BÁT NHÃ ĐĂNG LUẬN THÍCH
Tác giả: Bồ tát Long Thọ tạo luận, Bồ tát Phân Biệt Minh giải thích.
Hán dịch: Đời Đường, Tam tạng Pháp sư Ba La Phả Mật Đa La, người Trung Ấn Độ.
Việt dịch: Linh Sơn Pháp Bảo Đại Tạng Kinh
Hội Văn Hóa Giáo Dục Linh Sơn Đài Bắc Xuất Bản
QUYỂN 14
Phẩm 23 : QUÁN ĐIÊN ĐẢO
Thích: Nay phẩm này, cũng là ngăn chấp, là chỗ đối trị của “không”, hiểu điên đảo là không có tự tánh, cho nên nói. Người của Tự bộ nói: vì có phân biệt nên khởi các phiền não. Như thế, phiền não từ điên đảo khởi, vì điên đảo khởi nên thời có tham… Kia nếu không có thì nghĩa chẳng tương ưng. Cho nên luận kệ nói:
Phân biệt khởi phiền não
Nói có tham, si kia v.v…
Điên đảo thiện, bất thiện
Từ duyên này mà khởi.
Thích: Trong các luận nói tham, sân… tùy thứ lớp khởi các thiện bất thiện, nghĩa là ái phi ái từ duyên này khởi, chẳng phải chẳng từ duyên, nên biết chẳng chánh tư duy phân biệt, có thể làm duyên khởi phiền não. Trong đây lập nghiệm: Trong đệ nhất nghĩa các ấm… có tự thể, ấm… trong đệ nhất nghĩa ấy từ nhân duyên khởi. Thí như tham… Nếu không có tự thể chẳng từ duyên khởi, thì thí như hư không hoa.
Luận giả nói: nghĩa ấy chẳng đúng. Như luận kệ nói:
Ái, phi ái điên đảo
Đều từ duyên này khởi
Ngã không có tự thể
Phiền não cũng chẳng thật.
Thích: Chẳng phải thật nghĩa là phiền não tham v.v…. chẳng phải khởi trong đệ nhất nghĩa, vì thế nên ông thiếu thí dụ, lập nghĩa có lỗi. Nếu ông nói Ngã lấy thế để làm dụ, chẳng phải đệ nhất nghĩa thì tức không có pháp được thành lập. Nếu ở trong thế đế có thành lập thì ngược lại thành nghĩa ngã. Như luận kệ nói:
Ngã hoặc có hoặc không
Cả hai đều chẳng thành
Nhân ngã có phiền não
Ngã không kia chẳng khởi.
Thích: Đây nói ngã là chẳng phải thế đế được thành, cũng chẳng phải trong đệ nhất nghĩa được thành. Vì thế cho nên, nếu lìa ở ngã thì phiền não chẳng có. Vì sao vậy? Vì năng y không có “thể” nên sở y cũng không có “thể”. Vì triển khai nghĩa này nên như kệ nói. Nhân ngã có phiền não thì phiền não là pháp của ngã cũng là đối tượng được thọ dụng. Song ngã tự thể không thành. Như trong phẩm Quán ngã, quán phiền não không có chỗ có thể nương tựa, nghiệm ấy như vậy. Trong đệ nhất nghĩa tham… đều không có, vì ngã để y chỉ không có “thể” nên thí như Thạch nữ không sinh con. Sao được nói con sắc trắng đen ư? Người của Tự bộ nói: tuy không có ngã nhưng tâm và phiền não hòa hiệp nên có phiền não khởi, mà phiền não là pháp trên tâm, ông lập nghĩa vô ngã thì nhân ấy chẳng thành. Luận giả nói: ông nói chẳng phải. Lỗi ấy như luận kệ nói:
Ai có phiền não kia
Có nghĩa thì chẳng thành
Nếu lìa chúng sinh ấy
Phiền não tức không thuộc.
Thích: Đây nói phiền não là chúng sinh thì đối với tất cả xứ tìm cầu chúng sinh chẳng thể có được. Nếu lìa chúng sinh phiền não không thuộc tâm khởi thì trước đã ngăn, cũng trừ bỏ chấp tự thể của thức, cũng ngăn có thật, nghĩa tâm theo ông chẳng thành, chẳng phải ngã, nghĩa nhân chẳng thành. Người của Tự bộ nói: ông chấp nhận nghĩa không có phiền não tức lấy “không có” làm “thể”, “thể” của không có “thể” thành. Nên các “thể” lại xen nhau với tướng của không có “thể”. Luận giả nói: nay ông muốn được các thể như bình như lụa và các vật khác… có ấy, vì là “thể”, vì là không có “thể”, mà nói có thể khởi có nhân giác chăng! Muốn khiến bình là không có “thể” tức là chẳng nên nói bình này và sắc xanh vàng đen… hòa hiệp. Cũng không nên nói sắc xanh vàng đen… chỉ cho người biết. Nếu có bình lụa xứ của không có “thể” không thể nói thì sắc xanh vàng đen… cũng chẳng có thể chỉ rõ cho mọi người. Vì không có chỗ y chỉ nên các phiền não ấy rốt ráo là nghĩa không chủ, không “thể”, như con thạch nữ không có tướng xanh vàng có thể nói. Cho nên lấy “không có” làm “thể” nghĩa ấy chẳng thành. Nay sẽ tiếp tục trả lời người của Tự bộ v.v… như luận kệ nói:
Thân khởi phiền não kiến
Duyên ở ngã, ngã sở
Tâm phiền não và nhiễm
Năm cầu chẳng thể được.
Thích: Danh, sắc tụ tập nhân đó gọi là thân. Duyên ở tự thân khởi kiến giải nhiễm ô, ấy gọi là thân kiến. Tham v.v… ba thứ với nghĩa này đồng. Như trong phẩm Quán Như Lai kệ nói: chẳng ấm chẳng lìa ấm. Trong ấm không Như Lai, trong Như Lai không ấm, chẳng phải Như Lai có ấm, các phiền não cũng như. Trong năm thứ không phiền não tức năng khởi khổ cho nên gọi là phiền não, nhiễm là chẳng phải phiền não. Nay vì ngăn nghĩa nghĩa chẳng khác. Nếu nhiễm là tức phiền não thì năng thiêu sở thiêu đồng, mắc lỗi về một. Cũng chẳng khác phiền não có nhiễm thì nghĩa này như trước đã ngăn. Lại nếu khác phiền não được có nhiễm thì tức lìa phiền não riêng có người nhiễm. Cho nên thể khác chẳng thành. Trong người nhiễm cũng không phiền não. Trong phiền não cũng không có người nhiễm, cũng chẳng phải người nhiễm có phiền não. Như thế, năm thứ cầu phiền não đều không có “thể”, vì phiền não không có “thể” nên tức không có chủ thể thành lập pháp. Là ông thí dụ có lỗi. Như luận kệ nói:
Ái phi ái điên đảo
Vốn không có tự thể
Lấy những gì làm duyên
Mà năng khởi phiền não.
Thích: Như trong pháp ta, ái phi ái điên đảo xưa nay không có “thể”. Vì vậy cho nên, trong đệ nhất nghĩa phiền não chẳng phải là pháp từ duyên khởi, không có chủ thể thành lập pháp, nên là lỗi của ông lập nghĩa. Lại nữa, có người Tự bộ nói: sắc… sáu vật có thể khởi điên đảo. Vì sao không có ư? Kia nói không có, nghĩa ấy chẳng như vậy.
Cho nên luận kệ nói:
Sắc, thanh, hương, vị, xúc,
Và pháp là sáu thứ
Ái phi ái làm duyên
Ở vật khởi phân biệt.
Thích: Đây nói duyên sáu thứ vật có thể khởi các phiền não. Trong đây nói nghiệm: Trong đệ nhất nghĩa có ái phi ái điên đảo làm duyên có thể khởi tham sân si… Trong đệ nhất nghĩa, vật có “thể”. Nếu nói không có tức chẳng phải sáu vật thể. Thí như nhãn thức của người mù bẩm sinh, lại tham sân… có thể khởi điên đảo phân biệt. Như chõ tôi nói thì nhân có lực nên có các điên đảo. Vì nhân duyên ấy thí dụ không có lỗi.
Luận giả nói: ông nói chẳng phải, đều là hư vọng. Như luận kệ nói:
Sắc thanh hương vị xúc
Và pháp thể sáu thứ
Như thành Càn-thát-bà
Như dợn nắng cũng như mộng.
Thích: Tự thể của những thứ ấy đều không có tự thể, thế lực phần hạn cũng không có cho đến lỗi thế đế phỉ báng cũng không. Không có lỗi gì? Vì không có vật này, vì sao nói như thành Càn-thát- bà? Vì thời xứ… mọi người cùng thấy đó gọi là như thành Càn-thát-bà. Vì sao như dợn nắng? Thí như người ngu thấy lúc hơi nóng bốc lên, nói là nước, đuổi theo đến độ không thôi, uổng mình vất vả rốt cuộc không được gì. Như vậy tất cả các pháp tự thể đều “không”, phàm phu tham đắm pháp cũng lại như vậy. Cho nên nói như dợn nắng. Vì sao như mộng? Có lúc có những suy nghĩ, nhớ về thể nhân quả và tất cả pháp không có tự thể, đó gọi là như mộng. Hoặc có trong sắc thì như luận kệ nói:
Hoặc ái hoặc phi ái
Chỗ nào sẽ có được?
Giống như người huyễn hóa
Cũng như bóng trong gương.
Thích: Trong đệ nhất nghĩa, ái chẳng phải ái đều không thể có được. Vì sao? Vì trong đệ nhất nghĩa sắc tượng… tự thể “không”. Vì sao như người huyễn hóa. Vì ở cảnh giới chẳng thật hiển hiện tương tợ. Vì sao như bóng. Chẳng đợi công người mà có thể khởi hiện, cùng hình tương tợ. Vì nhân duyên ấy, ông trước nêu ra nhân, lập nghĩa… chẳng thành. Như luận kệ nói:
Như chẳng nhân ái kia
Thì không có chẳng ái
Nhân ái có chẳng ái
Cho nên không có ái
Không chẳng ái đợi ái
Không ái đợi chẳng ái
Hoặc lấy ái làm duyên
Thiết lập có chẳng ái.
Thích: Ái không có tự thể, nghĩa ấy như vậy. Vì thế nên chẳng tương ưng có “chẳng ái”. Vì “chẳng ái” không có “thể”, ái chẳng đợi “chẳng ái”, mà nói có ái thì cũng không đúng. Như luận kệ nói:
Không có các khả ái
Chỗ nào sẽ khởi tham
Chẳng ái nếu không “thể”
Chỗ nào sẽ khởi sân.
Thích: Hai thứ kia không có “thể” cho nên si cũng không có “thể”. Thế nên như lỗi đã nói, nay trở lại ở ông. Người của Tu đa la nói. Trong đệ nhất nghĩa có ái chẳng phải ái điên đảo như vậy. Như trong kinh Phật nói. Nếu trong kinh đã nói thì phải biết là có. Thí dụ như nói vô ngã nhất định là có vô ngã. Nay trong kinh hiện có lời nói này: Nghĩa là vô thường chấp thường, vô ngã chấp ngã, vô lạc chấp lạc. Bất tịnh chấp tịnh, đó gọi là điên đảo. Vì nghĩa ấy nên trong đệ nhất nghĩa có ái, chẳng phải ái điên đảo như vậy. Luận giả nói đối trong thế đế có ái phi ái điên đảo, chẳng phải trong đệ nhất nghĩa có. Thế nên, tôi nói không có lỗi. Như luận kệ nói:
Ở trong đệ nhất nghĩa
Rốt ráo không điên đảo
Như Lai trọn không nói
Là ngã, vô ngã ấy v.v….
Thích: Trong đệ nhất nghĩa cũng chẳng nói ngã, vô ngã. Ông thí dụ và nêu nhân là không có “thể”. Lại nữa, nếu ý của người Tu đa la nói trong đệ nhất nghĩa chẳng muốn được có điên đảo. Vì sao? Điên đảo ấy có hai thứ: một là tùy thuận sinh tử, hai là tùy thuận Niết-bàn. Vì sao gọi tùy thuận sinh tử? Nghĩa là vô thường, thường đảo, vô ngã ngã đảo, vô lạc lạc đảo, vô tịnh tịnh đảo. Vì sao gọi là tùy thuận Niết-bàn? Nghĩa là đối với “không” chấp “không”, đối với vô thường chấp vô thường. Có như vậy… cho nên gọi là điên đảo. Như người muốn được trí không phân biệt thì nên đoạn hai thứ điên đảo này. Vì là chướng ngại trí tuệ. Người của Tự bộ nói: Nếu đối với vật vô thường khởi kiến vô thường là điên đảo thì nghĩa ấy chẳng như vậy. Luận giả nói: vậy điên đảo ấy chính là nghĩa gì? Người Tự bộ nói: thật là vô thường, cho rằng thường, đó có thể gọi là điên đảo. Luận giả nói: nói như thế chẳng khéo. Lỗi ấy như luận kệ nói:
Vô thường cho là thường
Gọi là điên đảo chấp
Vô thường cũng là chấp
“Không” sao chẳng là chấp.
Thích: Nói cảnh giới điên đảo do trí kia duyên đây tức là nghĩa điên đảo. Thí như người nói: lìa dục trong ba cõi, vì sao chẳng gọi là giải thoát? Nói như đây tức là giải thoát. Người Tự bộ nói: Ông nay lại nói
vô thường cũng “không”. Vì sao chẳng là đệ nhất nghĩa? Luận giả nói vì không có khởi. Nghĩa không khởi này về đạo lý như trước đã ngăn. Thí như Niết-bàn không có khởi cũng không có vô thường. Lại nữa, thể vô thường có thể khởi trí thường phân biệt. Nếu nói là giác ngộ điên đảo chấp thường thì cảnh giới sở duyên không có “thể”. Thế nên, như kệ trước nói: Vô thường cũng là chấp “không”, sao chẳng là “chấp”. Đó tức là điên đảo. Vì sao vậy? Vì có phân biệt thí như chấp thường. Trong đây lập nghiệm: trong đệ nhất nghĩa sắc vô thường ấy, tức là điên đảo, là phân biệt, thí như chấp sắc là thường. Người Tự bộ nói: Trí phân biệt tức là nói các hành “không”, trí ấy chẳng phải hoàn toàn mặt điên đảo. Luận giả nói: cũng là điên đảo, tôi nói không có lỗi. Người Tự bộ nói: nếu như thế thì trí “không” này chẳng phải là được nhân giải thoát mà là đảo. Thí như nội nhập là khổ lạc là cảnh giới của trí. Luận giả nói: Ông trong lập nghĩa là nghĩa gì chăng! Người Tự bộ nói: Trí “không” duyên với mắt chẳng phải là nhân được giải thoát chăng? Luận giả nói: Nếu như vậy ấy, ngược lại thành nghĩa của tôi. Vì sao thành nghĩa của tôi, vì trí không phân biệt đắc giải thoát. Nếu nói mắt “không” thì trí của mắt “không” tức là có phân biệt. Thôi tạm dừng nói việc này, nay trở lại vì ông nói bổn tông của tôi: Như chấp vô thường là thường tức là điên đảo thì vô ngã là ngã, vô lạc là lạc, bất tịnh là tịnh, cũng nói như vậy. Có người Tự bộ lập nghĩa phân biệt nói: có chấp như vậy. Vì có năng chấp, sở chấp, rõ ràng khởi chấp ấy cộng thành có ba thứ, mà chẳng là không có. Luận giả nói: Nghĩa của ông nói chẳng đúng. Như luận, kệ nói:
Người chấp công cụ chấp
Và cảnh giới sở chấp
Tất cả tướng tịch diệt
Thế nên không có chấp.
Thích: Chấp có ba thứ công cụ, người khởi và cảnh giới. Công cụ chấp đó là trí chủ thể duyên tổng các vật thể. Người khởi chấp nghĩa là tâm sở chấp. Hoặc vọng còn đặt để, hoặc sai trái bác bỏ… Lại người phải chấp, nghĩa là người khởi chấp cảnh giới sở chấp nghĩa là cảnh giới thường lạc ngã tịnh… được tính toàn chấp. Ba pháp này đều với tự thể là “không”. Giống như đạo lý chấp ngã, ngã sở, nay muốn khiến cho hiểu rõ công cụ chấp… tất cả là tướng đều tịch diệt. Cho nên không có chấp. Mà người kia chấp do có nói có chấp, khiến cho mọi người hiểu nhưng không có thí dụ. Vì thế cho nên như luận kệ nói:
Vì chấp tánh không có
Nên tà chánh… cũng không
Ai khiến là điên đảo
Ai là chẳng điên đảo.
Thích: Trong đệ nhất nghĩa ai là điên đảo. Ai là chẳng điên đảo? Bồ-tát Ma-ha-tát an trú trí vô phân biệt, chẳng hành tất cả phân biệt, không có chánh không có tà, không có điên đảo không có chẳng điên đảo. Lại nữa, hoặc người nói: nhất định có điên đảo vì có đầy đủ người điên đảo. Thí như có dù thời có người cầm dù. Phàm phu có điên đảo cũng như vậy. Do có người điên đảo, cho nên có điên đảo. Luận giả nói nghĩa ấy chẳng đúng. Như kệ trên nói: vì chấp tánh không có nên tà chánh… cũng “không”. Hai đạo lý này trước đã khiến hiểu rõ. Cho nên có người khởi cũng chẳng thành như thị như thế. Như vậy, điên đảo và người điên đảo cũng chẳng thành. Như kệ trên nói: ai là điên đảo, ai là chẳng điên đảo?. Đây nói nghĩa là không có điên đảo. Không có điên đảo nên người điên đảo cũng không có. Lại nữa, nếu có điên đảo tức có chẳng điên đảo. Vì thế nên, nghĩa nhân của ông chẳng thành. Trong đệ nhất nghĩa thí dụ là không có “thể”, cũng trái với nghĩa của ông. Lại nữa, người thế gian nói: cùng điên đảo hợp thì gọi là người điên đảo. Điên đảo này là cùng với người đã khởi đảo có hợp chăng? Là cùng với người chưa khởi đảo có hợp chăng? Là cùng với người đang khởi đảo có hợp chăng? Nay trả lời: ba thứ này cùng người điên đảo hợp đều chẳng đúng. Như luận kệ nói:
Không hợp người đã khởi
Không hợp người chưa khởi
Lìa người đã chưa đảo
Có thời hợp chẳng đúng.
Thích: Đây nói người đã có đảo, lại cùng đảo hợp, tức là vô dụng. Vì sao? Vì đảo là rỗng ấy không. Thí như một người chẳng điên đảo khác. Nếu nói có đảo cùng lúc ấy hợp thì đây là lỗi cùng có. Lìa đảo tức chẳng đảo mà cùng lúc ấy hợp thì chẳng đúng. Quán về thời như thế thảy đều chẳng đúng. Nếu nói có thì ông nay sẽ trả lời điên đảo này cùng ai hòa hiệp chăng? Thế nên, không có cùng người đảo hợp. Vì nghĩa ấy nên ông mắc lỗi như trước đã nói. Lại nữa, như trong đệ nhất nghĩa tất cả các “thể” đều không có tự tánh mà nói. Đạo lý này đã khiến hiểu rõ.Vì thế cho nên như luận kệ nói:
Không có người khởi, chưa khởi
Làm sao có điên đảo?
Các đảo thảy không sinh
Chỗ nào khởi điên đảo.
Thích: Ý kệ đây nói rõ nghĩa không có sinh, nên không có điên đảo. Ông nêu nhân v.v…, đều là lỗi có. Như luận kệ nói:
Thường, lạc, ngã, tịnh kia…
Mà nói thật có thì
Thường, lạc, ngã, tịnh ấy
Ngược lại là điên đảo.
Thích: Đây nói trong đệ nhất nghĩa có thường ngã… nên biết cũng là điên đảo. Như luận kệ nói:
Ngã và thường lạc… kia
Nếu phải là không thì
Không ngã, bất tịnh, khổ
Mà tương ưng có được.
Thích: Đây nói tự thể của vô ngã… có thể trừ điên đảo ngã v.v… Vì có đối đãi nhau nên, vô ngã… cũng chẳng thành. Vì không có vô ngã nên chỗ nào có ngã, là kiến điên đảo? Thí như không có con người, quyết không thể ở ác thú khởi điên đảo tưởng người. Nhân… như vậy lỗi ấy khó thoát. Vì thế quán sát điên đảo và không điên đảo của thường, vô thường v.v… là không có nhân. Không có nhân tức như luận kệ nói:
Vì kia không có nhân
Thì vô minh, hành diệt
Cho đến sinh, lão tử
Chúng cùng đồng đều diệt.
Thích: Đây nói vô minh, hành, thức, danh , lục nhập, xúc, tho, ái, thủ, hữu, sinh và lão tử… do không có nhân điên đảo nên chứng đắc không có thể, dứt trừ các phiền não. Nghĩa ấy được thành. Các thuyết có tự thể thì các phiền não ấy là có “thể” thật, vì là không “thể” thật?
Nay hỏi chỗ nào? Như luận kệ nói:
Nếu người nói phiền não
Có một tự thể thật
Sao có thể đoạn trừ?
Ai đoạn được “thể” có.
Thích: Đây nói có tự thể tức chẳng thể hoại. Nếu các phiền não không có thật, như sừng thỏ thì cũng như lỗi kệ này nói. Vì sao chẳng năng thể đoạn? Nghĩa là không có tức chẳng thể xả bỏ. Như hoa hư không chẳng thể xả bỏ vì không có tự thể. Như thể của ngựa không có, thì chẳng có thể khiến xả bỏ cái “không có” này. Lại nữa, nếu có ý thế này: nghĩa là có phiền não, khi Thánh đạo khởi có thể đoạn, cho rằng đây nói không có lỗi thì phiền não thật này tựa như tướng gì mà đạo đối trị khởi lên có thể đoạn? Ông lập nghĩa khó khiến mọi người hiểu. Vì thế nên dấy khởi phân biệt phiền não có “thể” thật, hay không có “thể” thật mà có thể đoạn thì phân biệt này chẳng đúng. Trong đây lập nghiệm: trong đệ nhất nghĩa phiền não không có tự thể là đoạn. Thí như huyễn làm người nữ, tuy là huyễn hóa mà các phàm phu khởi tâm nhiễm dục. Sau biết chẳng thật thì tâm nhiễm tự xả. Phiền não không “thật” cũng lại như vậy. Trong đây đã nói chổ thành lập của ngoại đạo nghiệm thấy có lỗi, hiển bày tôi tự thành lập nghiệm không có lỗi. Khiến cho người hiểu điên đảo không có tự thể chính là ý nghĩa của phẩm này. Vì thế nên dưới đây dẫn kinh xác nhận rõ: Như trong kinh Kim Quang Minh Nữ, kệ nói rằng: “Nói chẳng phải là sắc, tất cả xứ không có, vì rốt ráo không có, nên phiền não cũng vậy. Như nói không “thể” thật, chẳng trú ở trong ngoài “thể” phiền não không thật, cũng chẳng trú ở trong ngoài”. Phật bảo Xá-lợi-phất. Nếu hiểu rõ nhiễm ô tức như nghĩa thật thì không có một nhiễm ô điên đảo nào có thể được chúng sinh khởi nhiễm. Nếu không có hiểu thật thì tức là điên đảo. Nếu điên đảo kia là không có thật, thì tức ở trong đó không có tướng chân thật. Này Xá-lợi-phất! Người hiểu như thế nói là thanh tịnh. Vì phiền não không có “thể” thật nên khi Như Lai thành chánh giác, đã nói phiền não chẳng phải là sắc, chẳng phải là không sắc, chẳng phải thọ tưởng hành thức, chẳng phải không thọ tưởng hành thức, chẳng phải chẳng phải thức, chẳng phải chẳng phải không thức, chẳng thể thấy, chẳng thể thủ. Người hiểu được không có chỗ đoạn trừ, khi chứng đắc cũng không có chỗ thủ đắc, chẳng lấy đó làm chứng, chẳng lấy đó làm đắc, không có chứng không có đắc, không có tướng, vô vi, chỉ là danh tự giả lập giống như huyễn hóa. Đối với các pháp không động tướng, chẳng phải thủ, chẳng phải không thủ, như bóng, như tiếng vang, lìa tướng lìa niệm, không sinh không diệt.
Phẩm 24: QUÁN THÁNH ĐẾ
Thích: Nay phẩm này cũng là ngăn chấp, là chỗ đối trị của “không” khiến cho hiểu nghĩa bốn Thánh đế là không có tự thể cho nên nói: Người Tự bộ nói: Nếu nói Thánh đế “không” không có tự thể thì nghĩa ấy chẳng như vậy. Cho nên luận kệ nói:
Nếu tất cả pháp “không”
Không khởi cũng không diệt
Nói Thánh đế không “thể”
Ông mắc lỗi như vậy.
Thích: Như kia nói đạo lý, khiến mọi người tin hiểu thì việc ấy chẳng đúng. Vì “không” như hoa hư không, thế nên, kia nhận lấy lỗi này. Khởi diệt không có “thể” cho nên tức không không có “thể” của khổ đế. Khổ đế không có “thể” thì năng khởi tập đế, cũng không có “thể”. Tập đế không có “thể” nên diệt đế cũng không có “thể”. Diệt đế không có “thể” nên đạo khổ diệt trước dùng chánh kiến làm đầu và sở tu của đạo đế tức là không có “thể”. Như kệ trên nói: thì kia mắc lỗi này. Vì thế cho nên, các chúng sinh có sợ hãi sinh tử thì ở cảnh giới tứ đế siêng năng tinh tấn: khổ nên biết, tập nên đoạn, diệt nên chứng, đạo nên tu. Những thứ này đều không có. Vì sao không có? Như luận kệ nói:
Hoặc biết và hoặc đoạn
Tu chứng và tác nghiệp v.v…
Thánh đế không có “thể”
Ấy đều chẳng thể được.
Thích: Bốn Thánh đế, nghĩa là chủ thể tạo tành Thánh nhân, vì “thể” tương tục, nên gọi là Thánh đế. Lại nữa, đế ấy, tức là nghĩa chân thật. Nếu nói không có thì nghĩa ấy chẳng như vậy. Cho nên luận kệ nói:
Thánh đế không có “thể”
Bốn quả cũng không có
Do quả không có “thể”
Người trú quả cũng không.
Thích: Đây nói các lỗi thân kiến nghi giới thủ v.v… là củi. Thánh đế là lửa. Tu-đà-hoàn, Tư-đà-hàm, A-na-hàm, A-la-hán… thấy lửa Thánh đế có thể đốt phiền não. Người trú quả, nghĩa là được đạo Tuđà-hoàn, quả Tu-đà-hoàn. Lại gọi chẳng bị tha duyên hòa hợp, các trời, ma chẳng thể phá hoại. Lại cùng định tuệ, giải thoát giải thoát trí kiến…hòa hiệp cho nên gọi tăng. Tăng ấy gọi là vô thượng phước điền. Kia nếu không thì nghĩa ấy chẳng như vậy. Cho nên luận kệ nói:
Nếu không có Tăng bảo
Thì không có tám người (bốn hướng, bốn quả)
Thánh đế nếu không “thể”
Cũng không có Pháp bảo.
Thích: Nếu không có Tăng bảo thì chẳng nên có bốn đạo, bốn quả sai biệt. Lại nữa, không có Tăng bảo nên cũng không có Pháp bảo, Pháp bảo không có cho nên cũng không có Phật bảo. Cho nên luận kệ nói:
Nếu không có Pháp, Tăng.
Làm sao có Phật bảo?
Nếu Tam bảo đều không
Tức phá tất cả hữu.
Thích: Phật ấy nghĩa là tự giác Thánh đế, lại có thể giác ngộ cho mọi người. Cho nên gọi là Phật. Vì sao là bảo? Nghĩa là khó được. Như kinh, kệ nói: đáng hiểu ta đã hiểu, đáng tu ta đã tu, đáng đoạn ta đã đoạn. Do đó cho nên gọi là Phật. Đây là nói đối với trong tât cả pháp có tự thể được bình đẳng giác, thế cho nên gọi là Phật.
Như trong Tu-đa-la, kệ nói: “Ở trong pháp vô thể, giác liễu tận không còn, các pháp bình đẳng giác thế nên gọi là Phật”. Đây là nói cảnh giới của chư Phật đã giác. Nếu nói không có “thể” thì chẳng đúng. Như kệ trên nói: “Nếu tam bảo đều không thì phá thất cả hữu”, tức là nghĩa ấy có lỗi. Cho nên luận kệ nói:
Như thể nhân quả “không”
Pháp, phi pháp cũng không
Thì thế gian ngôn thuyết v.v…
Như thế thảy đều phá.
Thích: Đây cho người nói như thế, mà chẳng muốn mắc lỗi. Lỗi này làm sao thoát vậy? Nghĩa là như chẳng lập “không” mà có các thể có tự thể khởi diệt thì kia không có lỗi. Trong đây làm nghiệm: Các thể có tự thể mới có khởi diệt nên nếu nói các thể không có tự thể thì chẳng tương ưng thấy có khởi diệt. Thí như hoa hư không. Luận giả nói: Ông đã dẫn nghĩa ấy, đều chẳng đúng. Như luận kệ nói:
Nay ông tự chẳng hiểu,
“Không” và ở nghĩa “không”
Năng diệt các hý luận,
Mà muốn phá “không” ư?
Thích: “Không” là có thể diệt tất cả chấp trước hý luận, thế nên gọi là “không”. Nghĩa “không” là trí của duyên “không”, gọi là nghĩa “không”. Nay ông muốn được phá hoại tướng chân thật tức là như người vận chưởng để đánh hư không; tự uổng phí khổ nhọc, mà hư không cuối cùng chẳng tổn hại gì. Nếu ông nói như vậy: như kệ trên nói: “Nếu tất cả pháp không, không khởi cũng không diêt”. Ông nếu nói như vậy thì cũng uổng công khổ nhọc mà chẳng hiểu ý trong đó. Vì sao? Như luận kệ nói:
Chư Phật nương hai đế
Vì chúng sinh thuyết pháp
Một nói thế tục đế
Hai nói đệ nhất nghĩa.
Thích: Thế đế nghĩa là ngôn thuyết ở thế gian. Như nói tướng khởi, trú, diệt của sắc v.v… Như nói Đề bà đạt đa qua lại, Tỳ Sư nô mật đa la ăn uống. Tu ma đạt đa toạ thiền. Phạm ma đạt đa giải thoát. Những nghĩa như thế là ngôn thuyết ở thế gian, gọi là thế đế. Chúng không thể nói gọi là đệ nhất nghĩa. Đệ nhất nghĩa là gì? Nghĩa là đệ nhất mà có nghĩa cho nên gọi là đệ nhất nghĩa lại là nghĩa chân thật của trí không phân biệt tối thượng nên gọi là chân thật. Chân thật là không có tha duyên… làm tướng. Hoặc trí không phân biệt an trú ở cảnh giới sở duyên chân thật gọi là đệ nhất nghĩa. Vì ngăn chấp tùy thuận theo khởi v.v… chỗ nói không khởi… và văn, tư, tu, tuệ, đều là đệ nhất nghĩa. Tuệ thì thế nào? Đệ nhất nghĩa ấy có thể làm nhân duyên phương tiện chẳng điên đảo đệ nhất cho nên còn gọi là đệ nhất nghĩa. Như luận kệ nói:
Nếu người chẳng thể hiểu
Tướng sai biệt hai đế
Tức chẳng hiểu chân thật
Nghĩa pháp Phật cao sâu.
Thích: Đây nói như người chẳng hiểu sai biệt của hai đế. Người chẳng lầm loạn tướng cảnh giới chẳng chánh tư duy uhiều thì người này chẳng hiểu pháp Phật cao sâu, mà khởi chấp giác có “thể”, không có “thể”. Cao sâu là gì? Là khó vượt qua. Phật như trước đã giải thích. Pháp là khiến người trời chứng đắc pháp cam lồ. Hành giả đối với cảnh giới cao sâu như thế…. nên biết, nên đoạn, nên chứng, nên tu. Lại nữa, nói giáo pháp chẳng điên đảo gọi là pháp cam lồ. Người ấy đối với đạo lý trí không phân biệt rất sâu xa, đệ nhất không hiểu thì tuy hành chẳng điên đảo, trú cảnh giới pháp chân thật mà đối với thể pháp không khởi không diệt, nói chúng sinh, đối với chẳng phải cảnh giới khởi kiến chấp cảnh giới. Người nói như vậy là không hiểu đạo lý của Trung luận. Và nói trong thế đế pháp khởi, diệt… tất cả đều không có. Người tạo phân biệt như vậy thì lỗi ấy cũng như kệ trên nói: “nếu tất cả pháp “không” không khởi cũng không diệt”. Người có phân biệt như vậy tức chẳng hiểu chư Phật Như Lai tùy thuận thế đế nói có các thể pháp trì giới, tu định, sinh, trụ, diệt… Người vô trí cho là trong đệ nhất nghĩa cũng có việc ấy. Người tạo phân biệt hư vọng ấy sẽ rơi vào trong các cánh đồng hoang của “có”, không có kỳ hạn nào ra khỏi!
Người của Tự bộ nói: Nếu dùng đệ nhất nghĩa đế được giải thoát thì chẳng cần nói hai đế. Luận giả nói: Vì sự ấy nên như luận, kệ nói: Nếu chẳng nương thế đế, Chẳng đắc đệ nhất nghĩa. Chẳng nương đệ nhất nghĩa, Trọn chẳng được Niết-bàn.
Thích: Thế tục đế tức tất cả các pháp là tánh “không” không có sinh; mà chúng sinh điên đảo cho nên vọng sinh chấp trước, ở thế gian là thật. Các Hiền Thánh thấu rõ tánh điên đảo của thế gian, biết tất cả pháp đều “không” không có tự tánh. Ở Thánh nhân đệ nhất nghĩa đế ấy, cũng gọi là thật. Phật vì chúng sinh mà nương hai đế nói: thế nào là đệ nhất nghĩa đế. Nghĩa là bao trùm vượt qua tất cả đạo ngôn ngữ nên tất cả những phân biệt của tiểu thừa đều khiến lìa tất cả nhân phân biệt. Lại nữa, nếu không có thế đế thì chẳng thể chứng đắc đệ nhất nghĩa đế. Vì thế nên, phiền não và sinh… diệt ấy, là tướng Niết-bàn. Nếu chẳng nương đệ nhất nghĩa đế thì đạo của Niết-bàn trọn chẳng thể đạt được. Lại nữa, trong ngoại đạo như có người thông minh kiêu mạn phân biệt như vậy: có “không” “chẳng không”. Thế nào là “không”? Nghĩa là thấy các ấm là “không” do kia chấp thấy không có “thể”. Thế nào là “chẳng không”? là thấy các ấm “chẳng không”. Mà nói đã thấy ngã; nay thấy ngã tức sẽ thấy các ấm là “không”.Chẳng lìa các ấm có “không”; trong “không” thấy các ấm, trong các ấm thấy “không”. Người thấy như vậy, là chẳng chánh tư duy, gọi là tăng thượng mạn.Như luận kệ nói:
Người trí ngu si
Do ác kiến hoại “không”
Như chẳng khéo bắt rắn
Chẳng như pháp trì chú.
Thích: Đây là nói làm chướng ngại cho huệ mạng không phân biệt. Những thứ ấy là chổ phá hoại của ác kiến. Lại nữa, đối với các pháp không có “thể” khởi kiến có “thể”, cũng gọi là phá hoại “không”. Thí như người chẳng khéo bắt rắn, tự hại mạng mình. Người ở “không” chấp có “thể” thì cũng có thể hại mạng giải thoát. Như người trì chú chẳng nương chú pháp mà tự tổn hoại. Vì thế cho nên người chẳng khéo hiểu về “không” luôn tạo những việc chẳng có ích. Như kệ luận nói:
Chư Phật vì thế nên
Hồi tâm chẳng thuyết pháp
Pháp sâu xa Phật hiểu
Chúng sinh chẳng thể vào
Ông nay nếu ở “không”
Sinh phỉ báng như thế
Nói pháp không khởi diệt
Cho đến phá Tam bảo.
Thích: Phỉ báng, nghĩa là nói tất cả là rỗng không. Vì ông giận dữ cho nên muốn cùng “không” làm lỗi, không trọn chẳng bị lỗi của ông. Vì sao vậy? Vì các “thể” không có tự thể là ở trong đệ nhất nghĩa “không” cho nên không có “thể” nghĩa không có “thể” tôi cũng chẳng dùng, vì có tướng chấp trước. Lại nữa, vì ngăn người tự bộ đã phân biệt “không” tức là nay ngăn “không” này mà nói “không” không có tự thể, cũng chẳng chấp “không” làm phân biệt “không” ấy tức là nay nên xả. Như trong kinh Bảo tích nói Phật bảo Ca-diếp. “Thà khởi ngã kiến như núi Tu di cũng chẳng làm người tăng thượng mạn khởi ở “không” kiến”. Vì nghĩa ấy cho nên chẳng thấy sắc “không”, chẳng thấy sắc “chẳng không”. Như luận kệ nói:
Nếu rõ ràng ở “không”
Thì tất cả đều rõ
Nếu chẳng rõ ở “không”
Thì tất cả chẳng rõ.
Thích: Đây nói người chánh kiến “không”. Những gì là tất cả đều rõ? Nghĩa là có khởi… thế nào là rõ ư? Nghĩa là có không có v.v… và mắt v.v… đều tự thể là “không”, như huyễn trượng phu, trượng phu tự thể, “không”. Vì sao vậy? Vì tất cả nhờ các duyên tụ tập làm “thể”. Vì sao là “thể”? Thể nghĩa là khổ. Vì sao là khổ, nghĩa là đây khởi gọi là khổ, kiến khổ… hành gọi là khổ đế. Vì sao là tập? Nghĩa là khởi nhân khổ ấy gọi là tập. Lại nữa, tập nghĩa là từ đây khởi khổ cho nên gọi là tập. Nếu thấy hành tập v.v…gọi là tập đế. Diệt nhân khổ gọi là diệt. Thấy hành diệt v.v… gọi là diệt đế, làm nhân phương tiện được diệt khổ, mà gọi là đạo. Nếu thấy hành đạo v.v… gọi là đạo đế. Thánh đế kia có như thế cho nên pháp ấy được thành. Dùng trí tự nhiên giác ngộ ở tất cả hành nên bèn gọi là Phật tùy thuận Thanh văn mà nói, như kinh nói: Phật bảo các Tỳ-kheo, như thế khổ ấy, Như Lai ở xưa kia chẳngkhông chấp nhận nghe trong các pháp được nhãn khởi, trí khởi, minh khởi, giác khởi. Vì các “thể” ấy tự thể đều như huyễn nên trong đệ nhất nghĩa thấy không khởi… gọi là thấy Thánh đế. Như kinh Văn Thù Đạo Hạnh nói: Phật bảo Văn Thù Sư Lợi. Nếu thấy tất cả các pháp không khởi, tức hiểu rõ khổ đế. Nếu thấy tất cả các pháp không trú, tức có thể đoạn tập. Nếu thấy tất cả các pháp rốt ráo Niết-bàn, tức có thể chứng diệt. Văn thù sư lợi! Nếu thấy tất cả các pháp không có tự thể, tức là tu đạo. Vì nghĩa ấy, nên trong Ma ha diễn đạo lý Thánh đế được thành. Đạo lý thành cho nên trí tuệ được thành, trí tuệ thành nên tất cả đều rõ ràng. Nếu người phỉ báng “không” thì như kệ trên nói: “Nếu chẳng rõ về “không” thì tất cả đều chẳng rõ”. Như luận kệ nói:
Ông nay giữ lỗi mình
Mà muốn cùng ta chăng!
Cũng như người cưỡi ngựa
Tự quên chổ mình cưỡi.
Thích: Nếu ông chẳng muốn khiến “không” có lỗi lầm thì nay sẽ nói việc đó. Như luận kệ nói:
Ông nếu thấy các pháp
Đều là có tự thể
Các thể không nhân duyên
Lại thành thấy tự nhiên.
Thích :nếu thấy các “thể” có tự thể, thì không có các “thể” từ nhân duyên sinh, chẳng đợi nhân duyên mà có “thể”. Lại nữa, nếu thấy các “thể” có tự thể thì nay sẽ nói lỗi ấy. Như luận kệ nói:
Như nhân quả không đãi
Tác giả và tác nghiệp
Cho đến khởi diệt … kia
Tất cả pháp đều hoại.
Thích: Đây nói chẳng đợi nhân duyên thì nghĩa nhân quả… đều cũng chẳng thành. Ông vì sao đối với nghĩa “không” mà vọng sinh phân biệt. Ví như trẻ con thấy vẽ dạ xoa mà sinh tâm sợ hãi, kêu lên lớn tiếng. Nếu sắc… là “không” không có tự thể, thì như hoa hư không. Người làm phân biệt ấy không nên ở “không” này sinh tâm sợ hãi. Vì thế nên, như luận kệ nói:
Từ các duyên sinh pháp
Ta nói tức là “không”
Chỉ là giả danh tự
Cũng là nghĩa trung đạo.
Thích: Các thể của mắt v.v… từ duyên khởi là mắt v.v… trong các duyên chẳng phải có, chẳng phải không có, cũng có, cũng không có, chẳng phải chẳng phải có, chẳng phải chẳng phải không có, chẳng phải khác, chẳng phải một, chẳng phải tự, chẳng phải tha, cũng chẳng phải đều có, chẳng phải không đều có. Từ duyên khởi vốn có ấy, trong đệ nhất nghĩa tự thể không khởi. Dựa vào thế đế cho nên có mắt v.v… khởi. Ta nói khởi này “không” là nói tự thể “không”. Như kinh kệ nói: “từ duyên chẳng gọi là sinh, pháp sinh không tự thể. Nếu có thuộc duyên ấy, chính tức gọi là “không”, thế gian, xuất thế gian, chỉ là giả thiết lập. Người có hiểu về “không” ấy, gọi là không phóng dật. Như kinh Lăng Nghiêm nói: Tự thể không có khởi. Thể không khởi ấy, như Phật bảo Đại Tuệ. Ta nói tất cả pháp “không”, hoặc nói từ duyên sinh thì cũng là tên khác của “không”. Vì sao vậy? Vì do thiết lập Pháp thế gian xuất thế gian, đều là chỗ làm của Thế Đế. Như vậy, thiết lập danh tự tức là trung đạo. Như kinh Ma-ha-Bát-nhã-Ba-la-mật nói, vì sao gọi là trung đạo? Nghĩa là lìa có khởi, không khởi và các biên hạn có, không, cho nên gọi là trung đạo. Đó chính gọi là các “thể” không khởi, không chẳng khởi, chẳng phải có, chẳng phải không, chẳng phải thường, chẳng phải vô thường, chẳng phải không, chẳng phải chẳng không. Người tu trung đạo, khi quán sát chẳng thấy mắt có “thể”, chẳng thấy mắt không có “thể”, cho đến sắc thọ tưởng hành thức chẳng thấy “thể”, chẳng thấy không có “thể”. Lại như kinh Bảo Tích nói, Phật bảo Ca-diếp: “Có” là một bên, “không có” là một bên, lìa hai bên , ở giữ tức là không có sắc không thọ, tưởng, hành, thức. Trung đạo như vậy gọi là được phương tiện chứng thật tướng. Vì thế cho nên, như luận kệ nói: Chưa từng có một pháp, Chẳng từ nhân duyên sinh.
Như thế tất cả pháp
Không thể chẳng là “không”.
Thích: Đây nói vật từ duyên dấy khởi. Thí như … trượng phu huyễn v.v… rốt ráo không có “thể”. Người Tăng khư nói: như hư không… chẳng từ duyên sinh. Pháp từ duyên sinh để nêu ra nhân thì ở trong tông kia, nghĩa của một phần. Nghĩa này không thành. Đó là lỗi kia nêu nhân. Luận giả nói: lỗi hư không đã như trước nói. Lỗi lớn ấy, nay tụ ở thân ông khó có thể chạy thoát. Thế nào là lỗi? Như luận kệ nói:
Như tất cả “chẳng không”
Không khởi cũng không diệt,
Không “thể” bốn Thánh đế
Lỗi trở lại tại thân ông.
Thích: Nghĩa này là thế nào? Nếu khổ chẳng phải “không” mà có tự thể tức không có tác giả. Không có tác giả nên chẳng từ duyên sinh mà chấp là có thì trong thế đế cũng chẳng thể tin huống gì đệ nhất nghĩa ư? Vì thế nên, như luận kệ nói:
Nếu chẳng từ duyên sinh
Chỗ nào sẽ có khổ?
Vô thường tức nghĩa khổ,
Khổ kia không tự thể
Thích: Đây nói nếu chẳng từ nhân duyên sinh thì tức là thường, thường tức chẳng phải khổ. Người bộ Tu đa la nói: Như vô thường cho nên khổ; khổ cho nên vô ngã. Như vô ngã thì tức là không có tự thể. Vì thế cho nên khổ không có tự thể Luận giả nói: Ông nói nghĩa ấy chẳng tương ưng. Như luận kệ nói:
Khổ đã không tự thể,
Chỗ nào sẽ có tập?
Vì tập không có nên
Tức phá hoại ở “không”
Thích: Đây nói thể của khổ không khởi. Vì sao vậy? Vì nếu có tự thể thì chẳng đợi nhân duyên mà có. Như luận kệ nói:
Khổ nếu định có tánh
Trước nay không hề thấy
Ở nay thấy thế nào
Vì tánh ấy chẳng khác.
Thích: Nếu trước chẳng thấy tánh khổ thì khi được Thánh quả cũng nên chẳng thấy. Vì sao vậy? Vì tánh nếu cố định thì sao có thể thấy? Như luận kệ nói:
Nếu khổ ấy có “thể”
Chẳng nên có nghĩa diệt
Ông tham đắm có “thể”
Tức phá ở “thể” diệt
Nếu khổ có định tánh
Tức thời không có tu đạo
Nếu đạo có thể tu
Tức không có định tánh.
Thích: Đây nói nếu diệt có “thể” tức khổ có “thể”. Người tu làm sao thường thường khởi chánh kiến… cho nên gọi là tu. Nếu “thể” của đạo này trước đã thành tựu mà có khởi thì chẳng đúng. Nếu muốn tránh những lỗi này, mà nói đạo có thể tu thì như luận kệ nói:
Nếu đạo có thể tu
Tức không có tự thể
Khổ tập cho đến diệt
Ấy… thảy đều không có.
Thích: Đây nói nghĩa dù đạo có khởi hoặc thành thì cũng chẳng thể lìa không có tự thể. Vì thế nên, như đạo lý kệ trên đã nói. Không khởi khổ tức là khổ không có,nên diệt tức không có “thể”. Nếu nói là đạo của diệt khổ thì như luận kệ nói:
Vì diệt khổ là đạo
Sao có đạo đắc được?
Chẳng cởi bỏ tự thể khổ
Cũng chẳng cởi bỏ nhân khổ.
Thích: Đây nói như đạo lý ông nói là khổ có tự thể, có tự thể ấy thì chẳng thể cởi bỏ, cũng là lỗi chẳng cởi bỏ nhân khổ. Nghĩa đoạn chẳng thành, vì là thể của nhân chẳng đoạn nên đoạn tức không có “thể”. Thể ái không có tận tức nghĩa có tận chẳng thành, tên gọi diệt không có “thể” vì không có “thể” nên nghĩa chứng diệt chẳng thành. Nếu không có chứng diệt hướng đến đạo của diệt tức là có tự thể thì không có tu hành. Nếu không tu đạo thì cũng không có chứng người bốn quả. Nếu muốn được người có chứng quả mà kiến chấp có tự thể không xả bỏ thì nay hỏi vì cớ gì chẳng xả bỏ? Nếu quả sở chứng có tự thể thì vì sao lại nói có người năng chứng? Vì thế nên, như luận kệ nói:
Tự thể quả đã không (có)
Trú quả hướng cũng không
Vì không có tám người
Tức không có Tăng bảo.
Thích: Tám người ấy, nghĩa là bốn đạo bốn quả. Người có sai biệt cho nên người vì sao gọi là người, người tốt giỏi, trung bình, sĩ phu v.v… Như bốn Thánh đế không có tự thể thì chẳng phải chỉ không có Tăng mà như luận kệ nói:
Nếu không bốn Thánh đế
Cũng không có Pháp bảo
Không có Pháp Tăng ấy
Vì sao sẽ có Phật.
Thích: Phật là có thể dùng pháp giác ngộ cho đệ tử nên gọi là Phật. Lại nữa, nay hỏi chấp có tự thể tức nói Phật Bà-già-bà là có tự thể, là không tự thể? Hỏi đây có lỗi gì? mà hỏi như thế ư? Đáp: Nếu ông muốn được Phật có tự thể thì tức là chẳng nhờ giác liễu chân như mà gọi là Phật. Như luận kệ nói:
Chẳng lấy giác làm duyên
Phật rơi vào lỗi không duyên
Chẳng dùng Phật làm duyên
Giác rơi vào lỗi không duyên
Phật có tự thể thì:
Các Bồ-tát tu hành
Vì Phật gắng tinh tấn
Chẳng nên được thành Phật
Pháp và phi pháp ấy
Không người có thể làm
“Chẳng không” sao phải làm?
Có “thể” làm chẳng đúng.
Thích: Đây nói nếu pháp có tự thể mà khởi làm thì chẳng đúng. Lại ý ông cho rằng cũng chẳng là phát triển nhỏ thành lớn, cũng chẳng là hiểu rõ tối khiến sáng. Lỗi này đã như trước nói. Người của Tự bộ nói: Thế nào tác giả đều không có tự thể? Luận giả nói: tác giả ở khắp nơi đều thấy không có tự thể. Thí như nội nhập… các nhập do huyễn làm ra… có tác cũng như vậy, mà nội nhập này cũng không có tự thể. Nếu có một vật có tự thể thì tức trái với nghĩa trước. Đây nói không có “thể” của sở tác mà ông chấp nghĩa có tự thể. Nếu “thể” có thì ông có thể vì tôi nói rõ ràng ra không? Như nói có tác và có “thể” thì chúng tựa vật gì? Thế nên, nghĩa ông đã nói, đều là tà kiến. Như luận kệ nói:
Không có nhân pháp, phi pháp
Quả mắc lỗi không nhân
Nếu lìa pháp, phi pháp
Ông đắc không đợi quả.
Thích: Nếu ý ông cho rằng đó chẳng trái thế luận. Nói như vậy là để muốn được có pháp, phi pháp thì như luận kệ nói:
Nếu ông muốn được có,
Nhân quả pháp, phi pháp
Từ pháp, phi pháp khởi,
Vì sao chẳng là “không”?
Thích: Đây nói hể có khởi thì đều “không”. Thí như các việc do huyển hóa làm. Chẳng những ông trái với tự tông của ông mà nay còn lại có lỗi khác. Như luận kệ nói:
Tất cả sự ngôn thuyết
Thế gian đều bị phá
Như hoại pháp duyên khởi
Nghĩa “không” cũng chẳng thành.
Thích: Ngôn thuyết nghĩa là tạo lời nói ấy, tạo bình tạo y Đề bà đạt đa nói đem trâu trắng đến ta muốn uống sữa. Nếu bình… có tự thể còn cần tác giả thì chẳng đúng. Nếu chẳng muốn, được từ duyên khởi thì như kệ trên nói: Như hoại pháp duyên khởi, nghĩa “không” thì chẳng thành. Ông phá hoại nghĩa “không” mắc những lỗi gì? Như luận kệ nói:
Một vật chẳng cần làm,
Cũng không người khởi nghiệp
Chẳng làm gọi tác giả
Tức phá hoại nghĩa “không”
Không sinh cũng không diệt
Ấy thời gọi là thường
Đủ thứ các vật loại
Đều trú ở tự thể.
Thích: Sao là vật loại? Thí như vẽ lên tường có các thứ sắc, các thứ hình, các thứ tánh, các thứ vẽ… sai biệt. Vì sao gọi trú tự thể? Nghĩa là không có tác giả gọi là trú tự thể. Vì bất hoại cho nên mà gọi là thường.
Nếu nói thường ấy. Như luận kệ nói:
Người chưa đắc nên đắc
Và tận khổ biên nghiệp
Tất cả phiền não đoạn
Vì không có nghĩa “không”.
Thích: Đây nói pháp thù thắng của thế gian xuất thế gian đã chứng tức là cho đến tận trừ hết biên hạn khổ là chẳng cần tu tướng của pháp đối trị đã nói. Mà chẳng muốn được như vậy, cho nên muốn được từ pháp duyên khởi như huyễn, như dợn nắng, tự thể không có khởi là có thể không thể… vì có lỗi lầm nên mắt tuệ bị màng che vọng thấy các pháp chẳng từ duyên khởi, thấy này là thế đế thấy, vọng chấp là đệ nhất nghĩa. Thấy ấy như thế nào? Như luận kệ nói:
Có chỗ nói khổ và tập
Cho đến ở diệt đạo
Người thấy có sinh diệt
Thấy ấy gọi là chẳng thấy.
Thích: Vì sao chẳng thấy, nghĩa là chẳng thấy pháp duyên khởi như thật. Người tự bộ nói: nếu lìa thấy… các hành khổ… thì không có riêng pháp kiến đế. Luận giả nói: kiến đế ấy có nghĩa thế nào chăng! Người Tự bộ nói: nghĩa là thấy các nhập nội … có tự thể, chẳng điên đảo. Luận giả nói: Ông nói đạo lý về khổ v.v… trước nay đã ngăn rồi. Thấy khổ… không khởi chính là nghĩa kiến đế ấy được thành. Ông vừa nói: thấy nhập nội … có tự thể chẳng điên đảo chính là lời nói điên đảo, nghĩa ông mong muốn chẳng thể thành. Phải quán sát kỷ thế nào là thấy khổ? Chẳng phải như con theo mẹ đòi kẹo hoan hỷ mà chỉ vào cánh tay nói được. Trong phẩm này vì ngăn lỗi của người Tự bộ đã nói, và dùng “không” đối trị nói rõ, Thánh đế không có “Thể”, khiến người tin hiểu. Đó là ý nghĩa của phẩm. Thế nên, dưới đây dẫn kinh xác nhận rõ thêm:. Như kinh Phạm vương sở vấn nói, Phật bảo Phạm vương! Do môn này nên biết khổ chẳng phải Thánh đế, biết tập diệt đạo cũng chẳng phải Thánh đế. Lại nữa, thế nào là Thánh đế? Phạm vương! Nếu khổ không khởi, đó gọi là Thánh đế. Tập không có năng khởi đó gọi là Thánh đế. Thấy tất cả rốt ráo như Niết-bàn không khởi diệt ấy, đó gọi là Thánh đế. Nếu biết các pháp bình đẳng không hai, tu ở đạo ấy, đó gọi là Thánh đế. Cho nên, kinh nói: nếu thấy pháp nhân duyên, người ấy có thể thấy Phật, cũng thấy Thánh đế, có thể được Thánh quả, diệt các phiền não.