ĐẠI PHƯƠNG QUÃNG PHẬT HOA NGHIÊM KINH
SƯ HUYỀN PHÂN TỀ THÔNG TRÍ PHƯƠNG QUỸ

QUYỂN 02

Đời nhà Đường, Sa môn Trí Nghiễm thuật.

 

Phần 1

Phẩm 9: PHẬT THĂNG TU DI ĐẢNH

(Hội thứ ba)

Bốn môn giống như trước.

1. Giải thích tên gọi, Phật là Hóa chủ, Thăng là tiến lên phía trên, Tu-di là núi Diệu Cao, Đảnh là ở trên cao nhất.

Hỏi: Vì sao từ đây về sau bốn Hội lại thuyết ở cõi trời?

Đáp: Đức hạnh và phần vị thành tựu, trừ chướng được thanh tịnh thù thắng, cho nên thuyết ở cõi trời. Đây là trả lời câu hỏi về phần vị Thập Trú trước đây.

2. Ý đưa ra. Vì sao đưa ra? Bởi vì tin cho nên hiểu. Đây là bắt đầu phân rõ về ý đưa ra của Hội. Nhưng vì sao đưa ra Hội, Thể của Báo thân đã thành tựu rồi, tiếp theo cần phải phát khởi Hóa thân đến với căn cơ cho nên đưa ra. Vì vậy sơ lược phân tích do giáo phát khởi mà biểu hiện. Nhưng các Hội này không rời xa bổn xứ, tức là biểu hiện từ hạnh thành Thể của Báo thân kiên cố không thay đổi, mà đến các Hội tức là biểu hiện tùy cơ khởi dụng, đây là giải thích dựa theo Thể của tu hành. Nếu hướng về phần sinh ra hiểu biết phát khởi niềm tin, thì hiển bày về hành vị thêm sâu xa mà thôi. Vả lại, trong văn giải thích dựa theo Phật khởi dụng đến với căn cơ để giải thích tức là năng lực của thiện tri thức, nếu dựa theo phần vị… để giải thích thì tức là giải thích dựa theo sự tu hành của mình, có thể suy nghĩ chính xác. Vả lại, Hội này trở xuống bốn Hội sau đều tăng về tướng của phần vị, có phần khác biệt so với Tín hành trước đây, đối với nghĩa của pháp ba Thừa và Nhất thừa cũng cần đan xen qua lại, suy nghĩ chính xác điều này, những Hội còn lại đều chung ý này. Phẩm đưa ra là trước nói về pháp của Tín rồi, tiếp theo phân rõ hướng đến, sau là nói về nơi dựa vào mà thôi.

3. Tông. Dựa theo Hội phân biệt có hai: Một là dựa theo người, hai là dựa theo pháp. Dựa theo người thì có Hóa chủ và trợ giúp giáo hóa, đều có Thể-Đức-Dụng, chỉ giới hạn ở Hội này. Dựa theo pháp, đó là pháp Thập Giải, về sau sẽ phân rõ. Dựa theo Tông của phẩm, nếu dựa vào lúc Lợi tha hiện rõ nơi chốn và cúng dường, thì chính là hiển bày về duyên của pháp; nếu dựa theo lúc Tự lợi thì đây chính là cơ cảm tương ưng, duyên với cơ thành tựu Thể-Dụng.

4. Phân rõ văn. Hội này có sáu phẩm, phân ba: Hai phẩm đầu trình bày về phương tiện phát khởi, tiếp theo hai phẩm trình bày về tướng của Chánh vị, tiếp theo hai phẩm trình bày về hành tướng sau khi thành tựu đầy đủ. Hai phẩm đầu phân hai: Một là khởi dụng tùy vật, hai từ “Đế Thích dao kiến…” trở xuống phân rõ cơ cảm tương ưng. Văn trước có hai: Một là phân rõ về sự dung thông của y báo-chánh báo, tức là hiển bày Thể thanh tịnh trước đây; hai là tiếp tục hiển bày Dụng thanh tịnh sau này, vốn là tự tại vô ngại thành tựu mọi việc. Các Hội có văn, đều chung cách giải thích này mà thôi, chỉ khác nhau về thắng tiến.

Hỏi: Văn này vì sao không ở sau Hội trước, mà ở trước Hội sau?

Đáp: Nếu ở sau Hội trước thì chỉ hiển bày rõ ràng về nghĩa lợi ích của nói pháp, không hiển bày đối với nghĩa về Thể của dụng giáo hóa sau này, cho nên phân rõ ở trước Hội sau mà thôi. Hội còn lại cũng giống như vậy, vì sao không phân tích ở sau Hội thứ nhất? Bởi vì Hội trước gồm đủ ý nghĩa khác giải thích ở Hội ấy, Hội thứ sáu-bảy-tám sau này cũng hiển bày có riêng ý nghĩa khác mà thôi. Trong Thể có thânkhẩu-ý là ba. Hai từ “Nhĩ thời Thế Tôn…” là làm sáng tỏ về công dụng ứng vật, tức là Dụng thanh tịnh, tướng còn lại có thể biết.

Văn tương ưng thứ hai có năm Tựa:

  1. Tựa về trú xứ, bởi vì động tịnh vô ngại không nơi nào không đến, là đức của thuyết pháp này.
  2. Tựa về thỉnh Phật.
  3. Tựa về quy tụ chúng.
  4. Tựa về phát ra ánh sáng.
  5. Tựa về ca ngợi.

Nếu gồm chung phẩm Thập Trú sau thì có tám Tựa, đó là nhập định-gia hộ-khuyến khích và xuất định. Vả lại, dựa theo phẩm phân văn cũng được.

Tựa về trú xứ và Tựa về thỉnh Phật có sáu:

1. Thấy Phật đến, là dụng từ thật phát khởi, tức là duyên phát tâm.

2. Từ “Tức ư Diệu Thắng điện…” trở xuống trình bày Thiên chủ chuẩn bị trang nghiêm cúng dường cho nên thỉnh Phật, hiển bày đầy đủ từ hiểu biết thành tựu hạnh cúng dường pháp, tức là thành tựu căn.

3. Thế Tôn liền nhận lời đi đến cảm cơ giáo hóa.

4. Âm thanh giải thích vắng lặng biểu thị ngừng loạn hợp chân.

5. Từ “Thuyết kệ…” trở xuống biểu thị từ Định phát Tuệ; -Từ “Phật thăng tòa…” trở xuống chính thức trình bày về tướng thành tựu của sự giáo hóa.

Văn chuẩn bị trang nghiêm cúng dường phân hai: Một, chuẩn bị trang nghiêm tức là thành tựu căn; hai, thỉnh Phật tức là thành tựu ý muốn. Trong phần chuẩn bị trang nghiêm có ba: Một là tổng quát, hai là chỗ ngồi nghiêm trang, ba là kết luận.

Hai, từ “Nhĩ thời Đế Thích…” trở xuống trình bày về Thiên chủ thỉnh Phật, tức là biểu thị mong muốn.

Năm là văn kệ có ba: Một, nhớ lại Bổn hạnh; hai, kệ ca ngợi; ba, kết luận gồm chung mười phương.

Sáu là trong phần thành tựu giáo hóa có ba: Một là chỗ ngồi, hai là phân rõ về tướng của Dụng, ba là nối thông với phương khác.

Phẩm 10: BỒ TÁT VÂN TẬP

Bốn môn giống như trước.

  1. Giải thích tên gọi, Bồ-tát là người, Vân vốn là lợi ích tưới nhuần, Tập là tụ tập. Diệu Thắng… là nơi khác.
  2. Ý đưa ra. Vì sao đưa ra? Bởi vì phân rõ về nơi chốn rồi, tiếp đến trình bày về quy tụ chúng.
  3. Quy tụ chúng ca ngợi đức thuận theo pháp làm Tông.
  4. Phân rõ văn. Văn này có ba Tựa: Một, quy tụ chúng; hai, phóng ánh sáng, ba, ca ngợi Phật.

Hỏi: Nay từ Hội này về sau ba Hội quy tụ chúng vì sao không ở đầu phẩm, lại vì sao mỗi một phương đều có mười, lại sau khi phóng ánh sáng vì sao không từ từ quy tụ chúng?

Đáp: Bởi vì tướng phần vị của Hội trước chưa thành, chỉ hiển bày về hành viên mãn cho nên nói ở đầu phẩm, nay Hội này hành vị đều thành tựu, cùng làm sáng tỏ lợi ích tưới nhuần của hành vị cho nên cùng ở phẩm này. Sở dĩ mỗi một phương có đủ mười, là muốn hiển bày về tướng hiểu biết rõ ràng viên dung như nhau, một phương tức là tất cả các phương. Sở dĩ Hội này sau khi phóng ánh sáng không từ từ quy tụ chúng, là bởi vì muốn hiển bày về hành vị thành tựu đầy đủ không có tướng thêm bớt. Trong đó có nghĩa thêm bớt riêng, Dụng theo trên thành tựu tức là đạt được, trên dưới thích ứng có thể dựa theo để suy nghĩ. Hội thứ nhất trước đây giải thích về phóng ánh sáng quy tụ chúng cũng dựa theo nghĩa này, đầu làm quy phạm cho sau mà thôi.

Một, trong Tựa về quy tụ chúng có hai:

a). Chỉ ra phương hướng phân rõ về số. Trong này mỗi một phương, hoặc là gồm chung Hội trước, hoặc là không gồm chung Hội trước, Tín hành lại không thành tướng của phần vị, vì vậy không gồm chung, phần vị hiển bày ở ba Hội sau, vốn là nghĩa gồm chung.

b) Từ “Kỳ thế…” trở xuống nêu ra tên gọi mà thôi. Tên gọi có ba: Một là trình bày về Bồ-tát ở cõi Phật mười phương, ba loại thế gian tức là hai; hai từ “Thử chư Phật thần lực…” trở xuống trình bày quy tụ các Bồ-tát có ba là tịnh hạnh-vân tập-y theo phương mà ngồi có thể biết; ba từ “Như thử thế giới…” trở xuống là kết luận tương tự mười phương thành Hội pháp giới. Chư Phật cùng tên gọi là Nguyệt, bởi vì dựa vào mặt trăng tỏa ra ánh sáng, bởi vì trong lành cho nên hiểu về pháp chính xác. Bồ-tát cùng tên gọi là Tuệ, bởi vì bắt đầu của hiểu biết. Ngón chân phóng ánh sáng là bởi vì biểu thị đứng vững ở phần vị Giải không lui sụt, có hai có thể biết. Ba, Tựa về ca ngợi, văn có mười Bồ-tát, cùng sinh khởi theo thứ tự ca ngợi, tướng giải thích rõ ràng có thể biết.

1. Kệ của Pháp Tuệ có hai: Một, trường hàng sinh khởi; hai, chính thức kệ tụng về sau đều dựa theo đó. Văn này có hai: Một, bảy kệ đầu nhắc lại chúng sáng tỏ là do Phật lực mà thành tựu, tức là kết luận về nghĩa của sáu đoạn trong phẩm trước; hai, tiếp theo ba kệ trình bày về người có thắng hạnh thì được gặp Phật, còn lại người không biết gì, tức là ca ngợi chung về khó suy nghĩ trước đây. Kệ của các vị sau đều dựa theo lý thành tựu.

2. Kệ của Nhất Thiết Tuệ có sáu: Một, ba kệ đầu trình bày nói là thấy đồ chúng không thấy Chân Phật; hai, tiếp theo ba kệ hiển bày hiểu về Pháp thân Vô sinh thường thị hiện; ba, tiếp theo một kệ trình bày về chấp trước là sai lầm; bốn, tiếp theo một kệ trình bày về tuệ giải là lợi ích; năm, tiếp theo một kệ trình bày về hiểu rõ nhân duyên thành tựu của Phật tức là lìa hết ngu si mê hoặc; sáu, tiếp theo một kệ suy ra công thuộc về Bổn.

3. Kệ của Thắng Tuệ có sáu: Một, ba kệ đầu trình bày về vọng chấp là sai lầm; hai, tiếp theo một kệ trình bày về có hiểu biết là đức; ba, tiếp theo một kệ dựa theo pháp phân rõ về lợi ích quán sát; bốn, tiếp theo ba kệ suy ra công đức thuộc về Phật; năm, tiếp theo một kệ về tuệ có thể thanh tịnh thì thấy Pháp thân; sáu, tiếp theo một kệ suy ra công thuộc về Bổn.

4. Kệ của Công Đức Tuệ có năm: Một, bốn kệ đầu trình bày về mê muội là sai lầm; hai, tiếp theo một kệ nêu rõ phương tiện thù thắng; ba, tiếp theo ba kệ trình bày về đạt được lợi ích của pháp tánh; bốn, tiếp theo một kệ ca ngợi phương tiện lợi ích chúng sinh của Phật; năm, tiếp theo một kệ suy ra công thuộc về Bổn.

5. Kệ của Tinh Tiến Tuệ có ba: Một, một kệ đầu làm sáng tỏ về lỗi lầm; hai, tiếp theo một kệ phân rõ về đức; ba, tiếp theo tám kệ mở rộng phân rõ về tướng đạt được lợi ích từ phương pháp quán sát. Trong văn tám kệ, bốn kệ trước là Vô tướng sinh khởi, bốn kệ sau là tánh chân thật.

6. Kệ của Thiện Tuệ có bốn: Một, hai kệ đầu trình bày có hiểu biết thì có thể độ mình và độ người; hai, tiếp theo năm kệ trình bày về Vô sinh cho nên hợp với Chân tánh; ba, tiếp theo một kệ rưỡi ca ngợi công năng thù thắng của vị hiểu biết; bốn, tiếp theo một kệ rưỡi suy ra công thuộc về Bổn.

7. Kệ của Trí Tuệ có ba: Một, một kệ đầu trình bày nhờ vào giáo

thành tựu hiểu biết chính xác; hai, tiếp theo sáu kệ trình bày về mê mờ giáo lý là sai lầm; ba, tiếp theo ba kệ trở lại thành tựu đức của hiểu biết.

8. Kệ của Chân Thật Tuệ có năm: Một, hai kệ đầu so sánh về hơn-kém được-mất; hai, tiếp theo hai kệ phân rõ về cảnh đã quán sát; ba, tiếp theo một kệ nêu ra lợi ích về học hỏi pháp quán; bốn, tiếp theo một kệ giải thích về biết là tên gọi; năm, tiếp theo bốn kệ nêu rõ nghi thức của pháp quán ấy.

9. Kệ của Vô Thượng Tuệ có bốn: Một, một kệ đầu giải thích về tên gọi của người; hai, tiếp theo sáu kệ ca ngợi về Tự lợi; ba, tiếp theo hai kệ ca ngợi về đức Lợi tha; bốn, tiếp theo một kệ suy ra công thuộc về Bổn.

10. Kệ của Kiên Cố Tuệ có bốn: Một, bốn kệ đầu ca ngợi Phật là thật sự quay về; hai, tiếp theo hai kệ nêu ra đức khuyến khích nương tựa; ba, tiếp theo hai kệ dẫn dắt tự quán sát vật để tiến vào; bốn, tiếp theo hai kệ nêu ra người thù thắng hiển bày đức vô tận để khuyến khích nương tựa.

Phẩm 11: THẬP TRÚ

Phân biệt có năm:

1. Giải thích tên gọi Thập Trú, tức là phân rõ ý đưa ra. Thập là số đếm, Trú là phần vị không lui sụt. Vì sao đưa ra? Bởi vì chính thức nói đến.

2. Trình bày về đối trị, là trăm chướng trước đây thuận theo phần vị mà đoạn, nếu là ba Thừa thì do thuần thục giáo pháp mà đoạn chấp ngã của ngoại đạo.

3. Đã đạt được ánh sáng tăng thêm Định và căn thiện thuộc về Đảnh.

4. Đã thành tựu chính là thành tựu mười hiểu biết(Giải), tức là nói thuần thục giáo pháp của ba Thừa, chính là Tông của phẩm này.

5. Giải thích văn. Từ sau phẩm thứ ba phân làm Chánh Tông. Hai phẩm trong này tức là hai: Một, phẩm đầu gồm chung đạo-tục; hai, phẩm Phạm Hạnh là pháp hành riêng biệt của xuất gia. Phẩm đầu như nghĩa phân văn.

Phẩm đầu này có ba Tựa, Pháp sư Quang nói có tám Tựa làm thành ba, phẩm đầu có hai Tựa hợp lại gọi là Tựa về Trú xứ, phẩm tiếp theo có ba Tựa hợp lại gọi là Tựa về Tập chúng, phẩm này có ba Tựa hợp lại gọi là Tựa về Khởi thuyết.

Lại dựa vào phẩm Thập Địa sau ba Hội này đều có sáu phần:

  1. Gọi là phần Tam-muội.
  2. Phần gia hộ.
  3. Phần khởi định.
  4. Phần căn bản.
  5. Phần tuyên thuyết.
  6. Phần lợi ích.

Phạm vi đến văn nên biết. Nhưng văn này có hai: Một, trình bày Tựa về Tam-muội; hai, từ “Cáo chúng Bồ-tát ngôn…” trở xuống là Chánh Tông.

Tựa về Tam-muội đặc biệt chú ý đã phân rõ trước đây. Định gọi là Vô lượng phương tiện Định, phương tiện là Trí, bởi vì Định thành tựu Trí thù thắng nhận biết về pháp. Nguyên cớ Bồ-tát Pháp Tuệ nhập định và thuyết giảng thì như phần luận sau nên biết.

Hai, Tựa về gia hộ có ba: Một, phân rõ về cùng gia hộ, phần này có ba, một là trình bày về hiện thân và hiển bày cùng tên gọi tức là hai, hai là cùng ca ngợi cũng có hai có thể biết, ba là giải thích về nguyên cớ đạt được có bốn có thể biết. Hai, từ “Dục linh nhữ quảng thuyết…” trở xuống trình bày gia hộ bằng việc làm có mười một câu, một câu là tổng quát, chín câu là riêng biệt, cuối cùng một câu là kết luận thành tựu phần vị. Thứ hai trong chín câu, năm câu đầu là phần mình, bốn câu tiếp theo là thắng tiến mà thôi. Ba, từ “Thiện nam tử…” trở xuống phân rõ về tướng gia hộ, đó là ba nghiệp. Văn về tướng gia hộ có ba: Một từ “Thiện nam tử…” trở xuống phân rõ về khẩu gia hộ; hai từ “Như Lai tức dữ…” trở xuống trình bày về ý gia hộ; ba từ “Các thân…” trở xuống là thân nghiệp gia hộ. Thế nào là ý gia hộ? Bởi vì trao cho pháp cùng duyên giúp đỡ. Văn về ý gia hộ có hai: Một là nêu ra mười Trí; hai là từ “Hà dĩ cố…”trở xuống giải thích về nguyên cớ.

Hỏi: Vì sao trao cho Trí?

Đáp: Bởi vì Trí hiểu pháp.

Khởi định có bốn ý:

  1. Sự nhập định kết thúc.
  2. Đạt được lực thù thắng.
  3. Thời gian thuyết đã đến.
  4. Bởi vì Định không có ngôn thuyết.

Thứ hai là văn chính thức tuyên thuyết có bốn: Một, ca ngợi chủng tánh sâu xa thù thắng, đồng thời nêu ra mười tên gọi, tức là phần căn bản; hai, từ “Hà giả…” trở xuống mở rộng giải thích về tướng của Trú; ba, từ “Nhĩ thời Phật thần lực cố…” trở xuống trình bày về mặt đất chấn động, hiển bày thành tựu Thật chứng; bốn, dùng kệ để tụng lại.

Văn thứ nhất có hai: Một, tổng quát về nghĩa ca ngợi chủng tánh, tức là Thể về tánh của hai loại Tánh-Tập; hai, từ “Bồ-tát Thập Trú…” trở xuống nêu ra tướng của mười Giải, trình bày về Phật cùng thuyết, tức là tướng về tánh của hai loại Tánh-Tập. Đây là dựa theo Khắc tánh mà nói.

Nếu dựa vào phần vị thì tức là có sáu loại tánh:

  1. Tập chủng tánh là phần vị Thập Giải.
  2. Tánh chủng tánh là Thập Hạnh.
  3. Đạo chủng tánh là Thập Hồi Hướng.
  4. Thánh chủng tánh là Thập Địa.
  5. Đẳng giác tánh là tâm cuối cùng của Thập Địa.
  6. Diệu giác tánh là Phật Địa.

Lại gọi là sáu Kiên, đó là Kiên Tín, Kiên Pháp, Kiên Tu, Kiên Đức, Kiên Đảnh, Kiên Giác; cũng gọi là sáu Nhẫn, đó là Tín Nhẫn, Pháp Nhẫn, Tu Nhẫn, Chánh Nhẫn, Vô cấu Nhẫn, Nhất thiết trí Nhẫn.

Lại gọi là sáu Tuệ, đó là Văn Tuệ, Tư Tuệ, Tu Tuệ, Vô tướng Tuệ, Chiếu Tuệ, Tịch chiếu Tuệ; cũng gọi là sáu Quán: Trú Quán, Hạnh Quán, Hướng Quán, Địa Quán, Vô tướng Quán, Nhất thiết chủng trí Quán. Đây là căn cứ theo ba Thừa dựa vào phần vị mà nói. Trong này, trong Thập Giải-Thập Hạnh, trong sáu quyết định chỉ không có Đại thiện quyết định; Thập Hồi Hướng chỉ có Quán tướng thiện-Đại thiện và không khiếp nhược, ba loại còn lại đều không có. Sở dĩ có Đại thiện và không có ba loại còn lại, bởi vì Hồi Hướng là hiển bày thành tựu trong sự phương tiện cho nên Đại thiện hiển bày; ba loại còn lại không có là bởi vì nghĩa ẩn kín cho nên không nói, Quán tướng… có thể biết. Thập Giải-Thập Hạnh… vì sao không có Đại thiện? Vì Giải-Hạnh là hiển bày về nghĩa của Tự hành cho nên không có, còn lại suy nghĩ có thể biết.

Văn phần một về Thể có hai: Một là nói tổng quát cho biết, hai là trình bày riêng biệt về sáu quyết định.

Văn phần hai về Tướng của Giải có ba: Một là nêu ra số để dẫn chứng về lập Tông, hai là riêng biệt nêu ra có hai có thể biết, ba là dẫn chứng kết luận.

Tên gọi về Thập Giải:

  1. Kỳ hạn trước phát tâm.
  2. Sửa trị phần vị (địa), diệt trừ phiền não, phát sinh tự lợi-lợi tha.
  3. Tu tập thực hành Định, thành tựu hai loại trước mà thôi.
  4. Sinh khởi hạnh thù thắng thành tựu, sinh vào nhà Phật.
  5. Phương tiện đầy đủ, trọn vẹn hạnh tự-tha.
  6. Trú trong Chánh tâm, đạt được Chánh giải về duyên khởi.
  7. Không thối chuyển, Lý-Lượng Chỉ-Quán cùng thực hành.
  8. Đồng chân Vô sinh, dùng diệu giải để lập thân, như trẻ thơ không nhiễm ô.
  9. Vốn là con của đấng Pháp Vương cho nên khéo léo thực hành giáo pháp của Phật.
  10. Phần vị Quán Đảnh đầy đủ cho nên tiếp nhận chức vụ tương ưng. Đây chính là hành tướng của các phần vị sau.

Văn thứ hai là mở rộng phân rõ, mỗi một Trú đều có bốn đoạn: Một, hỏi về nêu ra tên gọi; hai, phân rõ về tướng của Giải có ba, đầu là tổng quát, hai là giải thích, ba là kết luận; ba, trình bày trợ hạnh thắng tiến dựa vào tu cũng có ba là thiết lập-giải thích-kết luận, về sau đều giống như vậy, cũng có thể ngay phần vị mà tu tập; bốn, từ “Hà dĩ cố…”  trở xuống giải thích về ý của Học.

Chỉ riêng Trú thứ nhất và Trú thứ mười có sáu câu:

1. Nhắc lại dựa vào câu hỏi.

2. Phân rõ về duyên phát tâm có sáu câu.

3. Phân rõ về Thể của hạnh, phần này có ba câu: Một là Thể của phát tâm có bốn Duyên, bốn Nhân, bốn Lực. Bốn Duyên: Một là thấy nghe Đại sự về thần thông của Bồ-tát và Phật, hai là nghe pháp, ba là hộ pháp ở thời gian cuối cùng, bốn là thấy chúng sanh khổ cho nên phát tâm. Bốn Nhân: Một là chủng tánh nhân duyên, hai là Phật Bồ-tát đều làm thiện hữu, ba là khởi tâm Đại Bi, bốn là không sợ mọi khó khăn. Bốn Lực là Tự lực, Tha lực, Nhân lực, Phương tiện lực, như luận Địa Trì nói. Hai là đã phát khởi. Ba là không thối chuyển, phần này có hai nghĩa: Một, nếu dựa theo Nhất thừa Thông giáo, tiến vào phần vị Thập Trú thì bốn thối chuyển…đều không có; hai, nếu dựa vào ba Thừa, thì từ Thập Địa trở về sau có Niệm thối chuyển, Địa tiền có Hạnh thối chuyển-Vị thối chuyển, không tiến lên-lùi lại cũng thối chuyển, Thập Tín trở về trước có thật sự thối chuyển, về sau mười tín có thị hiện thối chuyển. Đây là dựa theo phần vị mà nói.

4. Trình bày về sự chứng đắc.

5. Trình bày về Học.

6. Phân rõ về ý của Học trước đây.

Vả lại, các văn sau này đều có ba: Một là hỏi, hai là đáp, ba là phân rõ về công năng thành tựu hạnh thù thắng. Văn này có ba: Một, vặn hỏi; hai, phân rõ ý; ba, trình bày về đức đã thành tựu. Các phần vị đều giống như vậy, cũng có thể gồm chung giải thích mà thôi. Tức là tự giải thích gồm chung nhân quả, nghĩa ấy có ba: Một là không nhờ vào những giáo Tiểu thừa khác mà hiểu, hai là không nhờ vào cảnh của giáo khác mà thành tựu, ba là không nhờ vào tánh khác mà Tập riêng biệt. Văn sau giải thích đều có giống và khác, suy nghĩ thì có thể biết mà thôi.

Trong phần hai: Sửa trị phần vị (địa), mười câu đầu giống như mười loại Tập của Địa thứ hai, mười câu sau giống như Tập trong quả làm cho các chúng sinh rời bỏ điên đảo trú vào Chánh kiến…

Trong phần ba: Tu tập thực hành, mười câu trước giống như thực hành bảo vệ phiền não của Địa thứ ba, mười câu sau giống như bảo vệ Tiểu thừa.

Trong phần bốn: Sinh khởi hạnh thù thắng, mười câu đầu giống như mười loại Pháp trí của Địa thứ tư, mười câu sau giống như phẩm Tu đạo….

Trong phần năm: Phương tiện đầy đủ, mười câu đầu giống như quán Đại Từ… của Địa thứ năm, mười câu sau giống như quán Đại Bi vì khổ sâu nặng.

Trong phần sáu: Trú trong Chánh tâm, mười câu đầu giống như câu thứ mười trong mười bình đẳng của Địa thứ sáu, mười câu sau giống như chín bình đẳng trước.

Trong phần bảy: Không thối chuyển, mười câu đầu giống như mười loại đối trị về Lạc-Vô tác của Địa thứ bảy, mười câu sau giống như đối trị về chướng ấy, cũng giống như phần thực hành song song. Thối chuyển có bốn loại: Một là Vị, hai là Hạnh, ba là Niệm, bốn là thuận theo đạt được không đạt được, trong này không có bốn thối chuyển…

Trong phần tám: Đồng chân Vô sinh, mười câu đầu giống như từ thế nào là thân cho đến cúng dường Phật… trong phần thắng hạnh của Địa thứ tám, mười câu sau giống như tự tại trong ba thế gian của Địa ấy.

Trong phần chín: Vốn là con của đấng Pháp Vương, mười câu đầu giống như trí thành tựu tiến vào hạnh… của Địa thứ chín, mười câu sau giống như văn về Pháp sư thành tựu khẩu nghiệp… của Địa ấy.

Trong phần mười: Phần vị Quán Đảnh có năm: Một, nêu ra tên gọi; hai, mở rộng giải thích; ba, hiển bày thù thắng; bốn, tiến lên học hỏi; năm, loại trừ nghi ngờ. Mười câu thứ nhất giống như phần Tammuội của Địa thứ mười, mười câu thứ hai giống như phần tiếp nhận phần vị của Địa ấy, mười câu thứ ba giống như phần không còn Đại của Địa ấy, tức là tiến vào an trú và rời ra.

Trên đây là dựa vào Nhất thừa phát sinh niềm tin mà nói; nếu căn cứ theo ba Thừa thì dựa vào phần vị quán sát riêng biệt, như trải qua lâu dài trong Trú thứ nhất, tập hợp tất cả căn thiện trở thành bốn thệ nguyện rộng lớn, chúng sinh chưa thoát khỏi Khổ thì giúp cho thoát khỏi, chưa hiểu rõ Tập thì giúp cho hiểu rõ, chưa an ổn trong Đạo thì giúp cho an ổn, chưa đạt được Diệt thì giúp cho đạt được Diệt.

Trong Trú thứ hai, tu tập vô lượng hành thiện, đó là bốn Niệm quán Thân-Thọ-Tâm-Pháp, bốn pháp này đều là Không.

Trong Trú thứ ba, khéo léo tập hợp về đạo pháp của Phật, đó là quán về mười Nhất thiết nhập, bốn Đại, bốn Sắc, Không xứ, Thức xứ đều như thật tướng.

Trong Trú thứ tư, trước tất cả chư Phật thọ pháp mà thực hành quán sát về tám Thắng xứ, hai Thắng xứ về tướng mở rộng-tướng tóm

lược trong năm Ấm chân thật bên trong, hai Thắng xứ về tướng mở rộng-tướng tóm lược trong chúng sinh pháp giả tạm bên ngoài, bốn Thắng xứ về mở rộng-tóm lược pháp của bốn Đại, như vậy quán sát tất cả các pháp là Không-Vô tướng.

Trong Trú thứ năm, tu tập các pháp thanh tịnh, đó là tám điều giác ngộ của bậc Đại Nhân, ít muốn, biết đủ, vắng lặng, tinh tiến, chánh niệm, chánh định, chánh tuệ, không tranh luận, thuận theo tất cả các pháp.

Trong Trú thứ sáu, được chư Phật gia hộ, quán sát tám Giải thoát đạt được Văn tuệ, hai tướng giả tạm bên trong-giả tạm bên ngoài không thể đạt được; một Giải thoát về Tư tuệ, năm pháp bên trong-tất cả các pháp bên ngoài không thể đạt được; hai Giải thoát về Tu tuệ, sáu quán đầy đủ, năm Ấm của cõi Sắc là Không; ba Giải thoát về bốn Khôngnăm Ấm và Diệt định quán đều không thể đạt được; năm Giải thoát như tướng.

Trong Trú thứ bảy mở rộng về pháp chính, đó là sáu hòa kính, ba nghiệp, đồng giới, đồng kiến, đồng hạnh, tiến vào pháp hòa này hoàn toàn là Không, trú trong phần vị không thối chuyển.

Trong Trú thứ tám, tin tưởng vui với Đại pháp, đó là ba xứ, tất cả các nhân vốn là Vô tác, tất cả các quả vốn là Vô tướng, nhân Không và quả Không, Không cũng Không cho nên là Không Không, như vậy các pháp như hư không.

Trong Trú thứ chín, trú vào bốn pháp bình đẳng, đó là hóa độ chúng sinh theo giáo pháp bốn Đế, ba cõi không vui là Khổ, Vô minh là nhân của Tập thọ sinh vô cùng, ba Không là phẩm loại của Đạo, tự nhiên vắng lặng là Diệt, bốn Đế không hai, vốn là một tướng hòa hợp, tức là chúng sanh duyên-pháp duyên và vô duyên.

Trong Trú thứ mười, mong cầu công đức của Phật, đó là sáu niệm về Phật-Pháp-Tăng- Giới-Xả-Thiên, có thể từng niệm từng niệm tiến vào tất cả công đức của Phật, không dựa theo Tam-muội, bởi vì thường xuyên tu tập. Đây là căn cứ theo ba Thừa dựa vào phần vị mà quán sát.

Văn thứ ba là hiển bày thành tựu Thật chứng có hai: Một, mặt đất chấn động hiển bày về Thật; hai, từ “Phật thần lực…” trở xuống là Bồtát thành tựu Thật chứng. Văn trước có ba:

  1. Mặt đất chấn động.
  2. Mưa hoa.
  3. Chẳng khác gì các thế giới ở mười phương.

Văn phần hai Bồ-tát Thật chứng có hai: Một là Bồ-tát thành tựu Thật chứng, hai là kết luận về pháp giới bình đẳng rộng khắp. Văn phần trước có bốn câu có thể biết, trong phần hai là kết luận có hai có thể biết.

Văn thứ tư là trùng tụng có hai trăm lẻ ba kệ, có hai: Một, một trăm tám mươi lăm kệ đầu tụng về tướng của Thập Giải; hai, từ “Như thị Thập Trú chư Bồ-tát…” trở xuống có mười tám kệ, tổng quát tụng về Thập Trú, kết luận ca ngợi khuyến khích tu tập.

Phần một là văn chính tụng có mười:

  1. Chín mươi kệ đầu tụng về Trú thứ nhất.
  2. Tiếp theo sửa trị phần vị(địa) thứ hai trở xuống tụng về Trú thứ hai, còn lại đều có thể biết.

Văn phần một có ba: Một, đối với ba mươi lăm sự việc mở rộng thành tựu Thể của phát tâm; hai, từ “Bồ-tát như thị pháp tâm dĩ…” trở xuống phân rõ về Dụng của Trú thứ nhất; ba, từ “Thị thuyết Bồ-tát…” trở xuống là kết luận.

Trong sửa trị phần vị, bốn kệ đầu tụng về Giải, tám kệ sau tụng về công hạnh đã học. Tu tập thực hành, bốn tụng trước là Giải, sáu tụng sau là công hạnh đã học. Sinh khởi hạnh thù thắng, sáu tụng trước là Giải, sáu tụng sau là công hạnh. Phương tiện đầy đủ, sáu tụng trước là Giải, ba tụng sau là công hạnh. Trú trong Chánh tâm, tám tụng trước là Giải, hai tụng sau là công hạnh. Không thối chuyển, bốn tụng trước là Giải, bốn tụng sau là công hạnh. Đồng chân Vô sinh, sáu tụng trước là Giải, bốn tụng sau là công hạnh. Vốn là con của đấng Pháp Vương, bốn tụng trước là Giải, hai tụng sau là công hạnh. Phần vị Quán Đảnh, mười tụng trước là Thể của đức, hai tụng sau là tướng của phần vị Trú, bốn tụng sau cùng là thực hành phương tiện.

Văn phần hai là kết luận ca ngợi có hai: Mười bốn kệ đầu là tổng quát tụng về Thập Trú khó biết, bốn kệ tiếp theo là kết luận không thể nào nói hết.

Phẩm 12: PHẠM HẠNH

Bốn môn giống như trước:

1. Giải thích tên gọi. Rất thanh tịnh trong hạnh cho nên gọi là Phạm hạnh. Chủ yếu luận về Phạm có hai, đó là Báo và phương tiện. Bắt đầu tu tập là Tịnh, thành tựu là Phạm. Nếu dựa vào Báo, thì cõi Dục là Tịnh, cõi Sắc là Phạm. Nếu dựa theo Tự lợi-lợi tha, thì Tự lợi là Tịnh, Lợi tha là Phạm. Vì vậy kinh Niết-bàn nói: Ba Học là Thánh hạnh thù thắng, bốn Vô lượng là Phạm.

2. Trình bày về ý đưa ra. Vì sao đưa ra? Tiến đạo có nhiều phương pháp, thuận theo tướng phân hai, đó là Tăng và Tục. Tục bởi vì thuận theo Lợi tha không có phương pháp lợi ích cho chúng sinh, cho nên không trú trong phạm vi của hạnh. Tăng bởi vì thuận theo Tự lợi, không thể tùy tiện hủy hoại hình dáng oai nghi xuất thế, cho nên chỉ thành tựu về nội quán. Vì thế trong phẩm loại phần vị phân rõ người xuất gia chỉ thành tựu Tam-muội.

Hỏi: Các Hội trước đây vì sao không nói đến phẩm này?

Đáp: Có hai ý, một là hạnh trong này yếu kém, hai là bởi vì trước nối thông sau.

Hỏi: Trong Thập Tín vì sao không trình bày về phẩm này?

Đáp: Phần Chánh Tông này là làm sáng tỏ lấy pháp thành tựu người, không lấy người thành tựu pháp. Sao gọi là người thành tựu pháp? Bởi vì pháp không có cao thấp, tùy theo căn tánh của con người, hiển bày về pháp có tinh-thô. Thập Tín hiểu về pháp chưa rõ ràng, cho nên không thể dùng pháp thành tựu người. Thập Tín hiểu biết kém cỏi, cho nên chỉ tùy theo Tín căn mà xác định về pháp. Nếu nói về hình thức hạn chế, thì các kiến chấp lại tăng lên mà không thành tựu Chánh Tín.

Hỏi: Phạm hạnh phát tâm sáng tỏ về pháp, vì sao không nối thông với ba Hội sau?

Đáp: Về lý thì có, bởi vì phẩm này tương tự với phẩm kia mà thôi.

3. Phân rõ về Tông. Quán sát về lý Vô niệm là hành Niết-bàn hoàn toàn vắng lặng, là quả của Tự Thể, tức là Tông của phẩm này.

Lại hỏi: Trong này bắt đầu trình bày về nhân Sơ phát tâm của Thập Trú, vì sao lại nói là hành của quả?

Đáp: Bởi vì đây là trình bày về tự Thể chân thật của phát tâm, Thể hợp với thời gian sau bao gồm không ngoài, lại là quả trong tự Thể của phát tâm, không có hành hý luận mà thôi. Vì thế cuối phẩm kết luận rằng: Lúc mới phát tâm đã thành Chánh giác, đầy đủ thân Tuệ không do người khác mà giác ngộ.

) Giải thích văn. Văn này có hai: Đầu là hỏi, sau là đáp. Nguyên cớ Thiên tử Chánh Niệm hỏi là biểu thị từ Định mà hiển bày lý. Vả lại, Chánh Niệm không hư vọng, Báo thanh tịnh có thể tiếp nhận.

Văn hỏi có bốn: Một, hỏi tổng quát; hai, nhắc lại sự việc; ba, phần mình thành tựu hạnh xuất gia; bốn, từ “Tốc thành…” trở xuống là thắng tiến trình bày về phần khác, và cảnh giới Phật.

Lại hỏi: Phẩm Tịnh Hạnh trước đây vì sao cùng trình bày về tại gia và xuất gia, phẩm này thì không như vậy? Đáp: Trước đây vì Tín căn yếu kém, mới cùng trình bày dựa theo duyên tu tướng thay đổi nơi chốn, trong phẩm này trở đi hiểu pháp trình bày về tướng xuất gia, muốn trình bày về tự Thể lìa tánh duyên khởi chứ không phải là đoạn cho nên lìa, điều này như kinh Duy-ma nói.

Văn trả lời có ba: Một, trả lời về phần mình trước đây; hai, từ “Hựu phục tu tập tăng thượng thập pháp…” trở xuống là trả lời câu hỏi về phần khác trước đây; ba, từ “Bồ-tát như thị quán giả…” trở xuống là kết luận về Phạm hạnh thành tựu lợi ích mà thôi.

Văn phần một có ba: Một phân rõ về Tầm Tư, hai từ “Chánh Niệm…” trở xuống là phân rõ về Chánh quán, ba từ “Thị danh…” trở xuống là kết luận.

Văn về Tầm Tư có hai: Một, phân rõ về Tầm Tư; hai, từ “Hựu tri quá khứ…” trở xuống trình bày về như thật. Một về Tầm Tư lại phân ba:

  1. Nêu ra mười pháp trình bày về sở quán, phần này có hai, một là tổng quát, hai là riêng biệt.
  2. Từ “Ưng như thị…” trở xuống chính thức trình bày về quán.
  3. Từ “Đương như thị…” trở xuống là kết luận. Thế nào là Thể của Phạm hạnh? Chính là Chánh trí phát ra từ trong tự Thể của lý chân thật. Vì sao Bồ-tát Pháp Tuệ nói ra? Bởi vì tánh đức viên thông nếu không phải là tuệ thuận theo pháp thì không sáng tỏ.

Trong Thập Trú thì sáu Trú trước là hành và duyên của hành, bốn Trú là cảnh của Tín cho nên chỉ nói đến loại ấy, tướng còn lại có thể biết. Văn về như thật có hai:

  1. Phân rõ về Quán hành.
  2. Từ “Thử Phạm hạnh pháp…” trở xuống là trở lại nghiệm xét.

Thứ hai là Bồ-tát Chánh niệm không chướng ngại là phân rõ về Chánh quán, văn có ba:

Một, phân rõ về Vô tướng; hai, từ “Như thị quán giả…” trở xuống là phân rõ về Y tha Vô sinh; ba, từ “Nhất thiết Phật…” trở xuống là phân rõ về pháp chân thật vô tánh, ví dụ có thể biết.

Thứ hai về Thắng tiến, văn có ba: 1-Tự lợi có bốn câu, đó là thiết lập-hỏi-đáp-kết luận có thể biết; 2-Từ “Như thị quán sát…” trở xuống là trình bày về Lợi tha; 3-Từ “Như huyễn…” trở xuống là nói về dụ. Hai loại trước không có Thể như huyễn, hiện rõ thật sự như mộng, khởi dụng như điện chớp, duyên tụ hội như tiếng vang, thành tựu sự việc như biến hóa.

Thứ ba là văn kết luận về Tự lợi-lợi tha, cũng có thể là trả lời về câu hỏi nhanh chóng thành tựu trước đây, cũng có hai:

  1. Nhắc lại.
  2. Kết luận về lợi ích.

Văn về lợi ích có hai: Một, kết luận về ít hành-nhiều công năng trước đây, có hai có thể biết; hai, từ “Sơ phát tâm thời…” trở xuống là thành tựu nhanh chóng, nguyên cớ có hai có thể biết. Nói đến tức là Bồ-đề thì có hai:

1) Dựa theo phần vị tức là Bồ-đề của Thập Giải; 2) Dựa theo Giải sáng tỏ về Chánh lý.

Còn lại Tín-Hạnh-Chứng… theo đây mà biết. Vả lại, ngay Phổ Hiền chứng được tự Thể viên minh, cứu cánh nhân quả, đây là Giải dựa theo Nhất thừa mà thôi.

Phẩm13: PHÁT TÂM CÔNG ĐỨC

Dưới đây là phân rõ về đức thắng tiến của phần vị này. Bốn môn giống như trước.

1. Giải thích tên gọi, Phát tâm là nhắc lại Thể của hành, Công đức là do thực hành mà thành tựu Công đức, dựa vào hai nghĩa có được tên gọi.

2. Ý đưa ra. Vì sao đưa ra? Bởi vì công hạnh trước đây đã thành tựu, cho nên nay phân rõ ca ngợi về tướng của đức.

3. Phần lượng công đức là Tông của phẩm này.

4. Phân rõ văn. Văn này có bốn:

    1. Hỏi.
    2. Đáp.
    3. Chứng thành.
    4. Kệ tụng.

1. Nguyên cớ Đế hỏi: là bởi vì ở cõi trời, cũng chính là Công đức tự tại, nhưng hiểu biết thanh tịnh tự tại mới có thể có được công đức mà thôi. Sở dĩ Bồ-tát Pháp Tuệ nói, là bởi vì tuệ phù hợp với pháp mới cùng tận được công đức.

2. Văn đáp có hai: Một, tóm lược, trong phần này có ba, một là tổng quát, hai là riêng biệt, ba là thừa nhận phạm vi. Phần lượng của giáo khó biết, nghĩa sâu xa khó tin, tư duy khó hiểu được, thuận theo giáo khó nói ra, muốn chứng được khó thông, bởi vì tính ra thì cao nhất cho nên khó phân biệt. Hai, từ “Giả sử…” trở xuống là mở rộng trả lời, văn mở rộng có hai: Một, phân rõ về mười hai dụ; hai, từ “Phát thị tâm dĩ…” trở xuống là hợp dụ. Văn phân rõ mười hai dụ có bốn: 1) Dụ; 2) Nêu ra; 3) Đáp; ) So sánh. Văn còn lại thì không nhất định.

Trong mười hai dụ có năm: Một là năm giới, hai là mười thiện…, hai loại này chọn lấy lợi ích để làm ví dụ; ba là thân thông tức là nơi sinh có được lợi ích; bốn là biết thành hoại, biết thời gian của pháp; năm là hy vọng của căn bậc Hạ, dụ thứ bảy trình bày về căn khí dày mỏng được lợi ích, một dụ sau trình bày mở rộng về đức của các hành tiến vào phần vị thù thắng.

Thứ hai là Hợp dụ, văn trường hàng phân làm bảy: Một, tổng quát phân rõ về công năng của đức; hai, từ “Hà dĩ cố…” trở xuống là vặn hỏi về nghĩa ban đầu không phải yếu kém thành tựu thù thắng như nhau; ba, trả lời về nguyên do; bốn, từ “Hà cố…” trở xuống lại vặn hỏi về trước giống như sau; năm, từ “Thử sơ phát tâm…” trở xuống lấy sau thâu nhiếp trước; sáu, từ “Tất dữ tam thế chư Như Lai đẳng…” trở xuống là mở rộng phân rõ; bảy, từ “Bỉ sơ phát tâm…” trở xuống là kết luận nhờ vào nhân duyên thù thắng mà thôi. Vả lại, Đắc chứng là chứng được do thực hành, Thân chứng là chứng được do phần vị; Đắc chứng là tương ưng với Trí, Thân chứng là tương ưng với Thân. Trong này đều là đức chân thật của Phổ Hiền.

Lại hỏi: Vì sao các thế giới đều dễ dàng thuận theo tâm của Bồtát mà chuyển là thế nào? Đáp: Bởi vì Bồ-tát đạt được tâm tự tại hòa hợp với các nhân duyên, là nhân duyên của các pháp cho nên chuyển theo, điều này nên suy nghĩ chính xác. Vả lại, mười Dục… ở văn trước, hễ có một Dục thiện thì có đủ mười đức trên, còn lại nên theo đúng như vậy. Nhưng sở dĩ Thân chứng nối thông ba đời, là bởi vì văn sau nói Bồtát thường không rời xa trước chư Phật ba đời.

3. Văn về mặt đất chấn động thành tựu chứng đắc… có năm: Một, mặt đất chấn động, mưa hoa…; hai, chư Phật cùng chứng có hai có thể biết; ba, lợi ích cho chúng sinh, đạt được lợi ích có ba mà thôi; bốn, Phật khác cùng nói chứng minh thành tựu nghĩa trước, có hai có thể biết; năm, phân rõ về nguyên do thành tựu có mười mà thôi.

Hỏi: Vì sao Phật chứng? Đáp: Vì thắng tiến cho nên nêu ra quả thâu nhiếp thành tựu, nhưng sợ rằng không tin, vì vậy lại biểu thị nhân và quả cùng chung một tánh, việc khác có thể biết.

4. Trùng tụng có hai: Một, trường hàng sinh khởi; hai, kệ tụng. Văn phần một có tám có thể biết. Văn kệ có hai trăm bốn mươi mốt kệ rưỡi, phân làm bốn: Một, mở rộng ca ngợi phát tâm hiện tại thành tựu công đức; hai, từ “Thập phương thế giới trung…” trở xuống lại nêu ra mười hai dụ trước để thuật rõ công đức khó suy nghĩ được; ba, từ “Tam thế nhân trung tôn…” trở xuống là phân rõ về công năng thành tựu quả này; bốn, từ “Bồ-tát sơ phát tâm…” trở xuống là kết luận. Trong này không thể nào xét định cặn kẽ, nếu cặn kẽ thì lạc mất tôn chỉ. Vả lại, từ phần vị Trú trở đi, tất cả pháp môn như Giải-Hạnh-Lý-Sự-Giáo-Nghĩa… đều thường xuyên thực hành không gián đoạn, nên biết. Lại từ phần vị Tín thành tựu trở đi là hạnh Phổ Hiền, chính là tám tướng cùng với Phật xưa nay hoàn toàn không có sai biệt, điều này nên suy nghĩ, còn lại nghĩa-hành… của ba Thừa đều khác biệt không nghi ngờ gì.

Phẩm 14: MINH PHÁP

Bốn môn giống như trên.

1. Giải thích tên gọi. Nói đến Minh Pháp thì có hai: Một là dựa theo giáo, pháp A-hàm soi chiếu lý hiện rõ cho nên gọi là Minh, Pháp tức là nghĩa; hai, dựa theo hành, là bởi vì hành thêm thù thắng hiện bày tướng của phần vị sau. Tức là dùng nghĩa của pháp ở phần vị trước để hiểu rõ công hạnh… làm Minh, dùng nghĩa của giáo ở phần vị sau… làm Pháp.

2. Ý đưa ra. Vì sao đưa ra? Bởi vì dùng đức của hành trước trải qua tu, làm phương tiện cho phần vị sau.

3. Chính là nghĩa về thực hành giáo pháp… là Tông của phẩm này.

4. Phân rõ văn. Sở dĩ Tinh Tiến hỏi là nếu không có hạnh tinh tiến thì không có thể tiếp nhận pháp thắng tiến này. Vì lẽ đó Bồ-tát Pháp Tuệ đáp là Tuệ phù hợp với pháp cho nên có thể nói rõ về giáo này. Văn có ba: Một là hỏi, hai là đáp, ba là cuối cùng một phần trường hàng tóm lược kết luận về lưu thông.

Văn hỏi có hai: Đầu là hỏi, tiếp là trùng tụng. Văn phần đầu có ba: Một, trước là nhắc lại hành đức trong phần vị Trú trước đây làm thứ tự sinh khởi phần vị sau; hai, từ “Bỉ Bồ-tát vân hà tu tập…” trở xuống là chính thức hỏi về hành đức của thời gian trước trong phần vị thắng tiến. Văn phần một nhắc lại có sáu câu có thể biết. Tiếp theo văn hỏi về thắng tiến trong thời gian trước có mười một câu phân làm bốn: Sáu câu đầu là Tự lợi, tiếp theo từ “Tùy kỳ…” trở xuống là ba câu về hạnh Lợi tha, tiếp theo từ “Hưng long…” trở xuống là một câu về trú trì kiến lập, tiếp theo một câu là thành tựu sự việc không hư dối. Ba, pháp thuộc phần Lợi tha ở thời gian sau trong phần vị thắng tiến, có hai: Đầu là tổng quát, sau là riêng biệt. Văn về riêng biệt có ba: Một, trình bày về đức thành thục, văn này có hai: Một là hành đức thành thục về Tự lợi, hai từ “Cụ túc Phật sát…” trở xuống là hành pháp chúng sanh thành thục về Lợi tha.

Phần một là Tự lợi có bốn câu:

  1. Lìa chướng.
  2. Thành tựu Thể.
  3. Thành tựu Đức.
  4. Thành tựu Dụng.

Phần hai trong Lợi tha có ba, đó là Thể-Đức-Dụng. Thể có mười hai sự việc, theo đây có thể hiểu mà thôi. Hai, từ “Thiên Vương…” trở xuống trình bày về hành pháp quyến thuộc, có bốn có thể biết; ba, từ “Đắc thiện căn lực…” trở xuống phân rõ về nghĩa đầy đủ đức Tự-tha thành tựu không hư dối, có bốn câu.

Thứ hai là văn trùng tụng có hai: Một là sinh khởi, hai là kệ tụng. Kệ có hai mươi hai kệ: Bốn tụng đầu nhắc lại văn về đức thắng tiến trong phần vị Trú, trước Bồ-tát sơ phát tâm trước đây; tiếp theo từ “Vân hà…” trở xuống có bảy tụng, phần thứ hai “Bỉ Bồ-tát…” trở xuống là chính thức hỏi về Chánh hạnh ở thời gian trước trong phần vị thắng tiến; tiếp theo từ “Nhân hùng…” trở xuống có mười một tụng, từ “Thiện tai…” trở xuống là văn về quả đức Lợi tha ở thời gian sau. Ngay phần thứ hai từ “Vân hà…” trở xuống trong phần mình ở thời gian trước, đầu có ba kệ tụng về sáu câu Tự lợi trước đây, tiếp theo hai tụng về ba câu trong hạnh Lợi tha, tiếp theo một tụng về văn kiến lập, tiếp theo một tụng về quả hành thành tựu không hư dối.

Thứ hai trong phần đáp có hai: Trước là trường hàng, sau là kệ tụng. Văn trước có ba: Một, ca ngợi đã hỏi lợi ích nhiều cho lúc này, có ba có thể biết; hai, khuyên nhủ lắng nghe đồng ý tuyên thuyết; ba, từ “Phật tử thử Bồ-tát…” trở xuống là chính thức trả lời. Văn trả lời có hai: 1-Trả lời về Chánh hạnh phần mình ở thời gian trước trong phần vị thắng tiến; 2-Từ “Bồ-tát Ma-ha-tát nhược đắc thành tựu…”trở xuống trả lời về quả hành ở thời gian sau trong phần vị thắng tiến trước đây.

Văn phần 1 có một trăm bảy mươi câu, cũng có thể là một trăm tám mươi câu, có bốn: Một trăm mười câu đầu trả lời sáu câu đầu về hạnh Tự lợi trong mười một câu trước đây; tiếp theo bốn mươi câu trả lời ba câu về hạnh Lợi tha; tiếp theo mười câu trả lời về trú trì kiến lập, tiếp theo mười câu trả lời về thành tựu sự việc không hư dối.

Trong văn trả lời về Tự lợi, một trăm câu đầu trả lời về năm hạnh trước, mười câu sau trả lời về hạnh thứ sáu. Trong văn trả lời về năm hạnh trước, mỗi một hạnh đều trả lời có hai mươi câu. Trong hai mươi câu, mười câu trước là pháp tương ưng với tự hành, mười câu sau là pháp tu hành thắng tiến. Nói đầy đủ trí tuệ thanh tịnh…, là nhắc lại hạnh Tự lợi trước đây để sinh khởi về hạnh Lợi tha sau này, khiến cho thế lục nối liền nhau. Các văn mười câu đều có bốn:

  1. Sinh khởi.
  2. Hỏi.
  3. Đáp.
  4. Kết luận.

Cũng có lúc không nhất định, có thể dựa theo suy nghĩ. Lợi tha trước đây hỏi có ba câu, trong phần trả lời này có bốn mươi, cũng có thể là năm mươi câu. Phần này hai mươi câu đầu trả lời câu thứ nhất trong ba câu hỏi, tiếp theo mười câu không xả các Ba-la-mật trả lời về câu thứ hai trước đây, tiếp theo từ “Phật tử…” trở xuống là mười câu trả lời về câu thứ ba trước đây. Hai mươi câu trước cũng có thể là ba mươi câu: Năm câu đầu là biết căn khí thích hợp, tiếp theo mười câu là thuận theo các bệnh trao cho thuốc, tiếp theo mười lăm câu là thuận theo căn cơ trao cho pháp.

Nói về người thực hành có thể như vậy thì làm hưng thịnh Tam Bảo, có mười câu trả lời về trú trì kiến lập trong câu thứ mười. Trong này có hai: Đầu là tổng quát, sau là riêng biệt. Trong văn riêng biệt này phân bốn: Ba phần trước là riêng biệt, phần thứ tư là tổng quát. Văn ba phần trước, đầu là dựa vào giáo đạo, tiếp theo dựa vào chứng đạo, sau là dựa vào đạo không trú. Sáu hòa kính là thân-khẩu-ý nghiệp và kiến-giới-thí giống nhau. Từ “Bồ-tát như thị bất đoạn Tam Bảo…” trở xuống có mười câu, trả lời về hạnh thành tựu sự việc không hư dối trong câu thứ mười một về hạnh của phần mình trước đây, có ba: Một, mười câu phân rõ về hạnh thành tựu sự việc không hư dối, theo thứ tự trả lời năm câu trước; hai, có mười câu dùng đức để tự trang nghiêm, tức là trả lời câu không hư dối trước đây; ba, có mười câu bởi vì tự trang nghiêm cho nên co thể nhiếp hóa không hư dối, cũng cùng trả lời về một câu, ở trong pháp dụ gồm có ba văn.

Tiếp theo từ “Nhược đắc thành tựu…” trở xuống trong phần thứ 2 trả lời về hành của quả đức ở thời gian sau, có ba: Một, từ “Bồ-tát Maha-tát…” trở xuống trả lời về pháp thực hành diệt trừ si ám thành thục quả đức trước đây, văn này có hai: Một là phân rõ về hạnh Tự thành thục, hai từ “Thứ đệ phương tiện…” trở xuống trình bày về hạnh Lợi sinh mà thôi; hai, từ “Ư đại chúng trung…” trở xuống là phân rõ về hạnh quyến thuộc; ba, từ “Thành tựu như thị thắng diệu pháp…” trở xuống là phân rõ về hạnh thành tựu không hư dối. Chỉ trừ ra Như Lai là lấy dưới vượt lên trên. Văn thứ ba là hạnh không hư dối, có ba: Một là thiết lập, hai là vặn hỏi, ba là trả lời. Trong phần trả lời có mười một câu, sáu câu trước là nhân, năm câu sau là quả hành.

Thứ hai là trùng tụng, có hai: Một, trường hàng sinh khởi; hai, chính thức kệ tụng. Trong phần thắng tiến có hai mươi kệ, có hai: Mười ba tụng đầu là Duyên khởi của thời gian trước; bảy tụng sau là pháp hành của phần mình, quả đức thù thắng trong trả lời trước đây. Trong

mười ba tụng trước, sáu tụng rưỡi đầu là hạnh Tự lợi, ba tụng rưỡi tiếp theo là hạnh Lợi tha, một tụng tiếp theo là trú trì kiến lập, hai tụng cuối là thành tựu sự việc không hư dối. Trong bảy tụng sau, một tụng rưỡi đầu là quả Tự lợi và quả Lợi tha, ba tụng rưỡi tiếp theo là hạnh quyến thuộc, hai tụng cuối là hạnh thành tựu không hư dối.

Phẩm 15: PHẬT THĂNG DẠ MA THIÊN TỰ TẠI

(Hội thứ tư)

Bốn môn giống như trước.

1. Giải thích tên gọi. Phật là Hóa chủ; Thăng là tiến lên phía trên; Dạ-ma là Thời Thiên, cũng nói là Hý Lạc; Thiên là Minh; Tự tại là đi lại giữa bầu trời không ngăn ngại. Dựa theo hành chuẩn mực có thể biết, tức là trả lời câu hỏi về Thập Hạnh trước đây.

2. Ý đưa ra. Vì sao đưa ra? Bởi vì dựa vào hiểu biết phát khởi thực hành, có hai ý, một là ý đưa ra thuộc về Hội, hai là ý đưa ra thuộc về Phẩm, đều nói như Hội thứ ba.

3. Tông thì có hai, dựa theo người-dựa theo pháp giống như trên, dựa theo suy nghĩ có thể biết. Tông của phẩm này là trình bày về nơi chốn và phát khởi cúng dường.

4. Phân rõ văn. Văn này gồm có bốn phẩm phân làm ba: Đầu là hai phẩm phân rõ về Tựa, tiếp theo một phẩm trình bày về Thể của hành, tiếp theo một phẩm trình bày về phương tiện thắng tiến. Văn phần đầu về Tựa này cùng giống như Hội trước, chỉ tăng thêm thù thắng chuyển lên cao nhờ vào pháp không giống nhau mà thôi. Từ câu “Lúc bấy giờ vốn có sức mạnh oai thần của Như Lai, cho nên thế giới của tất cả chư Phật ở mười phương, các thế giới hệ (tứ thiên hạ) giống như một cõi Diêm-phù-đề, cho đến không có nơi nào không hiện bày rõ ràng…” Nếu lúc dựa theo giáo của ba Thừa để phân rõ, thì bởi vì cõi Diêm-phù là nơi khổ đau-trống rỗng-dơ bẩn xấu xa, tình thức nhanh nhạy chán ngán khổ đau, ý chí mạnh mẽ vui mừng hướng lên, cho nên thân Phật thành đạo ở cõi Diêm-phù chứ không phải là xuất thế. Nếu lúc dựa theo cọng giáo của Nhất thừa-Tam thừa, thì muốn hiển bày cõi Diêm-phù là Thật tức Không, là Tựa thành Giả, là sự việc mãi không thoát được làm cho bậc Thánh luôn luôn thương xót, Phật dùng sức mạnh của Bổn nguyện thương xót chúng sinh, thuận theo thân Phật thành đạo ở thế gian này, thị hiện thân Phật cho nên thân Phật tức là xuất thế. Nếu lúc dựa theo Nhất thừa, thì cõi Diêm-phù này tức là cảnh giới của Nhất tâm pháp giới, hoặc là Phật-hoặc là nơi chốn đều hiển bày Phật ở nơi nhiễm ô nhất mà không uế tạp, cho nên hiển bày thành đạo ở cõi này. Nhưng nghĩa về các sự việc ứng hóa đều dựa theo đây mà khác biệt.

Thứ hai trong phần thành tựu căn cơ cúng dường có bốn, văn phần đầu có hai: Một, trình bày về phát khởi cúng dường tức là căn; hai, từ “Hiệp chưởng…” trở xuống trình bày về thỉnh Phật tức là mong muốn. Trong phần một là hạnh cúng dường có hai: Một là trang nghiêm, hai là kết luận. Phần trang nghiêm có hai mươi ba sự việc: Đầu là phân rõ về Sự trang nghiêm, hai từ “Thiện căn…” trở xuống là Hạnh trang nghiêm, ba từ “Như Lai…” trở xuống là công đức của Phật gia hộ cúng dường trang nghiêm, hiển bày về nhân giống như quả, còn lại có thể biết.

Hỏi: Vì sao phần kệ ca ngợi của Thập Giải riêng biệt nêu ra danh hiệu Phật, ở đây thì không như vậy?

Đáp: Bởi vì Giải biết về tướng riêng biệt, Hạnh thì gồm chung thành tựu.

Phẩm 16: BỒ TÁT THUYẾT KỆ

Bốn môn giống như trước.

1) Giải thích tên gọi. Nhân kỳ diệu của tự Thể, thực hành tập hợp theo văn, giáo thì biểu hiện rõ ràng, cho nên nói là Bồ-tát thuyết kệ. Nghĩa còn lại có thể biết.

2,3) là Ý đưa ra và Tông đều dựa theo như trên. Lại hỏi: Nếu nghĩa theo thứ tự sinh khởi lẫn nhau, ý giống nhau nhưng do hiển bày riêng biệt, thì vì sao tên gọi không giống với trước?

Đáp: Bởi vì ý ở đây chỉ muốn hiển bày về nghĩa đan xen qua lại cho nên như vậy, nhưng tăng thêm thù thắng và dựa vào pháp là khác biệt thì có thể biết.

4) Giải thích văn. Trong này, thứ nhất là trong Tựa về quy tụ chúng, thế giới cùng tên gọi là Tuệ, bởi vì Tuệ của Giải trước đây tức là quy phạm của Hạnh. Phật cùng danh hiệu là Nhãn, bởi vì tâm hành thấy pháp rõ ràng. Bồ-tát cùng tên gọi là Lâm, bởi vì chỉ dùng hạnh này làm lợi ích cho chúng sinh, rừng rực cùng phát khởi, hiển bày về tướng tập hợp đầy đủ.

Hỏi: Trong đoạn thứ hai ngón chân phóng ánh sáng cùng với Hội trước có gì khác nhau?

Đáp: Ví như ngón chân có hai năng lực là đi và đứng, trước đây làm sáng tỏ về đứng (trú), ở đây hiển bày về đi (hành), cho nên ví dụ khác nhau.

Thứ ba là trong Tựa về nói kệ thì mười vị đều dùng Chân như duyên khởi mà mình đã đạt được, dựa vào pháp để ca ngợi Phật, trức là quy về hành tướng.

1. Kệ của Bồ-tát Công Đức Lâm có hai: Một, trường hàng sinh khởi; hai, từ “Thuyết kệ…” trở xuống đều dựa theo. Văn này ca ngợi về công đức tự tại của Pháp thân, có mười một kệ, sáu kệ đầu nhắc lại tướng tự tại vân tập lên cõi trời trước đây, tiếp theo năm kệ về Pháp thân tự tại vô cùng sâu xa.

2. Kệ của Bồ-tát Tuệ Lâm có hai: Một, hai kệ đầu phân rõ về Phật có đủ công đức khó gặp, hai, tiếp theo tám kệ giải thích về có đủ công đức khó gặp trước đây. Trong tám kệ phân ba: Một là hai kệ đầu trình bày về phần có đủ công đức trên đây; hai là tiếp theo từ “Như Lai vô dữ đẳng…” trở xuống bốn kệ giải thích về khó gặp trên đây; ba là tiếp theo từ “Bất khả tư nghị kiếp…” trở xuống hai kệ so sánh khuyến khích tu tập.

3. Kệ của Bồ-tát Thắng Lâm có bốn: Một, hai kệ đầu nói ví dụ về sâu xa vi tế; hai, tiếp theo một kệ hợp cùng với pháp; ba, tiếp theo hai kệ phân rõ về nguyên cớ sâu xa; bốn, tiếp theo năm kệ ca ngợi về công dụng thù thắng.

4. Kệ của Bồ-tát Vô Úy Lâm có ba: Một, hai kệ đầu nêu ra Thể thù thắng; hai, tiếp theo năm kệ nêu ra Dụng thù thắng; ba, tiếp theo ba kệ khuyến khích học hỏi. Hai văn về Thể-Dụng đều có hai: Một là nêu ra pháp sâu xa, hai là ca ngợi đức thù thắng.

5. Kệ của Bồ-tát Tàm Quý Lâm có năm: Một, một kệ đầu tổng quát ca ngợi về lợi ích thù thắng của pháp Phật; hai, tiếp theo một kệ ca ngợi về tướng Dụng thù thắng; ba, tiếp theo sáu kệ trở lại nguyên cớ thành tựu Dụng thù thắng, trong này một kệ đầu là tổng quát, tiếp theo năm kệ là riêng biệt; bốn, tiếp theo một kệ thuận theo thành tựu đức Dụng của người; năm, kết luận về người khó gặp. Trong văn trở lại thành tựu: Một, một kệ là dụ về tánh ngu trí khác biệt; hai, một kệ là dụ về cùng trở thành hư vọng; ba, một kệ dụ về hai tánh trái ngược nhau; bốn, một kệ dụ về duyên của ngu-trí cách biệt; năm, một kệ dụ về Dụng không có cảm đến lẫn nhau.

6. Kệ của Bồ-tát Tinh Tiến Lâm có ba: Một, một kệ đầu tổng quát ca ngợi về người thù thắng; hai, tiếp theo tám kệ mở rộng nêu ra pháp thành tựu người; ba, tiếp theo một kệ trình bày về người và pháp sâu xa cho nên khó gặp. Trong tám kệ: Một là dụ về Thể của pháp không có gì khác, hai là dụ về Thể của pháp rỗng rang không có, ba là dụ về Thể của pháp không có thật, bốn là dụ về Thể của pháp lìa xa tướng, năm là dụ về Thể của pháp thành tựu chân thật, sáu là dụ về một thành tựu nhiều dụng, bảy là dụ về khởi dụng dựa vào duyên, tám là dụ về Thể kiên cố khó hủy hoại.

7. Kệ của Bồ-tát Lực Thành Tựu Lâm có ba: Một, bốn kệ đầu quán về duyên khởi dựa vào nơi khác; hai, tiếp theo năm kệ phân biệt về Vô tướng; ba, tiếp theo một kệ dựa theo tâm ca ngợi về Dụng. Văn phần một phân hai: Hai kệ đầu là Pháp, hai kệ sau là Quán.

8. Kệ của Bồ-tát Kiên Cố Lâm có hai: Một, bảy kệ đầu phân rõ về hai thân tánh-tướng của Phật khó bàn luận; hai, tiếp theo ba kệ phân rõ về thù thắng. Trong bảy kệ trước có hai: Một, hai kệ đầu là dụ phân rõ về Tánh thân; hai, tiếp theo có năm kệ là ví dụ-kết hợp đồng thời ca ngợi về Ứng Hóa.

9. Kệ của Như Lai Lâm được có hai: Một, chín kệ đầu dụ-pháp cùng hiển bày; hai, tiếp theo một kệ khuyến khích học hỏi. Văn phần một có hai: Một là năm kệ đầu ví dụ lần lượt chuyển tiếp trả lời về năm nghi ngờ sâu xa:

  1. Nghi ngờ về pháp là thật, trả lời bắt đầu thực hành;
  2. Kiến chấp sinh ra hiểu biết khác nhau, nghi ngờ về pháp lìa xa nhân;
  3. Nghi ngờ về pháp chân thật phân biệt lìa tâm mà có;
  4. Nghi ngờ đã là tâm tạo tác thì vì sao không phải là có;
  5. Cho rằng tâm tạo tác là pháp có nhận biết.

Điều này nên suy nghĩ chính xác. Hai là tiếp theo bốn kệ về pháp hợp. Tạo ra Như Lai ấy nghĩa là Vô tác Phật. Nguyên cớ thế nào? Bởi vì dựa theo ý đưa ra trước đây không có thể là Hữu tác Phật.

10. Kệ của Bồ-tát Trí Lâm có hai: Một, tám kệ đầu ca ngợi Pháp thân vô cùng sâu xa; hai, tiếp theo hai kệ kết thúc ca ngợi khuyến khích học hỏi. Văn phần một có hai: Ba kệ đầu ca ngợi về Thể, tiếp theo năm kệ ca ngợi về Dụng.

Phẩm 17: CÔNG ĐỨC HOA TỤ BỒ TÁT THẬP HẠNH

Phân biệt có năm môn:

  1. Giải thích tên gọi Thập Hạnh và ý đưa ra.
  2. Pháp đối trị. Dựa theo Nhất thừa thì như phần vị Giải trước đây, dựa theo Chung giáo ba Thừa thì Thanh văn sợ hãi chướng ngại do khổ.
  3. Pháp đạt được gồm chung hành về Định và căn thiện về Nhẫn.
  4. Đã thành tựu tức là phần vị Thập Hạnh, chính là Tông của phẩm này.
  5. Giải thích văn.

Giải thích tên gọi: Công đức là Thể của hạnh. Hoa Tụ là tên gọi theo ví dụ, ca ngợi về hạnh thù thắng vi diệu có thể mang lại quả làm nơi nương tựa cho các hạnh quy tụ, các đức tụ tập có thể trang nghiêm cho quả Vô thượng Bồ-đề, là nhân cho nên lấy làm tên gọi của Bồ-tát. Thập Hạnh là tướng căn bản của các hạnh, văn nói ví như các pháp từ mười tăng lên, một đến vô lượng đều lấy mười làm số căn bản, bởi vì trí tuệ cho nên sai biệt, thuận theo năm nghĩa mà có được tên gọi. Bởi vì chúng trước đây đã quy tụ, tiếp đến cần phải nói rõ ràng cho nên tiếp tục đưa ra. Phẩm này lấy Thể của sự tu hành và phần vị làm Tông.

Phân rõ về văn. Văn này có bảy phần: Một là phần Tam-muội, hai là phần gia hộ, ba là phần sinh khởi, bốn là phần căn bản, năm là phần tuyên thuyết, sáu là phần lợi ích, bảy là phần kệ tụng.

Một là phần Tam-muội, khéo léo điều phục Định là lực của hạnh.

Hai là phần gia hộ, Tựa về gia hộ khuyến khích, là trình bày về pháp hành này có ý nghĩa vô cùng sâu xa, phạm vi không phải thuộc về mình, tự nhiên không phải là đạo lực gia trì của chư Phật tuyên thuyết thì không có cách nào biết được, cho nên tiếp theo phải trình bày. Trong phần này có hai: Một, tổng quát phân rõ về gia hộ bằng việc làm; hai, từ “Phật tử đương thừa Phật…” trở xuống trình bày về tướng gia hộ sai biệt.

Văn tổng quát về gia hộ có ba: Đầu là trình bày về Phật gia hộ khen ngợi, hai từ “Thập phương…” trở xuống trình bày về nguyên cớ gia hộ, ba từ “Dục linh nhữ quảng…” trở xuống phân rõ về gia hộ bằng việc làm. Văn phần đầu có ba, giống như Hội trước. Trong nguyên cớ có bốn câu có thể biết. Trong gia hộ bằng việc làm có mười câu: Một câu đầu “Dục linh…” là tổng quát, tiếp theo tám câu là mở rộng, tiếp theo một câu là kết luận về sai biệt. Hai là tướng gia hộ sai biệt qua ba nghiệp có thể biết.

Hỏi: Vì sao ý gia hộ trao cho pháp?

Đáp: Pháp là căn bản của Chánh hạnh, vì vậy trao cho pháp.

Lại hỏi: Hội trước vì sao không trao cho pháp mà lại trao cho trí?

Đáp: Bởi vì pháp từ trí phát sinh cho nên đích thân có thể trở thành hạnh, trí cảnh tức là thông suốt cho nên Hội trước chỉ trao cho trí. Đây là dựa theo Địa tiền, không phải là phần vị Chứng cho nên đưa ra cách giải thích này mà thôi. Trong phần gia hộ bằng ý có ba có thể biết.

Bốn là phần căn bản, từ “Cáo chư Bồ-tát ngôn…” trở xuống, văn có hai: Một, ca ngợi Tông bổn rộng lớn của Thập Hạnh tức là Thể; hai, nêu ra mười tên gọi tức là Tướng. Sáu quyết định giải thích giống như trước, nhưng hành khác nhau mà thôi.

Hỏi: Vì sao trước đây quán về tướng dựa theo tánh, nay ở đây lại dựa theo hành nghiệp?

Đáp: Vì tướng của phần vị Giải trước đây không phải là thù thắng cho nên dựa theo tánh, hành tướng này thì thù thắng cho nên dựa theo tướng, điều này nên suy nghĩ chính xác. Sở dĩ cùng với nhân quả vô thường là vì hiển bày ở phần vị của nhân có lưu chuyển mà thôi. Thứ hai là trong tướng của phần căn bản có năm:

  1. Hỏi.
  2. Đáp tóm lược.
  3. Trở lại hỏi.
  4. Đáp.
  5. Kết luận.

Thứ tư trong phần đáp: Một, giải thích về Hoan hỷ là Bố thí trở thành niềm vui cho mình và người; hai, nhiêu ích là Trì giới thâu nhiếp lợi ích; ba, không sân hận là Nhẫn nhục chấm dứt nỗi oán hận của mình và người; bốn, vô tận là Tinh tiến đạt được công đức vô cùng tận; năm, lìa si loạn là đạt được Định; sáu, khéo léo hiện rõ là Trí hiện rõ về pháp duyên khởi; bảy, không vướng mắc tức là phương tiện hóa độ; tám, tôn trọng tức là thành tựu ý nguyện; chín, pháp thiện là năng lực trí tuệ khéo léo nói pháp; mười, chân thật là đạt được Trí thuận theo lý khéo léo nói pháp.

Năm là trong phần tuyên thuyết có mười có thể biết.

Trong đoạn Phật tử như thế nào…, đây là văn phần đầu có ba: Một, nhắc lại câu hỏi; hai, giải thích; ba, kết luận. Văn giải thích có ba: Một là phân rõ về hành tướng bố thí có hai: Đầu là giải thích, sau là kết luận. Hành tướng có mười bảy câu có thể biết. Hai từ “Bồ-tát tu hoan hỷ hạnh thời…” trở xuống trình bày về hạnh thuần thục mở rộng thâu nhiếp khiến cho người khác hoan hỷ, văn này có bốn:

  1. Tu oai nghi Bố thí.
  2. Lìa xa lỗi lầm.
  3. Thiết lập phương tiện.
  4. Trình bày về việc làm.

Văn phần này có ba câu, đó là nhân quả của mình và vì chúng sinh, câu thứ ba có hai có thể biết. Ba từ “Ly chư ngã tướng…” trở xuống trình bày về lìa ba Luân thành tựu Thí độ (đàn độ), phần này có hai câu, đó là Tự lợi và Lợi tha.

Văn về tướng Nhiêu ích có ba: Một là hỏi, hai là đáp, ba là kết luận. Văn phần hai là đáp có ba: Một, trình bày về Tánh thành tựu, hai Thể của giới có tám câu. Hai, từ “Bồ-tát như thị trì giới thời…” trở xuống đối với duyên phân rõ về tướng Trì, phần này có bốn: Một là nghi thức trì giới; hai là phân rõ phương tiện; ba là lìa xa lỗi lầm, phần này có năm câu, câu đầu phân hai có thể biết; bốn là trình bày về sự thành tựu, phần này có hai câu có thể biết. Ba, từ “Hà dĩ cố thị ngã nghiệp…” trở xuống là nêu ra hành lìa tướng thành tựu Giới độ. Trong này có hai: Đầu là hỏi, sau là đáp. Văn đáp có ba: Một là trình bày về Quán có năm câu, hai từ “Vị độ giả…” trở xuống trình bày về ý, ba từ “Ngã đương…” trở xuống trình bày về sinh khởi.

Văn về không sân hận có ba: Đầu là hỏi, hai là đáp, ba là kết luận. Văn đáp có hai: Một, phân rõ về Thể của Nhẫn hạnh có tám câu; hai, từ “Bồ-tát thành tựu như thị tịnh tuệ nhẫn…” trở xuống là đối với duyên phân rõ về tướng Nhẫn. Văn về tướng có ba: Một, nhẫn nhịn người khác không lợi ích, phần này năng-sở phân hai, trong năng thì khẩu-thân phân hai. Hai, từ “Bồ-tát tác thị tư duy…” trở xuống là yên tâm nhẫn nhịn có ba, đó là thiết lập-vặn hỏi-trả lời có thể biết. Ba, từ “Phục cánh tư duy…” trở xuống phân rõ về pháp của nhẫn nhịn, trong này đầu là pháp, tiếp từ “Thị cố…” trở xuống là việc làm có ba câu, ba từ “Phật sở hành pháp…” trở xuống phân rõ về nghi ngờ.

Văn về tướng vô cùng tận có ba, đó là hỏi-đáp và kết luận. Văn đáp có ba: Một, phân rõ về Thể của tinh tiến, tức là Cần-Dũng-Tiến có mười một câu; hai, từ “Bồ-tát phục tác thị niệm…” trở xuống là gia hạnh về Tiến có hai, một là trình bày về sự lìa xa, hai là phân rõ về nơi hướng đến; ba, từ “Bồ-tát thành tựu như thị…” trở xuống phân rõ về khó hoại không đầy đủ như nhau, phần này có hai: Một là có hai hỏi-đáp phân rõ về khó hoại, hai là giải thích về phạm vi có thể biết.

Văn về tướng lìa si loạn có ba: Đầu là hỏi, hai là đáp, ba là kết luận. Văn đáp có ba: Một, phân rõ về tiến vào lý an lạc trú trong Định; hai, Bồ-tát này thành tựu tịch tịnh dẫn dắt thông suốt trong Định; ba, từ “Bồ-tát văn thử năng hoại…” trở xuống là tùy theo Định để Lợi tha. Trong này phần một có ba: Một, phân rõ Thể của Định không mất. Hai, từ “Bồ-tát thành tựu như thị đẳng…” trở xuống là phân rõ về nghiệp dụng của Định, trong phần này có bốn:

  1. Tổng quát phân rõ.
  2. Từ “Hà dĩ cố…” trở xuống là giải thích về nguyên cớ.
  3. Từ “Thử Bồ-tát…” trở xuống là riêng biệt phân rõ có hai, đầu là phân rõ, tiếp là đối với nhân để trình bày.
  4. Từ “Như thị đẳng…” trở xuống là lấy mở rộng để hiển bày tóm lược. Ba, từ “Bồ-tát ư Tam-muội trung…” trở xuống phân rõ quán hạnh thành tựu tự tại trước đây mà thôi, trong này tướng tánh thành tựu đối trị phân ba, văn còn lại có thể biết.

Văn về khéo léo hiện rõ có ba: Đầu là hỏi, hai là đáp, ba là kết luận. Văn đáp có ba: Một, phân rõ về Bát-nhã gia hạnh; hai, từ “Vô sở y-vô sở trú…” trở xuống là chính thức chứng được trí; ba, từ “Phân biệt nhất thiết thế gian pháp…” trở xuống là Hậu trí Bát-nhã. Văn phần một có hai: Một là trình bày về Thể của trí, hai từ “Vô sở hữu…” trở xuống là giải thích về nghĩa thành tựu trước đây. Văn về chính thức chứng được trí có mười tám câu, có bốn:

  1. Bảy câu phân rõ về Lý tương ưng với Trí.
  2. Từ “Ly nghiệp báo…” trở xuống có sáu câu phân rõ chính thức chứng được lìa các tướng.
  3. Từ “Vô sở y trú…” trở xuống có hai câu phân rõ về phần lượng đã an trú.
  4. Từ “Nhập ly hư vọng…” trở xuống có ba câu trình bày quán thành tựu phần hỏi về tiến vào Vô tánh. Văn về Hậu trí có ba: Một, phân rõ về Như lý trong trí Như lượng tức là hiển bày về pháp đã nhận biết; hai, từ “An trú tam thế bình đẳng…” trở xuống phân rõ về Như lượng trong trí Như lượng tức là đối với chúng sinh đã hóa độ; ba, từ “Thị Bồ-tát trú thử hạnh thời…” trở xuống là đức dụng tự tại. Văn còn lại suy nghĩ có thể biết.

Văn về không vướng mắc có ba: Đầu là hỏi, hai là đáp, ba là kết luận. Văn đáp có ba: Một, phân rõ về phương tiện Tự lợi; hai, từ “Sơ đắc thọ ký…” trở xuống phân rõ về phương tiện Lợi tha; ba, từ “Bồ-tát

như thị quán sát…” trở xuống là khéo léo đầy đủ Tự lợi và Lợi tha có hai: Một là phân rõ hai hạnh, hai từ “Sở dĩ giả hà…” trở xuống phân rõ nguyên cớ có thể biết.

Văn về Tự lợi có hai: Một là Tu trong phần vị của mình, hai từ “Bất xả Bồ-tát tâm…” trở xuống phân rõ về Tu trong phần vị thù thắng, có hai có thể biết. Phần vị của mình có ba: Một, ở trong pháp thanh tịnh tu về hạnh không vướng mắc, có hai có thể biết; hai, từ “Kiến bất tịnh sát…” trở xuống là ở trong hành nhiễm thấy tu về bất tịnh; ba, từ “Hà dĩ cố…” trở xuống phân rõ nguyên cớ không vướng mắc trước đây, có ba: Một là hỏi đáp tổng quát phân rõ, hai là mở rộng phân rõ, ba là đối với sinh khởi trình bày về lìa xa lỗi lầm.

Văn về Lợi tha có ba: Một là phân rõ về quán phương tiện Đại Bi; hai từ “Bất trước thân đẳng…” trở xuống chính thức trình bày về hạnh không vướng mắc, trong phần này có mười câu; ba từ “Hà dĩ cố…” trở xuống trình bày về nguyên cớ không vướng mắc. Phần một là quán Đại Bi có ba: Một, phân rõ về Đại Bi sâu nặng; hai, từ “Nhĩ thời Bồ-tát kiến bỉ sinh…” trở xuống trình bày về tăng thượng; ba, từ “Nhĩ thời Bồ-tát tác như thị niệm…” trở xuống trình bày Đại Bi là đầu tiên mà thôi.

Văn về Tôn trọng có ba: Đầu là hỏi, hai là đáp, ba là kết luận. Văn đáp có sáu: Một, phân rõ về pháp được tôn trọng. Hai, từ “Thử Bồ-tát hành thời…” trở xuống phân rõ về nơi hướng đến, phần này có hai, một là hướng đến, hai là lợi ích; phần lợi ích có ba lợi ích:

  1. Thành tựu ý nguyện.
  2. Thành tựu chúng sinh.
  3. Hiển bày về lý.

Trong phần Lý có hai: Đầu là pháp-dụ-hợp tức là lập Tông, hai là có hai vặn hỏi có thể biết. Ba, từ “Bồ-tát như thị…” trở xuống phân rõ về Dụng đã thành tựu, có ba văn về pháp-dụ-hợp, trong văn đầu về pháp:

  1. Từng hạnh một lìa xa lỗi lầm.
  2. Đạt được pháp là con người.
  3. Thành công hòa nhập pháp giới. Bốn, từ “Nhi Bồ-tát Ma-hatát…” trở xuống trình bày về hạnh tự tại. Năm, từ “Như thị Bồ-tát thành tựu…” trở xuống phân rõ về Dụng không có hai, văn phần này có bốn nghĩa, nghĩa thứ tư trong phần đáp có ba văn về pháp-dụ-hợp có thể biết. Sáu, từ “Thử Bồ-tát…” trở xuống trình bày về hạnh thành tựu có hai: Một là Tự lợi, hai là Lợi tha. Văn về Lợi tha có hai: Một là Giáo, hai là nói rõ ý mình để trừ bỏ nghi ngờ có hai: Đầu là nói rõ ý, sau có hai vặn hỏi có thể biết.

Văn về Pháp thiện có bốn: Đầu là hỏi, hai là đáp, ba là kết luận, bốn là lợi ích. Văn đáp có ba: Một, nêu ra pháp thiện để làm chủng tử Phật; hai, từ “Thanh tịnh Đà-la-ni…” trở xuống là giải thích về thành tựu Thể của hạnh; ba, từ “Bồ-tát Ma-ha-tát an trú thiện pháp hành…” trở xuống dựa theo tu phân rõ về thành tựu. Văn thứ hai giải thích về thành tựu Thể của hạnh có hai: Một, phân rõ về Thể của hạnh có hai có thể biết; hai, từ “Nhĩ thời Bồ-tát…” trở xuống trình bày về tác dụng của hạnh, tác dụng có hai có thể biết. Văn thứ ba dựa theo tu phân rõ về thành tựu có hai: Một là tổng quát, hai là riêng biệt. Văn riêng biệt có ba: 1- Tổng quát, 2- Từ “Phật tử…” trở xuống là riêng biệt có hai có thể biết, 3- Từ “Thành tựu như thị thập loại thân…” trở xuống là kết luận thành tựu tác dụng của hạnh.

Văn về Chân thật có hai: Đầu là hỏi, sau là đáp. Văn đáp có bảy: Một, lời nói và việc làm tương ưng cho nên chân thật. Hai, từ “Thử Bồ-tát…” trở xuống là hạnh tương ưng, đây chính là giải thích tên gọi. Ba, từ “Bồ-tát thành tựu chúng sinh…” trở xuống phân rõ về Thể của hạnh, phần này có hai: Đầu là thiết lập, tiếp từ “Thị cố…” trở xuống là kết luận về thù thắng. Văn về thiết lập có hai, đều có thiết lập-vặn hỏi và đáp. Bốn, từ “Bất xả…” trở xuống phân rõ về tác dụng của hạnh, đó là thân-khẩu-ý tức là ba. Năm, từ “Bồ-tát Ma-ha-tát trú Đại Bi…” trở xuống phân rõ ngay phần vị lấy nhân để thành tựu quả. Sáu, từ “Thị danh…” trở xuống là kết luận. Bảy, từ “Thử Bồ-tát an trú…” trở xuống là thành tựu lợi ích.

Trên đây là dựa theo tướng Tín-Hạnh của Nhất thừa. Nếu lúc dựa theo ba Thừa nhờ vào phần vị quán sát riêng biệt thì như kinh.

Trong Hạnh thứ nhất bởi vì tự đạt được Nhất thiết chủng trí cho nên khởi lên bốn Tinh tiến, thường xuyên tu hai pháp thiện, thường xuyên đoạn hai pháp ác, vốn là để cầu quả Phật.

Trong Hạnh thứ hai bởi vì đạt được tự thân có Đại lực vốn là bốn Như ý túc: Niệm giữ gìn cảnh, Tinh tiến tìm cầu, Định-Xả thâu nhiếp, Tuệ soi chiếu cảnh, cho nên tự tại đạt được pháp Vô sinh.

Trong Hạnh thứ ba bởi vì nguyện đầy đủ Vô úy, đó là năm căn Tín-Tiến-Niệm-Định-Tuệ đều vốn là Vô tướng.

Trong Hạnh thứ tư bởi vì cầu đầy đủ Tam Bảo, đó là năm phần pháp: Thân giới trừ bỏ sai lầm của thân, Định không có tâm tán loạn, Tuệ tỏ ngộ tướng hư giả, Giải thoát không có ràng buộc, Giải thoát tri kiến cho nên thấy biết tất cả chúng sinh không có ràng buộc, bởi vì các pháp như hư không cho nên không có hai.

Trong Hạnh thứ năm bởi vì hóa độ tất cả chúng sinh, đó là tám Chánh đạo: Từ thầy phát sinh Tuệ gọi là Chánh tri kiến, đạt được pháp phát sinh suy nghĩ gọi là Chánh tư duy, xuất gia học đạo đạt được ba phần đạo gọi là Chánh ngữ-Chánh nghiệp-Chánh mạng, tiến vào tánh Không của pháp gọi là Chánh định-Chánh giác, đối với Vô sinh không hai cho nên quán sát về một hợp tướng.

Trong Hạnh thứ sáu bởi vì Đại Bi cho nên khởi lên bảy quán, Trạch pháp-Niệm pháp-Tinh tiến pháp-Quán pháp-Hỷ pháp-Định pháp-Tuệ pháp, vốn là hòa vào một tướng.

Trong Hạnh thứ bảy bởi vì đạt được bốn Vô ngại, đó là năm căn thiện, Chánh quán-Noãn quán-Đảnh quán-Nhẫn quán, ba cõi Không, Đệ nhất quán có thể sinh khởi Đại minh tuệ Vô tướng của Thập Địa, cho nên Đệ nhất Không bình đẳng chưa thay đổi thai của Thánh nhân.

Trong Hạnh thứ tám bởi vì từng hạnh từng hạnh trong tất cả các cõi Phật, đó là bốn Hóa pháp, Pháp biện-Nghĩa biện-Ngữ biện-Nhạo thuyết biện, bốn loại này gọi là Tuệ, tánh soi chiếu tất cả các pháp Vô sinh, vốn là hạnh trong Đệ nhất nghĩa đế.

Trong Hạnh thứ chín bởi vì ở trong một niệm soi chiếu tất cả các pháp, đó là ba đời-mười hai nhân duyên đều là giả hợp hội tụ thành tánh, cho nên thật sự không thể đạt được.

Trong Hạnh thứ mười bởi vì tự tại chuyển Đại pháp luân, đó là Tam Bảo của Bồ-tát, Trí hiểu rõ Trung đạo tất cả các pháp không sinh là Phật bảo, phép tắc sử dụng là Pháp bảo, thường xuyên đi vào sáu nẽo cùng với chúng sinh tương ưng gọi là Tăng bảo, cho nên chuyển tất cả dòng chảy của chúng sinh hòa vào biển Phật. Đây là dựa theo ba Thừa nhờ vào phần vị mà nói.

Sáu là phần lợi ích, từ “Nhĩ thời Phật thần lực cố…” trở xuống là chứng minh thành tựu về pháp đã nói, văn này có bốn: Một, mặt đất chấn động-mưa hoa…. Hai, từ “Như thị Tứ Thiên…” trở xuống là kết luận quy về bình đẳng. Ba, từ “Nhĩ thời các quá…” trở xuống trình bày về Bồtát mười phương chứng minh thành tựu. Dùng văn Bồ-tát mười phương chứng minh thành tựu này thì biết, các Hội sau chỉ là Phật Bồ-tát cùng tên gọi ở cõi này đều bởi vì chứng minh nghĩa lý cho nên đến tụ hội. Hội đầu tiên mười phương cùng tên gọi là Tập, chỉ là ảnh hưởng nêu lên phạm vi của phần vị chưa phải là chứng pháp, còn lại có thể dựa theo đó. Bốn, kết luận thông suốt mười phương.

Bảy là văn trùng tụng có hai: Một, trường hàng phân rõ về ý thuyết kệ.

Hỏi: Trong này chủng tánh Phật và chủng tánh Bồ-tát khác nhau thế nào?

Đáp: Nhân vị của Bồ-tát do Phật mà thành tựu tức là tánh Phật, do Bồ-tát tự thành tựu tức là tánh Bồ-tát, như vậy có thể suy nghĩ chính xác mà thôi. Hai, phần thuyết kệ có một trăm hai mươi kệ, trong phần này có ba:

  1. Đầu là kệ bảy chữ ca ngợi tổng quát;
  2. Ca ngợi riêng biệt;
  3. Sau có bốn hàng tổng quát kết luận về tâm tình rộng lớn, điều đó có thể suy nghĩ. Vả lại, những phẩm đức này trong mỗi một phần vị Thập Hạnh trên đây đều có đủ.

 

Phần 2

Phẩm 18: BỒ TÁT THẬP VÔ TẬN TẠNG

Bốn môn giống như trước.

1. Giải thích tên gọi. Bồ-tát là người, Thập là số căn bản, Vô Tận là phạm vi, Tạng là tích chứa. Bởi vì Thể không phải là phạm vi của số đếm, Hạnh không có cùng tận, mà sinh diệt vốn không thay đổi, cho nên nói là Vô Tận; một thâu nhiếp tất cả, hàm chứa tất cả không có gì ngoài, cho nên nói là Tạng. Còn lại có thể dựa theo biết rõ.

2. Ý đưa ra. Vì sao đưa ra? Bởi vì phần vị chính thức của phần mình đã thành tựu, tiếp đến trình bày về thắng tiến đi vào phần vị sau cho nên đưa ra. Sở dĩ trước đây hỏi ở sau Hồi Hướng, nay trả lời ở trước là bởi vì muốn hiển bày về hạnh nối thông, cũng có thể Hồi Hướng là phương tiện trợ giúp, Tạng vốn từ nguồn gốc của hạnh cho nên thuộc về đầu tiên.

3. Phẩm này lấy các nghĩa về tích chứa công đức, năng sở vô cùng sâu xa làm Tông.

4. Phân rõ văn. Văn này có ba: Một, nêu ra số để dẫn chứng, sơ lược ca ngợi nêu ra tên gọi; hai, từ “Hà đẳng vi Bồ-tát…” trở xuống là phân rõ về tướng; ba, từ “Thử Tạng hữu thập…” trở xuống là kết luận.

Văn phần một có hai có thể biết. Mười tên gọi:

1. Tín tức là đầu tiên của Thập Địa, và giữ gìn thư từ(thư trì) trong Nhiếp Luận.

2. Giới tức là Từ Bi trong Địa, và thứ sáu là dạy người khác đạt được trong Luận.

3 & 4. Tàm và Quý tức là Hạnh trong Địa, và thứ chín là một mình ở nơi trống trải vắng lặng trong Luận.

5. Văn tức là biết các kinh luận trong Địa, và thứ tư là cung kính nghe nhận trong Luận.

6. Thí tức là tên gọi về Xả trong Địa, và tên gọi về Bố thí trong Luận.

7. Tuệ tức là thứ mười Tu tập như pháp trong Địa, tức là thứ mười Tu tướng nhập ý trong Luận.

8. Chánh niệm tức là không mệt mỏi trong Địa, và tự đọc tụng trong Luận.

9. Trì tức là lực kiên cố trong Địa, tức thứ bảy là như pháp đã nói nhất tâm luyên tập trong Luận.

10. Biện tức thứ sáu là khéo léo hiểu rõ pháp thế gian-tức là bốn biện tài trong Địa, tức là thứ tám như lý giải thích rộng ra cho người khác trong Luận.

Địa Luận và Nhiếp Luận đều có phần cúng dường, trong này vì sao không có? Bởi vì trong này phân Tàm-Quý làm hai, cũng có thể là Tạng trong này cùng với Luận ấy luôn luôn khác biệt về nghĩa.

Phần hai là văn mở rộng phân rõ có hai: Một, giải thích về tướng; hai, từ “Thị vi…” trở xuống là kết luận ca ngợi về dụng của hành có thể thành tựu Đại quả.

Văn phần đầu về Tín Tạng có bốn:

  1. Nêu ra tên gọi,
  2. Phân rõ về tướng,
  3. Kết luận,
  4. Trở lại ca ngợi về dụng của hạnh.

– Phân rõ về tướng có ba: Một là Tự tánh trú trong Phật tánh; hai từ “Phật như thị tri…” trở xuống là dựa theo tánh đến đạt được quả; ba từ “Thử Bồ-tát thành tựu như thị…” trở xuống là dựa theo tánh dẫn ra. Văn phần một về Tự tánh có ba: Một, tiến vào lý; hai, phân rõ về Tín kiên cố; ba, từ “Hà dĩ cố…” trở xuống là quyết định về nghi ngờ. Văn phần hai là dựa theo tánh đến đạt được quả có hai: Một, phân rõ về cảnh của Tín; hai, từ “Bồ-tát thành tựu…” trở xuống trình bày về tin hiểu thành tướng. Văn phần ba là dựa theo tánh dẫn ra có ba: Một, nhắc lại trước đây; hai, từ “Bất thối…” trở xuống tức là trình bày về phạm vi cảnh giới của Tín; ba, từ “Hộ trì…” trở xuống phân rõ về Tín hạnh thành tựu.

Giới Tạng có ba:

  1. Nêu ra tên gọi.
  2. Giải thích riêng biệt.
  3. Từ “Thị vi…” trở xuống là kết luận.

Về sau các văn có ba đoạn, dựa theo đây có thể biết.

Văn giải thích riêng biệt có ba: Một, nhắc lại mười tên gọi; hai, từ “Hà đẳng…” trở xuống là phân rõ về tướng; ba, từ “Thử Bồ-tát trì như thị đẳng…” trở xuống là công dụng của Đại Bi lợi ích cho chúng sinh. Trong đó Giới không tranh cải không thể không phải là chế định trước, không trải qua tạo lập là tùy thuận thật tế, Thể không phải là Tập khởi. Tâm thường tùy thuận hướng đến Niết-bàn, là tất cả các sự việc tức là tướng Niết-bàn không còn trải qua diệt.

Văn về Tàm có ba giống như trước. Thứ hai trong phân rõ về tướng có bốn: Một, biết lỗi của mình; hai, từ “Nhất thiết…” trở xuống là biết chúng sinh có lỗi lầm; ba, từ “Tự duy…” trở xuống là sự thấy biết của Thánh Hiền; bốn, Từ “Thị cố…” trở xuống là lìa xa lỗi lầm biểu hiện về tâm Tàm.

Văn về Quý có ba giống như trước. Thứ hai trong phân rõ về tướng có bốn: Một, biết lỗi của mình; hai, từ “Phục tác…” trở xuống là biết chúng sinh có lỗi lầm; ba, sự thấy biết của Thánh Hiền; bốn, từ “Ngã đương…” trở xuống là lìa xa lỗi lầm biểu hiện về tâm Quý.

Đa văn. Thứ hai trong phân rõ về tướng có ba: Một, nêu ra mười loại sự việc đã nghe; hai, phân rõ về mười tướng; ba, từ “Bồ-tát tác như thị niệm…” trở xuống là Lợi tha. Mười hai nhân duyên là Vô vi, thì một Luận sư thuộc Bà-sa luận nói: “Hữu vi không tự lập mà nhờ vào Vô vi.” Văn trong này có sáu Vô vi, nhưng giải thích:

  1. Không là dựa theo tướng của Sự mà phân rõ;
  2. Niết-bàn là dựa theo phần vị mà luận;
  3. Số diệt là dựa theo Tánh phân tán;
  4. Phi số diệt là dựa vào Sự phân tán;
  5. Duyên sinh là dựa theo Lý thuận theo Sự;
  6. Lý pháp giới không đối với Sự.

Đối với tình tức là nguyên cớ của hữu vi, và ý còn lại suy nghĩ có thể hiểu. Những nghĩa này đều là tự Thể của duyên khởi, đan xen mà không lẫn tạp, không thể nào dùng tướng của Sự mà luận bàn. Đây là giáo tướng của Đại thừa. Nếu luận về phương tiện hiểu biết tiến vào, thì tất cả giáo tướng cần phải so sánh chọn lấy trong giải thích. Nếu luận về hiểu biết chính xác, thì phải là giải thích về giáo bí mật, mới có thể hiển bày tướng nghĩa của Đại thừa. Rất cần phải đạt được ý, đừng mê hoặc vì âm thanh ấy, Vô ký có sáu mươi.

Thí. Thứ hai phân rõ về tướng: Nói đến Thí là lấy sự lợi ích của

bố thí cứu giúp làm nghĩa, vì vậy văn nói cho đến tự thọ nhận đồ vật sử dụng không có gì không phải là Thí. Nếu ngay trong sự tướng để trình bày, thì như văn đã nêu ra. Nếu dựa vào giải thích rõ ràng để trình bày, thì chỉ khiến cho hiểu xa đến cùng tận Tông chỉ, đừng hỏi về ý tưởng sâu xa mà cho là Chánh trí. Một khi mở thông tâm tình rồi cho đến ba nghiệp khởi động tiến vào tùy duyên mà thực hiện, không có gì không tùy thuận như thật tương ưng với Vô Tận Tạng, do đó có thể kiến lập chủng tử căn bản của Vô thượng Bồ-đề. Văn có hai: Một, nêu ra tên gọi; hai, mở rộng phân rõ. Trong pháp Thí trước đây có ba loại pháp Thí, dựa theo có thể biết. Văn còn lại hiển bày lẫn nhau có thể biết.

Tuệ. Thứ hai trong phân rõ về tướng có năm: Một, bảy câu đầu là cảnh đã biết, bốn câu trước mỗi câu đều có hai nghĩa: Thứ nhất-Sắc Khổ là Sắc của Báo, hai-Sắc Tập là Sắc của Nghiệp, ba-Sắc Diệt là Sắc của tánh phân biệt, bốn-Sắc Đạo là Sắc của đạo và thiện; thứ hai-Sắc Khổ là Sắc vô thường, hai-Sắc Tập là đời sau, ba-Sắc Diệt tức là Chân như, bốn-Sắc Đạo là đồ dùng để thành đạo, còn lại dựa theo đó. Thanh văn và Bồ-tát… thì một là biết về con người; hai là biết về quy phạm của pháp; ba là biết về nhân của Đạo, bởi vì nhiều phiền não huân tập cho nên được tên gọi là Tập; bốn là biết về quả của Diệt. Thể tướng nói như sau. Hai, từ “Vân hà tri…” trở xuống phân rõ về các pháp quán gia hạnh, tức là Tự lợi có hai văn hỏi-đáp, trong đáp có sáu câu có thể biết. Ba, từ “Quảng vi thuyết…” trở xuống là Lợi tha có năm câu:

  1. Tổng quát.
  2. Hỏi đáp trình bày về phạm vi của nghĩa.
  3. Hỏi đáp hiển bày về nghi thức tuyên thuyết.
  4. Vặn hỏi.
  5. Đáp về nguyên nhân có bốn câu mà thôi.

Bốn, từ “Bồ-tát thành tựu…” trở xuống phân rõ về hạnh Tự lợi-lợi tha thành tựu tướng, có hai có thể biết. Năm, từ “Thử trí tuệ Tạng hữu thập chủng…” trở xuống phân rõ về Tuệ thâu nhiếp Vô tận, có bốn có thể biết.

Niệm Tạng. Thứ hai văn phân rõ về tướng có ba: Một, phân rõ về pháp thanh tịnh đã nghĩ nhớ, nói Niệm Phật là tùy thuận giác ngộ chân thật; nói Thọ ký là quy phạm kỳ diệu của sự giác ngộ chân thật hiển bày lòng dạ này; nói Niệm trì Tu-đa-la là tướng giác ngộ trọn vẹn đầy đủ như nhau rõ ràng ở bên ngoài, bởi vì lúc đầy đủ quy phạm kỳ diệu thì lấy làm phép tắc cho thế gian. Hai, từ “Bồ-tát tác như thị niệm…” trở xuống phân rõ về Thể của Thập Niệm. Ba, từ “Thử Bồ-tát trú thị…” trở xuống trình bày về Niệm mạnh mẽ bền vững. Nói đến Diệu là kỳ diệu hơn người khác. Tịnh niệm là ghi nhớ rõ ràng. Bất trược là không lẫn tạp tối tăm chướng ngại. Biến tịnh niệm là đối với pháp đều sáng tỏ. Ly trần niệm là đối với sự việc đã nghĩ nhớ không sinh tham nhiễm. Ly chủng chủng trần niệm là không sinh kết buộc gì khác. Ly cấu niệm là không chấp vào năng lực của mình. Quang diệu niệm là chiếu soi rộng rãi khắp nơi. Nói về Lạc niệm là vui với tu tập không thôi. Vô chướng ngại là gọi ý liền biết, không cần phải suy nghĩ….

Văn về Trì có bốn: Một, hỏi; hai, phân rõ về tướng; ba, kết luận; bốn, ca ngợi đức. Văn phân rõ về tướng có ba:

  1. Phân rõ về người Trì,
  2. Phật là trình bày về điều đã nghe thuận theo nơi chốn,
  3. Từ “Văn trì nhất phẩm…” trở xuống phân rõ về pháp đã nghe.

Biện. Thứ hai phân rõ về tướng có bốn: Một, nhắc lại; hai, phân rõ; ba, kết luận; bốn, ca ngợi về đức. Thứ hai là văn mở rộng phân rõ có năm:

  1. Trình bày về Hậu trí phân rõ về Thể.
  2. Từ “Quảng vi…” trở xuống trình bày về công năng của Biện.
  3. Từ “Hà cố…” trở xuống là giải thích về thành tựu.
  4. Từ “Thành tựu thử Tạng cố…” trở xuống mở rộng trình bày về sự việc thành tự do đức của Biện.
  5. Từ “Thử Bồ-tát thành tựu bách vạn…” trở xuống là sự thành tựu do tác dụng của Biện vô tận. Văn này có hai: Một là giải thích, hai là hỏi đáp trừ hết nghi ngờ. Từ “Phật tử thị vi…” trở xuống là phần thứ hai kết luận về tác dụng của đức có thể thành tựu Đại quả Vô tận; tiếp theo từ “Thử Tạng hữu thập loại…” trở xuống là phần thứ ba kết luận ca ngợi Biện Tạng sâu sắc phát sinh công đức vô tận, có bốn có thể biết.

Phẩm 19: PHẬT THĂNG ĐÂU SUẤT THIÊN CUNG NHẤT THIẾT BẢO ĐIỆN

(Hội thứ năm)

Phẩm này tức là trả lời về phần Hồi Hướng trên. Bốn môn giống như trên.

1. Giải thích tên gọi. Tri Túc Thiên là dựa theo hạnh làm chuẩn. Vả lại, Hội thứ ba trước đây chỉ nói về cung điện ở đó, Hội thứ tư chỉ nói về sự trang nghiêm, Hội thứ năm nói đến Nhất thiết bảo trang nghiêm, Hội thứ sáu nói đến Ma-ni bảo… là bởi vì muốn hiển bày về đức tướng Từ Bi tùy theo chúng sinh mà tăng lên.

2. Ý đưa ra. Vì sao đưa ra? Bởi vì nếu không Hồi Hướng thì không biết từ đâu tiến lên. Có hai ý, một là ý đưa ra thuộc về Hội, hai là ý đưa ra thuộc về Phẩm, giống như trước theo đó có thể biết.

3. Tông của Hội thứ ba phân biệt có hai, dựa theo người và pháp, cùng có Thể-Tướng-Dụng, theo trước có thể biết. Nhưng bởi vì Thể của Tông trong Hội này lại đưa ra khác với các Hội trước sau, cho nên Tông có hai nghĩa:

a) Nêu ra tánh Phổ Hiền phát khởi thật đức tùy theo duyên sai biệt mà nói để phát khởi Tín tâm, tức là Hội thứ nhất trình bày về thế giới hải, Hội thứ hai trình bày về Thập Tín, Hội thứ ba trình bày về Thập Giải, Hội thứ tư trình bày về Thập Hạnh, Hội thứ năm trình bày về phương tiện Hồi Hướng, Hội thứ sáu trình bày về tu thành tựu pháp của hai hành nhân quả vô lậu vốn có…, Hội thứ bảy dựa vào pháp thành tựu đức của hành nhân quả, Hội thứ tám dựa vào con người thành tựu đức sai biệt của phần vị. Đây đều là pháp cùng học của Nhất thừa và Tam thừa.

b) Thâu nhiếp duyên sai biệt mà thuận theo thật pháp vốn có, tức là Hội thứ nhất quán sát về năm Hải-mười Trí viên minh để bắt đầu tuyên thuyết, Hội thứ hai là phần vị Tín thành tựu phần lượng công đức về nhân quả chân thật vốn có của phần vị, Hội thứ ba là phần vị Giải hiển bày chứng được nhân quả Phổ Hiền thuộc về tánh đức, Hội thứ tư là phần vị Hạnh hiển bày chứng được nhân quả Phổ Hiền thuộc về bổn tánh, Hội thứ năm là phần vị phương tiện Hồi Hướng hiển bày chứng được nhân quả Phổ Hiền như tướng của pháp giới, Hội thứ sáu là phần vị Chứng hiển bày nhân quả Phổ Hiền thuộc về chứng tánh, Hội thứ bảy là dựa vào pháp để hiển bày phạm vi hành đức của nhân quả Phổ Hiền thuộc về Thông giáo, Hội thứ tám dựa vào con người để hiển bày chứng được công đức thuộc về lý sự duyên khởi của nhân quả Phổ Hiền. Đây là nghĩa sai biệt về phần lượng của phần vị.

4. Giải thích văn. Văn này có ba phẩm phân ra hai: Hai phẩm đầu là Tựa về Phương tiện, một phẩm sau là Chánh Tông. Phẩm đầu này có hai: Một là dụng của Thể, hai là Thể dung hòa. Trong phần Thể dung hòa có ba, đó là thân-khẩu-ý, nhưng nhân quả tương ưng làm phương tiện sau, trên đây đều giống như vậy mà thôi.

Thứ hai từ “Thời bỉ Thiên Vương…” trở xuống là tùy duyên nhiếp hóa, văn này có sáu: Một, từ “Thời bỉ Thiên Vương…” trở xuống từ Thể khởi Dụng là duyên nhiếp hóa; hai, từ “Tức ư…” trở xuống phân rõ vua chuẩn bị đồ vật cúng dường tức là thành tựu căn; ba, từ “Nhĩ thời Thế Tôn, dĩ Phật trang nghiêm…” trở xuống trình bày về Phật nhận lời thưa thỉnh, thăng tòa là trình bày về tướng cơ cảm; bốn, từ “Nhĩ thời Phật thần lực vi Thiên Vương cố…” trở xuống trình bày về oai lực thù thắng gia hộ chấm dứt loạn động trú trong vắng lặng; năm, từ “Nhĩ thời Thiên Vương…” trở xuống trình bày từ Định vắng lặng phát Trí nói kệ ca ngợi; sáu, từ “Nhĩ thời Thế Tôn thăng Nhất thiết bảo điện…” trở xuống phân rõ Pháp thân Phật bình đẳng thâu nhiếp lợi ích thành tựu sự việc không hư giả.

Văn thứ hai có hai: Một là thành tựu căn; hai từ “Nhĩ thời Thiên Vương vi Như Lai phu tọa cánh…” trở xuống là Thiên Vương ra ngoài đón tiếp Đức Thế Tôn, phân rõ về nghi thức cung kính, tức là căn chín muồi thành tựu mong muốn. Phần đầu trang nghiêm đồ vật cúng dường, văn có ba: Một, tổng quát trang nghiêm để thiết lập Tông; hai, từ “Sở vị…” trở xuống riêng biệt mở rộng phân rõ về phương pháp nghi thức tu tập tiến vào; ba, từ “Như thị Tứ Thiên…” trở xuống là kết luận ca ngợi như nhau hiển bày về cơ ứng với pháp.

Văn phần một có hai: Một là tổng quát trình bày về chỗ ngồi trang nghiêm, hai từ “Quá khứ tu tập…” trở xuống phân rõ về nhân duyên. Nhân duyên có mười ba câu, một câu đầu là tổng quát, còn lại là riêng biệt, theo thứ tự loại trừ nghi ngờ có thể biết. Ngay phần thứ hai từ “Sở vị…” trở xuống mở rộng nói về ở trong cung điện tu hạnh cúng dường trở thành phương pháp nghi thức, toàn văn có ba:

  1. Phân rõ về hạnh trang nghiêm tự tại về Khí thế gian.
  2. Từ “Bách vạn ức chư Thiên thần vương…” trở xuống trình bày về hạnh trang nghiêm tự tại về Chúng sinh thế gian, đây là người chủ động cúng dường.
  3. Từ “Bách vạn ức chư Đại Bồ-tát…” trở xuống là hạnh trang nghiêm tự tại về Trí chánh giác, bởi vì phần này là chứng lý.

Có cách giải thích khác: Trong này có năm mươi tám chúng có thể biết. Phần một là Khí thế gian, văn có hai:

  1. Đồ vật trang nghiêm ngoại trần;
  2. Từ “Bách vạn ức thần lực tự tại…” trở xuống trình bày về trang nghiêm nội pháp. Trong phần Trí chánh giác, mười ba câu đầu phân rõ về con người, tiếp theo hai mươi câu là đức của hạnh. Các Đại Bồ-tát là người đi vào đạo tràng tụ hội, Hoa Thủ… là phần vị Tín giải.

Văn thứ hai là đón tiếp Phật có ba: Một, ra ngoài đón tiếp là phân rõ về nghi thức cung kính có hai, một là kết luận phần trước, hai là sinh khởi phần sau. Hai, thiết lễ cúng dường. Ba, chính thức thưa thỉnh. Phần hai là thiết lễ cúng dường, văn có ba: Một, trình bày về phần mình thực hành cúng dường có hai, một là bên ngoài, hai là bên trong có thể biết. Hai, từ “Phật thần lực cố…” trở xuống trình bày về phần thắng tiến thực hành cúng dường. Ba, từ “Nhĩ thời nhất thiết chư Thiên chúng…” trở xuống phân rõ hai hành tiến vào cảnh giới Phật. Hai là trong đức của phần thắng tiến có ba: Một là tổng quát, hai là riêng biệt trang nghiêm hư không, ba là tung hoa cúng dường Như Lai. Ba, từ “Nhĩ thời nhất thiết chư Thiên chúng…” trở xuống trong phần trình bày tiến vào cảnh giới Phật có ba: Một là phân rõ về Lợi tha; hai từ “Thời chư Thiên kiến Như Lại thân nhất nhất mao khổng…” trở xuống là đức về Tự lợi; ba từ “Nhĩ thời Như Lai…” trở xuống phân rõ tự tha bình đẳng vô cùng tự tại.

Ngay trong đoạn trước, một là biết về đức Lợi tha, hai từ “Như thị chánh niệm…” trở xuống có mười câu là kết luận về lợi ích của quán sát hiểu biết. Trong phần một là biết đức có hai:

  1. Người mạnh mẽ… là đức của Báo thân,
  2. Từ “Thuận chúng sinh căn vi hiện Phật thân…” trở xuống là đức của Hóa thân. Trong phần Báo thân, một là đức của thân nghiệp, hai từ “Trú Nhất thiết trí…” trở xuống phân rõ về đức của khẩu nghiệp, ba từ “Phật trí tuệ nguyệt…” trở xuống trình bày về ý nghiệp. Trong phần Hóa Phật, một là thân nghiệp, hai từ “Thường dĩ pháp thí…” trở xuống trình bày về khẩu nghiệp, ba từ “Giai do tùng tâm khởi…” trở xuống phân rõ về ý nghiệp. Những cảnh giới Phật cách xa trên đây, tức là sự tác dụng của con người đối với nhân hồi hướng.

Hai là trong đức Tự lợi có sáu câu: Một, câu đầu phân rõ về phóng ánh sáng; hai, từ “Tự nhiên…” trở xuống phân rõ trong ánh sáng nói kệ; ba, từ “Hiển hiện A-tăng-kỳ…” trở xuống trình bày về tướng trang nghiêm; bốn, từ “Hiển hiện bất khả tư…” trở xuống là hiện ra Hóa thân thuyết pháp; năm, từ “Hựu Phật thân trung…” trở xuống hiện ra ánh sáng quý báu hiển bày về nhân hạnh; sáu, từ “Hựu đổ tự tại thần lực…” trở xuống trình bày về thuyết pháp giáo hóa.

Ba là phần Tự tha bình đẳng vô cùng tự tại, văn có bốn: Một, nhắc lại đức Từ Bi trước đây; hai, từ “Dục linh vô lượng…” trở xuống là tùy cơ nhiếp hóa lợi ích; ba, từ “Thành tựu Như Lai…” trở xuống là thành tựu đức tiến vào cõi Phật; bốn, từ “Như Lai hiển hiện…” trở xuống là kết luận ca ngợi về vô tận.

Thứ ba là văn về tùy duyên nhiếp hóa có ba: Một, chính thức đi đến; hai, giống như phương khác; ba, phân rõ về lợi ích có thể biết.

Thứ năm là văn về trí có ba: Một, trường hàng về nhớ lại, tức là Thể của trí. Hai, thuyết kệ trình bày về Tướng của trí. Vì sao ca ngợi đức của một vị Phật? Bởi vì làm sáng tỏ nhiều phương tiện hồi hướng quy về một tâm Từ Bi khéo léo. Ba, giống như tất cả các phương.

Thứ sáu là văn về nhiếp hóa thành tựu sự việc có bốn: Một, phân rõ về ứng cơ. Hai, chính thức nhiếp hóa. Ba, thành tựu lợi ích, văn có hai: Đầu là hai câu thuận theo Lý, tiếp đến là thuận theo Sự. Sở dĩ chỉ phân rõ về đầy đủ đức mà không mở rộng về cung điện là trú xứ của Như Lai, là bởi vì hiển bày phương tiện trang nghiêm riêng biệt. Bốn, giống như tất cả mười phương.

Phẩm 20: ĐÂU SUẤT THIÊN CUNG BỒ TÁT VÂN TẬP TÁN PHẬT

Bốn môn giống như trước.

1. Giải thích tên gọi, có bốn nghĩa: Một là Xứ, hai là người, ba là oai nghi của thân, bốn là khẩu nghiệp. Hoặc là sáu câu có thể biết.

2. Ý đưa ra giống như trước, chỉ có việc làm khác biệt mà thôi.

3. Tông cũng giống như trước, nhưng trở lại đưa vào phẩm này ca ngợi thực hành phương tiện của Phật là khác nhau mà thôi.

4. Giải thích văn. Phẩm này có ba Tựa: Một, văn trong Tựa về quy tụ chúng, trước là nêu ra thần lực của Phật để hiển bày về phạm vi; hai, phân rõ về chúng đã quy tụ; ba, từ “ Như thử…” trở xuống là kết luận về chúng đã quy tụ. Trong phần thứ hai là ba thế gian có thể biết. Trong chúng sinh thế gian có năm câu: Một là nêu ra tên gọi, hai là dựa vào căn bản tu hành, ba là cùng đến, bốn là y theo phương mà ngồi, năm là ca ngợi đức. Ca ngợi đức có ba: Một, trình bày về hạnh Tự lợi; hai, từ “Nhất thiết chúng sinh quán vô yếm túc…” trở xuống là hạnh Lợi tha; ba, từ “Thử chư Bồ-tát…” trở xuống phân rõ về đức dụng tự tại của Tự-Tha.

Trong Tựa thứ hai về phóng ánh sáng có ba: Một, phân rõ về nơi ánh sáng xuất hiện; hai, trình bày về nơi đã soi chiếu; ba, từ “Bỉ chư Bồ-tát…” trở xuống là ánh sáng đã thâu nhiếp lợi ích, tức là ca ngợi về đức. Hai đầu gối phóng ánh sáng thù thắng, là tướng thù thắng vi diệu tăng trưởng tiến vào cảnh giới Phật trong hạnh của Pháp thân. Đầu gối là biểu thị cho tướng phương tiện tiến lên. Trong phần ca ngợi đức có ba: Một là tổng quát, hai là riêng biệt, ba là kết luận. Trong phần riêng biệt có ba: Một là Tự lợi, hai từ “Giáo hóa thành tựu…” trở xuống có một câu là Lợi tha; ba là thắng tiến có thể biết mà thôi.

Trong Tựa ca ngợi Phật, Kim Cang là nhân hạnh kiên cố, Tràng là hạnh thành tựu cao vượt ra ngoài, cũng có nghĩa về nhiếp phục. Vả lại trong mười Bồ-tát, vị thứ nhất tên gọi Kim Cang Tràng là trình bày về tự Thể chân thật có năng lực tiêu diệt phiền não, Đạo vượt lên trên thế gian nêu rõ hơn kém khác nhau, cho nên gọi là Kim Cang Tràng, tướng còn lại có thể biết. Trong này, các kệ đều dựa theo phương tiện hồi hướng để hiển bày về đức của Phật, tức là lấy giáo này làm tướng khéo léo giải thích, còn lại dựa theo đó suy nghĩ. Văn về các kệ có hai: Một là trường hàng sinh khởi, hai là chính thức nói kệ.

Kệ thứ nhất có ba: Năm kệ đầu là đức Tự lợi, tiếp theo ba kệ là Lợi tha, tiếp theo hai kệ là khuyến tu.

Kệ về Kiên Cố có ba: Ba kệ đầu ca ngợi về Tự lợi kiên cố của Phật, tiếp theo bốn kệ ca ngợi về Lợi tha kiên cố, tiếp theo ba kệ là khuyến tu.

Kệ về Dũng Mãnh có ba: Hai kệ đầu phân rõ Pháp giới hải sâu xa, tiếp theo năm kệ phân rõ về tác dụng lợi ích rộng lớn, tiếp theo ba kệ là kết luận về Thể-Dụng viên mãn.

Kệ về Dạ Quang có hai: Bốn kệ đầu ca ngợi về Pháp thân tự tại, tiếp theo sáu kệ ca ngợi về Hóa dụng tự tại.

Kệ về Trí có hai: Một kệ đầu ca ngợi đức của phần vị, tiếp theo chín kệ phân rõ về pháp đã thấy. Văn về pháp đã thấy có hai: Một kệ đầu là tổng quát, tiếp theo tám kệ là riêng biệt. Văn về riêng biệt có ba: Hai kệ đầu ca ngợi đức của Phật, tiếp theo bốn kệ trình bày về lìa tướng kể ra của Phật, tiếp theo hai kệ phân rõ về lìa tướng thế gian mà thôi.

Kệ về Bảo có ba: Một kệ đầu về Hóa thân, tiếp theo hai kệ về Pháp thân, tiếp theo bảy kệ về Báo thân. Lại hỏi: Vì sao xét định về văn của kinh này, phần lớn dựa vào ba Thừa là thế nào? Đáp: Bởi vì người ba Thừa là phần nhiều cho nên như vậy, nghĩa về Nhất thừa dựa theo văn có thể biết.

Kệ về Tinh Tiến có hai: Sáu kệ đầu gồm chung ba thân tự tại, tiếp theo bốn kệ dựa theo bốn dụ phân rõ về thành tựu.

Kệ về Ly Cấu có ba: Bảy kệ đầu ca ngợi về Trí thân, tiếp theo hai kệ ca ngợi về Pháp thân, tiếp theo một kệ tổng quát giải thích.

Kệ về Chân Thật có năm: Hai kệ đầu ca ngợi về Hóa thân tự tại, tiếp theo hai kệ về Pháp tánh thân tự tại, tiếp theo bốn kệ trở lại thành tựu về hóa độ trước đây, tiếp theo một kệ phân rõ về phương pháp nghi thức hướng tới, tiếp theo một kệ kết luận về thành tựu thân lìa tướng.

Kệ về Pháp có bốn: Hai kệ đầu phân rõ trình bày về ý khích lệ tu tập, tiếp theo ba kệ tổng quát nêu ra lợi hại để giải thích về thành tựu, tiếp theo bốn kệ mở rộng phân rõ về tướng của lợi hại để ca ngợi đức, tiếp theo một kệ hiển bày về tướng của đức.

Vả lại, cũng có thể không cần xét định riêng biệt ca ngợi về đức của mười Bồ-tát này, nghĩa của mỗi một câu tức là pháp của một phương tiện. Đây là dựa theo văn chọn lấy ý của Nhất thừa.

Phẩm 21: KIM CANG TRÀNG BỒ TÁT HỒI HƯỚNG

Phân biệt có năm môn:

  1. Giải thích tên gọi Thập Hồi Hướng và ý đưa ra.
  2. Phân rõ về pháp đối trị. Nhất thừa dựa theo như trước, ba Thừa trừ chướng rời bỏ Đại Bi của Độc giác.
  3. Đã đạt được Định vô gián và căn thiện bậc nhất của thế gian.
  4. Đã thành tựu hạnh vị của Thập Hồi Hướng tức là Thể của Tông.
  5. Giải thích văn.

1. Giải thích tên gọi: Hồi Hướng là xoay chuyển hạnh trước hướng đến Bồ-đề, cũng có thể gồm chung chúng sinh và pháp tánh, Kim Cang… là người, Hồi Hướng… là pháp, dựa vào hai nghĩa mà được tên gọi. Ý đưa ra giống như trước, nhưng Thể của pháp khác với trước mà thôi.

2,3. Nay trong luận này, pháp đối trị-đạt được và thành tựu đều dựa theo ba Thừa mà nói. Nếu dựa theo Biệt giáo Nhất thừa để phân rõ, thì hoặc là đối trị, hoặc là không đối trị… có thể dựa theo tư duy thâu nhiếp.

4. Tông là tướng tổng quát có thể biết, mở rộng ở văn sau.

5. Giải thích văn. Văn này có bảy phần: Một là phần Nhập định Tam-muội, hai là phần gia hộ, ba là phần xuất định, bốn là phần căn bản, năm là phần tuyên thuyết, sáu là phần lợi ích, bảy là phần kệ tụng.

Đầu tiên nói Nhập định, là hiển bày Thể của pháp không phải cảnh giới của tư duy. Minh trí định, là hiển bày về hạnh không gì mê hoặc cho nên soi chiếu rõ ràng, cũng có thể là Tịnh trí phương tiện nương tựa có thể thành tựu Tịnh trí.

Tựa về Gia hộ có ba: Một là tổng quát trình bày về tướng nhân duyên ca ngợi gia hộ. Văn này có ba: Một, tổng quát về chư Phật hiện thân và cùng tên gọi Chứng Pháp, có hai có thể biết; hai, từ “Thời bỉ…” trở xuống là chính thức ca ngợi kể ra; ba, từ “Thiện nam tử…” trở xuống là được tiến vào Định hiện tại. Nguyên cớ về gia hộ nhập định có năm nhân duyên: Một, lực của chư Phật gia hộ; hai, lực Bổn nguyện của Đức Lô-xá-na; ba, thần lực hiện tại của Đức Lô-xá-na; bốn, lực từ Tịnh trí của Kim Cang Tràng; năm, lực từ căn thiện của những Bồ-tát khác.

Hai từ “Dục linh…” trở xuống phân rõ trong gia hộ bằng việc làm có hai mươi hai câu, mười hai câu đầu là đức thuộc phần mình, tiếp theo mười câu là thắng tiến. Nay trong hai mươi hai câu này vốn có các văn, và trong ý gia hộ trên dưới vốn có văn tướng, không thể nào giải thích đầy đủ từng văn một, mà chỉ dựa theo sự phân định của Luận chủ trong phần gia hộ đầu phẩm Thập Địa sau này, dựa theo phần ý của văn này thì có thể biết. Nhưng văn tướng trong này có lúc gồm chung quả và nhân, có lúc trước tổng quát-sau riêng biệt, có lúc Tự lợi khác với Lợi tha, có lúc giống-khác và thành-hoại. Như vậy tất cả và các văn của Hội trước, đều dựa theo chọn lấy sáu tướng đầu trong Địa Luận thì không có gì không rõ ràng, tướng còn lại có thể biết.

Ba từ “Thiện nam tử nhữ đương…” trở xuống phân rõ về tướng gia hộ qua ba nghiệp sai biệt. Trong đó, đầu tiên trong khẩu nghiệp có mười câu có thể biết. Gia hộ qua ý nghiệp cũng có mười câu, một câu đầu là tổng quát, tiếp theo là riêng biệt.

Hỏi: Vì sao ý gia hộ này cùng với pháp lẫn tạp?

Đáp: Bởi vì sự phương tiện không nhất định, tâm-cảnh và lý-sự không phải là một pháp, dựa theo đó có thể biết.

Phần căn bản chính thức tuyên thuyết, văn có hai: Một, tổng quát phân rõ về Thể; hai, nêu ra tên gọi phân rõ về Tướng.

Văn phần một về Thể có hai: Một là tổng quát ca ngợi; hai là phân rõ về Thể của phương tiện, tức là sáu quyết định, trong đó chỉ có quán tướng Đại thiện và không khiếp nhược, nguyên cớ trước đây đã phân rõ.

Văn phần hai về Tướng có năm: Một là hỏi, hai là nêu ra số và dẫn chứng, ba là trở lại hỏi, bốn là nêu ra tên gọi, năm là kết luận và chứng thành. Đại Nguyện bất tư nghị là nhân nguyện của Địa thượng, cũng tức là nguyện của Thập Hồi Hướng.

Bốn là nêu ra mười tên gọi:

1. Cứu hộ nhất thiết chúng sinh, là lìa tướng chúng sinh, hồi hướng sự việc hóa độ, lìa xa hai ngã. Hồi hướng có ba: Một là hồi hướng chúng sinh và vật cùng thành tựu, hai là hồi hướng Bồ-đề rời bỏ các quả báo của thế gian, ba là hồi hướng thật tế Dụng quy về Thể cao nhất. Ba tướng này thành tựu, cho nên biết là có ba tướng này, về sau Di-lặc khiến Thiện Tài gặp Bồ-tát tu ba loại hồi hướng. Trong kinh Bát-nhã cũng nói về điều này. Về sau đều gồm chung ý này.

2. Bất hoại, là tự hành kiên cố.

3. Đẳng nhất thiết Phật, là Tự tha cùng tiến vào cảnh giới Phật, cũng có thể là phần lượng ngang nhau.

4. Chí nhất thiết xứ, là bởi vì đạt được một phần Phật lực.

5. Vô tận công đức tạng, là bởi vì tu tập tác dụng phát sinh không cùng tận.

6. Tùy thuận bình đẳng thiện căn, cũng gọi là đức dụng kiên cố vô tận, đạt được ba loại kiên cố tùy thuận Niết-bàn.

7. Tùy thuận đẳng quán nhất thiết chúng sinh, là bởi vì đạt được Đại Niết-bàn mà không rời bỏ thế gian.

8. Như tướng, là bởi vì hành hoàn toàn giống như tu.

9. Vô trước giải thoát, là Lý bình đẳng lìa tướng ràng buộc-cởi bỏ cho nên không có tướng giải thoát.

10. Pháp giới vô lượng, là Dụng hợp với tánh.

Mười tướng này thành tựu cùng có hai: Một, dùng mười môn thâu nhiếp các hạnh Hồi Hướng, dựa theo môn này tức là Hạnh; hai, dùng Hạnh dựa vào mười môn trình bày về Hồi Hướng. Hồi Hướng có ba, đó là Thật tế, Bồ-đề và chúng sinh hồi hướng. Thật tế có hai loại: Một, hiện tại tu tập các hạnh tức là chân như; hai, vì hiển bày chân như cho nên tu tập các hạnh. Chúng sinh cũng có hai loại: Một, vì độ sinh cho nên tu hạnh Bồ-tát, tức là có đủ chúng sinh và đạo; hai, Bồ-tát đã thành tựu tức là chúng sinh đã trao cho. Bồ-đề cũng có hai: Một, đã tu các hạnh là vì thành tựu Đại quả; hai, các hạnh Bồ-tát chúng sinh tức là mầm của quả Bồ-đề. Mỗi một Hồi Hướng đều có môn này, nói ra đầy đủ ý tổng quát, dựa theo để suy nghĩ.

Cứu hộ nhất thiết chúng sinh có bốn: Một, hỏi về nêu ra tên gọi; hai, phân rõ về tướng; ba, từ “Thị vi…” trở xuống là kết luận; bốn, dùng kệ trùng tụng.

Trong phần hai phân rõ về Tướng có bốn: Một là trình bày về Thể của hạnh; hai từ “Ma-ha-tát phục tác thị niệm phát Bồ-đề tâm bảo…” trở xuống là hồi hướng chúng sinh và Bồ-đề; ba từ “Bồ-tát phục tác thị niệm như Nhật Thiên tử…” trở xuống là hồi hướng Thật tế; bốn từ “Dĩ như thị đẳng thiện căn hồi hướng…” trở xuống là kết luận ca ngợi về đức dụng tự tại thù thắng vi diệu.

Trong phần một phân rõ về Thể có ba: Một, dùng sáu Độ-bốn Nhiếp… làm pháp cứu giúp chúng sinh; hai, từ “Tu thiện căn…” trở xuống trình bày về cứu hộ chúng sinh; ba, từ “Thử Bồ-tát vi oán thân cố…” trở xuống trình bày về nương nhờ khởi hạnh. Trong này có hai ý: Một là vì lìa tướng chúng sinh cho nên có thể thành tựu ba Hồi Hướng, hai là bởi vì lìa chúng sinh vốn là ba Hồi Hướng, điều này nên suy nghĩ. Hai là văn chính thức cứu hộ chúng sinh có hai: Một, khiến cho chúng sinh không rơi vào địa ngục…; hai, từ “Phục tác thị niệm…” trở xuống là đạt được niềm vui của Pháp thân, trong đó nhân quả phân làm hai.

Ba là văn nương nhờ khởi hạnh có hai: Một, dùng điều thiện hồi hướng chúng sinh không lựa chọn oán thân có ba: 1-Thiết lập; 2-Hỏi đáp giải thích nghi ngờ; 3-Từ “Thường dĩ ái nhãn…” trở xuống là đối với duyên thành hạnh. Lần lượt chuyển tiếp có bốn đoạn phân rõ về nghi, văn về nghi thứ tư có ba: 1-Thiết lập, 2-Vặn hỏi, 3-Đáp có thể biết. Hai từ “Bồ-tát bất vi nhất chúng sinh…” trở xuống hiển bày về ý rộng lớn, có hai có thể biết.

Phần thứ hai là hồi hướng chúng sinh và Bồ-đề có năm: Một, thực hành như chư Phật và khởi tâm cứu cánh tức là hai, trong hai đoạn này lại đều phân làm hai có thể biết. Hai, từ “Bồ-tát dĩ chư thiện căn hồi hướng thời…” trở xuống là khiến cho chúng sinh đạt được nơi thanh tịnh. Ba, từ “Phục tác thị niệm dĩ thử thiện căn…” trở xuống là làm cho chúng sinh có thể thấy Phật đạt được lợi ích, đầy đủ bảy tài sản thanh thịnh, đó là Tín-Giới-Văn-Thí- Trí tuệ-Tàm-Quý. Bốn, từ “Thử Bồ-tát phục tác thị niệm…” trở xuống là nhận chịu thay tất cả các khổ, văn này có bốn:

1. Đối với vật sinh tâm;

2. Từ “Thị cố…” trở xuống là loại trừ nghi ngờ;

3. Từ “Dĩ Đại…” trở xuống trình bày về thiện xảo có hai có thể biết;

4. Từ “Phục tác thị niệm ngã tất đương vi…” trở xuống là chính thức trình bày thọ khổ vì chúng sinh, trong phần này có ba: Một là thay thế nhận chịu khổ, hai là loại trừ nghi ngờ văn này có ba, trong văn thứ hai có bốn, văn thứ ba có ba có thể biết, ba từ “Thị cố bất dĩ…” trở xuống là kết luận có thể biết; ba từ “Phục tác thị niệm ngã đương dĩ…” trở xuống phân rõ về sự thành tựu, có hai có thể biết. Năm, từ “Bồ-tát dĩ thị vô lượng…” trở xuống là khiến cho chúng sinh được đầy đủ nhân duyên trợ đạo có ba: 1) Khởi ý; 2)Ví dụ; 3) Hợp có thể biết.

Phần thứ ba là hồi hướng Thật tế, văn có hai: Một, lựa chọn hai hồi hướng trước đây; hai, từ “Linh nhất thiết bất trước…” trở xuống là chính thức hồi hướng Thật tế. Văn này có ba:

  1. Phân rõ về Vô tướng phân biệt.
  2. Từ “Bất khởi hư vọng nhân duyên…” trở xuống là Y tha không sinh.
  3. Từ “Quán sát nhất thiết chúng sinh bình đẳng…” trở xuống Vô tánh chân thật.

Không sinh các pháp-không diệt các pháp ấy, dùng những thiện căn như vậy để hồi hướng, tức là phần thứ tư tổng quát kết luận, văn có ba: Một, tổng quát; hai, từ “Tu hành…” trở xuống là riêng biệt; ba, từ “Bồ-tát…” trở xuống là kết luận ca ngợi. Trong phần riêng biệt:

  1. Tu hành các pháp đối trị là kết luận về Thể của hạnh thứ nhất;
  2. Quán sát tất cả là kết luận về hồi hướng chúng sinh và Bồ-đề;
  3. Từ “Ư bỉ thiện căn bất tác nhị tướng…” trở xuống là kết luận về Thật tế, tướng còn lại có thể biết.

Phần bốn là trùng tụng có hai: Một, trường hàng phân rõ về ý; hai, kệ tụng. Có năm mươi sáu kệ, có ba:

  1. Mười hai kệ đầu là tổng quát kết luận.
  2. Tiếp theo là riêng biệt.

Phần riêng biệt này có ba: Mười một kệ đầu là kết luận về Thể của hạnh, tiếp theo mười ba kệ là văn kết luận về hồi hướng chúng sinh và Bồ-đề, tiếp theo mười lăm kệ là kết luận về Thật tế.

Sáu kệ cuối là tổng quát kết luận, có thể dựa theo chọn lấy cách giải thích.

Bất hoại có năm, trong này một là hỏi, hai là đáp, ba là kết luận, bốn là ca ngợi đức, năm là kệ tụng.

Trong văn đáp có năm: Một, phân rõ về Thể của hạnh; hai, từ “Dục linh nhất thiết chúng…” trở xuống là hồi hướng chúng sinh; ba, từ “Chư Phật thành tựu vô lượng đức…” trở xuống là hồi hướng Bồ-đề; bốn, từ “Bồ-tát như thị xả ly si…” trở xuống là hồi hướng Thật tế; năm, từ “Như thị Bồ-tát thành thiện căn…” trở xuống là kết luận ca ngợi về đức dụng.

Văn về Thể có năm:

  1. Đối với duyên thành Tín có hai, một là thiết lập Tông, hai từ “Hà cố…” trở xuống là loại trừ nghi ngờ.
  2. Từ “Như thị an trú…” trở xuống là dựa vào Tín thành nhân của hạnh.
  3. Từ “Bồ-tát như thị đẳng thiện…” trở xuống là phân rõ về hạnh đã thành tựu quả.
  4. Từ “Bồ-tát như thị tinh cần…” trở xuống là kết luận về lợi ích phát khởi thực hành.
  5. Từ “Bồ-tát thiện căn hồi hướng…” trở xuống là phân rõ dựa vào hạnh thành tựu sự việc như nguyện, phần này có hai ý: Một là bởi vì Bất hoại cho nên được thành tựu ba hồi hướng; hai là bởi vì Bất hoại vốn là ba hồi hướng, điều này có thể suy nghĩ chính xác. Hai là văn về hồi hướng chúng sinh có thể biết.

Bốn là văn về Thật tế có ba:

  1. Lựa chọn hai hồi hướng trước đây.
  2. Từ “Quán sát bình đẳng…” trở xuống là chính thức hồi hướng Thật tế.
  3. Từ “Thường vi chư Phật…” trở xuống là công phu cảm được Thánh niệm.

Bốn là trong phần kết luận ca ngợi có năm: Một, kết luận về Thể của hạnh; hai, từ “Ma-ha-tát như thị…” trở xuống là kết luận về chúng sinh; ba, từ “Cứu cánh thanh tịnh…” trở xuống là kết luận về hồi hướng Bồ-đề; bốn, từ “Thị bình đẳng…” trở xuống là văn kết luận về Thật tế; năm, từ “Bồ-tát hành như thị…” trở xuống là kết luận gồm chung về sự vi diệu thù thắng.

Năm là văn kệ có hai: Một, trường hàng; hai, kệ tụng. Có năm mươi kệ, có năm: Hai mươi mốt tụng đầu về Thể của hạnh, tiếp đến hai tụng về chúng sinh, tiếp đến hai tụng về Bồ-đề, tiếp đến mười tụng là văn về Thật tế, tiếp đến mười bốn tụng là các văn về kết luận ca ngợi…

Đẳng nhất thiết Phật, có năm: Một là hỏi, hai là đáp, ba là kết luận, bốn là ca ngợi đức, năm là kệ tụng.

Văn đáp có năm: Một, phân rõ về Thể của hạnh có hai có thể biết. Hồi hướng này có hai ý: Một là bởi vì bình đẳng cho nên thành tựu ba loại hồi hướng; hai là bởi vì hợp với ba hồi hướng trước cho nên được bình đẳng, có thể dựa theo đó. Hai, từ “Thử Bồ-tát đắc như thị lạc thời…” trở xuống là hồi hướng Phật Bồ-tát và chúng sinh, văn này có bốn:

  1. Hồi hướng Phật.
  2. Hồi hướng Bồ-tát.
  3. Hồi hướng chúng sinh.
  4. Từ “Bồ-tát nhiếp thủ hạnh đẳng hành…” trở xuống trình bày về nghi thức. Văn về Bồ-tát có hai có thể biết.

Trong văn thứ ba là hồi hướng chúng sinh có ba: Một là nghi thức hồi hướng, phần này có hai có thể biết; hai là diệt ác; ba là sinh thiện. Ba, từ “Bồ-tát nhược tại gia thời…” trở xuống là phân rõ về phạm vi khởi tâm, văn này có hai: Một là giải thích; hai từ “Như thị Bồ-tát kim tập…” trở xuống là kết luận. Văn phần một là giải thích có hai:

1. Tại gia thâu nhiếp chúng sinh hồi hướng.

2. Từ “Bồ-tát tác thị niệm nãi chí tiểu đại…” trở xuống là Đại Bi sâu nặng. Văn phần một có bốn: Một, khởi tâm; hai, đối với duyên phân rõ về nhiếp hóa có hai có thể biết; ba, trình bày về thành tựu hạnh không gián đoạn tức là hiển bày về trí kiên cố; bốn, kết luận. Văn thứ hai là Đại Bi sâu nặng có hai: Một là lìa khổ đau, hai là được niềm vui có thể biết. Bốn, từ “Phục tác thị niệm như bỉ…” trở xuống là hồi hướng Thật tế, văn có ba: Một, nhắc lại hai hồi hướng trước đây; hai, từ “Nhi vô sở trước…” trở xuống là chính thức hồi hướng Thật tế; ba, từ “Ma-hatát…” trở xuống là kết luận như hồi hướng Phật. Chính thức hồi hướng Thật tế có hai:

a) Hồi hướng dựa theo trí tiến vào quán.

b) Từ “Thường lạc tập hành Phổ Môn…” trở xuống là dùng trí ra khỏi quán để hồi hướng. Năm, trong tổng quát kết luận, một là nhắc lại Thể của hạnh trước đây, hai là từ Hồi hướng thứ nhất trở xuống là gồm chung kết luận.

Phần kệ có hai: Một, trường hàng; hai, kệ tụng. Có bốn mươi tám kệ: Hai tụng đầu về Thể, tiếp theo ba mươi bốn tụng về các văn hồi hướng Phật-chúng sinh…, tiếp theo bốn tụng về Thật tế, tiếp theo tám tụng là kết luận ca ngợi.

Chí nhất thiết xứ, có năm: Một là hỏi, hai là đáp, ba là kết luận, bốn là ca ngợi đức, năm là kệ tụng.

Văn đáp có bốn: Một, phân rõ về Thể; hai, từ “Như thị trang nghiêm…” trở xuống là hồi hướng Bồ-đề và chúng sinh; ba, từ “Bồ-tát như thị thiện căn hồi hướng liễu vô sở…” trở xuống là hồi hướng Thật tế; bốn, từ “Bồ-tát như thị thiện căn hồi hướng…” trở xuống là kết luận ca ngợi về đức dụng.

Một trong Thể phân hai: Một là trình bày về Thể của hạnh có bốn:

  1. Pháp.
  2. Dụ.
  3. Hợp.
  4. Phân rõ về thành tựu.

Phần này có ba câu: Pháp-dụ và hợp, dụ như chư Thiên là Đệ nhất nghĩa Thiên, tướng còn lại có thể biết. Hồi hướng này có hai ý: Một là bởi vì thuận với tất cả cho nên được ba hồi hướng, hai là bởi vì thuận với ba hồi hướng cho nên có thể đến tất cả mọi nơi. Hai là từ “Bồ-tát phục tác thị niệm…” trở xuống là mở rộng trình bày về Tướng của hạnh, văn này có hai: Một, trình bày về nơi chốn nương tựa và Phật; hai, từ “Bồ-tát ư chư Như Lai…” trở xuống là mở rộng trình bày về Tướng của hạnh. Trong phần này có hai: 1-Đối với cảnh khởi tâm tức là hai, trước là đối với cảnh trình bày về tâm, tiếp theo phân rõ về đức của tâm; 2Từ “Phục tác thị niệm…” trở xuống là đối với cảnh thành tựu hạnh, thì lại là hai mà thôi.

Hai, từ “Như thị trang nghiêm…” trở xuống là văn hồi hướng chúng sinh có hai: Một là tách ra hai môn Lý-Sự để lập Tông; hai từ “Linh nhất thiết…” trở xuống là riêng biệt phân rõ về nguyên cớ có thể thành tựu Chí nhất thiết xứ, có pháp-dụ và hợp, ba văn có thể biết.

Ba, văn về Thật tế có ba: Một, nhắc lại Thể của hạnh trước đây và hai hồi hướng; hai, từ “Liễu vô sở hữu…” trở xuống là chính thức hồi hướng; ba, từ “Như thị Bồ-tát lạc quán…” trở xuống là kết luận về hồi hướng đạt được lợi ích. Chính thức hồi hướng có hai:

  1. Dựa theo trí tiến vào quán.
  2. Từ “Như thị Bồ-tát viên mãn…” trở xuống là biện tài của trí ra khỏi quán.

Tất cả các pháp là nơi chốn của mọi nhân duyên, bởi vì dựa vào hiểu rõ về nhân duyên cho nên chứng được tất cả các pháp.

Bốn, trong phần tổng quát kết luận ca ngợi: Đầu là kết luận về Thể của hạnh, từ “Đắc Phật tự tại…” trở xuống là kết luận về Bồ-đề, tiếp theo từ “Giáo hóa chúng sinh…” trở xuống kết luận về chúng sinh, tiếp theo từ “Bồ-tát như thị…” trở xuống kết luận về Thật tế.

Văn kệ có hai: Một, trường hàng; hai, kệ tụng. Văn có hai mươi hai kệ: Tám tụng đầu về Thể của hạnh, tiếp theo sáu tụng về Bồ-đề và chúng sinh, tiếp theo sáu tụng về Thật tế, tiếp theo hai tụng là văn kết luận ca ngợi.

Vô tận công đức tạng, ở đây có ba nghĩa:

  1. Phát sinh vô tận,
  2. Thành tựu,
  3. Tự Thể, dùng ba nghĩa này để dựa theo. Một là hỏi, hai là đáp, ba là kết luận, bốn là phân rõ về đức, năm là kệ tụng.

Văn đáp có bốn: Một, phân rõ về Thể của hạnh; hai, từ “Bồ-tát chư thiện căn giai tất…” trở xuống là hồi hướng Bồ-đề và chúng sinh; ba, từ “Bồ-tát dĩ như thị đẳng…” trở xuống là hồi hướng Thật tế; bốn, từ “Bồ-tát như thị thiện căn…” trở xuống là kết luận ca ngợi về Dụng thù thắng.

Văn phần một về Thể của hạnh, văn có hai: Một là phân rõ về Thể của hạnh, có bốn:

  1. Sám hối,
  2. Khuyến thỉnh,
  3. Tùy hỷ,
  4. Hồi hướng.

Tùy hỷ có bốn:

  1. Thành Phật,
  2. Thuyết pháp,
  3. Niết-bàn,
  4. Văn về Lưu thông… có hai:

Một là hối lỗi, hai là khuyến thỉnhtùy hỷ và hồi hướng. Ba nghĩa này bởi vì là phần nghĩa về đức hữu vi đan xen lẫn nhau, cho nên kết hợp cùng nói ở một nơi. Văn này có hai: Một là tổng quát nêu ra, hai là riêng biệt phân rõ. Trong phần riêng biệt dựa vào bốn nghĩa Tùy hỷ tức là có bốn đoạn mà thôi.

Phần này có hai ý: Một là bởi vì hạnh thuận với ba hồi hướng cho nên có thể thành tựu Vô tận tạng, hai là bởi vì thành tựu Vô tận tạng cho nên thuộc về ba hồi hướng, điều này có thể dựa theo. Hai, từ “Bồ-tát tác như thị niệm…” trở xuống là phân rõ về Tướng của hạnh có hai:

  1. Trang nghiêm quốc độ,
  2. Trang nghiêm người thành tựu.

Trang nghiêm quốc độ có bốn: Một, thành tựu thế giới độ; hai, từ “Bồ-tát tu thắng thiện căn…” trở xuống là trang nghiêm Phật quốc độ; ba, từ “Bỉ chư thế giới trung…” trở xuống là trang nghiêm ba đời; bốn, từ “Như nhất thế giới…” trở xuống là kết luận thành tựu cứu cánh. Hai từ “Bồ-tát phục như thị…” trở xuống là trang nghiêm về người có hai: Đầu là phân rõ, sau là kết luận.

Trong phân rõ có bốn:

  1. Người.
  2. Từ “Thử chư Bồ-tát…” trở xuống là tóm lược đầy đủ hiển bày về đức.
  3. Từ “Thành tựu…” trở xuống là riêng biệt hiển bày về đức, có hai có thể biết.
  4. Từ “Thành tựu đẳng…” trở xuống là kết luận có ba có thể biết. Hai từ “Như nhất Phật sát…” trở xuống là dùng kết luận tóm lược để hiển bày mở rộng có thể biết.

Hai, hồi hướng Bồ-đề và chúng sinh, văn có hai: Một là dùng phương tiện pháp giới để hồi hướng hai nơi; hai từ “Như thị Bồ-tát thiện…” trở xuống là phân rõ về phạm vi của phương tiện.

Ba, văn về Thật tế có hai: Một, nhắc lại tổng quát về nơi hồi hướng để hướng đến phạm vi của Tát-bà-nhã; hai, từ “Bồ-tát hành như thị…” trở xuống là riêng biệt hồi hướng Thật tế. Văn này có hai: Một là dùng trí tiến vào quán để hồi hướng, phần này có hai có thể biết; hai từ “Bồ-tát như thị khởi…” trở xuống là dùng trí ra khỏi quán để hồi hướng.

Sinh tử không phải là tạp loạn, Niết-bàn không phải là tịch tĩnh, điều này có hai cách giải thích:

1. Dựa vào phá tướng, Thể của sinh tử là Không cho nên không phải là tạp loạn, Thể của Niết-bàn là Như cho nên không phải là tịch tĩnh.

2. Hiểu rõ Dụng vắng lặng, Thể của sinh tử vắng lặng cho nên không phải là tạp loạn. Thế nào là Thể? Nói gần chính là Không, sâu thì chính là Như Lai Tạng Bất Không. Đại Niết-bàn có thể kiến lập về nghĩa của Đại, Diệu Dụng phát khởi đầy đủ không có gì không làm, cho nên không phải là tịch tĩnh. Nay dựa vào cách giải thích sau, hai loại này là cảnh giới Phật và đạo sở hành của Phật gọi là đạo của cảnh giới, bởi vì không khác biệt sinh tử cho nên không phải là nơi khác làm ra, Thể của sinh tử và Niết-bàn không có tướng nhất định, cho nên nói là không có pháp. Các bậc Thánh cùng dựa vào gọi là cùng nương tựa, nghĩa về Như giống với cách giải thích trước.

Bốn, văn về kết luận ca ngợi có hai: Một, nhắc lại văn kết luận trước đây; hai, từ “Bồ-tát sơ phát…” trở xuống là tổng quát kết luận. Văn phần một có bốn:

  1. Nhắc lại Thể của hạnh trước đây kết luận thành tựu hồi hướng Bồ-đề và chúng sinh.
  2. Từ “Dĩ như thị đẳng…” trở xuống là nhắc lại hồi hướng chúng sinh trước đây kết luận thành tựu hồi hướng Thật tế.
  3. Từ “Bồ-tát như thị hồi hướng nhãn chung…” trở xuống là kết luận đã đạt được lợi ích.
  4. Từ “Bồ-tát như thị hồi hướng thời…” trở xuống là hành đức thù thắng vi diệu.

Thứ tư là ca ngợi về đức dụng, văn có ba: Một là nêu ra số, hai là giải thích, ba là kết luận có thể biết.

Trong phần kệ có hai: Một, trường hàng sinh khởi; hai, kệ tụng. Có năm mươi kệ, mười tám tụng đầu về Thể của hạnh, tiếp theo sáu tụng về hồi hướng chúng sinh và Bồ-đề, tiếp theo mười bốn tụng về Thật tế, tiếp theo mười hai tụng là văn kết luận ca ngợi.

Tùy thuận nhất thiết kiên cố thiện căn hồi hướng, có năm: Một là hỏi, hai là đáp, ba là kết luận, bốn là ca ngợi về đức dụng, năm là kệ tụng.

Phần hai là đáp có bốn: Một, trong Thí môn phân rõ về Thể của hạnh; hai, từ “Bồ-tát thiện căn hồi hướng linh nhất thiết chúng sinh…” trở xuống là hồi hướng chúng sinh và Bồ-đề; ba, từ “Bồ-tát Ma-ha-tát dĩ thử thiện căn hồi hướng thời…” trở xuống là hồi hướng Thật tế; bốn, từ “Bồ-tát dĩ nhất thiết thiện căn như thị hồi hướng…” trở xuống là kết luận ca ngợi về đức dụng.

Văn phần một về Thể hạnh có hai: Một là nêu ra rời bỏ ngôi vị Luân Vương, ca ngợi thành tựu Thể của hành đức, có hai có thể biết; hai từ “Nhược thí ẩm thực…” trở xuống phân rõ về Tướng của hạnh. Văn này có bốn:

  1. Tóm lược nêu ra tên gọi các vật đã thí.
  2. Từ “Tác như thị niệm…” trở xuống phân rõ về ý tu hạnh.
  3. Từ “Nhược thí ẩm thời…” trở xuống là mở rộng phân rõ về nghi thức bố thí. Trong đó hoặc là bốn-năm-sáu không nhất định, bốn thì một là người, hai là sự việc vốn có, ba là hồi hướng, bốn là kết luận về phần trước; năm thì thứ ba thêm ruộng phước; sáu thì thứ ba thêm ca ngợi về đức của sự việc, lại có thành tựu tâm thí.
  4. Từ “Thử Bồ-tát dĩ như thị đẳng vô lượng…” trở xuống là kết luận về lợi ích.

Thứ một là nêu ra tên vật đã thí, văn có ba: Một, nêu ra tài sản đã thí trong sáu mươi chương môn; hai, từ “Tâm bất tham trước…” trở xuống là phân rõ về tâm thí không nhiễm trước; ba, từ “Nhược chư chúng sinh…” trở xuống là phân rõ về ruộng phước đã thí.

Thứ hai về ý tu hạnh, văn có hai: Một, phân rõ về ý hồi hướng của thí; hai, từ “Bồ-tát như thị hồi hướng dĩ…” trở xuống là trình bày về hồi hướng đã thành tựu.

Thứ ba là mở rộng, văn tuy có một trăm hai mươi việc nhưng tất cả đều thâu nhiếp ở trong sáu mươi môn. Phần này có hai ý: Một là bởi vì thuận với ba hồi hướng cho nên nhất định thuận với kiên cố, hai là bởi vì thuận với kiên cố cho nên đạt được ba hồi hướng, điều này có thể dựa theo. Vả lại, nay vật đã xả thí này đều gồm chung ba nghĩa, một là Phần đoạn y chánh, hai là Biến hóa y chánh, ba là Biến dịch y chánh, có thể dựa theo suy nghĩ chọn lấy. Địa tiền có đủ năm Sinh thân, cho nên nương theo bốn Luân vận dụng vượt qua tám nạn. Một là ở Chánh quốc, từ đây vượt qua ba đường ác, châu Bắc Câu-lô và cõi trời Trường

Thọ; hai là Chánh sĩ vượt qua thời gian trước và sau Phật xuất thế, ba là Bổn công đức vượt qua các căn không đầy đủ, bốn là Bình đẳng nguyện vượt qua Thế trí biện thông. Vả lại, Chánh quốc luân là cõi Pháp tánh Chân như, dựa vào Chánh sĩ luân là Chánh quán Bát-nhã, Bổn công đức luân là năm Ba-la-mật như Thí…, Bình đẳng nguyện luân là mười loại Đại nguyện vô tận của Bồ-tát, hạnh thanh tịnh của Bồ-tát đầy đủ nhờ vào đây.

Thứ tư trong phần kết luận ca ngợi có hai: Một là ca ngợi về lợi ích; hai từ “Bồ-tát nhĩ thời…” trở xuống là vui mừng được thành tựu lợi ích. Hai văn này đều có hai: 1-Giải thích, 2-Kết luận thành tựu cứu cánh.

Hai là văn về Thật tế, có hai: Một là nhắc lại Thể của hạnh trước đây; hai từ “Ư thân khẩu ý nghiệp vô phược trước…” trở xuống là chính thức hồi hướng Thật tế. Ở trong phần chính thức hồi hướng này có năm:

  1. Dựa theo trí tiến vào quán để phân rõ về thành tựu hạnh.
  2. Từ “Bồ-tát như thị hồi hướng thời bất trước nội…” trở xuống là trình bày về sự lìa xa.
  3. Từ “Bồ-tát nhược ư thử pháp trung…” trở xuống là phân rõ về lợi ích.
  4. Từ “Hà dĩ cố…” trở xuống là giải thích về thành tựu.
  5. Từ “Bồ-tát như thị kiến pháp…” trở xuống là kết luận nói về đúng sai. Văn này có chín câu sinh khởi lẫn nhau có thể biết. Văn trước nói Thiền đầu, là chúng sinh có hình-có Thể gọi là Thiền đầu, nay không có tưởng ấy.

Trong phần bốn là kết luận ca ngợi có bốn: Một, Bồ-tát… là tổng quát giải thích về Thể dụng; hai, từ “Hồi hướng giả hà nghĩa…” trở xuống là kết luận về tên gọi và ý nghĩa của hồi hướng; ba, từ “Bồ-tát nhược năng dĩ thử…” trở xuống là ca ngợi về đức của hạnh hồi hướng; bốn, từ “Bồ-tát như thị hồi hướng dĩ…” trở xuống là kết luận về lợi ích.

Phần kệ có hai: Một, trường hàng; hai, kệ tụng. Có tám mươi hai kệ, bốn mươi tám tụng đầu về Thể của hạnh và hai loại hồi hướng, tiếp theo từ “Bồ-tát quán…” trở xuống có ba mươi hai tụng là văn về Thật tế, sau cuối hai tụng là văn kết luận ca ngợi. Hiểu rõ ràng Bồ-đề từ duyên khởi đối với tánh chân thật của pháp không có gì hư hoại, là Dụng không trái ngược với Thể.

Đẳng tâm tùy thuận nhất thiết chúng sanh, có năm: Một là hỏi, hai là đáp, ba là kết luận, bốn là ca ngợi về đức dụng, năm là kệ tụng.

Phần hai là đáp có bốn: Một, phân rõ về Thể của hạnh; hai, từ “Bồ-tát ly cấu thanh tịnh…” trở xuống là hồi hướng chúng sinh và Bồđề; ba, từ “Bồ-tát tu hành như thị thiện căn…” trở xuống là hồi hướng Thật tế; bốn, từ “Bồ-tát hành như thị…” trở xuống là kết luận ca ngợi về dụng thù thắng.

Văn phần một về Thể có ba: Một, phân rõ về Thể của hạnh; hai, từ “Bồ-tát hành như thị…” trở xuống là phân rõ về Dụng của hạnh có hai, một là lìa ác, hai là sinh đức; ba, từ “Bất cầu sinh Thiên…” trở xuống là phân rõ về ý tu. Phần này có hai ý: Một là tùy theo căn thiện của chúng sinh khác đã làm, bởi vì không trái ngược với thiện mà khiến cho tiến lên; hai là từ căn thiện của Bồ-tát tùy theo ba phẩm căn tánh của chúng sinh mà trao cho, điều này có thể dựa theo để suy nghĩ.

Văn phần hai về chúng sinh và Bồ-đề có hai: Một là phân rõ về tu hạnh; hai từ “Bồ-tát dĩ thử thiện căn…” trở xuống là chính thức trình bày về hồi hướng. Văn phần một là tu hạnh có hai: Một, phần mình; hai, từ “Tu tập bình đẳng…” trở xuống là tăng thượng về tu. Văn phần một là phần mình có năm:

  1. Phân rõ về duyên của sở y, đó là căn thiện;
  2. Từ “Bồ-tát phục tác thị niệm…” trở xuống trình bày về dựa vào duyên mà khởi tâm, trong đó phân làm ba có thể biết;
  3. Từ “Bồ-tát như thị…” trở xuống là hiển bày về tâm có đủ đức;
  4. Phân rõ về thời gian;
  5. Từ “Phục thứ Bồ-tát…” trở xuống là mở rộng phân rõ về vật đã thí.

Trong phần hai là tăng thượng về Thí có hai:

  1. Phân rõ về tâm Thí;
  2. Từ “Bồ-tát phục tác thị niệm…” trở xuống là trình bày về tâm có đủ đức.

Trong phần hai chính thức hồi hướng có hai: Một, chính thức hồi hướng; hai, từ “Như thị Bồ-tát…” trở xuống là kết luận về đức tự tại. Phần này có hai:

  1. Phần mình.
  2. Từ “Dĩ như thị đẳng…” trở xuống là thắng tiến có thể biết.

Văn về Thật tế có hai: Một, nhắc lại lợi ích trước đây; hai, từ “Bồtát như thị đẳng…” trở xuống là chính thức trình bày về Thật tế. Văn phần một có năm:

  1. Lìa cấu nhiễm.
  2. Trình bày về pháp đạt được.
  3. Trình bày về không gì sánh bằng.
  4. Hướng về quả so sánh, phần này có hai, một là tổng quát, hai là riêng biệt.
  5. Kết luận thành tựu đầy đủ đức. Phần hai là chính thức hồi hướng pháp giới, văn tướng rõ ràng có thể biết.

Văn phần bốn là kết luận ca ngợi có thể biết.

Phần kệ có hai: Một, trường hàng; hai, kệ tụng. Có bốn mươi hai kệ, hai tụng đầu về Thể, tiếp theo mười bảy tụng về chúng sinh và Bồđề, tiếp theo bảy tụng về Thật tế, tiếp theo mười sáu tụng là văn kết luận ca ngợi.

Như tướng, có năm: Một là hỏi, hai là đáp, ba là kết luận, bốn là phân rõ về lợi ích, năm là kệ tụng.

Phần hai là đáp có bốn: Một, Thể của hạnh; hai, từ “Bồ-tát dĩ thử…” trở xuống là hồi hướng chúng sinh và Bồ-đề; ba, từ “Bồ-tát thiện căn như thị…” trở xuống là hồi hướng Thật tế; bốn, từ “Bồ-tát như thị hồi hướng thời…” trở xuống là kết luận ca ngợi về Dụng thù thắng.

Văn phần một về Thể có ba: Một là quy tụ Thể của căn thiện; hai từ “Bồ-tát như thị…” trở xuống là thâu nhiếp giúp đỡ thành tựu Chánh hạnh, cũng có thể thâu nhiếp nhân giúp cho quả, trong này có hai, một là thâu nhiếp, hai là phân rõ tướng của quán; ba, từ “Bồ-tát dĩ như thị đẳng…” trở xuống là thành tựu Đại dụng tự tại của ba nghiệp. Trong phần Đại dụng này có hai: Một là trình bày về nơi hướng đến của tâm tức là tóm lược, ba nghiệp tức là ba, một câu đầu là thân, tiếp theo một câu là khẩu, tiếp theo về sau đều là ý mà thôi; hai từ “Nhất Phật thế giới…” trở xuống là kết luận tóm lược hiển bày mở rộng. Phần này có hai ý: Một, căn thiện này là như tướng của ngôi nhà cho nên hồi hướng ba nơi; hai, bởi vì Thể như nhau không ngăn ngại cho nên hồi hướng ba nơi.

Văn phần hai là hồi hướng chúng sinh và Bồ-đề có năm: Một, tổng quát trình bày về hồi hướng; hai, từ “Bồ-tát như thị hồi hướng tu…” trở xuống phân rõ về hạnh rộng lớn cứu cánh; ba, từ “Phục thứ Bồ-tát…” trở xuống đối với sự phân rõ về nghi thức thành tựu hạnh, phần này có hai có thể biết; bốn, từ “Bồ-tát thiện căn như thị…” trở xuống phân rõ về ý tu; năm, từ “Như thị Bồ-tát trưởng dưỡng…” trở xuống là hồi hướng công sức đã thành tựu.

Văn phần ba là Thật tế. Hồi Hướng trong phần này cùng với trên dưới có gì khác nhau? Các Hồi Hướng thâu nhiếp Tướng thuận theo Thể, trong này thì thâu nhiếp Tướng thuận theo Tướng, điều này có thể suy nghĩ chính xác. Có ba: Một, trình bày về Thể dụng hồi hướng; hai, từ “Thiện giải hồi hướng…” trở xuống là nguyên cớ thành tựu thù thắng; ba, từ “Như như…” trở xuống là dựa theo pháp mở rộng phân rõ. Phần một về Thể dụng có ba:

a) Phân rõ về Thể.

b) Từ “Thuận Như Lai đạo…” trở xuống là trình bày về Dụng.

c) Từ “Quán sát tịch diệt…” trở xuống là kết luận về hai phần trước. Trong phần thứ hai là nguyên cớ về Dụng thù thắng: Đầu là nêu ra ý, tiếp từ “Như thị Bồ-tát…” trở xuống là giải thích, ba từ “Như pháp môn…” trở xuống là dựa theo pháp phân rõ về thành tựu. Trong phần thứ ba là mở rộng phân rõ có một trăm câu, một câu đầu làm quy phạm, những câu sau là dựa vào hồi hướng mà thôi. Vả lại, trong văn mở rộng phân rõ có ba loại Ngôn thuyết: Thứ nhất chọn lấy không chấp trước, thứ hai chọn lấy pháp thi thiết, thứ ba chính thức chọn lấy sự việc giảng giải về giáo pháp. Trong văn có ba loại Thời, một là chỉ có pháp, hai là chọn thời để luận về pháp, ba là thời và pháp cùng luận. Như vậy dựa vào văn lần lượt mà lược bỏ, thì biết về nguyên cớ.

Quá khứ không phải là giống nhau, bởi vì không phải là cùng một pháp diệt. Vị lai không phải là vốn có, bởi vì không phải là sau hiện tại. Hiện tại không phải là khác nhau, bởi vì không phải là hai đời trướcsau và pháp cùng loại của mình khác nhau. Điều này cũng trái với cách nhìn của người ngoài, suy nghĩ có thể biết.

Trong phần bốn là kết luận ca ngợi: Ba câu đầu kết luận ca ngợi về hồi hướng chúng sinh và Bồ-đề, tiếp từ “Đẳng quán chư Phật vô hữu nhị…” trở xuống là kết luận ca ngợi về đức dụng Thật tế.

Thứ tư là văn về thành tựu lợi ích phân hai: Một là phân rõ về đức, hai là kết luận có thể biết.

Thứ năm là trùng tụng có hai: Một, trường hàng; hai, kệ tụng. Có hai mươi chín kệ, hai tụng đầu về Thể hạnh, tiếp theo bốn tụng về chúng sinh và Bồ-đề, tiếp theo chín tụng về Thật tế, tiếp theo mười bốn tụng kết luận ca ngợi về đức dụng.

Vô phược vô trước giải thoát tâm, có năm: Một là hỏi, hai là đáp, ba là kết luận, bốn là phân rõ về đức, năm là kệ tụng.

Phần hai là đáp có bốn: Một, phân rõ về Thể của hạnh; hai, từ “Ma-ha-tát dĩ vô phược trước…” trở xuống là hồi hướng chúng sinh và Bồ-đề; ba, từ “Ma-ha-tát dĩ như thử vô phược…” trở xuống là hồi hướng Thật tế; bốn, từ “Ma-ha-tát như thị hồi hướng thời…” trở xuống là kết luận ca ngợi về dụng thù thắng.

Văn phần một về Thể có hai: Một là tổng quát phân rõ không khinh thường những pháp thiện, hai từ “Bồ-tát thường lạc nhiếp thọ…” trở xuống là bởi vì không khinh thường rời bỏ, cho nên đối với hành thâu nhiếp đạt được tự tại. Phần này có hai ý: Một là bởi vì căn thiện không ràng buộc vướng mắc cho nên hồi hướng ba nơi, hai là bởi vì căn thiện

thuận với ba nơi cho nên không có gì vướng mắc.

Hai, trong phần hồi hướng chúng sinh và Bồ-đề có hai: Một, phân rõ về ba nghiệp Phổ Hiền; hai, từ “Tùng thử sinh tận vị lai tế sinh…” trở xuống là mở rộng dựa theo sự việc riêng biệt để hiển bày về đạt được tự tại. Văn phần một có bốn:

  1. Tổng quát.
  2. Thân.
  3. Khẩu.
  4. Ý có thể biết.

Trong phần hai mở rộng hiển bày có ba mươi hai:

  1. Đạt được phần vị nhân quả.
  2. Đạt được phương tiện.
  3. Đạt được thân nghiệp.
  4. Đạt được khẩu nghiệp.
  5. Đạt được ý nghiệp.
  6. Thành tựu căn.
  7. Đạt được thần lực.
  8. Tự tại đối với cõi Phật.
  9. Có được nhà.
  10. Đạt được trí Nhân-đà-la.
  11. Đạt được thời gian tự tại.
  12. Thân dung nạp.
  13. Tự tại tiến vào quả vị.
  14. Tự tại tiến vào thế giới.
  15. Biết về tưởng.
  16. Biết về tâm. Trong những loại này đều có hai văn, một là nhận biết, hai là ca ngợi về đức nhận biết.
  17. Biết xứ.
  18. Biết nghiệp.
  19. Biết pháp.
  20. Biết thanh.
  21. Thuyết giảng tự tại.
  22. Biết căn tánh tự tại.
  23. Trí phương tiện nhận biết vi tế. Văn này đều có hai, như trước có thể biết.
  24. Hành phương tiện nhận biết vi tế.
  25. Biết sự vi tế của Bồ-tát tiến vào phần vị Giải.
  26. Biết sự vi tế của Sơ Địa.
  27. Biết sự vi tế của tánh chúng sinh.
  28. Biết sự vi tế của thế giới.
  29. Biết sự vi tế của trí pháp giới.
  30. Biết sự vi tế của trí về kiếp.
  31. Biết sự vi tế của trí về pháp.
  32. Biết sự vi tế của pháp xen tạp sinh ra.

Trong sự nhận biết vi tế trên, vì sao nhận biết về trí mà không nhận biết về pháp, là bởi vì trí có thể hiển bày về pháp thành tựu.

Ba, văn về Thật tế có hai: Một là tiến vào quán, hai là dựa theo ra khỏi quán có thể biết mà thôi.

Bốn, văn về kết luận ca ngợi công dụng thù thắng. Đầy đủ… là đầy đủ hành của nhân quả. Dựa theo phần vị là như vậy, nếu dựa theo hành thì gồm chung tất cả mà thôi.

Văn kệ có hai: Một là trường hàng sinh khởi, hai là chính thức tụng kệ. Có một trăm lẻ hai kệ, sáu tụng đầu về Thể hạnh, tiếp theo bảy mươi tụng về chúng sinh và Bồ-đề, tiếp theo từ “Như thị nhất thiết chư Pháp Vương…” trở xuống là mười tám tụng về Thật tế, tiếp theo tám tụng là văn kết luận ca ngợi.

Pháp giới vô lượng, văn này có sáu: Một là hỏi, hai là đáp, ba là kết luận, bốn là ca ngợi về dụng thù thắng, năm là chứng thành, sáu là kệ tụng. Cũng có thể hai đoạn này bắt đầu xét định thuận theo Hội.

Phần hai là đáp có bốn: Một, đã thành tựu Thể hạnh; hai, từ “Phục thứ Bồ-tát dĩ pháp thí…” trở xuống là hồi hướng chúng sinh và Bồ-đề; ba, từ “Phục thứ Bồ-tát an trú pháp giới…” trở xuống là hồi hướng Thật tế; bốn, từ “Bồ-tát như thị hồi hướng thời…” trở xuống là kết luận ca ngợi về lợi ích thù thắng.

Hỏi: Hồi hướng thứ 10 này cùng với hồi hướng thứ -9 trước đây có gì khác nhau?

Đáp: Hồi hướng thứ tám là hướng về Lý, hồi hướng thứ chín là dựa theo tu mà thành tựu, hồi hướng thứ mười gồm chung cả hai loại và sự việc đã làm.

Phần một về Thể có ba: Một, tổng quát về loại trừ chướng hiển bày đức, văn này có hai:

1. Thọ ký phân rõ về phần vị.

2. Trình bày về lợi ích của Dụng; hai, từ “Bồ-tát hành pháp thí…” trở xuống là tu hành đã hướng đến; ba, từ “Bồ-tát ư bỉ thiện căn…” trở xuống phân rõ về hạnh rộng lớn, phước trí trang nghiêm đã thành tựu tự tại. Phần này có hai ý: Một là dùng Thể của hạnh hồi hướng dựa vào pháp giới đến với ba nơi, hai là Thể của hạnh vốn có chính là pháp giới cho nên có thể hồi hướng đến ba nơi. Văn về hạnh rộng lớn này có bốn: Một là tổng quát trình bày hạnh trang nghiêm trí; hai từ “Chư Phật Bồtát sở tán…” trở xuống là riêng biệt phân rõ về hạnh trang nghiêm; ba từ “Hà dĩ cố…” trở xuống phân rõ về nguyên cớ thành tựu hạnh của mình; bốn từ “Phục hà dĩ cố…” trở xuống giải thích về nguyên cớ tự mình thành tựu có thể làm lợi ích cho chúng sinh.

Phần hai về hồi hướng chúng sinh và Bồ-đề, trong văn có hai: Một, trình bày về không ngừng cung kính, bởi vì ba nghiệp luôn luôn thực hành; hai, từ “Bồ-tát dĩ thử pháp thí…” trở xuống là ba nghiệp khởi dụng không uổng công.

Văn phần một có ba: Một là ý nghiệp thuận theo trí tuệ thực hành; hai từ “Linh nhất thiết chúng sinh giai tất cụ túc…” trở xuống là khẩu nghiệp không trống rỗng; ba từ “Linh nhất thiết chúng sinh đắc tịnh Pháp thân…” trở xuống là thân nghiệp không trống rỗng.

Trong phần một là ý nghiệp có mười môn, như biết pháp… có thể biết.

Một, khiến cho mình và người đạt được pháp môn vô tận của Phật, văn này có năm: Một, lập Tông; hai, từ “Dĩ thử…” trở xuống là tổng quát phân rõ về đức dụng ấy; ba, từ “Tất đắc…” trở xuống là đạt được pháp Phật; bốn, từ “Ư nhất nhất…” trở xuống là thuật về công năng của mình. Trong đó có hai: Một là tổng quát đưa ra mười môn, ở trong văn này thì mười Hải ấy là:

  1. Tên gọi sinh pháp là tướng lập nghĩa,
  2. Tướng dẫn chứng,
  3. Phép tắc của ngôn ngữ phương hướng,
  4. Thi thiết tên gọi đối với nghĩa,
  5. Văn giáo thành quy phạm,
  6. Phép tắc tuyên thuyết,
  7. Sở y môn,
  8. Trí năng nhập,
  9. Cảnh và trí giúp đỡ thành tướng,
  10. Nghĩa tồn tại không thay đổi.

Năm, từ “Bồ-tát thiện căn như thị…” trở xuống là trình bày về thành tựu. Hai là văn mở rộng phân rõ có thể biết mà thôi.

Hai, từ “Phục thứ Bồ-tát…” trở xuống trình bày về thành tựu đức do tự mình hồi hướng. Ba, từ “Bồ-tát phục tác thị niệm…” trở xuống là khiến cho cùng đạt được giống như mình. Bốn, từ “Phục thứ Bồ-tát dĩ thử đẳng…” trở xuống là duyên thành tựu tánh đức. Năm, từ “Phục thứ Bồ-tát dĩ thử thiện căn…” trở xuống là hạnh thành tựu được Phật tùy hỷ. Sáu, từ “Bồ-tát dĩ thử thiện căn như thị…” trở xuống là phân rõ về nơi nương tựa của hồi hướng, văn này có hai, đó là Phật và pháp giới có thể biết. Bảy, từ “Phục thứ Bồ-tát…” trở xuống là phân rõ về ý hướng đến. Tám, từ “Bồ-tát Ma-ha-tát…” trở xuống là đạt được Dụng tự tại. Chín, từ “Bồ-tát dĩ thử thiện căn như thị hồi hướng…” trở xuống là dùng hạnh thành tựu phần vị có hai, một là trình bày về pháp lìa xa, hai là phân rõ về pháp đạt được có thể biết. Mười, từ “Bồ-tát như thị bình đẳng tâm…” trở xuống là phần vị nương tựa thành tựu Dụng của hạnh thù thắng, văn này có bốn:

  1. Phân rõ về Thể của hạnh hồi hướng.
  2. Từ “Linh nhất thiết chúng sinh…” trở xuống là trình bày về ý hồi hướng, phần này có hai, một là phần mình, hai là thắng tiến có thể biết.
  3. Từ “Bồ-tát thiện căn như thị…” trở xuống là trình bày về pháp lìa xa, văn này có ba, một là thiết lập, hai là vặn hỏi, ba là đáp có thể biết.
  4. Từ “Bồ-tát như thị hồi hướng thời…” trở xuống là trình bày về lợi ích khởi hạnh.

Phần thứ hai là khẩu nghiệp có thể biết. Phần thứ ba là văn về thân nghiệp phân ba: Một là phân rõ về Thể của thân; hai là trình bày về Đức của thân; ba là phân rõ về Dụng của thân, phần này có ba:

  1. Tổng quát.
  2. Riêng biệt.
  3. Kết luận.

Phần hai là ba nghiệp khởi dụng không uổng công, văn có hai: Một, từ “Phục thứ Bồ-tát tu thiện…” trở xuống là phân rõ đầy đủ về ba nghiệp; hai, từ “Như thị Bồ-tát…” trở xuống là thành tựu hạnh không uổng công. Một là trình bày đầy đủ về ba nghiệp, văn có hai: Một, phân rõ về vật báu trang nghiêm; hai, từ “Quảng thuyết hương hoa đẳng…” trở xuống tương tự phân rõ về mười môn trang nghiêm.

Văn phần một có bốn: Một là phân rõ về cảnh đã cúng dường, đó là Phật…; hai từ “Bỉ nhất nhất sát…” trở xuống là đồ vật cúng dường; ba từ “Bồ-tát phục tác thị niệm…” trở xuống là lấy tóm lược để nêu rõ mở rộng; bốn từ “Thị vi Bồ-tát đẳng…” trở xuống là kết luận. Một là trong cảnh cúng dường, đầu là tổng quát, sau là riêng biệt. Trong phần riêng biệt, y chánh phân hai. Hai là đồ vật cúng dường có bốn: Một, trình bày về cúng dường vật báu riêng biệt có một trăm câu; hai, từ “Bảo thân trang nghiêm…” trở xuống có tám câu trình bày về hạnh của ba nghiệp; ba, từ “Bảo nhãn…” trở xuống là diệu dụng của sáu căn; bốn, từ “Bảo thân nghiệp…” trở xuống cuối cùng dùng ba câu thành tựu về trí dụng của ba nghiệp. Trong phần hai là thành tựu hạnh không uổng công của ba nghiệp có hai: Một, khiến cho chúng sinh thành tựu hạnh của phần mình; hai, từ “Bồ-tát phục tác thị niệm…” trở xuống là khiến cho thành tựu hạnh thuộc phần thù thắng. Hai phần trên đây đều có hai đoạn nên biết.

Ba từ “Phục thứ Bồ-tát an trú pháp giới…” trở xuống là hồi hướng Thật tế có thể biết.

Bốn là văn về lợi ích của Dụng có hai: Một, nhắc lại các hạnh trước; hai, từ “An trú pháp giới đẳng vô lượng tịnh thân…” trở xuống là dựa vào hạnh thành tựu ba nghiệp thù thắng. Đoạn lớn thứ ba từ “Thị vi…” trở xuống là văn kết luận có thể biết. Bốn là ca ngợi về đức có hai: Một, trình bày đã thành tựu các đức rộng lớn của Phổ Hiền; hai, từ “Ư niệm niệm trung…” trở xuống là trình bày về tất cả việc làm, riêng biệt ca ngợi phần mình thành tựu tác dụng thù thắng của tự-tha.

Trên đây dựa vào kinh, là pháp Nhất thừa thông suốt mà không phải là giới hạn. Tiếp theo trình bày về pháp của ba Thừa dựa vào phần vị như kinh:

Một Đế-hai Đế thẳng thắn trong tâm của Hướng thứ nhất, đó gọi là học tập Đệ nhất nghĩa đế, bởi vì quán sát tướng Như của tất cả các pháp không thể đạt được, dùng Từ-Bi-Hỷ-Xả giảng dạy cho người và sáu cõi trời, cạo tóc khoác ca-sa Tam Bảo, Bồ-tát xuất gia cùng với tất cả Tăng, Phật pháp không hai, vốn là thanh tịnh bậc nhất.

Đệ nhất nghĩa trí trong Hướng thứ hai, năm thần thông là dụng sai biệt của tánh Tuệ, tức là dùng sáu Thông làm cảnh của Quán.

Trong Hướng thứ ba, ở trong Tuệ vô sinh là bốn thanh tịnh bất hoại, ở trong giới của Phật-Pháp-Tăng là Tín không thể hủy hoại.

Phần lượng giống như Phật lực trong Hướng thứ tư, đó gọi là ba tướng, là các pháp vốn không, cho nên mượn gọi là Sinh; đã có rồi trở lại không, mượn gọi là Diệt; không phải trống rỗng mà có pháp, mượn gọi là Trú. Vì vậy tất cả thông suốt Không mà không hai, gọi là tướng Thế đế, Không Không là tướng một Đế.

Khéo léo lường tính năng lực của chúng sinh trong Hướng thứ năm, đó gọi là năm Ấm, Sắc là khác Không, Sắc tụ tập trở thành phần Sắc của Đại, cho nên tướng của Sắc là Không; từng sát-na nối tiếp nhau trở thành Tâm, cho nên tướng của Tâm là Không; Thọ-Tưởng-Hành không có tụ tập-không có phân tán, vốn là một tướng Vô tướng.

Lực giáo hóa của Phật trong Hướng thứ sáu, đó gọi là mười hai Nhập, sáu cảnh bên ngoài-sáu căn bên trong làm nơi tiến vào của Thức, cho nên gọi là Nhập. Tuệ ấy quán sát, không ở bên ngoài, không ở bên trong, không ở khoảng giữa, bởi vì tất cả các pháp không có tự tha.

Trí hướng đến vô ngại trong Hướng thứ bảy, là mười tám pháp bất cọng, sáu cảnh-sáu căn-sáu thức là một hợp tướng, tất cả các pháp cũng như vậy.

Trí tùy thuận tự nhiên trong Hướng thứ tám, đó gọi là nhân quả, thiện-ác gọi là nhân, khổ-vui gọi là quả. Đã dựa vào là nhân, đã phát khởi là quả, nhân Không-quả Không, không có sinh-không có diệt, đều là một hợp tướng.

Thọ Phật-Pháp-Tăng trong Hướng thứ chín, gọi là hai đế Không; nhân duyên tụ tập, gọi đó là có, không phải nói có là có; nhân duyên phân tán, gọi đó là không có, không phải nói không có là không có, do đó có và không cả hai tướng đều không có.

Trong Hướng thứ mười dùng Tuệ tự tại giáo hóa tất cả chúng sinh, đó gọi là Trung đạo Đệ nhất nghĩa đế, Bát-nhã ở giữa(xử trung) mà thông hiểu tất cả các pháp nhưng không có hai tướng, chuyển sang tăng lên tiến vào Thánh địa, gọi là quán Tương tự Đệ nhất nghĩa đế, không phải là quán Chân thật, Sơ Địa trở lên là quán Chân thật.

Đây là ba Thừa dựa vào phần vị mà nói. Sở dĩ biết như vậy là vì trong kinh trình bày từ ba mươi tâm trở về trước đều là pháp của phàm phu chứ không phải là Thánh vị. Sơ Địa trở lên trong kinh vốn không gồm chung ba Thừa, bởi vì thiết lập về giáo nghĩa ấy văn tướng phần nhiều giống nhau, cho nên không cần phải phân tích.

Từ “Nhĩ thời Phật thần lực cố động địa…” trở xuống là phần thứ năm trình bày về chứng minh thật sự hiển bày thành tựu, văn này có hai: Một, mặt đất chấn động, mưa hoa… là chứng minh thành tựu; hai, nói là Bồ-tát mười phương đều tụ hội, là phần thứ hai trình bày về các Thánh chứng minh thành tựu khuyến khích tin tưởng lưu thông. Ở trong hai văn đều có hai, đó là phân rõ về tướng và kết luận nối thông với phương khác.

Trong phần kệ thì đầu là ý, sau là tụng. Văn tụng có chín mươi bốn tụng, mười bốn tụng đầu về Thể của hạnh, nói rằng Diệu trí Vô tướng quán sát về tướng chân thật của pháp là Dụng cuối cùng dựa vào Thể, tận cùng hành của thế gian cho nên kỳ diệu nhất; tiếp theo từ “Bồ-tát pháp thí…” trở xuống là sáu mươi tám tụng về chúng sinh và Bồ-đề; tiếp theo từ “Thí như như…” trở xuống là hai tụng về Thật tế; tiếp theo từ “Như thị thù diệu…” trở xuống là mười tụng kết luận ca ngợi. Ngay trong phần chúng sinh và Bồ-đề, tám tụng đầu về thực hành ba nghiệp thuận theo trí, tiếp theo từ “Thập phương nhất thiết…” trở xuống là hai mươi tụng về thân nghiệp không trống rỗng, tiếp theo từ “Cung kính…” trở xuống là hai mươi hai tụng về khẩu nghiệp, tiếp theo từ “Chúng sinh số đẳng…” trở xuống là mười tám tụng về ý nghiệp… Hội này trả lời câu hỏi về Hồi Hướng trước đây mà thôi.

 

Pages: 1 2 3 4 5