tử Niết-bàn nhiễm tịnh… hiện tại ở Ý địa, lìa Thức thì không có. A-lê-da chỉ do Thức (lê-da duy thức), bắt đầu là hiểu rõ về cảnh chứ không phải là chỗ dựa (sở y) của Hành; Ý thức chỉ do Thức (ý thức duy thức), Thức này đến cuối cùng tức là đích thực hiểu rõ về chỗ dựa; tâm cuối ý trước, trái lại với trước có thể biết. Tướng của quán thế nào? Như tâm hiện hành thấy pháp làm cảnh, nếu không có tâm quán sát hiểu rõ cảnh, thì các pháp nhiễm tịnh… mặc ý hiện rõ trước mắt. Nay biết Thủ là ý do lời nói mà dấy lên, đó gọi là tâm không khởi, lúc biết Thức dấy lên thì bởi vì tên gọi dựa vào nơi khác (y tha) mà loại trừ cảnh phân biệt.

Hỏi: Dựa vào nơi khác cùng với Thức vì sao Thủ khác nhau?

Đáp: Dựa vào nơi khác là căn cứ theo tướng, vì sao biết được? Bởi vì Thể phân biệt là tướng Không có thể khởi lên Thức, Thức ấy tùy duyên không giữ lấy tự tánh, tướng này thuận theo trở thành Không mới hiện rõ tướng tương tự, cho nên biết là căn cứ theo tướng.

Hai là chỉ có Thức dựa theo Thể, ba cõi chỉ do tâm, điên đảo phân biệt tức là Không, cho nên có thể biết. Thức hướng về Vô tánh tức là tương tự chứ không phải là chân thật, Thể và Tướng tác thành lẫn nhau, cho nên nói chung như vậy.

Hỏi: Như cảnh dựa vào tâm tức là pháp của quả, tương tự mà không phải là không có, tại sao đối với Thức để phân rõ cảnh tức là Không?

Đáp: Chỉ từ tâm sinh khởi chứ không phải là cảnh phân biệt, thuộc về tâm chủ động duyên vào do tánh Y tha thâu nhiếp. Vì sao biết? Bởi vì đang lúc thấy cảnh thì chỉ thấy là thật. Vì thế Luận chủ dùng văn như hai Đế… đưa ra một quán về Y chỉ.

Hỏi: Sau khi biết chỉ do Thức, vẫn là pháp đã nhận biết, cùng với trước nói là cảnh đâu có nghĩa khác nhau, nhưng phân định cảnh sau là thuộc về tánh Y tha?

Đáp: Lúc trước thấy cảnh, không biết là duyên với Tập mà nói chỉ

là Thức dấy lên, nghĩa của dấy lên không phải là tánh, lúc thấy Thức dấy lên xen tạp nói là nhiễm, duyên với Tập dấy lên lý trái với tánh phân biệt, cho nên biết khác nhau. Lúc Diệt loại trừ cảnh chân thật tức là đạt được một phần Không về tánh của Vô tướng, cho nên Vô tướng hiện rõ. Chỉ do Thức-Tưởng và cảnh hoàn toàn không sinh khởi, gọi là đạt được tánh của Vô tánh. Đây là pháp quán về Hành môn duy thức. Nếu dựa theo sinh khởi hiểu biết, thì sau ba tánh phân rõ về tánh của Vô tánh.

Hỏi: Chỉ do Thức-Tưởng diệt là vì biết cảnh Vô tướng loại trừ chỉ do Thức-Tưởng, hay là Thức-Tưởng tự diệt?

Đáp: Lại không có nhận biết khác nhau, tâm quán về Vô tướng, nhưng chỉ do Thức-Tưởng mà biết gồm đủ về Vô tánh, Thủ và Tưởng thì tự nó không hiện rõ ở trước mắt, nhưng cũng dựa vào thế mạnh trước đây mà đạt được tamm sau không sinh khởi. Nay trong văn này gồm chung hai loại chỉ do Thức, ba cõi do tâm dấy lên tức là Thức vốn có chỉ do Thức(bổn thức duy thức), như kệ sau trong kinh nói chỉ từ tâm tham mà có, tức là ý thức chỉ do Thức. Đây là quán thuận. Đây là dựa vào kinh phân rõ.

Ba là giải thích văn, bản kinh có bốn: Một câu đầu là Lập tông, hai từ “Thập nhị duyên phần…” trở xuống là dẫn ra Thánh giáo để chứng minh, ba từ “Sở dĩ giả hà…” trở xuống là vặn hỏi, bốn từ “Tùy sự sinh dục tâm…” trở xuống là đáp. Tùy là nghĩa về rất nhiều, Sự là dấy nghiệp trên tâm, Sinh dục tâm thì tâm là tâm A-lê-da.

Hỏi: Đã nói là tâm dục, tức là ý thức, tại sao nói là tâm vốn có (bổn tâm)?

Đáp: Tâm dục có hai nghĩa, một là Thức hiện khởi tác dụng phân biệt, hai là chính Thức này phát khởi tác dụng của nhân duyên. Bên nghĩa tức là thuộc về sự việc của nhân duyên, bên chủ động chọn lấy nhìn thấy tức là thuộc về ý thức. Nhân duyên phát khởi tức là thuộc về A-lê-da, bởi vì lúc phát khởi cùng chung nơi chốn không thể nào phân biệt, như hành của tâm lừa dối gọi là Vô minh, tâm dục chọn lấy cảnh tức là không rõ ràng, lẽ nào có thể sau tâm dục riêng biệt phân rõ về không rõ ràng? Vì vậy biết chính dục gọi là không rõ ràng, nhưng trở thành văn cho nên lời nói có trước sau.

Sự là Hành, thì sự phân biệt trên tâm, tức là nghiệp hành. Hành của tâm lừa dối gọi là Vô minh, là hành ấy hiện khởi tạo thành tướng phân biệt thật sự. Nay Thức A-lê-da thay đổi trở thành không rõ ràng gọi là ý thức, giữ lấy sự phân biệt thật sự ấy cho nên gọi là Vô minh, văn còn lại có thể biết. Đây là dựa vào luận phân rõ.

Hỏi: Luận này cùng với bản kinh khác nhau thế nào?

Đáp: Kinh thì nối thông, Luận thì giới hạn.

3) Quán về Tự nhân, Tự là chọn lấy tên gọi khác với Tha, chỉ chọn lấy nhân tà chứ không chọn lấy nhân chánh. Nay trong quán này thâu nhiếp bốn loại nhân: Nhân duyên, Tăng thượng duyên, Duyên duyên, Thứ đệ duyên. Dùng lý của bốn duyên làm Thể của quán này. Từ đây trở xuống đến quán về Nhân duyên, đều dùng tướng của ba tánh làm Thể của quán thuận, dùng ba Không môn làm Thể của quán nghịch, nhưng nghĩa ở phần khác có các quán này, ở trong tánh phân biệt chọn lấy vọng chấp khác nhau. Ba môn giống như trước.

Nói đến pháp thụ động đối trị, là đối trị chấp trước về nhân duyên khác nhau, như tham-sân-si trong Tu đạo thật sự không phải là phát sinh ra nghiệp, nhưng chấp có đủ nhân duyên có thể phát sinh ra nghiệp, tức là Giới cấm thủ; như tự tánh không phải là nhân, là phần của nhân và tâm phiền não, cùng chung đối trị này.

Hai là chỗ dựa (sở y) của quán môn, trình bày về tự nhân này có đủ bốn duyên…, có thể sinh ra các pháp, tự nhân này có đủ hai lý thânsơ của nhân duyên, gọi là quán Tục đế, vọng chấp không sinh khởi thành tựu một phần Chân. Đây là văn kinh phân rõ.

Ba là giải thích văn, nay nói Vô minh có hai loại tạo tác…, một là nhân duyên gần, hai là duyên xa. Một là trong duyên thì Si là nhân gần, hai là làm nhân cho Hành, tức là duyên xa. Trong này thâu nhiếp ba duyên, văn còn lại tương tự có thể biết. Nhưng chỉ chọn lấy nhân xa, đây là dựa theo luận phân rõ.

4) Quán về không lìa xa nhau, ba môn giống như trước. Không lìa xa nhau là không có lúc nào tách biệt mà sinh khởi lìa xa nhau. Phần ba tánh giống như quán về Tự nhân trên đây.

Một là trình bày về pháp thụ động đối trị, là chấp về nhân quả khác thời, nói là nhân diệt rồi sau đó quả mới sinh ra, đây chính là lỗi về nhân không sinh ra quả. Lại có lỗi khác, suy nghĩ có thể hiểu, đều là Giới thủ kiến.

Hai là chỗ dựa của quán môn, là lấy lý cùng lúc sinh ra quả làm Thể của quán này, đây là hai nhân gần-xa đều cùng lúc. Đây là dựa theo văn kinh phân rõ.

Tướng của quán thế nào? Vô minh có hai loại, một là thời gian của chủng tử, hai là thời gian của quả. Hai loại thời gian ấy không phải là trước sau, dựa vào chủng tử chọn lấy thời gian gọi là thời gian của chủng tử, dựa vào quả chọn lấy thời gian gọi là thời gian của quả. Nghĩa ấy thế nào? Chủng tử thì khiến cho Hành không đoạn mất, quả là quả của Hành đã thành tựu trong thời gian của chủng tử này, dựa vào đây chọn lấy thời gian gọi là thời gian của quả.

Hỏi: Quả và nhân cùng lúc tức là lỗi về Thể khác nhau, nếu trước sau thì lỗi về sinh ra nhân mà không sinh ra quả?

Đáp: Tôi thiết lập nhân quả khác với hai lỗi ấy, bởi vì là cùng lúc cho nên khác với lỗi thứ hai, bởi vì là nhân quả cho nên khác với lỗi thứ nhất. Đây không phải là quán nghịch, nhưng rời bỏ tình mà nói, chỉ hiển bày lý Tục đế chứ không phải là Đệ nhất nghĩa. Sở dĩ biết cùng lúc, là bởi vì Luận nói có hai loại nghĩa cho nên duyên vào sự biểu hiện rõ ràng. Thế nào là hai nghĩa? Một là nghĩa về nhân, hai là nghĩa về quả. Duyên vào sự biểu hiện rõ ràng, là dựa vào hai loại nghĩa về duyên biểu hiện rõ ràng về hai loại thời gian. Như vậy phần nhân duyên còn lại, hai loại nghĩa về nhân tự sinh khởi, duyên vào sự nên biết. Vả lại, Luận dẫn kệ trong Luận nói: “Do các duyên mà sinh ra pháp, tức là quả không phải là nhân, lại cũng không khác biệt với nhân, chẳng phải Đoạn cũng chẳng phải Thường.” Đó là trình bày về hai nghĩa của nhân quả đều chẳng phải là Đoạn-Thường, Hành là quả của Vô minh chứ không phải là nhân của Vô minh, bởi vì quả này cho nên không khác với nhân của Vô minh, nghĩa về nhân trái lại với trước có thể biết. Chẳng phải Đoạn cũng chẳng phải Thường, Hành bởi vì quả này cho nên không phải là Đoạn, quả này không có nơi chốn cho nên không phải là Thường, ngay trong thời gian này Vô minh là nhân cho nên không phải là Đoạn, là nhân của quả cho nên không phải là Thường. Nghĩa này Luận chủ gạt bỏ ngoài tình làm quán nghịch mà nói, không phải là thuận theo duyên sinh của Tục đế môn. Sở dĩ có thể biết, là bởi vì Luận chủ về sau tự thuật về kinh này rằng: Nghĩa về quán nhân duyên tự sinh nói như trước. Đây là dựa theo Luận phân rõ.

5) Quán về ba đường, ba là số đếm, đường là nghĩa về nối thông chúng sinh, dùng nghĩa về nghiệp báo phiền não và nối thông chúng sinh làm Thể của quán này. Ba môn giống như trên.

Một là pháp thụ động đối trị, đối trị về chấp lý bỏ sự đối với pháp nhân duyên, đó là chấp các pháp nối thông với lý nhân duyên, tức là lỗi bỏ sự chấp lý. Bởi vì Luận nói nếu nhân duyên sinh thì tất cả các pháp cùng sinh (câu sinh), cho nên có thể biết.

Hỏi: Như văn Luận thì lời này thuộc về sau ba đời, vì sao từ trước đã lấy làm pháp thụ động đối trị?

Đáp: Luận chủ có riêng ý khác, phân định tám môn rưỡi quán ở sau, lấy làm Tục đế trình bày về chấp là lỗi lầm, cho nên thuận theo sau mà nói. Luận chủ dùng ba đường để quán sát thâu nhiếp lỗi lầm, tức Thể là lỗi lầm không thể nào có riêng pháp thụ động đối trị. Nay dựa vào bản kinh, ba đường là đức cho nên có pháp thụ động đối trị, đem đặt vào trước Luận, vì vậy biết Luận chủ có riêng ý khác. Như quán về Y chỉ nhất tâm trước đây phân làm hai môn, lẽ nào là mười loại ý hay sao? Cũng có người giải thích, người ngoài dấy lên làm thành lỗi cho Luận chủ. Nếu đưa ra cách giải thích này, thì nghĩa càng khó hiểu. Vì sao biết được? Bởi vì nghi ngờ rằng nếu nhân duyên sinh thì tất cả các pháp cùng sinh chăng? Luận đáp rằng: Nghiệp quá khứ có hai loại, một là nghiệp chưa làm, hai là nghiệp đã làm. Chỉ có thể chưa làm thì không phải là tất cả sinh, đã làm thì thuận theo tất cả sinh, vì nguyên cớ như vậy, cho nên nay thành Luận chủ làm cho người ngoài trở thành lỗi, là thuộc về đối trị trước. Lại một nhân sinh ra các pháp, như chấp việc làm vốn có và tự tánh…, phần này cùng chung đối trị này, là Giới thủ mà thôi.

Hai là chỗ dựa của quán môn, đối với phần ba tánh, giống như trên. Quán về tự nhân thì đạo nhân duyên nối thông với các quả báo (chư hữu) của chúng sinh. Dựa vào đạo phiền não sinh ra các quả báo, cho nên cùng thuộc về quả báo của ba cõi(hữu lưu). Dựa vào nghiệp sinh ra các quả báo trong sáu đường không giống nhau, cho nên thiện ác có khác nhau. Dựa vào báo sinh ra các pháp nối tiếp nhau không dứt đoạn, bởi vì nghiệp của việc làm ấy nhất định thành tựu ba cõi, cho nên các tướng không giống nhau. Đây là lý-sự tương ưng với lý cho nên pháp cùng sinh. Bởi vì sự cách xa cho nên không sinh khởi lẫn nhau. Nếu chỉ là lý nhân duyên không nhờ vào sự sinh khởi thì ba cõi không thành tựu. Đây là dựa vào bản kinh phân rõ.

Ba là giải thích văn có thể biết, dựa vào Luận phân rõ có thể biết.

6) Quán về ba đời, ba là số đếm, đời(tế) là hiển bày về phạm vi từ vô thỉ, tức là dùng lý sự nhân quả của ba thời gian làm Thể của quán này. Ba môn giống như trên.

Một là pháp thụ động đối trị, đối trị về chấp không có nhân, tức là Thường kiến, nghĩa là chấp các pháp không từ nhân mà sinh; lại nói vị lai không có sinh-lão-tử, tức là Đoạn kiến.

Hai là pháp chủ động đối trị làm chỗ dựa của quán môn, Vô minhHành… là đời quá khứ, đối trị chấp Thường kiến về thân của đời hiện tại; Ái-Thủ-Hữu… là đời vị lai, đối trị sai lầm về chấp Đoạn kiến của ngoại đạo. Đây là dựa vào kinh phân rõ.

Ba là giải thích văn, thế là có ba đời xoay chuyển, nghĩa là lần lượt chuyển tiếp sinh ra các quả báo đời sau (hậu hữu). Đây là trình bày về sai lầm tai họa mà thôi, văn còn lại có thể biết. Đây là dựa vào Luận phân rõ.

7) Quán về ba khổ, ba là số đếm, khổ là nghĩa. Ba môn giống như trên.

Một là pháp thụ động đối trị, đó là chấp về Lạc-Tịnh, thân nhân duyên này có đủ ba khổ, người mê lầm không hiểu rõ nói là có LạcTịnh, tức là Kiến thủ thâu nhiếp vào phần Hữu thân kiến.

Hai là trình bày về chỗ dựa của quán môn, ba tánh giống như trên. Lý thật nối thông với các nhân duyên, từng phần nối thông với ba khổ. Nay dựa theo phần Tướng, Vô minh-Hành… lấy làm Hành khổ, hai chi Xúc-Thọ gọi là Khổ khổ, Ái-Thủ-Hữu… lấy làm Hoại khổ. Hành khổ dần tăng lên đối trị về thân thường tồn tại chấp có Lạc-Tịnh, Khổ khổ đối trị về thân tự tại chấp có Lạc-Tịnh, Hoại khổ đối trị về thân cuối cùng chấp có Lạc-Tịnh. Đây gọi là quán thuận với Tục, chỉ dùng ba khổ và trí nhận biết về khổ làm Thể của quán này.

Hỏi: Khổ này sao có thể nối thông với ba tánh?

Đáp: Như trong kinh nói không sinh không diệt là nghĩa về Vô thường…, lại nói là Đế-là Khổ-là Thật, lại rộng ra như luận Trung Biên, dựa theo suy nghĩ có thể hiểu. Đây là dựa vào văn kinh phân rõ.

Ba là giải thích văn. Nguyên cớ năm Chi gọi là Hành, là các phần dần tăng lên chưa đầy đủ đối với Khổ, nhưng tướng của Hành tăng lên; nguyên cớ Xúc-Thọ là Khổ khổ, là bởi vì hai chi này tăng lên đầy đủ đối với Khổ bên ngoài; nguyên cớ Ái… gọi là Hoại khổ, là bởi vì nhân duyên Sinh của đời vị lai cho nên trái với thân hiện tại, hiển bày về đời hiện tại ấy không phải là tồn tại lâu dài; Thể của Ái-Thủ-Hữu không phải là tướng Hoại, hiển bày về nơi khác tăng lên Hoại cho nên gọi là Hoại khổ, văn còn lại có thể biết. Đây là dựa vào Luận phân rõ.

8) Quán về nhân duyên, ba môn giống như trên.

Một là pháp thụ động đối trị, đó là chấp một mình nhân có sức mạnh sinh ra quả, như chấp nhân của tự tánh có thể sinh ra hai mươi lăm Đế, thân này đều là nhân duyên sinh ra, người mê lầm không hiểu rõ nói là tự tánh làm ra, tức là Giới thủ kiến.

Hai là chỗ dựa của quán môn, ba tánh giống như trên. Lý nhân duyên sinh, nhân có tác dụng quyết định, duyên có công năng phát sinh quả, mới có thể sinh ra pháp. Nếu chỉ do sức mạnh của nhân, không có công năng phát sinh quả của duyên, thì sáu nghĩa của nhân ấy không hiện rõ ở trước mắt. Thế nào là sáu nghĩa? Đó là:

a) Niệm niệm diệt đi, diệt này là Không, có sức mạnh không cần đến duyên bên ngoài, bởi vì có sức mạnh không cần đến duyên bên ngoài, cho nên Thể của nhân chưa hướng về sự của duyên mà tự nhiên chuyển biến.

b) Cùng có là Không, có sức mạnh cần đến duyên, cho nên vì đạt được duyên bên ngoài chỉ hiển bày về Thể Không, mà cùng thành tựu lực dụng.

c) Tùy theo cho đến phạm vi đối trị là có, không có sức mạnh phải cần đến duyên, cho nên biết là tùy theo nơi khác không thể nào không có, không có thể trái với duyên, bởi vì không có sức mạnh.

d) Quyết định là có, có sức mạnh không cần đến duyên, cho nên biết duyên bên ngoài chưa đến, tánh không thay đổi mà tự thành tựu.

e) Quán về nhân duyên là Không, không có sức mạnh phải cần đến duyên, cho nên biết là bởi vì cần đến duyên bên ngoài, chỉ hiển bày về nhân gần chứ không phải là có hay không có sức mạnh có thể sinh ra quả.

f) Như gợi mở hiển bày về quả của mình là có, có sức mạnh cần đến duyên, cho nên biết lúc gặp được duyên bên ngoài chỉ hiển bày về nhân của mình, mà đạt được quả của mình.

Hỏi: Sáu nghĩa về nhân duyên này có phạm vi thế nào?

Đáp: Nay nói nhờ vào duyên, là chỉ chọn lấy ba duyên như Tăng thượng… ở ngoài sự của nhân, không chọn lấy sáu nghĩa của tự nhân phát khởi lẫn nhau. Sở dĩ như vậy, sáu nghĩa ấy cùng là pháp về lý đối với sự của nhân để hiển bày, loại bỏ sáu nghĩa về sự của nhân phát sinh không có thể tự phát khởi thành tựu lẫn nhau, chỉ ba duyên bên ngoài đều có lý-sự, cho nên có thể so sánh để hiển bày về nghĩa của nhân quả.

Hỏi: Nếu như vậy thì sáu nghĩa không thuận theo chung-riêng để tác thành lẫn nhau?

Đáp: Sáu tướng của sáu nghĩa cùng thành tựu. Sáu tướng có hai nghĩa, một là thuận với lý, hai là thuận với sự. Trong hai nghĩa này, nghĩa thuận với lý thì rõ ràng, nghĩa thuận với sự thì sâu xa. Hai nghĩa về sự của bốn duyên ấy giống như trên, nhưng nghĩa thuận với sự thì tăng lên, nghĩa thuận với lý thì giảm xuống. Vì sao biết? Bởi vì pháp nhân duyên sinh ra quả khởi lên thì mê lầm mà nghĩa thì rõ ràng, vì vậy Luận chủ dùng riêng sáu tướng soi chiếu khiến cho hợp với lý, do đó biết bốn duyên thuận với sự thì tăng lên. Sở dĩ biết chung-riêng thuận với lý thì nghĩa tăng lên, là bởi vì phân rõ sáu tướng khiến cho thấy tâm hợp với lý.

Hỏi: Vì sao có thể biết chỉ sáu nghĩa chung-riêng được thuận với lý thì tăng lên mà không chọn lấy sự?

Đáp: Luận chủ chọn lấy sự không đầy đủ sáu tướng, chỉ dựa theo nghĩa để phân rõ, cho nên biết như vậy. Hai nghĩa sâu xa trên đây suy nghĩ có thể hiểu. Nay trong nhân duyên đều có sáu nghĩa, cho nên nói có riêng tác dụng thù thắng có thể cảm đến quả.

Hỏi: Như Luận nói không phải là nơi khác làm cho tự nhân sinh ra, bởi vì duyên sinh không phải là tự làm, đã nói không phải là nơi khác, tại sao chỉ chọn lấy lực thừ thắng sinh ra quả?

Đáp: Đây là nêu ra không sinh để so sánh chọn lấy lực thù thắng, nếu không so sánh làm mất đi thì lực thù thắng không thành tựu, để cho trong sự làm mất đi này chỉ chọn lấy một bên, lực thù thắng là quán về tự nhân của Luận chủ trên đây. Nay ở đây cùng chọn lấy hai lực, nghĩa không có thể sinh phân biệt ở trong đó, dựa theo sáu nghĩa trên suy nghĩ có thể hiểu.

Hỏi: Có một Không riêng biệt, đưa vào sau quán môn rất cần phải phân biệt, đây chính là đối trị về chấp một mình nhân cảm đến quả trước đây, nghiệp nhờ vào duyên tạo ra, sau lúc cảm đến quả không dựa vào duyên phát khởi, chấp này đâu sai?

Đáp: Nếu loại bỏ đối với duyên thì lực thù thắng của tự nhân đều không thành tựu, đây chính là quán về Tục đế, tức là dùng lý-sự của duyên sinh và trí làm Thể của quán. Đây là dựa vào kinh phân rõ.

Ba là giải thích văn, nhân tức là nối thông với bốn loại duyên gầnxa, bởi vì nói là nhân duyên có thể sinh ra Hành, cho nên biết vậy. Giải thích tên gọi thì có thể hiểu. Đây là dựa vào Luận phân rõ. Lại dựa vào sáu nhân-bốn duyên của Tiểu thừa, nếu dựa vào ba Thừa thì tức là mười nhân-hai mươi nhân…, nếu dựa vào Nhất thừa thì tùy theo pháp phân rõ về nhân, bởi vì lý-sự của mỗi một nhân duyên khác nhau cùng với pháp giới… Nay nghĩa về sáu nhân chỉ có Nhất thừa mới có thể cùng tận. Đây là dựa theo Biệt giáo mà nói.

9) Quán về nhân duyên sinh diệt ràng buộc, nhân duyên là nhắc lại thành tựu chỗ dựa của Tục đế, sinh là pháp đã sinh ra quả, diệt tức là lìa sức mạnh sinh khởi của nhân duyên, ràng buộc(phược) tức là thuận theo ràng buộc. Bắt đầu từ Tục đế, dựa vào bản kinh thiếu nên không có, hai chữ nhân duyên thì ba môn giống như trên.

Một là pháp thụ động đối trị, hai quán dưới đây chỉ đối trị về tâm Hoặc, nghĩa nối thông có thể hiểu, đó là chấp về nhân duyên cùng chung sức mạnh có thể cảm đến quả, lại nói pháp nhân duyên đều có một phần sức mạnh, cùng chung thành tựu một quả, lý duyên khởi ấy nối thông có các nghĩa. Nếu thấy nhân duyên có sức mạnh cùng sinh, thì gọi là chấp phân biệt vì mê lầm lý-sự, tức là kiến chấp về Ngã-Pháp.

Hai là chỗ dựa của quán môn, ở đây dùng ba Không môn làm Thể của quán thuận, nghịch thì thành một quán về sinh ràng buộc vô phân biệt. Ý còn lại về sau tiếp tục phân biệt. Các pháp duyên sinh thành tựu về tướng Tục đế, không thuộc về một duyên, chỉ vì các pháp đã sinh tùy theo rời bỏ, quả thuộc một duyên thì không có thể tồn tại, cho nên không chọn lấy gần-xa. Luận nói: Bởi vì không biết gì, cho nên lúc làm ra không tồn tại. Nếu nhân duyên có thể sinh, thì không thể nào không tồn tại.

Hỏi: Nếu nhân duyên không sinh mà có pháp, thì nhân trước kia chưa tập hợp cũng phải sinh ra quả; lại pháp của quả ràng buộc này và nhân duyên sinh ra quả, hai tướng nào khác nhau?

Đáp: Trong nhân duyên sinh có hai loại nghĩa, một là nghĩa về không có tự tánh cho nên Không, hai là nhân duyên có sức mạnh cho nên sinh khởi đạt được pháp của quả. Trong duyên ràng buộc này cũng có hai nghĩa, một là duyên khởi của Tục đế, hai là lìa sức mạnh của duyên sinh cho nên Không. Pháp của nhân duyên sinh, nếu không có sức mạnh sinh khởi, thì quả sẽ không thành tựu. Quán về duyên ràng buộc này, nếu không có nghĩa về Không, thì quả sẽ không thành tựu.

Hỏi: Thế nào là tướng Không?

Đáp: Trong nhân mong cầu xa không thể nào đạt được, lại cầu sức mạnh sinh khởi không thể nào đạt được, nghĩa về nhân duyên sinh-quả sinh trước đây, là nghĩa tăng lên của Không, là sâu xa bởi vì pháp nhân duyên thuận theo sinh khởi mê lầm mà tăng lên. Nay nghĩa Không của pháp về duyên ràng buộc, là nghĩa về sức mạnh sinh khởi tăng lên, sâu xa bởi vì pháp duyên khởi thuận theo sinh khởi trí vô phân biệt. Vì vậy về sau kinh nói: Pháp duyên khởi lìa xa có-không, pháp này tuy không có sức mạnh sinh khởi mà bởi vì sức mạnh của Không, cho nên thành tựu. Lìa tự tánh sinh khởi, kinh nói: Bởi vì không trú là vốn có.

Hỏi: Nếu duyên sinh thuận theo mê lầm tăng lên, thì nghĩa này có thể như vậy, duyên ràng buộc thuận theo Không tăng lên, lẽ ra phải thuộc về Chân đế?

Đáp: Không có hai loại, một là vì Không cho nên nhất định có Tục thành tựu, hai là vì Không thành tựu vô phân biệt. Nay chọn lấy Không thành tựu Tục, cho nên không thuộc về Chân đế.

Hỏi: Nếu quán về sinh khởi ràng buộc thì lúc đang thấy pháp, là có sức mạnh của nhân chủ động ràng buộc hay không?

Đáp: Không có chủ động ràng buộc, nếu có chủ động ràng buộc thì tức là nghĩa khác, nghĩa ràng buộc không thành tựu, nghĩa này suy nghĩ có thể hiểu. Nay dùng lý-sự vô phân biệt thuộc Tục đế làm Thể của quán này. Quán về sinh khởi ràng buộc này không phân ra nhân quả, đây là dựa vào văn kinh phân rõ.

Ba là giải thích văn. Vô minh nhân duyên các Hành sinh khởi lấy sinh khởi ràng buộc mà thuyết, Vô minh nhân duyên là nhắc lại chỗ dựa thuộc Tục đế; lấy sinh khởi ràng buộc mà thuyết, là chính thức mở rộng về Thể của quán. Sinh khởi ràng buộc giải thích giống như trước. Sở dĩ nói là thuyết, là bởi vì muốn dựa vào ngôn từ mà đạt được Tục đế bình đẳng. Vì sao dùng chữ ràng buộc (phược) này nối thông từng phần của sinh và không sinh làm ràng buộc? Bởi vì không phải là tự mình sinh ra làm ràng buộc. Không phải là không có Tục đế thì không thể nào dùng hai tướng, bởi vì chọn lấy hai nghĩa này, cho nên dùng một chữ ràng buộc mà thuyết để ấn định về nghĩa ấy. Nếu bỏ chữ Thuyết ấy thì sợ rằng chọn lấy hai nghĩa khác, quán dựa vào thuyết để chọn lấy nghĩa, lý ở trong thuyết, văn còn lại có thể hiểu. Vả lại, kinh cùng chọn lấy lực của Không nhiều, lực của Hữu ít; Luận thì không nói về nhân. Đây là dựa vào Luận phân rõ.

10) Quán về tất cả không có gì vốn có, dựa vào Luận gọi là quán về tùy thuận có tất cả, ba môn giống như trên.

Một là pháp thụ động đối trị, quán này chỉ giới hạn về tâm Hoặc, cũng có thể nối thông với các Sử. Tục đế cùng thâu nhiếp, vì chấp về nhân duyên, chỉ Có là thuận theo tướng Tục đế, tự Thể là nghĩa Không, không hiện rõ ở trước mắt vốn là chướng ngại. Vì sao chỉ có nhân duyên sinh pháp, tức tự Thể là Không, lý không tự tồn tại, thuận theo thành tựu Tục đế, lúc thành tựu quả thuộc Tục đế, vẫn dùng nhân duyên không giống nhau? Bởi vì nghĩa này cầu mong về có không tăng lên riêng biệt, nếu mê lầm thì nói là chỉ có Tục, vốn là sai lầm. Đây tức là kiến chấp về Pháp-Ngã và Ngã sở.

Hai là chỗ dựa của quán môn, ba nghĩa giống như trên. Ý nghĩa về sinh khởi ràng buộc có khác, tự phân biệt ở phần sau. Các pháp duyên sinh, không khởi lên tức là đã khởi lên thì cùng hiện rõ; như con nai kia khát nước thấy hơi nóng của mặt trời(dương diệm) thì nước khô-ướt đều rõ ràng; lại như cảnh sắc nhiễm tịnh ở trong gương cùng hiện rõ, đây là Chánh lý.

Hỏi: Không ấy đã hiện rõ, là Chân đế hay là Tục đế; lại pháp của quán này cùng với duyên sinh và sinh khởi ràng buộc trước đây, làm sao chọn lấy khác nhau?

Đáp: Nhân duyên và ràng buộc chỉ thành tựu thuận theo Hữu, quán thứ mười này Không-Hữu cùng thuận theo, lại Không-Hữu này đều là Tục đế. Trình bày rộng về Chân-Tục thì ở đây có nhiều nghĩa, một là Thể-Tướng đối lập với nhau, hai là Không-Hữu đối lập với nhau. Như ở đây phân ra Chân-Tục, thì nghĩa ấy không phải là một. Nếu Không-Hữu phân ra Chân-Tục, thì Hữu là Tục, Không tức là Chân, tức là do chứng trí mà nhận biết. Nếu Thể-Tướng đối lập với nhau, thì Không-Hữu có thể dùng tướng để luận. Nếu dựa theo nghĩa này, thì Tục đế gồm chung Không-Hữu, Không này là tự Thể thuộc Không, chứ không phải là sự Không. Vì vậy Luận nói: Tâm này là tướng Chân như, có thể chỉ rõ Thể của Ma-ha-diễn. Do đó biết tuy là được tên gọi Chân như, mà tướng Tục không phải là Thể, đây tức là Không-Hữu cùng làm một tướng, bởi vì duyên thuận với tánh, lý-sự làm Thể của quán này, cho nên văn trên nói: Mười hai duyên sinh là Vô vi. Đây là dựa vào kinh phân rõ.

Ba là giải thích văn, tùy thuận tức là Không, tùy thuận đối với có tất cả là Không tùy thuận, tức là có tất cả diệt. Đây là thuận theo Luận chủ giải thích sau, không thuận theo văn kinh. Nếu dựa vào kinh thì quán về tất cả không có gì vốn có, không có gì vốn có là thụ động thuận theo (sở thuận), tất cả là chủ động thuận theo (năng thuận). Tướng của Tục tức là Không thuận với lý về Diệt, dùng tướng của Tục cầu pháp tức là tất cả tánh ấy, đây là tất cả của tất cả khắp nơi. Cũng có thể giải thích, dùng chữ tất cả (tận) làm quán nghịch. Điều này không hợp với vă kinh, bởi vì trong văn có riêng tướng về nghịch. Vả lại, nếu tất cả này tức là nghịch, thì các quán đều phải thêm vào chữ tất cả ấy. Văn nói: Vô minh nhân duyên các Hành sinh khởi là quán tùy thuận tất cả không có gì vốn có, nhân duyên không có tánh tức là tướng phân rõ về Không, Không cho nên tùy thuận với lý không có gì vốn có, tất cả là tánh của nó. Mười quán cũng có thứ tự sinh khởi lẫn nhau, bởi vì biết các lỗi lầm hư vọng, cho nên có quán thứ nhất; đã biết vọng rồi nhưng chưa biết pháp vọng dựa vào đâu có thể sinh ra, cho nên có quán thứ hai; hiểu biết về chỗ dựa nhưng chưa biết có lý gì, cho nên có quán thứ

ba; đã biết về lý sinh khởi nhưng chưa biết dựa vào thời gian nào, cho nên có quán thứ tư; hiểu biết về thời gian rồi nhưng chưa biết dựa theo nghĩa nào, cho nên trình bày về quán thứ năm; biết nghĩa ấy rồi có gốc ngọn thế nào, cho nên có quán thứ sáu; biết về gốc ngọn rồi nhưng chưa biết có lỗi lầm gì, cho nên có quán thứ bảy; biết về lỗi lầm ấy rồi làm thế nào thành tựu đối với sự, cho nên có quán thứ tám; biết về thành tựu rồi nhưng chưa biết có tướng gì, cho nên có quán thứ chín; biết về tướng rồi nhưng nghi ngờ cho rằng trái với lý, cho nên có quán thứ mười. Mười loại dựa vào kinh, xong.

Hai là dựa vào luận phân biệt thì có ba:

  1. Chán ngán lìa xa hữu vi.
  2. Đại Bi tùy thuận.
  3. Nhất thiết tướng trí.

1) Quán về chán ngán lìa xa hữu vi, Giải tức là thuận, Hành thì là nghịch. Trong Giải dùng ba tướng Không làm thuận, toàn bộ phân làm ba: Một là thành tựu về tướng đáp, hai là Đệ nhất nghĩa đế, ba là Thế đế sai biệt. Bởi vì biết thế gian không có người nào thành tựu, thế gian hữu vi là lỗi lầm, cho nên có quán thứ nhất; đã biết lỗi lầm rồi nhưng chưa biết hướng về lý nào, cho nên có quán thứ hai; tuy biết về pháp đã tiến vào nhưng chưa biết dựa vào đâu mà đạt được, cho nên có quán thứ ba. Nêu ra Tục đế phân rõ về chỗ dựa của quán môn, bởi vì Luận nói:

Quán tùy thuận về Thế đế tức là tiến vào Đệ nhất nghĩa.

Một là giải thích văn, như trước.

Hỏi: Tướng này tức là Tục đế, đâu cần đến quán thứ ba, tiếp tục trình bày về Tục đế?

Đáp: Đây là phân rõ về Tục đế để chọn lấy sai lầm.

Hai là Đệ nhất nghĩa đế giải thích về nguyên cớ được thoát khỏi, dựa vào nhân duyên ấy quán về Đệ nhất nghĩa được thoát khỏi nhân duyên. Đây là chọn lấy nửa môn trên trong quán về Y chỉ.

Ba là quán Thế đế, Thế tức là thời gian, Đế là Pháp bảo trong thời gian.

Ở đây hợp lại tám môn rưỡi sau trong kinh làm sáu môn quán: Nửa môn đầu làm một, hai môn tiếp theo làm một, ba môn tiếp theo riêng biệt đều có một, ba môn sau làm một. Nửa môn đầu là nhiễm, quán về nhiễm y chỉ, nhiễm là chủ động dựa vào, y chỉ là thụ động dựa vào. Trong sáu môn này, một môn đầu trình bày về nhiễm y chỉ, hai môn tiếp theo là kiến lập về tướng nhiễm, một môn tiếp theo là dựa vào nhiễm làm sáng tỏ về lỗi lầm, hai môn tiếp theo là chính thức quán để ngăn ngừa lỗi lầm, một môn sau cùng là phân rõ về phạm vi của quán. Vả lại, thế nào là nhiễm, cho nên trình bày về tướng của nhiễm; nhiễm dựa vào chỗ nào, dựa vào Đệ nhất nghĩa; vì sao nói dựa vào pháp vọngdựa vào chân, là bởi vì cần phải dựa vào đó để cầu pháp chân.

Hai là nói quán về nhân, là quán về nhân của nhiễm.

Hỏi: Luận chủ hợp lại hai quán vốn có làm một quán về nhân; trong bản kinh thì môn đầu là Tự nhân, Luận chủ nói là Tha nhân; trong bản kinh thì không rời xa nhau, Luận chủ nói là Tự nhân; nghĩa này thế nào?

Đáp: Bản kinh nói Tự, là chọn lấy khác với ngoại đạo; Luận chủ nói Tha, là dựa vào trong bốn duyên, chọn lấy Tăng thượng duyên. Thành tựu về nghĩa mười hai nhân duyên theo đúng ý của Luận chủ, làm mất dần văn kinh ấy, tức là nêu ra gần khác với xa. Chọn lấy duyên xa mà không chọn lấy duyên gần, là bởi vì không thuận với mười hai nhân duyên. Thế nào là không thuận? Trong mười hai chi, chỉ riêng hai chi Hành-Hữu hiển bày nghĩa về nhân của quả báo, những chi còn lại lược bớt mà không đầy đủ. Lại riêng biệt chọn lấy Tăng thượng duyên, bởi vì chọn lấy nguyên cớ gọi là duyên xa. Dấy lên Tha nhân là Tăng thượng duyên, đối với nhân gần là xa, hướng đến Tự quả tăng thượng là gần. Nay đối với nhân gần nói đến Tăng thượng duyên ấy, cho nên nói là Tha nhân cũng thích hợp, nói ngược lại thì chọn lấy duyên khác. Kinh nói là không rời xa nhau, như quán trước giải thích, cũng gồm chung gần-xa. Luận nói Tự nhân, là trong Tăng thượng duyên chọn lấy nhân duyên gần, tức là làm nhân lẫn nhau, bởi vì làm nhân lẫn nhau cho nên nối thông với các chi.

Ba là quán về thâu nhiếp lỗi lầm, thâu nhiếp mười hai duyên dùng để quán sát về ba đường, chỉ là lỗi lầm của Khổ-Tập.

Bốn là bảo vệ lỗi lầm, bảo vệ lỗi lầm tà kiến của phàm phu kia.

Năm là chán ngán điều không chán ngán, ngăn ngừa lìa xa lỗi lầm về tâm mạn của Nhị thừa. Khổ là vi tế, Nhị thừa không chán ngán, Bồtát luôn luôn chán ngán, gọi là chán ngán điều không chán ngán.

Sáu là quán về sâu xa, quán hành vô cùng sâu xa, lý nhân duyên vi diệu vượt qua tình thức, cho nên gọi là sâu xa. Tướng của quán thế nào? Luận chủ phân chia ba quán vốn có, dùng làm bốn pháp hướng đến lý sâu xa: Một, không phải là Tha làm Tự nhân sinh khởi, tức là thành tựu Tự nhân, có đủ sức mạnh thù thắng, lìa chấp về không có nhân. Hai, không phải là Tự làm duyên sinh khởi, tức là hiển bày về duyên xa, có đủ sức mạnh thù thắng, tức là lìa xa lỗi về một mình nhân sinh ra quả không nhờ vào duyên. Nghĩa của hai loại này là lìa xa chấp về tự tánh, bởi vì thuận theo Tục đế thấy tâm không dứt.

Hỏi: Vì sao không nói đều có ít sức mạnh cùng tạo thành nhiều sức mạnh?

Đáp: Nếu ít nhiều thì không thành tựu.

Ba, không phải là Tự-Tha dấy lên chỉ tùy thuận sinh khởi, đây là loại bỏ kiến chấp ở trước. Nhân duyên tùy thuận sinh khởi lẫn nhau, có và không có không thể nào dẫn đến làm tùy thuận với có, không thể nào không có mà tùy thuận với có, không phải là tự có lại tùy thuận với có, không phải là nhất định từ duyên sinh khởi, cho nên lìa có và không có thì không thể nào dẫn đến. Bốn, không phải là không có nhân dấy lên tùy thuận với có, tức là lìa ý địa, gọi là vô phân biệt, pháp ấy thâu nhiếp mười bình đẳng như trên. Đây tức là ý nghĩa thù thắng của quán sâu xa.

Hỏi: Quán này là quán nghịch hay là quán thuận?

Đáp: Quán này gồm chung nghịch và thuận, tùy thuận quán về Thế đế tức là thuận, lập tức tiến vào Đệ nhất nghĩa đế vốn là nghịch.

Quán này đối trị tất cả các Hoặc, không trình bày riêng biệt về pháp thụ động đối trị. Dùng một duyên khởi Vô sinh chỉ do Thức làm Thể của quán này.

Hỏi: Các nghĩa như trên đều là quán thuận, quán nghịch là thế nào?

Đáp: Chân đế và Tục đế không phải là phân biệt nhận biết, chỉ đối với tình kiến mà phân thành hai tướng. Cần phải biết rằng thuận nghịch, là chỉ vượt qua tình kiến, tức là thuận nghịch tương ưng. Làm sao dấy lên phương tiện? Như các môn quán, so sánh lẫn nhau làm mất đi, tức là Thể của lý ấy nhất định diệt các kiến chấp, nghĩa còn lại có thể biết.

2) Quán về Đại Bi tùy thuận, là Đại Bi tùy thuận nhân duyên, cũng có thể là nhân duyên tùy thuận Đại Bi. Luận chủ hợp mười làm bốn: Một, dùng môn thứ nhất bởi vì ngu si điên đảo; hai, dùng một môn để cầu giải thoát nơi khác; ba, dùng bốn môn để cầu giải thoát nẽo khác; bốn, dùng bốn môn để cầu giải thoát riêng biệt. Thứ nhất là phân rõ sai lầm vì đã lìa xa, thứ hai là lý đã mong cầu, thứ ba là nẽo đã dựa vào, thứ tư là quả đã mong cầu. Trong bốn môn này, mỗi một môn có hai loại, Tà là pháp thụ động đối trị, Chánh là pháp chủ động đối trị.

Đầu là ngu si điên đảo, là tùy theo nơi ngu si và điên đảo đã chấp vào, quán sát sự việc này, bởi vì chấp Ngã cho nên thọ sinh ở tất cả mọi nơi, bởi vì xa lìa Ngã cho nên lập tức không có sinh, thì dùng điên đảo đối trị về tướng dụng của Pháp và Ngã, biết tâm sai lầm đối trị về tâm chấp Ngã.

Cầu giải thoát nơi khác, là phàm phu ngu si điên đảo, thường thuận theo cầu giải thoát từ trong Thức A-lê-da và trong Thức Đà-na, chính là cầu giải thoát từ trong Ngã và Ngã sở ở nơi khác. Nghĩa này thế nào? Bởi vì thuận theo cầu giải thoát từ trong pháp duyên khởi của Thức A-lê-da, và cầu giải thoát từ trong cảnh của Ngã hư vọng, thì dùng cảnh của Thức để đối trị về cảnh của Ngã, dùng trí chỉ do Thức đối trị về trí của Ngã.

Thế nào là cầu giải thoát nẽo khác? Đó là cầu giải thoát từ trong nhân điên đảo. Nghĩa này thế nào? Bởi vì thuận theo trong lý nhân duyên mà cầu giải thoát nẽo đã dựa vào, và cầu giải thoát từ trong nhân hư vọng của tự tánh…, nẽo thì dùng lý về Tự nhân để đối trị, tự tánh là nhân sinh khởi, lý về hai mươi lăm Đế thì pháp là nhân của tự tánh, bởi vì không bình đẳng cho nên phải đối trị.

Những gì là hai mươi lăm Đế? Đó là năm căn nhận biết tức là năm căn như Nhãn…, năm căn tạo tác tức là tay-chân-miệng và căn đại tiệntiểu tiện, cùng với căn tâm bình đẳng là mười một; năm Đại tức là ĐịaThủy-Hỏa-Phong-Không, năm Duy lượng tức là Sắc-Thanh-Hương-VịXúc, cọng với mười một loại trước là hai mươi mốt; Ưu-Hỷ-Ám cũng gọi là nhiễm, thô thiển xấu xa tức là tham-sân-si hợp lại gọi là nhiễm, Tâm đế là hai mươi hai; Mạn đế cũng gọi là Ngã, tâm là hai mươi ba; Giác cũng gọi là trí, là hai mươi bốn; tự tánh là hai mươi lăm. Lúc con người sắp chết, bởi vì không thể nào gây ra nghiệp, cho nên trước tiên năm căn tạo tác biến hoại làm năm căn nhận biết, mắt thịt biến hoại làm Hỏa đại, tai biến hoại làm Không, mũi biến hoại làm Địa, lưỡi biến hoại làm Thủy, thân căn biến hoại làm Phong; năm Đại biến hoại làm năm Duy lượng, Địa biến hoại làm Hương, Thủy biến hoại làm Vị, Hỏa biến hoại làm Sắc, Không biến hoại làm Thanh, Phong biến hoại làm Xúc; Duy lượng biến hoại làm Ưu-Hỷ-Ám, Ưu-Hỷ biến hoại làm Mạn, Mạn biến hoại làm Trí, Trí biến hoại thành tự tánh. Nay hoại thì không phải là hoại diệt, chỉ là không có tác dụng hiện rõ, bởi vì trở về với ban đầu cho nên gọi là hoại, thành thì trái lại với trước có thể biết.

Không rời xa nhau, bởi vì đối trị về Phạm hạnh là Phạm Thiên cùng với chúng sinh lìa xa nhau; ba nẽo đối trị về nhân của khổ hạnh, bởi vì khổ hạnh không phải là nhân của vui sướng; ba đời đối trị về không có nhân, bởi vì đời trước-giữa-sau vốn là nhân sinh khởi. Dùng bốn trí thuộc về tâm để đối trị tà trí, phần này có hai nghĩa: Một là dùng duyên khởi làm Thể của Chánh đạo, dùng Trí do tu thành làm Thể của Trợ đạo, Tự nhân… là Thể của Chánh đạo. Hai là dùng trí vô phân biệt làm Chánh đạo, các Đạo phẩm làm Trợ đạo, tức là nêu ra pháp chọn lấy trí chủ động quán sát làm Thể của đạo.

Cầu giải thoát riêng biệt, giải thích rộng về giải thoát có ba loại: 1) Hiển bày về duyên khởi; 2) Sinh khởi trí; 3) Diệt trừ Hoặc. Nay cầu giải thoát từ trong Ngã và Ngã sở, vọng chấp về Thường-Lạc-NgãTịnh, thì ba nghĩa đều không thành tựu, Luận dùng bốn nghĩa để hiển bày: 1) Dùng ba Khổ để đối trị về Lạc điên đảo kia, hiển bày về đức của Lạc chân thật là lý duyên khởi, bởi vì không có sự chuyển đổi của Hành khổ…; 2) Dùng nhân duyên để đối trị về Ngã điên đảo kia, tức là hiển bày về đức của Ngã, bởi vì pháp hữu vi vốn không tự tại; 3) Dùng quán về sinh khởi ràng buộc để đối trị về Tịnh điên đảo kia, tức là hiển bày về đức của Tịnh, bởi vì ràng buộc vốn không phải là Tịnh tự tại; ) Dùng tùy thuận cõi (Hữu) để đối trị về Thường điên đảo kia, tức là hiển bày về đức của Thường, bởi vì tùy thuận ba cõi vốn là chưa thoát khỏi Vô thường. Lại dùng Thường-Lạc… theo thứ tự để phối hợp, nghĩa còn lại như Luận.

3) Quán về Nhất thiết tướng trí, nhất thiết tức là cảnh thụ động quán, trí là tâm chủ động quán. Một là chọn lấy nửa môn trong quán về phần Hữu làm quán về nhiễm tịnh phân biệt, nhiễm là nhiễm ô bởi phiền não Ngã mạn, tịnh là thanh tịnh vì không có Ngã mạn, phân biệt là sai biệt mà nhận biết. Vẫn dựa vào quán chọn lấy một môn rưỡi quán trong mười loại làm quán về Y chỉ, theo thứ tự trước nửa môn về hai pháp Chân-Tục làm chỗ dựa cho tâm mê, quán về Nhất tâm sau cuối làm chỗ dựa cho Tục đế. Hai là nghĩa y chỉ như nhau cho nên cùng chung một y chỉ, một tâm y chỉ cùng chung sinh khởi y chỉ và cảnh giới y chỉ, trong nửa môn trước chỉ là cảnh giới y chỉ. Ba là dùng một môn làm quán về phương tiện, phương tiện hai lực nhân duyên phát khởi phương tiện. Bốn là dùng một môn làm quán về tướng của duyên, tướng của duyên là nghĩa về tướng trạng của Nhân duyên sinh ra quả, cũng có thể là nghĩa về tướng trạng của Tăng thượng duyên.

Hỏi: Một môn này cùng với phương tiện trên đây khác nhau thế nào?

Đáp: Trước là chọn lấy lực của Nhân duyên, sau là chọn lấy tướng trạng của sự thành tựu. Vả lại, phần vị trước về sau muốn trình bày về Hữu chi Vô tác, chỉ có nghĩa về tướng của duyên.

Năm là dùng một môn làm quán về Nhập đế, Nhập là tâm quán, Đế là Khổ đế-Tập đế đa nhận biết. Sáu là dùng một môn làm quán về lực-vô lực tín nhập, như quả của Vô minh-Hành sinh ra Thức… thì gọi là có lực, Thức… không cảm đến quả sau thì gọi là vô lực, dùng phạm vi của nhân quả này làm cho người tin tưởng tiến vào, cho nên gọi là quán về Tín nhập. Bảy là dùng một môn làm tăng thượng về Mạn…, người hàng Thanh văn chưa đoạn Hành khổ mà nói là cứu cánh, cho nên gọi là tăng thượng; đã đoạn Hoặc thô gọi là không phải tăng thượng, nêu ra khổ sâu xa này khiến cho người tin tưởng tiến vào. Tám là dùng hai môn làm quán về Vô thỉ, nói đến Vô thỉ là không có điểm bắt đầu của nó, bởi vì thành tựu nhân sinh khởi vốn không phải là duyên dấy lên, bởi vì thành tựu duyên sinh khởi vốn không phải là nhân làm ra. Đây là cầu hai nơi không có tạo tác, mới trở lại cầu hai tạo tác, không phải là tự nhiên thành tựu bởi vì không có tự tánh, mới gọi là quán về Vô thỉ.

Hỏi: Vì sao dùng hai quán làm Vô thỉ?

Đáp: Nhân duyên so sánh với nhau không thể nào nói là bắt đầu, dùng quán về sinh khởi ràng buộc để biểu thị cho pháp có kết thúc, nếu pháp không có kết thúc thì không thể nào chỉ nói là quán về Vô thỉ.

Hỏi: Ràng buộc sao nói là kết thúc?

Đáp: Nếu ràng buộc là quả thì không thể nào nói có kết thúc làm ràng buộc, bởi vì quả không nhất định là tướng như nhau cho nên nói là kết thúc.

Chín là quán về các loại, chỉ là Tục đế tùy thuận với nhân duyên không phải là một, cho nên nói là các loại. Chín quán môn này là cảnh của Chủng trí, đối trị chướng ngại về Vô trí, Thể là pháp chủ động quán sát, tức là pháp chủ động đối trị, không phải là cảnh của Trí quán về lý, cũng có thuận nghịch, nghịch là diệt trừ phiền não, thuận là đạt được Thể của pháp.

Ba là quả thù thắng của Địa, văn phân có năm: Một là đối trị diệt chướng thù thắng, là quả của người đối trị về Mạn hơn hẳn trước đây; trước đây tu mười pháp để mà đối trị, trong Địa này đầy đủ, lại dùng ba giải thoát rất sâu xa làm đối trị, gọi là đối trị thù thắng; trước đây đối trị chướng về Mạn nhiễm-tịnh của năm Địa, nay ở Địa này lại đối trị tâm Ngã vi tế và có-không…, gọi là diệt chướng thù thắng. Trong văn này cũng có rời bỏ và hướng về, làm mất dần không có gì trái ngược. Hai là tu hạnh thù thắng, là quả của người thực hành không trú vào đạo trước đây; dựa vào hạnh không trú từ trước tiếp tục khởi lên tu pháp thù thắng, gọi là tu hạnh thù thắng. Ba là Tam-muội thù thắng, là hướng về đối trị thù thắng trước đây mà nói đến quả; trước đây tu ba giải thoát để mà đối trị, đối trị ấy chuyển biến tăng thêm gọi là Tam-muội thù thắng, trong văn này dùng Luận để so sánh thì có thể hiểu mà thôi. Bốn là tâm bất hoại, hướng về diệt chướng trước đây để nói đến quả; bởi vì diệt chướng, cho nên tâm Tam-muội không thể nào phá hoại. Năm là lực tự tại, là hướng về công hạnh tu tập trước đây để nói đến quả; dựa vào công hạnh tu tập trước đây, tiến lên không ngăn ngại gọi là lực tự tại, văn còn lại như Luận.

Trong phần hai là tu hạnh thù thắng: Một là trình bày về tâm tu hạnh, hai từ “Bồ-tát tác như thị niệm…” trở xuống là trình bày về tu hạnh thù thắng. Văn này có hai: Một, trình bày về tu hạnh; hai, từ “Tức đắc vô chướng ngại…” trở xuống là trình bày về tu hạnh thù thắng. Văn còn lại có thể biết.

Ngay trong phần Tam-muội có hai: Một là phân rõ về môn Không, hai từ “Vô tướng…” trở xuống là hai Không còn lại. Nghĩa còn lại như Luận.

Trong hai quả sau, đều có một câu đầu là tổng quát, câu sau là riêng biệt.

Ngay trong văn về quả của Địa, ba quả giống như trước. Trong quả Điều nhu phân bốn: Một là hành tướng Điều nhu, hai từ “Nguyệt quang dụ…” trở xuống trình bày về Trí giáo thanh tịnh, ba là hành của Địa riêng biệt, bốn là kết luận về tướng tuyên thuyết. Trong phần một có ba: Đầu là pháp, tiếp là dụ, sau là hợp. Ngay trong pháp thuyết có ba: Đầu là thấy chư Phật làm duyên của khởi hạnh; tiếp là năng lực luyện tập thực hành; sau là sự luyện tập thanh tịnh. Văn còn lại như Luận.

Thứ ba là phần trùng tụng có hai: Một là trình bày về ý tụng, hai là chính thức kệ tụng. Kệ có ba mươi chín: Ba kệ một câu đầu tụng về mười bình đẳng, mười chín kệ ba câu tiếp theo tụng về hạnh không trú vào đạo, sáu kệ tiếp theo tụng về quả không trú, chín kệ tiếp theo tụng về ba quả như Điều nhu-Nhiếp báo…, một kệ sau cùng là ca ngợi hiển bày về phạm vi tuyên thuyết.

Hạnh không trú có hai: Mười bảy kệ một câu đầu tụng về mười loại quán, hai kệ rưỡi tiếp theo tụng về văn kết luận. Trong về quả không trú: Ba kệ đầu tụng về ba giải thoát, một kệ rưỡi tiếp theo tụng về công hạnh tu tập, nửa kệ tiếp theo tụng về Tam-muội, nửa kệ tiếp theo tụng về tâm bất hoại, nửa kệ tiếp theo tụng về lực tự tại.

 

Pages: 1 2 3 4 5