A TRA BẠC CÂU NGUYÊN SOÁI ĐẠI TƯỚNG
THƯỢNG PHẬT ĐÀ LA NI KINH TU HÀNH NGHI QUỸ

Hán dịch: Đời Đường_ THIỆN VÔ UÝ dịch kín đáo trong Nội Đạo Tràng
Việt dịch: Sa Môn THÍCH QUẢNG TRÍ

Một tên là: Toàn Thân Kim Cang Tam Muội Gia
Một tên là: Vô Biên Cam Lồ Thần Lực

QUYỂN THƯỢNG

Ta nghe như vầy. Một thời Đức Phật ở tại thành Câu Thi Na (Kuśina-gara), giữa hai cây Sa La (Śāla) cùng với chúng Đại Tỳ Kheo gồm một ngàn hai trăm năm mươi người đến dự. Bồ Tát Ma Ha Tát gồm ba vạn sáu ngàn người đến dự. Các vị ấy tên là: Quán Thế Âm Bồ Tát (Avalokiteśvara), Văn-Thù-Sư-Lợi Bồ Tát (Maṃjuśrī), Đại Thế Chí Bồ Tát (Mahā-sthāma-prāpta), Bất Không Quyến Sách Bồ Tát (Amogha-pāśa), Na-La-Diên Bồ Tát (Nārāyaṇa), Trì Địa Bồ-Tát (Dharaṇindhara), Định Tự Tại Vương Bồ Tát (Samādhīśvara-rāja) là đều bậc Thượng Thủ (Pramukha).

Lại có Tỳ-Kheo, Tỳ-Kheo-Ni, Ưu-Bà-Tắc, Ưu-Bà-Di, tám Bộ Trời Rồng, Hộ Thế Tứ Thiên Vương, Kim Cang Lực Sĩ, Quỷ Thần, A-Tu-La, Càn Thát Bà Vương, Khẩn Nại Lạc, Mạc Hô La Già, Dược Xoa, La-Sát, Bố Đan Na, A Bà Sa Ma La, Cưu Bàn Trà, Tỳ Xá Xà, Quỷ Tử Mẫu kèm với nữ quyến thuộc…cung kính cúng dường vui vẻ vây quanh rồi ngồi nghe Pháp

Bấy giờ Đức Thế Tôn bảo các Đại Chúng rằng:”Nay bốn Đại đã chìm đắm, nên vào Niết Bàn (Parinirvāṇa: Bát Niết Bàn)”

Bốn Chúng nghe xong, buồn than kêu khóc:”Khổ thay! Vì sao mà bỏ Đại Chúng chúng con để vào Niết Bàn? Thế Gian trống rỗng, Ma Vương lẫy lừng. Đại Chúng chúng con không có chỗ Quy Y. Nguyện xin Đức Thế Tôn hãy trụ ở đời, hàng phục Ma Vương, khiến phát Đạo Tâm vô thượng, cùng độ bốn Chúng chúng con an nhập Niết Bàn”

Đức Phật bảo:”Các Thiện Nam Tử với Thiện Nữ Nhân! Nay đã đến lúc Ta vào Niết Bàn, chẳng được trụ lâu ở đời. Các ngươi đừng khóc lóc, hàng Đệ Tử của Ta, nay đều giao phó cho các Bồ Tát cùng nhau dạy bảo để độ thoát. Nếu Ta còn trụ ở đời thời chúng sanh trong Pháp Giới (Dharma-dhātu) thảy đều chán ghét, khinh rẻ. Ma Vương,

Lục Sư hận Ta nhiều kiếp không có ngưng nghỉ”

Chúng sanh trong Hội lại cùng bảo rằng: “Đức Thế Tôn ở đời là nơi quy y của Đại Chúng chúng con, giải thoát phiền não của con. Ngày nay, sau khi Đức Thế Tôn vô thượng vào Niết Bàn thời quyến thuộc của con đều bị Ma Vương vây nhiễu cột trói”

Báo cáo xong rồi, lệ rơi như mưa, thân run rẩy kêu khóc, mê man té xuống đất, trong miệng tuôn ra máu. Chư Thiên chấn động, núi báu Tu Di tan nát như bụi nhỏ, tất cả trùng thú, hàm linh lúc nhúc, một lúc cùng kêu lên Khổ thay! Khổ thay! Đức Thế Tôn vô thượng bỏ chúng con trong kiếp ác trược, chúng sanh chịu khổ não lớn”

Đức Phật biết tâm suy nghĩ của bốn Chúng nên an nhiên đứng lên, ngồi kết Già Phu, trạm nhiên bất động, phóng ánh sáng lớn, bên trên thấu đến cõi Tam Thập Tam Thiên, bên dưới đến chúng sanh trong 18 Địa Ngục, Trời Đất chấn động theo sáu cách, tuôn mưa hoa Mạn Đà La (Māndāra) che khắp đại địa của ba ngàn Thế Giới, trống Trời tự kêu, phướng phan tự dựng, Đại Chúng hoan hỷ chắp tay, hướng về Đức Phật, một lòng nghe Pháp.

Đức Phật bảo tất cả Đại Chúng rằng: “Nay, chúng sanh của một nước chịu các khổ não. Có vị trưởng giả tên là Ly Xa (Licchavī) bị các Ma Quỷ gây nhiễu loạn, kêu la bỏ chạy, quấy rối nhà ấy, không biết nói với ai. Thấy vậy lớn tiếng xướng rằng: “Nam mô Phật Đà. Nam mô Đạt Ma. Nam mô Tăng Già [NAMO BUDDHA_ NAMO DHARMA_ NAMO SAṂGHA]. Biết nỗi khổ này của con”

Đức Phật liền bảo Mục Kiền Liên (Mahā-maudgalyāyana): “Ông trì Phật Đảnh Chú (Buddhoṣṇīṣa-mantra) đi đến cứu Ly Xa khiến được giải thoát”

Bấy giờ, Mục Kiền Liên nương theo oai thần của Đức Phật từ trong rừng Sa La ẩn mất, rồi hiện ra ở trong nhà của trưởng giả. Tức liền bảo rằng: “Các Ma, Tinh Mỵ hãy lắng nghe! Đức Vô Thượng Thích Ca Mâu Ni Phật sai Ta trì Đại Phóng Quang Phật Đảnh Thần Chú hàng phục Ma quân các ngươi, cứu hộ trưởng giả”

Quỷ Thần ấy lui tan chạy đi, liền vào rừng lạnh (Śīta-vana: hàn lâm, rừng để xác chết) gây não loạn khiến Tôn Giả A Nan (Ānanda) chẳng tiến lên phía trước được.

Khi ấy, các Ma, Quỷ Thần biết Đức Phật muốn vào Niết Bàn, nên có Ma dấy lên nhiễu loạn A Nan. Thời có một vị Đại Tướng Quân tên là A Tra Bạc Câu Nguyên Soái (Aṭavaka) mới khởi Tâm phẫn nộ, liền triệu Trời, Rồng, A Tu La, tám Bộ Quỷ Thần, bốn vị Đại Thiên Vương, 28 Bộ Dược Xoa Đại Tướng, 42 Bộ La Sát Vương với Mãn Thiện làm bậc Thượng Thủ. Cũng triệu các vị Kim Cương Mật Tích, Mãnh Tướng Liệt Sĩ, Sư Tử Hống Vương, Mục Chân Lân Vương, Công Đức, Đại Biện, tất cả Thiên Thần, Khổng Tước Vương, Kim Sí Điểu Vương, Hàng Oán Điểu Vương, tất cả hằng sa Quỷ Thần, Người với Phi Nhân…..đều mặc áo giáp, chuyển Trời động đất. Bốn biển sôi sục, núi Đại Thiết Vi, núi Mục Chân Lân Đà, bảy lớp núi báu…rung lắc gào thét. Gió mây mù mịt kéo theo sấm sét, ánh sáng mặt trời biến đổi lui mất. Chư Thiên, Phạm Vương chẳng ở yên trong cung của mình, khuôn mặt của tất cả chúng sinh không có sắc sáng. Rồng, rắn, rùa, Ba Ba rời khỏi hang của mình. Quỷ Thần, Ma Vương kêu gào chạy trốn, đồng thanh xướng lên rằng: “Rất khổ thay! Buồn thay! Đau khổ quá!…”, hoảng sợ hoang mang, bỏ chạy, không biết phải đến chỗ nào.

Chúng trong Hội thảy đều nói: “Lạ thay! Có tướng ác nào mà thấy việc này khiến cho bốn Chúng của Ta đều quán thấy oai dũng mãnh?”. Liền đứng dậy, chắp tay rồi bạch Phật rằng: “Thế Tôn! Do có việc gì mà thấy tướng này, khiến cho tất cả Quỷ Thần, A Tu La chẳng yên ở chốn ấy? Nguyện xin Đức Phật thương xót hộ niệm chúng con”

Bấy giờ, Đức Phật bảo các Chúng Đẳng: “Nay Ta muốn Bát Niết Bàn (nhập vào Niết Bàn), giao phó các Pháp Tạng (Dharma-garbha) khiến vị kia thủ hộ. Nay tự hết thảy tất cả Quỷ Thần, A Tu La, Thiện Thần Hộ Pháp trấn thủ ở bốn phương, Tướng Quân Hộ Thế, Trì Quốc Thiên Vương, Kim Cang Lực Sĩ, Bát Nhã Thiện Thần, tám Bộ

Trời Rồng, Người với Phi Nhân thảy đều tập hội, kết lời thề, đồng Tâm hộ giữ Pháp Tạng của Phật cùng với chúng sanh các ngươi không có các suy não, từ nay về sau ngày đêm thường an.

Khi ấy, Nguyên Soái Đại Tướng triệu tập Thần Vương ở bốn phương đồng đến chỗ của Đức Phật, đều cầm hương xoa bôi, bột hương, áo Trời, Anh Lạc… vây quanh trăm ngàn vạn vòng, đảnh lễ bàn chân của Đức Phật, lui ra trụ một bên, đồng thanh bạch Phật rằng: “Thế Tôn! Con nghe Đức Thế Tôn muốn Bát Niết Bàn, chúng sinh luyến mộ như con yêu mẹ, Tâm không có tạm buông, Tim gan của nhóm Thần Vương ấy như bị đứt đoạn. Nguyện xin Đức Thế Tôn trụ lại ở đời cưu độ chúng sanh cùng với chúng con, an nhập Niết Bàn”

Lúc đó, A Tra Bạc Câu (Aṭavaka) cùng với vô ương số Đại Thần nói Kệ rằng:

Thiên Trung Thiên (Đức Phật) (của) chúng con

Thương lo cho tất cả Trời, Rồng, A Tu La

Chúng Quỷ Thần tám Bộ

Kính ngưỡng như cha mẹ

Tâm không có tạm lìa

Một ngày xướng lên là

Ta sẽ vào Niết Bàn

Chúng Đại Thần chúng con

Tim gan đứt từng đoạn

Nguyện xin Đại Từ Bi

Thương xót các chúng sanh

Độ con với Đại Chúng

An ổn vào Niết Bàn”

Bấy giờ, Đức Phật bảo Đại Chúng rằng: “Các ngươi! Đại Tướng Lực Sĩ hãy nghe cho kỹ! Ta sẽ vì ngươi. Pháp Xuất Thế của Như Lai như hoa Mạn Đà (Māndāra) đúng thời mới hiện ra một lần, chúng sinh nhìn thấy, Tâm không có nhàm chán. Nếu Ta trụ lâu ở đời thời cùng với Ma (Mārā) gây oán, chúng sanh khinh chê, khiến chúng sanh ấy chìm trong biển khổ. Nguyên Soái các ngươi ở trong chư Thần là bậc cao nhất, uy lực kỳ lạ đặc biệt, được Như Lai hộ niệm. Sau khi Ta nhập diệt thì thủ hộ Pháp Tạng kèm với chúng sanh khiến lìa nạn khổ”

Khi ấy, Đại Nguyên Soái A Tra Bạc Câu cùng với Tịnh Cư Thiên Vương (Śuddhāvāsa-deva-rāja), Tán Chi Quỷ Thần (Pañcika), Đề Đầu Lại Tra (Dhṛtarāṣṭra: Trì Quốc Thiên Vương) là bậc Thượng Thủ bạch Phật rằng: “Thế Tôn! Ngày nay chúng con đồng Tâm thệ nguyện, kết Đại Kim Cang tồi phục tất cả Quỷ Thần mạnh ác, muốn khiến hàng phục tất cả oan gia, người ác, giặc ác… muốn hộ giúp các quốc vương, người dân an vui, muốn khiến cho chúng sanh sùng kính Tam Bảo, muốn khiến cho Ngoại Đạo, Ma Vương Ba Tuần (Pāpīyas) sinh Tâm Bồ Đề (Bodhi-citta), muốn khiến cho chúng sanh không có bệnh ràng buộc thân, muốn khiến cho không có vị Thần nào trái ngược với chúng sanh

Thế Tôn! Nay con muốn khiến đem trăm ức hằng hà sa Lực Sĩ Thần Vương Quân ở trước mặt Đức Phật đồng Tâm che giúp chúng sinh lìa sự trói buộc của các Ma.

Thế Tôn! Con ở Đại Hội kết Đại Thần Chú tên là Cam Lộ Vô Biên Đà La Ni tồi phục Ngoại Đạo, Ma ác, Quỷ Thần với quốc vương ác, đại thần ác… với quay trở lại sáu nẻo kia nhiếp dẫn chúng sanh không có ai bị tổn hại”

Đức Phật bảo A Tra Bạc Câu Nguyên Soái Đại Tướng: “Ta biết chúng sanh yếu kém chẳng thể trì Vô Biên Thần Chú của ngươi. Ta sợ ở đời sau gây tổn hại cho các chúng sanh”

Lúc đó, Thiên Thần Vương ở bốn phương, Phạm Thiên, Đế Thích bạch Phật rằng: “Thế Tôn! Chú này có Tính mạnh bạo cực ác, ắt có tổn hại”

Khi ấy, A Tra Bạc Câu cùng với Na Tra Vương, Khả Úy Vương, Bạt Sơn Vương đều nói: “Thế Tôn! Tất cả chư Phật dùng sức Đại Bi thương xót dẫn nhiếp chúng sanh…như A Nan do bị Chiên Đà La Nữ mê hoặc.

Bạch Đức Thế Tôn! A Lê Đà Dưọc Xoa Vương trụ ở Hàn Sơn thống lãnh chín vạn quyến thuộc, một ngày ăn nuốt chúng sanh vô lượng vô viên, tất cả Kim Cang Lực Sĩ, Thiên Thần binh chẳng thể tồi phục. Đức Thế Tôn quyền hóa mà sinh Nguyên Soái cho nên hóa làm thân Đại Lực Oai Thần Tướng rung chuyển cung điện kia, lúc đó trong miệng của Quỷ Vương tuôn ra máu, hôn mê té xuống đất, biết chẳng lâu sẽ chết… rồi lại bắt đầu buông tha.

Thế Tôn! Do đấy mới biết thân của Đại Tướng có oai đức không gì so sánh được.

Thế Tôn! Nếu con muốn hành Bồ Tát Hạnh (Bodhisatva-caryā), Từ Bi dẫn nhiếp, tức Quỷ Vương Lực Sĩ nghĩ là hung bạo hại diệt chúng sanh, hoặc con hiện làm Mã Đầu Kim Cang Vương tức chúng sinh sợ hãi, hoặc làm Đại Quang Lực Sĩ tức cung thất của A Tu La chẳng yên

Bạch Đức Thế Tôn! Thế nên con làm Nguyên Soái Đại Tướng tức chúng sanh ưa thích nhìn.

Thế Tôn! Con sợ sau khi Đức Thế Tôn diệt độ, trong trăm kiếp, Phật Pháp dần dần bị biệt, Bồ Tát chẳng thấy, Kim Cang tùy ở nơi khoái lạc thanh tịnh, chúng sanh Phước mỏng, Ma Mỵ tăng thịnh, quốc vương không có oai đức; vương tử, thần dân không có khoái lạc. Xâm nhiễu chúng sanh, hoặc hút tinh khí, ăn máu thịt hoặc khiết cho chúng sanh bị chết yểu, ở trong thai mẹ đã bị chết. Ngay lúc này thời con hay ngày đêm chẳng lìa, hộ trì tất cả chúng sanh sinh tử, lìa phiền não chìm đắm ấy

Thế Tôn! Thân con hiện tướng ác nhưng Tâm làm Đại Bi, như quốc vương kia nuôi dưỡng người dân không có khác. Nếu Phật Tử nơi nơi chốn chốn, hoặc ở trong tháp, trong miếu, trong đường đi ở núi rừng, trong nơi hoang vắng… thì Con thề sẽ thương xót, ủng hộ chẳng khiến gặp điều ác.

Đức Thế Tôn biết chí của con, xin nhận Thần Chú của chúng con”

_Đức Phật nói: “Đúng như vậy! Trong ngàn kiếp sau, hộ trì Pháp Tạng của Ta, việc lớn chẳng thể nghĩ bàn, nên vì các chúng sanh đời sau, khéo nói Thần Chú”

Bấy giờ, trăm ức Đại Soái đồng Tâm ở trước mặt Đức Phật, đảnh lễ hai bàn chân của Đức Thế Tôn, rồi đứng ở một bên, nói A Tra Bạc Câu Đại Nguyên Soái Vô Biên Thần Lực Cam Lộ Chú là:

Nẵng mô a la đát na, đa la da dã

𑖡𑖦𑖯 (?𑖡𑖦𑖺) 𑖨𑖝𑖿𑖡-𑖝𑖿𑖨𑖧𑖯𑖧

*) NAMĀ (?NAMO) RATNA-TRAYĀYA

Nẵng mạc thất chiên đà, bạt chiết la ba na duệ, ma ha dược xoa thiến na ba đa duệ

𑖡𑖦𑖾 𑖫𑖿𑖓𑖜𑖿𑖚-𑖪𑖕𑖿𑖨-𑖢𑖯𑖜𑖧𑖸 𑖦𑖮𑖯-𑖧𑖎𑖿𑖬-𑖭𑖸𑖡𑖢𑖝𑖧𑖸

*)NAMAḤ ŚCAṆḌA-VAJRA-PĀṆAYE MAHĀ-YAKṢA-SENAPATAYE

Nẵng mô a tra bạc câu da, ma ha bạc câu đa da, ma ha dược xoa na da, ma hề thủ la da, bán

𑖡𑖦𑖺 𑖀𑖘𑖪𑖎𑖲𑖧 (?𑖀𑖘𑖪𑖎𑖯𑖧) 𑖦𑖮𑖯-𑖪𑖎𑖲𑖘𑖧 𑖦𑖮𑖯-𑖧𑖎𑖿𑖬-𑖡𑖧 𑖦𑖮𑖸𑖫𑖲𑖨𑖧 (?𑖦𑖮𑖸𑖫𑖿𑖪𑖨𑖯𑖧) 𑖣𑖘𑖿

*) NAMO AṬAVAKUYA (?AṬAVAKĀYA) MAHĀ-VAKUṬAYA MAHĀ-YAKṢA-NAYA MAHEŚURAYA (?MAHEŚVARĀYA) PHAṬ

Tỳ ma chất đá la da, phán

𑖪𑖰𑖦𑖓𑖰𑖝𑖿𑖨𑖧 𑖣𑖘𑖿

*)VIMACITRAYA PHAṬ

Na tra câu phạt la da, bán

𑖡𑖘-𑖎𑖲𑖤𑖨𑖧 (?𑖡𑖘-𑖎𑖳𑖤𑖨𑖯𑖧) 𑖣𑖘𑖿

*)NAṬA-KUBARAYA (?NAṬA-KŪBARĀYA) PHAṬ

A ha, a ha, a ha, a ha, hồng hồng hồng hồng, duệ duệ duệ duệ, tra tra tra tra, ni lam bà da, bán

𑖀𑖮 𑖀𑖮 𑖀𑖮 𑖀𑖮_ 𑖮𑖳𑖽 𑖮𑖳𑖽 𑖮𑖳𑖽 𑖮𑖳𑖽_ 𑖧𑖸 𑖧𑖸 𑖧𑖸 𑖧𑖸_ 𑖘 𑖘 𑖘 𑖘_ 𑖜𑖰𑖨𑖽𑖥𑖧 (?𑖡𑖰𑖩𑖦𑖿𑖤𑖯𑖧) 𑖣𑖘𑖿

*)AHA AHA AHA AHA_ HŪṂ HŪṂ HŪṂ HŪṂ_ YE YE YE YE_ ṬA ṬA ṬA ṬA_ ṆIRAṂBHAYA (?NILAMBĀYA) PHAṬ

Kiền đà la bà da, bán

𑖐𑖡𑖿𑖠𑖨𑖪𑖧 (?𑖐𑖡𑖿𑖠𑖨𑖿𑖪𑖯𑖧) 𑖣𑖘𑖿

*)GANDHARAVAYA (?GANDHARVĀYA) PHAṬ

Tỳ xá già da, sa bà ha

𑖢𑖰𑖫𑖓𑖧 (?𑖢𑖰𑖫𑖯𑖓𑖯𑖧) 𑖭𑖿𑖪𑖯𑖮𑖯

*)PIŚACAYA (?PIŚĀCĀYA) SVĀHĀ

Nẵng mô bà già phạm, bạt chiết la quân tra lợi da, bán

𑖡𑖦𑖺 𑖥𑖐𑖪𑖽 𑖪𑖕𑖿𑖨-𑖎𑖲𑖜𑖿𑖚𑖨𑖰𑖧 (?𑖪𑖕-𑖎𑖲𑖜𑖿𑖚𑖩𑖰𑖧) 𑖣𑖘𑖿

*)NAMO BHAGAVAṂ VAJRA-KUṆḌARIYA (?VAJA-KUṆḌALIYA) PHAṬ

Bạt chiết la, tô tất địa da, bán

𑖪𑖕𑖿𑖨 𑖭𑖲𑖭𑖰𑖟𑖿𑖠𑖰𑖧 𑖣𑖘𑖿

*)VAJRA SUSIDDHIYA PHAṬ

Bà già bà để, a tra bạc câu da, bán

𑖥𑖐𑖪𑖝𑖰 𑖀𑖘𑖪𑖎𑖲𑖧 (?𑖀𑖘𑖪𑖎𑖯𑖎) 𑖣𑖘𑖿

*)BHAGAVATI AṬAVAKUYA (?AṬAVAKĀKA) PHAṬ

Tỳ Sa Môn da, bán

𑖪𑖰𑖫𑖦𑖲𑖽𑖧 (?𑖪𑖹𑖫𑖿𑖨𑖪𑖜𑖯𑖧) 𑖣𑖘𑖿

*)VIŚAMUṂYA (?VAIŚRAVAṆĀYA) PHAṬ

Bà tra, bà tra da, bán

𑖥𑖘 𑖥𑖘𑖧 𑖣𑖘𑖿

*)BHAṬA BHAṬAYA PHAṬ

Nhân đà la da, bán

𑖂𑖡𑖿𑖟𑖿𑖨𑖧 𑖣𑖘𑖿

*)INDRAYA PHAṬ

Dược xoa lại tra da, bán

𑖧𑖎𑖿𑖬 𑖨𑖘𑖧 (?𑖧𑖎𑖿𑖬 𑖟𑖴𑖛-𑖨𑖯𑖬𑖿𑖘𑖿𑖨𑖯𑖧) 𑖣𑖘𑖿

*)YAKṢA RAṬAYA (?YAKṢA DṚḌHA-RĀṢṬRĀYA) PHAṬ

Tỳ lô đà ca da, bán

𑖪𑖰𑖨𑖲𑖥𑖎𑖧 (?𑖪𑖰𑖨𑖳𑖛𑖎𑖯𑖧) 𑖣𑖘𑖿

*)VIRUBHAKAYA (?VIRŪḌHAKĀYA) PHAṬ

Tỳ lô bác xoa, dược xoa da, bán

𑖪𑖰𑖨𑖳𑖢𑖎𑖿𑖬 (?𑖪𑖰𑖨𑖳-𑖢𑖯𑖎𑖿𑖬) 𑖧𑖎𑖿𑖬𑖧 𑖣𑖘𑖿

*)VIRŪPAKṢA (?VIRŪ-PĀKṢA) YAKṢAYA PHAṬ

Bà la ma da, bán

𑖪𑖨𑖦𑖧 𑖣𑖘𑖿

*) VARAMAYA PHAṬ

Tốc khư, tốc khư, sa bà ha

𑖭𑖲𑖏 𑖭𑖲𑖏 𑖭𑖿𑖪𑖯𑖮𑖯

*)SUKHA SUKHA SVĀHĀ

Ma ha dược xoa, sa bà ha

𑖦𑖮𑖯-𑖧𑖎𑖿𑖬 𑖭𑖿𑖪𑖯𑖮𑖯

*)MAHĀ-YAKṢA SVĀHĀ

Già già la, già già la, hô-hồng bán, hô-hồng bán

𑖐𑖐𑖨 𑖐𑖐𑖨 𑖮𑖳𑖽 𑖣𑖘𑖿 𑖮𑖳𑖽 𑖣𑖘𑖿

*)GAGARA GAGARA HŪṂ PHAṬ HŪṂ PHAṬ

Ma ni bạt đà la dã, bán

𑖦𑖜𑖰-𑖥𑖟𑖿𑖨𑖧 𑖣𑖘𑖿

*)MAṆI-BHADRAYA PHAṬ

Na la diên da, bán

𑖡𑖨𑖧𑖽𑖧 (?𑖡𑖯𑖨𑖯𑖧𑖜𑖯𑖧) 𑖣𑖘𑖿

*) NARAYAṂYA (?NĀRĀYAṆĀYA) PHAṬ

Ma ha ca la da, bán

𑖦𑖮𑖯-𑖎𑖨𑖧 (?𑖦𑖮𑖯-𑖎𑖯𑖩𑖯𑖧) 𑖣𑖘𑖿

*)MAHĀ-KARAYA (?MAHĀ-KĀLĀYA) PHAṬ

A nậu đà da, bán

𑖀𑖡𑖲𑖟𑖧 (?𑖡𑖡𑖿𑖟𑖯𑖧) 𑖣𑖘𑖿

*)ANUDAYA (?NANDĀYA) PHAṬ

Ẩu ba nan đà da, bán

𑖄𑖢𑖡𑖡𑖿𑖟𑖧 (?𑖄𑖢𑖡𑖡𑖿𑖟𑖯𑖧) 𑖣𑖘𑖿

*)UPANANDAYA (?UPANANDĀYA) PHAṬ

Bộ kì la da, bán

𑖥𑖲𑖎𑖰𑖨𑖧 𑖣𑖘𑖿

*)BHUKIRAYA PHAṬ

Bố đan na da, bán

𑖢𑖳𑖝𑖡𑖧 (?𑖢𑖳𑖝𑖡𑖯𑖧) 𑖣𑖘𑖿

*)PŪTANAYA (?PŪTANĀYA) PHAṬ

Hắc bố đan na da, bán

𑖙𑖢𑖲𑖝𑖡𑖧 (?𑖎𑖘-𑖢𑖳𑖝𑖡𑖯𑖧) 𑖣𑖘𑖿

*)ṬHAPUTANAYA (?KAṬA-PŪTANĀYA) PHAṬ

Diêm ma la già da, bán

𑖧𑖽𑖦-𑖨𑖕𑖧 (?𑖧𑖦-𑖨𑖯𑖕𑖯𑖧) 𑖣𑖘𑖿

*)YAṂMA-RAJAYA (?YAMA-RĀJĀYA) PHAṬ

Mục chân lân đa da, bán

𑖦𑖲𑖾𑖭𑖰𑖽𑖨𑖰𑖽𑖧 (?𑖦𑖲𑖓𑖰𑖩𑖰𑖡𑖿𑖟𑖯𑖧) 𑖣𑖘𑖿

*)MUḤSIṂRIṂYA (?MUCILINDĀYA) PHAṬ

Tố lỗ, cưu bàn trà da, bán, hồng hồng hồng hồng

𑖭𑖲𑖨𑖲 𑖎𑖲𑖦𑖿𑖥𑖜𑖧 (?𑖎𑖲𑖦𑖿𑖥𑖜𑖿𑖚𑖯𑖧) 𑖣𑖘𑖿 𑖮𑖳𑖽 𑖮𑖳𑖽 𑖮𑖳𑖽 𑖮𑖳𑖽

*)SURU KUMBHAṆAYA (?KUMBHAṆḌĀYA) PHAṬ_ HŪṂ HŪṂ HŪṂ HŪṂ

Thiện Nữ Công Đức da, bán

𑖧 (?𑖫𑖿𑖨𑖱-𑖟𑖸𑖪𑖱𑖧) 𑖣𑖘𑖿

*)YA (?ŚRĪ-DEVĪYA) PHAṬ

Giáng oán da, hồng bán, hồng hồng hồng hồng, bán bán bán bán

𑖧 𑖮𑖳𑖽 𑖣𑖘𑖿 𑖮𑖳𑖽 𑖮𑖳𑖽 𑖮𑖳𑖽 𑖮𑖳𑖽 𑖮𑖳𑖽_ 𑖣𑖘𑖿 𑖣𑖘𑖿 𑖣𑖘𑖿 𑖣𑖘𑖿

*)( Giáng oán) YA HŪṂ PHAṬ_ HŪṂ HŪṂ HŪṂ HŪṂ HŪṂ_ PHAṬ PHAṬ PHAṬ PHAṬ

Dược xoa, dược xoa, tốc tốc tốc tốc, bán bán bán bán

𑖧𑖎𑖿𑖬 𑖧𑖎𑖿𑖬 𑖣𑖘𑖿 𑖣𑖘𑖿 𑖣𑖘𑖿 𑖣𑖘𑖿

*) YAKṢA YAKṢA (tốc tốc tốc tốc) PHAṬ PHAṬ PHAṬ PHAṬ

Ma ha dược xoa, dược xoa, tốc tốc tốc tốc, bán bán bán bán, sa bà ha

𑖦𑖮𑖯-𑖧𑖎𑖿𑖬 𑖧𑖎𑖿𑖬 𑖣𑖘𑖿 𑖣𑖘𑖿 𑖣𑖘𑖿 𑖣𑖘𑖿𑖭𑖿𑖪𑖯𑖮𑖯

*) MAHĀ-YAKṢA YAKṢA (tốc tốc tốc tốc) PHAṬ PHAṬ PHAṬ PHAṬ_SVĀHĀ

Đà đà đà đà, đà ha đà ha, bát chá bát chá, sắc sắc sắc sắc, bà la bà la, bạt chiết la, hà tra hà tra, bán, toa ha, thôn nhiếp, sa bà ha

𑖟𑖟 𑖟𑖟 (?𑖮𑖡 𑖮𑖡), 𑖟𑖮 𑖟𑖮, 𑖢𑖓 𑖢𑖓, 𑖤𑖩 𑖤𑖩, 𑖪𑖨 𑖮𑖘 𑖮𑖘, 𑖣𑖘𑖿 𑖭𑖿𑖪𑖯𑖮𑖯_ ?𑖏𑖯𑖟𑖧) 𑖭𑖿𑖪𑖯𑖮𑖯

*)DADA DADA (?HANA HANA), DAHA DAHA, PACA PACA, (sắc sắc sắc sắc), BALA BALA, VARA HAṬA HAṬA, PHAṬ SVĀHĀ_ (thôn nhiếp ?KHĀDAYA) SVĀHĀ

a tra, a tra, a ha a ha, hồng khiếm, hồng khiếm, chước yết la, hộ đế, bạt chiết la, lực lực lực lực, bạt bạt bạt bạt, cấp cấp cấp cấp, tần đà tần đà diêm, bà diêm bà, nhiếp trì sư tử vương, hống hống hống hống, tăng già la xà, hống hống hống hống, lặc hầu lặc hầu, hồng bán tra, a tra bà câu da, hồng bán tra, bán tra, sa bà ha

𑖀𑖘 𑖀𑖘, 𑖀𑖮 𑖀𑖮, 𑖮𑖳𑖽 𑖏𑖽 𑖮𑖳𑖽 𑖏𑖽, 𑖓𑖎𑖿𑖨 𑖮𑖲𑖝𑖸 𑖪𑖕𑖿𑖨, 𑖪 𑖪 𑖪 𑖪,𑖥𑖰𑖡𑖿𑖟

*)AṬA AṬA, AHA AHA, HŪṂ KHAṂ HŪṂ KHAṂ, CAKRA HUTE VAJRA (lực lực lực lực), VA VA VA VA, (cấp cấp cấp cấp), BHINDA

𑖥𑖰𑖡𑖿𑖟𑖧, 𑖥𑖧𑖽 𑖥

BHINDAYA, BHAYAṂ BHA, (nhiếp trì sư tử vương, hống hống hống hống),

𑖭𑖰𑖽𑖮-𑖨𑖕 (?𑖭𑖰𑖽𑖮-𑖨𑖯𑖕), 𑖨𑖲𑖮𑖲 𑖨𑖲𑖮𑖲, 𑖮𑖳𑖽 𑖣𑖘𑖿, 𑖀𑖘𑖪𑖎𑖲𑖧 (?𑖀𑖘𑖪𑖎𑖯𑖧) 𑖮𑖳𑖽 𑖣𑖘𑖿 𑖣𑖘𑖿 𑖭𑖿𑖪𑖯𑖮𑖯

SIṂHA-RAJA (?SIṂHA-RĀJA), (hống hống hống hống), RUHU RUHU, HŪṂ PHAṬ, AṬAVAKUYA (?AṬAVAKĀYA) HŪṂ PHAṬ PHAṬ SVĀHĀ

_A Tra Bạc Câu Tâm Chú:

Úm, lặc xoa lặc xoa, tốc tốc tốc tốc, bán bán bán bán, sa bà ha

Tán chỉ ca da, bán, ma ha tán chỉ ca da, bán, ma ni bạt đà la da, bán, ma ha ma ni bạt đà la da, bán, la sát, la sát bán, ma ha la sát bán, dược xoa dược xoa, ma ha dược xoa, dược xoa, bán, tra tra tra tra, sắc sắc sắc sắc, phạ phạ phạ phạ, hồng hồng hồng hồng, duệ duệ duệ duệ, bán bán bán bán, khư khư khư khư, hỏa cấp, duệ, a tra bạc câu da, hồng bán tra

𑖌𑖼_ 𑖨𑖎𑖿𑖬 𑖨𑖎𑖿𑖬, 𑖣𑖘𑖿 𑖣𑖘𑖿 𑖣𑖘𑖿 𑖣𑖘𑖿

*)OṂ_ RAKṢA RAKṢA, (tốc tốc tốc tốc), PHAṬ PHAṬ PHAṬ PHAṬ

𑖭𑖿𑖪𑖯𑖮𑖯

SVĀHĀ

𑖭𑖽𑖓𑖰𑖎𑖧 (?𑖢𑖗𑖿𑖓𑖰𑖎𑖯𑖧) 𑖣𑖘𑖿 𑖦𑖮𑖯-𑖭𑖽𑖓𑖰𑖎𑖧 (?𑖦𑖮𑖯𑖢𑖗𑖿𑖓𑖰𑖎𑖯𑖧) 𑖣𑖘𑖿 𑖦𑖜𑖰-𑖥𑖟𑖿𑖨𑖧 𑖣𑖘𑖿, 𑖦𑖮𑖯-𑖦𑖜𑖰-𑖥𑖟𑖿𑖨𑖧

SAṂCIKAYA (?PAÑCIKĀYA) PHAṬ MAHĀ-SAṂCIKAYA (?MAHĀPAÑCIKĀYA) PHAṬ_ MAṆI-BHADRAYA PHAṬ, MAHĀ-MAṆI-BHADRAYA

𑖣𑖘𑖿 𑖨𑖎𑖿𑖬 𑖨𑖎𑖿𑖬 (?𑖨𑖯𑖎𑖿𑖬𑖭 𑖨𑖯𑖎𑖿𑖬𑖭) 𑖣𑖘𑖿, 𑖦𑖮𑖯-𑖨𑖎𑖿𑖬

PHAṬ_ RAKṢA RAKṢA (?RĀKṢASA RĀKṢASA) PHAṬ, MAHĀ-RAKṢA

(?𑖦𑖮𑖯-𑖨𑖯𑖎𑖿𑖬𑖭) 𑖣𑖘𑖿 𑖧𑖎𑖿𑖬 𑖧𑖎𑖿𑖬 𑖣𑖘𑖿, 𑖦𑖮𑖯-𑖧𑖎𑖿𑖬 𑖧𑖎𑖿𑖬 𑖣𑖘𑖿 𑖘 𑖘 𑖘 𑖘, _ 𑖪 𑖪 𑖪 𑖪_ 𑖮𑖳𑖽 𑖮𑖳𑖽 𑖮𑖳𑖽 𑖮𑖳𑖽_ 𑖧𑖸 𑖧𑖸 𑖧𑖸 𑖧𑖸_ 𑖣𑖘𑖿 𑖣𑖘𑖿 𑖣𑖘𑖿 𑖣𑖘𑖿 𑖏𑖏 𑖏𑖏 𑖧𑖸 𑖀𑖘𑖪𑖎𑖲𑖧 (?𑖀𑖘𑖪𑖎𑖯𑖧) 𑖮𑖳𑖽 𑖣𑖘𑖿

(?MAHĀ-RĀKṢASA) PHAṬ_ YAKṢA YAKṢA PHAṬ, MAHĀ-YAKṢA YAKṢA PHAṬ_ ṬA ṬA ṬA ṬA, (sắc sắc sắc sắc) _ VA VA VA VA_ HŪṂ HŪṂ HŪṂ HŪṂ_ YE YE YE YE_ PHAṬ PHAṬ PHAṬ PHAṬ_ KHAKHA KHAKHA (hỏa cấp) YE AṬAVAKUYA (?AṬAVAKĀYA) HŪṂ PHAṬ

_A Tra Bạc Câu Tâm Chú là:

Úm, sắc sắc sắc sắc, bà la bà đế, toa ha. A tra, a tra duệ, bán, sa bà ha. Thôn nhiếp sa bà ha. A tra, a tra, hồng khiếm, hồng khiếm, chước yết la, hộ đế, bạt chiết la, lực lực lực lực, bán bán bán bán, cấp cấp cấp cấp, tần na tần na, diêm bà diêm bà, nhiếp trì, nhiếp trì, tăng già la xà, hống hống hống hống, la cồ da, hồng, hầu hầu hầu hầu, tra tra tra tra, a tra bạc câu da, sa bà ha

𑖌𑖼_, 𑖤𑖩 𑖪𑖝𑖸 𑖭𑖿𑖪𑖯𑖮𑖯

*)OṂ_ (sắc sắc sắc sắc), BALA VATE SVĀHĀ

𑖀𑖘 𑖀𑖘 𑖀𑖘𑖧𑖸 𑖣𑖘𑖿 𑖭𑖿𑖪𑖯𑖮𑖯_ (𑖏𑖯𑖟𑖧) 𑖭𑖿𑖪𑖯𑖮𑖯

AṬA AṬA AṬAYE PHAṬ SVĀHĀ_ (thôn nhiếp ?KHĀDAYA) SVĀHĀ

𑖀𑖘 𑖀𑖘 𑖮𑖳𑖽 𑖏𑖽 𑖮𑖳𑖽 𑖏𑖽_ 𑖓𑖎𑖿𑖨 𑖮𑖲𑖝𑖸 𑖪𑖕𑖿𑖨, 𑖣𑖘𑖿 𑖣𑖘𑖿 𑖣𑖘𑖿 𑖣𑖘𑖿 𑖥𑖰𑖡𑖿𑖟 𑖥𑖰𑖡𑖿𑖟_ 𑖧𑖽𑖥 𑖧𑖽𑖥 (?𑖕𑖽𑖥 𑖕𑖽𑖥),_ 𑖭𑖰𑖽𑖮𑖨𑖕 (?𑖭𑖰𑖽𑖮-𑖨𑖯𑖕) , 𑖨𑖐𑖳𑖧 (?𑖨𑖑𑖲𑖧) 𑖮𑖳𑖽_

AṬA AṬA HŪṂ KHAṂ HŪṂ KHAṂ_ CAKRA HUTE VAJRA (lực lực lực lực), PHAṬ PHAṬ PHAṬ PHAṬ (cấp cấp cấp cấp)_ BHINDA BHINDA_ YAṂBHA YAṂBHA (?JAṂBHA JAṂBHA), (nhiếp trì, nhiếp trì)_ SIṂHARAJA (?SIṂHA-RĀJA) (hống hống hống hống), RAGŪYA (?RAGHUYA) HŪṂ_

𑖮𑖲 𑖮𑖲 𑖮𑖲 𑖮𑖲_ 𑖘 𑖘 𑖘 𑖘_ 𑖀𑖘𑖪𑖎𑖲𑖧 (?𑖀𑖘𑖪𑖎𑖯𑖧) 𑖭𑖿𑖪𑖯𑖮𑖯

HU HU HU HU_ ṬA ṬA ṬA ṬA_ AṬAVAKUYA (?AṬAVAKĀYA) SVĀHĀ

Thế Tôn! Đây gọi là Vô Biên Cam Lộ Đà La Ni Thần Chú vì khắp tất cả chúng sanh làm Đại Cứu Hộ, người trì Chú này thảy đều an ổn, đều khiến cho chúng sanh được khoái lạc; lìa các khổ não, nạn vua chúa, nạn giặc cướp, nạn oan gia, nạn quân binh

Hoặc Trời, Rồng, Quỷ Thần; hoặc La Sát, Dạ Xoa, Cưu Bàn Trà, Cát Già, A Bà Sa Ma La, Bộ Đà, Tỳ Xá Già, Bố Đan Na, Ma Đăng Già, Chiên Đà La, Ngoại Đạo, Ba Tuần, Ni Kiền Đà, Hỏa Yêu, Thủy Yêu, Tra Kỳ Ni với con cái, quyến thuộc, nô tỳ, tất cả con của Rồng xấu có chất độc nhỏ bé (tiểu độc tệ Long tử)… hoặc biến hóa làm hình người nam, hình người nữ, hình chim thú, loài Rồng Rắn…hoặc có hình hoặc không có hình, hoặc có tay hoặc không có tay, hoặc có chân hoặc không có chân, hoặc nói hoặc chẳng nói mà đi đến…. thì nên nói là: “Dừng lại ngay, hãy đi ngược lại”.

Lại nữa, chúng sanh trong Thế Gian tùy theo loại có hình: hoặc cỏ cây, gạch đá, hoa quả, thức ăn uống, xiêm áo, chim thú, vật của Ngũ Hành hay gây biến quái, khốn cùng, suy não cho con người cũng đều trừ diệt.

Thế Tôn! Nếu có chúng sanh ganh ghét hãm hại lẫn nhau: hoặc làm thân người, hoặc làm hình của tất cả vật trong Thế Gian. Hoặc dẫn dắt Thần núi, Thần cây, Thần gò mả, Thần xã tắc, Thần mặt trời, Thần mặt trăng, Thần tinh tú; hoặc Thần gió, Thần lửa, Thần nước, Thần đất đai… cúng tế nói năng: đã làm, chưa làm, đã thành, chưa thành, đã hại, chưa hại… Nếu có nghe Cam Lộ Vô Biên Đại Thần Chú này thì khiến cho Quỷ Thần với người tạo làm kia, tự tiêu tự diệt không có dư sót.

Thế Tôn! Nếu có bệnh sốt rét do Bố Đan Na làm, hoặc A Bà Sa làm, hoặc Tra Kỳ Ni làm. Hoặc một ngày, hai ngày, ba ngày, bốn ngày; hoặc một tháng, nửa tháng, một năm, nửa năm… nghe Thần Chú này tức được trừ diệt.

Hoặc có chúng sanh ở trong đời trước, chẳng kính Tam Bảo, khinh chê Pháp Tạng (Dharma-garbha). Hoặc được thân người chẳng đủ các Căn, mọi loại bệnh ác đeo bám nơi Thân, bị mụn nhọt ác, nhọt đầu đinh, ghẻ lở; hoặc bị bệnh Ca Ma La ràng buộc… Như chúng sanh này rất là đáng thương

Thế Tôn! Con muốn khiến cho chúng sanh ấy, sớm chiều phát Ý Vô Thượng Đạo, hối lỗi, tự trách nghiệp của thân trước, chẳng tiếc thân mạnh, Từ Bi tất cả, không có Tâm gây tổn hại, khiến cho Tam Bảo gia bị, khiến trừ tội của ba nghiệp, sác Căn thanh tịnh. Sau đó, sáng sớm tụng Chú này 108 biến, chú vào nước tắm gội thân tâm, chẳng trải qua mười ngày (tuần nhật) liền được trừ khỏi”

_Đức Phật nói: “Đúng như vậy! Đúng như vậy! Các ông đã nói thật không có khác. Chú này có lợi ích như vậy.

“Tất cả hàng Đại Chúng, Quỷ Thần

Thảy đều một lòng nghe Ta nói

Tám Bộ có Nguyên Soái Đại Tướng

Tên hiệu là A Tra Bạc Câu (Aṭavaka)

Đã thường cúng dường vô biên Phật

Nay lại gần gũi Thích Ca Văn (Śākya-muṇi)

Biến hiện thân Bồ Tát Đại Bi

Mà làm hình tượng rất đáng sợ

Tất cả Quỷ Thần đều quy phục

Chúng sanh Diêm Phù (Jambu-dvīpa) cũng như thế

Hay ở sáu đường nhổ mọi khổ

Thảy đều khiến cho được khoái lạc

Nếu có chúng sanh nghe tên ấy

Lìa hẳn tai nạn với nguy ách

Khi lâm chung thời chẳng kinh sợ

Bồ Tát vì mình, trao Bồ Đề (Bodhi)

Nếu có người trái ngược Chú này

Đời này lác hủi tuôn máu mủ

Sau đọa Địa Ngục chịu các khổ

Lại được thân người chẳng đủ Căn

Nay Ta triệu vời, vì Nguyên Soái

Hiệu là Cam Lộ Vô Biên Chú

Nếu có chúng sanh khéo thọ trì

Tất cả chư Phật đều chứng biết’

Lúc đó, A Tra Bạc Câu bạch Phật rằng: “Thế Tôn! Con là Nguyên Soái Đại Tướng trong tất cả tám Bộ Trời Rồng, Quỷ Thần, ATu La, Người với Phi Nhân… sai khiến Quỷ Thần thủ hộ đất nước, hộ trì chúng sanh đều do trì Thần Chú của con. Như vậy, sau khi Đức Như Lai nhập diệt, năm trăm đời sau Kiếp Trược loạn khởi, Quỷ Thần tăng thịnh, chúng sanh Phước mỏng bị các Quỷ Ma xâm hại. Hoặc uống tinh khí, hoặc ăn máu thịt khiến cho con người bị bệnh dịch, bệnh nóng sốt hoặc một ngày, hai ngày, ba ngày, bốn ngày cho đến bảy ngày, nửa tháng, một tháng. Hoặc đau đầu, đau tai, đau lưng, đau tim, đau tay, đau chân, đau tất cả chi tiết… đều được trừ diệt.

Tất cả Quỷ Thần như vậy, hoặc Trời, Rồng, Thần, càn Thát Bà, a Tu La, Dược

Xoa, La Sát, Bố Đan Na, Yết Tra Bố Đan Na, Ngoại Đạo, Thiên Ma Vương, Lục Đạo Phù Du Quỷ Thần. Hoặc người ác, giặc cướp ác, cọp, sói, sư tử, rết, mãng xà…nhóm như vậy gây hại cho con người. Dùng sức của Thần Chú này hay cấm trị, cột trói, chặt đứt hết Quỷ Thần ác, khiến các Đại Lực Sĩ nâng bánh xe ngàn căm đè nghiến cái đầu vỡ thành bảy phần, chẻ thân giống như bụi nhỏ, cấm phá mất Tánh Mạng, chẳng thể gây hại cho đất nước với chúng sanh.

Thế Tôn! Nay con lại nói Thần Chú khiến cho người thọ trì dùng để Kết Giới” A Tra Bạc Câu liền nói Kết Giới Chú là:

Úm (1) lặc xoa lặc xoa (2) tốc tốc tốc tốc (3) phán phán phán phán (4) sa bà ha (5)

𑖌𑖼_ 𑖨𑖲𑖎𑖿𑖬 𑖨𑖲𑖎𑖿𑖬 (?𑖨𑖎𑖿𑖬 𑖨𑖎𑖿𑖬) 𑖣𑖘𑖿 𑖣𑖘𑖿 𑖣𑖘𑖿 𑖣𑖘𑖿 𑖭𑖿𑖪𑖯𑖮𑖯

*)OṂ_ RUKṢA RUKṢA (?RAKṢA RAKṢA) (tốc tốc tốc tốc) PHAṬ PHAṬ PHAṬ PHAṬ SVĀHĀ

_Lại nói Bát Bộ Đô Chú là:

Nẵng mô bột đà da. Nẵng mô đạt ma da. Nẵng mô tăng già da. Nẵng mô bột lợi dược xoa. Nẵng mô đế bột lợi dược xoa. Nẵng mô yết lam dược xoa. Ha ha ha ha ha ha ha, hống hống hống hống hống hống hống, hề hề hề hề hề hề hề, đậu đậu đậu đậu đậu đậu đậu, phú phú phú phú phú phú phú, nữu nữu nữu nữu nữu nữu nữu, sát sát sát sát sát sát sát, lực lực lực lực lực lực lực, lặc lặc lặc lặc lặc lặc lặc, sắc sắc sắc sắc sắc sắc sắc, cấp cấp cấp cấp cấp cấp cấp, phạ phạ phạ phạ phạ phạ phạ, a tra bạc câu da, hồng hồng hồng, bán tra, toa ha

*)𑖡𑖦𑖺 𑖤𑖲𑖟𑖿𑖠𑖯𑖧
𑖡𑖦𑖺 𑖠𑖨𑖿𑖦𑖿𑖦𑖯𑖧 (?𑖠𑖨𑖿𑖦𑖯𑖧)
𑖡𑖦𑖺 𑖭𑖲𑖽𑖑𑖯𑖧 (?𑖭𑖽𑖑𑖯𑖧)
𑖡𑖦𑖺 𑖤𑖲𑖨𑖰-𑖧𑖎𑖿𑖬
𑖡𑖦𑖺 𑖝𑖸𑖤𑖲𑖨𑖰-𑖧𑖎𑖿𑖬
𑖡𑖦𑖺 𑖎𑖨𑖽-𑖧𑖎𑖿𑖬
𑖮 𑖮 𑖮 𑖮 𑖮 𑖮 𑖮_ 𑖮𑖸 𑖮𑖸 𑖮𑖸 𑖮𑖸 𑖮𑖸 𑖮𑖸 𑖮𑖸_ 𑖟𑖲 𑖟𑖲 𑖟𑖲 𑖟𑖲 𑖟𑖲 𑖟𑖲 𑖟𑖲_ 𑖢𑖲 𑖢𑖲 𑖢𑖲 𑖢𑖲 𑖢𑖲 𑖢𑖲 𑖢𑖲_ 𑖜𑖳 𑖜𑖳 𑖜𑖳 𑖜𑖳 𑖜𑖳 𑖜𑖳 𑖜𑖳_ 𑖎𑖿𑖬 𑖎𑖿𑖬 𑖎𑖿𑖬 𑖎𑖿𑖬 𑖎𑖿𑖬
𑖎𑖿𑖬 𑖎𑖿𑖬_𑖨𑖺𑖾 𑖨𑖺𑖾 𑖨𑖺𑖾 𑖨𑖺𑖾 𑖨𑖺𑖾 𑖨𑖺𑖾 𑖨𑖺𑖾_𑖪 𑖪 𑖪 𑖪 𑖪 𑖪 𑖪_ 𑖀𑖘𑖪𑖎𑖲𑖧 (?𑖀𑖘𑖪𑖎𑖯𑖧) 𑖮𑖳𑖽 𑖮𑖳𑖽 𑖮𑖳𑖽 𑖣𑖘𑖿 𑖭𑖿𑖪𑖯𑖮𑖯

*)NAMO BUDDHĀYA

NAMO DHARMMĀYA (?DHARMĀYA)

NAMO SUṂGHĀYA (?SAṂGHĀYA)

NAMO BURI-YAKṢA

NAMO TEBURI-YAKṢA

NAMO KARAṂ-YAKṢA

HA HA HA HA HA HA HA_ (hống hống hống hống hống hống hống)_HE HE HE HE HE HE HE_ DU DU DU DU DU DU DU_ PU PU PU PU PU PU PU_ ṆŪ ṆŪ ṆŪ ṆŪ ṆŪ ṆŪ ṆŪ_ KṢA KṢA KṢA KṢA KṢA

KṢA KṢA_ (lực lực lực lực lực lực lực)_ ROḤ ROḤ ROḤ ROḤ ROḤ ROḤ ROḤ_ (sắc sắc sắc sắc sắc sắc sắc)_( cấp cấp cấp cấp cấp cấp cấp)_ VA VA VA VA VA VA VA_ AṬAVAKUYA (?AṬAVAKĀYA) HŪṂ HŪṂ HŪṂ PHAṬ SVĀHĀ

Nếu muốn truy tìm Thần của tám Bộ thì kết Bát Bộ Ấn, tụng Bát Bộ Chú 21 biến thì vị Thần ấy liền đến.

Thế Tôn! Chỗ Kết Giới, một mặt khoảng một ngàn Do Tuần làm ranh giới thủ hộ. Trước tiên, Chú vào nước rải tán ở bốn phương. Lại Chú vào tro rải tán bốn phương. Lại Chú vào bột hương, đất sạch rồi rải tán bốn phương. Liền Chú vào hạt cải trắng (bạch giới tử) rồi rải tán bốn phương (một Bản nói rằng: đền chỗ này, hoặc Chú vào đao kiếm, hoặc Chú vào viên bùn ném ở bốn phương. Hoặc Chú vào cung tên bắn bốn phương) tận phần sức ấy thì nơi đã đến liền làm ranh giới, đều có Quỷ Thần, Trời, Rồng, a Tu La, bốn Thiên Vương đều thống lãnh Đại Dược Xoa Tướng của 28 Bộ, La Sát Quân Chúng của 42 Bộ, Long Vương, Cưu Bàn Trà Vương đồng Tâm thủ hộ, ngày đêm chẳng lìa, hộ trì người đó.

Thế Tôn! Khi muốn Kết Giới thời dùng nước nóng thơm tắm gội sạch sẽ, liền mặc quần áo thượng diệu, chẳng ăn thứ thuộc về ngũ tân, rượu, thịt. Vân đài, Hồ Tuy, La Bặc với Xuân Thông chẳng được đưa qua miệng, ăn chay (khiết trai) thanh tịnh.

Thế Tôn! Chú này uy mãnh tự tại kỳ lạ đặc biệt không có gì sánh bằng, như thân Kim Cang Bất Hoại của con. Tất cả Trời, Người, a La Hán, bốn Thiên Vưong hộ thế đều sanh vui vẻ thủ hộ người ấy, hay ở đời ác năm trược cứu giúp chúng sanh, nhổ mũi tên ba độc, quay lại sáu nẻo kia dẫn nhiếp khiến cho ra khỏi.

Đức Thế Tôn biết Tâm của con chăng?!…”

_Đức phật nói: “Đúng như vậy! Đúng như vậy”

_“Đức Thế Tôn sắc cho con làm Nguyên Soái hộ trì Pháp Tạng. Con từ vô thủy đến nay, oai lực thù đặc, địa vị đồng với mười Địa (Daśa-bhūmi). Nay con vì người trì Chú lại nói Hộ Thân Chú (Chú ấy sẽ nói ở lúc sau). Phàm đủ 7 biến, đốt hương, rưới vảy đất, khải thỉnh chư Phật Bồ Tát, Kim Cang, chư Thiên quá khứ hiện tại vị lai.

Tức trước tiên, tụng Chú này 21 biến kết Hư Không Giới, sau đó liền tụng Quân Trà Lợi Chú kết Giới, tiếp theo tụng Tứ Thiên Vương Chú kết Thiên Giới, tiếp theo tụng Bạt Xà La Chú kết Không Trung Đại Giới. Thỉnh Chuyển Luân Vương trong đời làm Đàn Chủ, tiếp theo thỉnh Sa Ma Vương Tướng làm Thủ Đàn Vương, tiếp theo hô gọi Nghiệp Thiên La Sát trợ Đàn.

Thỉnh Thần đều xong, liền khải thỉnh Lô Xá Na Phật (Locana-buddha), Quán Thế Âm Bồ Tát (Avalokiteśvara-bodhisatva) làm Hòa Thuợng, thỉnh Văn Thù Sư Lợi (Maṃjuśrī) tức làm chứng biết Kiên Lao Địa Thần (Dṛḍha-pṛthiviye) rồi báo rằng: “Tất cả Đại Thiện Thần Vương! Tôi muốn ở đất này đào đục đất của Đàn, khiến như Nguyện ấy

Liền đốt hương, để thức ăn cúng dường một đêm, ngày hôm sau khi mặt trời mới xuất hiện thời lấy một đấu nước hoa dưới giếng chia vào bốn vật khí an bốn phương, trên nước an đao, cung tên rồi đào xuống đất ba Xích (1 m) sẽ thấy vật ấy.

Như thấy con người thì sức Chú của người ấy hay làm cho núi sạt lở, biển khô cạn

Nếu thấy trùng thú thì sức Chú của người ấy cũng như được ngọc. Người ấy tức là người của Hội đầu tiên

Nếu được vàng bạc thì người ấy nhân vào Chú mà gàu có lớn

Nếu được loại đao, gậy, cung, tên thì người ấy ở bên trong Đàn, nhìn thấy vị

Thần của bài Chú (Chú Thần)

Nếu được thuốc thì người ấy khéo hay trừ bệnh

Nếu được sắt, đá thì người ấy rốt ráo chẳng thoái lùi, bền chắc, được Trí không có ngăn ngại

Nếu được Tướng xong, liền thọ nhận Trai Giới (Upoṣadha), lấy đất sạch ở nơi khác. Đào xuống đất ba Xích (1 m) loại bỏ đất xấu ác, lấy riêng đất sạch có màu, rây sàng hòa với bột hương rồi lấp đắp cao hơn mặt đất ba Xích (1 m), ở dưới vuông, bên trên tròn, mở làm 12 lối đi, dài rộng bốn khuỷu tay, dùng bùn năm màu xoa tô bốn phương. Đài bên dưới, dùng đất màu trắng hòa với nước nóng thơm xoa tô, bên trên dùng phân bò hòa với hương xoa tô

Trên Đàn ấy với trung ương an Xá Lợi, các thứ hương bên trong vật khí Lưu Ly trắng, bốn mặt của Xá Lợi an tòa ngồi của Bồ Tát.

Nền Đàn ở trung ương an 24 cái Táo Bình đều chứa đầy nước thơm, hoa sen, cành dương liễu.

Góc Đông Bắc của Đài, an tòa hoa sen xanh để tiếp đãi Ta (A Tra Bạc Câu).

Phương Đông an tòa ngồi của Đề Đầu Lại Tra (Dhṛta-rāṣṭra)

Góc Đông Nam an tòa ngồi của Quân Trà Lợi (Kuṇḍali)

Phương Nam an tòa ngồi của Tỳ Lậu Lặc Xoa (Virūḍhaka)

Phương Tây Nam an tòa ngồi của Bạt Xà La (Pañcala)

Phương Tây an tòa ngồi của Tỳ Lô Bác Xoa (Virūpākṣa)

Phương Tây Bắc an tòa ngồi của Đại Thanh Diện (Mahā-nīla-mukha)

Phương Bắc an tòa ngồi của Tỳ Sa Môn Thiên Vương (Vaiśravaṇa)

Bên dưới nền, nhiễu quanh Đàn đều an tòa ngồi, tổng cộng có 49 tòa ngồi, 49 cái bàn. Dựng 100 cây đao bén nhọn màu trắng, một nền ở đầu bên trên dựng 42 (?40) cây đao, nền ở giữa dựng 24 cây đao, nền bên dưới dựng 36 cây đao

Bên dưới nền, nhiễu quanh Đàn an 28 cây đao, 108 mũi tên, nền bên trên có 12 mũi tên, mặt phía Tây làm cửa, nên ở giữa có 20 mũi tên.

Bên ngoài nền bên dưới an bốn cái chậu nước, bên trong bồn để hoa

Bên ngoài nền bên trên an 12 cây gậy, tám cây Thiết Trượng, 10 cái Táo Bình an trăm cái lá, Bàn thức ăn dùng lá sen mà làm

Góc Tây Nam của Đàn an Địa Hỏa Lô (?lò lửa bằng đất), trung ương cao, bốn mặt thấp, thiêu đốt Tô Hợp, Mật, sáp

Nền bên trên an một lò hương

Ở trên Đàn an bốn Xá Lợi của Phật

Chú Sư ngồi trên cái chiếu cói, hướng mặt về phương Đông. Quỳ gối, tay bưng lò hương mà khải thỉnh xong, liền Kết Giới, tác Hoa Man Ấn ngửa nâng. Ngồi định xong, sau đó kết Giới xong, liền đốt hương, rải hoa, cúng thí thức ăn

Tiếp theo, trong lò ở phương Tây Nam này thiêu đốt mè, gạo tẻ (cánh mễ), mật, lạc (váng sữa), bơ kèm với thiêu đốt mọi loại thức ăn, lại nói là: “Hân hạnh xin tất cả chúng Thánh giáng lâm đến nơi này”. liền tụng Đại Chú 108 biến, tay cầm cái chày ấn lên mặt đất tụng, hoặc cầm cung tên thì Quỷ Thần liền đến.

Pháp ấy, khởi tu vào ngày 15 tháng Giêng là bậc Thượng, tháng khác là bậc Trung, Hạ. Bảy ngày vào Đàn, chí Tâm nhiếp Ý đừng sanh tán loạn, đêm ấy liền có một Đồng Tử (Kumāra) hiện ra. Đêm ngày thứ ba có 16 vị Vương Tử hiện ra. Ngày thứ năm dấy lên gió bụi lớn. Ngày thứ sáu tuôn mưa. Đêm ngày thứ bảy thì Ta (A Tra Bạc Câu) với Quán Thế Âm Bồ Tát, Tinh Mẫu, chư Phật mười phương, Quỷ Thần đều vào trong Đàn, tỏa hào quang chiếu sáng, trên Đàn: cung, đao tử phát sáng, bình nước tự di chuyển. Đêm hôm sau khi Ta hiện thân thời tất cả Quỷ Thần cũng đều hiện ra.

Nếu khi kết Giới thời đừng cho con nít, người nữ đi vào bên trong. Nếu 7 ngày kết Giới thì 7 ngày mới thành.

Giới (Sīmā) ấy thành xong thì không có Quỷ Thần ác vào bên trong quấy nhiễu. Hoặc hàng Trời tạo làm, hoặc Càn Đà Bà tạo làm, hoặc A Tu La tạo làm; hoặc Khẩn Na Na, Ca Lâu La tạo làm, hoặc La Sát tạo làm; hoặc Thần gió, Thần lửa tạo làm… thảy đều bị vỡ đầu, bị đập tan nát, mất niệm. Ta dùng bánh xe ngàn căm đè nghiền Quỷ Thần ấy khiến cho bị suy hại.

Nếu giặc ác vào bên trong Giới thì bị Hộ Giới Quỷ Vương chẻ nát thân diệt hết. Nếu người phạm vào Đàn thì Đại Lực Sĩ Kim Cang dùng lửa thiêu đốt khiến cho sưng vũ đỏ tấy trải qua ba ngày mới ngưng dứt. Người ấy chẳng như Pháp này mà làm thì liền bị tai ương hiểm họa.

Bảy ngày vào Đạo Tràng, một lần đi cầu thì một lần tắm gội, ba thời thay áo. Một ngày một đêm, sáu Thời hành Đạo, đảnh lễ 7 lạy. Một ngày, sáng sớm đều kết Giới một lần, muốn ăn thì trước tiên phải giải Giới, ban đêm khi nằm thì kết Tiểu Giới hộ Thân. Một lần ngồi thì tụng 49 biến là bậc Trung, 108 biến là bậc Thượng, 21 biến là bậc Hạ. Một ngày một đêm liền hay được hộ thân của mình, hai ngày thì hay hộ cho cả nhà, ba ngày trở đi thì hay hộ cho người khác, cột trói Quỷ Thần đều được, lời đã nói ra liền thành. Mãn 7 ngày thì tất cả Thiên Vương, A Tu La Vương, Long Vương, Tán Chi Quỷ Thần, Kim Cang Lực Sĩ luôn ở hai bên trái phải.

Nếu 7 ngày chẳng thành, thì lại thêm 7 ngày, 14 ngày, 21 ngày cho đến 49 ngày ắt thành.

Nếu nguyện làm Đại Lực Chú Sư thì đừng sanh ganh ghét gây hại tất cả hữu tình, đừng tác Tâm kiêu mạn, bàn luận nói về thân của Chú Thần, chẳng quá 100 ngày ắt thành tựu Đại Lực vô biên, Công Đức tròn đủ, địa vị thù đặc bậc nhất, thấm đẫm mười Địa.

Thế Tôn! Nay con vì người trì tụng thường làm cứu hộ” Rồi nói Chú là:

 

Úm, phán phán phán phán, toa ha. Tán chi ca phán, ma ha tán chi ca phán, ma ni bạt đà phán, ma ha ma ni bạt đà phán, la sát la sát phán, ma ha la sát, la sát phán, dược xoa dược xoa phán, ma ha dược xoa dược xoa phán, sắc sắc sắc sắc, phạ phạ phạ phạ, duệ duệ duệ duệ, hồng khư hồng khư, hỏa cấp duệ, toa ha

𑖌𑖼 𑖣𑖘𑖿 𑖣𑖘𑖿 𑖣𑖘𑖿 𑖣𑖘𑖿 𑖭𑖿𑖪𑖯𑖮𑖯_ 𑖭𑖽𑖓𑖰𑖎 (?𑖢𑖗𑖿𑖓𑖰𑖎) 𑖣𑖘𑖿 𑖦𑖮𑖯-𑖭𑖽𑖓𑖰𑖎 (?𑖦𑖮𑖯-𑖢𑖗𑖿𑖓𑖰𑖎) 𑖣𑖘𑖿 𑖦𑖜𑖰𑖥𑖡𑖿𑖟𑖿𑖨

*)OṂ PHAṬ PHAṬ PHAṬ PHAṬ SVĀHĀ_ SAṂCIKA (?PAÑCIKA) PHAṬ_ MAHĀ-SAṂCIKA (?MAHĀ-PAÑCIKA) PHAṬ_ MAṆIBHANDRA

(?𑖦𑖜𑖰-𑖥𑖟𑖿𑖨) 𑖣𑖘𑖿 𑖦𑖮𑖯-𑖦𑖜𑖰𑖥𑖡𑖿𑖟𑖿𑖨 (?𑖦𑖮𑖯-𑖦𑖜𑖰𑖥𑖟𑖿𑖨) 𑖣𑖘𑖿 𑖨𑖎𑖿𑖬 𑖨𑖎𑖿𑖬 (?𑖨𑖯𑖎𑖿𑖬𑖭 𑖨𑖯𑖎𑖿𑖬𑖭) 𑖣𑖘𑖿 𑖦𑖮𑖯𑖨𑖎𑖿𑖬 (?𑖦𑖮𑖯-𑖨𑖯𑖎𑖿𑖬𑖭) 𑖨𑖎𑖿𑖬 (?𑖨𑖯𑖎𑖿𑖬𑖭) 𑖣𑖘𑖿 𑖧𑖎𑖿𑖬 𑖧𑖎𑖿𑖬 𑖣𑖘𑖿 𑖦𑖮𑖯-𑖧𑖎𑖿𑖬 𑖧𑖎𑖿𑖬 𑖣𑖘𑖿 _ 𑖪 𑖪 𑖪 𑖪_ 𑖧𑖸 𑖧𑖸 𑖧𑖸 𑖧𑖸_ 𑖮𑖳𑖽 𑖏 (?𑖏𑖽) 𑖮𑖳𑖽 𑖏 (?𑖏𑖽)_ 𑖧𑖸 𑖭𑖿𑖪𑖯𑖮𑖯

(?MAṆI-BHADRA) PHAṬ_ MAHĀ-MAṆIBHANDRA (?MAHĀ-MAṆIBHADRA) PHAṬ_ RAKṢA RAKṢA (?RĀKṢASA RĀKṢASA) PHAṬ_ MAHĀRAKṢA (?MAHĀ-RĀKṢASA) RAKṢA (?RĀKṢASA) PHAṬ_ YAKṢA YAKṢA PHAṬ_ MAHĀ-YAKṢA YAKṢA PHAṬ_ (sắc sắc sắc sắc)_ VA VA VA VA_ YE YE YE YE_ HŪṂ KHA (?KHAṂ) HŪṂ KHA (?KHAṂ)_( hỏa cấp) YE SVĀHĀ

Thế Tốn Chú này có Thần Lực cực lớn, rất có oai đức, hay khiến cho ba ngàn Đại Thiên Thế Giới chấn động theo sáu cách, bốn biển phun trào khô cạn, đầp tan núi Tu Di như bụi nhỏ, dời núi, chận sông, mọi loại sự nghiệp thày đều sung mãn.

Nếu có Quỷ Thần, Tỳ Na dạ Ca (Vināyaka) gây chướng nạn, gây suy hại cho con người. Dùng Thần Chú này ném Quỷ Thần ấy vào trong hư không thì (Quỷ Thần ấy) chẳng thể xuống được, chẳng thể não hại.

Thế Tôn! Chú này vì khắp tất cả chúng sinh làm hộ giữ, làm cứu giúp. Nếu có Quỷ ác hút tinh khí của con người, hại sản nghiệp của con người, làm hao sút tài vật của con người. Như vậy, tất cả chúng sanh sợ hãi đều vì họ kết Giới, sẽ khiến cho Quỷ ác, người ác, giặc ác ấy tự tiêu tự diệt… với chim, thú, cỏ, cây, gạch, đá ở Thế Gian hay chứa chất độc hại người đều trừ diệt hết không có dư sót.

Thế Tôn! Chú này rất có Oai Thần, kỳ lạ, đặc biệt, mạnh bén, cực ác không có gì so sánh nổi.

Thế Tôn! Bát Tý Na La Diên Thiên Thần hay ở bên trong thân Tam Thập Tam Thiên, nhập vào trong hạt cải khiến cho Tích, Phạm Vương đều chẳng hay biết Thần Lực như vậy.

Thế Tôn! Như Thiên Thần ấy tràn đầy Thế Gian như gạo, mè, tre, lau… mỗi một vị Thiên Thần đều đồng Tâm, Tính, sức mạnh… Dùng oai lực Đại Vô Biên Thần Chú của con nếm Thiên Thân ấy vào Thế Giới ở phưong khác khiến cho Thiên Thần ấy chẳng hay chẳng biết. Oai Lực của con từ Vô Biên Tự Tại Nguyên Soái Đại Tướng như vậy.

Nếu Thiện Nam Tử, Thiện Nữ Nhân, quốc vương, đại thần thọ trì Chú này thì con sẽ cũng với tất cả Kim Cang Lực Sĩ, Trời, Rồng, A Tu La Vương, bốn Đại Thiên Vương, Dược Xoa Đại Tướng Quân của 28 Bộ, 42 Bộ La Sát Dược Xoa Vương, La Sát Cưu Bàn Trà Vương, Càn Thát Bà Vương, Khẩn Na La Vương, Giáng Oán Điểu Vương, Mục Chân Lân Vương, Khổng Tước Vương, Kim Sí Điểu Vương, Sư Tử Hống Vương, Đại Phạm Vương, Công Đức Đại Biện Vương, Ma Hê Thủ La Vương, Tam Thập Tam Thiên Vương, tất cả Thiện Thần đều thống lãnh trăm ức Quỷ Thần Vương mặc đủ giáp trụ trước sau vây quanh, tùy theo hầu người đó khiến cho chẳng gặp điều ác.

Thế Tôn! Con là Nguyên Soái Đại Tướng trong Quỷ Thần Vương có oai lực tự tại vô biên, hay tồi phục Ngoại Đạo, Trời, Rồng, A Tu La Vương, Phạm Thiên Vương. Nếu có người phạm vào thì con sẽ dùng bánh xe ngàn căm đè nghiến khiến cái đầu của kẻ ấy bị vỡ nát giống như bụi nhỏ, tức khiến đoạn diệt.

Thế Tôn! Hoặc Trời Rồng, hoặc tất cả Quỷ Thần Vương nge tên A Tra Bà Câu của con còn chạy đến nghênh tiếp, huống chi là lại hay y theo Pháp thọ trì.

Thế Tôn! Nếu có người nghe tên của Thần Chú này, liền nên cung kính, lễ bái. Hoặc lại chắp tai khen ngợi, Tại sao? Vì người ấy trước kia cùng với Đức Phật có nhân duyên lớn sâu nặng, nên ngày nay sanh tôn trọng nghe Chú này.

Thế Tôn! Nếu người hay tụng thì chẳng bị Quỷ Thần xâm nhiễu, cũng chẳng bị bệnh bất ngờ, chẳng chết oan uổng, được sống trăm năm, được thấy trăm mùa Thu, chẳng khiến cho gặp điều ác.

Thế Tôn! Nếu người hành Chú Đạo này, tuy chẳng được thành Đại Chú Sư, cũng hay hoàn thành mọi loại Công Đức, quan vị tốt đẹp, biện luận không có ai so sánh được, giải thoát sự trói buộc, chiếu sáng nơi u ám, đều diệt tất cả sự cột trói độc ác. Voi điên, giặc ngông cuồng, cọp, sói, sư tử… miệng bị đóng khép, cổ họng bị tắc chẳng thể hại người. Cho nên tên là Vô Tận Ý Bồ Tát Hóa Thân Nguyên Soái Đại Tạng Vương Cam Lộ Đà La Ni.

Thế Tôn! Chú này đối với chúng sanh mà không có Công Đức thì Lô Xá Na Phật ắt chẳng hợp làm Ấn của con, hiệu là Vô Biên Cam Lộ Đà La Ni Nguyên Soái Thần Chú.

Thế Tôn! Người trì Chú này có mười Công Đức thắng lợi lớn tùy theo thân:

1_Khéo trì Chú Đạo ắt được Vô Thượng Thiện Đạo

2_Chuyển nơi sanh ra, tùy theo ý mà đi

3_ Ngay trong đời chẳng kinh hoàng chẳng sợ hãi, chẳng bị đao binh gây hại

4_Chẳng lo ngại trùng độc, thú ác

5_Chẳng lo ngại phép vua cột trói, giam cầm

6_Chẳng bị Oan Gia gây hại

7_Nơi đi đến, không có chướng ngại

8_Nói ra lời răn dạy thì mọi người đều tin nhận

9_Chẳng bị đói, chẳng bị khát

10_Khi lâm chung chẳng trải qua tám nạb, mặt nhìn thấy Quán Thế Âm Bồ Tát vì mình trao cho Bồ Đề Đạo Ký

Thế Tôn! Người tụng Chú này được vô lượng Công Đức, lợi ích thù thắng”

_Khi ấy, trong Hội có một vị Bồ Tát tên là Định Tự Tại Vương

(Samādhīśvara-rāja) chỉnh sửa quần áo, trật áo hở vai phải, quỳ gối phải sát đất, chắp tay, rồi bạch Phật rằng: “Thế Tôn! Con thấy Nguyên Soái Đại Tướng A Tra Bà Câu ở trong Hội, thống lãnh Quỷ Thần của tám Bộ Trời Rồng, mặc áo giáp, cầm cây Mâu tỏa hào quang chiếu sáng, Oai Thần kỳ lạc đặc biệt. Nếu vị ấy giận dữ khiến các Quỷ Thần tự tiêu tự diệt, khắp Trời đất chấn động theo sáu cách

Thế Tôn! Vị Đại Tướng này, thân trước kia hành Tam Muội Công Đức gì? Lại tác Nguyện gì mà nay được thân kỳ lạ đặc biệt có sức oai thần lớn, nay nói Chú như bên trên? Bốn Chúng kinh ngạc nghi ngờ có điều gì quái lạ! Nguyện xin Đức Phật Từ Bi vì con giải nói. Con muốn được nghe”.

_Bấy giờ, Đức Phật bảo Định Tự Tại Vương Bồ Tát Ma Ha Tát: “Nay ông hãy nghe cho kỹ! Nay Ta nói Hạnh xưa kia của vị Đại Tướng ấy.

Này Thiện Nam Tử! Vị Đại Tướng kia ở chỗ của Đức Không Vương Như Lai tu Bồ Tát Hạnh (Bodhisatva-caryā). Sau khi Đức Phật ấy nhập diệt, ở thời Mạt Pháp chúng sanh Phước mỏng, ba năm bị hạn hán, đất màu đỏ cả ngàn dặm, sông nước khô cạn, tất cả chúng sanh mê mờ đánh mất Bản Tánh, đót khát đầy đường.

Lúc đó, vị Đại Tướng ấy là Hành Giả áo trắng (tức Cư Sĩ) nhà rất giàu có, nhìn thấy chúng sanh kia chịu khổ như vậy, liền buông bỏ vợ con, quyến thuộc, thân mặc áo rách cũ, tự mình gánh nước cho thức ăn, đi quanh mọi nơi cứu người đói khát. Làm Hạnh như vậy trong 60 năm mà chẳng ngưng nghỉ, siêng năng thực hành. Giữa năm mất mùa đời loạn lại gặp giặc ngông cuồng vây quanh bắt trói, la mắng. Thời Hành Giả ấy tự biết không có tội, liền tự nói rằng: “Nay tôi ngưỡng nguyện nhóm giặc (quần tặc) chặt tay chân của tôi. Đảnh lễ mười phương, quy mạng Tam Bảo, năm nay con đã già cả mục nát, chẳng lâu sẽ chết”. Đám giặc nghe xong, liền chặt tay chân của vị ấy. Hành Giả Bồ Tát vui mừng hớn hở, liền cáo với Trời rằng: “Mười phương Hiền Thánh chứng biết, (con) không có tội bị bắt trói ngang ngược

Phát lời nói này xong thì Trời đất chấn động lớn, mười phương chư Phật vân tập. Giặc ngang ngược kia tự mê hoảng, đánh mất Tánh, mê man té xuống đất.

Lúc đó, Hành Giả chẳng buông xả Từ Bi. (Đám giặc kia) liền dùng đao giết chết Hành Giả. Ở ngày lâm chung, Hành Giả phát ra lời thề to lớn là: “Tất cả Hiền Thánh nên chứng biết, ngày nay con không có tội chết đột ngột. Nguyện con buông xả thân thể này, sẽ làm vị Thần dũng mãnh có đại lực, vô lượng vô biên oai, giáng phục giặc ác người ác, đập nát Thiên Ma, Quỷ Thần cực ác. Nếu chúng sanh trong mười phương Thế Giới bị oan uổng ngang trái thì con đều cứu giúp khiến cho an ổn”

Này Thiện Nam Tử! Do sức nguyện cho nên nay làm Vô Biên Tự Tại Nguyên Soái Đại Tướng ở trong chư Thần là thân tối tôn tối thượng bậc nhất, cho nên tên là Nguyên Soái Quỷ Thần Đại Tướng A Tra Bà Câu

 

_Khi ấy, Định Tự Tại Vương Bồ Tát nghe việc này xong thì nói Kệ khen ngợi rằng:

“Ta nghe tên Nguyên Soái

Cứu khổ ách Thế Gian

Trong tất cả Đại Thần

Kỳ đặc không gì sánh

Mọi loại Thân biến hóa

Cứu giúp chúng sinh khổ

Nay ta nghe tích xưa

Thật chẳng thể nghĩ bàn”

Bấy giờ, Định Tự Tại Vương Bồ Tát nói Kệ xong thì ngồi xuống để nghe Pháp.

_Thời A Tra Bà Câu bạch Phật rằng: “Thế Tôn! Nguyện Chú đã nói giao phó cho người có Trí Tuệ thì mới có thể tụng. Nếu người chẳng thể tụng, tức đừng cho thực hành, khiến cho chúng sanh ấy trở ngược chịu tai ương hiểm họa”

_Khi ấy, Đức Phật bảo A Nan (Ānanda): “Chú này của A Tra Bạc Câu Nguyên Soái Đại Tướng rất có Thần Lực, hay tiêu trừ các ác, ủng hộ chúng sanh được nhiều lợi ích. Ông thọ trì cho tốt, rộng tuyên lưu bày. Nếu đấy nước bị suy họa, mưa thấm chẳng đều, dùng Chú này an trên bốn cửa thành, liền được gió mưa thuận thời. Nếu đem Chú này trấn đất nước thì tất cả quân địc lân cận ở bốn phương với đại thần chẳng khở Tâm trái nghịch. Nếu có người gây trái nghịch thì xưng tên Quán Thế Âm Bồ Tát ba lần, tức Đại Nguyên Soái triệu tất cả Quỷ Thần kéo mây tuôn mưa, đi xuống dùng đao kiếm tiêu diệt bày tôi phản nghịch.

Nếu có quốc vương, đại thần tụng trì Chú này thì cõi nước của vị vua ấy không có người ác, giặc ác với các Quỷ Thần.

Nếu Thiện Nam Tử, Thiện Nữ Nhân trì Chú này thì nơi cư ngụ sẽ được tốt đẹp, ngày yên đêm yên.

Người làm Pháp thông cả Pháp Quân Trà Lợi với Quán Tự Tại Bồ Tát, Bát Nhã đều được.

Này A Nan! Chú này rất có oai lực, nên khiến cho bốn Chúng khéo tụng trì”

_Bấy giờ, Đại Chúng nghe điều Đức Phật đã nói, đều vui vẻ phụng hành.

A TRA BẠC CÂU NGUYÊN SOÁI ĐẠI TƯỚNG

THƯỢNG PHẬT ĐÀ LA NI KINH TU HÀNH NGHI QUỸ

_QUYỂN THƯỢNG (Hết)_

Trinh Hưởng năm thứ tư_ Giữa mùa xuân, đêm ngày 11_ Một lần xem xét xong

Bật Sô Tịnh Nghiêm (49 tuổi)

Pages: 1 2 3