KINH HOA NGHIÊM ĐẠI PHƯƠNG QUẢNG PHẬT
QUYỂN BẢY MƯƠI LĂM
PHẨM VÀO PHÁP GIỚI
THỨ BA MƯƠI CHÍN PHẦN MƯỜI SÁU
40. THÍCH NỮ CÙ BA PHÓ THÁC THỨ MƯỜI PHÁP VÂN ĐỊA
Cù Ba dịch là “thủ hộ đại địa”. Tại gia làm cha mẹ thủ hộ. Thái tử đầy đủ, thủ hộ quốc địa. Tức là kỳ phi, nương chủ được tên. Phó thác pháp vân địa nầy, là đại trí pháp vân, hàm gia đức thuỷ. Tế như không thô trọng, vì sung mãn pháp thân.
Bấy giờ, Thiện Tài đồng tử hướng về thành Ca Tỳ La, suy gẫm, tu tập giải thoát thọ sanh, tăng trưởng rộng lớn, nghĩ nhớ không bỏ. Từ từ đi du hành, đến giảng đường Bồ Tát tập hội phổ hiện pháp giới quang minh.
Lúc đó, Thiện Tài đồng tử y chiếu theo sự chỉ thị của Lâm Thần Lam Tỳ Ni, đi hướng về thành Ca Tỳ La (quê hương của đức Phật Thích Ca), lúc trên đường đi, Ngài suy gẫm, tu tập môn giải thoát thọ sanh. Bồ Tát thọ sanh như thế nào, có cảnh giới gì? Làm thế nào giáo hoá chúng sinh? Suy gẫm như vậy, tăng trưởng rộng lớn, nghĩ nhớ không bỏ. Ngài từ từ đi du hành, đến giảng đường Bồ Tát tập hội phổ hiện pháp giới quang minh, trong thành Ca Tỳ La.
Trong điện đó, có vị thần hiệu là Vô Ưu Đức, cùng với một vạn Chủ Cung Điện Thần tụ hội, đến nghinh tiếp Thiện Tài, bèn nói như vầy: Lành thay bậc trượng phu, có đại trí huệ, có đại dũng mãnh, có thể tu giải thoát Bồ Tát tự tại không thể nghĩ bàn. Tâm luôn không bỏ thệ nguyện rộng lớn. Khéo quán sát cảnh giới các pháp. An trụ pháp thành. Vào vô lượng các môn phương tiện. Thành tựu biển công đức của Như Lai. Đắc được diệu biện tài, khéo điều phục chúng sinh. Đắc được thân Thánh nhân trí huệ. Luôn thuận tu hành. Biết tâm hạnh khác biệt của chúng sinh, khiến cho họ hoan hỉ, hướng về Phật đạo.
Trong giảng đường Phổ Hiện Pháp Giới Quang Minh đó, có vị hộ pháp thiện thần, hiệu là Vô Ưu Đức, cùng với một vạn Chủ Cung Điện Thần tụ hội, đến nghinh tiếp Thiện Tài, bèn nói như vầy: Lành thay bậc đại trượng phu! Ngài có đại trí huệ, Ngài đầy đủ tinh thần đại dũng mãnh, có thể tu hành môn giải thoát Bồ Tát tự tại không thể nghĩ bàn. Trong tâm luôn luôn không bỏ thệ nguyện rộng lớn. Khéo quán sát cảnh giới các pháp. An trụ thành pháp vương. Vào được vô lượng các môn phương tiện thiện xảo. Lại thành tựu biển công đức của Như Lai. Đắc được diệu biện tài vô ngại không thể nghĩ bàn. Khéo điều phục chúng sinh cang cường. Đắc được thân Thánh nhân trí huệ. Luôn thuận công đức của mình để tu hành. Biết tâm hạnh khác biệt của tất cả chúng sinh, hay thuận cơ duyên chúng sinh, vì họ nói pháp, khiến cho họ hoan hỉ mà hướng về Phật đạo.
Ta quán nhân giả tu các diệu hạnh, tâm không tạm giải đãi, oai nghi đi đứng đều thanh tịnh. Chẳng bao lâu nữa, ngươi sẽ đắc được ba nghiệp thanh tịnh trang nghiêm vô thượng của Như Lai. Dùng các tướng tốt trang nghiêm thân. Dùng mười trí lực tô điểm tâm mình, du hành các thế gian.
Vị Thần Vô Ưu Đức nói với Thiện Tài đồng tử rằng: Ta quán thấy ngươi tu các diệu hạnh của Bồ Tát tu, lúc nào cũng siêng năng tinh tấn, tâm không khi nào tạm thời giải đãi. Oai nghi đi đứng hành động của ngươi đều thanh tịnh. Đối với ba nghiệp thân miệng ý, chẳng có tư tưởng nhiễm ô. Tương lai chẳng bao lâu nữa, ngươi sẽ đắc được quả vị ba nghiệp thanh tịnh trang nghiêm vô thượng của Như Lai. Dùng ba mươi hai tướng tốt, tám mươi vẻ đẹp để trang nghiêm thân. Dùng mười trí lực tô điểm tâm mình, du hành mười phương tất cả thế gian, giáo hoá hết thảy chúng sinh.
Ta quán thấy ngươi dũng mãnh tinh tấn không ai sánh bằng. Chẳng bao lâu nữa, ngươi sẽ thấy được khắp ba đời tất cả chư Phật, nghe thọ pháp của chư Phật nói. Chẳng bao lâu nữa, ngươi sẽ đắc được vui thiền định giải thoát tam muội của tất cả Bồ Tát. Chẳng bao lâu nữa, ngươi sẽ vào giải thoát thâm sâu của chư Phật Như Lai.
Vị Thần Vô Ưu Đức nói: Ta quán thấy ngươi dũng mãnh tinh tấn tu tập không ai sánh bằng. Tương lai chẳng bao lâu nữa, ngươi sẽ thấy được khắp mười phương ba đời tất cả chư Phật, nghe thọ pháp của chư Phật nói. Tương lai chẳng bao lâu nữa, ngươi sẽ đắc được vui thiền định giải thoát tam muội của tất cả Bồ Tát. Tương lai chẳng bao lâu nữa, ngươi sẽ vào môn giải thoát thâm sâu của tất cả chư Phật Như Lai.
Tại sao vậy? Vì nhờ gặp được thiện tri thức, gần gũi cúng dường, nghe thọ lời dạy của các Ngài, nghĩ nhớ tu hành, không giải đãi, không thối lùi, không lo, không hối hận, không chướng ngại. Ma và dân ma không thể cản trở được. Chẳng bao lâu nữa, ngươi sẽ thành tựu quả vị vô thượng.
Tại sao vậy? Vì nhờ gặp được thiện tri thức, gần gũi cúng dường thiện tri thức, nghe thọ lời dạy của các Ngài, nghĩ nhớ tu hành, cũng không giải đãi, cũng không thối lùi, không lo buồn, không hối hận, không chướng ngại, không có mọi sự phiền não. Ma vương không thể cản trở được ngươi và dân ma không thể hại ngươi được. Tương lai chẳng bao lâu nữa, ngươi sẽ thành tựu quả Phật vô thượng.
Thiện Tài đồng tử bạch rằng: Đức Thánh! Như lời Ngài nói, nguyện tôi sẽ đều được như vậy.
Đức Thánh! Tôi nguyện tất cả chúng sinh dứt các nhiệt não, lìa các nghiệp ác, sinh các an lạc, tu các tịnh hạnh.
Đức Thánh! Tất cả chúng sinh khởi các phiền não, tạo các nghiệp ác, đoạ vào các cõi ác. Hoặc thân, hoặc tâm, luôn thọ khổ độc, Bồ Tát thấy vậy, tâm sinh buồn phiền.
Thiện Tài đồng tử bạch với vị Thần Vô Ưu Đức rằng: Đức Thánh! Như lời Ngài nói, nguyện tôi sẽ đều được như vậy.
Đức Thánh! Tôi nguyện tất cả chúng sinh dứt trừ tất cả nhiệt não, lìa khỏi tất cả nghiệp ác, sinh ra tất cả sự an lạc, tu tất cả tịnh hạnh.
Đức Thánh! Tất cả chúng sinh khởi các phiền não, tạo các nghiệp ác, đoạ vào các cõi ác. Hoặc thân, hoặc tâm, luôn thọ khổ độc, Bồ Tát thấy như vậy rồi, tâm sinh lo buồn phiền não. Đây là lòng đại bi, Bồ Tát vốn không buồn không phiền, nhưng thấy chúng sinh thọ khổ mà sinh ra buồn phiền. Đây là biểu hiện tâm từ bi của Bồ Tát.
Đức Thánh! Ví như có người, chỉ có một người con, thương yêu vô cùng, bỗng thấy con mình bị người ta chặt tay chân, lòng rất đau đớn, không an vui được. Đại Bồ Tát cũng lại như thế, thấy các chúng sinh do nghiệp phiền não, đoạ vào ba đường ác, thọ đủ thứ khổ, tâm rất buồn rầu. Nếu thấy chúng sinh khởi thân miệng ý ba nghiệp thiện, sinh về cõi trời người, thân tâm được an vui, thì bấy giờ Bồ Tát sinh đại hoan hỉ.
Thiện Tài đồng tử lại nói: Đức Thánh! Ví như có người, chỉ có một người con, thương yêu vô cùng, bỗng thấy con mình bị người ta chặt tay chân, lòng rất đau đớn, như đức ruột, không cách chi tả được, không an vui được. Đại Bồ Tát cũng lại như thế, thấy các chúng sinh do nghiệp phiền não, đoạ vào ba đường ác, thọ đủ thứ khổ, tâm rất buồn rầu, tìm cách cứu các chúng sinh, thoát khỏi biển khổ. Nếu thấy tất cả chúng sinh khởi thân miệng ý tạo ba nghiệp thiện, được sinh về cõi trời, hưởng thọ phước trời, hoặc sinh về cõi người, làm người giàu sang phú quý, thân tâm đều được an vui, thì lúc đó Bồ Tát sinh đại hoan hỉ.
Tại sao vậy? Vì Bồ Tát chẳng vì mình cầu nhất thiết trí. Chẳng tham sanh tử các dục khoái lạc. Chẳng theo lực tưởng đảo, thấy đảo, tâm đảo, các kết sử tuỳ miên ái kiến mà chuyển. Chẳng khởi đủ thứ tưởng vui của chúng sinh. Cũng chẳng đắm trước vui các thiền định. Chẳng có chướng ngại mệt mỏi thối chuyển, an trụ nơi sinh tử, nhưng thấy chúng sinh ở trong các cõi, thọ vô lượng đủ thứ các khổ, mà khởi tâm đại bi. Dùng đại nguyện lực mà nhiếp lấy khắp. Vì sức bi nguyện, mà tu Bồ Tát hạnh. Vì dứt khổ não của tất cả chúng sinh. Vì cầu nhất thiết trí của Như Lai. Vì cúng dường tất cả chư Phật Như Lai. Vì nghiêm tịnh tất cả cõi nước rộng lớn. Vì tịnh trị dục lạc của tất cả chúng sinh và hết thảy các hạnh thân tâm của họ, mà ở trong sinh tử, không có mỏi nhàm.
Tại sao vậy? Vì Bồ Tát tâm bi tha thiết, tất cả đều chẳng nghĩ đến mình, mà vì chúng sinh mưu cầu hạnh phúc, cho nên Bồ Tát thấy chúng sinh thọ khổ thì Bồ Tát ưu phiền. Nhìn thấy chúng sinh vui, thì Bồ Tát hoan hỉ. Bồ Tát vì cầu nhất thiết trí, mà siêng tinh tấn, tu tập Phật pháp. Do đó có câu: “Vào sâu tạng Kinh, trí huệ như biển”. Có trí huệ rồi, thì mới có thể cứu độ chúng sinh, lìa khổ được vui, chấm dức sinh tử.
Bồ Tát chẳng tham sanh tử các dục khoái lạc. Chẳng theo vọng tưởng của mình mà điên đảo. Tại sao con người thấy cảnh giới liền điên đảo? Vì có kiến hoặc và tư hoặc tác quái. Tức cũng là đối với cảnh giới nhận thức chẳng rõ ràng mà sinh ra tâm tham ái, đây là kiến hoặc; đối với lý luận chẳng rõ ràng, sinh ra tâm phân biệt, đây là tư hoặc; chẳng rõ thiện ác, chẳng rõ trắng đen, tuỳ ý làm càn, tạo thành nghiệp ác, đây là tâm điên đảo. Các kết sử tức là thân, biên, giới, kiến, tà và tham, sân, si, mạn, nghi, mười sử. Bồ Tát chẳng tuỳ lực miên ái kiến mà chuyển. Chẳng khởi đủ thứ tưởng vui của chúng sinh. Cũng chẳng đắm trước vui các thiền định. Chẳng có chướng ngại, mệt mỏi, thối chuyển, mà an trụ trong sinh tử, Bồ Tát vì độ chúng sinh, thường trụ nơi sinh tử, nhưng chẳng nhàm sinh tử. Bồ Tát thấy tất cả chúng sinh, ở trong tam giới hai mươi lăm cõi, thọ vô lượng đủ thứ các khổ, mà sinh tâm đại bi. Dùng đại nguyện lực mà nhiếp lấy khắp tất cả chúng sinh. Vì từ bi nguyện lực, mà tu Bồ Tát hạnh. Vì dứt trừ khổ não của tất cả chúng sinh. Vì cầu nhất thiết trí của chư Phật. Vì cúng dường tất cả chư Phật Như Lai. Vì nghiêm tịnh tất cả cõi nước chư Phật rộng lớn. Vì tịnh trị dục lạc của tất cả chúng sinh. Những gì chúng sinh hoan hỉ, ước muốn, đều là điên đảo chẳng thanh tịnh. Cho nên Bồ Tát tịnh trị tâm của chúng sinh, chẳng còn vọng tưởng, chẳng còn nhiễm ô, tất cả đều thanh tịnh. Tất cả tập khí mao bệnh để lại hết quá khứ, những tập quán không tốt sửa đổi thành tập quán tốt. Giống như người nghiện rượu, họ rất thích uống rượu. Hoặc giống như người ghiền thuốc lá, họ rất thích hút thuốc lá. Thậm chí người ham tài sắc danh ăn ngủ, cũng đều là sự ham muốn. Tóm lại, phàm là có sự ham thích đều là sự ham muốn dục lạc. Chúng ta nên đem những thứ dục lạc không chánh đáng nầy, tịnh trị cho thanh tịnh, chẳng còn tạp nhiễm nữa. Bồ Tát chẳng những tịnh trị dục lạc của chúng sinh, mà cũng tịnh trị thân tâm của chúng sinh. Những hành động làm gì cũng đều thanh tịnh. Vì đủ thứ nhân duyên nầy, nên Bồ Tát hành Bồ Tát đạo. Tuy Bồ Tát ở trong sinh tử, nhưng chẳng mỏi nhàm. Bồ Tát vì hành Bồ Tát đạo, vào sinh tử mà chẳng chấp trước sinh tử, vào Niết Bàn mà chẳng chấp trước Niết Bàn.
Đức Thánh! Đại Bồ Tát đối với các chúng sinh là trang nghiêm, vì khiến cho họ sinh về cõi trời người được vui giàu sang phú quý. Là cha mẹ, vì họ an lập bồ đề tâm. Là dưỡng dục, vì khiến cho họ thành tựu Bồ Tát đạo. Là hộ vệ, vì khiến cho họ sớm lìa ba đường ác. Là thuyền sư, vì khiến cho họ được qua khỏi biển sinh tử. Là nơi nương tựa, vì khiến cho họ hết sợ các ma phiền não. Là rốt ráo, vì khiến cho họ vĩnh viễn được vui mát mẻ. Là bờ bến, vì khiến cho họ vào biển tất cả chư Phật. Là đạo sư, vì khiến cho họ đến nơi tất cả pháp bảo. Là hoa đẹp, vì nở tâm công đức của chư Phật. Là đồ trang nghiêm, vì thường phóng quang trí huệ phước đức. Là đáng ưa, vì phàm làm gì cũng đều đoan nghiêm. Là đáng tôn kính, vì xa lìa tất cả các nghiệp ác. Là Phổ Hiền, vì thân đầy đủ tất cả sự đoan nghiêm. Là đại minh, vì thường phóng trí huệ quang thanh tịnh. Là mây lớn, vì thường mưa xuống tất cả pháp cam lồ.
Thiện Tài đồng tử lại gọi một tiếng: Đại Thánh nhân! Đại Bồ Tát đối với các chúng sinh là trang nghiêm, vì khiến cho họ sinh về cõi trời người được vui giàu sang phú quý. Là cha mẹ, vì chúng sinh an lập bồ đề tâm. Là dưỡng dục, vì khiến cho chúng sinh thành tựu Bồ Tát đạo. Là hộ vệ, vì khiến cho chúng sinh sớm lìa khỏi ba đường ác. Là thuyền sư, vì khiến cho chúng sinh được qua khỏi biển sinh tử, thẳng đến bờ Niết Bàn bên kia. Là nơi nương tựa, vì khiến cho chúng sinh xả bỏ các ma nghiệp, cùng với phiền não và sợ hãi. Là rốt ráo, vì khiến cho chúng sinh vĩnh viễn được an vui mát mẻ. Là bờ bến, hoặc là cầu đò, vì khiến cho chúng sinh vào biển trí huệ của tất cả chư Phật. Là đạo sư, vì khiến cho chúng sinh đến nơi tất cả pháp bảo. Là hoa đẹp, vì nở hoa tâm công đức của chư Phật. Là đồ trang nghiêm, vì thường phóng trí huệ quang phước đức. Là đáng ưa, vì phàm làm gì cũng đều đoan chánh trang nghiêm. Là đáng tôn kính, vì xa lìa tất cả mười nghiệp ác. Là Phổ Hiền, vì tu hành hạnh nguyện Bồ Tát Phổ Hiền, mới được thân đầy đủ tất cả sự đoan nghiêm thanh tịnh. Là đại minh, vì thường phóng trí huệ quang thanh tịnh. Là mây lớn, vì thường mưa xuống tất cả pháp vũ cam lồ.
Đức Thánh! Khi Bồ Tát tu các hạnh như vậy, thì khiến cho tất cả chúng sinh đều sinh mến thích, đầy đủ pháp vui.
Đại Thánh nhân! Khi Bồ Tát tu tất cả các hạnh như vậy, vì khiến cho tất cả chúng sinh đều sinh mến thích hành vi của Bồ Tát như vậy, đầy đủ tất cả pháp vui.
Bấy giờ, Thiện Tài đồng tử sắp lên pháp đường, vị Thần Vô Ưu Đức và các chúng Thần, dùng tràng hoa đẹp, hương thoa, hương bột, quý hơn trên các cõi trời, cùng với đủ thứ đồ báu trang nghiêm, rải trên Thiện Tài mà nói kệ rằng:
Lúc đó, Thiện Tài đồng tử sắp lên pháp đường, vị Thần Vô Ưu Đức và các chúng Thần, dùng tràng hoa đẹp, hương thoa, hương bột, cùng với đủ thứ đồ báu trang nghiêm, quý hơn trên các cõi trời, rải trên Thiện Tài, sau đó nói bài kệ khen ngợi rằng:
Nay Ngài hiện thế gian
Làm đèn sáng cho đời
Khắp vì các chúng sinh
Siêng cầu vô thượng giác.
Vị Thần Vô Ưu Đức nói với Thiện Tài đồng tử: Nay Ngài xuất hiện nơi thế gian, làm đèn sáng lớn cho đời, phá tan tất cả sự đen tối. Khắp vì các chúng sinh, siêng năng tu tập, cầu đạo Vô Thượng giác.
Vô lượng ức ngàn kiếp
Rất khó được thấy Ngài
Công đức nhựt nay mọc
Diệt trừ tối thế gian.
Dù trong vô lượng ức ngàn kiếp, rất khó được thấy Ngài. Công đức nhựt (Phật) nay đã mọc nơi thế gian, phóng đại quang minh, diệt trừ đen tối tất cả thế gian.
Ngài thấy các chúng sinh
Điên đảo hoặc che lấp
Mà sinh tâm đại bi
Cầu chứng đạo vô sư.
Ngài thấy các chúng sinh, bị điên đảo mê hoặc che lấp, nên Ngài mới sinh tâm đại bi. Dũng mãnh tinh tấn tu tập, không giải đãi, cũng không mệt mỏi, một lòng một dạ cầu chứng Phật đạo vô thượng.
Ngài dùng tâm thanh tịnh
Tìm cầu Phật bồ đề
Hầu hạ thiện tri thức
Chẳng tiếc thân mạng mình.
Ngài dùng tâm thanh tịnh không nhiễm, đến các nơi học hỏi, tìm cầu Phật bồ đề. Hầu hạ thiện tri thức, vì pháp quên mình, dù hy sinh thân mạng cũng chẳng tiếc.
Ngài nơi các thế gian
Không nương không chấp trước
Tâm thảy đều vô ngại
Thanh tịnh như hư không.
Ngài đối với tất cả thế gian, không nương tựa vào đâu, cũng không chấp trước. Trong tâm Ngài chẳng có mọi sự chướng ngại, thanh tịnh như hư không. Nếu tâm thanh tịnh, chẳng có mọi tạp niệm, thì tuyệt đối chẳng làm việc điên đảo.
Ngài tu hạnh bồ đề
Công đức đều viên mãn
Phóng đại trí huệ quang
Chiếu khắp tất cả đời.
Ngài tu hạnh bồ đề, công đức và trí huệ đều đạt đến sự viên mãn. Phóng đại trí huệ quang minh, chiếu sáng khắp tất cả thế gian, trở thành ngọn đèn sáng lớn của thế gian.
Ngài chẳng lìa thế gian
Cũng chẳng chấp thế gian
Đi trong đời vô ngại
Như gió thổi hư không.
Ngài chẳng lìa khỏi thế gian, cũng chẳng chấp trước thế gian. Ngài ở tại thế gian mà tâm xuất thế gian. Tuy ở trong sinh tử, mà dứt sinh tử. Giống như gió thổi trong hư không, chẳng có chướng ngại, chẳng có dấu vết.
Ví như nạn lửa khởi
Không gì dập tắt được
Ngài tu hạnh bồ đề
Lửa tinh tấn cũng thế.
Ví như nạn lửa lớn khởi lên, không có nước gì dập tắt được. Ngài tu hạnh bồ đề, lửa tinh tấn cũng như thế, bất cứ nước gì cũng dập tắt không được.
Dũng mãnh đại tinh tấn
Kiên cố không thể động
Kim cang huệ sư tử
Du hành không sợ hãi.
Ngài dũng mãnh đại tinh tấn, rất kiên cố, bất cứ cảnh giới gì cũng không lay động, đã đạt đến cảnh giới như như bất động. Đến được trí huệ kim cang, dũng mãnh như sư tử, du hành bất cứ nơi nào, cũng không có cảm giác sợ hãi.
Trong tất cả pháp giới
Hết thảy các biển cõi
Ngài đều đã đi qua
Gần gũi thiện tri thức.
Trong tất cả pháp giới, hết thảy tất cả biển cõi của chư Phật. Ngài đều đã đi đến, gần gũi tất cả thiện tri thức, thỉnh giáo các Ngài: Làm thế nào phát bồ đề tâm? Làm thế nào hành Bồ Tát đạo?
Bấy giờ, vị Thần Vô Ưu Đức nói bài kệ nầy rồi, vì ưa mến pháp, nên đi theo Thiện Tài, luôn không xả lìa.
Lúc đó, vị Thần Vô Ưu Đức nói mười bài kệ nầy rồi, vì Ngài ưa mến Phật pháp, nên đi theo Thiện Tài đồng tử làm pháp lữ, đi các nơi học tập Phật pháp, vĩnh viễn không xả lìa Thiện Tài đồng tử.
Bấy giờ, Thiện Tài đồng tử đi vào giảng đường Phổ Hiện Pháp Giới Quang Minh, đi khắp nơi tìm cô gái họ Thích, thì thấy cô ta đang ngồi trên toà sư tử Bảo Liên Hoa ở trong giảng đường. Có tám vạn bốn ngàn thể nữ cùng vây quanh, những thể nữ đó, đều sinh ra trong hoàng tộc, đều tu Bồ Tát hạnh trong quá khứ, đồng trồng căn lành, bố thí ái ngữ, nhiếp khắp chúng sinh, đã thấy rõ cảnh nhất thiết trí, đã cùng tu tập hạnh Phật bồ đề. Luôn trụ chánh định, thường dùng đại bi nhiếp khắp chúng sinh, giống như con một. Tâm từ đầy đủ, quyến thuộc thanh tịnh. Trong quá khứ đã thành tựu phương tiện thiện xảo không thể nghĩ bàn của Bồ Tát. Đều được bất thối chuyển nơi A nậu đa la tam miệu tam bồ đề. Đầy đủ các Ba La Mật của Bồ Tát. Lìa các chấp trước, chẳng ưa sinh tử. Tuy ở trong các cõi, mà tâm thường thanh tịnh. Luôn siêng quán sát đạo nhất thiết trí. Lìa lưới chướng cái, vượt khỏi chỗ chấp trước. Từ nơi pháp thân, mà thị hiện hoá thân. Sinh hạnh Phổ Hiền, tăng trưởng Bồ Tát lực. Đèn mặt trời trí huệ, đều đã viên mãn.
Lúc đó, Thiện Tài đồng tử đi vào giảng đường Phổ Hiện Pháp Giới Quang Minh, đi khắp nơi tìm cô gái họ Thích, thì thấy cô ta đang ngồi trên toà sư tử Bảo Liên Hoa làm bằng bảy báu ở trong giảng đường. Có tám vạn bốn ngàn thể nữ cùng vây quanh. Những thể nữ xinh đẹp đó, đều sinh ra trong hoàng tộc, họ đều đã từng tu Bồ Tát hạnh trong quá khứ, đồng trồng căn lành. Giống như chúng ta đang cùng nghe Kinh, nghe pháp, nghiêng cứu Phật pháp, đây có thể là trong quá khứ đã từng gieo trồng căn lành với nhau, đều là người có duyên với nhau, cho nên mọi người cùng nhau tu hành. Những thể nữ đó, khi tu hành thì dùng bố thí, ái ngữ, lợi hành, đồng sự, bốn pháp nhiếp, để nhiếp khắp chúng sinh. Đã thấy rõ cảnh giới nhất thiết trí, đã cùng tu tập hạnh Phật bồ đề. Luôn an trụ trong chánh định. Thường dùng đại bi nhiếp khắp chúng sinh, giống như thương con một. Tâm từ bi đã đầy đủ, hay ban vui cho chúng sinh, hay cứu chúng sinh khổ. Hết thảy quyến thuộc đều là người thanh tịnh tu đạo, vì chí đồng đạo hợp, cho nên hoà thuận với nhau. Những thể nữ đó, trong quá khứ đã từng thành tựu phương tiện thiện xảo không thể nghĩ bàn của Bồ Tát. Đều được cảnh giới bất thối chuyển nơi A nậu đa la tam miệu tam bồ đề. Những thể nữ đó, đã đầy đủ các Ba La Mật của Bồ Tát. Đã lìa khỏi mọi sự chấp trước, chẳng còn tâm phan duyên, chẳng hoan hỉ lưu chuyển trong sinh tử. Tuy ở trong tam giới hai mươi lăm cõi, mà tâm thường thanh tịnh, không còn tư tưởng nhiễm ô. Luôn siêng quán sát đạo nhất thiết trí, thoát khỏi tất cả lưới nghiệp chướng, vượt khỏi tất cả chỗ chấp trước. Từ nơi pháp thân, mà thị hiện hoá thân. Sinh hạnh nguyện Phổ Hiền, tăng trưởng Bồ Tát lực. Đèn sáng mặt trời trí huệ, quang minh chiếu khắp, đều đã viên mãn.
Bấy giờ, Thiện Tài đồng tử đến chỗ Thích nữ Cù Ba, đảnh lễ, đứng chắp tay lại mà bạch rằng: Đức Thánh! Con trước đã phát tâm A nậu đa la tam miệu tam bồ đề, mà chưa biết Bồ Tát làm thế nào ở trong sinh tử, mà chẳng nhiễm hoạ hoạn sinh tử? Thấu rõ tự tánh của pháp, mà chẳng trụ bậc Thanh Văn, Bích Chi Phật. Đầy đủ Phật pháp, mà tu Bồ Tát hạnh. Trụ bậc Bồ Tát, mà vào cảnh giới Phật. Vượt qua thế gian, mà thọ sinh nơi thế gian. Thành tựu pháp thân, mà thị hiện vô biên đủ thứ sắc thân. Chứng pháp vô tướng, mà vì chúng sinh thị hiện các tướng. Biết pháp không thể nói, mà rộng vì chúng sinh diễn nói các pháp. Biết chúng sinh là không, mà luôn không bỏ việc hoá độ chúng sinh. Tuy biết chư Phật không sinh, không diệt, mà siêng cúng dường không có thối chuyển. Tuy biết các pháp không nghiệp, không báo, mà tu các hạnh lành luôn không ngừng nghỉ.
Lúc đó, Thiện Tài đồng tử đến chỗ Thích nữ Cù Ba, đảnh lễ rồi đứng chắp tay lại mà bạch rằng: Đức Thánh! Con trước đã phát tâm A nậu đa la tam miệu tam bồ đề, mà chưa biết Bồ Tát làm thế nào ở trong sinh tử, mà chẳng nhiễm hoạ hoạn sinh tử? Tuy thấu rõ tự tánh của tất cả các pháp, mà chẳng trụ bậc Thanh Văn Bích Chi Phật quả vị của hàng nhị thừa. Tuy đầy đủ tất cả Phật pháp, mà vẫn phải tu Bồ Tát hạnh. Tuy trụ bậc Bồ Tát, mà vào cảnh giới của tất cả chư Phật. Tuy vượt qua tất cả thế gian, mà vẫn thọ sinh nơi thế gian. Tuy thành tựu pháp thân, mà vẫn thị hiện vô biên đủ thứ sắc thân. Tuy chứng được pháp vô tướng, mà vẫn vì chúng sinh thị hiện các tướng. Biết pháp vốn không thể nói, mà vì giáo hoá tất cả chúng sinh, rộng nói tất cả các pháp. Biết chúng sinh vốn là không, mà không bỏ chúng sinh, thường giáo hoá điều phục tất cả chúng sinh. Tuy biết tất cả chư Phật không sinh, không diệt, mà siêng năng cúng dường tất cả chư Phật không có thối chuyển. Tuy biết tất cả các pháp, không có kẻ tạo, không có kẻ thọ, cũng không có nghiệp, cũng không có báo, mà vẫn phải tu tất cả hạnh lành, luôn không ngừng nghỉ. Con đối với những cảnh giới nầy chưa thấu rõ, xin đức Thánh Ngài chỉ giáo.
Bấy giờ, cô gái Cù Ba bảo Thiện Tài rằng: Lành thay! Lành thay! Thiện nam tử! Nay ngươi có thể hỏi đại Bồ Tát tu hành pháp như vậy. Ai tu tập các hạnh nguyện của Bồ Tát Phổ Hiền, mới có thể hỏi như vậy. Hãy chú ý lắng nghe, khéo nghĩ nhớ, ta sẽ nương thần lực của Phật, vì ngươi mà diễn nói.
Thiện nam tử! Nếu các Bồ Tát thành tựu mười pháp, thì sẽ viên mãn hạnh Bồ Tát Nhơn Đà La võng phổ trí quang minh. Những gì là mười pháp? Đó là: Nhờ nương thiện tri thức. Nhờ được hiểu thù thắng rộng lớn. Nhờ được dục lạc thanh tịnh. Nhờ tích tập tất cả phước trí. Nhờ lắng nghe pháp ở chỗ chư Phật. Nhờ tâm luôn không bỏ ba đời chư Phật. Nhờ tu đồng hạnh với tất cả Bồ Tát. Nhờ được tất cả Như Lai hộ niệm. Nhờ đại bi diệu quán đều thanh tịnh. Nhờ hay dùng trí lực dứt tất cả các sinh tử. Đó là mười pháp. Nếu các Bồ Tát thành tựu pháp nầy, thì sẽ viên mãn hạnh Bồ Tát Nhân Đà La võng phổ trí quang minh.
Lúc đó, cô gái Cù Ba bảo Thiện Tài đồng tử rằng: Lành thay! Lành thay! Thiện nam tử! Nay ngươi có thể hỏi pháp môn tu hành của đại Bồ Tát như vậy. Ai tu tập các đại hạnh đại nguyện của Bồ Tát Phổ Hiền, mới có thể hỏi như vậy, thật là quý lắm thay. Xin Ngài hãy chú ý lắng nghe, khéo nghĩ nhớ đừng quên, ta sẽ nương đại oai thần lực của mười phương chư Phật, vì ngươi mà diễn nói nghĩa lý nầy.
Thiện nam tử! Nếu các Bồ Tát thành tựu mười pháp, thì sẽ viên mãn hạnh Bồ Tát Nhơn Đà La võng phổ trí quang minh. Những gì là mười pháp? Đó là:
1. Nhờ nương theo thiện tri thức, gần gũi thiện tri thức. Thiện tri thức có đại trí huệ, có thể chỉ bày bến mê.
2. Nhờ đắc được sự hiểu biết thù thắng rộng lớn.
3. Nhờ đắc được dục lạc thanh tịnh.
4. Nhờ tích tập tất cả phước đức trí huệ.
5. Nhờ lắng nghe chánh pháp của chư Phật nói ở chỗ đạo tràng chư Phật trong mười phương.
6. Nhờ tâm luôn không bỏ ba đời chư Phật, luôn luôn nghĩ nhớ chư Phật ba đời.
7. Nhờ tu đồng hạnh với tất cả Bồ Tát.
8. Nhờ được tất cả chư Phật hộ niệm.
9. Nhờ đại bi diệu quán đều được thanh tịnh.
10. Nhờ hay dùng sức kiếm trí huệ, chặt đứt tất cả khổ luân sinh tử. Đó là mười pháp của Bồ Tát tu. Nếu các Bồ Tát thành tựu những pháp nầy, thì sẽ viên mãn hạnh Bồ Tát Nhân Đà La võng phổ trí quang minh.
Phật tử! Nếu Bồ Tát gần gũi thiện tri thức, thì sẽ tinh tấn không thối lùi, tu tập sinh ra Phật pháp vô tận.
Phật tử! Bồ Tát dùng mười pháp, để hầu hạ thiện tri thức. Những gì là mười pháp? Đó là: Đối với thân mạng mình, không đoái tiếc. Đối với đồ vui thế gian, tâm không tham cầu. Biết tất cả pháp tánh đều bình đẳng. Vĩnh viễn không lùi bỏ nguyện nhất thiết trí. Quán sát thật tướng tất cả pháp giới. Tâm luôn xả lìa tất cả biển cõi. Biết pháp như hư không, tâm không nương tựa. Thành tựu tất cả Bồ Tát đại nguyện. Thường hay thị hiện tất cả biển cõi. Tịnh tu trí luân vô ngại của Bồ Tát.
Phật tử! Nên dùng mười pháp nầy hầu hạ tất cả thiện tri thức, không trái nghịch.
Phật tử! Nếu Bồ Tát gần gũi thiện tri thức, thì sẽ tinh tấn hướng về trước, không thối lùi về sau, nỗ lực tu tập, sẽ sinh ra Phật pháp vô tận.
Phật tử! Bồ Tát nên dùng mười pháp nầy, để hầu hạ thiện tri thức. Những gì là mười pháp? Đó là:
1. Đối với thân mạng mình, không đoái tiếc. Vì gần gũi thiện tri thức, dù tán thân mất mạng cũng không từ nan.
2. Đối với đồ vui thế gian, tâm không tham cầu. Đối với vinh hoa phú quý, danh văn lợi dưỡng, đều không tham cầu.
3. Biết tất cả pháp tánh đều bình đẳng, không có cao thấp.
4. Vĩnh viễn không lùi bỏ nguyện nhất thiết trí.
5. Quán sát thật tướng tất cả pháp giới.
6. Tâm luôn xả lìa tất cả biển cõi, cõi dục, cõi sắc, cõi vô sắc.
7. Biết pháp như hư không, chẳng chỗ có, tâm không nương tựa nơi pháp.
8. Thành tựu viên mãn tất cả Bồ Tát đại nguyện.
9. Thường hay thị hiện biển cõi tất cả chư Phật.
10. Thanh tịnh tu hành trí luân vô ngại của Bồ Tát.
Phật tử! Nên dùng mười pháp nầy để hầu hạ tất cả thiện tri thức, nhưng không trái nghịch lời dạy của thiện tri thức, càng không thể trái nghịch tâm ý của thiện tri thức. Thiện tri thức có trí huệ chánh tri chánh kiến, chỉ dẫn con đường chánh nên đi. Thiện tri thức là đèn sáng, chiếu sáng tâm tham của phàm phu. Nếu ai ai cũng không có tâm tham thì thiên hạ sẽ thái bình.
Bấy giờ, Thích nữ Cù Ba muốn thuật rõ lại ý nghĩa nầy, bèn nương thần lực của đức Phật, quán sát mười phương, mà nói kệ rằng.
Lúc đó, Thích nữ Cù Ba muốn thuật rõ lại ý nghĩa nầy, bèn nương đại oai thần lực gia trì của mười phương chư Phật, quán sát nhân duyên của hết thảy chúng sinh trong mười phương, mà nói ra bài kệ mười hai hạnh môn dưới đây.
Bồ Tát vì lợi các quần sinh
Chánh niệm thân kính thiện tri thức
Như cung kính Phật tâm không lười
Đây hạnh Đế võng nơi thế gian.
Tại sao Bồ Tát phải tu Bồ Tát đạo? Vì chứng được thần thông diệu dụng, muốn giáo hoá chúng sinh, lợi ích chúng sinh, cho nên lòng ôm hoài niệm, đi đến các nơi tìm thiện tri thức học hỏi. Tâm thành cung kính thiện tri thức, giống như cung kính chư Phật không khác. Bất cứ trải qua thời gian dài bao lâu, cũng không có tâm giải đãi mỏi nhàm. Hạnh môn nầy là hạnh môn lưới La Tràng của trời Đế Thích nơi thế gian.
Thắng giải rộng lớn như hư không
Tất cả ba đời đều vào trong
Quốc gia chúng sinh Phật đều vậy
Đây là hạnh phổ trí quang minh.
Thắng giải rộng lớn vô biên nầy như hư không, có thể nói bao quát hết thảy, dung chứa hết thảy. Tất cả ba đời đều vào trong đó. Quốc gia và hư không như nhau. Chúng sinh và hư không như nhau. Chư Phật và hư không như nhau. Đây là hạnh môn phổ trí quang minh.
Chí vui như không chẳng bờ mé
Vĩnh dứt phiền não lìa cấu bẩn
Tất cả chỗ Phật tu công đức
Đây hạnh thân mây nơi thế gian.
Chí nguyện và an vui của Bồ Tát, như hư không chẳng có bờ mé. Vĩnh viễn dứt trừ tất cả phiền não, vĩnh viễn xa lìa tất cả sự bụi trần. Ở trong đạo tràng của tất cả chư Phật, tu hành đủ thứ công đức. Hạnh môn nầy là hạnh thân mây trong thế giới.
Bồ Tát tu tập nhất thiết trí
Biển công đức không thể nghĩ bàn
Tịnh các phước đức thân trí huệ
Đây hạnh không nhiễm nơi thế gian.
Bồ Tát tu tập nhất thiết trí, có công đức không thể nghĩ bàn như biển cả, có thân phước đức trí huệ thanh tịnh. Hạnh môn nầy là hạnh không nhiễm nơi thế gian.
Chỗ tất cả chư Phật Như Lai
Nghe thọ trì pháp không nhàm đủ
Hay sinh thật tướng đèn trí huệ
Đây hạnh chiếu khắp nơi thế gian.
Ở chỗ đạo tràng của tất cả chư Phật, lắng nghe nhiếp thọ pháp của Phật nói, không khi nào nhàm đủ. Lắng nghe chánh pháp, thì sẽ sinh ra thật tướng đèn trí huệ. Đây là hạnh chiếu khắp ở trong đời.
Mười phương chư Phật vô lượng số
Một niệm tất cả đều vào được
Tâm luôn chẳng bỏ các Như Lai
Đây hạnh đại nguyện hướng bồ đề.
Mười phương ba đời tất cả chư Phật vô lượng số, rốt ráo có bao nhiêu vị Phật? Nói đơn giản là có bao nhiêu chúng sinh, thì có bấy nhiêu thân Phật. Tại sao vậy? Vì chúng sinh đều có Phật tánh, đều có thể làm Phật. Tuy có thể trong một niệm, đi đến khắp cùng đạo tràng của mười phương chư Phật. Nhưng bổn thân không động. Trong tâm luôn luôn nghĩ nhớ chư Phật, không bỏ Phật. Đây là hạnh môn đại nguyện hướng về bồ đề.
Hay vào đại chúng hội chư Phật
Tất cả Bồ Tát biển tam muội
Biển nguyện cùng với biển phương tiện
Đây hạnh Đế võng nơi thế gian.
Bồ Tát hay dùng thần thông trí huệ, vào khắp trong đại chúng hội của tất cả chư Phật. Hay vào trong biển tam muội của tất cả Bồ Tát, hay vào trong biển đại nguyện của Bồ Tát, hay vào trong biển phương tiện của Bồ Tát. Đây là hạnh Đế võng nơi thế gian.
Được tất cả chư Phật gia trì
Hết thuở vị lai vô biên kiếp
Nơi nơi tu hành đạo Phổ Hiền
Đây là hạnh Bồ Tát phân thân.
Được tất cả chư Phật gia trì và hộ niệm, hết thuở vị lai vô biên kiếp, bất cứ ở thế giới nào, nơi đạo tràng nào, cũng đều tu hành đạo của Bồ Tát Phổ Hiền tu. Đây là hạnh Bồ Tát phân thân.
Thấy các chúng sinh thọ khổ lớn
Khởi đại từ bi hiện thế gian
Diễn pháp quang minh trừ đen tối
Đây là hạnh Bồ Tát trí nhựt.
Bồ Tát thấy các chúng sinh thọ khổ lớn sinh tử, bèn sinh khởi tâm đại từ bi, thị hiện nơi thế gian. Diễn nói Phật pháp, phóng đại quang minh trí huệ, phá trừ tất cả đen tối thế gian. Đây là hạnh Bồ Tát trí nhựt.
Thấy các chúng sinh ở các cõi
Vì tập vô biên diệu pháp luân
Khiến họ vĩnh dứt dòng sinh tử
Đây là tu hành hạnh Phổ Hiền.
Bồ Tát thấy các chúng sinh thọ khổ ở trong sáu cõi, vì rộng tập vô biên diệu pháp luân, cho nên siêng tu pháp môn lục độ vạn hạnh, thành tựu viên mãn đạo nghiệp của mình. Tuy giáo hoá chúng sinh, điều phục chúng sinh, khiến cho chúng sinh thoát khỏi ba cõi, vĩnh dứt dòng sinh tử. Đây là hạnh môn tu hành của Bồ Tát Phổ Hiền.
Bồ Tát tu hành phương tiện nầy
Tuỳ tâm chúng sinh mà hiện thân
Khắp ở trong tất cả các cõi
Hoá độ vô lượng các hàm thức.
Bồ Tát tu hành pháp phương tiện nầy, tuỳ tâm niệm của chúng sinh mà hiện đủ thứ thân. Do đó có câu: “Quán căn cơ chúng sinh, vì người nói pháp, theo bệnh cho thuốc”. Khắp ở trong tất cả các cõi, giáo hoá độ thoát vô lượng các hàm thức, tức cũng là tất cả chúng sinh.
Dùng đại từ bi sức phương tiện
Khắp cùng thế gian mà hiện thân
Tuỳ họ hiểu thích mà thuyết pháp
Đều khiến hướng về đạo bồ đề.
Dùng đại từ đại bi đại nguyện sức phương tiện nầy, khắp cùng tất cả thế gian mà hiện thân. Tuỳ sự hiểu biết ưa thích của chúng sinh mà thuyết pháp. Chúng sinh căn cơ lanh lợi, có thể thấu hiểu đạo lý thâm sâu, thì vì họ diễn nói pháp nghĩa thâm sâu. Chúng sinh căn tánh chậm lụt, có thể tiếp thọ đạo lý nông cạn, thì vì họ nói pháp nghĩa nông cạn. Tóm lại, vì căn cơ của họ mà nói pháp, mới đắc được lợi ích của pháp. Mục đích cuối cùng là đều khiến chúng sinh hướng về đạo bồ đề, tương lai sẽ thành Phật.
Bấy giờ, Thích nữ Cù Ba nói bài kệ rồi, bảo Thiện Tài đồng tử rằng: Thiện nam tử! Ta đã thành tựu môn giải thoát Quán sát biển tam muội của tất cả Bồ Tát.
Lúc đó, Thích nữ Cù Ba nói mười hai bài kệ nầy rồi, bảo Thiện Tài đồng tử rằng: Thiện nam tử! Hiện tại ta đã thành tựu môn giải thoát quán sát biển tam muội của tất cả Bồ Tát. Tam muội nầy sâu rộng như biển. Như pháp giới vì thâm sâu, như chúng sinh vì rộng lớn. Dùng trí thù diệu, niệm niệm quán sát, nên được tên nầy.
Thiện Tài nói: Đại Thánh! Cảnh giới môn giải thoát nầy như thế nào?
Thiện Tài đồng tử nói với Thích nữ Cù Ba rằng: Đại Thánh! Cảnh giới môn giải thoát nầy như thế nào? Xin đại Thánh từ bi vì con nói, để cho con tăng thêm sự thấy nghe, nương theo pháp mà tu hành.
Đáp rằng: Thiện nam tử! Ta vào môn giải thoát nầy, biết số kiếp của hết thảy chúng sinh thế giới Ta Bà nầy, nhiều như số hạt bụi cõi Phật, ở trong các cõi, chết đây sinh kia. Làm thiện, làm ác, thọ các quả báo. Có cầu xuất ly, không cầu xuất ly. Chánh định, tà định, cùng với bất định. Căn lành có phiền não, căn lành không phiền não. Đầy đủ căn lành, không đầy đủ căn lành. Không căn lành nhiếp căn lành, căn lành nhiếp không căn lành. Tích tập pháp thiện bất thiện như vậy, ta đều thấy biết.
Thích nữ Cù Ba đáp rằng: Thiện nam tử! Ta chứng nhập môn giải thoát nầy rồi, biết số kiếp của hết thảy chúng sinh thế giới Ta Bà nầy, nhiều như số hạt bụi cõi Phật, ở trong sáu cõi (trời, người, A tu la, súc sinh, ngạ quỷ, địa ngục), chết đây sinh kia, chết kia sinh đây, trôi nổi không ngừng, vĩnh viễn không có kỳ hạn. Hoặc làm việc thiện, liền sinh về trời. Hoặc làm việc ác, liền đoạ địa ngục. Làm thiện được thiện báo, làm ác được ác báo. Đây là luật nhân quả, tơ hào không sai. Người học Phật, phải tin nhân quả, không thể bát nhân quả, không thể nói sai nhân quả. Hoặc có chúng sinh, ở trong ba cõi, cảm thấy rất khổ, muốn thoát khỏi nhà lửa ba cõi. Hoặc có chúng sinh, ở trong ba cõi, không cảm thấy khổ, không muốn thoát khỏi ba cõi. Có chúng sinh tu tập chánh định (chánh tri chánh kiến). Có chúng sinh tu tập tà định (tà tri tà kiến). Thế nào gọi là chánh định? Tức là nghiêm trì năm giới, tuyệt đối không phạm. Thế nào gọi là tà định? Tức là chẳng giữ năm giới, biết rõ mà cố phạm. Biết rõ sát sinh là không đúng, hoặc kêu người khác sát sinh, hoặc tự mình sát sinh. Những giới khác trộm cắp, tà dâm, nói dối, uống rượu, cũng như thế. Hoặc định chẳng chánh chẳng tà, tức là nửa chánh nửa tà, gọi là bất định. Tóm lại, cũng chẳng thiện, cũng chẳng ác. Hoặc trồng căn lành có phiền não. Ví như trồng căn lành là bổn phận của con người, không thể có xí đồ. Phàm là có tư tưởng cầu danh lợi, làm việc lành cố ý để hơn người khác, và làm việc lành để cạnh tranh với người khác, đây tức là căn lành có phiền não. Hoặc trồng căn lành không có phiền não. Ví như, làm việc thiện mà không cầu mong điều gì. Do đó có câu:
“Thiện mà muốn người biết, chẳng phải chân thiện
Ác mà sợ người biết, là đại ác”.
Phàm là làm việc thiện, chẳng muốn người biết, đó là âm đức, thần minh tự nhiên biết rõ. Đây tức là căn lành không có phiền não. Hoặc đầy đủ căn lành. Hoặc không đầy đủ căn lành. Hoặc không căn lành nhiếp căn lành. Tức là gieo trồng căn lành chẳng thuần tạp, mà nhiếp thọ căn lành thuần tạp. Hoặc căn lành nhiếp không căn lành. Tức là gieo trồng căn lành, mà được quả báo chẳng phải là căn lành. Tích tập pháp thiện và pháp bất thiện như vậy, ta đều thấy biết rất rõ ràng.
Lại nữa, trong kiếp đó, có chư Phật danh hiệu thứ tự, ta đều biết rõ. Chư Phật Thế Tôn đó, từ lúc ban đầu phát tâm, cùng với phương tiện, cầu nhất thiết trí. Sinh ra tất cả các biển đại nguyện. Cúng dường chư Phật, tu Bồ Tát hạnh, thành Đẳng Chánh Giác, chuyển bánh xe pháp, hiện đại thần thông, giáo hoá chúng sinh, ta đều biết rõ.
Lại nữa, trong số kiếp nhiều như số hạt bụi cõi Phật, hết thảy danh hiệu của tất cả chư Phật thứ tự trước sau xuất hiện ra đời, ta đều biết rõ. Chư Phật Thế Tôn đó, từ lúc ban đầu phát tâm, dùng pháp phương tiện để cầu nhất thiết trí. Sinh ra tất cả các biển đại nguyện. Cúng dường tất cả chư Phật, tu tập Bồ Tát hạnh, thành Đẳng Chánh Giác, chuyển bánh xe pháp, hiện đại thần thông, giáo hoá chúng sinh. Những cảnh giới đó, ta đều biết rõ ràng.
Cũng biết chúng hội khác nhau của chư Phật đó. Trong chúng hội đó, có các chúng sinh, nương Thanh Văn thừa mà được xuất ly. Chúng Thanh Văn đó, quá khứ tu tập tất cả căn lành và đắc được đủ thứ trí huệ, ta đều biết rõ. Có những chúng sinh, nương Duyên Giác thừa mà được xuất ly. Chúng Duyên Giác đó, hết thảy căn lành, đắc được bồ đề, tịch diệt giải thoát, thần thông biến hoá, thành thục chúng sinh, vào Niết Bàn, ta đều biết rõ.
Thích nữ Cù Ba lại nói: Ta cũng biết trong chúng hội của chư Phật đó, có đủ thứ sự khác nhau. Trong chúng hội đó, có các chúng sinh, nương pháp môn Thanh Văn thừa (khổ, tập, diệt,đạo) tu hành mà được thoát khỏi nhà lửa ba cõi (cõi dục, cõi sắc, cõi vô sắc). Do đó có câu: “Ba cõi như nhà lửa, sinh tử như ngục tù”. Đây là tư tưởng của người nhị thừa. Họ chứng được tứ quả A la hán, liền hoá thành tự khốn, chẳng cầu tiến bộ. Cho rằng các lậu đã sạch, phạm hạnh đã vững, những gì cần làm đã làm xong, chẳng còn thọ thân sau nữa. Tuy nhiên dứt được phần đoạn sinh tử, chứng được Hữu Dư Niết Bàn; nhưng chưa dứt được biến dịch sinh tử, chưa chứng được Vô Dư Niết Bàn. Chúng sinh trong Thanh Văn thừa, trong quá khứ cũng đã từng tu tập tất cả căn lành và đắc được đủ thứ trí huệ, ta đều biết rõ ràng.
Có những chúng sinh, nương theo pháp môn Duyên Giác thừa (quán 12 nhân duyên) tu hành mà được thoát khỏi ba cõi. Chúng sinh trong Duyên Giác thừa, hết thảy căn lành, đắc được bồ đề, tịch diệt giải thoát, thần thông biến hoá, thành thục chúng sinh, vào Niết Bàn, những cảnh giới đó, ta đều biết rõ ràng.
Ta cũng biết các chúng Bồ Tát của các đức Phật đó. Các Bồ Tát đó từ lúc ban đầu phát tâm, tu tập căn lành, sinh ra vô lượng các đại hạnh nguyện. Thành tựu đầy đủ các Ba La Mật, đủ thứ trang nghiêm Bồ Tát đạo. Dùng sức tự tại, vào bậc Bồ Tát, trụ bậc Bồ Tát, quán bậc Bồ Tát, tịnh bậc Bồ Tát, tướng bậc Bồ Tát, trí bậc Bồ Tát. Trí huệ Bồ Tát nhiếp thọ, trí huệ Bồ Tát giáo hoá chúng sinh, trí huệ Bồ Tát kiến lập, cảnh giới Bồ Tát hạnh rộng lớn, thần thông hạnh của Bồ Tát, biển tam muội của Bồ Tát, phương tiện của Bồ Tát. Bồ Tát ở trong niệm niệm, nhập vào biển tam muội, đắc được nhất thiết trí quang minh. Đắc được mây ánh chớp nhất thiết trí. Đắc được thật tướng nhẫn. Thông đạt nhất thiết trí, an trụ biển cõi, nhập vào biển pháp, biết biển chúng sinh, an trụ phương tiện, phát thệ nguyện, hiện thần thông, ta đều biết rõ.
Thích nữ Cù Ba lại nói: Ta cũng biết trong đạo tràng của chư Phật đó, có các chúng Bồ Tát. Các Bồ Tát đó, từ lúc ban đầu phát bồ đề tâm, tu tập căn lành, sinh ra vô lượng các đại hạnh nguyện. Thành tựu viên mãn đầy đủ các pháp Ba La Mật, đủ thứ trang nghiêm Bồ Tát đạo. Dùng sức tự tại, mà vào bậc Bồ Tát, trụ bậc Bồ Tát, quán bậc Bồ Tát, tịnh bậc Bồ Tát, tướng trạng bậc Bồ Tát, trí huệ bậc Bồ Tát, trí huệ Bồ Tát nhiếp thọ, trí huệ Bồ Tát giáo hoá chúng sinh, trí huệ Bồ Tát kiến lập, cảnh giới Bồ Tát hạnh rộng lớn, thần thông diệu hạnh của Bồ Tát, biển tam muội tu hành của Bồ Tát, pháp môn phương tiện thiện xảo của Bồ Tát. Bồ Tát ở trong niệm niệm, nhập vào biển tam muội, đắc được nhất thiết trí quang minh. Đắc được mây ánh chớp nhất thiết trí. Đắc được đạo lý thật tướng nhẫn. Thông đạt nhất thiết trí, an trụ đủ thứ biển cõi, nhập vào biển Phật pháp, biết biển chúng sinh, an trụ phương tiện, phát thệ nguyện, hiện thần thông, ta đều biết rõ ràng.
Thiện nam tử! Hết thuở vị lai ở thế giới Ta Bà nầy, hết thảy biển kiếp, chuyển động không dứt, ta đều biết rõ.
Thiện nam tử! Hết thuở vị lai ở thế giới Ta Bà nầy, hết thảy biển kiếp, chuyển động không dứt, ta đều biết rõ ràng.
Như biết thế giới Ta Bà, cũng biết số thế giới nhiều như số hạt bụi trong thế giới Ta Bà. Cũng biết tất cả thế giới trong thế giới Ta Bà. Cũng biết hết thảy thế giới nhiều như số hạt bụi trong thế giới Ta Bà. Cũng biết các thế giới trong mười phương ở ngoài thế giới Ta Bà không gián đoạn. Cũng biết thế giới chủng nhiếp thế giới của thế giới Ta Bà. Cũng biết Tỳ Lô Giá Na Thế Tôn ở trong biển thế giới Hoa Tạng nầy, mười phương vô lượng các thế giới chủng nhiếp thế giới. Đó là: Thế giới rộng lớn, thế giới an lập, thế giới luân, thế giới tràng, thế giới khác biệt, thế giới chuyển, thế giới liên hoa, thế giới tu di, thế giới danh hiệu. Hết tất cả thế giới biển thế giới nầy, do nguyện lực xưa của Tỳ Lô Giá Na Thế Tôn, mà ta đều biết được, ta cũng nghĩ nhớ được.
Như biết thế giới Ta Bà, cũng biết số thế giới nhiều như số hạt bụi trong thế giới Ta Bà. Cũng biết tất cả thế giới trong thế giới Ta Bà. Cũng biết hết thảy thế giới nhiều như số hạt bụi trong thế giới Ta Bà. Cũng biết các thế giới trong mười phương ở ngoài thế giới Ta Bà không gián đoạn. Cũng biết thế giới chủng nhiếp thế giới của thế giới Ta Bà. Cũng biết Phật Tỳ Lô Giá Na ở trong biển thế giới Hoa Tạng nầy, mười phương vô lượng các thế giới chủng nhiếp thế giới.
Tướng trạng thế giới, có mười thứ khác nhau, đó là:
1. Thế giới rộng lớn.
2. Thế giới an lập.
3. Thế giới luân.
4. Thế giới tràng.
5. Thế giới khác biệt.
6. Thế giới chuyển.
7. Thế giới liên hoa.
8. Thế giới tu di.
9. Thế giới danh hiệu.
10. Kết quả thế quả.
Hết tất cả thế giới biển thế giới nầy, do nguyện lực xưa của Phật Tỳ Lô Giá Na, mà ta đều biết được, ta cũng nghĩ nhớ được cảnh giới nầy.
Cũng nhớ hết thảy các biển nhân duyên thuở xưa của Như Lai. Đó là: Phương tiện tu tập tất cả các thừa. Trong vô lượng kiếp trụ Bồ Tát hạnh. Tịnh cõi nước Phật. Giáo hoá chúng sinh. Hầu hạ chư Phật. Kiếp lập trụ xứ. Nghe thọ thuyết pháp. Được các tam muội. Được các tự tại. Tu bố thí Ba La Mật. Vào biển công đức của Phật. Trì giới khổ hạnh. Đầy đủ các nhẫn. Dũng mãnh tinh tấn. Thành tựu các thiền. Viên mãn tịnh huệ. Thị hiện thọ sinh tất cả mọi nơi. Hạnh nguyện Phổ Hiền thảy đều thanh tịnh. Khắp vào các cõi. Khắp tịnh cõi Phật. Khắp vào biển trí của tất cả Như Lai. Nhiếp khắp tất cả chư Phật bồ đề.
Thích nữ Cù Ba lại nói: Ta cũng nhớ hết thảy các biển nhân duyên thuở xưa của Như Lai. Đó là: Phương tiện tu tập tất cả các thừa. Trong vô lượng kiếp trụ Bồ Tát hạnh. Thanh tịnh trang nghiêm cõi nước chư Phật mười phương. Giáo hoá điều phục tất cả chúng sinh. Hầu hạ cúng dường tất cả chư Phật. Kiếp lập tất cả trụ xứ. Lắng nghe nhiếp thọ pháp của chư Phật nói. Đắc được tất cả các tam muội. Đắc được sức nhậm vận tự tại. Tu hành hạnh bố thí Ba La Mật. Vào biển công đức của Phật. Tu hành pháp môn trì giới, học tập mười hai điều khổ hạnh. Tu hành pháp môn nhẫn nhục, nhẫn nại được tất cả những việc khó nhẫn, các nhẫn đều đầy đủ. Tu hành pháp môn tinh tấn, thân tinh tấn, tâm tinh tấn, ngày đêm sáu thời, dũng mãnh tinh tấn, không giải đãi. Tu hành pháp môn thiền định, thành tựu bốn thiền tám định. Tu hành pháp môn Bát Nhã, viên mãn nhất thiết trí huệ thanh tịnh. Thị hiện thọ sinh ở tất cả mọi nơi. Hạnh nguyện Bồ Tát Phổ Hiền thảy đều thanh tịnh. Khắp vào tất cả cõi Phật. Khắp tịnh tất cả cõi Phật. Khắp vào biển trí huệ của tất cả chư Phật. Nhiếp khắp tất cả chư Phật bồ đề đạo.
Đắc được đại trí quang minh của Như Lai. Chứng được tánh nhất thiết trí của chư Phật. Thành Đẳng Chánh Giác, chuyển bánh xe pháp, cùng với hết thảy đạo tràng chúng hội. Tất cả chúng sinh trong chúng hội đó, từ xưa đến nay, gieo trồng căn lành, từ lúc ban đầu phát tâm, thành thục chúng sinh, tu hành phương tiện, niệm niệm tăng trưởng, đắc được các tam muội, thần thông giải thoát, tất cả như vậy, ta đều biết rõ.
Lại đắc được đại trí huệ quang minh của Như Lai. Chứng được tánh nhất thiết trí huệ của chư Phật. Thành Đẳng Chánh Giác, chuyển bánh xe pháp, cùng với hết thảy đạo tràng chúng hội. Tất cả chúng sinh trong chúng hội đó, từ xưa đến nay, gieo trồng căn lành, từ lúc ban đầu phát tâm, thành thục tất cả chúng sinh, tu hành tất cả phương tiện, trong niệm niệm liên tục tăng trưởng, đắc được các tam muội, thần thông giải thoát. Tất cả cảnh giới như vậy, ta đều biết rõ.
Tại sao vậy? Vì giải thoát nầy, mà ta biết được tâm hạnh của tất cả chúng sinh. Tất cả chúng sinh tu hành căn lành. Tất cả chúng sinh tạp nhiễm thanh tịnh. Tất cả chúng sinh đủ thứ khác biệt. Các môn tam muội của tất cả Thanh Văn. Tịch tĩnh tam muội thần thông giải thoát của tất cả Duyên Giác. Giải thoát quang minh của tất cả Bồ Tát, tất cả Như Lai. Ta đều biết rõ.
Tại sao vậy? Vì ta hoàn toàn biết rõ giải thoát nầy. Biết được tâm hạnh của tất cả chúng sinh. Biết được căn lành tất cả chúng sinh. Biết được tạp nhiễm thanh tịnh của tất cả chúng sinh. Biết được đủ thứ khác biệt của tất cả chúng sinh. Biết được các môn tam muội của tất cả Thanh Văn. Biết được tịch tĩnh tam muội thần thông giải thoát của tất cả Duyên Giác. Biết được giải thoát quang minh của tất cả Bồ Tát và tất cả Như Lai. Những cảnh giới nầy ta đều thấu rõ biết được.
Bấy giờ, Thiện Tài đồng tử bạch Thích nữ Cù Ba rằng: Đức Thánh! Ngài đắc được môn giải thoát nầy đã bao lâu?
Lúc đó, Thiện Tài đồng tử thưa với Thích nữ Cù Ba rằng: Đức Thánh! Ngài đắc được môn giải thoát nầy đã bao lâu? Có thể nói cho con biết được chăng!
Đáp rằng: Thiện nam tử! Thuở xưa trải qua số kiếp, nhiều như số hạt bụi cõi Phật, có kiếp tên là Thắng Hạnh. Thế giới tên là Vô Uý. Ở trong thế giới đó, có bốn thiên hạ, tên là An Ổn. Trong bốn thiên hạ Diêm Phù Đề đó, có một thành vua, tên là Cao Thắng Thụ, là thượng thủ trong tám mươi thành vua.
Bấy giờ, có ông vua tên là Tài Chủ. Ông vua đó, có sáu vạn thể nữ, năm trăm đại thần, năm trăm vương tử. Các vương tử đó đều dũng mãnh, hàng phục được oán địch.
Thích nữ Cù Ba trả lời câu hỏi của Thiện Tài đồng tử rằng: Thiện nam tử! Thuở xưa, trải qua số kiếp nhiều như số hạt bụi cõi Phật, có kiếp tên là kiếp Thắng Hạnh. Có thế giới tên là thế giới Vô Uý. Ở trong thế giới đó, có bốn thiên hạ, tên là An Ổn. Trong bốn thiên hạ Diêm Phù Đề đó, có một thành vua, tên là thành Cao Thắng Thụ, là thượng thủ trong tám mươi thành vua. Lúc bấy giờ, có ông một vị vua tên là Tài Chủ. Ông vua đó, có sáu vạn thể nữ, năm trăm đại thần, năm trăm vương tử. Các vương tử đó, thân thể khoẻ mạnh, dũng mãnh thiện chiến, bách chiến bách thắng, hàng phục được tất cả oán địch.
Thái tử của vua đó tên là Oai Đức Chủ, đoan chính thù đặc, ai cũng muốn nhìn. Dưới chân bằng đầy, đầy đủ luân tướng. Lưng bàn chân nhô cao, giữa ngón tay, ngón chân, đều có màng lưới. Gót chân bằng phẳng, tay chân mềm mại. Bắp chân lộc vương, bảy chỗ tròn đầy. Âm tàng ẩn kín, phần trên thân như sư tử chúa. Hai vai bằng đầy, hai tay thon dài. Thân tướng ngay thẳng, cổ ba ngấn, má như sư tử. Đủ bốn mươi cái răng, tất cả đều ngay kín, bốn răng nanh trắng bóng. Lưỡi rộng dài, vang tiếng phạm âm. Mắt xanh biếc, lông nheo như ngưu chúa. Chặng mày có tướng bạch hào, trên đỉnh đầu có nhục kế. Da mịn màn như màu vàng ròng. Lông trên thân đều xoắn lên trên, tóc màu xanh đen. Thân tròn đầy như cây Ni Câu Đà.
Thái tử của vị vua Tài Chủ đó tên là Oai Đức Chủ, Ngài đầy đủ 32 tướng đại nhân trang nghiêm thân. Tướng mạo của thái tử rất đoan chính thù đặc, mọi người ai cũng muốn nhìn Ngài, có cảm giác nhìn hoài không chán. Dưới chân của Ngài bằng đầy (dưới bàn chân không có chỗ lõm), đầy đủ luân tướng (tức cũng là tướng bánh xe ngàn căm, dưới bàn chân có hình bánh xe). Lưng bàn chân nhô cao, giữa ngón tay, ngón chân, đều có màng lưới. Gót chân bằng phẳng, tay chân mềm mại. Bắp chân lộc vương, bảy chỗ tròn đầy (tức là dưới hai bàn chân, lòng hai bàn tay, hai vai, và đỉnh đầu, bảy chỗ). Âm tàng ẩn kín (nam căn của đàn ông), phần trên thân như sư tử chúa (thân thể oai nghi rất oai phong như sư tử chúa). Hai vai bằng đầy (hai vai rộng mà còn bằng đầy), hai tay thon dài (hai tay dài quá gối). Thân tướng ngay thẳng, cổ ba ngấn, má như sư tử. Đủ bốn mươi cái răng, tất cả đều ngay kín (đức Phật có 40 cái răng, Ngài Thanh Lương quốc sư cũng có 40 cái răng, người bình thường chỉ có 32 cái răng), bốn răng nanh trắng bóng. Lưỡi rộng dài (lưỡi vừa dài, vừa mềm, thè ra có thể liếm tới mũi và trán), vang ra tiếng phạm âm (lời nói rất thanh cao). Mắt xanh biếc, lông nheo như ngưu chúa. Chặng mày có tướng bạch hào (ruỗi ra dài khoảng một trượng năm thước, phóng đại quang minh. Thu vào ẩn tàng giữa lông mày), trên đỉnh đầu có nhục kế (tướng vô kiến đỉnh). Da mịn màn như màu vàng ròng. Lông trên thân đều xoắn lên trên, tóc màu xanh đen. Thân thể của thái tử tròn đầy cao thẳng như cây Ni Câu Đà.
Thuở xưa, đức Thế Tôn đã từng ba A tăng kỳ tu phước huệ, trăm kiếp trồng tướng tốt. Cho nên đầy đủ 32 tướng, tám mươi vẻ đẹp trang nghiêm thân. Nay nói về 32 tướng, 80 vẻ đẹp trong sớ sao, để khảo nghiệm.
32 tướng:
1. Dưới chân đức Thế Tôn có tướng bằng đầy, khéo an trụ, giống như đáy hộp, tuy đất cao thấp, tuỳ chân đạp lên, đều bằng phẳng, đồng đều.
2. Dưới chân đức Thế Tôn tròn đầy, có tướng bánh xe ngàn căm, các tướng chằng chịt.
3. Tay chân của đức Thế Tôn đều mềm mại, như lụa đâu la miên, hơn hết tất cả.
4. Ở giữa ngón tay, ngón chân của đức Thế Tôn, có màng lưới như ngỗng chúa, sắc vàng quấn nhau.
5. Tất cả các ngón tay chân của đức Thế Tôn tròn đầy thon dài, rất đáng ưa thích.
6. Gót chân của đức Thế Tôn dài rộng tròn đầy, tướng vun tròn của mu bàn chân đặt biệt hơn các cõi hữu tình.
7. Mu bàn chân của đức Thế Tôn, nổi cao đầy đặn, mềm mại tốt đẹp, tương xứng với gót.
8. Hai bắp đùi của đức Thế Tôn tròn trĩnh thon đẹp, như đùi nai chúa Y Ni Na Tiên.
9. Hai cánh tay của đức Thế Tôn thẳng dài tròn đầy, như voi chúa, đứng thẳng thòng quá đầu gối.
10. Tướng âm tàng của đức Thế Tôn ẩn kín, như rồng ngựa, cũng như voi chúa.
11. Mỗi lỗ chân lông của đức Thế Tôn, đều mọc ra một lông, tươi nhuận mềm mại xanh biết, vòng về bên phải.
12. Tóc của đức Thế Tôn đều mềm mịn xanh biếc, vòng về bên phải, toàn thân đều màu vàng ròng, rất đáng ưa thích.
13. Da trên thân của đức Thế Tôn đều mịn màn tươi nhuận, nước và bụi bặm đều không đọng dính trên da.
14. Da trên thân của đức Thế Tôn đều màu vàng ròng, lóng lánh sáng rỡ, như đài vàng đẹp, các báu trang nghiêm, ai cũng muốn nhìn.
15. Hai bàn chân, hai lòng bàn tay, cổ và hai vai của đức Thế Tôn, bảy chỗ đều đầy đặn.
16. Trán và vai của đức Thế Tôn tròn đầy thù diệu.
17. Hai nách của đức Thế Tôn đều đầy đặn.
18. Dung mạo và oai nghi của đức Thế Tôn đoan chính viên mãn.
19. Tướng thân của đức Thế Tôn to lớn đoan nghiêm.
20. Thể tướng của đức Thế Tôn các bề cao rộng, thật cân đối viên mãn, như cây Ni câu đà.
21. Phần trên thân của đức Thế Tôn từ ngực tới cằm, uy dung rộng lớn, như sư tử chúa.
22. Vầng ánh sáng chung quanh đầu mặt của đức Thế Tôn, thường sáng là một trượng.
23. Hàm răng của Ðức Thế Tôn đủ 40 cái, bằng đều không so le, sít kín nhau, chân sâu và trong trắng như ngọc “Kha Tuyết”.
24. Bốn răng cửa của đức Thế Tôn, trắng tươi và bén nhọn.
25. Tất cả hương vị khi đến với đức Thế Tôn đều trở thành “Thượng Vị”. Sở dĩ có như vậy, vì ngay nơi hầu mạch (mạch tại cổ) có công năng dẫn thẳng đến các mạch chi tiết của toàn thân. Các bịnh đàm ấm phong nhiệt, đều bị vô hiệu với cơ thân của đức Thế Tôn. Cơ thể miễn nhiễm tuyệt vời đó, làm tiêu hoại tất cả sự xâm tổn đến các mạch, nổi chìm co giãn trong thân của Ngài.
26. Tướng lưỡi của đức Thế Tôn, trong sạch dài rộng và mỏng, công năng của lưỡi có thể che trùm cả mặt cho đến mé tóc trán và đến mang tai.
27. Phạm âm từ vận giọng nói củađứcThế Tôn, lan rộng hòa nhã dịu dàng, bất luận thính chúng nhiều ít, xa gần độ nghe được, đều bình đẳng giống nhau. Chấn âm của giọng như tiếng trống trời, điệu uyển chuyển của thanh âm mềm như “tiếng Tần già” (giống chim nói pháp cõi Tịnh Ðộ).
28. Ðôi chân mày của đức Thế Tôn, xanh biếc như ngưu chúa, xếp lớp nằm nghiêng chỉnh tề không rối.
29. Ðôi tròng mắt của đức Thế Tôn, xanh biếc trắng tươi, trong xanh tươi trắng phân minh, chỗ giáp màu hơi ửng hồng.
30. Khuôn mặt của đức Thế Tôn, tròn sáng như trăng rằm, chân mày cong như cánh cung của trời Thiên Ðế.
31. Giữa hai chân mày của đức Thế Tôn có tướng bạch hào, xoay vòng về bên phải, mềm mại như tơ Đâu la miên (tơ cõi trời), tươi trắng sáng suốt như ngọc “Kha-tuyết”.
32. Trên đỉnh đầu của đức Thế Tôn nổi lên một cục tròn gọi là Ô-sắc-nị-ca (Nhục kế), cao hiển tròn trịa, giống như lọng trời).
80 vẻ đẹp:
1. Không thấy đỉnh tướng: chòm đỉnh đầu của Đức Phật càng nhìn càng cao, nên chẳng thấy đỉnh.
2. Mũi cao, lỗ mũi không lộ.
3. Lông mày như trăng non.
4. Dái tai rủ xuống.
5. Thân rắn chắc như na-la-diên.
6. Khớp xương chắc như móc khoá.
7. Một khi dở mình, xoay người thì như voi chúa.
8. Lúc đi chân cách mặt đất bốn tấc và hiện ấn văn.
9. Móng như màu đồng đỏ, mỏng và láng bóng.
10. Xương đầu gối rắn chắc tròn và đẹp.
11. Thân trong sạch.
12. Thân mềm mại.
13. Thân chẳng cong vẹo.
14. Ngón tay tròn mà thon nhỏ.
15. Vân ngón tay ẩn kín.
16. Mạch sâu chẳng hiện.
17. Mắt cá ẩn.
18. Thân bóng bẩy mượt mà.
19. Thân chẳng uốn éo.
20. Thân đầy đủ.
21. Dung nghi đầy đủ.
22. Dung nghi hoàn toàn.
23. Trụ xứ yên không động.
24. Oai chấn hết thảy.
25. Mọi chúng sanh thấy đều vui mừng.
26. Mặt chẳng dài to.
27. Dung mạo ngay thẳng không lệch lạc.
28. Mặt mũi đầy đặn.
29. Môi đỏ như quả Tần-bà.
30. Tiếng nói vang trầm.
31. Rốn sâu tròn đẹp.
32. Lông xoăn theo chiều bên phải.
33. Tay chân tròn trịa.
34. Tay chân như ý.
35. Vân tay sáng thẳng.
36. Vân tay dài.
37. Vân tay chẳng đứt.
38. Chúng sanh có ác tâm thấy Ngài thì đều hoà nhã vui vẻ.
39. Mặt rộng và rất đẹp.
40. Mặt mũi thanh tịnh và đầy đặn như vầng trăng tròn.
41. Nói năng hoà nhã với chúng sanh đúng theo ý thích của họ.
42. Lỗ chân lông toả ra mùi thơm.
43. Miệng toả mùi thơm tuyệt vời.
44. Dáng điệu, cử chỉ, dung mạo như sư tử.
45. Đi đứng oai vệ như voi chúa.
46. Tướng đi như ngỗng chúa.
47. Đầu như quả Ma-đà-na.
48. Mọi thành phần đều đầy đủ.
49. Bốn răng cửa trắng và sắc.
50. Lưỡi màu đỏ.
51. Lưỡi mỏng.
52. Lông màu hồng.
53. Lông mềm mại sạch sẽ.
54. Mắt rộng dài.
55. Tướng tử môn đầy đủ.
56. Tay chân trắng đỏ như màu hoa sen.
57. Rốn chẳng lồi.
58. Bụng chẳng lộ.
59. Bụng thon.
60. Thân chẳng khuynh động.
61. Thân trì trọng.
62. Thân lớn.
63. Thân dài.
64. Tay chân mềm mại, sạch sẽ bóng bẩy.
65. Xung quanh có hào quang dài một trượng.
66. Khi đi có hào quang chiếu trên thân.
67. Coi chúng sanh bình đẳng như nhau.
68. Chẳng khinh chúng sanh.
69. Âm thanh tuỳ theo chúng sanh, chẳng tăng chẳng giảm.
70. Thuyết pháp chẳng chấp trước.
71. Tuỳ theo ngôn ngữ của chúng sanh mà thuyết giảng.
72. Pháp âm ứng với tiếng của chúng sanh.
73. Tuần tự ứng với nhân duyên mà thuyết pháp.
74. Hết thảy chúng sanh ngắm thân tướng Phật mà chẳng ngắm hết.
75. Ngắm mãi không chán.
76. Tóc dài và đẹp.
77. Tóc chẳng rối.
78. Tóc xoăn đẹp.
79. Màu tóc như ngọc xanh.
80. Tay chân là tướng bậc có đức.
Do đó có câu “Tướng theo tâm chuyển”. Người tâm tốt, tướng tuy chẳng tốt, cũng chẳng khởi tác dụng, mà sẽ bình an vô sự. Người tâm không tốt, tướng tuy tốt, cũng bị xung phá, chẳng có ứng nghiệm. Tóm lại, hãy làm việc tốt, đừng hỏi kết quả sẽ ra sao (mạc vấn tiền trình). Ở trong sự minh minh đó, hộ pháp thiện thần sẽ trợ giúp, gặp hung hoá cát, tai qua nạn khỏi.
Bấy giờ, thái tử vâng lời phụ vương, cùng với mười ngàn thể nữ đi đến vườn Hương Nha du ngoạn vui chơi. Thái tử lúc bấy giờ ngồi trên toà sư tử đại ma ni trong xe báu đẹp, xe đó có đủ các thứ nghiêm sức. Năm trăm thể nữ cầm dây báu kéo xe, tiến lùi có chừng mực, không chậm, không nhanh. Trăm ngàn vạn người cầm các lọng báu. Trăm ngàn vạn người cầm các tràng báu. Trăm ngàn vạn người cầm các phan báu. Trăm ngàn vạn người tấu lên các kỹ nhạc. Trăm ngàn vạn người đốt các hương thơm. Trăm ngàn vạn người rải các hoa đẹp. Tuỳ tùng trước sau đi theo thái tử. Đường xá bằng phẳng, không có cao thấp, rải các thứ hoa báu đẹp. Cây báu thẳng hàng, lưới báu che phủ. Đủ thứ lầu các rộng lớn, hoặc bên trong chứa đủ thứ châu báu, hoặc trần thiết các đồ trang nghiêm, hoặc chưng bày đủ thứ thức ăn uống, hoặc treo đủ thứ y phục, hoặc sắm đủ những vật tư sanh, hoặc an trí người nữ đoan chánh, cùng với vô lượng tôi tớ hầu đi theo. Tuỳ ai cần gì, thảy đều thí cho.
Lúc đó, thái tử Oai Đức Chủ vâng lời phụ vương, cùng với mười ngàn thể nữ đi đến vườn Hương Nha du ngoạn, vui chơi, ngắm cảnh, hoặc ca ngâm, hoặc khiêu vũ, hoặc bơi lội, hoặc đá cầu. Thái tử lúc bấy giờ ngồi trên toà sư tử đại ma ni trong xe báu đẹp làm bằng bảy báu, xe đó có đủ các thứ châu báu dùng để nghiêm sức. Năm trăm thể nữ cầm dây báu bảy màu kéo xe, khi tiến, khi lùi đều có chừng mực, không chậm, không nhanh. Có trăm ngàn vạn người cầm các lọng báu. Có trăm ngàn vạn người cầm các tràng báu. Có trăm ngàn vạn người cầm các phan báu. Có trăm ngàn vạn người tấu lên các kỹ nhạc. Có trăm ngàn vạn người đốt lên các hương thơm. Có trăm ngàn vạn người rải các hoa đẹp. Những người tuỳ tùng đó trước sau đi theo thái tử. Đường xá bằng phẳng, không có chỗ cao thấp, có rải các thứ hoa báu đẹp trên đường. Cây báu bên đường thẳng hàng, có đủ thứ lưới báu che phủ phía trên để nghiêm sức. Có đủ thứ lầu các hình dáng khác nhau, có lầu các cao, có lầu các thấp, có lầu các hình dài, có lầu các hình vuông, bên trong lầu các hoặc chứa đủ thứ châu báu, hoặc trần thiết đủ thứ đồ trang nghiêm, hoặc chưng bày đủ thứ thức ăn uống, hoặc treo đủ thứ y phục, hoặc sắm đủ những vật tư sanh, hoặc có người nữ đoan chánh xinh đẹp, hoặc có tôi tớ thông minh lanh lợi. Tuỳ ai cần gì, thảy đều thí cho họ, tuyệt đối không xẻn tiếc, tất cả đều xả bỏ được hết.
Bấy giờ, có người mẹ tên là Thiện Hiện, dắt theo một đồng nữ, tên là Cụ Túc Diệu Đức, dung nhan đoan chánh, sắc tướng nghiêm khiết, thân cao vừa vặn, mắt và tóc xanh biếc, tiếng như phạm âm, khéo biết các nghề, tinh thông biện luận, cung kính siêng giỏi, thương xót không hại ai, đầy đủ sự hổ thẹn, nhu hoà chất trực, lìa si ít dục, không xiểm nịnh dối trá. Đồng nữ và người mẹ ngồi xe báu đẹp, các thể nữ theo sau, từ thành vua đi ra, đi trước xe thái tử.
Lúc đó, có một người mẹ, bà ta tên là Thiện Hiện, dắt theo một đồng chân thiếu nữ, cô ta tên là Cụ Túc Diệu Đức, dung nhan đoan chánh, đặc biệt xinh đẹp, sắc tướng trang nghiêm, rất là thanh khiết, thân thể đầy đặn, tay thon dài, tứ chi hợp với nhau, thân cao vừa phải, không cao, không thấp, không mập, không ốm, rất vừa vặn, có thể nói là thập toàn thập mỹ, tìm không ra khuyết điểm, rất hợp tiêu chuẩn của người đẹp. Mắt và tóc của cô ta đều xanh biếc, tiếng nói của cô ta như phạm âm, rất là êm tai. Cô ta có nghiên cứu tinh thông về xảo công minh, chẳng có gì mà không biết làm. Xảo công minh là gì? Tức là đối vói toán pháp, mỹ thuật, thư số, hội hoạ, kiến trúc v.v… đều hiểu biết mà còn giỏi nữa.
Ấn Độ có ngũ minh học, tức là:
1. Nội minh.
2. Thanh minh.
3. Nhân minh.
4. Y dược minh.
5. Công xảo minh.
Cô ta có trí huệ vô ngại, khéo biện luận. Cô ta biết cung kính, siêng làm các việc, không lười biếng. Cô ta có lòng thương xót chúng sinh, không có tâm hại chúng sinh. Cô ta đầy đủ sự hổ thẹn, tuyệt đối không làm việc trái với đạo. Cô ta tánh tình nhu hoà, dù bị chịu đựng sự áp bức, cũng đều có tâm nhẫn nại, chẳng nổi giận. Cô ta chỉ nói lời chân chánh, không nói dối. Cô ta lìa khỏi sự ngu si, thanh tâm quả dục, biết đủ không tham. Cô ta không có tánh xiểm nịnh, là thiếu nữ điển hình. Cô ta và mẹ cô ta ngồi xe báu đẹp, có rất nhiều thể nữ vây quanh đi theo, từ thành vua Cao Thắng Thụ đi ra, đi đến vườn Hương Nha du ngoạn, xe cô ta đi trước xe thái tử Oai Đức Chủ.
Đồng nữ thấy thái tử lời lẽ ngâm nga, tâm sinh ái nhiễm, bèn nói với mẹ rằng: Lòng con muốn được kính thờ người nầy, nếu không toại nguyện thì con sẽ tự vẫn.
Người mẹ bảo con gái rằng: Đừng sinh ý niệm nầy, tại sao? Vì việc nầy rất khó được. Người nầy đầy đủ các tướng Luân Vương, sau này sẽ lên làm Chuyển Luân Vương, có nữ báu xuất hiện, bay trên không tự tại. Chúng ta thấp hèn, việc nầy khó đạt được, chớ sinh ý niệm nầy.
Đồng nữ Diệu Đức ở trên xe trông thấy thái tử Oai Đức Chủ ở phía sau, ngồi trên toà sư tử, nghe được tiếng nói của thái tử, rất êm tai giống như tiếng ca hát ngâm thơ. Cô ta lập tức như bị tiếng sét ái tình, sinh tư tưởng ái nhiễm, bèn nói với mẹ của cô ta rằng: Con muốn trọn đời được kính thờ người nầy, nếu không được toại nguyện thì con quyết định sẽ tự vẫn. Người mẹ thấy cô ta điên đảo như thế, rất là đáng thương, bèn bảo con gái rằng: Diệu Đức! Con đừng sinh vọng tưởng không thể được nầy, tại sao? Vì người ta là thái tử, đầy đủ các tướng Chuyển Luân Thánh Vương, sau này sẽ lên làm Chuyển Luân Vương, có bảy báu xuất hiện. Thế nào là bảy báu?
1. Bánh xe báu, so với hoả tiễn bây giờ còn nhanh hơn nhiều, nội trong một giờ thì có thể đi khắp bốn thiên hạ.
2. Châu báu: Tức là châu như ý, muốn gì có nấy, lấy không hết, dùng không cạn, xứng tâm như ý, không có thất vọng.
3. Voi báu: Voi chúa trắng lớn, khéo hiểu ý người.
4. Ngựa báu: Là long mã, chẳng những chạy dưới đất, mà còn chạy trên nước, thậm chí bay trên không.
5. Binh báu: Bình thường không cần huấn luyện quân đội, đến lúc tác chiến thì tự nhiên hiện ra voi binh, ngựa binh, xe binh, bộ binh.
6. Chủ tạng Thần báu: Khi Chuyển Luân Thánh Vương cần vàng bạc, thì bất cứ ở chỗ nào, cũng đều có mỏ vàng bạc, tuỳ thời tuỳ lúc đều có vàng bạc.
7. Ngọc nữ báu: Trên có con gái của trời Đế Thích, dưới có con gái của Càn Thát Bà, tuỳ ý hiện thân.
Bảy báu nầy có cảnh giới không thể nghĩ bàn. Khi Chuyển Luân Thánh Vương chết rồi, nếu không có thái tử tiếp tục kế vị, thì trong bảy ngày, bảy báu sẽ tự nhiên biến mất.
Bà mẹ của cô ta lại nói: Khi thái tử làm vua, thì tự nhiên có ngọc nữ xuất hiện, ngồi trên bánh xe mà bay trong hư không, tiêu dao tự tại. Chúng ta là người thấp hèn, làm sao sánh với thái tử? Việc nầy không dễ gì đạt được, con chớ sinh vọng tưởng ngu si nầy.
Bên cạnh vườn Hương Nha, có một đạo tràng, tên là Pháp Vân Quang Minh. Bấy giờ, có đức Như Lai hiệu là Thắng Nhựt Thân, đầy đủ mười hiệu, xuất hiện trong đó đã được bảy ngày rồi.
Bấy giờ, đồng nữ đó ngủ gật, nằm mộng thấy đức Phật đó. Khi tỉnh dậy, trong hư không có vị Trời bảo đồng nữ rằng: Đức Như Lai Thắng Nhựt Thân, thành Đẳng Chánh Giác trong đạo tràng Pháp Vân Quang Minh, đã được bảy ngày. Các chúng Bồ Tát vây quanh trước sau, Trời, rồng, Dạ Xoa, Càn Thát Bà, A Tu La, Ca Lâu La, Khẩn Na La, Ma Hầu La Già, Phạm Thiên, cho đến Trời Sắc Cứu Cánh, các Thần đất, Thần gió, Thần lửa, Thần nước, Thần sông, Thần biển, Thần núi, Thầy cây, Thần vườn, Thần nhạc, Thần chủ thành .v.v… vì gặp đức Phật, nên đều đến tụ hội.
Bên cạnh vườn Hương Nha, có một đạo tràng, tên là đạo tràng Pháp Vân Quang Minh. Lúc đó, có vị Phật hiệu là Phật Thắng Nhựt Thân, đầy đủ mười hiệu, xuất hiện trong đạo tràng Pháp Vân Quang Minh, đã được bảy ngày rồi.
Lúc bấy giờ, đồng nữ Diệu Đức ngủ gật, nằm mộng thấy đức Phật Thắng Nhựt Thân đó. Khi tỉnh dậy, trong hư không có vị Trời bảo đồng nữ rằng: Đức Phật Thắng Nhựt Thân, đã thành Phật trong đạo tràng Pháp Vân Quang Minh, đã được bảy ngày rồi. Tất cả chúng đại Bồ Tát vây quanh đức Phật trước sau. Có chư Thiên, các rồng, Dạ Xoa, Càn Thát Bà, A Tu La, Ca Lâu La, Khẩn Na La, Ma Hầu La Già, Phạm Thiên, cho đến Trời Sắc Cứu Cánh, các Thần đất, Thần gió, Thần lửa, Thần nước, Thần sông, Thần biển, Thần núi, Thầy cây, Thần vườn, Thần nhạc, Thần chủ thành .v.v… vì muốn gặp đức Phật, nên đều đến tụ hội, làm hộ pháp thiện thần.
Bấy giờ, đồng nữ Diệu Đức nhờ mộng thấy Như Lai, và nghe công đức Phật, nên tâm rất an ổn, không còn sợ hãi, ở trước thái tử mà nói kệ rằng:
Lúc đó, đồng nữ Diệu Đức nhờ mộng thấy Như Lai, và nghe công đức Phật, nên tâm rất an ổn, không còn sợ hãi, ở trước thái tử mà nói mười kệ sau đây:
Thân tôi rất đoan chánh
Tiếng đồn khắp mười phương
Trí huệ không ai bằng
Khéo biết hết các nghề.
Diệu Đức đồng nữ tự giới thiệu, bèn nói với thái tử Oai Đức Chủ rằng: Thân tôi viên mãn nhất, ngũ quan của tôi đoan chánh nhất. Tiếng đồn của tôi khắp mười phương, chẳng có ai mà không biết, chẳng có ai mà không thấy. Trí huệ của tôi cao thâm, không ai sánh bằng. Đối với tất cả các nghề, tôi đều khéo léo làm được hết. Tóm lại, các nghề như thêu thùa, nấu ăn, hội hoạ, âm nhạc, văn học .v.v… tôi đều thông đạt đến chỗ tinh xảo.
Vô lượng trăm ngàn chúng
Thấy tôi đều tham nhiễm
Lòng tôi đối với họ
Không sinh chút ái dục.
Có vô lượng trăm ngàn chúng sinh, thấy tôi xinh đẹp mà sinh tâm tham nhiễm. Tôi có diện mạo đẹp chim sa cá lặn (Cô ta là hoa sen hoá sinh, cho nên xinh đẹp hơn người), nhưng lòng tôi đối với họ không giao động, không bị họ dẫn dụ, tuyệt đối không sinh tơ hào tâm ái dục.
Nếu ai ở trước cô gái xinh đẹp mà tâm không động, thì người đó có định lực, không bị cảnh giới lay chuyển, họ sẽ khai ngộ trong tương lai gần. Làm thế nào khiến cho tâm không khởi vọng tưởng, chẳng có phi phi tưởng? Phương pháp rất đơn giản, có thể quán tưởng thân thể chỉ là túi da hôi thối, bên trong toàn là những thứ máu mủ bất tịnh. Quán như vậy, nghĩ như vậy, thì tự nhiên sẽ tiêu diệt vọng tưởng khởi tâm động niệm. Nói thì ai cũng nói được, nhưng làm thì không ai làm được, cho nên ông Vương Minh Dương đề xướng học thuyết tri hành hợp nhất. Biết được làm được là người giỏi.
Không sân cũng không hận
Không ghét cũng không mừng
Chỉ phát tâm rộng lớn
Lợi ích các chúng sinh.
Những người tham nhiễm đó, tuy sinh tâm tham nhiễm đối với tôi, nhưng tôi tha thứ cho họ những người ngu si vô tri vô thức, cũng không sinh tâm sân hận, cũng không sinh tâm oán hận, cũng không hiềm ghét họ, cũng không vui mừng họ. Tôi chỉ phát tâm bồ đề rộng lớn, lợi ích cho họ, giáo hoá họ, khiến cho họ lìa khổ được vui, phát tâm bồ đề, tu vô thượng đạo.
Nay tôi thấy thái tử
Đủ các tướng công đức
Lòng tôi rất vui mừng
Các căn đều thơ thới.
Diệu Đức đồng nữ nói với thái tử: Nay tôi thấy tướng mạo thái tử, đặc biệt trang nghiêm, đầy đủ các tướng công đức, khiến cho tôi sinh tâm ái mộ. Tôi cảm thấy rất may mắn gặp được Ngài, tôi rất là vui mừng. Sáu căn của tôi, mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý, đều thơ thới, không cách nào hình dung được. Tóm lại, Ngài rất đẹp, Ngài có đức tướng, khiến cho tôi thần hồn điên đảo, chỉ muốn gả cho Ngài thôi.
Sắc như quang minh báu
Tóc đẹp xoắn bên phải
Trán rộng mày nhỏ cong
Lòng tôi nguyện thờ Ngài.
Sắc tướng của Ngài rất sáng sạch, giống như quang minh ngọc báu. Tóc của Ngài rất đẹp, xanh biếc, xoắn về bên phải. Trán của Ngài rất rộng, lông mày của Ngài rất nhỏ cong tựa trăng non. Tôi thấy Ngài rồi, lòng tôi nguyện suốt đời kính thờ Ngài, hầu hạ phục vụ cho Ngài.
Tôi thấy thân thái tử
Ví như tượng vàng ròng
Cũng như núi báu lớn
Tướng tốt có quang minh.
Tôi thấy thân của thái tử, chẳng có chút thiếu khuyết nào, không có chút nào dư, không có chút nào thiếu, giống như pho tượng vàng ròng, đạt đến chỗ chân thiện mỹ, lại cũng giống như núi báu lớn, 32 tướng tốt, 80 vẻ đẹp, đều có đại quang minh.
Mắt rộng màu xanh biếc
Mặt tròn má sư tử
Vui vẻ giọng nói hay
Xin thương nạp thọ tôi.
Mắt của Ngài rộng dài, mà còn xanh biếc. Mặt của Ngài tròn đầy, má của Ngài như đầy đặn như sư tử. Ngài rất vui vẻ và dễ gần gũi, giọng nói của Ngài rất hay, thật là êm tai. Xin thái tử hãy thương xót tôi, nạp thọ tôi làm bạn, tôi khẩn cầu Ngài.
Tướng lưỡi đẹp rộng dài
Giống như màu đồng đỏ
Phạm âm tiếng Khẩn Na
Ai nghe đều hoan hỉ.
Tướng lưỡi của Ngài rộng dài, thường vang ra âm thanh vi diệu, giống như màu đồng đỏ. Âm thanh của Ngài như Phạm âm, rất thanh tịnh trang nghiêm, như tiếng Khẩn Na La (Thần ca). Khiến cho ai nghe được đều sinh khởi tâm niệm Phật, niệm Pháp, niệm Tăng, đều sinh tâm hoan hỉ, phát tâm tu hành Bồ Tát đạo, cứu hộ chúng sinh thọ khổ.
Miệng vuông rất quân bình
Răng trắng đều bằng kín
Lúc nói hiện mỉm cười
Ai thấy cũng hoan hỉ.
Miệng của Ngài hình vuông, hai môi phối hợp tương xứng với nhau, rất quân bình. Răng của Ngài rất trắng sạch, không những bằng đều, mà còn kín, đầy đủ bốn mươi răng. Lúc Ngài nói chuyện, hiện mỉm cười, nhất cử nhất động, đều khiến cho ai thấy cũng sinh tâm hoan hỉ.
Thân lìa bẩn thanh tịnh
Đủ ba mươi hai tướng
Tất sẽ trong cõi nầy
Mà làm Chuyển Luân Vương.
Thân của Ngài là thể lìa cấu thanh tịnh, đã đầy đủ ba mươi hai tướng đại nhân, chắc chắn sẽ làm Chuyển Luân Thánh Vương trong cõi nầy, thống trị bốn thiên hạ, vì chúng sinh mưu cầu phúc lợi, vì chúng sinh tạo hạnh phúc. Chuyển Luân Thánh Vương phân ra làm bốn:
1. Kim Luân Vương, quản hạt: Đông Thắng Thần Châu, Nam Thiệm Bộ Châu, Tây Ngưu Hoá Châu, Bắc Câu Lưu Châu.
2. Ngân Luân Vương, quản hạt ba châu.
3. Đồng Luân Vương, quản hạt hai châu.
4. Thiết Luân Vương, quản hạt một châu.
Bấy giờ, thái tử bảo cô gái đó rằng: Nàng là con gái của ai? Ai bảo hộ nàng? Nếu trước đã thuộc về người khác, thì ta không nên sanh lòng ái nhiễm.
Bấy giờ, thái tử dùng kệ hỏi rằng:
Lúc bấy giờ, thái tử Oai Đức Chủ nói với Diệu Đức đồng nữ rằng: Nàng là con gái nhà ai? Ai bảo hộ nàng? Nếu trước kia nàng đã đính hôn với người khác, thì ta không nên sanh lòng ái nhiễm. Lúc đó, thái tử dùng kệ hỏi đồng nữ rằng:
Thân nàng rất thanh tịnh
Đầy đủ tướng công đức
Nay ta hỏi về nàng
Hiện nàng ở với ai?
Thái tử Oai Đức Chủ hỏi Diệu Đức đồng nữ rằng: Thân thể của nàng rất thanh tịnh, nàng đã đầy đủ tướng công đức. Nay ta hỏi về nàng, hiện nay nàng ở với ai? Gia đình nàng ở đâu? Nàng tên họ là gì?
Cha mẹ nàng là ai?
Nay nàng thuộc về ai?
Nếu đã thuộc về người
Người đó nhiếp thọ nàng.
Cha mẹ nàng là ai? Hiện tại nàng đã đính hôn với ai chưa? Nàng đã có ý trung nhân chưa? Nếu đã có và đính hôn với họ rồi, thì người đó sẽ nhiếp thọ nàng, cưới nàng làm vợ.
Nàng không trộm vật người
Nàng không có lòng hại
Nàng không phạm tà dâm
Nàng nương lời nói nào?
Nàng có trộm tài vật của người chăng? Nàng có lòng hại người chăng? Nàng có ý phạm tà dâm chăng? Nàng nương lời nói nào mà trụ? Những vấn đề nầy xin nàng hãy nói rõ tỉ mỉ.
Không nói xấu kẻ khác
Không phá thân thuộc người
Không xâm cảnh giới người
Không giận hờn người khác.
Nàng nhất định không nói xấu kẻ khác chứ. Nàng nhất định không phá hoại thân thuộc người khác chứ. Nàng nhất định không xâm phạm cảnh giới người khác chứ. Nàng nhất định không giận hờn người khác chứ.
Không sinh tà hiểm kiến
Không làm nghiệp trái nhau
Không dùng sức xiểm khúc
Phương tiện dối thế gian.
Nàng không sinh tà tri kiến giải hiểm ác chứ. Nàng không làm nghiệp trái nhau chứ. Nàng không dùng sức xiểm nịnh quanh co để hãm hại người khác chứ. Nàng càng không dùng phương tiện dối trá để lường gạt người, uy hiếp người chứ.
Tôn trọng cha mẹ chăng?
Kính thiện tri thức chăng?
Thấy các người bần cùng
Sinh tâm nhiếp thọ chăng?
Nàng có tôn trọng cha mẹ nàng chăng? Nàng có cung kính thiện tri thức chăng? Nàng thấy những người cô độc bần cùng nghèo khổ, có sinh tâm từ bi, tâm thương xót, nhiếp thọ họ, lìa khổ được vui chăng?
Nếu có thiện tri thức
Dạy bảo mà nói pháp
Nàng sinh tâm kiên cố
Rốt ráo tôn trọng chăng?
Nếu có thiện tri thức, dạy bảo nàng, khai thị cho nàng, vì nàng mà nói diệu pháp. Nàng nghe rồi, có sinh tâm kiên cố bất hoại chăng? Có nhớ ở trong đầu, vĩnh viễn không quên, rốt ráo tôn trọng thiện tri thức chăng?
Có kính mến Phật chăng?
Biết rõ Bồ Tát chăng?
Biển công đức chúng Tăng
Nàng có cung kính chăng?
Nàng có kính mến Phật chăng? Nàng biết rõ pháp Bồ Tát tu chăng? Tất cả biển công đức đầy đủ của hiền Thánh Tăng, nàng có cung kính chăng? Nàng có gần gũi Tam Bảo chăng? Nàng có phụng sự Tam Bảo chăng? Nàng có cúng dường Tam Bảo chăng?
Nàng biết Phật pháp chăng?
Thanh tịnh chúng sinh chăng?
Nàng trụ trong Phật pháp
Hoặc trụ nơi phi pháp?
Nàng biết tất cả Phật pháp chăng? Nàng có thể thanh tịnh tất cả chúng sinh chăng? Nàng có trụ ở trong Phật pháp chăng? Hoặc trụ ở nơi phi pháp, chẳng phải Phật Pháp chăng? Những việc nầy nàng có làm được chăng?
Thấy những người cô độc
Sinh khởi tâm từ chăng?
Thấy ác đạo chúng sinh
Sinh tâm đại bi chăng?
Nàng thấy những người cô độc không nơi nương tựa, có sinh khởi tâm từ bi thương xót họ chăng? Nàng thấy chúng sinh ba đường ác, ở đó chịu đói, chịu khát, nàng có sinh tâm đại bi, cứu vớt họ thoát khỏi biển khổ chăng?
Thấy người được vinh hạnh
Sinh tâm hoan hỉ chăng?
Họ đến bức bách nàng
Nàng không sân não chăng?
Khi nàng thấy người ta được vinh hạnh và an vui, có sinh tâm hoan hỉ chăng? Tuỳ hỉ mà khen ngợi, không sinh tâm đố kị! Nếu có người đến bức bách nàng, nàng có sinh tâm sân hận não hại chăng?
Nàng phát tâm bồ đề
Khai ngộ chúng sinh chăng?
Vô biên kiếp tu hành
Không mệt mỏi được chăng?
Nàng có phát tâm bồ đề chăng? Nàng khai ngộ chúng sinh chăng? Khiến cho họ cũng phát tâm bồ đề. Ở trong vô biên kiếp tu hành Bồ Tát hạnh, nàng không mệt mỏi có được chăng?
Bấy giờ, mẹ của nàng vì thái tử mà nói kệ rằng:
Ở trên là những câu hỏi của thái tử Oai Đức Chủ hỏi đồng nữ Diệu Đức, bà bảo mẫu Thiện Hiện trả lời thế. Lúc đó, bảo mẫu của nàng trả lời cho thái tử mà nói ra ba mươi mốt bài kệ dưới đây rằng:
Thái tử Ngài lắng nghe
Nay tôi nói nàng nầy
Sơ sinh đến trưởng thành
Tất cả các nhân duyên.
Bà bảo mẫu Thiện Hiện nói: Thái tử! Ngài hãy chú ý lắng nghe. Nay tôi nói tỉ mỉ về quá trình nàng nầy, đồng nữ Diệu Đức từ lúc mới sinh ra cho đến trưởng thành, hết thảy tất cả các nhân duyên.
Ngày thái tử vừa sinh
Nàng từ hoa sen sinh
Mắt nàng sáng dài rộng
Tay chân đều đầy đủ.
Thái tử! Cảnh giới Diệu Đức nàng sinh ra, thật là không thể tả được. Nàng chẳng phải từ bụng mẹ sinh ra, mà từ hoa sen hoá sinh. Cho nên cặp mắt của nàng thanh tịnh sáng rỡ, đặc biệt dài rộng. Do đó, diện mạo của nàng rất đẹp thù thắng. Tứ chi tay chân đều đầy đủ viên mãn, tìm không ra chỗ không hợp tiêu chuẩn.
Tôi từng nơi mùa xuân
Du ngoạn vườn Sa La
Thấy khắp các cỏ thuốc
Mọi thứ đều tươi tốt.
Vào một mùa xuân năm nọ, tôi đi du ngoạn vườn Sa La, thấy khắp tất cả cỏ thuốc, sinh trưởng rất tươi tốt, khắp mặt đất đều là kỳ hoa dị thảo, có thể chữa bách bệnh.
Cây lạ trổ hoa đẹp
Trông như áng mây lành
Chim đẹp cùng hoà hót
Giữa rừng cùng hân hoan.
Trong vườn Sa La đó, có những cây lạ trổ hoa rất đẹp, trông như áng mây lành, lại có đủ thứ chim đẹp cùng hoà hót ở trên cây, âm thanh thật là vô cùng êm tai. Tôi và thể nữ ở trong vườn Sa La cùng vui chơi, thưởng thức vẻ đẹp thiên nhiên, quên hết phiền não của thế gian, cảm giác thật là tiêu dao tự tại, vui vẻ vô cùng, khiến cho con người hoà quyện vào cảnh giới đẹp thiên nhiên núi rừng, có cảm giác vui vẻ không câu thúc.
Cùng đi tám trăm cô
Đoan chánh chiếm lòng người
Y phục đều nghiêm đẹp
Ca ngâm đều rất hay.
Có tám trăm thể nữ cùng đi du ngoại với tôi, tướng mạo của họ rất đoan chánh xinh đẹp, khiến cho người thấy mà động tâm, chiếm được lòng người. Y phục của họ mặc, chuỗi ngọc của họ mang, đều trang nghiêm đẹp đẽ. Họ đều khéo ca ngâm và khiêu vũ, âm thanh đặc biệt thù thắng rất hay, có cảm giác muốn nghe hoài, muốn thưởng thức hoài không biết chán.
Vườn đó có ao tắm
Tên là Liên Hoa Tràng
Tôi ngồi nơi bờ ao
Thể nữ chúng vây quanh.
Trong vườn Sa La đó, có ao tắm tên là Liên Hoa Tràng. Trong ao có hoa sen thù thắng. Tôi ngồi nghỉ ngơi nơi bờ ao, các thể nữ đại chúng vây quanh tôi.
Trong ao hoa sen đó
Bỗng sinh hoa ngàn cánh
Cánh báu cọng lưu ly
Vàng Diêm Phù làm đài.
Trong ao Liên Hoa Tràng đó, bỗng sinh ra một đoá hoa sen nghìn cánh, cánh hoa sen làm bằng các báu, cọng hoa sen làm bằng lưu ly. Dùng vàng Diêm Phù đàn làm đài, rất là thanh tịnh trang nghiêm.
Bấy giờ là sáng sớm
Mặt trời mới mọc lên
Sen đó vừa nở ra
Phóng ánh sáng thanh tịnh.
Lúc bấy giờ mới sáng sớm, mặt trời mới mọc lên ở phương đông. Lúc đó, hoa sen nghìn cánh nở ra, phóng đại quang minh thanh tịnh, chiếu khắp pháp giới.
Ánh sáng ấy rất mạnh
Ví như mặt trời mọc
Chiếu khắp Diêm Phù Đề
Chúng vui chưa từng có.
Ánh sáng thanh tịnh ấy rất mạnh, ví như lúc mặt trời mới mọc lên ở phương đông, chiếu khắp thế giới nam Diêm Phù Đề, hết thảy mọi người được cảnh giới vui chưa từng có.
Thời thấy ngọc nữ nầy
Từ hoa sen đó sinh
Thân nàng rất thanh tịnh
Chi phần đều viên mãn.
Lúc đó, nhìn thấy ngọc nữ Diệu Đức từ hoa sen nở sinh ra, thân thể của cô ta rất thanh tịnh thuần khiết, tứ chi xương cốt, hết thảy thân tướng đều viên mãn, chẳng có thiếu khuyết, là ngọc nữ thập toàn thập mỹ.
Giảng đến đây, nhất định sẽ có người hoài nghi: “Đâu có lý nào, hoa sen lại sinh ra em bé? Đây là nói việc tầm bậy, là chuyện thần thoại. Tôi không tin có sự việc như vậy”. Bạn phải biết, sự việc kỳ diệu trong thế gian biến hoá khó dò, phàm phu không cách chi có thể biết rõ được. Con mắt tuy sáng, nhưng vạn sự vạn vật tận hư không khắp pháp giới, không thể hoàn toàn nhìn thấy hết được. Lỗ tai tuy thính, nhưng không thể nghe hết âm thanh tận hư không khắp pháp giới, không thể hoàn toàn nghe rõ hết được. Những cảnh giới nầy, phàm phu không thể nào thấu hiểu được, vậy ai có thể thấu hiểu được? Chỉ có những người tu hành, đắc được ngũ nhãn lục thông rồi, mới thấy rõ như thấy quả Am ma la trong lòng bàn tay.
Từ chỗ nầy mà nhìn thì, người tu hành nhất định phải nghiêm trì giới luật, nhất định phải học tập chánh pháp, không thể tu pháp giống như đúng mà sai, càng không thể tu pháp tự lừa dối người. Người tu hành phải có con mắt chọn pháp, không thể tu mù luyện đui, phải gần gũi bậc thiện tri thức, phải nghe lời thiện tri thức chỉ dạy, phải đặc biệt nhận chân tu hành, phải cước đạp thật địa tu hành. Tu hành chánh pháp, không tu tà pháp. Chánh pháp là lợi người, lợi mình, tà pháp là hại mình, hại người.
Các vị chú ý! Phàm là người không giữ giới luật, thì thân thể của họ, thường toả ra một thứ mùi hôi, thậm chí hôi hơn là mùi nhà vệ sinh. Nếu người giữ giới luật, thì tuy không tắm rửa, nhưng thân thể vẫn sạch sẽ, không có mùi hôi, có lúc sẽ toả ra mùi hương lạ ngát mũi, khiến cho ai ngửi được, có cảm giác thư thới, thường có hộ pháp thiện thần đến thủ hộ, thường có Thiên nữ đến rải hoa, có đủ thứ cảnh giới đặc biệt thù thắng, không thể nghĩ bàn, không thể nghĩ bàn!
Ngàn lời vạn từ nói không hết được, quy nạp một câu nói: Nếu giữ giới, thì thân có mùi thơm; nếu không giữ giới, thì thân có mùi hôi. Ví như: Bạn ăn thịt bò, thịt dê, thì thân có mùi tanh hôi giống như dê. Nếu bạn ăn rau quả, thì thân có mùi thơm. Tóm lại, ăn cái gì thì toả ra mùi đó; bạn giữ giới, không ăn thịt chúng sinh, thì thân thể tuyệt đối không toả ra mùi hôi. Đây là hiện tượng sinh lý, tuyệt đối không phải mê tín, tuyệt đối hợp với luận lý khoa học.
Do đây có thể biết, chìa khoá thân hôi, hay thân thơm, là do giữ giới hay không giữ giới. Các vị! Tuỳ ý lựa chọn. Nếu muốn thân có mùi thơm, thì phải giữ giới. Nếu muốn thân có mùi hôi, thì không cần giữ giới. Hy vọng các vị phải đặc biệt chú ý về điểm nầy. Các vị hãy nhìn xem! Tại sao thân thể đồng nữ Diệu Đức thanh tịnh toả ra hương thơm? Vì cô ta trong quá khứ, giữ gìn giới luật, tu tập chánh pháp.
Đây là báu nhân gian
Từ nơi tịnh nghiệp sinh
Nhân xưa không hư mất
Nay thọ quả báo nầy.
Vị ngọc nữ nầy, là bảo bối của nhân gian. Thuở xưa cô ta đã từng tu nghiệp thiện thanh tịnh, cho nên từ hoa sen thanh tịnh hoá sinh ra. Những việc cô ta làm trong những kiếp xưa không hư mất, do đó, đời nầy thọ quả báo tốt nầy.
Tóc biếc mắt sen xanh
Tiếng phạm da vàng ròng
Tràng hoa các bảo kế
Thanh tịnh không chút dơ.
Tóc của cô ta xanh biếc, mắt của cô ta thanh tịnh như hoa sen xanh. Tiếng của cô ta là phạm âm, thân thể của cô ta toả ra ánh sáng vàng ròng. Búi tóc của cô ta rất thanh tịnh, dùng các báu kết thành tràng hoa, để trang nghiêm, không chút dơ bẩn nào.
Tứ chi đều đầy đủ
Thân nàng không thiếu khuyết
Ví như tượng vàng ròng
Để ở trong hoa báu.
Ngũ quan của cô ta đoan chánh, tứ chi đều đầy đủ, thân nàng viên mãn không thiếu khuyết. Giống như dùng vàng ròng tạc thành tượng, để ở trong hoa sen báu. Ai thấy cũng mến thích, nên nói là báu trong nhân gian, còn gọi là ngọc nữ.
Chân lông hương chiên đàn
Xông khắp hết mọi nơi
Miệng toả hương sen xanh
Thường diễn tiếng phạm âm.
Hết thảy những lỗ chân lông trên thân của cô ta, đều toả ra hương chiên đàn, xông khắp hết mọi nơi. Trong miệng toả ra hương hoa sen xanh. Âm thanh của cô ta nói ra như tiếng phạm âm, khiến ai nghe được, cũng đều sinh tâm thanh tịnh.
Chỗ của nàng nầy ở
Thường có âm nhạc trời
Không nên để kẻ hèn
Sánh đôi với nàng nầy.
Chỗ của ngọc nữ nầy ở, thường có các Thiên nữ diễn tấu âm nhạc, nghe rất hay êm tai vô cùng. Vị ngọc nữ nầy, tánh tình nhu hoà, không nên để kẻ hèn không có trí huệ, sánh đôi với nàng nầy.
Thế gian không người nào
Kham làm chồng nàng nầy
Chỉ Ngài tướng nghiêm thân
Xin nạp thọ nàng nầy.
Vị ngọc nữ nầy, trên thế gian không người nào có thể làm chồng nàng nầy, chỉ có mình thái tử có tư cách làm chồng cô ta. Ngài có tướng thân trang nghiêm, tướng công đức, đầy đủ điều kiện của Chuyển Luân Thánh Vương. Hy vọng thái tử hãy nạp thọ cô ta làm đệ nhất phu nhân.
Chẳng cao cũng chẳng thấp
Chẳng thô cũng chẳng tế
Các thứ đều đoan nghiêm
Xin hãy nạp thọ nàng.
Đồng nữ Diệu Đức thân thể quân bình, cũng chẳng cao, cũng chẳng thấp, cũng chẳng thô, cũng chẳng tế, rất vừa vặn. Bất cứ bộ phần nào, cũng đều đoan chánh trang nghiêm. Xin thái tử hãy nạp thọ nàng làm chánh phi.
Văn tự pháp toán số
Khéo léo các nghề nghiệp
Tất cả đều thông đạt
Xin hãy nạp thọ nàng.
Cô ta không những tướng mạo trang nghiêm, mà văn tự, pháp toán số, đều thông thạo. Đối với các nghề nghiệp, kỹ thuật, đều rất khéo léo, tất cả đều thông đạt. Xin thái tử hãy nạp thọ nàng làm bạn.
Biết rành các binh pháp
Khéo phán đoán kiện tụng
Điều được kẻ khó điều
Xin hãy nạp thọ nàng.
Cô ta là cô gái đặc biệt, văn võ song toàn. Không những tinh thông cầm kỳ thi hoạ, mà còn biết rành các binh pháp. Lại còn khéo phán đoán kiện tụng, khéo điều phục được kẻ khó điều phục, khiến cho họ sinh tâm nhu hoà. Xin thái tử hãy nạp thọ nàng, cô ta sẽ là người vợ hiền, hãy cưới nàng làm vợ.
Thân nàng rất thanh tịnh
Kẻ thấy không nhàm chán
Công đức tự trang nghiêm
Ngài nên nạp thọ nàng.
Thân thể nàng Diệu Đức rất thanh tịnh, trang nghiêm vạn phần. Bất cứ ai nhìn thấy cô ta đều không có cảm giác nhàm chán. Công đức tự trang nghiêm của nàng, xin thái tử Ngài hãy nạp thọ nàng.
Chúng sinh có hoạ hoạn
Khéo biết duyên khởi đó
Theo bệnh mà cho thuốc
Tất cả đều diệt trừ.
Tất cả chúng sinh có những hoạ hoạn gì, cô ta đều khéo biết duyên khởi từ đâu, tuỳ theo bệnh mà cho thuốc, bệnh gì dùng thuốc gì để chữa trị, tất cả bệnh tham sân si đều diệt trừ. Người nào không có bệnh tham sân si ba độc, thì thân tâm đều khoẻ mạnh. Làm thế nào để không có bệnh ba độc? Tức là phải siêng tu pháp môn giới định huệ ba học vô lậu.
Ngôn ngữ pháp Diêm Phù
Khác nhau vô lượng thứ
Cho đến kỹ nhạc âm
Không gì chẳng thông đạt.
Trí huệ của cô ta rất cao thâm, có thiên tài ngôn ngữ.Đối với các ngôn ngữ của tất cả các quốc gia trên thế giới xử dụng, tuy có đủ thứ sự khác nhau, nhưng cô ta đều hiểu biết được, chẳng những nói được, mà còn viết được, cho đến âm nhạc các nước, cô ta chẳng những ca được, mà còn tấu được, tự đàn tự hát, chẳng có gì mà không biết, thật là một thiếu nữ đa tài đa nghệ.
Nghề nghiệp của phụ nữ
Nàng nầy biết tất cả
Không người nào hơn nàng
Xin hãy mau nạp thọ.
Phàm là nghề nghiệp của phụ nữ làm, cô ta đều biết tất cả một cách tường tận. Cô ta chẳng nói thị phi, chẳng nhiều chuyện, chẳng nói chuyện của thiên hạ. Cô ta có lòng nhân từ, có lòng thương xót. Cô ta là người phụ nữ có tài hoa, cô ta có mỹ đức cần kiệm. Xin thái tử hãy nạp thọ nàng, cô ta có thể là một tay đắc lực, trợ giúp Ngài trí lý bốn thiên hạ.
Không kị cũng không xẻn
Không tham cũng không sân
Tánh ngay thẳng nhu hoà
Lìa các hạnh thô ác.
Cá tính của cô ta lượng thiện, không đố kị bất cứ người nào, cũng không xẻn tiếc bất cứ vật gì, cho rằng giúp người là việc an vui. Cô ta không có lòng tham dục, cũng không có tâm sân hận, đối với bất cứ người nào chân thành. Tánh tình cô ta nhu hoà, có mỹ đức của nữ tánh, chẳng có hành vi thô lỗ, độc ác. Tóm lại, điều kiện ưu việt của người nữ cô ta đều đầy đủ.
Cung kính bậc đáng kính
Phụng thờ không trái nghịch
Thích tu các hạnh lành
Có thể tuỳ thuận Ngài.
Cô ta biết hiếu thuận cung kính bậc đáng kính, cho nên rất cung kính người già, phụng thờ người già, mà không có tâm ý trái nghịch người già. Cô ta thích tu các hạnh lành, không làm các điều ác. Hành vi của cô ta, chắc chắn có thể tuỳ thuận làm việc theo ý Ngài. Ngài nhất định sẽ thương yêu cô ta.
Nếu thấy kẻ già bệnh
Bần cùng và khổ nạn
Không ai cứu không nương
Thường sinh đại thương xót.
Cô ta có lòng từ bi thương xót chúng sinh, nếu thấy người sinh già bệnh chết, hoặc người bần cùng khổ nạn, hoặc người không có ai cứu giúp, hoặc người không có chỗ nương tựa, cô ta thường sinh tâm đại từ bi, tìm cách cứu giúp họ thoát khỏi biển khổ, thân tâm được an lạc.
Thường quán đệ nhất nghĩa
Chẳng cầu vui lợi mình
Chỉ muốn lợi chúng sinh
Dùng đây trang nghiêm tâm.
Cô ta thường quán đệ nhất nghĩa đế, cô ta chẳng cầu lợi ích và khoái lạc cho riêng mình, chỉ muốn lợi ích cho tất cả chúng sinh, khiến cho tất cả chúng sinh được an lạc. Cô ta dùng tư tưởng nầy nầy để trang nghiêm tâm mình.
Đi đứng và ngồi nằm
Tất cả không phóng dật
Lời nói và im lặng
Người thấy đều vui mừng.
Đối với bốn oai nghi đi đứng ngồi nằm, cô ta thường cẩn thận, chẳng khi nào phóng dật. Lúc cô ta nói, hoặc im lặng, đều có sự hài hoà, khiến cho người thấy cô ta đều sinh tâm vui mừng, mà chẳng có tâm tưởng tà, tại sao? Vì nghi dung của cô ta rất khả ái, trang nghiêm khả ái.
Tuy tại tất cả chỗ
Tâm đều không nhiễm trước
Thấy người có công đức
Vui quán không nhàm đủ.
Tuy cô ta ở tại tất cả mọi nơi, thấy được bất cứ cảnh giới gì, nhưng tâm kim cang của cô ta không bị cảnh giới chuyển, trong tâm chẳng sinh ý niệm nhiễm trước. Cô ta thấy người có công đức, hoặc thiện tri thức, đều vui quán không nhàm đủ.
Tôn trọng thiện tri thức
Vui thấy người lìa ác
Tâm nàng không giao động
Trước nghĩ sau mới làm.
Cô ta tôn kính thiện tri thức, xa lìa ác tri thức. Tâm của cô ta rất nhu hoà vui vẻ, tuyệt đối không giao động, đối với bất cứ người nào cũng không nóng giận, hàm dưỡng công phu đến trình độ viên mãn. Bất cứ làm gì, đều suy nghĩ trước rồi sau mới làm.
Phước trí đều trang nghiêm
Tất cả không oán hận
Hơn hết trong hàng nữ
Đáng người thờ thái tử.
Tuy cô ta có phước báo, lại có trí huệ, phước huệ đều trang nghiêm. Cô ta có tâm từ ái, chẳng có tâm oán hận. Đối với tất cả người nữ, cô ta cao thượng hơn hết, không có người nữ nào bằng cô ta được. Cô ta tài sắc song toàn, phẩm học ưu tú,đáng làm phu nhân thờ thái tử.
Bấy giờ, thái tử đi vào vườn Hương Nha rồi, bảo đồng nữ Diệu Đức và bà Thiện Hiện rằng: Thiện nữ! Ta hướng về cầu A nậu đa la tam miệu tam bồ đề, sẽ hết thuở vị lai vô lượng kiếp, tích tập pháp trợ đạo nhất thiết trí. Tu vô biên Bồ Tát hạnh. Thanh tịnh tất cả Ba La Mật. Cúng dường tất cả các Như Lai. Hộ trì tất cả giáo pháp của chư Phật. Nghiêm tịnh tất cả cõi Phật. Sẽ khiến cho tất cả Như Lai giống tánh không dứt. Sẽ tuỳ thuận tất cả chúng sinh giống tánh mà khắp thành thục họ. Sẽ diệt trừ khổ sinh tử của tất cả chúng sinh, để họ ở nơi rốt ráo an lạc. Sẽ tịnh trị mắt trí huệ của tất cả chúng sinh. Sẽ an trụ tâm bình đẳng của tất cả Bồ Tát. Sẽ thành tựu các bậc tu hành của tất cả Bồ Tát. Sẽ khiến khắp tất cả chúng sinh đều hoan hỉ. Sẽ xả bỏ tất cả mọi vật, hết thuở vị lai hành bố thí Ba La Mật. Khiến cho khắp tất cả chúng sinh đều được đầy đủ, y phục thức ăn uống, thê thiếp nam nữ, đầu mắt tay chân, tất cả như vậy, hết thảy trong ngoài, đều sẽ bố thí, nàng không có xẻn tiếc chăng?
Lúc đó, thái tử Oai Đức Chủ đi vào vườn Hương Nha rồi, liền bảo đồng nữ Diệu Đức và bà bảo mẫu Thiện Hiện rằng: Thiện nữ! Ta chỉ hướng về cầu pháp A nậu đa la tam miệu tam bồ đề. Hết thuở vị lai vô lượng kiếp, ta sẽ tích tập pháp môn trợ đạo nhất thiết trí. Ta phải tu vô lượng vô biên Bồ Tát hạnh. Ta phải thanh tịnh tất cả pháp Ba La Mật. Ta phải cúng dường mười phương chư Phật. Ta phải hộ trì tất cả giáo pháp của chư Phật. Ta phải nghiêm tịnh tất cả cõi Phật. Ta sẽ khiến cho giống tánh của tất cả Như Lai không đoạn tuyệt. Ta sẽ tuỳ thuận giống tánh tất cả chúng sinh, khiến cho họ khắp thành thục. Ta sẽ diệt trừ khổ sinh tử của tất cả chúng sinh, đặt để họ ở nơi rốt ráo an lạc. Ta sẽ tịnh trị mắt trí huệ của tất cả chúng sinh. Ta sẽ an trụ tâm bình đẳng của tất cả Bồ Tát. Ta sẽ thành tựu các quả vị tu hành của tất cả Bồ Tát. Ta sẽ khiến khắp tất cả chúng sinh đều hoan hỉ. Ta sẽ xả bỏ tất cả mọi tài vật, hết thuở vị lai hành pháp môn bố thí Ba La Mật. Ta sẽ khiến cho khắp tất cả chúng sinh đều được đầy đủ những vật chất họ mong cầu, bố thí các y phục, thức ăn uống, thê thiếp, nam nữ, đầu mắt, tay chân .v.v… tất cả như vậy, hết thảy tài vật trong ngoài, ta đều sẽ bố thí, không có tâm xẻn tiếc, không có tư tưởng xả bỏ chẳng được.
Lúc đó nàng sẽ cản trở ta, khi bố thí tài vật, thì tâm nàng xẻn tiếc. Khi bố thí con cái, thì tâm nàng đau khổ. Khi cắt chi thể, thì tâm nàng sầu muộn. Bỏ nàng xuất gia, thì tâm nàng hối hận.
Lúc đó nàng sẽ không toại ý của ta, sẽ cản trở ta việc ta làm, khi ta bố thí tài vật, thì tâm nàng xẻn tiếc. Khi ta bố thí con cái, thì tâm nàng đau khổ. Khi ta cắt tứ chi, thì tâm nàng sầu muộn. Khi ta bỏ nàng xuất gia tu đạo, thì tâm nàng hối hận. Nàng có phát sinh những việc khó khăn, chướng ngại ta tu đạo nầy chăng.
Bấy giờ thái tử liền vì Diệu Đức mà nói kệ rằng:
Lúc đó, thái tử Oai Đức Chủ liền vì Diệu Đức đồng nữ thuật lại nghĩa lý trên đây mà nói kệ rằng:
Vì thương xót chúng sinh
Ta phát tâm bồ đề
Sẽ trong vô lượng kiếp
Tu hạnh nhất thiết trí.
Thái tử Oai Đức Chủ nói với Diệu Đức đồng nữ rằng: Ta vì thương xót tất cả chúng sinh, cho nên ta phát tâm bồ đề. Ta sẽ ở trong vô lượng kiếp, tu tập pháp môn nhất thiết trí. Có trí huệ mới có thể giáo hoá tất cả chúng sinh, bằng không, chẳng có ích lợi gì hết.
Trong vô lượng đại kiếp
Tịnh tu các biển nguyện
Nhập địa và trừ chướng
Đều trải vô lượng kiếp.
Trong vô lượng đại kiếp quá khứ, ta dùng tâm thuần thanh tịnh không nhiễm, chuyên tu tất cả biển đại nguyện. Từ Sơ địa cho đến Thập địa, tịnh trị phiền não chướng và sở tri chướng, cùng với đủ thứ chướng ngại. Đều phải trải qua vô lượng kiếp, mới có sự thành tựu.
Chỗ chư Phật ba đời
Học sáu Ba La Mật
Đầy đủ hạnh phương tiện
Thành tựu đạo bồ đề.
Ta ở chỗ đạo tràng của tất cả chư Phật mười phương ba đời, học tập sáu pháp Ba La Mật. Pháp Ba La Mật là gì? Tức là pháp môn đến bờ bên kia. Tu bố thí, tu đến lúc viên mãn, thì sẽ đến bờ bên kia. Cho đến tu Bát Nhã, tu đến lúc viên mãn, thì sẽ đến bờ bên kia. Bờ bên kia là bờ nào? Tức là bờ bất sinh bất diệt, tức cũng là Niết Bàn. Niết Bàn có bốn đức: Tức là: Thường, lạc, ngã, tịnh. Pháp môn của Bồ Tát tu là lục độ vạn hạnh. Đầy đủ hạnh phương tiện, thì sẽ thành tựu bồ đề giác đạo.
Mười phương cõi cấu uế
Ta sẽ đều nghiêm tịnh
Tất cả nạn đường ác
Ta sẽ khiến thoát khỏi.
Trong mười phương có vô lượng cõi cấu uế, ta phát nguyện sẽ trang nghiêm thanh tịnh. Tất cả chúng sinh ba đường ác, cùng với chúng sinh trong tám nạn, ta sẽ khiến cho họ vĩnh viễn thoát khỏi biển khổ.
Ta sẽ dùng phương tiện
Rộng độ các quần sinh
Khiến diệt tối ngu si
Trụ nơi Phật trí đạo.
Ta sẽ dùng pháp môn phương tiện khéo léo, rộng độ tất cả chúng sinh. Khiến cho họ diệt trừ ngu si tối tăm, trụ nơi đạo trí huệ của Phật. Tại sao con người có sự ngu si? Vì bị vô minh che đậy; nếu phá được vô minh, thì sẽ đắc được trí huệ quang minh. Làm thế nào phá được vô minh? Phương pháp rất đơn giản là không tranh, không tham, không cầu, không ích kỷ, không tự lợi. Cho nên trở thành năm đại tông chỉ của Vạn Phật Thánh Thành. Nếu ai ai cũng triệt để thực hành, đến được lư hoả trừng thanh, thì trở thành bậc Thánh nhân.
Cúng dường tất cả Phật
Sẽ tịnh tất cả địa
Khởi tâm đại từ bi
Vật trong ngoài đều xả.
Ta sẽ cúng dường tất cả chư Phật mười phương ba đời, ta sẽ thanh tịnh quả vị của tất cả địa; ta sẽ sinh khởi tâm đại từ bi, thương xót tất cả chúng sinh; ta sẽ đem hết nội tài, ngoại tài, bố thí cho chúng sinh cần, chẳng có tư tưởng xả bỏ không được.
Nàng thấy người đến xin
Hoặc sinh tâm tham sẻn
Tâm ta thường ưa thí
Nàng chớ trái ý ta.
Nàng thấy người đến chỗ ta cầu xin, hoặc nàng sinh tâm tham sẻn không xả bỏ được, nhưng tâm ta thì luôn luôn muốn bố thí, nàng có trái ý ta chăng. Hiện tại ta phải nói rõ cho nàng biết, chớ đến lúc đó, tâm nàng không vui thì không tốt, nàng phải biết cảnh giới vui nhất là làm việc thiện.
Nếu thấy ta thí đầu
Chớ có sinh lo buồn
Ta nay nói nàng trước
Khiến tâm nàng kiên cố.
Nếu nàng thấy ta thí đầu của ta, nàng phải cẩn thận, chớ có sinh lo buồn, chướng ngại tâm bố thí của ta. Nay ta nói trước cho nàng biết, khiến cho tâm nàng kiên cố, ta nguyện bố thí nội tài đầu mắt tuỷ não và ngoại tài đất nước vợ con.
Cho đến chặt tay chân
Nàng chớ trách người xin
Nay nàng nghe lời ta
Nên hãy suy nghĩ kỹ.
Nếu có người muốn tay chân của ta, thì ta cam tâm tình nguyện chặt tay chân cho họ, không có tơ hào xẻn tiếc, nàng đừng có hiềm trách người đến xin. Nay nàng nghe lời ta nói, nàng hãy suy nghĩ cho thật kỹ, không nên dùng tình cảm làm việc.
Con cái vật ưa mến
Tất cả ta đều xả
Nếu nàng thuận lòng ta
Ta sẽ toại ý nàng.
Ta sẽ đem con cái và tài vật mà ta ưa mến, thảy đều bố thí cho người cần. Nếu nàng thuận tâm ý của ta, không phản đối nguyện lực bố thí của ta, thì ta sẽ toại ý của nàng, cùng nàng kết hôn làm vợ chồng.
Bấy giờ, đồng nữ bạch thái tử rằng: Kính vâng lời dạy của Ngài, liền nói kệ rằng:
Lúc đó, đồng nữ Diệu Đức bạch thái tử Oai Đức Chủ rằng: Tôi xin kính vâng lời dạy của Ngài, suốt đời theo ý của Ngài, liền nói kệ rằng:
Trong vô lượng biển kiếp
Lửa địa ngục đốt thân
Nếu Ngài thương nạp tôi
Cam tâm thọ khổ nầy.
Đồng nữ Diệu Đức nói: Trong vô lượng biển kiếp, dù bị lửa địa ngục đốt thân, nếu Ngài thương nạp tôi làm quyến thuộc, tôi cam tâm thọ khổ nầy, mà không một lời oán trách.
Vô lượng nơi thọ sinh
Nát thân như hạt bụi
Nếu Ngài thương nạp tôi
Cam tâm thọ khổ nầy.
Vô lượng nơi thọ sinh, dù thân tôi nát thành như hạt bụi, chỉ cần thái tử thương nạp tôi làm quyến thuộc, thì tôi cam tâm thọ khổ nầy. Tóm lại, nếu chấp nhận sự yêu cầu của tôi, thì bất cứ khổ gì, tôi cũng đều chịu hết.
Vô lượng kiếp đầu đội
Núi kim cang rộng lớn
Nếu Ngài thương nạp tôi
Cam tâm thọ khổ nầy.
Trong vô lượng kiếp, đầu tôi đội núi kim cang rộng lớn, nếu Ngài thương nạp tôi làm quyến thuộc, thì tôi cam tâm thọ khổ nầy, tuyệt đối không có nửa lời oán trách.
Vô lượng biển sinh tử
Dùng thịt thân tôi thí
Ngài được nơi Pháp Vương
Nguyện khiến tôi cũng vậy.
Trong vô lượng biển sinh tử, nếu dùng thân tôi và thịt của tôi bố thí cho người cần, mà có thể khiến cho Ngài đến được nơi Pháp Vương, thì tôi nguyện hy sinh thân thể của tôi, trợ giúp Ngài thành Phật đạo, nguyện khiến cho tôi cũng được như vậy. Từ chỗ nầy mà nhìn, thì đồng nữ đối với thái tử tình sâu như biển cả, vì ái tình mà chịu hy sinh thân mạng. Nhưng mọi người hãy chú ý! Thứ ái tình nầy là thuần khiết, chẳng phải sự mê luyến của một số người.
Nếu Ngài thương nạp tôi
Cho tôi làm người chủ
Đời đời hành bố thí
Nguyện thường đem tôi thí.
Nếu thái tử Ngài thương tiếp nhận yêu cầu của tôi, cho tôi làm chủ nhân, thì đời đời Ngài hành bố thí, xin hãy thường đem thân tôi bố thí.
Vì thương chúng sinh khổ
Mà phát tâm bồ đề
Tức đã nhiếp chúng sinh
Cũng sẽ nhiếp thọ tôi.
Ngài vì thương xót chúng sinh thống khổ, mới phát tâm bồ đề, hành Bồ Tát đạo, giải cứu chúng sinh thoát khỏi biển khổ sinh tử. Tức Ngài đã nhiếp thọ tất cả chúng sinh, mà tôi cũng là một chúng sinh, hy vọng Ngài cũng làm cho tôi toại nguyện, nhiếp thọ tôi làm quyến thuộc của Ngài.
Tôi không cầu giàu sang
Không tham vui năm dục
Chỉ vì cùng tu hành
Nguyện dùng Ngài làm chủ.
Tôi không phải vì cầu giàu sang phú quý, mà kết hôn với Ngài, cũng không phải vì tham vui năm dục mà kết hôn với Ngài. Mục đích của tôi, chỉ vì cùng tu hành chánh pháp với Ngài, cho nên nguyện dùng Ngài làm chủ nhân của tôi, chỉ dẫn tôi, khuyến khích tôi.
Mắt rộng dài xanh biếc
Thương xót quán thế gian
Chẳng khởi tâm nhiễm trước
Sẽ thành Bồ Tát đạo.
Mắt của Ngài rộng dài xanh biếc, thương xót quán sát tất cả chúng sinh thế gian, mà chẳng khởi tâm nhiễm trước. Tương lai Ngài sẽ thành tựu Bồ Tát đạo, tức cũng là viên mãn lục độ vạn hạnh. Bồ Tát là tự giác giác tha, tự độ độ tha, tự lợi lợi tha, dùng chúng sinh làm đại tiền đề, có tinh thần xả mình vì người.
Thái tử chỗ Ngài đi
Đất mọc các hoa báu
Sẽ làm Chuyển Luân Vương
Nguyện thương nạp thọ tôi.
Thái tử! Vì Ngài tu đủ thứ pháp môn Ba La Mật, cho nên chỗ Ngài đi qua, do sự cảm ứng đạo giao, từ dưới đất mọc lên đủ thứ các hoa báu. Cảnh giới nầy, báo hiệu tương lai Ngài sẽ làm Chuyển Luân Thánh Vương, tôi xin thái tử thương nạp thọ tôi làm quyến thuộc.
Tôi từng mộng thấy đây
Diệu pháp bồ đề tràng
Như Lai ngồi dưới cây
Vô lượng chúng vây quanh.
Tôi từng mộng thấy cảnh giới nầy, ở tại đạo tràng Pháp Vân Quang Minh, đức Phật Thắng Nhựt Thân đang ngồi dưới cội bồ đề, thành Chánh Đẳng Giác, có vô lượng vô số Bồ Tát và đại chúng vây quanh đức Phật.
Tôi mộng Như Lai đó
Thân như núi vàng ròng
Dùng tay rờ đầu tôi
Tỉnh dậy tâm hoan hỉ.
Trong mộng tôi thấy Phật Thắng Nhựt Thân đó, thân Phật quang minh như núi vàng ròng. Đức Phật dùng tay rờ đầu tôi (đây là sự gia trì, khiến cho khai mở trí huệ), khi tôi tỉnh dậy cảm giác rất mát mẻ, tâm sinh đại hoan hỉ.
Quyến thuộc Trời thuở xưa
Tên là Hỉ Quang Minh
Trời đó vì tôi nói
Đạo tràng Phật ra đời.
Thuở xưa có quyến thuộc Trời, tên là Hỉ Quang Minh. Vị Trời đó nói với tôi: Đức Phật ra đời tại đạo tràng Diệu Pháp Bồ Đề, tôi đã nghe được tin nầy, rất là hớn hở vui mừng.
Tôi từng sinh niệm nầy
Nguyện thấy thân thái tử
Trời đó bảo tôi rằng:
Nay nàng sẽ được thấy.
Tôi từng sinh ra ý niệm nầy, tôi muốn thấy được thân thái tử. Quyến thuộc Trời đó bảo tôi rằng: Nay nàng sẽ được thấy vị thái tử đó, đừng bỏ qua cơ hội nầy.
Chí nguyện xưa của tôi
Nay đều được thành tựu
Xin hãy cùng đi đến
Cúng dường Như Lai đó.
Chí nguyện xưa của tôi, nay đều được thành tựu viên mãn. Tôi chỉ có một nguyện vọng, muốn cùng thái tử đi đến chỗ đức Phật, cúng dường đức Phật Thắng Nhựt Thân.
Bấy giờ, thái tử nghe danh hiệu Thắng Nhựt Thân Như Lai, bèn sinh đại hoan hỉ, muốn thấy đức Phật đó, liền dùng năm trăm ma ni báu rải lên trên đồng nữ Diệu Đức, ban cho mão Diệu tạng quang minh bảo và áo Hoả diệm ma ni bảo.
Bấy giờ, tâm của đồng nữ đó chẳng giao động, cũng chẳng sinh vui mừng, chỉ chắp tay cung kính, chiêm ngưỡng thái tử, mắt chẳng tạm rời.
Lúc đó, thái tử nghe đến danh hiệu Phật Thắng Nhựt Thân, bèn sinh đại hoan hỉ, muốn cùng đồng nữ Diệu Đức đi đến gặp đức Phật, liền dùng năm trăm ma ni châu báu rải lên trên đầu đồng nữ Diệu Đức, còn ban cho nàng mão Diệu tạng quang minh bảo và ban cho nàng áo Hoả diệm ma ni bảo. Lúc đó, tâm của đồng nữ Diệu Đực chẳng có giao động, cũng chẳng sinh tâm vui mừng, nàng chỉ chắp tay cung kính, chiêm ngưỡng thái tử, mắt chẳng tạm rời, đây là biểu thị sự sùng bái.
Bấy giờ, bà bảo mẫu Thiện Hiện ở trước thái tử nói kệ rằng:
Lúc đó, bà bảo mẫu Thiện Hiện (mẹ nuôi của đồng nữ Diệu Đức) ở trước thái tử Oai Đức Chủ nói ra mười bài kệ, tường thuật lại mỹ đức khen ngợi đồng nữ:
Nàng nầy rất đoan chánh
Công đức trang nghiêm thân
Xưa nguyện thờ thái tử
Nay ý đã đầy đủ.
Tướng mạo của đồng nữ Diệu Đức rất đoan chánh, rất viên mãn; đó là do quả báo trong quá khứ đã từng cúng dường Tam Bảo, trang nghiêm đạo tràng, cho nên có đủ thứ công đức trang nghiêm thân. Xưa kia cô ta phát nguyện một đời thờ thái tử, hiện nay đã gặp được thái tử, tâm ý của nàng đã đầy đủ.
Giữ giới có trí huệ
Đầy đủ các công đức
Khắp trong các thế gian
Tối thắng không ai bằng.
Cô ta giữ giới thanh tịnh, cho nên có trí huệ, đầy đủ tất cả công đức. Khắp trong các thế gian, cô ta tối thắng nhất, trang nghiêm nhất, không ai bằng cô ta được.
Nàng nầy hoa sen sanh
Dòng dõi không thấp hèn
Thái tử đồng hành nghiệp
Xa lìa tất cả lỗi.
Nàng Diệu Đức nầy từ hoa sen sanh ra, dòng dõi của cô ta không thấp hèn. Cô ta và thái tử cùng nhau tu hành thiện nghiệp, thì sẽ xa lìa tất cả lỗi lầm.
Nàng nầy thân mềm mại
Dường như lụa cõi trời
Chỗ tay nàng chạm đến
Các bệnh đều trừ diệt.
Nàng Diệu Đức nầy thân thể rất mềm mại, dường như lụa cõi trời. Chỗ tay nàng chạm đến, có công năng chữa trị các bệnh, đều có thể trừ diệt. Do đó có câu: “Tay đến thì bệnh khỏi”, có cảnh giới không thể nghĩ bàn.
Lỗ lông toả hương thơm
Ngào ngạt không gì bằng
Nếu chúng sinh ngửi được
Đều trụ nơi tịnh giới.
Lỗ lông trên thân của nàng, toả ra hương thơm vi diệu, ngào ngạt không gì bằng. Nếu chúng sinh ngửi được mùi thơm nầy, thì đều trụ nơi tịnh giới, tuyệt đối không phạm giới.
Sắc thân như vàng ròng
Ngồi thẳng trên đài hoa
Nếu chúng sinh thấy được
Lìa oán đủ tâm từ.
Sắc thân của nàng như vàng ròng. Cô ta ngồi ngay thẳng trên đài hoa sen. Nếu chúng sinh thấy được hình tướng của cô ta, thì sẽ lìa khỏi tâm thù oán, đầy đủ tâm từ bi.
Tiếng nói rất dịu dàng
Nghe được đều hoan hỉ
Nếu chúng sinh nghe được
Đều lìa các nghiệp ác.
Tiếng nói của nàng rất dịu dàng, hoà nhã êm tai. Ai nghe được tiếng nói của nàng đều hoan hỉ. Nếu chúng sinh nghe được tiếng nói của cô ta, thì sẽ lìa khỏi các nghiệp ác.
Tâm tịnh không vết nhơ
Xa lìa các xiểm khúc
Xứng tâm mà nói ra
Người nghe đều hoan hỉ.
Tâm của cô ta rất thanh tịnh không vết nhơ, xa lìa các hành vi nịnh bợ, xa lìa các hành vi xiểm khúc, xứng tâm mà nói ra, lời nói ra đều hợp cơ với chúng sinh, cho nên người nghe đều sinh tâm hoan hỉ.
Điều nhu đủ hổ thẹn
Cung kính bậc tôn túc
Không tham cũng không dối
Thương xót các chúng sinh.
Tánh tình của cô ta rất điều nhu, mà còn đầy đủ tâm hổ thẹn. Mỗi ngày ba lần phản tỉnh, có lỗi thì sửa đổi, không có lỗi thì thôi. Cung kính bậc tôn túc (thiện tri thức). Cô ta không có tâm tham, cũng không có tật xấu lừa dối. Cô ta có lòng từ bi, thương xót tất cả chúng sinh. Giáo hoá tất cả chúng sinh, khiến cho họ cải ác hướng thiện, lìa khổ được vui.
Tâm nàng chẳng ỷ lại
Sắc tướng và quyến thuộc
Chỉ dùng tâm thanh tịnh
Cung kính tất cả Phật.
Tâm của cô ta chẳng có sự ỷ lại. Cô ta chẳng ỷ sắc tướng của mình xinh đẹp hơn tất cả mọi người, cũng chẳng ỷ lại quyến thuộc của mình mỹ mãn hơn tất cả mọi người, chẳng phải vì có hoàn cảnh như vậy, mà sinh tâm tự hào. Cô ta chẳng có tâm kiêu ngạo, chẳng có tâm vọng tưởng, chỉ dùng tâm thanh tịnh, cung kính cúng dường tất cả chư Phật mười phương ba đời.
Bấy giờ, thái tử và đồng nữ Diệu Đức với mười ngàn thể nữ, cùng với quyến thuộc ra khỏi vườn Hương Nha, đi đến đạo tràng Pháp Vân Quang Minh.
Đến rồi, xuống xe đi bộ đến chỗ đức Phật, thấy thân tướng Phật, đoan nghiêm tịch tĩnh, các căn điều thuận, trong ngoài thanh tịnh như hồ Đại Long, không có dơ đục, đều sinh tịnh tín, vui mừng hớn hở, đảnh lễ đức Phật, rồi đi nhiễu quanh vô lượng vòng.
Bấy giờ, thái tử và đồng nữ Diệu Đức, mỗi người đều cầm năm trăm hoa sen báu đẹp, cúng dường đức Phật đó. Thái tử vì đức Phật tạo dựng năm trăm tịnh xá, đều làm bằng gỗ thơm, các báu trang nghiêm, xen lẫn năm trăm ma ni báu.
Lúc đó, thái tử Oai Đức Chủ và đồng nữ Diệu Đức với mười ngàn thể nữ, cùng tất cả quyến thuộc ra khỏi vườn Hương Nha, đi đến đạo tràng Pháp Vân Quang Minh.
Đến đạo tràng rồi, xuống xe đi bộ đến chỗ đức Phật, thấy thân tướng đức Phật Thắng Nhựt Thân, đoan chánh trang nghiêm, rất tịch tĩnh, các căn của Phật rất điều thuận, trong ngoài thanh tịnh như hồ Đại Long, không có chút dơ đục nào. Thái tử và đồng nữ đều sinh tín tâm thanh tịnh, vui mừng hớn hở, đảnh lễ đức Phật, rồi đi nhiễu quanh đức Phật vô lượng vòng.
Lúc bấy giờ, thái tử Oai Đức Chủ và đồng nữ Diệu Đức, mỗi người đều cầm năm trăm hoa sen báu đẹp, cúng dường đức Phật đó. Thái tử lại vì đức Phật tạo dựng năm trăm tinh xá, đều làm bằng gỗ thơm, dùng bảy báu để trang nghiêm tinh xá, lại dùng năm trăm ma ni báu xen lẫn với nhau để nghiêm sức.
Bấy giờ, đức Phật vì họ nói Kinh Phổ Nhãn Đăng Môn, nghe Kinh đó rồi, ở trong tất cả pháp, đắc được biển tam muội. Đó là: Tam muội Biển nguyện chiếu khắp tất cả Phật. Tam muội Tạng chiếu khắp ba đời. Tam muội Hiện thấy đạo tràng tất cả chư Phật. Tam muội Chiếu khắp tất cả chúng sinh. Tam muội Đèn trí huệ chiếu khắp tất cả thế gian. Tam muội Đèn trí huệ chiếu khắp căn tất cả chúng sinh. Tam muội Mây quang minh cứu hộ tất cả chúng sinh. Tam muội Đèn sáng lớn chiếu khắp tất cả chúng sinh. Tam muội Diễn tất cả Phật pháp luân. Tam muội Đầy đủ hạnh Phổ Hiền thanh tịnh.
Bấy giờ, đồng nữ Diệu Đức đắc được tam muội tên là Nan Thắng Hải Tạng, vĩnh viễn không thối chuyển nơi A nậu đa la tam miệu tam bồ đề.
Lúc đó, đức Phật Thắng Nhựt Thân vì thái tử và đồng nữ cùng với thể nữ và quyến thuộc, nói Kinh Phổ Nhãn Đăng Môn, họ nghe Kinh đó rồi, ở trong tất cả pháp, đắc được biển tam muội. Đó là:
1. Tam muội Biển nguyện chiếu khắp tất cả Phật.
2. Tam muội Tạng chiếu khắp ba đời.
3. Tam muội Hiện thấy đạo tràng tất cả chư Phật.
4. Tam muội Chiếu khắp tất cả chúng sinh.
5. Tam muội Đèn trí huệ chiếu khắp tất cả thế gian.
6. Tam muội Đèn trí huệ chiếu khắp căn tất cả chúng sinh.
7. Tam muội Mây quang minh cứu hộ tất cả chúng sinh.
8. Tam muội Đèn sáng lớn chiếu khắp tất cả chúng sinh.
9. Tam muội Diễn tất cả Phật pháp luân.
10. Tam muội Đầy đủ hạnh Phổ Hiền thanh tịnh.
Lúc đó, đồng nữ Diệu Đức đắc được tam muội tên là Nan Thắng Hải Tạng, vĩnh viễn không thối chuyển nơi quả vị A nậu đa la tam miệu tam bồ đề.
Bấy giờ, thái tử và đồng nữ Diệu Đức cùng với quyến thuộc, đảnh lễ đức Phật, đi nhiễu quanh vô lượng vòng, từ tạ trở về cung, đi đến chỗ vua cha, quỳ lạy rồi tâu với vua cha rằng: Đại Vương nên biết, đức Phật Thắng Nhựt Thân đã xuất hiện ra đời, thành Đẳng Chánh Giác không bao lâu, ở tại bồ đề tràng Pháp Vân Quang Minh, trong đất nước nầy.
Lúc đó, thái tử Oai Đức Chủ và đồng nữ Diệu Đức, thể nữ cùng với quyến thuộc, đảnh lễ đức Phật, rồi đi nhiễu quanh vô lượng vòng, từ tạ trở về cung, đi đến chỗ vua cha, quỳ lạy rồi tâu với vua cha rằng: Đại Vương nên biết, hiện tại có đức Phật xuất hiện ra đời, hiệu là Phật Thắng Nhựt Thân, thành Đẳng Chánh Giác không bao lâu, ở tại bồ đề tràng Pháp Vân Quang Minh, trong đất nước của chúng ta.
Bấy giờ, đại vương hỏi thái tử: Ai nói cho con biết tin nầy?
Thái tử tâu: Nàng Cụ Túc Diệu Đức nầy nói.
Bấy giờ, vua nghe rồi, hoan hỉ vô lượng, ví như người nghèo được kho báu lớn, bèn nghĩ như vầy: Đức Phật là báu vô thượng, khó có thể gặp được. Nếu được thấy Phật, sẽ vĩnh viễn dứt trừ sợ hãi tất cả các đường ác. Đức Phật như y vương, hay chữa lành tất cả các bệnh phiền não, cứu được tất cả khổ lớn sinh tử. Đức Phật là bậc Đạo Sư, hay khiến cho chúng sinh đến được nơi rốt ráo an ổn.
Lúc đó, đại vương Tài Chủ hỏi thái tử Oai Đức Chủ rằng: Ai nói cho con biết tin nầy?
Thái tử tâu: Nàng Cụ Túc Diệu Đức nầy nói.
Lúc bấy giờ, vua cha nghe rồi, hoan hỉ vô lượng, ví như người nghèo được kho báu lớn, vui mừng khôn tả, bèn nghĩ như vầy: Đức Phật là báu vô thượng, khó có thể gặp được Phật xuất hiện ra đời. Nếu được thấy Phật, sẽ vĩnh viễn dứt trừ sợ hãi tất cả các đường ác. Đức Phật như đại y vương, hay chữa lành tất cả các bệnh phiền não, cứu được tất cả khổ lớn sinh tử. Đức Phật là bậc Đạo Sư, hay khiến cho chúng sinh đến được nơi rốt ráo an ổn, tức cũng là bờ Niết Bàn bên kia.
Đại vương nghĩ như vậy rồi, liền tập hợp các ông vua nhỏ, quần thần quyến thuộc, cùng với Sát đế lợi, Bà La Môn, tất cả đại chúng .v.v… tuyên bố xả bỏ ngôi vua, nhường ngôi cho thái tử, làm lễ quán đảnh rồi, cùng với hàng vạn người tụ hội, đi đến chỗ đức Phật, đến rồi đảnh lễ đức Phật, đi nhiễu quanh vô lượng vòng, rồi cùng với quyến thuộc ngồi lui về một bên.
Đại vương Tài Chủ nghĩ như vậy rồi, lập tức tập hợp các ông vua nhỏ, quần thần quyến thuộc, cùng với Sát đế lợi, Bà La Môn, tất cả đại chúng .v.v… liền tuyên bố: xả bỏ ngôi vua, nhường ngôi cho thái tử, làm lễ quán đảnh rồi, thái tử trở thành quốc vương, trị lý thiên hạ. Đại vương Tài Chủ và hàng vạn người tụ hội, cùng đi đến chỗ đức Phật Thắng Nhựt Thân, đến rồi đảnh lễ đức Phật, đi nhiễu quanh vô lượng vòng, rồi cùng với quyến thuộc ngồi lui về một bên, chờ đức Phật thuyết pháp.
Bấy giờ, đức Phật quán sát ông vua đó, cùng với các đại chúng. Từ trong tướng hào quang trắng, phóng ra đại quang minh, tên là Đèn tâm tất cả thế gian, chiếu khắp mười phương vô lượng thế giới, trụ ở trước tất cả các ông vua, thị hiện sức đại thần thông của Phật không thể nghĩ bàn. Khiến cho khắp tất cả mọi người đáng được giáo hoá, tâm được thanh tịnh.
Bấy giờ, đức Phật dùng thần lực tự tại không thể nghĩ bàn, hiện thân hơn hẳn tất cả thế gian, dùng tiếng viên mãn, khắp vì đại chúng nói Đà La Ni, tên là Đèn tất cả pháp nghĩa lìa tối, có các Đà La Ni nhiều như số hạt bụi cõi Phật làm quyến thuộc. Ông vua đó nghe rồi, lập tức đắc được đại trí quang minh.
Lúc đó, đức Phật Thắng Nhựt Thân quán sát nhân duyên ông vua Tài Chủ và tất cả đại chúng. Từ trong tướng hào quang trắng, phóng ra đại quang minh, tên là Đèn tâm tất cả thế gian, chiếu sáng khắp mười phương vô lượng thế giới, trụ ở trước tất cả các ông vua, thị hiện sức đại thần thông của Phật không thể nghĩ bàn. Khiến cho khắp tất cả mọi người đáng được giáo hoá, tâm được thanh tịnh.
Lúc bấy giờ, đức Phật Thắng Nhựt Thân dùng thần lực tự tại không thể nghĩ bàn, hiện thân hơn hẳn tất cả thế gian, dùng tiếng viên mãn, khắp vì đại chúng nói Đà La Ni, tên là Đèn tất cả pháp nghĩa lìa tối, có các Đà La Ni nhiều như số hạt bụi cõi Phật làm quyến thuộc. Ông vua Tài Chủ đó nghe Đà La Ni đó rồi, lập tức đắc được đại trí huệ quang minh.
Trong chúng hội đó, có các Bồ Tát nhiều như số hạt bụi cõi Diêm Phù Đề, đều đồng thời chứng được Đà La Ni đó. Sáu mươi vạn Na do tha người, sạch hết các hữu lậu, tâm được giải thoát. Mười ngàn chúng sinh, xa lìa bụi trần, đắc được con mắt pháp thanh tịnh, vô lượng chúng sinh phát tâm bồ đề.
Trong chúng hội đó, có các Bồ Tát nhiều như số hạt bụi cõi Diêm Phù Đề, đều đồng thời chứng được Đà La Ni đó. Sáu mươi vạn Na do tha người, sạch hết tất cả pháp hữu lậu, tâm được giải thoát. Mười ngàn chúng sinh, xa lìa tất cả bụi trần, đắc được con mắt pháp thanh tịnh, có vô lượng chúng sinh đều phát tâm bồ đề.
Bấy giờ, đức Phật lại dùng lực không thể nghĩ bàn, rộng hiện thần biến, khắp trong mười phương vô lượng thế giới, diễn nói pháp ba thừa, hoá độ chúng sinh.
Lúc đó, đức Phật Thắng Nhựt Thân lại dùng lực không thể nghĩ bàn, rộng hiện thần thông biến hoá, khắp trong mười phương vô lượng thế giới, diễn nói pháp Phật thừa, Bồ Tát thừa, Thanh Văn Duyên Giác thừa, giáo hoá tất cả chúng sinh, độ thoát tất cả chúng sinh.
Bấy giờ, phụ vương đó bèn nghĩ như vầy: Nếu ta tại gia, không thể chứng được diệu pháp như vậy. Nếu ở chỗ đức Phật, xuất gia tu đạo, thì sẽ thành tựu. Nghĩ như vậy rồi, bèn ở trước đức Phật bạch rằng: Con nguyện được theo Phật xuất gia học đạo.
Đức Phật nói tuỳ ý, hãy tự biết thời.
Bấy giờ, vua Tài Chủ cùng với mười ngàn người, đều ở chỗ đức Phật, đồng thời xuất gia. Thời gian chẳng bao lâu, đều được thành tựu Đà la ni Đèn tất cả pháp nghĩa lìa tối, cũng đắc được các môn tam muội như ở trên. Lại đắc được mười môn thần thông của Bồ Tát. Lại đắc được vô biên biện tài của Bồ Tát. Lại đắc được tịnh thân vô ngại của Bồ Tát, đi đến chỗ chư Phật trong mười phương, lắng nghe thọ trì pháp của chư Phật nói. Làm đại pháp sư, diễn nói diệu pháp. Lại dùng thần lực khắp mười phương cõi nước, tuỳ tâm chúng sinh mà vì họ hiện thân khen ngợi Phật xuất hiện ra đời. Nói hạnh xưa của Phật, khai thị nhân duyên xưa của Phật, khen ngợi thần lực tự tại của Phật, hộ trì giáo pháp của Phật nói.
Lúc bấy giờ, phụ vương Tài Chủ đó bèn nghĩ như vầy: Nếu ta tại gia, thì không thể chứng được diệu pháp như vậy. Nếu ở chỗ đức Phật, theo Phật xuất gia tu đạo, thì sẽ có sự thành tựu. Đại vương Tài Chủ nghĩ như vậy rồi, bèn ở trước đức Phật bạch rằng: Con phát nguyện xin được theo Phật xuất gia, tu vô thượng bồ đề đạo, xin cầu Phật từ bi, thu nhận con làm đệ tử.
Đức Phật Thắng Nhựt Thân nói: Tuỳ ý nhà ngươi, ngươi hãy tự biết thời, cơ duyên xuất gia đã thành thục chăng. Nếu đã thành thục, thì có thể xuất gia? Nếu thời cơ chưa đến, thì có thể chờ đợi thêm một thời gian.
Lúc đó, ông vua Tài Chủ cùng với mười ngàn người, đều ở chỗ đức Phật, đồng thời xuất gia. Trải qua thời gian chẳng bao lâu, họ đều được thành tựu Đà la ni Đèn tất cả pháp nghĩa lìa tối, cũng đắc được các môn tam muội như ở trên đã nói. Lại đắc được mười môn thần thông của Bồ Tát. Lại đắc được vô biên biện tài của Bồ Tát. Lại đắc được tịnh thân vô ngại của Bồ Tát, có thể đi đến đạo tràng của chư Phật trong mười phương, lắng nghe thọ trì pháp của chư Phật nói. Làm đại pháp sư có đạo đức, có trí huệ, diễn nói diệu pháp. Lại dùng thần lực khắp mười phương cõi nước chư Phật, tuỳ tâm chúng sinh mà vì họ hiện thân thuyết pháp, khen ngợi chư Phật xuất hiện ra đời. Diễn nói hạnh thuở xưa của chư Phật tu, khai thị nhân duyên thuở xưa của chư Phật, khen ngợi thần lực tự tại của chư Phật, hộ trì giáo pháp của chư Phật nói.
Bấy giờ, vào ngày rằm, thái tử ở tại chánh điện, thể nữ vây quanh, bảy báu tự đến. Một là bánh xe báu, tên là Vô ngại hành. Hai là voi báu, tên là Kim cang thân. Ba là ngựa báu, tên là Tốc tật phong. Bốn là châu báu, tên là Nhựt quang tạng. Năm là nữ báu, tên là Cụ Túc Diệu Đức. Sáu là tạng thần báu, tên là Đại tài. Bảy là chủ binh báu, tên là Ly cấu nhãn. Bảy báu đầy đủ, làm Chuyển Luân Vương, làm vua cõi Diêm Phù Đề, dùng chánh pháp trị thế, nhân dân khoái lạc. Vua có ngàn người con, đoan chánh dũng mãnh, hàng phục được oán địch.
Trong cõi Diêm Phù Đề đó, có tám mươi thành vua. Trong mỗi thành, có năm trăm tăng phường. Mỗi tăng phường, đều lập tịnh xá cao rộng, dùng các báu đẹp để nghiêm sức. Mỗi thành vua, đều thỉnh đức Phật đến, dùng các đồ cúng tốt đẹp để dâng cúng đức Phật.
Khi đức Phật vào thành, hiện đại thần lực, khiến cho vô lượng chúng sinh, trồng các căn lành. Vô lượng chúng sinh, tâm được thanh tịnh, thấy Phật hoan hỉ phát tâm bồ đề, khởi tâm đại bi, lợi ích chúng sinh, siêng tu Phật pháp, vào chân thật nghĩa, trụ nơi pháp tánh, rõ pháp bình đẳng, đắc được trí ba đời bình đẳng quán ba đời. Biết tất cả chư Phật ra đời thứ tự, nói đủ thứ pháp, nhiếp thọ chúng sinh, phát nguyện Bồ Tát, vào Bồ Tát đạo, biết pháp của Phật, thành tựu biển pháp. Có thể khắp hiện thân, khắp cùng tất cả các cõi. Biết căn tánh chúng sinh, và tánh dục của họ, khiến cho họ phát khởi nguyện nhất thiết trí.
Lúc bấy giờ, vào ngày rằm, thái tử Oai Đức Chủ ở tại chánh điện, có các thể nữ vây quanh, bảy báu tự động đến.
– Một là bánh xe báu, tên là Vô ngại hành.
– Hai là voi báu, tên là Kim cang thân.
– Ba là ngựa báu, tên là Tốc tật phong.
– Bốn là châu báu, tên là Nhựt quang tạng.
– Năm là nữ báu, tên là Cụ Túc Diệu Đức.
– Sáu là tạng thần báu, tên là Đại tài.
– Bảy là chủ binh báu, tên là Ly cấu nhãn.
Bảy báu đầy đủ, làm Chuyển Luân Thánh Vương, làm vua cõi Diêm Phù Đề, dùng chánh pháp trị thế, nhân dân cơm no áo ấm, khoái lạc an vui. Vua có ngàn người con, tướng mạo đoan chánh, thân thể dũng mãnh khoẻ mạnh, khéo tác chiến, bách chiến bách thắng, đến chỗ nào thì vô địch chỗ đó, cho nên hàng phục được oán địch.
Trong cõi Diêm Phù Đề đó, có tám mươi thành vua. Trong mỗi thành vua, có năm trăm tăng phường. Trong mỗi tăng phường, đều lập tịnh xá cho Phật, thảy đều cao rộng, dùng các thứ báu đẹp để nghiêm sức. Trong mỗi thành vua, đều thỉnh đức Phật đến, dùng các đồ cúng tốt đẹp để dâng cúng đức Phật.
Khi đức Phật vào thành, hiện đại sức đại thần thông, khiến cho vô lượng chúng sinh, đều gieo trồng các căn lành. Vô lượng chúng sinh, tâm được thanh tịnh, chúng sinh thấy được Phật hoan hỉ, phát tâm bồ đề, khởi tâm đại bi, lợi ích tất cả chúng sinh, siêng tu tất cả Phật pháp, vào chân thật nghĩa lý, trụ nơi tự tánh của pháp, thấu rõ pháp bình đẳng, chẳng có cao thấp, đắc được trí huệ ba đời, bình đẳng quán sát ba đời. Biết tất cả chư Phật ra đời trước sau thứ tự, diễn nói đủ thứ diệu pháp, nhiếp thọ tất cả chúng sinh. Phát nguyện Bồ Tát, vào Bồ Tát đạo, biết pháp của chư Phật nói, thành tựu pháp như biển. Hay khắp thị hiện thân, khắp cùng tất cả các cõi. Biết căn tánh của tất cả chúng sinh, và tánh dục của họ, khiến cho họ phát khởi nguyện nhất thiết trí.
Phật tử! Ý ngươi như thế nào? Thái tử thuở đó, được ngôi Chuyển Luân Thánh Vương, cúng dường đức Phật, đâu phải là người nào khác, chính là đức Phật Thích Ca Mâu Ni ngày nay vậy. Vua Tài Chủ chính là đức Phật Bảo Hoa. Đức Phật Bảo Hoa đó, hiện tại ở phương đông, qua khỏi các cõi Phật nhiều như số hạt bụi biển cõi Phật, có biển thế giới, tên là Hiện pháp giới hư không ảnh tượng vân. Trong đó có thể giới chủng, tên là Phổ hiện tam thế ảnh ma ni vương. Trong thế giới chủng đó, có thế giới tên là Viên Mãn Quang. Trong đó có đạo tràng, tên là Hiện nhất thiết thế chủ thân, đức Phật Bảo Hoa thành tựu A nậu đa la tam miệu tam bồ đề ở nơi đó, có các chúng Bồ Tát nhiều như số hạt bụi bất khả thuyết cõi Phật, vây quanh trước sau, đức Phật vì họ mà thuyết pháp.
Thuở xưa, khi đức Phật Bảo Hoa tu hành Bồ Tát đạo, thì nghiêm tịnh biển thế giới đó. Trong biển thế giới đó, chư Phật quá khứ, hiện tại, vị lai, xuất hiện ra đời, đều do Phật Bảo Hoa lúc còn làm Bồ Tát, đã từng giáo hoá họ, khiến cho họ phát tâm A nậu đa la tam miệu tam bồ đề.
Cô gái Thích Ca Cù Ba nói với Thiện Tài đồng tử: Phật tử! Ý ngươi như thế nào? Thái tử thuở đó, được ngôi Chuyển Luân Thánh Vương, cúng dường đức Phật Thắng Nhựt Thân, đâu phải là người nào khác, ngươi có biết là ai chăng? Chính là đức Phật Thích Ca Mâu Ni ngày nay vậy. Ông vua Tài Chủ đó, chính là đức Phật Bảo Hoa. Đức Phật Bảo Hoa đó, hiện tại ở phương đông, qua khỏi các cõi Phật nhiều như số hạt bụi biển cõi Phật, có biển thế giới, tên là Hiện pháp giới hư không ảnh tượng vân. Trong đó có thể giới chủng, tên là Phổ hiện tam thế ảnh ma ni vương. Trong thế giới chủng đó, có thế giới tên là Viên Mãn Quang. Chủng là chủng loại (giống loại), trái cây có giống loại trái cây, rau cải có giống loại rau cải, ngũ cốc có giống loại ngũ cốc, hoa cỏ có giống loại hoa cỏ. Nếu chẳng có giống loại thì chẳng cách gì tiếp nối sau này, chẳng cách gì truyền tông tiếp đại, mà đoạn tuyệt đời sau. Cho nên thế giới cũng có chủng loại. Thế giới là hoá thân của Bồ Tát, Bồ Tát biến thành thế giới, cúng dường hết thảy chúng sinh. Bất cứ là hữu tình chúng sinh, hoặc là vô tình chúng sinh, đều sinh tồn trong thế giới.
Trong thế giới Viên Mãn Quang đó, có đạo tràng, tên là Hiện nhất thiết thế chủ thân. Trong đạo tràng đó, có đức Phật hiệu là Phật Bảo Hoa. Ngài ở tại đạo tràng nầy, thành tựu A nậu đa la tam miệu tam bồ đề ở nơi đó, có các chúng Bồ Tát nhiều như số hạt bụi bất khả thuyết cõi Phật, vây quanh trước sau đức Phật Bảo Hoa. Đức Phật Bảo Hoa vì các đại Bồ Tát đó mà diễn nói diệu pháp.
Thuở xưa, khi đức Phật Bảo Hoa tu hành Bồ Tát đạo, thì đã từng trang nghiêm thanh tịnh biển thế giới đó. Trong biển thế giới đó, có Phật quá khứ, Phật hiện tại, Phật vị lai, xuất hiện ra đời, đều do Phật Bảo Hoa lúc còn làm Bồ Tát, đã từng giáo hoá các Ngài, khiến cho họ phát tâm A nậu đa la tam miệu tam bồ đề.
Bà Thiện Hiện, mẹ của đồng nữ Diệu Đức, nay là mẹ của ta, bà Thiện Mục. Quyến thuộc của vua xưa kia, nay là chúng hội của Phật Thích Ca Mâu Ni vậy, đều tu hành đầy đủ các hạnh của Bồ Tát Phổ Hiền, thành tựu viên mãn đại nguyện. Tuy thường ở tại chúng hội đạo tràng nầy, mà hay hiện khắp tất cả thế gian. Trụ tam muội bình đẳng của các Bồ Tát. Thường được hiện thấy tất cả chư Phật. Tất cả Như Lai dùng mây âm thanh vi diệu đồng hư không, diễn nói chánh pháp, đại chúng thảy đều nghe được. Nơi tất cả pháp, đều được tự tại, danh đồn vang khắp cõi nước chư Phật. Đến khắp chỗ tất cả đạo tràng, hiện khắp ở trước tất cả chúng sinh. Tuỳ theo căn cơ mà giáo hoá điều phục. Hết kiếp thuở vị lai tu Bồ Tát đạo, luôn không gián đoạn, thành tựu viên mãn thệ nguyện rộng lớn của Bồ Tát Phổ Hiền.
Phật tử! Đồng nữ Diệu Đức xưa kia, cùng với Chuyển Luân Thánh Vương Oai Đức Chủ, đem tứ sự cúng dường đức Phật Thắng Nhựt Thân, chính là thân ta ngày nay vậy.
Bà Thiện Hiện, mẹ của đồng nữ Diệu Đức xưa kia, nay là mẹ của ta, bà Thiện Mục. Quyến thuộc của vua Tài Chủ và Chuyển Luân Vương Oai Đức Chủ xưa kia, nay là chúng hội của đức Phật Thích Ca Mâu Ni vậy, đều tu hành đầy đủ tất cả đại hạnh của Bồ Tát Phổ Hiền, thành tựu viên mãn tất cả đại nguyện của Bồ Tát Phổ Hiền. Tuy thường ở trong chúng hội đạo tràng nầy, mà hay hiện khắp tất cả thế gian. Trụ tam muội bình đẳng của tất cả Bồ Tát. Thường được hiện thấy tất cả chư Phật. Tất cả chư Phật dùng mây âm thanh vi diệu đồng hư không, diễn nói chánh pháp, đại chúng nầy thảy đều nghe được, y pháp tu hành. Nơi tất cả pháp, đều được nhậm vận tự tại, danh đồn vang khắp cõi nước chư Phật mười phương, ai ai cũng đều biết. Đến khắp chỗ tất cả đạo tràng, hiện khắp ở trước tất cả chúng sinh. Tuỳ theo căn cơ mà hiện thân giáo hoá điều phục họ, khiến cho họ phát tâm bồ đề, tu đạo bồ đề. Hết kiếp thuở vị lai tu hành Bồ Tát đạo, luôn luôn không gián đoạn, dũng mãnh siêng tinh tấn, vĩnh viễn không giải đãi, mới có thể thành tựu viên mãn đại thệ nguyện rộng lớn của Bồ Tát Phổ Hiền.
Phật tử! Đồng nữ Diệu Đức xưa kia, cùng với Chuyển Luân Thánh Vương Oai Đức Chủ, đem thức ăn uống, y phục, toạ cụ, thuốc thang, tứ sự cúng dường, chính là thân ta ngày nay vậy.
Sau khi đức Phật đó diệt độ rồi, trong thế giới đó, có sáu mươi ức trăm ngàn Na do tha vị Phật xuất hiện ra đời. Ta đều cùng với vua thừa sự cúng dường. Vị Phật thứ nhất, hiệu là Phật Thanh Tịnh Thân. Kế hiệu là Phật Nhất Thiết Trí Nguyệt Quang Minh Thân. Kế hiệu là Phật Diêm Phù Đàn Kim Quang Minh Vương. Kế hiệu là Phật Chư Tướng Trang Nghiêm Thân. Kế hiệu là Phật Diệu Nguyệt Quang. Kế hiệu là Phật Trí Quang Tràng. Kế hiệu là Phật Đại Trí Quang. Kế hiệu là Phật Kim Cang Na La Diên Tinh Tấn. Kế hiệu là Phật Trí Lực Vô Năng Thắng. Kế hiệu là Phật Phổ An Tường Trí. Kế hiệu là Phật Ly Cấu Thắng Trí Vân. Kế hiệu là Phật Sư Tử Trí Quang Minh. Kế hiệu là Phật Quang Minh Kế. Kế hiệu là Phật Công Đức Quang Minh Tràng. Kế hiệu là Phật Trí Nhựt Tràng. Kế hiệu là Phật Bảo Liên Hoa Khai Phu Thân. Kế hiệu là Phật Phước Đức Nghiêm Tịnh Quang. Kế hiệu là Phật Trí Diễm Vân. Kế hiệu là Phật Phổ Chiếu Nguyệt. Kế hiệu là Phật Trang Nghiêm Cái Diệu Âm Thanh. Kế hiệu là Phật Sư Tử Dũng Mãnh Trí Quang Minh. Kế hiệu là Phật Pháp Giới Nguyệt. Kế hiệu là Phật Hiện Hư Không Ảnh Tượng Khai Ngộ Chúng Sinh Tâm. Kế hiệu là Phật Hằng Khứu Tịch Diệt Âm. Kế hiệu là Phật Phổ Chấn Tịch Tĩnh Âm. Kế hiệu là Phật Cam Lộ Sơn. Kế hiệu là Phật Pháp Hải Âm. Kế hiệu là Phật Kiên Cố Võng. Kế hiệu là Phật Ảnh Kế Như Lai. Kế hiệu là Phật Nguyệt Quang Hào. Kế hiệu là Phật Biện Tài Khẩu. Kế hiệu là Phật Giác Hoa Trí. Kế hiệu là Phật Bảo Diệm Sơn. Kế hiệu là Phật Công Đức Tinh. Kế hiệu là Phật Bảo Nguyệt Tràng. Kế hiệu là Phật Tam Muội Thân. Kế hiệu là Phật Bảo Quang Vương. Kế hiệu là Phật Phổ Trí Hạnh. Kế hiệu là Phật Diễm Hải Đăng. Kế hiệu là Phật Ly Cấu Pháp Âm Vương. Kế hiệu là Phật Vô Tỉ Đức Danh Xưng Tràng. Kế hiệu là Phật Tu Tí. Kế hiệu là Phật Bổn Nguyện Thanh Tịnh Nguyệt. Kế hiệu là Phật Chiếu Nghĩa Đăng. Kế hiệu là Phật Thâm Viễn Âm. Kế hiệu là Phật Tỳ Lô Giá Na Thắng Tạng Vương. Kế hiệu là Phật Chư Thừa Tràng. Kế hiệu là Phật Pháp Hải Diệu Liên Hoa.
Phật tử! Trong kiếp đó, có sáu mươi ức trăm ngàn Na do tha vị Phật xuất hiện ra đời như vậy, ta đều gần gũi hầu hạ cúng dường.
Sau khi đức Phật Thắng Nhựt Thân đó diệt độ rồi, trong thế giới Vô Uý đó, có sáu mươi ức trăm ngàn Na do tha đức Phật xuất hiện ra đời. Lúc bấy giờ, Ta đều cùng với vua thừa sự cúng dường tất cả chư Phật. Vị Phật thứ nhất, hiệu là Phật Thanh Tịnh Thân. Vị Phật thứ hai, hiệu là Phật Nhất Thiết Trí Nguyệt Quang Minh Thân. Vị Phật thứ ba, hiệu là Phật Diêm Phù Đàn Kim Quang Minh Vương. Vị Phật thứ tư, hiệu là Phật Chư Tướng Trang Nghiêm Thân. Vị Phật thứ năm, hiệu là Phật Diệu Nguyệt Quang. Vị Phật thứ sáu, hiệu là Phật Trí Quang Tràng. Vị Phật thứ bảy, hiệu là Phật Đại Trí Quang. Vị Phật thứ tám, hiệu là Phật Kim Cang Na La Diên Tinh Tấn. Vị Phật thứ chín, hiệu là Phật Trí Lực Vô Năng Thắng. Vị Phật thứ mười, hiệu là Phật Phổ An Tường Trí. Vị Phật thứ mười một, hiệu là Phật Ly Cấu Thắng Trí Vân. Vị Phật thứ mười hai, hiệu là Phật Sư Tử Trí Quang Minh. Vị Phật thứ mười ba, hiệu là Phật Quang Minh Kế. Vị Phật thứ mười bốn, hiệu là Phật Công Đức Quang Minh Tràng. Vị Phật thứ mười lăm, hiệu là Phật Trí Nhựt Tràng. Vị Phật thứ mười sáu, hiệu là Phật Bảo Liên Hoa Khai Phu Thân. Vị Phật thứ mười bảy, hiệu là Phật Phước Đức Nghiêm Tịnh Quang. Vị Phật thứ mười tám, hiệu là Phật Trí Diễm Vân. Vị Phật thứ mười chín, hiệu là Phật Phổ Chiếu Nguyệt. Vị Phật thứ hai mươi, hiệu là Phật Trang Nghiêm Cái Diệu Âm Thanh. Vị Phật thứ hai mươi mốt, hiệu là Phật Sư Tử Dũng Mãnh Trí Quang Minh. Vị Phật thứ hai mươi hai, hiệu là Phật Pháp Giới Nguyệt. Vị Phật thứ hai mươi ba, hiệu là Phật Hiện Hư Không Ảnh Tượng Khai Ngộ Chúng Sinh Tâm. Vị Phật thứ hai mươi bốn, hiệu là Phật Hằng Khứu Tịch Diệt Âm. Vị Phật thứ hai mươi lăm, hiệu là Phật Phổ Chấn Tịch Tĩnh Âm. Vị Phật thứ hai mươi sáu, hiệu là Phật Cam Lộ Sơn. Vị Phật thứ hai mươi bảy, hiệu là Phật Pháp Hải Âm. Vị Phật thứ hai mươi tám, hiệu là Phật Kiên Cố Võng. Vị Phật thứ hai mươi chín, hiệu là Phật Ảnh Kế Như Lai. Vị Phật thứ ba mươi, hiệu là Phật Nguyệt Quang Hào. Vị Phật thứ ba mươi mốt, hiệu là Phật Biện Tài Khẩu. Vị Phật thứ ba mươi hai, hiệu là Phật Giác Hoa Trí. Vị Phật thứ ba mươi ba, hiệu là Phật Bảo Diệm Sơn. Vị Phật thứ ba mươi bốn, hiệu là Phật Công Đức Tinh. Vị Phật thứ ba mươi lăm, hiệu là Phật Bảo Nguyệt Tràng. Vị Phật thứ ba mươi sáu, hiệu là Phật Tam Muội Thân. Vị Phật thứ ba mươi bảy, hiệu là Phật Bảo Quang Vương. Vị Phật thứ ba mươi tám, hiệu là Phật Phổ Trí Hạnh. Vị Phật thứ ba mươi chín, hiệu là Phật Diễm Hải Đăng. Vị Phật thứ bốn mươi, hiệu là Phật Ly Cấu Pháp Âm Vương. Vị Phật thứ bốn mươi mốt, hiệu là Phật Vô Tỉ Đức Danh Xưng Tràng. Vị Phật thứ bốn mươi hai, hiệu là Phật Tu Tí. Vị Phật thứ bốn mươi ba, hiệu là Phật Bổn Nguyện Thanh Tịnh Nguyệt. Vị Phật thứ bốn mươi bốn, hiệu là Phật Chiếu Nghĩa Đăng. Vị Phật thứ bốn mươi lăm, hiệu là Phật Thâm Viễn Âm. Vị Phật thứ bốn mươi sáu, hiệu là Phật Tỳ Lô Giá Na Thắng Tạng Vương. Vị Phật thứ bốn mươi bảy, hiệu là Phật Chư Thừa Tràng. Vị Phật thứ bốn mươi tám, hiệu là Phật Pháp Hải Diệu Liên Hoa. Nêu ra sơ lượt bốn mươi tám vị Phật.
Phật tử! Trong kiếp Thắng Hạnh đó, có sáu mươi ức trăm ngàn Na do tha vị Phật xuất hiện ra đời như vậy, ta đều gần gũi Phật, hầu hạ Phật, cúng dường Phật. Hết thảy chư Phật, ta đều đến đạo tràng của Phật, lắng nghe chánh pháp, tu vô thượng đạo.
Vị Phật cuối cùng, hiệu là Phật Quảng Đại Giải. Ta ở chỗ đức Phật đó, đắc được mắt trí huệ.
Bấy giờ, đức Phật đó đi vào thành giáo hoá. Ta làm vương phi, cùng quốc vương kính lễ Phật, đem các đồ vật tốt đẹp, cúng dường đức Phật. Được nghe đức Phật đó nói pháp môn sinh ra tất cả Như Lai đăng, lập tức ta đắc được cảnh giới giải thoát biển tam muội quán sát tất cả Bồ Tát.
Vị Phật cuối cùng, hiệu là Phật Quảng Đại Giải. Ta ở chỗ đức Phật đó, chứng được mắt trí huệ thanh tịnh.
Lúc bấy giờ, đức Phật Quảng Đại Giải đi vào thành giáo hoá chúng sinh. Lúc đó, ta làm vương phi, cùng với quốc vương đảnh lễ đức Phật, đem các đồ vật tốt đẹp, cúng dường đức Phật. Ở trong đạo tràng của Phật, lắng nghe đức Phật đó nói pháp môn sinh ra tất cả Như Lai đăng, lập tức ta chứng được cảnh giới giải thoát biển tam muội quán sát tất cả Bồ Tát.
Phật tử! Ta đắc được giải thoát nầy rồi, ta cùng với Bồ Tát ở trong số kiếp nhiều như số hạt bụi cõi Phật, siêng năng tu tập. Ở trong kiếp số nhiều như số hạt bụi cõi Phật, thừa sự cúng dường vô lượng chư Phật. Hoặc trong một kiếp thừa sự một vị Phật, hai vị Phật, ba vị Phật, hoặc bất khả thuyết vị Phật , hoặc gặp chư Phật nhiều như số hạt bụi cõi Phật, ta đều gần gũi hầu hạ cúng dường, mà chưa biết được thân, hình lượng sắc tướng, cùng với thân nghiệp, tâm hạnh trí huệ tam muội cảnh giới của Bồ Tát.
Phật tử! Ta đắc được môn giải thoát nầy rồi, ta cùng với Bồ Tát ở trong số kiếp nhiều như số hạt bụi cõi Phật, siêng năng tu tập pháp môn nầy. Ở trong kiếp số nhiều như số hạt bụi cõi Phật, thừa sự cúng dường vô lượng chư Phật. Hoặc trong một kiếp, thừa sự một vị Phật, hai vị Phật, ba vị Phật, hoặc bất khả thuyết vị Phật, hoặc gặp chư Phật nhiều như số hạt bụi cõi Phật, ta đều gần gũi Phật, thừa sự Phật, cúng dường Phật, không khi nào mệt mỏi, mà ta vẫn chưa biết được thân, hình lượng, sắc tướng, cùng với thân nghiệp, tâm hạnh, trí huệ, tam muội, cảnh giới của Bồ Tát.
Phật tử! Nếu có chúng sinh được thấy Bồ Tát tu hạnh bồ đề, hoặc nghi, hoặc tin, thì Bồ Tát đều dùng đủ thứ phương tiện thế xuất thế gian, để nhiếp lấy họ, dùng làm quyến thuộc, khiến cho họ được bất thối chuyển nơi A nậu đa la tam miệu tam bồ đề.
Phật tử! Nếu có chúng sinh thấy được Bồ Tát tu hạnh bồ đề, hoặc nghi, hoặc tin, thì Bồ Tát đều dùng đủ thứ pháp môn phương tiện thế xuất thế gian, để nhiếp lấy họ, dùng làm quyến thuộc, khiến cho họ được bất thối chuyển nơi A nậu đa la tam miệu tam bồ đề.
Phật tử! Ta thấy được đức Phật đó, đắc được giải thoát nầy rồi, cùng với Bồ Tát ở trong số kiếp nhiều như số hạt bụi trăm cõi Phật, cùng nhau tu tập. Ở trong những kiếp đó, hết thảy chư Phật xuất hiện ra đời, ta đều gần gũi, hầu hạ cúng dường, nghe Phật nói pháp, đọc tụng thọ trì. Ở chỗ các đức Phật đó, đắc được đủ thứ pháp môn giải thoát nầy. Biết đủ thứ ba đời, vào đủ thứ biển cõi, thấy đủ thứ thành Chánh Giác, vào đủ thứ Phật chúng hội, phát đủ thứ đại nguyện Bồ Tát, tu đủ thứ diệu hạnh Bồ Tát, đắc được đủ thứ giải thoát Bồ Tát, mà vẫn chưa biết được môn giải thoát Phổ Hiền của Bồ Tát đắc được.
Phật tử! Ta thấy được đức Phật Quảng Đại Giải, đắc được môn giải thoát nầy rồi, cùng với Bồ Tát ở trong đại kiếp nhiều như số hạt bụi trăm cõi Phật, cùng nhau tu tập. Ở trong những kiếp đó, hết thảy chư Phật xuất hiện ra đời, ta đều đến đạo tràng của Phật, gần gũi, hầu hạ, cúng dường Phật, lắng nghe chư Phật nói chánh pháp, đọc tụng tất cả pháp, thọ trì tất cả pháp. Ở chỗ đạo tràng tất cả chư Phật đó, đắc được đủ thứ pháp môn giải thoát nầy, biết đủ thứ ba đời, vào đủ thứ biển cõi, thấy đủ thứ Phật thành Chánh Giác, vào đủ thứ Phật chúng hội đạo tràng, phát đủ thứ đại nguyện Bồ Tát, tu đủ thứ diệu hạnh Bồ Tát, đắc được đủ thứ giải thoát Bồ Tát, mà vẫn chưa biết được môn giải thoát Bồ Tát Phổ Hiền của Bồ Tát đắc được.
Tại sao? Vì môn giải thoát Bồ Tát Phổ Hiền, như thái hư không, như tên chúng sinh, như biển ba đời, như biển mười phương, như biển pháp giới, vô lượng vô biên.
Phật tử! Môn giải thoát Bồ Tát Phổ Hiền, đồng với cảnh giới Như Lai.
Tại sao vậy? Vì môn giải thoát của Bồ Tát Phổ Hiền, như hư không, vì chẳng có bờ mé. Như tên chúng sinh, vì vô lượng vô biên. Như biển ba đời, như biển mười phương, như biển pháp giới, đều vô lượng vô biên.
Phật tử! Môn giải thoát Bồ Tát Phổ Hiền, đồng với cảnh giới Như Lai, cho nên ta không thể nào biết hết tỉ mỉ được, càng không thể nào thấu rõ được.
Phật tử! Ta ở trong số kiếp nhiều như số hạt bụi cõi Phật, quán thân Bồ Tát không nhàm đủ. Như người nhiều dục, nam nữ tập hội, ái nhiễm với nhau, khởi vô lượng vọng tưởng tư giác. Ta cũng như thế, quán sát mỗi lỗ chân lông trên thân Bồ Tát, niệm niệm thấy vô lượng vô biên thế giới rộng lớn, đủ thứ an trụ, đủ thứ trang nghiêm, đủ thứ hình tướng, có đủ thứ núi, đủ thứ đất, đủ thứ mây, đủ thứ tên, đủ thứ Phật ra đời, đủ thứ đạo tràng, đủ thứ chúng hội, diễn nói đủ thứ Kinh, nói đủ thứ quán đảnh, đủ thứ các thừa, đủ thứ phương tiện, đủ thứ thanh tịnh.
Phật tử! Ta ở trong số kiếp nhiều như số hạt bụi cõi Phật, quán sát thân Bồ Tát không khi nào nhàm đủ. Giống như người nhiều dục, nam nữ tập hội, ái nhiễm với nhau, khởi vô lượng vọng tưởng tư giác. Ta cũng như thế, quán sát mỗi lỗ chân lông trên thân Bồ Tát, trong niệm niệm thấy vô lượng vô biên thế giới rộng lớn, có đủ thứ an trụ, có đủ thứ trang nghiêm, có đủ thứ hình tướng, có đủ thứ núi, có đủ thứ đất, có đủ thứ mây, có đủ thứ tên, có đủ thứ Phật ra đời, có đủ thứ đạo tràng, có đủ thứ chúng hội, diễn nói đủ thứ Kinh, nói đủ thứ pháp quán đảnh, nói đủ thứ các thừa pháp, nói đủ thứ pháp phương tiện, nói đủ thứ pháp thanh tịnh.
Lại nữa, ở trong mỗi lỗ chân lông của Bồ Tát, niệm niệm thường thấy vô biên biển chư Phật, ngồi đủ thứ đạo tràng, hiện đủ thứ thần biến, chuyển đủ thứ bánh xe pháp, nói đủ thứ Tu đa la, luôn luôn không đoạn tuyệt.
Lại nữa, ở trong mỗi lỗ chân lông của Bồ Tát, niệm niệm thường thấy vô biên biển chư Phật, ngồi đủ thứ đạo tràng, hiện đủ thứ thần biến, chuyển đủ thứ bánh xe pháp, nói đủ thứ Tu đa la (Kinh), luôn luôn không đoạn tuyệt.
Lại nữa, ở trong mỗi lỗ chân lông của Bồ Tát, thấy vô biên biển chúng sinh, đủ thứ chỗ ở, đủ thứ hình tướng, đủ thứ việc làm, đủ thứ các căn.
Lại nữa, ở trong mỗi lỗ chân lông của Bồ Tát, thấy vô biên biển chúng sinh, có đủ thứ chỗ ở, có đủ thứ hình tướng, có đủ thứ việc làm, có đủ thứ các căn, thảy đều khác nhau, có cảnh giới ngàn sai vạn biệt.
Lại nữa, trong mỗi lỗ chân lông của Bồ Tát, thấy vô biên hạnh môn của các Bồ Tát ba đời. Đó là: Vô biên nguyện rộng lớn, vô biên địa khác nhau, vô biên Ba La Mật, vô biên việc thuở xưa, vô biên môn đại từ, vô biên mây đại bi, vô biên tâm đại hỉ, vô biên phương tiện nhiếp lấy chúng sinh.
Lại nữa, trong mỗi lỗ chân lông của Bồ Tát, thấy vô biên hạnh môn của các Bồ Tát ba đời. Đó là: Vô biên nguyện rộng lớn, vô biên địa khác nhau, vô biên Ba La Mật, vô biên việc thuở xưa, vô biên môn đại từ, vô biên mây đại bi, vô biên tâm đại hỉ, vô biên phương tiện nhiếp lấy chúng sinh.
Phật tử! Ta ở nơi kiếp số nhiều như hạt bụi cõi Phật, niệm niệm quán mỗi mỗi lỗ chân lông của Bồ Tát như vậy, chỗ đã đến thì không đến nữa, chỗ đã thấy thì không thấy nữa, tìm cầu bờ mé, rốt ráo không thể được, cho đến thấy thái tử Tất Đạt ở trong cung, thể nữ vây quanh. Ta dùng sức giải thoát, quán mỗi mỗi lỗ chân lông của Bồ Tát, đều thấy sự việc trong pháp giới ba đời.
Phật tử! Ta ở nơi kiếp số nhiều như hạt bụi cõi Phật, trong niệm niệm quán sát mỗi mỗi lỗ chân lông của Bồ Tát như vậy, chỗ đã đến thì ta không đến nữa, chỗ đã thấy thì ta không thấy nữa, muốn tìm cầu bờ mé trên thân Bồ Tát, rốt ráo không thể được, cho đến thấy được thái tử Tất Đạt ở trong cung, có thể nữ vây quanh. Ta dùng sức giải thoát, quán sát mỗi mỗi lỗ chân lông của Bồ Tát, đều thấy sự việc trong pháp giới ba đời, tất cả sự việc đều rõ ràng.
Phật tử! Ta chỉ đắc được giải thoát Quán sát biển tam muội Bồ Tát nầy. Như các đại Bồ Tát, rốt ráo vô lượng các biển phương tiện, vì tất cả chúng sinh hiện tuỳ loại thân, vì tất cả chúng sinh nói tuỳ lạc hạnh. Trong mỗi mỗi lỗ chân lông, hiện vô biên biển sắc tướng. Biết tánh các pháp không tánh làm tánh. Biết tánh chúng sinh đồng tướng hư không, không có phân biệt. Biết thần lực của Phật, đồng với như như, khắp tất cả mọi nơi. Thị hiện vô biên cảnh giới giải thoát. Ở trong một niệm, tự tại vào pháp giới rộng lớn. Du hí tất cả pháp môn các địa, mà ta làm sao biết được, nói được, những hạnh công đức đó?
Phật tử! Ta chỉ đắc được pháp môn giải thoát quán sát biển tam muội Bồ Tát nầy. Như nói đến các vị đại Bồ Tát, rốt ráo vô lượng các biển phương tiện, vì tất cả chúng sinh hiện tuỳ loại thân, vì tất cả chúng sinh nói tuỳ lạc hạnh. Chúng sinh hoan hỉ pháp gì, thì nói pháp đó, khiến cho họ tin thọ, y pháp phụng hành. Trong mỗi mỗi lỗ chân lông, thị hiện vô biên biển sắc tướng. Biết tánh của tất cả các pháp, dùng không tánh làm tánh. Biết tánh chúng sinh đồng tướng hư không, không có phân biệt. Biết thần lực của Phật, đồng với như như, khắp tất cả mọi nơi. Thị hiện vô biên cảnh giới giải thoát. Ở trong một niệm, nhậm vận tự tại vào pháp giới rộng lớn. Du hí tất cả pháp môn các địa. Bồ Tát có đủ thứ cảnh giới như vậy, mà ta làm sao biết được nói được những hạnh công đức đó?
Cảnh giới mà trong Kinh Hoa Nghiêm nói, đa số là cảnh giới thấy ở trong định. Những cảnh giới nầy, với chỗ thấy của hàng phàm phu hoàn toàn khác nhau, vì trí huệ của phàm phu tưởng không đến được. Hiện tại chúng ta đang nghe Kinh Hoa Nghiêm, phải biết rằng đây là chư Phật Bồ Tát ở trong định diễn nói diệu pháp, hết thảy cảnh giới, sâu rộng khó biết được, chẳng phải là hí luận, mà là trí huệ của chúng ta quá nông cạn, chưa đạt đến được trình độ thấu hiểu.
Thiện nam tử! Trong thế giới nầy, có Phật mẫu Ma Gia, ngươi đi đến đó hỏi: Bồ Tát làm thế nào tu Bồ Tát hạnh? Nơi các thế gian, không có nhiễm trước. Cúng dường chư Phật, luôn không ngừng nghỉ. Làm việc của Bồ Tát, vĩnh viễn không thối chuyển. Lìa tất cả chướng ngại, vào giải thoát của Bồ Tát. Không do người khác, mà trụ tất cả Bồ Tát đạo, đến tất cả chỗ Như Lai. Nhiếp tất cả cõi chúng sinh, hết kiếp thuở vị lai tu Bồ Tát hạnh, phát nguyện đại thừa, tăng trưởng căn lành của tất cả chúng sinh, thường không ngừng nghỉ.
Cô gái Thích Nữ Cù Ba nói với Thiện Tài đồng tử: Thiện nam tử! Trong thế giới Ta Bà nầy, có vị Phật mẫu, tên là Ma Gia phu nhân, ngươi hãy đi đến chỗ Ngài đó hỏi: Bồ Tát làm thế nào tu hành Bồ Tát hạnh? Nơi các pháp thế gian, không có tư tưởng nhiễm trước. Pháp thế gian là gì? tức là cảnh giới: Sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp. Đối với cảnh giới sáu trần, tâm không sinh tơ hào nhiễm trước. Cúng dường tất cả chư Phật mười phương ba đời, luôn luôn không ngừng nghỉ. Làm nghiệp lành của Bồ Tát, vĩnh viễn không thối chuyển. Thế nào là nghiệp của Bồ Tát? Tức là lục độ vạn hạnh. Lục độ là bố thí, trì giới, nhẫn nhục, tinh tấn, thiền định, trí huệ. Vạn hạnh tức là tu hành tất cả. Xa lìa tất cả chướng ngại, vào môn tam muội giải thoát của Bồ Tát, đều do mình nỗ lực tu hành, chứ không do người khác chứng được. Trụ tất cả Bồ Tát đạo, đến chỗ đạo tràng của tất cả chư Phật. Nhiếp thọ tất cả cõi chúng sinh, hết kiếp thuở vị lai tu Bồ Tát hạnh, phát tâm thệ nguyện đại thừa, tăng trưởng căn lành của tất cả chúng sinh, thường thường tinh tấn, không lúc nào giải đãi, vĩnh viễn không ngừng nghỉ, vĩnh viễn không mệt mỏi.
Bấy giờ, cô gái Thích Ca Cù Ba muốn tường thuật lại nghĩa giải thoát nầy, nương thần lực của Phật, bèn nói kệ rằng:
Lúc đó, cô gái Thích Ca Cù Ba muốn tường thuật lại nghĩa môn giải thoát nầy, bèn nương thần lực gia trì của mười phương chư Phật, nói ra ba mươi mốt bài kệ dưới đây:
Nếu ai thấy Bồ Tát
Tu hành đủ thứ hạnh
Khởi tâm thiện bất thiện
Bồ Tát đều nhiếp lấy.
Nếu có chúng sinh nào thấy được Bồ Tát tu hành đủ thứ hạnh. Dù khởi tâm thiện, hoặc tâm bất thiện, Bồ Tát đều nhiếp lấy họ. Tại sao vậy? Vì Bồ Tát có tư tưởng vô duyên đại từ, đồng thể đại bi.
Thuở lâu xa về trước
Quá kiếp bụi trăm cõi
Có kiếp tên Thanh Tịnh
Thế giới tên Quang Minh.
Thuở rất lâu xa về trước, trải qua đại kiếp nhiều như số hạt bụi trăm bụi cõi Phật, có kiếp tên Thanh Tịnh. Trong kiếp đó, có thế giới tên là Quang Minh.
Kiếp đó Phật ra đời
Sáu mươi ngàn vạn ức
Chủ Trời Người cuối cùng
Hiệu là Pháp Tràng Đăng.
Trong đại kiếp Thanh Tịnh, có sáu mươi ngàn vạn ức vị Phật xuất hiện ra đời. Vị Phật cuối cùng, hiệu là Phật Pháp Tràng Đăng.
Phật đó Niết Bàn rồi
Có vua tên Trí Sơn
Thống lãnh Diêm Phù Đề
Tất cả không oán địch.
Sau khi đức Phật Pháp Tràng Đăng vào Niết Bàn rồi, có ông vua tên là Trí Sơn. Vị vua nầy thống lãnh thế giới nam Diêm Phù Đề, với các quốc gia khác hoà bình với nhau, cho nên không có tất cả oán địch.
Vua có năm trăm con
Đoan chính và dũng mãnh
Thân thể đều thanh tịnh
Ai thấy đều hoan hỉ.
Vua Trí Sơn có năm trăm người con, ai cũng đều có tướng mạo đoan chính, thân thể khoẻ mạnh, dũng mãnh thiện chiến. Những vương tử đó, thân thể rất thanh tịnh, phàm là ai thấy được họ, đều sinh đại hoan hỉ.
Vua đó và vương tử
Tín tâm cúng dường Phật
Hộ trì Phật pháp tạng
Cũng thích siêng tu pháp.
Vua Trí Sơn và năm trăm vương tử, tín tâm kiên cố, kiền thành cúng dường Phật. Hộ trì pháp tạng của Phật nói. Họ rất hoan hỉ siêng tu pháp của tất cả chư Phật nói, y pháp tu hành, y giáo phụng hành.
Thái tử tên Thiện Quang
Lìa cấu nhiều phương tiện
Các tướng đều viên mãn
Ai thấy không nhàm đủ.
Thái tử tên là Thiện Quang, đã lìa khỏi tất cả trần cấu, chẳng có tư tưởng tạp nhiễm, thực hành nhiều pháp phương tiện, có trí huệ vô thượng, có các tướng tốt, thảy đều viên mãn, khiến cho người thấy sinh tâm vui mừng, không có tâm nhàm đủ, cho nên chiêm ngưỡng dung nhan của bậc Thánh, mắt không tạm rời.
Năm trăm ức người tụ
Xuất gia tu học đạo
Dũng mãnh siêng tinh tấn
Hộ trì các Phật pháp.
Thái tử Thiện Quang và năm trăm ức người tụ hội lại với nhau, xuất gia tu đạo. Mỗi người đều phát tâm bồ đề, trên cầu Phật đạo, dưới độ chúng sinh, do đó dũng mãnh kiên cố siêng năng tinh tấn, tu tập tất cả Phật pháp, hộ trì tất cả Phật pháp.
Vương đô tên Trí Thụ
Ngàn ức thành bao quanh
Có rừng tên Tĩnh Đức
Các báu dùng trang nghiêm.
Vương đô của vua Trí Sơn ở, tên là Trí Thụ. Chung quanh thành, có ngàn ức thành bao quanh, phía ngoài thành, có khu rừng lớn tên là Tĩnh Đức, dùng các báu đẹp để trang nghiêm.
Thiện Quang ở rừng đó
Rộng tuyên Phật chánh pháp
Biện tài sức trí huệ
Khiến chúng đều thanh tịnh.
Sau khi thái tử Thiện Quang xuất gia rồi, ở trong khu rừng đó, tinh tấn tu đạo, rộng tuyên dương chánh pháp của Phật nói. Ngài có sức trí huệ biện tài vô ngại, hay khiến cho người nghe pháp, tâm được thanh tịnh, chẳng có tư tưởng hoặc hành vi không chánh đáng.
Có lúc vì khất thực
Vào thành vương đô đó
Đi đứng rất an tường
Chánh tri tâm chẳng loạn.
Có lúc, Tỳ Kheo Thiện Quang vì khất thực mà đi vào thành vua Trí Thụ để khất thực, chẳng phân biệt giàu nghèo, cho chúng sinh cơ hội gieo trồng ruộng phước. Tỳ Kheo Thiện Quang đi đứng rất an tường, chẳng những giới luật đoan nghiêm, mà oai nghi cũng đầy đủ. Bất cứ gặp cảnh giới gì, tâm cũng chánh niệm, chẳng bị cảnh giới nhiễu loạn.
Trong thành có cư sĩ
Tên là Thiện Danh Xưng
Ta là con gái ông
Tên là Tịnh Nhựt Quang.
Lúc đó, trong thành Trí Thụ có vị cư sĩ, tên là Thiện Danh Xưng. Lúc bấy giờ, ta là con gái ông Thiện Danh Xưng, tên là Tịnh Nhựt Quang.
Ta ở trong thành đó
Gặp được Thiện Quang Minh
Các tướng rất đoan nghiêm
Bèn sinh tâm nhiễm trước.
Lúc đó, ta ở trong thành đó, gặp được Tỳ Kheo Thiện Quang Minh. Ngài có tướng mạo đoan chánh, rất trang nghiêm, khiến cho người khởi lòng cung kính, lúc đó ta bèn sinh tư tưởng nhiễm trước đối với Ngài.
Khất thực đến nhà ta
Tâm ta thêm ái nhiễm
Liền cởi chuỗi anh lạc
Chân châu để vào bát.
Tỳ Kheo Thiện Quang Minh thứ tự đi khất thực đến cửa nhà ta. Tâm ái nhiễm của ta càng tăng thêm. Ta liền cởi xâu chuỗi anh lạc và một số đồ trang sức, bỏ vào trong bát của Tỳ Kheo Thiện Quang Minh, biểu thị sự cúng dường kiền thành của ta.
Tuy dùng tâm ái nhiễm
Cúng dường Phật tử đó
Hai trăm năm mươi kiếp
Không đoạ ba đường ác.
Tuy ta dùng tâm ái nhiễm, cúng dường Phật tử đó. Nhưng trải qua hai trăm năm mươi kiếp, không đoạ lạc vào ba đường ác, địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh.
Hoặc sinh nhà Thiên Vương
Hoặc làm con gái vua
Luôn gặp Thiện Quang Minh
Tướng tốt trang nghiêm thân.
Ta ở trong hai trăm năm mươi đại kiếp, hoặc sinh nhà Thiên Vương, hoặc sinh vào trong nhà vua, làm con gái của vua. Ta luôn gặp Tỳ Kheo Thiện Quang Minh, tướng tốt trang nghiêm thân.
Trải qua những kiếp sau
Hai trăm năm mươi kiếp
Sinh vào nhà Thiện Hiện
Tên Cụ Túc Diệu Đức.
Từ đó về sau, lại trải qua hai trăm năm mươi đại kiếp, sinh vào nhà bảo mẫu Thiện Hiện (Hoa sen hoá sinh, bà Thiện Hiện làm bảo mẫu), tên của ta là Cụ Túc Diệu Đức.
Thời ta thấy thái tử
Bèn sinh tâm tôn trọng
Muốn được theo hầu hạ
May mắn được nạp thọ.
Lúc đó, ta thấy thái tử Oai Đức Chủ trang nghiêm, bèn sinh tâm tôn trọng. Ta phát nguyện muốn được theo hầu hạ, phục vụ cho thái tử. Ta rất là may mắn được thái tử thương tình mà nạp thọ ta làm vợ.
Ta thời với thái tử
Gặp Phật Thắng Nhựt Thân
Cung kính cúng dường rồi
Liền phát tâm bồ đề.
Đương thời ta với thái tử cùng đi đến gặp đức Phật Thắng Nhựt Thân, đảnh lễ, cung kính cúng dường Phật. Ta và thái tử lập tức phát tâm bồ đề, tu đạo bồ đề.
Ở trong một kiếp đó
Có sáu mươi ức Phật
Phật Thế Tôn cuối cùng
Hiệu là Quảng Đại Giải.
Ở trong một kiếp đó, có sáu mươi ức vị Phật xuất hiện ra đời. Vị Phật cuối cùng, hiệu là Phật Quảng Đại Giải.
Nơi đó được mắt tịnh
Biết rõ tướng các pháp
Khắp thấy nơi thọ sinh
Vĩnh trừ tâm điên đảo.
Ta ở chỗ đạo tràng Phật Quảng Đại Giải, đắc được mắt thanh tịnh, biết rõ thật tướng các pháp. Ta khắp thấy nơi mình thọ sinh, từ đó ta vĩnh viễn diệt trừ tâm điên đảo mộng tưởng.
Ta được quán tám muội
Cảnh giải thoát Bồ Tát
Một niệm vào mười phương
Biển cõi không nghĩ bàn.
Ta đắc được môn giải thoát quán sát cảnh giới tám muội của Bồ Tát. Trong một niệm, vào biển cõi chư Phật trong mười phương không thể nghĩ bàn, chẳng có mọi sự chướng ngại, có thể nói là nhậm vận tự tại, toại tâm mãn nguyện. Muốn đến đâu thì đến đó, chẳng bị hạn chế.
Ta thấy các thế giới
Tịnh uế đủ thứ khác
Cõi tịnh chẳng tham ưa
Cõi uế chẳng chán ghét.
Ta thấy hết thảy các thế giới, có đủ thứ sự khác biệt. Có thế giới tịnh, có thế giới uế, có thế giới tịnh uế xen tạp. Ta ở trong thế giới tịnh, cũng chẳng tham trước tịnh. Ta ở trong thế giới cấu uế, cũng chẳng chán ghét cấu uế.
Khắp thấy các thế giới
Như Lai ngồi đạo tràng
Đều ở trong một niệm
Đều phóng vô lượng quang.
Ta thấy khắp trong tất cả thế giới, bất cứ là thế giới ngửa, hoặc là thế giới úp, hoặc là thế giới tròn, hoặc là thế giới vuông, đều có chư Phật đang ngồi tại đạo tràng. Đều ở trong một niệm, phóng ra vô lượng đại quang minh, chiếu khắp ba ngàn đại thiên thế giới.
Một niệm vào khắp được
Bất khả thuyết chúng hội
Cũng biết hết tất cả
Sở đắc môn tam muội.
Ta có thể ở trong một niệm, vào khắp bất khả thuyết chúng hội. Cũng biết tất cả Bồ Tát tu Bồ Tát đạo, đắc được môn giải thoát tam muội.
Một niệm đều biết được
Các hạnh rộng lớn đó
Vô lượng địa phương tiện
Cùng với các biển nguyện.
Ta có thể trong khoảng một niệm, đều biết được tất cả Bồ Tát tu hạnh môn rộng lớn. Đắc được vô lượng địa pháp môn phương tiện thiện xảo, cùng với các biển đại nguyện phát ra, những cảnh giới đó ta đều biết rõ.
Ta quán thân Bồ Tát
Vô biên kiếp tu hành
Lượng mỗi lỗ chân lông
Tìm cầu không thể được.
Ta quán sát thân Bồ Tát, ở trong vô biên kiếp, dũng mãnh tinh tấn, siêng năng tu hành. Lượng mỗi lỗ chân lông của Bồ Tát, dù có tìm cầu cũng không thể được, không thể đến được bờ mé.
Cõi mỗi lỗ chân lông
Vô số bất khả thuyết
Địa thuỷ hoả phong luân
Thảy đều ở trong đó.
Cõi mỗi lỗ chân lông của Bồ Tát, vô số vô lượng bất khả thuyết. Địa luân, thuỷ luân, hoả luân, phong luân, đều ở trong một lỗ chân lông, đây là cảnh giới không thể nghĩ bàn.
Đủ thứ các kiến lập
Đủ thứ các hình trạng
Đủ thứ thể danh hiệu
Vô biên thứ trang nghiêm.
Có đủ thứ kiến lập, có đủ thứ hình trạng, có đủ thứ thể tướng, có đủ thứ danh hiệu, có vô biên đủ thứ sự trang nghiêm.
Ta thấy các biển cõi
Bất khả thuyết thế giới
Và thấy Phật trong đó
Nói pháp độ chúng sinh.
Ta thấy tất cả biển cõi chư Phật, có bất khả thuyết thế giới. Trong mỗi thế giới, đều có Phật đang ở trong đó, giáo hoá tất cả chúng sinh, điều phục tất cả chúng sinh, khiến cho họ phát tâm bồ đề, khiến cho tâm họ nhu hoà không cang cường.
Không rõ thân Bồ Tát
Và các nghiệp thân đó
Cũng không biết tâm trí
Các kiếp sở hành đạo.
Thân của Bồ Tát không biết có bao nhiêu. Thân nghiệp tạo ra, cũng không biết có bao nhiêu. Tâm trí của Bồ Tát cũng không biết bao nhiêu. Trong tất cả các kiếp, hành Bồ Tát đạo, cũng không biết được.
Bấy giờ, Thiện Tài đồng tử đảnh lễ cô gái Thích nữ Cù Ba, đi nhiễu quanh vô lượng vòng, rồi từ tạ mà đi.
Lúc bấy giờ, Thiện Tài đồng tử lắng nghe cô gái Thích nữ Cù Ba nói kệ rồi, bèn đảnh lễ, đi nhiễu vô lượng vòng, rồi từ tạ mà lui ra, đi tìm Phật mẫu Ma Gia phu nhân.
Hết tập 23
KỆ HỒI HƯỚNG CÔNG ĐỨC
Nguyện đem công đức nầy
Trang Nghiêm cõi Phật tịnh
Trên đền bốn ân nặng
Dưới cứu ba đường khổ
Nếu có ai thấy nghe
Liền phát tâm bồ đề
Khi bỏ báo thân nầy
Sinh về cõi Cực Lạc.