SỐ 202
KINH HIỀN NGU
Hán dịch: Đời Nguyên Ngụy, xứ Kinh châu, quận Cao xương,
Sa-môn Tuệ Giác và các vị khác cùng dịch.
Việt dịch: Linh-Sơn Pháp Bảo Đại Tạng Kinh.
QUYỂN 7
Phẩm 36: CHUYỆN ĐẠI KIẾP-TÂN-NINH
Tôi nghe như thế này:
Thuở nọ, Đức Phật ở tại vườn Kỳ-đà Cấp cô độc, nước Xá-vệ. Lúc bấy giờ từ vương quốc của vua Ba-tư-nặc, về phương Nam có một nước tên Kim địa. Vua nước đó tên là Kiếp-tân-ninh có một thái tử tên Đại Kiếp-tân-ninh, người thông minh sáng suốt, sức lực khỏe mạnh. Thái tử nối ngôi thống trị nước đó, có ba vạn sáu ngàn binh lính hùng mạnh, không ai có thể địch lại nổi, uy phong vang xa, không nước nào chẳng phục tùng, nhưng đối với nước ở vùng Trung thổ không có bang giao. Sau này có một thương buôn đến nước Kim địa buôn bán, đem dâng lên vua bốn tấm lụa rất tốt, vua nhận rồi hỏi người thương buôn:
– Vật này rất tốt, nó sản xuất từ xứ nào?
Thương buôn đáp:
– Sản xuất ở một nước ở vùng Trung thổ.
Vua lại hỏi:
– Nước ở vùng Trung thổ đó tên là gì?
Người thương buôn nói:
– Tên La-duyệt-kỳ, hay Xá-vệ, dân chúng xứ đó rất đông không thể nói hết.
Vua lại hỏi:
– Các vua xứ Trung thổ tại sao không đến cống hiến ta?
Thương buôn nói:
– Họ cũng là vua một xứ, uy danh cũng chẳng ai bằng, cho nên họ không đến cống hiến.
Nhà vua tự suy nghĩ: “Thế lực của ta hiện nay có thể thống nhiếp tất cả thiên hạ, tại sao các vua không đến dâng cống, ta sẽ ra oai để cho họ hàng phục”. Lại nói thương buôn:
– Các vua xứ Trung thổ, nước nào lớn nhất.
Thương buôn thưa:
– Vua nước Xá-vệ là lớn nhất.
Bấy giờ vua nước Kim địa bèn sai sứ đến nước Xá-vệ, mang theo chiếu chỉ nói với vua Ba-tư-nặc như sau:
– Uy phong của ta khắp cả Diêm-phù-đề. Khanh cậy vào đâu mà tuyệt giao với ta, nay ta sai sứ báo cho khanh biết, nếu khanh đang nằm, nghe chiếu chỉ của ta thì phải ngồi dậy ngay; nếu đang ngồi thì phải đứng dậy ngay; nếu đang ăn thì phải nhả ra ngay, nếu đang tắm thì phải quấn tóc lại ngay; nếu đang đứng thì phải chạy đến đỡ lấy ngay. Bảy ngày nữa sẽ cùng ta gặp nhau, giả sử không làm được như vậy, ta sẽ dấy binh sang đánh phá nước nhà ngươi. Vua Ba-tư-nặc nghe xong rất kinh sợ, liền đến chỗ Phật thưa về việc này. Đức Phật nói với vua:
– Bệ hạ hãy về nói với sứ giả rằng: “Ta không phải là lớn, còn có một vị vua lớn hơn nữa, vua ấy theo Phật giáo. Gần đây có một Thánh vương, ông nên đến đó truyền mệnh lệnh của vua ông.” Sứ giả liền đi đến tinh xá Kỳ hoàn. Lúc đó Thế Tôn tự biến thành vua Chuyển luân, tùy tùng đều đầy đủ. Lại hóa tinh xá Kỳ hoàn ra một thành trì báu, bốn bên có bảy lớp hào lũy, ở giữa có bảy hàng cây báu, dưới hào có hoa sen đủ các màu sắc không thể kể xiết, ánh sáng rực rỡ, trong thành cung điện cũng bằng các thứ báu, vua ngồi trên bảo điện tôn nghiêm đáng sợ. Khi ấy sứ giả đó bước vào hóa thành, trông thấy đại vương, tâm hồn kinh ngạc, tự nghĩ: “Đức vua của ta vô cớ lại chiêu họa?”, nhưng bất đắc dĩ phải đem chiếu thư ra cho đại vương. Vua Chuyển luân do Đức Phật hóa ra nhận thư và giẫm chân lên đó, nói với sứ giả:
– Ta là đại vương thống trị bốn thiên hạ, vua của ngươi ngoan cố, mê mờ, sao dám trái nghịch chống cự, ngươi mau trở về nước nói lại lời ta dạy, ngày mà vua nhà ngươi nhận được tin, phải mau chạy đến bái yết, đang nằm nghe tin phải ngồi dậy, đang ngồi nghe tin phải đứng dậy ngay, đang đứng nghe lệnh ta phải chạy đến, bảy ngày nữa phải đến không được chậm trễ. Nếu dám trái lại lệnh này thì tội sẽ không tha. Sứ giả thọ giáo xong, vội vàng trở về nước, trình bày đầy đủ sự thấy nghe của mình cho vua nước Kim địa. Vua nghe nói thế, tự trách lỗi mình, bèn thống lãnh các tiểu vương, chuẩn bị xe ngựa đến bái yết đại vương, song hãy còn nghi, chưa chịu lên đường, bèn sai sứ giả đi trước tâu với đại vương:
– Tiểu vương nước Kim địa thống lãnh ba vạn sáu ngàn vua các nước nhỏ đang đi đến đây yết kiến, nên đi đến hết hay là đi một nửa?
Đại vương đáp:
– Để lại một nửa, dẫn đi một nửa.
Bấy giờ vua nước Kim địa dẫn đến một vạn tám ngàn tiểu vương, trông thấy vua Chuyển luân do Đức Phật hóa ra bái yết xong, thầm nghĩ: “Đại vương hình mạo tuy đẹp nhưng lực lượng chưa chắc đã hơn ta”. Bấy giờ vua Chuyển luân ra lệnh quan tướng quân cầm cung đưa cho vua nước Kim địa. Ông không thể giương cung nổi, vua Chuyển luân do Đức Phật hóa ra bèn lấy lại, dùng tay giương cung lại đưa cho vua nước Kim địa bắn thử, nhưng vua nước Kim địa không thể bắn. Vua Chuyển luân lấy lại giương bắn, ba ngàn thế giới đều chấn động, lại lấy mũi tên giương cung bắn, vừa rời khỏi tay thì hóa thành năm mũi tên, trước các mũi tên đều có vô số ánh sáng, trên đầu tia sáng đều có hoa sen lớn như bánh xe, trên mỗi bông hoa đều có một vua Chuyển luân, ngồi tòa bảy báu, ánh sáng tỏa ra chiếu khắp ba ngàn đại thiên thế giới, tất cả chúng sinh trong năm đường đều được lợi ích. Các cõi trời trông thấy ánh sáng ấy và được nghe thuyết pháp, thân tâm thanh tịnh, có người đắc đạo Đệ nhị, Đệ tam quả, có người phát tâm Vô thượng chánh chân, lại có người trụ Bất thoái địa. Chúng sinh ở cõi người thấy ánh sáng của Phật và nghe tiếng thuyết pháp tâm sinh vui mừng, trong đó có người đắc quả thứ nhất, thứ hai, thứ ba, xuất gia nhập đạo chứng quả A-la-hán, có người phát tâm cầu đạo Vô thượng chánh chân, được Bất thoái địa, không thể tính kể. Trong loài ngạ quỷ trông thấy ánh sáng của Phật và nghe tiếng thuyết pháp đều được no đủ, thân tâm thanh tịnh, không các nhiệt não, đều sinh lòng tự cung kính đối với Phật, liền được giải thoát sinh lên trời người. Trong loài súc sinh, thấy ánh sáng Phật, tham dục sân si đều được tiêu trừ, tâm si mù mịt đều được tỉnh ngộ vui mừng tin kính đối với Phật liền được giải thoát sinh trong trời người. Những người trong địa ngục thấy ánh sáng Phật, kẻ rét được ấm áp, người nóng được mát mẻ, nơi đau khổ được ngừng nghỉ, thân tâm vui sướng kính mến đức Phật liền được giải thoát, sinh trong trời người.
Bấy giờ vua Đại Kiếp-tân-ninh và các vua thuộc nước Kim địa thấy phép thần biến như vậy rồi, trong lòng tin phục xa lìa trần cấu được pháp nhãn tịnh, một vạn tám ngàn vua trong khoảng chốc lát đều như thế cả. Đức Phật thu nhiếp thần lực trở lại nguyên hình, các Tỳ-kheo Tăng vây quanh trước sau. Các vua thuộc nước Kim địa cầu xin xuất gia, Đức Phật nhận lời, râu tóc của họ tự rụng, ca-sa mặc trên mình, tư duy diệu pháp, đắc quả A-la-hán.
Ngài A-nan bạch Phật:
– Vua nước Kim địa đời trước gieo trồng công đức gì mà được sinh vào nhà tôn quý công đức cao vòi vọi, lại gặp được Phật chứng quả vô lậu.
Đức Phật bảo:
– Này A-nan, chúng sinh do hạnh thế nào thì thọ quả báo thế ấy. Ở đời quá khứ sau khi Phật Ca-diếp nhập Niết-bàn, có một vị trưởng giả xây chùa tháp, lập giảng đường, tăng phòng…, cúng dường tứ sự. Trải qua lâu năm chùa tháp hư mục, giường tòa, y phục, thức ăn cũng dứt sạch, con vị trưởng giả xuất gia làm Tỳ-kheo trở về thấy thế, đi khuyên hóa nhân dân tu sửa chùa tháp, cúng dường tứ sự… Mọi người đồng tâm, cùng nhau cúng dường, nhân đó phát nguyện đời này sinh ra được giàu sang trường thọ, gặp Phật ra đời nghe pháp chứng đạo, hành báo không sai, họ đều chứng quả cả. Thuở ấy Tỳ-kheo, con của vị trưởng giả nay chính là vua Đại Kiếp-tân-ninh thuộc nước Kim địa, các nhân dân được thọ hóa nay là tám ngàn vua các nước nhỏ. Đức Phật thuyết pháp như thế xong, chúng hội nghe pháp được chứng đạo quả, phát tâm bất thoái, thọ trì lời dạy, tín thọ phụng hành.