KINH HOA NGHIÊM
ĐẠI PHƯƠNG QUẢNG PHẬT

QUYỂN BẢY MƯƠI BA
 
PHẨM VÀO PHÁP GIỚI THỨ BA MƯƠI CHÍN PHẦN MƯỜI BỐN

38. DẠ THẦN ĐẠI NGUYỆN TINH TẤN LỰC CỨU HỘ NHẤT THIẾT CHÚNG SINH PHÓ THÁC THỨ TÁM BẤT ĐỘNG ĐỊA

Đây là Bất động địa thứ tám, là trí không phân biệt, thế vận liên tục. Tương ưng phiền não, vì không thể động, là Bất động địa. Vô công dụng đạo, thừa đại nguyện lực, vì khắp cứu hộ. Là đại nguyện tinh tấn lực cứu hộ tất cả chúng sinh.

Bấy giờ, Thiện Tài đồng tử đi đến chỗ vị Dạ Thần Đại Nguyện Tinh Tấn Lực Cứu Hộ Nhất Thiết Chúng Sinh, thấy vị Dạ Thần đó ở trong đại chúng, ngồi toà sư tử Hiện khắp tất cả cung điện ma ni vương tạng, lưới báu ma ni phổ hiện pháp giới quốc độ che phủ phía trên.

Lúc đó, Thiện Tài đồng tử từ biệt vị Dạ Thần Khai Phu Nhất Thiết Thụ Hoa, để đi đến chỗ vị Dạ Thần Đại Nguyện Tinh Tấn Lực Cứu Hộ Nhất Thiết Chúng Sinh, thấy vị Dạ Thần đó ở trong đại chúng, ngồi toà sư tử Hiện khắp tất cả cung điện ma ni vương tạng, lưới báu ma ni phổ hiện pháp giới quốc độ che phủ phía trên toà báu để nghiêm sức.

Vị Dạ Thần hiện thân hình bóng mặt trời, mặt trăng, tinh tú. Hiện thân tuỳ tâm chúng sinh khắp khiến cho được thấy. Hiện thân đồng với tất cả hình tướng chúng sinh. Hiện thân vô biên biển sắc tướng rộng lớn. Hiện thân khắp hiện tất cả oai nghi. Hiện thân thị hiện khắp trong mười phương. Hiện thân điều phục khắp tất cả chúng sinh. Hiện thân rộng vận thần thông mau chóng. Hiện thân lợi ích chúng sinh không dứt. Hiện thân thường du hành hư không để làm lợi ích.

Vị Dạ Thần thị hiện hai mươi bốn thứ thân, đều có sự hiển bày của mỗi thân. Đầu tiên hiện mười thứ thân, là hoá thân ứng cơ nhiếp hoá. Kế đến hiện sáu thứ thân, là ứng pháp thành hạnh thân.

Sau đó hiện tám thứ thân, là ly chướng khế lý thân.

1. Thị hiện thân hình bóng như mặt trời, mặt trăng, tinh tú.
2. Thị hiện thân tuỳ tâm chúng sinh, khắp khiến cho được thấy.
3. Thị hiện thân đồng với tất cả hình tướng chúng sinh.
4. Thị hiện thân vô biên biển sắc tướng rộng lớn.
5. Thị hiện thân khắp hiện tất cả oai nghi.
6. Thị hiện thân thị hiện khắp trong mười phương.
7. Thị hiện thân điều phục khắp tất cả chúng sinh.
8. Thị hiện thân rộng vận thần thông mau chóng.
9. Thị hiện thân lợi ích chúng sinh không dứt.
10. Thị hiện thân thường du hành hư không để làm lợi ích.

Hiện thân đảnh lễ tất cả chư Phật. Hiện thân tu tập tất cả căn lành. Hiện thân thọ trì Phật pháp không quên. Hiện thân thành tựu viên mãn đại nguyện Bồ Tát. Hiện thân quang minh sung mãn mười phương. Hiện thân đèn pháp khắp diệt đen tối thế gian.

1. Thị hiện thân đảnh lễ tất cả chư Phật.
2. Thị hiện thân tu tập tất cả căn lành.
3. Thị hiện thân thọ trì Phật pháp không quên.
4. Thị hiện thân thành tựu viên mãn đại nguyện Bồ Tát.
5. Thị hiện thân quang minh sung mãn mười phương.
6. Thị hiện thân ngọn đèn pháp khắp diệt đen tối thế gian.

Hiện thân tịnh trí rõ pháp như huyễn. Hiện thân pháp tánh xa lìa bụi trần đen tối. Hiện thân phổ trí chiếu pháp thấu rõ. Hiện thân rốt ráo không hoạn nạn, không nóng. Hiện thân kiên cố không thể trở ngại phá hoại. Hiện thân Phật lực không chỗ trụ. Hiện thân không phân biệt lìa nhiễm. Hiện thân pháp tánh vốn thanh tịnh.

1. Thị hiện thân trí huệ thanh tịnh rõ pháp như huyễn.
2. Thị hiện thân pháp tánh xa lìa bụi trần đen tối.
3. Thị hiện thân phổ trí chiếu pháp thấu rõ.
4. Thị hiện thân rốt ráo không hoạn nạn không nóng bứt.
5. Thị hiện thân kiên cố không thể trở ngại phá hoại.
6. Thị hiện thân Phật lực không chỗ trụ.
7. Thị hiện thân không phân biệt lìa nhiễm.
8. Thị hiện thân pháp tánh vốn thanh tịnh.

Bấy giờ, Thiện Tài đồng tử thấy thân khác biệt như vậy, nhiều như số hạt bụi cõi Phật, một lòng đảnh lễ, làm lễ sát đất, rất lâu mới đứng dậy, chắp tay chiêm ngưỡng.

Lúc đó, Thiện Tài đồng tử thấy thân khác biệt như vậy, nhiều như số hạt bụi cõi Phật, một lòng đảnh lễ rất kiền thành, năm thể sát đất rất cung kính, trải qua thời gian rất lâu mới đứng dậy, cung kính chắp tay chiêm ngưỡng dung nhan vị Chủ Dạ Thần mắt chẳng tạm rời.

Thiện Tài đồng tử đối với thiện tri thức, sinh mười thứ tâm. Những gì là mười thứ tâm? Đó là: Đối với thiện tri thức, sinh tâm đồng như mình, vì khiến cho tinh cần biện lý pháp trợ đạo nhất thiết trí. 

Đối với thiện tri thức, sinh tâm thanh tịnh tự nghiệp quả, vì gần gũi cúng dường sinh ra căn lành.

Đối với thiện tri thức, sinh tâm trang nghiêm Bồ Tát hạnh, vì khiến cho ta mau được trang nghiêm tất cả Bồ Tát hạnh.

Đối với thiện tri thức, sinh tâm thành tựu tất cả Phật pháp, vì dạy dỗ ta làm cho ta tu đạo.

Đối với thiện tri thức, sinh tâm hay sinh, vì hay sinh cho ta pháp vô thượng. 

Đối với thiện tri thức, sinh tâm xuất ly, vì khiến cho ta tu hành hết thảy hạnh nguyện của Bồ Tát Phổ Hiền, mà được xuất ly. 

Đối với thiện tri thức, sinh tâm đầy đủ tất cả biển phước trí, vì khiến cho ta tích tập các pháp trắng.

Đối với thiện tri thức, sinh tâm tăng trưởng, vì khiến cho ta tăng trưởng nhất thiết trí.

Đối với thiện tri thức, sinh tâm đầy đủ tất cả căn lành, vì khiến cho ta chí nguyện được viên mãn.

Đối với thiện tri thức, sinh tâm thành tựu làm được lợi ích lớn, vì khiến cho ta tự tại an trụ tất cả pháp Bồ Tát, thành tựu đạo nhất thiết trí, đắc được tất cả Phật pháp. Đó là mười.

Thiện Tài đồng tử đối với thiện tri thức, sinh ra mười thứ tâm cung kính: Những gì là mười thứ tâm? Đó là:

1. Đối với thiện tri thức, sinh tâm đồng như chính mình, chẳng có phân biệt đó đây, vì thiện tri thức khiến cho ta không giải đãi, tinh cần biện lý pháp trợ đạo nhất thiết trí.
2. Đối với thiện tri thức sinh tâm thanh tịnh tự nghiệp quả, vì thấy được thiện tri thức, thì giống như thiện tri thức tu nghiệp thanh tịnh, đắc được quả thanh tịnh, ta gần gũi thiện tri thức, cúng dường thiện tri thức, khiến cho ta sinh ra tất cả căn lành.
3. Đối với thiện tri thức sinh tâm trang nghiêm Bồ Tát hạnh, vì thiện tri thức tu pháp môn lục độ vạn hạnh, khiến cho ta mau được trang nghiêm tất cả Bồ Tát hạnh.
4. Đối với thiện tri thức, sinh tâm thành tựu tất cả Phật pháp, vì thiện tri thức dạy dỗ ta, giáo hoá ta, khiến cho ta tu hành đạo Vô Thượng Giác, đắc được giải thoát.
5. Đối với thiện tri thức, sinh tâm hay sinh, vì khiến cho ta sinh tâm pháp bồ đề vô thượng.
6. Đối với thiện tri thức, sinh tâm xuất ly, vì khiến cho ta tu hành hết thảy hạnh nguyện của Bồ Tát Phổ Hiền mà được thoát khỏi ba cõi.
7. Đối với thiện tri thức, sinh tâm đầy đủ tất cả biển phước trí, vì thiện tri thức khiến cho ta tích tập các pháp trắng tịnh (pháp thanh tịnh).
8. Đối với thiện tri thức, sinh tâm tăng trưởng, vì hay khiến cho ta tăng trưởng nhất thiết trí.
9. Đối với thiện tri thức, sinh tâm đầy đủ tất cả căn lành, vì hay khiến cho ta chí nguyện mau chóng được viên mãn.
10. Đối với thiện tri thức, sinh tâm thành tựu làm được lợi ích lớn, vì hay khiến cho ta tự tại an trụ tất cả Bồ Tát pháp, đắc được vô sinh pháp nhẫn, thành tựu đạo nhất thiết trí, đắc được tất cả

Phật pháp. Đó là mười thứ tâm mà Thiện Tài đồng tử sinh ra.

Thiện Tài đồng tử phát tâm như vậy rồi, đắc được đồng hạnh vị Dạ Thần đó với các Bồ Tát, nhiều như số hạt bụi cõi Phật.

Thiện Tài đồng tử phát tâm như vậy rồi, đắc được đồng hạnh vị Dạ Thần đó với các Bồ Tát, nhiều như số hạt bụi cõi Phật. Lược nói có tám mươi bốn thứ đồng hạnh. Đồng có bốn ý nghĩa:

1. Người, pháp, không hai, đồng với tất cả pháp giới.
2. Nhân, quả, không hai, đồng với tất cả chư Phật.
3. Ta, người, không hai, đồng với tất cả Bồ Tát.
4. Nhiễm, tịnh, không hai, đồng với tất cả chúng sinh.

Đó là: Đồng niệm, vì tâm thường nghĩ nhớ mười phương ba đời tất cả chư Phật. Đồng huệ, vì phân biệt quyết rõ tất cả biển pháp môn khác nhau. Đồng hướng về, vì hay chuyển bánh xe pháp vi diệu của tất cả chư Phật Như Lai. Đồng giác, vì dùng trí huệ đồng hư không vào khắp ba đời. Đồng căn, vì thành tựu Bồ Tát thanh tịnh quang minh trí huệ căn. Đồng tâm, vì khéo tu tập vô ngại công đức trang nghiêm tất cả Bồ Tát đạo. Đồng cảnh, vì chiếu khắp cảnh sở hành của chư Phật. Đồng chứng, vì đắc được nhất thiết trí, chiếu biển thật tướng thanh tịnh quang minh. Đồng nghĩa, vì hay dùng trí huệ thấu rõ tánh chân thật của tất cả pháp. Đồng dũng mãnh, vì phá hoại được tất cả núi chướng ngại. Đồng sắc thân, vì tuỳ tâm chúng sinh thị hiện thân. Đồng lực, vì cầu nhất thiết trí chẳng thối chuyển. Đồng vô uý, vì tâm thanh tịnh như hư không. Đồng tinh tấn, vì trong vô lượng kiếp hành Bồ Tát hạnh, không giải đãi mệt mỏi. Đồng biện tài, vì đắc được pháp vô ngại trí quang minh. Đồng vô đẳng, vì thân tướng thanh tịnh hơn thế gian. Đồng ái ngữ, vì khiến cho tất cả chúng sinh đều hoan hỉ. Đồng diệu âm, vì khắp diễn tất cả biển pháp môn. Đồng mãn âm, vì tất cả chúng sinh tuỳ loài đều hiểu được. Đồng tịnh đức, vì tu tập công đức thanh tịnh của Như Lai.

Đó là:

1. Đồng niệm, vì trong tâm thường nghĩ nhớ mười phương ba đời tất cả chư Phật.
2. Đồng huệ, vì phân biệt quyết rõ tất cả biển pháp môn khác nhau.
3. Đồng hướng về, vì hay chuyển bánh xe pháp vi diệu của tất cả chư Phật Như Lai.
4. Đồng giác, vì dùng trí huệ đồng hư không vào khắp tất cả ba đời, khiến cho ba đời bình đẳng.
5. Đồng căn, vì thành tựu Bồ Tát thanh tịnh quang minh trí huệ căn.
6. Đồng tâm, vì khéo tu tập vô ngại công đức trang nghiêm, hay trang nghiêm tịnh đạo của tất cả Bồ Tát tu hành.
7. Đồng cảnh, vì chiếu khắp cảnh sở hành của tất cả chư Phật.
8. Đồng chứng, vì chứng được nhất thiết trí, chiếu khắp biển thật tướng thanh tịnh quang minh.
9. Đồng nghĩa, vì hay dùng trí huệ thấu rõ tánh chân thật của tất cả pháp.
10. Đồng dũng mãnh, vì phá hoại được tất cả núi lớn chướng ngại.
11. Đồng sắc thân, vì tuỳ thuận tâm ý chúng sinh thị hiện tất cả sắc thân trang nghiêm.
12. Đồng lực, vì cầu nhất thiết trí chẳng thối chuyển tâm bồ đề.
13. Đồng vô uý, vì tâm thanh tịnh như hư không.
14. Đồng tinh tấn, vì trong vô lượng kiếp hành Bồ Tát hạnh không khi nào giải đãi mệt mỏi.
15. Đồng biện tài, vì đắc được pháp vô ngại trí, quang minh chiếu khắp tất cả chúng sinh.
16. Đồng vô đẳng, vì thân tướng thanh tịnh hơn trời người thế gian.
17. Đồng ái ngữ, vì khiến cho tất cả chúng sinh đều sinh tâm hoan hỉ, xa lìa phiền não.
18. Đồng diệu âm, vì khắp diễn tất cả biển pháp môn.
19. Đồng mãn âm, vì pháp âm viên mãn nầy, tất cả chúng sinh tuỳ loài đều hiểu được.
20. Đồng tịnh đức, vì tu tập công đức thanh tịnh của Như Lai.

Đồng trí địa, vì tất cả chư Phật sở thọ pháp luân. Đồng phạm hạnh, vì an trụ cảnh giới của tất cả chư Phật. Đồng đại từ, vì niệm niệm che khắp tất cả cõi nước biển chúng sinh. Đồng đại bi, vì khắp mưa pháp vũ thấm nhuần tất cả chúng sinh. Đồng thân nghiệp, vì dùng hạnh phương tiện giáo hoá tất cả chúng sinh. Đồng lời nghiệp, vì dùng tuỳ loại âm diễn nói tất cả các pháp môn. Đồng ý nghiệp, vì khắp nhiếp chúng sinh để trong cảnh giới nhất thiết trí. Đồng trang nghiêm, vì nghiêm tịnh tất cả cõi nước chư Phật. Đồng gần gũi, vì có Phật ra đời đều gần gũi. Đồng thỉnh mời, vì thỉnh mời tất cả chư Phật chuyển bánh xe pháp. Đồng cúng dường, vì thường thích cúng dường tất cả chư Phật. Đồng giáo hoá, vì điều phục tất cả các chúng sinh. Đồng quang minh, vì chiếu rõ tất cả các pháp môn. Đồng tam muội, vì khắp biết tất cả tâm chúng sinh. Đồng khắp cùng, vì dùng sức tự tại đầy khắp tất cả biển cõi nước chư Phật tu các hạnh. Đồng trụ xứ, vì trụ đại thần thông của các Bồ Tát. Đồng quyến thuộc, vì cùng ở chung với tất cả Bồ Tát. Đồng nhập xứ, vì khắp vào chỗ vi tế của thế giới. Đồng tâm lự, vì biết khắp tất cả cõi nước chư Phật. Đồng đi đến, vì vào khắp biển cõi của tất cả chư Phật.

21. Đồng trí địa, vì tất cả chư Phật sở thọ pháp luân, hay y pháp thọ trì.
22. Đồng phạm hạnh, vì an trụ cảnh giới thanh tịnh của tất cả chư Phật.
23. Đồng đại từ, vì niệm niệm che khắp tất cả cõi nước biển chúng sinh.
24. Đồng đại bi, vì khắp mưa xuống tất cả pháp vũ, thấm nhuần tất cả chúng sinh.
25. Đồng thân nghiệp, vì dùng hạnh phương tiện khéo léo, giáo hoá tất cả chúng sinh.
26. Đồng lời nghiệp, vì dùng loại âm thanh tuỳ thuận chúng sinh, diễn nói tất cả các pháp môn, điều phục tất cả chúng sinh.
27. Đồng ý nghiệp, vì khắp nhiếp trì tất cả chúng sinh để trong cảnh giới nhất thiết trí.
28. Đồng trang nghiêm, vì hay trang nghiêm thanh tịnh tất cả cõi nước chư Phật.
29. Đồng gần gũi, vì phàm là có Phật xuất hiện ra đời, đều đến gần gũi Phật, cúng dường Phật.
30. Đồng thỉnh mời, vì thỉnh mời tất cả chư Phật mười phương ba đời, thường chuyển bánh xe pháp.
31. Đồng cúng dường, vì thường thích cúng dường tất cả chư Phật.
32. Đồng giáo hoá, vì giáo hoá điều phục tất cả các chúng sinh.
33. Đồng quang minh, vì chiếu rõ tất cả các pháp môn.
34. Đồng tam muội, vì khắp biết tất cả tâm niệm chúng sinh.
35. Đồng khắp cùng, vì dùng sức tự tại, đầy khắp tất cả biển cõi nước chư Phật, tu hành các hạnh.
36. Đồng trụ xứ, vì có thể trụ trong cảnh đại thần thông của tất cả Bồ Tát.
37. Đồng quyến thuộc, vì cùng ở chung với tất cả Bồ Tát.
38. Đồng nhập xứ, vì khắp vào tất cả chỗ vi tế của thế giới.
39. Đồng tâm lự, vì biết khắp tất cả cõi nước của chư Phật.
40. Đồng đi đến, vì vào khắp biển cõi của tất cả chư Phật.

Đồng phương tiện, vì đều hiện tất cả cõi nước chư Phật. Đồng siêu thắng, vì đối với cõi nước chư Phật đều không thể sánh bằng. Đồng bất thối, vì vào khắp mười phương không chướng ngại. Đồng phá tối, vì đắc được trí đại quang minh thành bồ đề của tất cả chư Phật. Đồng vô sinh nhẫn, vì vào chúng hải hội của tất cả chư Phật. Đồng khắp tất cả lưới cõi chư Phật, vì cung kính cúng dường các Như Lai bất khả thuyết cõi. Đồng trí chứng, vì biết rõ biển pháp môn. Đồng tu hành, vì thuận hành tất cả các pháp môn. Đồng mong cầu, vì đối với pháp thanh tịnh rất ưa muốn. Đồng thanh tịnh, vì tích tập công đức Phật để trang nghiêm thân miệng ý. Đồng diệu ý, vì đối với tất cả pháp trí đều thấu rõ. Đồng tinh tấn, vì khắp tích tập tất cả các căn lành. Đồng tịnh hạnh, vì thành tựu viên mãn tất cả Bồ Tát hạnh. Đồng vô ngại, vì thấu rõ tất cả pháp đều vô tướng. Đồng thiện xảo, vì trong các pháp trí tự tại. Đồng tuỳ thích, vì tuỳ tâm chúng sinh hiện cảnh giới. Đồng phương tiện, vì khéo học tập tất cả điều đáng tu tập. Đồng hộ niệm, vì được tất cả chư Phật hộ niệm. Đồng nhập địa, vì vào được tất cả Bồ Tát địa. Đồng sở trụ, vì an trụ tất cả Bồ Tát vị.

41. Đồng phương tiện, vì đều hiện tất cả cõi nước chư Phật.
42. Đồng siêu thắng, vì đối với cõi nước chư Phật đều không thể sánh bằng.
43. Đồng bất thối, vì vào khắp mười phương thế giới không chướng ngại, vĩnh viễn không thối bồ đề tâm.
44. Đồng phá tối, vì đắc được trí đại quang minh thành bồ đề của tất cả chư Phật.
45. Đồng vô sinh nhẫn, vì vào trong đạo tràng chúng hải hội của tất cả chư Phật.
46. Đồng khắp tất cả lưới cõi chư Phật, vì cung kính cúng dường các Như Lai nhiều bất khả thuyết cõi Phật.
47. Đồng trí chứng, vì biết rõ hết thảy biển pháp môn.
48. Đồng tu hành, vì thuận hành tất cả nghĩa lý pháp môn, y pháp tu hành.
49. Đồng mong cầu, vì đối với pháp thanh tịnh rất ưa muốn, y giáo phụng hành.
50. Đồng thanh tịnh, vì tích tập công đức của Phật để trang nghiêm thân miệng ý ba nghiệp của chính mình.
51. Đồng diệu ý, vì đối với tất cả pháp trí đều thấu rõ, chẳng chướng ngại.
52. Đồng tinh tấn, vì khắp tích tập tất cả các căn lành, hồi hướng cho pháp giới chúng sinh.
53. Đồng tịnh hạnh, vì thành tựu viên mãn tất cả Bồ Tát hạnh.
54. Đồng vô ngại, vì thấu rõ tất cả pháp đều vô tướng.
55. Đồng thiện xảo, vì trong tất cả các pháp, trí huệ nhậm vận tự tại, chẳng có mọi chướng ngại.
56. Đồng tuỳ thích, vì tuỳ tâm tất cả chúng sinh, mà hiện tất cả cảnh giới.
57. Đồng phương tiện, vì khéo học tập tất cả pháp môn đáng tu tập.
58. Đồng hộ niệm, vì được tất cả chư Phật thường hộ niệm căn lành.
59. Đồng nhập địa, vì vào được tất cả Bồ Tát địa.
60. Đồng sở trụ, vì an trụ tất cả Bồ Tát vị.

Đồng thọ ký, vì được tất cả chư Phật thọ ký. Đồng tam muội, vì trong một sát na vào khắp tất cả môn tam muội. Đồng kiến lập, vì thị hiện đủ thứ các Phật sự. Đồng chánh niệm, vì chánh niệm tất cả môn cảnh giới. Đồng tu hành, vì hết kiếp thuở vị lai tu hành tất cả Bồ Tát hạnh. Đồng tịnh tín, vì rất vui mừng đối với vô lượng trí huệ của các Như Lai. Đồng xả lìa, vì diệt trừ tất cả các ám chướng. Đồng bất thối trí, vì đồng trí huệ với các Như Lai. Đồng thọ sinh, vì ứng hiện thành thục các chúng sinh. Đồng sở trụ, vì trụ nhất thiết trí môn phương tiện. Đồng cảnh giới, vì nơi cảnh pháp giới được tự tại. Đồng không nương tựa, vì dứt hẳn tất cả chỗ tâm nương tựa. Đồng thuyết pháp, vì đã vào các pháp trí huệ bình đẳng. Đồng siêng tu, vì thường được chư Phật hộ niệm. Đồng thần thông, vì khai ngộ chúng sinh khiến cho họ tu hành tất cả Bồ Tát hạnh. Đồng thần lực, vì hay vào biển mười phương thế giới. Đồng Đà La Ni, vì chiếu khắp tất cả biển tổng trì. Đồng bí mật pháp, vì biết rõ diệu pháp môn trong tất cả Tu Đa La. Đồng pháp thâm sâu, vì hiểu tất cả pháp như hư không. Đồng quang minh, vì khắp chiếu tất cả các thế giới.

61. Đồng thọ ký, vì được tất cả chư Phật đến thọ ký.
62. Đồng tam muội, vì trong một sát na vào khắp tất cả môn tam muội.
63. Đồng kiến lập, vì thị hiện đủ thứ các Phật sự.
64. Đồng chánh niệm, vì chánh niệm tất cả môn cảnh giới.
65. Đồng tu hành, vì hết kiếp thuở vị lai, tu hành tất cả Bồ Tát hạnh.
66. Đồng tịnh tín, vì rất vui mừng đối với vô lượng trí huệ của các Như Lai.
67. Đồng xả lìa, vì diệt trừ hết tất cả nhân duyên các ám chướng.
68. Đồng bất thối trí, vì trí bất thối A nậu đa la tam miệu tam bồ đề, trí huệ bình đẳng với các Như Lai.
69. Đồng thọ sinh, vì đáng dùng thân gì độ được họ, liền ứng hiện thân đó để vì họ thuyết pháp.
70. Đồng sở trụ, vì trụ nhất thiết trí pháp môn phương tiện.
71. Đồng cảnh giới, vì đối với cảnh giới của pháp giới, đều được nhậm vận tự tại, chẳng có tơ hào miễn cưỡng.
72. Đồng không nương tựa, vì dứt hẳn tất cả chỗ tâm nương tựa.
73. Đồng thuyết pháp, vì đã vào các pháp môn trí huệ bình đẳng.
74. Đồng siêng tu, vì thường được chư Phật hộ niệm và gia trì.
75. Đồng thần thông, vì khai ngộ tất cả chúng sinh khiến cho họ tu hành tất cả Bồ Tát hạnh.
76. Đồng thần lực, vì hay vào biển mười phương thế giới, không có chướng ngại.
77. Đồng Đà La Ni, vì chiếu khắp tất cả biển tổng trì.
78. Đồng bí mật pháp, vì biết rõ nghĩa lý áo diệu pháp môn trong tất cả Tu Đa La.
79. Đồng pháp thâm sâu, vì thấu hiểu tất cả pháp như hư không, không chẳng chỗ có.
80. Đồng quang minh, vì khắp chiếu tất cả các thế giới.

Đồng vui mừng, vì tuỳ tâm chúng sinh mà vì họ khai thị, khiến cho họ hoan hỉ. Đồng chấn động, vì các chúng sinh hiện sức thần thông, chấn động khắp mười phương tất cả cõi. Đồng bất hư, vì thấy, nghe, nghĩ nhớ, thảy đều khiến cho tâm được điều phục. Đồng xuất ly, vì đầy đủ tất cả các biển đại nguyện, thành tựu mười lực trí của Như Lai.

81. Đồng vui mừng, vì tuỳ tâm chúng sinh mà vì họ khai thị, khiến cho họ hoan hỉ.
82. Đồng chấn động, vì tất cả chúng sinh thị hiện sức thần thông, chấn động khắp mười phương tất cả cõi Phật.
83. Đồng bất hư, vì phàm là thấy nghe, hoặc nghĩ nhớ, thảy đều khiến cho tâm được điều phục, thanh tịnh không vọng niệm.
84. Đồng xuất ly, thoát khỏi ba cõi, vì đầy đủ tất cả các biển đại nguyện, thành tựu mười lực trí huệ của Như Lai.

Bấy giờ, Thiện Tài đồng tử quán sát vị Dạ Thần Đại Nguyện Tinh Tấn Lực Cứu Hộ Nhất Thiết Chúng Sinh, bèn sinh khởi mười thứ tâm thanh tịnh, đắc được đồng Bồ Tát hạnh như vậy, nhiều như số hạt bụi cõi Phật. Đắc được đồng hạnh như vậy rồi, tâm càng thanh tịnh hơn, y bày vai bên phải, đảnh lễ vị Dạ Thần đó, một lòng chắp tay, mà nói kệ rằng:

Lúc đó, Thiện Tài đồng tử quán sát vị Dạ Thần Đại Nguyện Tinh Tấn Lực Cứu Hộ Nhất Thiết Chúng Sinh, bèn sinh khởi mười thứ tâm thanh tịnh, đắc được đồng Bồ Tát hạnh như vậy nhiều như số hạt bụi cõi Phật. Đắc được đồng hạnh như vậy rồi, tâm càng thanh tịnh hơn, y bày vai bên phải, đảnh lễ vị Dạ Thần đó, một lòng chắp tay, mà dùng kệ để khen ngợi vị Dạ Thần rằng:

Con phát tâm kiên cố
Chí cầu Vô Thượng Giác
Nay nơi thiện tri thức
Mà khởi tâm của mình.

Thiện Tài đồng tử nói: Con phát đạo tâm kiên cố, chí nguyện cầu đạo Vô Thượng Giác. Nay con đối với thiện tri thức, mà sinh khởi tâm đồng thiện tri thức như đồng tâm của chính mình, chẳng có sự phân biệt đó đây.

Nhờ gặp thiện tri thức
Tập vô tận pháp trắng
Diệt trừ các tội dơ
Thành tựu quả bồ đề.

Nhờ con gặp được thiện tri thức, tu tập vô tận pháp trắng tịnh. Diệt trừ được tất cả pháp nhiễm ô các tội dơ, thành tựu quả bồ đề.

Con thấy thiện tri thức
Công đức trang nghiêm tâm
Hết kiếp cõi vị lai
Siêng tu sở hành đạo.

Con thấy thiện tri thức rồi, bèn sinh công đức trang nghiêm tâm. Con nguyện hết kiếp cõi vị lai, siêng tu đạo pháp mà thiện tri thức tu hành, vĩnh viễn không thối chuyển.

Con nhớ thiện tri thức
Nhiếp thọ lợi ích con
Vì con đều thị hiện
Chánh giáo pháp chân thật.

Con nghĩ nhớ thiện tri thức, nhiếp thọ con, lợi ích cho con, đối với con có lợi ích rất lớn. Vì con mà thị hiện tất cả pháp môn phương tiện, dạy con chánh giáo pháp môn chân thật, khiến cho con minh bạch nghĩa lý chân thật.

Đóng chặt các đường ác
Hiển bày đường trời người
Cũng bày các Như Lai
Thành đạo nhất thiết trí.

Đóng chặt tất cả các đường ác, hiển bày đường cõi trời và cõi người. Cũng bày đạo thành tựu nhất thiết trí huệ của tất cả các Như Lai.

Con nhớ thiện tri thức
Là Phật công đức tạng
Niệm niệm hay sinh ra
Biển công đức hư không.

Con nhớ thiện tri thức, là công đức tạng sở thành tựu của Phật. Trong niệm niệm hay sinh ra biển công đức nhiều như hư không.

Cho con Ba La Mật
Thêm con phước khó nghĩ
Tăng con tịnh công đức
Khiến con đội mão Phật.

Thiện tri thức cho con pháp Ba La Mật, tăng thêm cho con phước báo không thể nghĩ bàn. Tăng trưởng công đức thanh tịnh của con, khiến cho con đội mão của Phật.

Con nhớ thiện tri thức
Viên mãn Phật trí đạo
Thệ nguyện thường y chỉ
Viên mãn pháp trắng tịnh.

Con nhớ thiện tri thức, hay viên mãn đạo trí huệ của Phật. Con thệ nguyện thường y chỉ thiện tri thức, tu hành viên mãn pháp trắng tịnh.

Con nhờ nhân duyên nầy
Công đức đều đầy đủ
Khắp vì các chúng sinh
Nói đạo nhất thiết trí.

Con nhờ nhân duyên nầy, nên công đức đều đầy đủ. Khắp vì tất cả chúng sinh, diễn nói đạo nhất thiết trí huệ.

Bậc Thánh làm Thầy con
Cho con pháp vô thượng
Vô lượng vô số kiếp
Không thể báo ân nầy.

Bậc Thánh Ngài làm sư phụ của con, ban cho con Phật pháp vô thượng. Dù trong vô lượng vô số kiếp, con cũng không thể báo đáp được đại ân đại đức của thiện tri thức.

Bấy giờ, Thiện Tài nói bài kệ nầy rồi, bạch rằng: Đức Thánh! Xin Ngài vì con nói, môn giải thoát nầy tên là gì? Ngài phát tâm đã được bao lâu rồi? Còn bao lâu nữa Ngài sẽ đắc được A nậu đa la tam miệu tam bồ đề?

Lúc đó, Thiện Tài nói bài kệ nầy rồi, bèn bạch Chủ Dạ Thần rằng: Đức Thánh! Xin Ngài từ bi vì con nói, môn giải thoát nầy tên là gì? Ngài phát tâm đã được bao lâu rồi? Thời gian còn bao lâu nữa Ngài sẽ đắc được A nậu đa la tam miệu tam bồ đề?

Vị Dạ Thần nói: Thiện nam tử! Môn giải thoát nầy, tên là Giáo hoá chúng sinh khiến sinh căn lành. Ta nhờ thành tựu môn giải thoát nầy, mà ngộ tất cả pháp tự tánh bình đẳng, nhập vào tánh chân thật của các pháp, chứng được pháp không chỗ nương. Xả lìa thế gian, đều biết các pháp sắc tướng khác nhau, cũng thấu đạt được tánh xanh vàng đỏ trắng đều không thật, không có sự khác biệt.

Vị Dạ Thần nói với Thiện Tài đồng tử rằng: Thiện nam tử! Môn giải thoát nầy, tên là Giáo hoá chúng sinh khiến sinh căn lành. Ta nhờ thành tựu môn giải thoát nầy, mà ngộ tự tánh của tất cả các pháp đều bình đẳng, nhập vào tánh chân thật của các pháp, chứng được pháp không chỗ nương. Xả lìa tất cả pháp thế gian, đều biết sắc tướng của tất cả các pháp, có đủ thứ sự khác nhau, cũng thấu đạt được tự tánh xanh vàng đỏ trắng đều không thật, không có sự khác biệt.

Mà luôn thị hiện vô lượng sắc thân. Đó là: Sắc thân đủ thứ. Sắc thân chẳng phải một. Sắc thân vô biên. Sắc thân thanh tịnh. Sắc thân tất cả trang nghiêm. Sắc thân khắp thấy. Sắc thân đồng tất cả chúng sinh. Sắc thân khắp hiện trước tất cả chúng sinh. Sắc thân quang minh chiếu khắp. Sắc thân thấy không nhàm đủ. Sắc thân tướng tốt thanh tịnh. Sắc thân quang minh lìa các ác. Sắc thân thị hiện đại dũng mãnh. Sắc thân rất khó được. Sắc thân tất cả thế gian không thể che khuất được. Sắc thân thế gian cùng khen ngợi vô tận. Sắc thân niệm niệm thường quán sát. Sắc thân thị hiện đủ thứ mây. Sắc thân đủ thứ hình hiển sắc. Sắc thân hiện vô lượng tự tại lực.

Mà luôn luôn thị hiện vô lượng đủ thứ sắc thân. Lược nói ra có chín mươi tám thứ sắc thân, đó là:
1. Sắc thân đủ thứ.
2. Sắc thân chẳng phải một.
3. Sắc thân vô biên.
4. Sắc thân thanh tịnh.
5. Sắc thân tất cả trang nghiêm.
6. Sắc thân khắp thấy.
7. Sắc thân đồng tất cả chúng sinh.
8. Sắc thân khắp hiện trước tất cả chúng sinh.
9. Sắc thân quang minh chiếu khắp.
10. Sắc thân thấy không nhàm đủ.
11. Sắc thân tướng tốt thanh tịnh.
12. Sắc thân quang minh lìa các ác.
13. Sắc thân thị hiện đại dũng mãnh.
14. Sắc thân rất khó được.
15. Sắc thân tất cả thế gian không thể che khuất được.
16. Sắc thân thế gian cùng khen ngợi vô tận.
17. Sắc thân niệm niệm thường quán sát.
18. Sắc thân thị hiện đủ thứ mây.
19. Sắc thân đủ thứ hình hiển sắc.
20. Sắc thân hiện vô lượng tự tại lực.

Sắc thân diệu quang minh. Sắc thân tất cả tịnh diệu trang nghiêm. Sắc thân tuỳ thuận thành thục tất cả chúng sinh. Sắc thân tuỳ tâm họ ưa thích hiện ra trước để điều phục. Sắc thân phổ quang minh không chướng ngại. Sắc thân thanh tịnh không uế trược. Sắc thân đầy đủ trang nghiêm không thể hoại. Sắc thân pháp phương tiện quang minh không nghĩ bàn. Sắc thân tất cả không chói khuất được. Sắc thân chói khuất được tất cả. Sắc thân không tối phá được tất cả tối. Sắc thân tập tất cả pháp trắng tịnh. Sắc thân biển công đức đại thế lực. Sắc thân do nhờ thuở quá khứ cung kính mà sinh ra. Sắc thân tâm thanh tịnh như hư không sinh ra. Sắc thân tối thắng rộng lớn. Sắc thân vô tận không dứt. Sắc thân biển quang minh. Sắc thân bình đẳng nơi tất cả thế gian không chỗ nương. Sắc thân khắp mười phương vô ngại.

21. Sắc thân diệu quang minh.
22. Sắc thân tất cả thanh tịnh diệu trang nghiêm.
23. Sắc thân tuỳ thuận thành thục tất cả chúng sinh.
24. Sắc thân tuỳ tâm họ ưa thích hiện ra trước để điều phục.
25. Sắc thân phổ quang minh không chướng ngại.
26. Sắc thân thanh tịnh không uế trược.
27. Sắc thân đầy đủ trang nghiêm không thể hoại.
28. Sắc thân pháp phương tiện quang minh không nghĩ bàn.
29. Sắc thân tất cả không chói khuất được.
30. Sắc thân chói khuất được tất cả.
31. Sắc thân không tối phá được tất cả tối.
32. Sắc thân tập tất cả pháp trắng tịnh.
33. Sắc thân biển công đức đại thế lực.
34. Sắc thân do nhờ thuở quá khứ cung kính mà sinh ra.
35. Sắc thân tâm thanh tịnh như hư không sinh ra.
36. Sắc thân tối thắng rộng lớn.
37. Sắc thân vô tận không dứt.
38. Sắc thân biển quang minh.
39. Sắc thân bình đẳng nơi tất cả thế gian không chỗ nương.
40. Sắc thân khắp mười phương vô ngại.

Sắc thân niệm niệm hiện đủ thứ biển sắc tướng. Sắc thân tăng trưởng tâm hoan hỉ tất cả chúng sinh. Sắc thân nhiếp lấy biển tất cả chúng sinh. Sắc thân trong mỗi lỗ chân lông nói biển công đức tất cả chư Phật. Sắc thân tịnh biển dục giải tất cả chúng sinh. Sắc thân quyết rõ tất cả pháp nghĩa. Sắc thân chiếu sáng khắp không chướng ngại. Sắc thân tịnh quang minh đồng hư không. Sắc thân phóng tịnh quang minh rộng lớn. Sắc thân chiếu hiện pháp vô cấu. Sắc thân không gì sánh bằng. Sắc thân trang nghiêm khác biệt. Sắc thân chiếu khắp mười phương. Sắc thân tuỳ thời thị hiện ứng chúng sinh. Sắc thân tịch tĩnh. Sắc thân diệt tất cả phiền não. Sắc thân ruộng phước tất cả chúng sinh. Sắc thân tất cả chúng sinh thấy không luống qua. Sắc thân đại trí huệ sức dũng mãnh. Sắc thân khắp cùng không chướng ngại.

41. Sắc thân niệm niệm hiện đủ thứ biển sắc tướng.
42. Sắc thân tăng trưởng tâm hoan hỉ tất cả chúng sinh.
43. Sắc thân nhiếp lấy biển tất cả chúng sinh.
44. Sắc thân trong mỗi lỗ chân lông nói biển công đức tất cả chư Phật.
45. Sắc thân tịnh biển dục giải tất cả chúng sinh.
46. Sắc thân quyết rõ tất cả pháp nghĩa.
47. Sắc thân chiếu sáng khắp không chướng ngại.
48. Sắc thân tịnh quang minh đồng hư không.
49. Sắc thân phóng tịnh quang minh rộng lớn.
50. Sắc thân chiếu hiện pháp vô cấu.
51. Sắc thân không gì sánh bằng.
52. Sắc thân trang nghiêm khác biệt.
53. Sắc thân chiếu khắp mười phương.
54. Sắc thân tuỳ thời thị hiện ứng chúng sinh.
55. Sắc thân tịch tĩnh.
56. Sắc thân diệt tất cả phiền não.
57. Sắc thân ruộng phước tất cả chúng sinh.
58. Sắc thân tất cả chúng sinh thấy không luống qua.
59. Sắc thân đại trí huệ sức dũng mãnh.
60. Sắc thân khắp cùng không chướng ngại.

Sắc thân thân mây đẹp khắp hiện thế gian nhờ lợi ích. Sắc thân đầy đủ biển đại từ. Sắc thân đại phước đức bảo sơn vương. Sắc thân phóng quang minh chiếu khắp tất cả cõi thế gian. Sắc thân đại trí huệ thanh tịnh. Sắc thân sinh chúng sinh tâm chánh niệm. Sắc thân tất cả bảo quang minh. Sắc thân phổ quang tạng. Sắc thân hiện đủ thứ tịnh tướng thế gian. Sắc thân cầu nơi nhất thiết trí. Sắc thân hiện mỉm cười khiến chúng sinh sinh niềm tin thanh tịnh. Sắc thân thân tất cả báu trang nghiêm quang minh. Sắc thân chẳng lấy chẳng bỏ tất cả chúng sinh. Sắc thân không quyết định không rốt ráo. Sắc thân hiện sức tự tại gia trì. Sắc thân hiện tất cả thần thông biến hoá. Sắc thân sinh vào nhà Như Lai. Sắc thân xa lìa các ác khắp biển pháp giới. Sắc thân khắp hiện tất cả Như Lai đạo tràng chúng hội. Sắc thân đủ các thứ biển các sắc. 

61. Sắc thân thân mây đẹp khắp hiện thế gian nhờ lợi ích.
62. Sắc thân đầy đủ biển đại từ.
63. Sắc thân đại phước đức bảo sơn vương.
64. Sắc thân phóng quang minh chiếu khắp tất cả cõi thế gian.
65. Sắc thân đại trí huệ thanh tịnh.
66. Sắc thân sinh chúng sinh tâm chánh niệm.
67. Sắc thân tất cả bảo quang minh.
68. Sắc thân phổ quang tạng.
69. Sắc thân hiện đủ thứ tịnh tướng thế gian.
70. Sắc thân cầu nơi nhất thiết trí.
71. Sắc thân hiện mỉm cười khiến chúng sinh sinh niềm tin thanh tịnh.
72. Sắc thân thân tất cả báu trang nghiêm quang minh.
73. Sắc thân chẳng lấy chẳng bỏ tất cả chúng sinh.
74. Sắc thân không quyết định không rốt ráo.
75. Sắc thân hiện sức tự tại gia trì.
76. Sắc thân hiện tất cả thần thông biến hoá.
77. Sắc thân sinh vào nhà Như Lai.
78. Sắc thân xa lìa các ác khắp biển pháp giới.
79. Sắc thân khắp hiện tất cả Như Lai đạo tràng chúng hội.
80. Sắc thân đủ các thứ biển các sắc.

Sắc thân từ hạnh lành chảy ra. Sắc thân tuỳ sở ứng hoá thị hiện. Sắc thân tất cả thế gian thấy không nhàm đủ. Sắc thân đủ thứ tịnh quang minh. Sắc thân hiện tất cả biển ba đời. Sắc thân phóng tất cả biển quang minh. Sắc thân hiện vô lượng biển quang minh khác biệt. Sắc thân tất cả hương quang minh hơn các thế gian. Sắc thân hiện bất khả thuyết mây vòng mặt trời. Sắc thân hiện mây vòng mặt trăng rộng lớn. Sắc thân phóng vô lượng núi Tu Di mây hoa đẹp. Sắc thân xuất hiện đủ thứ mây tràng hoa. Sắc thân hiện tất cả mây hoa sen báu. Sắc thân nổi tất cả mây hương đốt khắp pháp giới. Sắc thân rải tất cả mây tạng hương bột. Sắc thân hiện thân đại nguyện tất cả Như Lai. Sắc thân hiện tất cả lời nói âm thanh diễn nói biển pháp. Sắc thân hiện tượng Bồ Tát Phổ Hiền.

81. Sắc thân từ hạnh lành sinh ra.
82. Sắc thân tuỳ sở ứng hoá thị hiện.
83. Sắc thân tất cả thế gian thấy không nhàm đủ.
84. Sắc thân đủ thứ tịnh quang minh.
85. Sắc thân hiện tất cả biển ba đời.
86. Sắc thân phóng tất cả biển quang minh.
87. Sắc thân hiện vô lượng biển quang minh khác biệt.
88. Sắc thân tất cả hương quang minh hơn các thế gian.
89. Sắc thân hiện bất khả thuyết mây vòng mặt trời.
90. Sắc thân hiện mây vòng mặt trăng rộng lớn.
91. Sắc thân phóng vô lượng núi Tu Di mây hoa đẹp.
92. Sắc thân xuất hiện đủ thứ mây tràng hoa.
93. Sắc thân hiện tất cả mây hoa sen báu.
94. Sắc thân nổi tất cả mây hương đốt khắp pháp giới.
95. Sắc thân rải tất cả mây tạng hương bột.
96. Sắc thân hiện thân đại nguyện tất cả Như Lai.
97. Sắc thân hiện tất cả lời nói âm thanh diễn nói biển pháp.
98. Sắc thân hiện tượng Bồ Tát Phổ Hiền.

Trong niệm niệm hiện thân sắc tướng như vậy, đầy khắp mười phương, khiến cho các chúng sinh, hoặc thấy được, hoặc nghĩ nhớ, hoặc nghe thuyết pháp, hoặc do gần gũi, hoặc được khai ngộ, hoặc thấy thần thông, hoặc gặp sự biến hoá, tuỳ theo tâm ưa thích, ứng thời điều phục, xả bỏ nghiệp bất thiện, trụ nơi hạnh lành.

Trong niệm niệm, hay thị hiện đủ thứ thân sắc tướng như vậy, đầy khắp mười phương thế giới, khiến cho tất cả chúng sinh, hoặc thấy được, hoặc nghĩ nhớ, hoặc nghe thuyết pháp, hoặc do gần gũi, hoặc được khai ngộ, hoặc thấy được thần thông, hoặc gặp được biến hoá, tuỳ theo tâm ưa thích, tức là muốn gì, thì liền có cảm ứng điều đó, ứng thời điều phục tất cả chúng sinh, khiến cho tất cả chúng sinh xả bỏ nghiệp bất thiện, trụ nơi hạnh lành.

Thiện nam tử ! Nên biết do nhờ đại nguyện lực nầy, lực nhất thiết trí, lực Bồ Tát giải thoát, lực đại bi, lực đại từ, mà có những việc như vậy.

Chủ Dạ Thần Đại Nguyện Tinh Tấn Lực Cứu Hộ Nhất Thiết Chúng Sinh, lại gọi một tiếng thiện nam tử ! Nên biết đó là do nhờ đại nguyện lực nầy, lực nhất thiết trí huệ, lực Bồ Tát giải thoát, lực đại bi, lực đại từ, mà có những việc như vậy.

Thiện nam tử! Ta nhập vào giải thoát nầy, thì biết rõ pháp tánh không có sự khác biệt, mà hay thị hiện vô lượng sắc thân. Mỗi mỗi thân, hiện ra vô lượng biển sắc tướng. Mỗi mỗi tướng, phóng ra vô lượng mây quang minh. Mỗi mỗi quang minh, hiện ra vô lượng cõi Phật. Mỗi mỗi cõi, hiện ra vô lượng đức Phật xuất hiện ra đời. Mỗi mỗi đức Phật, hiện ra vô lượng sức thần thông, khai phát căn lành đời trước của chúng sinh. Người chưa trồng căn lành, thì khiến cho họ trồng. Người đã trồng căn lành, thì khiến cho tăng trưởng. Người căn lành đã tăng trưởng, thì khiến cho thành thục. Trong niệm niệm khiến cho vô lượng chúng sinh, được bất thối chuyển nơi A nậu đa la tam miệu tam bồ đề.

Thiện nam tử! Ta nhập vào môn giải thoát nầy, thì biết rõ thật tướng của tất cả các pháp, không có sự khác biệt, mà hay thị hiện vô lượng sắc thân. Mỗi mỗi thân, lại có thể hiện ra vô lượng biển sắc tướng. Mỗi mỗi tướng, lại có thể phóng ra vô lượng mây quang minh. Mỗi mỗi mây quang minh, lại có thể hiện ra vô lượng cõi Phật. Mỗi mỗi cõi Phật, lại có thể hiện ra vô lượng đức Phật xuất hiện ra đời. Mỗi mỗi đức Phật, lại có thể hiện ra vô lượng sức thần thông, lại có thể khai phát căn lành đời trước của tất cả chúng sinh. Chúng sinh chưa trồng căn lành, thì khiến cho họ trồng căn lành. Đã trồng căn lành, thì khiến cho tăng trưởng. Căn lành đã tăng trưởng, thì khiến cho thành thục. Chúng sinh căn lành đã thành thục, thì khiến cho được giải thoát. Trong niệm niệm, khiến cho vô lượng chúng sinh, đều được cảnh giới bất thối chuyển nơi A nậu đa la tam miệu tam bồ đề.

Thiện nam tử! Như lời ngươi hỏi, ta đã phát tâm bồ đề, tu Bồ Tát hạnh được bao lâu? Ta nương oai thần lực của Phật, sẽ vì ngươi nói nghĩa nầy.

Thiện nam tử! Như lời ngươi hỏi, ta đã phát tâm bồ đề, tu Bồ Tát hạnh được bao lâu? Ta nương oai thần lực gia trì của chư Phật, bây giờ sẽ vì ngươi nói nghĩa đạo lý nầy.

Thiện nam tử! Trí huệ của Bồ Tát, xa lìa tất cả cảnh giới phân biệt. Không thể đem các kiếp dài ngắn, nhiễm tịnh, rộng hẹp như vậy, ở trong sinh tử, phân biệt hiển bày. Tại sao? Vì trí huệ của Bồ Tát, bản tánh thanh tịnh, lìa tất cả lưới phân biệt, vượt qua tất cả núi chướng ngại, tuỳ sự ứng hoá của chúng sinh mà chiếu khắp.

Thiện nam tử! Trí huệ của Bồ Tát, xa lìa tất cả cảnh giới phân biệt. Không thể đem các kiếp dài ngắn, hoặc nhiễm tịnh, hoặc rộng hẹp như vậy, ở trong sinh tử, để phân biệt hiển bày cảnh giới của Bồ Tát. Tại sao? Vì trí huệ của Bồ Tát, bản tánh thanh tịnh, lìa khỏi tất cả lưới phân biệt, vượt qua tất cả núi chướng ngại, tuỳ chúng sinh được ứng hoá mà vòng trí huệ quang chiếu khắp.

Thiện nam tử! Ví như mặt trời, không có ngày đêm. Nhưng khi mọc lên gọi là ngày, khi lặn xuống gọi là đêm. Trí huệ của Bồ Tát cũng như thế, không có sự phân biệt, cũng không có ba thời. Chỉ tuỳ tâm hiện, giáo hoá chúng sinh, mà nói Bồ Tát ở kiếp trước, kiếp sau.

Thiện nam tử! Ví như mặt trời, vốn không có phân biệt ngày đêm. Nhưng tâm chúng sinh có sự phân biệt ngày đêm. Khi mặt trời mọc lên thì gọi là ban ngày, khi mặt trời lặn xuống thì gọi là ban đêm. Trí huệ của Bồ Tát cũng như thế, không có sự phân biệt, cũng không có quá khứ, hiện tại, và vị lai ba thời. Chỉ tuỳ tâm chúng sinh sở hiện, vì giáo hoá chúng sinh, mà nói Bồ Tát ở kiếp trước, hoặc ở kiếp sau.

Thiện nam tử! Ví như mặt trời, ở trong hư không cõi Diêm Phù Đề, hình bóng mặt trời đều chiếu đến tất cả báu vật, sông biển, và trong các chỗ có nước sạch, tất cả chúng sinh đều thấy, mà mặt trời chẳng đến những chỗ đó. 

Trí huệ của Bồ Tát cũng lại như thế, thoát khỏi các biển cõi, trụ nơi Phật thật pháp, vắng lặng trong hư không, không có nương tựa. Vì muốn hoá độ các chúng sinh, mà tuỳ loại thọ sinh ở trong các cõi. Thật chẳng sinh tử, không có nhiễm trước, không có các nghĩ tưởng phân biệt kiếp dài ngắn. Tại sao? Vì Bồ Tát rốt ráo lìa tâm tưởng thấy tất cả sự điên đảo, đắc được cái thấy chân thật, thấy thật tánh của pháp, biết tất cả thế gian như mộng, như huyễn, không có chúng sinh, nhưng vì sức đại bi đại nguyện, hiện ra trước chúng sinh, để giáo hoá điều phục.

Thiện nam tử! Ví như mặt trời, ở trong hư không cõi Diêm Phù Đề, hình bóng mặt trời đều chiếu đến tất cả báu vật, tất cả sông biển, và trong các chỗ có nước sạch, tất cả chúng sinh chẳng ai mà chẳng nhìn thấy (trừ người mù), mà mặt trời chẳng đến những chỗ đó, vẫn ở trong hư không. Trí huệ của Bồ Tát cũng lại như thế, thoát khỏi biển tam giới hai mươi lăm cõi, trụ nơi Phật chân thật pháp của chư Phật, vắng lặng trong hư không, không có nương tựa. Vì muốn hoá độ tất cả chúng sinh, mà cam tâm tình nguyện, tuỳ loại mà thọ sinh, hoặc làm người, hoặc làm súc sinh, hoặc làm ngạ quỷ, hoặc đoạ địa ngục.

Tóm lại, tuỳ căn cơ của chúng sinh mà thọ sinh, chẳng có hạn chế nhất định. Nói về bản thân của Bồ Tát, đã chấm dứt sinh tử. Vậy tại sao Bồ Tát lại đi thọ sinh? Vì Bồ Tát độ chúng sinh, mới trở lại bằng con thuyền từ bi, để đến các cõi thọ sinh. Bồ Tát đã không còn sinh tử. Tại sao Bồ Tát không còn sinh tử? Vì không còn nhiễm trước, không còn các nghĩ tưởng phân biệt về kiếp dài kiếp ngắn, không có hiện tại, không có vị lai. Tóm lại, không còn tất cả mọi sự phân biệt. Tại sao? Vì Bồ Tát rốt ráo lìa tâm tưởng thấy tất cả sự điên đảo, do đó có câu: “Ngôn ngữ đạo đoạn, tâm hành xứ diệt”. Đã lìa khỏi tưởng thấy, lìa khỏi thấy điên đảo. Đắc được cái thấy chân thật, thấy được thật tánh của pháp – bản thể chân thật vắng lặng. Lại biết tài, sắc, danh, ăn, ngủ, năm dục của thế gian, như mộng như huyễn, trong tâm không còn chúng sinh để độ. Nhưng tuỳ thuận cảnh giới chúng sinh, để giáo hoá chúng sinh, mà dùng sức đại bi đại nguyện, thị hiện ra trước chúng sinh, để giáo hoá điều phục tất cả chúng sinh.

Phật tử! Ví như thuyền sư, thường dùng chiếc thuyền lớn chạy ở trong sông lớn, chẳng đậu ở bờ nầy, chẳng neo ở bờ kia, chẳng trụ ở giữa dòng, mà độ chúng sinh, không có ngừng nghỉ. 

Đại Bồ Tát cũng lại như thế, dùng thuyền Ba La Mật, ở trong dòng sinh tử, chẳng đậu ở bờ nầy, chẳng neo ở bờ kia, chẳng trụ ở giữa dòng, mà độ chúng sinh, không có ngừng nghỉ. Tuy vô lượng kiếp tu Bồ Tát hạnh, mà chưa từng phân biệt số kiếp dài ngắn.

Phật tử! Ví như thuyền sư, thường dùng chiếc thuyền lớn chạy ở trong sông lớn, chẳng đậu ở bờ nầy, cũng chẳng neo ở bờ kia, cũng chẳng trụ ở giữa dòng, mà độ chúng sinh, không có ngừng nghỉ.
Đại Bồ Tát cũng lại như thế, dùng thuyền Ba La Mật, ở trong dòng sinh tử, chẳng đậu ở bờ nầy, chẳng neo ở bờ kia, chẳng ở lại giữa dòng, mà độ chúng sinh, không có ngừng nghỉ. Tuy trải qua vô lượng kiếp tu tập Bồ Tát hạnh, mà chưa từng tính đếm đã tu bao nhiêu kiếp? Hoặc là kiếp dài, hoặc kiếp ngắn, vốn chẳng có sự phân biệt như thế.

Phật tử! Như thái hư không, tất cả thế giới ở trong sự thành hoại, mà không có sự phân biệt. Bản tánh thanh tịnh, không nhiễm, không loạn, không ngại, không nhàm, chẳng dài, chẳng ngắn, hết kiếp thuở vị lai, giữ tất cả cõi. 

Đại Bồ Tát cũng lại như thế, dùng tâm thâm sâu rộng lớn đồng cõi hư không, khởi phong luân đại nguyện, giữ các chúng sinh, khiến cho lìa đường ác, sinh về các cõi lành, đều khiến cho an trụ nơi nhất thiết trí địa. Diệt các phiền não, khổ sinh tử ràng buộc, mà không có tâm mừng lo mỏi nhàm.

Phật tử! Như thái hư không, tất cả thế giới ở trong sự thành trụ hoại không bốn hiện tượng nầy, mà hư không chẳng có sự phân biệt. Tại sao? Vì bản tánh của hư không là thanh tịnh, không nhiễm ô, không tạp loạn, không chướng ngại, không nhàm đủ, cũng chẳng dài, cũng chẳng ngắn. Hết kiếp thuở vị lai, giữ tất cả cõi, đều tồn tại ở trong hư không. Vì hư không sum la vạn tượng, chẳng có gì mà chẳng bao dung, chẳng có gì mà chẳng dung nạp. Đại Bồ Tát cũng lại như thế, dùng tâm thâm sâu rộng lớn đồng cõi hư không, khởi phong luân đại nguyện, giữ gìn tất cả chúng sinh, khiến cho lìa khỏi ba đường ác, sinh về ba đường lành, đều khiến cho tất cả chúng sinh an trụ nơi bậc nhất thiết trí huệ. Diệt trừ tất cả phiền não, khổ sinh tử ràng buộc, mà không có tâm vui mừng, cũng chẳng có tâm lo buồn, cũng chẳng có tâm mỏi nhàm.

Thiện nam tử! Như người huyễn hoá, chi thể đều đủ, mà không có sự hít vào, thở ra, lạnh, nóng, đói, khát, buồn, vui, sinh, tử, mười thứ việc nầy. 

Đại Bồ Tát cũng lại như thế, dùng pháp thân trí huệ bình đẳng như huyễn, hiện các sắc tướng nơi các cõi, trụ vô lượng kiếp, giáo hoá chúng sinh. Ở trong sinh tử, tất cả cảnh giới, không thích, không nhàm, không thương, không giận, không khổ, không vui, không lấy, không bỏ, không an, không sợ.

Thiện nam tử! Ví như người huyễn hoá, tứ chi đều đủ, mà không có sự hít vào thở ra, không có sự hô hấp. Tuy có tứ chi, mà không có linh hồn. Tại sao? Vì nó là huyễn biến ra! Nó không sợ lạnh nóng, cũng không biết đói, cũng không biết khát, cũng không biết buồn, cũng không biết vui, cũng không thọ sinh, cũng không tử vong, chẳng có mười thứ việc nầy.

Đại Bồ Tát cũng lại như thế, dùng pháp thân trí huệ bình đẳng như huyễn, thị hiện các sắc tướng trong tam giới hai mươi lăm cõi, trụ vô lượng kiếp, giáo hoá hết thảy chúng sinh. Ở trong sinh tử khổ sở ràng buộc, đối với tất cả cảnh giới, không mến thích, không nhàm chán, không thương yêu, không sân giận, không khổ sở, không vui vẻ, cũng không lấy, cũng không bỏ, không có bình an, không có sợ hãi. Tại sao? Vì Bồ Tát chẳng còn cảnh giới cái ta, đến cảnh giới không còn cái ta, cho nên chẳng còn tâm ích kỷ lợi mình. Do đó, chẳng có những thứ tâm phân biệt nầy.

Phật tử! Trí huệ Bồ Tát, tuy thâm sâu khó dò. Ta sẽ nương oai thần lực của đức Phật, vì ngươi giải thích nói, khiến cho các Bồ Tát đời vị lai, đầy đủ đại nguyện, thành tựu các lực.

Phật tử! Trí huệ Bồ Tát, tuy thâm sâu khó dò, nhìn lên không thấy đỉnh, nhìn xuống không thấy đáy. Nhưng ta sẽ nương oai thần lực của mười phương chư Phật, vì ngươi giải thích nói, khiến cho các Bồ Tát ở đời vị lai, đầy đủ đại nguyện đã phát ra, thành tựu các thần thông lực. Bạn, tôi, họ, chúng sinh, hiện tại ở trong pháp hội Hoa Nghiêm, lắng nghe đoạn kinh văn Hoa Nghiêm Đại Phương Quảng Phật nầy, phải cảm kích ân điển của vị Chủ Dạ Thần, tuy Ngài không phải trực tiếp nói với chúng ta, nhưng vẫn gián tiếp nói với chúng ta, cho nên mới đắc được lợi ích của pháp nầy.

Phật tử! Vào đời quá khứ, trải qua số kiếp nhiều như số hạt bụi biển thế giới, có kiếp tên là Thiện Quang, thế giới tên là Bảo Quang. Trong kiếp đó, có một vạn vị Phật xuất hiện ra đời. Vị Phật đầu tiên, hiệu là Phật Pháp Luân Âm Hư Không Đăng Vương, Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác, mười hiệu viên mãn. 

Cõi Diêm Phù Đề đó, có một cung vua, tên là Bảo Trang Nghiêm. Cách phía đông không xa, có một khu rừng lớn, tên là Diệu Quang, trong đó có một đạo tràng, tên là Bảo Hoa. Trong đạo tràng đó, có toà sư tử Phổ Quang Minh Ma Ni Liên Hoa Tạng. 

Bấy giờ đức Như Lai đó, ngồi trên toà đó, thành A nậu đa la tam miệu tam bồ đề, mãn một trăm năm, ngồi nơi đạo tràng, vì các Bồ Tát, chư Thiên và người đời với những người Diêm Phù Đề xưa kia đã từng trồng căn lành thành thục, diễn nói chánh pháp.

Phật tử! Vào đời quá khứ, trải qua số kiếp nhiều như số hạt bụi biển thế giới, có một kiếp tên là Thiện Quang, có thế giới tên là Bảo Quang. Trong kiếp đó, có một vạn vị Phật xuất hiện ra đời. Vị Phật ra đời đầu tiên, hiệu là Phật Pháp Luân Âm Hư Không Đăng Vương, Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác, mười hiệu (Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhơn Sư, Phật, Thế Tôn) viên mãn.

Cõi Diêm Phù Đề đó, có một cung vua, tên là Bảo Trang Nghiêm. Cách phía đông không xa, có một khu rừng lớn, tên là Diệu Quang, trong đó có một đạo tràng, tên là Bảo Hoa. Trong đạo tràng đó, có toà sư tử Phổ Quang Minh Ma Ni Liên Hoa Tạng.

Bấy giờ đức Như Lai Pháp Luân Âm Hư Không Đăng Vương, ngồi trên toà sư tử đó, thành A nậu đa la tam miệu tam bồ đề, mãn một trăm năm, ngồi nơi đạo tràng, vì tất cả Bồ Tát, chư Thiên và người đời với những người Diêm Phù Đề xưa kia đã từng trồng căn lành thành thục, diễn nói chánh pháp.

Trong kiếp Hoa Quang có một vạn vị Phật ra đời. Hiện tại ở Vạn Phật Thánh Thành cũng có một vạn vị Phật, từ trên trời giáng lâm xuống, từ dưới đất vọt lên, để đến Vạn Phật bảo điện, đây là hạt bụi của kiếp Thiện Quang thế giới Bảo Quang, bay đến Vạn Phật Thánh Thành, cho nên mới có cảnh giới nầy xuất hiện. Chúng ta phải thương tiết cơ hội vạn lần khó gặp, dũng mãnh tinh tấn tu hành, thời gian nào đó phải khai ngộ. Bằng không, thì cô phụ tâm đại bi của vạn vị Phật từ quang phổ chiếu. Chúng ta vì báo ân Phật, nhất định phải nỗ lực tu hành, sớm thành tựu chí nguyện mà mình đã phát ra.

Bấy giờ, có ông vua tên là Thắng Quang, lúc đó người dân thọ một vạn tuổi, nhưng phần đông phạm tội sát sinh, trộm cướp, tà dâm, nói dối, thêu dệt, hai lưỡi, chửi mắng, tham sân tà kiến, bất hiếu với cha mẹ, chẳng kính bậc Sa Môn, Bà La Môn… Bấy giờ, ông vua vì muốn điều phục họ, nên tạo lập ngục tù, giam nhốt vô lượng chúng sinh chịu khổ ở trong đó.

Lúc đó, thành Bảo Trang Nghiêm đó, có một vị vua tên là Thắng Quang, lúc đó tuổi thọ của người dân lên đến một vạn tuổi, nhưng phần đông người dân phạm các tội sát sinh, trộm cướp, tà dâm, nói dối, thêu dệt, hai lưỡi, chửi mắng, tham sân tà kiến, bất hiếu với cha mẹ, chẳng kính bậc Sa Môn, Bà La Môn… Lúc đó, ông vua Thắng Quang vì muốn điều phục những người đó, nên tạo lập ngục tù, giam nhốt vô lượng chúng sinh chịu khổ ở trong đó.

Ông vua đó, có vị thái tử tên là Thiện Phục, đoan chánh đặc thù, ai cũng muốn nhìn, có đủ ba mươi hai tướng đại nhân. Ở trong cung điện, xa nghe tiếng kêu khóc ở chốn ngục tù, động lòng thương xót, liền vào ngục tù, thì thấy các tội nhân, bị gông cùm xiềng xích, trói buộc ở chỗ tối tăm. Hoặc dùng lửa đốt, hoặc dùng khói xông, hoặc dùng cây đánh, hoặc thẻo lóc da thịt, tóc rối mình trần, đói khát gầy ốm, gân đứt bày xương, khóc lóc kêu gào. 

Thái tử thấy rồi, sinh lòng thương xót, dùng lời vô uý an ủi họ rằng: Các ngươi đừng có lo buồn! Các ngươi chớ có kinh sợ! Ta sẽ giải thoát các ngươi. 
Thái tử bèn đến chỗ vua, bạch với vua rằng: Tội nhân trong ngục, rất là thống khổ, xin hãy tha thứ cho họ, hãy dùng bố thí vô uý tha cho họ.

Ông vua Thắng Quang đó, có vị thái tử tên là Thiện Phục, tướng mạo đoan chánh, rất là đặc thù, ai cũng hoan hỉ muốn ngắm nhìn mãi. Tại sao? Vì vị thái tử đó, có đủ ba mươi hai tướng đại nhân, rất là trang nghiêm. Ở trong cung điện của Ngài, xa nghe tiếng kêu khóc của phạm nhân ở chốn ngục tù, Ngài động lòng thương xót những tội nhân đó. Thái tử liền vào ngục tù, thì thấy các tội nhân đó, tay chân bị gông cùm xiềng xích, trói buộc nhốt họ ở chỗ tối tăm, không thấy được ánh sáng mặt trời. Những tội nhân đó thọ sự thống khổ địa ngục ở chốn nhân gian, có người bị họ dùng lửa đốt, có người bị họ dùng khói xông, hoặc bị họ dùng cây đánh đập, hoặc bị họ thẻo lóc da thịt, khổ không thể tả, rất thảm thiết. Những tội nhân đó, đầu tóc rối bời, mình trần, đói khát gầy ốm, gân đứt bày xương, do đó có câu: “Ốm gầy như que củi”, những tội nhân đó thống khổ, khóc lóc kêu gào thảm thiết.

Thái tử thấy những cảnh đó rồi, sinh lòng thương xót, dùng lời vô uý an ủi họ rằng: “Các ngươi đừng có lo buồn! Các ngươi chớ có kinh sợ! Ta sẽ tìm cách giải thoát các ngươi, để cho các ngươi được thả ra, tự do đi lại”. Do đó, thái tử bèn đến chỗ vua Thắng Quang, bạch với vua rằng: “Tội nhân trong ngục, rất là thống khổ không thể tả được. Con khẩn cầu đại vương, xin hãy tha thứ cho họ, hãy dùng bố thí vô uý tha cho họ”!

Bấy giờ, vua bèn tập họp năm trăm đại thần, để hỏi ý việc đó. Các quan đều đáp rằng: Những tội nhân đó, trộm cắp của công, âm mưu muốn cướp ngôi vua, lén vào cung cấm, tội đáng hành hình, có ai thương cứu, cũng bị tội chết.

Lúc đó, vua Thiện Quang nghe lời thỉnh cầu của thái tử muốn thả những tội nhân đó rồi, bèn tập họp năm trăm vị đại thần, để hỏi ý về việc đó. Bèn hỏi năm trăm vị đại thần rằng: “Việc nầy nên làm thế nào”?

Năm trăm vị đại thần khác miệng cùng lời đều đáp rằng: “Những tội nhân đó, trộm cắp của công, âm mưu muốn cướp ngôi vua, muốn giết đại vương, tội đáng hành hình, nên chém đầu thị chúng, không có lý do nào lại phóng thích. Nếu có ai thương muốn cứu những tội nhân đó, cũng bị tội tử hình”.

Bấy giờ, thái tử đó, buồn thương nói với các đại thần rằng: Xin hãy thả những người đó ra, tôi xin chịu tội. Tất cả hình phạt khổ sở, dù nát thân mất mạng, tôi cũng cam chịu, không hối tiếc, miễn sao những tội nhân đó đều được thoát khổ. 

Tại sao vậy? Vì nếu tôi không cứu được những chúng sinh nầy, thì làm sao cứu được các chúng sinh khổ trong ngục tù ba cõi? Tất cả chúng sinh ở trong ba cõi, tham ái ràng buộc, ngu si che đậy, nghèo cùng không có công đức, bị đoạ trong các đường ác, thân hình xấu xí, các căn phóng dật, tâm bị mê hoặc, không cầu đạo xuất ly. Mất trí huệ quang minh, ưa chấp ba cõi, dứt các phước đức, diệt các trí huệ, đủ thứ phiền não, tâm ý nhơ đục. Ở trong lao ngục khổ sở, nhập vào lưới ma, sinh già bệnh chết, lo buồn não hại, các khổ như vậy, luôn bị bức bách. Tôi phải làm cách nào khiến cho họ được giải thoát, tôi phải xả thân mạng để cứu họ.

Lúc đó, lòng thái tử càng kiên cố, nói với các đại thần rằng: “Xin các ông hãy thả những người đó ra, tôi xin thay thế tánh mạng của tôi để chịu tội. Tôi vì cứu chúng sinh, tất cả hình phạt khổ sở, dù nát thân mất mạng, tôi cũng cam chịu, không hối tiếc, miễn sao những tội nhân đó đều được thoát khổ.

Tại sao vậy? Vì nếu tôi không cứu được những chúng sinh nầy, thì làm sao cứu được các chúng sinh khổ trong ngục tù ba cõi? Tất cả chúng sinh ở trong ba cõi, bị tham ái ràng buộc, ngu si che đậy. Họ đều là những người nghèo cùng, không biết làm việc có công đức, nên bị đoạ trong ba đường ác, thân hình rất xấu xí. Vì các căn phóng dật, không giữ quy cụ, nên tâm bị mê hoặc, không cầu đạo thoát khỏi nhà lửa ba cõi. Mất đi trí huệ quang minh, ưa chấp cảnh giới ba cõi, dứt các phước đức, diệt các trí huệ, có đủ thứ vô minh phiền não, tâm ý nhơ đục tán loạn. Ở trong lao ngục khổ sở, nhập vào lưới ma, sinh già bệnh chết, lo buồn não hại, đủ thứ các khổ như vậy, luôn bị bức bách.

Tôi phải làm cách nào khiến cho họ được giải thoát, tôi phải xả thân mạng của tôi để cứu họ thoát khỏi biển khổ.

Bấy giờ, các đại thần cùng đến chỗ vua, đều giơ tay lớn tiếng nói rằng: Đại vương nên biết, như ý của thái tử là huỷ hoại vương pháp, hoạ đến vạn dân. Nếu vua thương mến, không trị thái tử, thì ngôi báu của vua, chẳng bao lâu sẽ mất. Vua nghe lời ấy, bèn nổi giận, hạ lệnh giết thái tử và các tội nhân.

Lúc đó, năm trăm vị đại thần cùng đến chỗ ông vua, mọi người đều giơ tay phải lớn tiếng nói rằng: “Đại vương nên biết! Như ý của thái tử là muốn thả hết những tội nhân đó, tức là huỷ hoại vương pháp quốc gia. Nếu mà thả những tội nhân đó, thì hoạ sẽ đến vạn dân. Nếu đại vương thương mến thái tử, không trừng trị thái tử, thì ngôi báu của vua, chẳng bao lâu nữa sẽ mất. Xin đại vương hãy nghĩ lại”. Lúc đó, vua Thắng Quang nghe lời của năm trăm vị đại thần, bèn nổi giận lôi đình, hạ lệnh giết thái tử và các tội nhân.

Hoàng hậu nghe được, sầu thương gào khóc, cùng với một ngàn thể nữ đi đến chỗ vua, quỳ lạy sát đất, đảnh lễ vua, đều nói rằng: Xin đại vương hãy tha mạng cho thái tử. 
Vua bèn hướng về thái tử nói: Đừng cứu tội nhân, nếu cứu tội nhân, thì ta sẽ giết ngươi.

Hoàng hậu nghe được tin tức thái tử sẽ bị giết, sầu thương gào khóc, cùng với một ngàn thể nữ cấp tốc cùng đi đến chỗ vua, quỳ lạy sát đất, đảnh lễ vua Thắng Quang, đều nói rằng: “Xin đại vương từ bi, hãy tha mạng cho thái tử”.

Lúc đó, vua bèn hướng về thái tử nói: “Con đừng cứu những tội nhân đó, họ phạm tội đáng chết, phải chịu sự trừng phạt. Nếu con nhất định muốn thả những tội nhân đó, thì ta sẽ giết ngươi. Ngươi nên lập tức thay đổi ý định, bằng không thì chẳng có ai có thể cứu được mạng sống của ngươi”.

Bấy giờ, thái tử vì muốn chuyên cầu nhất thiết trí. Vì muốn lợi ích các chúng sinh. Vì muốn dùng đại bi cứu nhiếp khắp. Tâm thái tử rất kiên cố, không lùi bước sợ hãi. Lại bạch với vua rằng: Xin hãy tha cho những tội nhân, con xin chịu chết.
Vua nói: Tuỳ ý.

Bấy giờ hoàng hậu bạch rằng: Đại vương! Xin cho thái tử bố thí nửa tháng, để tu phước, sau đó trị tội.
Vua liền nghe lời.

Lúc đó, thái tử Thiện Phục càng kiên cường hơn, vì muốn chuyên cầu được nhất thiết trí huệ. Vì muốn lợi ích tất cả chúng sinh. Vì muốn dùng đại bi cứu khắp nhiếp thọ tất cả chúng sinh. Tâm thái tử rất kiên cố, không lùi bước, cũng không sợ hãi, quyết tâm muốn cứu những tội nhân đó, dù phải tan thân mất mạng cũng cam chịu. Dù sống hay chết cũng không màng đến, chỉ muốn cứu những tội nhân đó thoát khỏi ngục tù thống khổ. Đó là tinh thần của Bồ Tát, xả mình vì người. Chúng ta nên kiến hiền tư tề (thấy người hơn mình, phải có gắng làm cho bằng họ), học tập theo gương thái tử Thiện Phục.

Bộ Kinh Hoa Nghiêm nầy, đức Phật nói đạo lý Bồ Tát đạo của bậc pháp thân Đại Sĩ tu hành. Hành Bồ Tát đạo, thì phải quên mình, tất cả vì lợi ích chúng sinh mà nghĩ đến, chẳng có tư tưởng ích kỷ lợi mình. Tất cả đều buông bỏ được, chẳng có chấp trước, mới đắc được sự giải thoát.

Thái tử Thiện Phục lại bạch với vua Thắng Quang rằng: “Con khẩn cầu đại vương từ bi, hãy tha cho những tội nhân đó, hãy thả họ ra hết! Con xin chịu chết thay thế cho những tội nhân đó”.

Vua Thắng Quang nói: “Được, tuỳ ý ngươi, ta cho ngươi mãn nguyện. Thả tội nhân, ngươi chết thế cho tội nhân, không có nói chơi, nói ra phải giữ lời”.

Lúc đó, hoàng hậu bạch với vua rằng: “Đại vương! Tôi muốn xin cho thái tử bố thí nửa tháng, để tu phước, sau đó trị tội”.

Vua liền hứa khả lời thỉnh cầu của hoàng hậu. Hoàng hậu rất thương mến thái tử, không muốn thái tử bị giết, nên tha thiết thỉnh cầu, muốn quốc vương tha tội cho thái tử. Quốc vương sao lại muốn giết con? Do đó có câu: “Hổ mẹ không ăn thịt con”, nhưng đứng trên lập trường quốc pháp, thì không được như vậy, cho nên đáp ứng thỉnh cầu của hoàng hậu, đây là lẽ thường tình của con người.

Bấy giờ, phía bắc thành đô, có một khu vườn lớn, tên là Nhựt Quang, là hội trường bố thí xưa kia. Thái tử đến đó, thiết lập hội bố thí lớn: Thức ăn uống, y phục, hoa, tràng hoa, chuỗi ngọc, hương đốt, hương bột, tràng, phan, lọng báu, các đồ trang nghiêm. Tuỳ theo sự mong cầu, đều chu cấp cho hết. 
Trải qua nửa tháng, ngày cuối cùng, quốc vương đại thần, trưởng giả cư sĩ, thành ấp nhân dân, và các ngoại đạo, đều vân tập đến.

Lúc đó, ở phía bắc thành đô Bảo Trang Nghiêm, có một khu vườn lớn, tên là Nhựt Quang, là đạo tràng đại bố thí lúc xưa kia. Thái tử Thiện Phục đến vườn hoa đó, thiết lập pháp hội bố thí lớn: Bố thí thức ăn uống, y phục, hoa, tràng hoa, chuỗi ngọc, hương đốt, hương bột, tràng, phan, lọng báu, các đồ trang nghiêm. Tuỳ theo sự mong cầu của chúng sinh, đều chu cấp đầy đủ, khiến cho chúng sinh đều toại tâm mãn nguyện.

Bố thí như vậy, trải qua được nửa tháng, đến ngày cuối cùng, quốc vương và đại thần, trưởng giả cùng cư sĩ, thành ấp nhân dân, và tất cả các ngoại đạo, đều vân tập đến đại hội bố thí vườn hoa Nhựt Quang, để tham quan tình huống bố thí.

Bấy giờ, đức Như Lai Pháp Luân Âm Hư Không Đăng Vương, biết thời điều phục các chúng sinh đã đến. Cùng với đại chúng tụ hội, có các Thiên Vương vây quanh, Long Vương cúng dường, Dạ Xoa Vương thủ hộ, Càn Thát Bà Vương khen ngợi, A Tu La Vương khom mình đảnh lễ, Ca Lâu La Vương dùng tâm thanh tịnh rải các hoa báu, Khẩn Na La Vương hoan hỉ khuyến thỉnh, Ma Hầu La Già Vương một lòng chiêm ngưỡng, đến nhập vào hội đó.

Lúc bấy giờ, đức Phật Pháp Luân Âm Hư Không Đăng Vương, biết thời điều phục tất cả chúng sinh đã đến, nghĩa là cơ duyên của chúng sinh đã thành thục. Do đó, Ngài cùng với đại chúng tụ hội lại, có các Thiên Vương vây quanh, Long Vương cúng dường, Dạ Xoa Vương thủ hộ, Càn Thát Bà Vương khen ngợi, A Tu La Vương khom mình đảnh lễ, Ca Lâu La Vương dùng tâm thanh tịnh rải các hoa báu, Khẩn Na La Vương hoan hỉ khuyến thỉnh, Ma Hầu La Già Vương một lòng chiêm ngưỡng, đại chúng cùng nhau đi đến đạo tràng đại bố thí vườn hoa Nhựt Quang.

Bấy giờ, thái tử và các đại chúng, từ xa trông thấy đức Phật đến, đoan nghiêm đặc thù, các căn tịch định, như voi điều thuận, tâm không cấu trược, như mặt hồ thanh tịnh. Hiện đại thần thông, thị hiện đại tự tại, hiển bày đại oai đức, đủ thứ tướng tốt trang nghiêm thân. 

Đức Phật phóng đại quang minh, chiếu khắp thế giới. Tất cả lỗ chân lông, hiện ra mây sáng thơm, chấn động mười phương vô lượng cõi Phật. Tuỳ chỗ Phật đến, khắp mưa tất cả các đồ trang nghiêm. Nhờ oai nghi của Phật, nhờ công đức của Phật, chúng sinh ai thấy được, tâm tịnh hoan hỉ, phiền não tiêu diệt.

Bấy giờ, thái tử và các đại chúng, năm thể sát đất, đảnh lễ đức Phật. Bày toà ngồi, rồi chắp tay bạch rằng: Lành thay đức Thế Tôn! Lành thay đấng Thiện Thệ! Xin Ngài thương xót nhiếp thọ con, ngồi lên toà nầy.  

Lúc đó, thái tử Thiện Phục và tất cả đại chúng, từ xa trông thấy đức Phật Pháp Luân Âm Hư Không Đăng Vương đến, tướng mạo đoan chánh trang nghiêm rất đặc thù. Vì đức Phật đầy đủ ba mươi hai tướng đại nhân, tám mươi vẻ đẹp. Các căn tịch định, tức là mắt không nhìn cảnh không đáng nhìn, tai không nghe chuyện không đáng nghe, miệng không nói lời không đáng nói, tâm không nghĩ điều không nên nghĩ. Sáu căn nhập thiền định, như voi lớn điều thuận, tâm không có tư tưởng cấu trược, như mặt hồ thanh tịnh, vật đến thì chiếu, vật đi thì lặng, không có mọi sự chấp trước. Thị hiện sức đại thần thông, thị hiện cảnh giới đại tự tại, hiển hiện sức đại oai đức, có đủ thứ tướng tốt trang nghiêm thân.

Đức Phật phóng đại quang minh, chiếu khắp mười phương thế giới. Trong tất cả lỗ chân lông, hiện ra mây sáng thơm, chấn động mười phương vô lượng cõi Phật. Tuỳ chỗ Phật đến, đều khắp mưa tất cả các đồ trang nghiêm. Nhờ oai nghi của Phật, nhờ công đức của Phật, chúng sinh ai thấy được những cảnh giới đó, tâm đều thanh tịnh mà sinh hoan hỉ, mọi phiền não đều tiêu diệt không còn.

Lúc đó, thái tử và tất cả đại chúng, năm thể sát đất, đảnh lễ đức Phật. Bày toà ngồi, biểu thị cung nghinh. Đại chúng cùng chắp tay cung kính bạch đức Phật rằng: Lành thay đức Thế Tôn! Lành thay đấng Thiện Thệ! Xin Ngài thương xót nhiếp thọ chúng con, xin cung thỉnh Ngài ngồi lên bảo toà nầy.

Nhờ thần lực của Phật, chư Thiên Tịnh Cư liền biến toà đó, thành toà sen hương ma ni. Đức Phật ngồi trên toà đó, các chúng Bồ Tát cũng đều ngồi chung quanh đức Phật. 

Bấy giờ, tất cả chúng sinh trong hội đó, nhờ thấy đức Như Lai, khổ diệt chướng trừ, kham thọ Thánh pháp. 

Bấy giờ, đức Như Lai biết họ có thể giáo hoá được, bèn dùng âm viên mãn, nói Tu Đa La, tên là Phổ Chiếu Nhân Luân, khiến cho các chúng sinh, tuỳ loài đều hiểu được. 

Bấy giờ, trong hội đó có tám mươi Na do tha chúng sinh, xa lìa trần cấu, đắc được con mắt pháp thanh tịnh. Vô lượng Na do tha chúng sinh, đắc được bậc vô học. Mười ngàn chúng sinh, trụ đạo đại thừa, vào hạnh Phổ Hiền, thành tựu viên mãn đại nguyện. 

Lúc bấy giờ, trong mười phương đều có các chúng sinh, nhiều như số hạt bụi trăm cõi Phật, ở trong đại thừa, tâm được điều phục. Tất cả chúng sinh trong vô lượng thế giới, được lìa khỏi cõi ác, được sinh về cõi trời.

Nhờ thần lực của Phật, chư Thiên Tịnh Cư (trời Ngũ Bất Hoàn thuộc về sắc giới) cũng đến, liền biến toà báu đó, thành toà sen hương ma ni. Đức Phật ngồi trên toà đó, tất cả các chúng Bồ Tát cũng đều ngồi chung quanh đức Phật.

Lúc đó, đại chúng trong đại pháp hội bố thí đó, nhờ thấy đức Như Lai Pháp Luân Âm Hư Không Đăng Vương, khổ não liền tiêu diệt, nghiệp chướng lập tức tiêu trừ sạch, có tư cách kham thọ được Thánh pháp.

Lúc bấy giờ, đức Như Lai biết căn cơ của tất cả chúng sinh đã thành thục, có thể giáo hoá được, bèn dùng âm viên mãn, diễn nói Tu Đa La (khế kinh), tên là Kinh Phổ Chiếu Nhân Luân, khiến cho tất cả chúng sinh, tuỳ loài đều hiểu được.

Lúc bấy giờ, trong pháp hội bố thí đó, có tám mươi Na do tha chúng sinh, xa lìa tất cả bụi dơ, đắc được con mắt pháp thanh tịnh. Lại có vô lượng Na do tha chúng sinh, đắc được bậc vô học. Do đó có câu: “Các lậu đã sạch, phạm hạnh đã vững, những gì cần làm đã làm xong, chẳng còn thọ thân sau nữa”. Đã chứng được quả vị tứ quả A La Hán. Lại có mười ngàn chúng sinh, trụ đạo đại thừa, học tập pháp đại thừa. Nhập vào hạnh Bồ Tát Phổ Hiền, thành tựu viên mãn đại nguyện Bồ Tát Phổ Hiền.

Lúc bấy giờ, mỗi phương trong mười phương đều có các chúng sinh nhiều như số hạt bụi trăm cõi Phật, trụ ở trong pháp đại thừa, tâm được điều phục, không quái không ngại. Tất cả chúng sinh trong vô lượng thế giới, được lìa khỏi tất cả cõi ác, được sinh về cõi trời, hưởng phước trời an vui.

Lúc đó, thái tử Thiện Phục lập tức đắc được môn giải thoát Bồ Tát giáo hoá chúng sinh khiến sinh căn lành.

Lúc đó, thái tử Thiện Phục lập tức, đắc được môn giải thoát Bồ Tát giáo hoá chúng sinh khiến sinh căn lành. Ở trên là vị Dạ Thần Đại Nguyện Tinh Tấn Lực Cứu Hộ Nhất Thiết Chúng Sinh, tường thuật lại thời quá khứ, tại gia tu hành. Đây là trả lời câu hỏi của Thiện Tài đồng tử hỏi phát tâm đã được bao lâu.

Thiện nam tử! Thái tử lúc bấy giờ, đâu phải là người nào khác, chính là thân ta vậy. Do ta thuở xưa khởi tâm đại bi, xả thân mạng tài vật, cứu chúng sinh khổ, mở cửa đại bố thí, cúng dường đức Phật, mà đắc được môn giải thoát nầy.

Phật tử! Nên biết ta lúc bấy giờ, chỉ vì lợi ích tất cả chúng sinh, chẳng chấp vào ba cõi, chẳng cầu quả báo, chẳng tham danh tiếng, chẳng muốn tự khen mình, khinh chê kẻ khác. Nơi các cảnh giới, không có tham nhiễm, không có sợ hãi, chỉ trang nghiêm đạo đại thừa xuất ly. Thường thích quán sát môn nhất thiết trí, tu hành khổ hạnh, mà đắc được giải thoát nầy.

Thiện nam tử! Thái tử lúc bấy giờ, ngươi có biết là ai chăng? Đâu phải là người nào khác, chính là thân ta vậy (Dạ Thần Đại Nguyện Tinh Tấn Lực). Do ta thuở xưa sinh khởi tâm đại bi, xả thân mạng của ta, xả tài vật của ta, cứu giúp tất cả chúng sinh khổ, mở cửa pháp hội đại bố thí, bố thí cho tất cả chúng sinh, cúng dường tất cả chư Phật, mới đắc được môn giải thoát nầy.

Chúng ta nghe Kinh Hoa Nghiêm Đại Phương Quảng Phật, nghe được đoạn Kinh văn nầy, nên hồi quang phản chiếu, chúng ta có xả bỏ được thân mạng và tài vật để cứu giúp tất cả chúng sinh chưa? Hết thảy Bồ Tát quá khứ, đều xả thân mạng để giáo hoá chúng sinh. Chúng ta hãy phản tỉnh lại xem, có làm được như vậy chăng? Nếu được, thì tiếp tục hướng về trước làm, không thể bỏ dở giữa chừng. Nếu không làm được, thì phải phát tâm đại bồ đề, học tập Bồ Tát quá khứ phát nguyện, xả thân mạng, xả tài vật, để cứu giúp tất cả chúng sinh, để giáo hoá tất cả chúng sinh. Càng phải dũng mãnh, càng phải tinh tấn, không thể giải đãi, không thể phóng dật. Người tu đạo, không tinh tấn thì thối lùi, tức cũng là thối chuyển tâm bồ đề. Phải chú ý! Lười biếng tức là đá cột chân sự tu đạo.

Phật tử! Người nên biết ta lúc đó, phát tâm đại bồ đề, chỉ vì lợi ích tất cả chúng sinh, chẳng chấp vào cõi dục, cõi sắc, cõi vô sắc, ba cõi. Chẳng cầu quả báo lành, chẳng tham danh thơm tiếng tốt, chẳng muốn tự khen mình, cũng chẳng khinh chê kẻ khác. Đối với tất cả cảnh giới, không sinh tâm tham nhiễm, cũng không sinh tâm sợ hãi. Tại sao? Vì không còn cái ta, hết thảy tất cả chẳng vì mình mà cầu. Chỉ trang nghiêm đạo đại thừa thoát khỏi ba cõi. Thường thích quán sát môn nhất thiết trí huệ, tu hành khổ hạnh không dễ gì tu được, nên ta mới đắc được môn giải thoát nầy.

Phật tử! Ý ngươi thế nào? Năm trăm vị đại thần muốn hại ta thuở đó, đâu phải là người nào khác. Nay chính là năm trăm đồ đảng của Đề Bà Đạt Đa. Những người đó nhờ đức Phật giáo hoá, đều sẽ đắc được A nậu đa la tam miệu tam bồ đề. Ở đời vị lai, trải qua số kiếp nhiều như số hạt bụi núi Tu Di. Bấy giờ, có kiếp tên là Thiện Quang, thế giới tên là Bảo Quang, thành Phật ở trong thế giới đó. Năm trăm vị Phật đó, thứ tự xuất hiện ra đời. Vị Phật đầu tiên hiệu là Đại Bi. Vị Phật thứ hai hiệu là Nhiêu Ích Thế Gian. Vị Phật thứ ba hiệu là Đại Bi Sư Tử. Vị Phật thứ tư hiệu là Cứu Hộ Chúng Sinh. Cho đến vị Phật cuối cùng hiệu là Y Vương. Tuy các đức Phật đó, đại bi bình đẳng, nhưng cõi nước, chủng tộc, cha mẹ, thọ sinh, tuổi thọ, xuất gia học đạo, đi đến đạo tràng, chuyển bánh xe pháp, nói Tu Đa La, lời nói âm thanh, quang minh chúng hội, thọ mạng pháp trụ, và danh hiệu của các vị Phật đó, thảy đều khác biệt.

Phật tử! Ý ngươi nghĩ như thế nào? Năm trăm vị đại thần muốn hại ta thuở đó, đâu phải là người nào khác. Nay chính là Đề Bà Đạt Đà và năm trăm đồ đảng của y. Những người đó, nhờ đức Phật giáo hoá, đều sẽ đắc được A nậu đa la tam miệu tam bồ đề. Ở đời vị lai, trải qua số kiếp nhiều như số hạt bụi núi Tu Di. Lúc bấy giờ, có kiếp tên là Thiện Quang, trong kiếp đó có thế giới tên là Bảo Quang. Các Ngài sẽ thành Phật ở trong thế giới đó. Năm trăm vị Phật đó, sẽ thứ tự xuất hiện ra đời. Vị Phật đầu tiên hiệu là Phật Đại Bi. Vị Phật thứ hai hiệu là Phật Nhiêu Ích Thế Gian. Vị Phật thứ ba hiệu là Phật Đại Bi Sư Tử. Vị Phật thứ tư hiệu là Phật Cứu Hộ Chúng Sinh. Cho đến vị Phật cuối cùng hiệu là Phật Y Vương. Tuy tất cả các đức Phật đó, đại bi bình đẳng, nhưng cõi nước, chủng tộc, cha mẹ, thọ sinh, tuổi thọ, xuất gia, học đạo, đi đến đạo tràng, chuyển bánh xe pháp, nói Tu Đa La, lời nói, âm thanh, quang minh, chúng hội, thọ mạng, pháp trụ, và danh hiệu của các vị Phật đó, thảy đều khác biệt.

Phật tử! Các tội nhân mà ta cứu thuở đó, tức là đức Phật Câu Lưu Tôn và một ngàn vị Phật trong kiếp Hiền, và trăm vạn A tăng kỳ các đại Bồ Tát, ở chỗ Như Lai Vô Lượng Tinh Tấn Lực Danh Xưng Công Đức Huệ, phát tâm A nậu đa la tam miệu tam bồ đề. Nay đang ở trong mười phương cõi nước hành Bồ Tát đạo, tu tập tăng trưởng môn giải thoát Bồ Tát giáo hoá chúng sinh khiến sinh căn lành nầy.

Phật tử! Các tội nhân mà ta cứu thuở đó, tức là ngàn vị Phật trong kiếp Hiền vậy. Vị Phật thứ nhất hiệu là Phật Câu Lưu Tôn. Vị Phật thứ hai hiệu là Câu Na Hàm Mâu Ni. Vị Phật thứ ba hiệu là Phật Ca Diếp. Vị Phật thứ tư hiệu là Phật Thích Ca Mâu Ni. Vị Phật thứ năm hiệu là Đương Lai Hạ Sinh Di Lặc Tôn Phật (Phật vị lai), và trăm vạn A tăng kỳ các đại Bồ Tát, ở chỗ đạo tràng của Như Lai Vô Lượng Tinh Tấn Lực Danh Xưng Công Đức Huệ, phát tâm A nậu đa la tam miệu tam bồ đề. Hiện nay đang ở trong cõi nước mười phương thế giới hành Bồ Tát đạo, tu tập tăng trưởng môn giải thoát Bồ Tát giáo hoá chúng sinh khiến sinh căn lành nầy.

Vua Thắng Quang thuở đó, hiện nay là đại luận sư Tát Giá Ni Kiền Tử. Các cung nhân và quyến thuộc của vua thuở đó, tức là sáu vạn đệ tử của đại luận sư Tát Giá Ni Kiền Tử, theo thầy cùng đến kiến đại luận tràng, luận nghị với đức Phật, đều bị đức Phật hàng phục, được đức Phật thọ ký A nậu đa la tam miệu tam bồ đề. Những người đó đều sẽ thành Phật, cõi nước trang nghiêm, kiếp số, danh hiệu, thảy đều khác nhau.

Vua Thắng Quang thuở đó, hiện nay là đại luận sư Tát Giá Ni Kiền Tử (một trong sáu đại luân sư của Ấn Độ lúc Phật còn tại thế). Ông ta tu khổ hạnh, loã thể, nhịn đói chịu khát. Các cung nhân và quyến thuộc của vua thuở đó, tức là sáu vạn đệ tử của đại luận sư Tát Giá Ni Kiền Tử, thầy trò họ cùng đến chỗ đức Phật, kiến đại luận tràng, luận nghị với đức Phật, cuối cùng đều bị đức Phật hàng phục, được đức Phật thọ ký A nậu đa la tam miệu tam bồ đề. Những người ngoại đạo đó, tương lai đều sẽ thành Phật, cõi nước trang nghiêm, kiếp số danh hiệu, thảy đều khác nhau.

Phật tử! Lúc bấy giờ ta cứu các tội nhân rồi, cha mẹ cho ta xuất gia, ta xả lìa cõi nước, vợ con, tài sản, ở chỗ đức Phật Pháp Luân Âm Hư Không Đăng Vương, xuất gia học đạo. Trong năm trăm năm tịnh tu phạm hạnh, liền được thành tựu trăm vạn Đà La Ni, trăm vạn thần thông, trăm vạn pháp tạng, trăm vạn cầu nhất thiết trí dũng mãnh tinh tấn. Tịnh trị trăm vạn môn kham nhẫn. Tăng trưởng trăm vạn tâm tư duy. Thành tựu trăm vạn Bồ Tát lực. Vào trăm vạn môn Bồ Tát trí. Đắc được trăm vạn môn Bát Nhã Ba La Mật. Thấy được mười phương trăm vạn chư Phật. Sinh ra trăm vạn Bồ Tát đại nguyện. Trong niệm niệm chiếu đến trăm vạn cõi Phật mười phương. Trong niệm niệm nghĩ nhớ thuở trước sau trăm vạn chư Phật mười phương thế giới. Trong niệm niệm biết được biển biến hoá của trăm vạn chư Phật mười phương thế giới. Trong niệm niệm thấy được hết thảy chúng sinh trăm vạn thế giới mười phương, đủ thứ các cõi, theo nghiệp thọ báo, lúc sinh, lúc chết, cõi lành, cõi ác, sắc tốt, sắc xấu. Các chúng sinh đó, đủ thứ tâm hạnh, đủ thứ ham muốn, đủ thứ căn tánh, đủ thứ nghiệp tập, đủ thứ thành tựu, thảy đều thấu rõ.

Phật tử! Lúc đó ta cứu các tội nhân rồi, cha mẹ nghe lời ta yêu cầu, cho ta xuất gia tu đạo. Ta xả lìa cõi nước, vợ con, tài sản, ở chỗ đức Phật Pháp Luân Âm Hư Không Đăng Vương, xuất gia học đạo. Trong năm trăm năm tịnh tu phạm hạnh, liền được thành tựu trăm vạn pháp môn Đà La Ni, trăm vạn pháp môn thần thông, trăm vạn pháp môn pháp tạng, trăm vạn pháp môn cầu nhất thiết trí dũng mãnh tinh tấn. Tịnh trị trăm vạn pháp môn kham nhẫn. Tăng trưởng trăm vạn pháp môn tâm tư duy. Thành tựu trăm vạn pháp môn Bồ Tát lực. Vào trăm vạn pháp môn Bồ Tát trí. Đắc được trăm vạn pháp môn Bát Nhã Ba La Mật. Thấy được mười phương trăm vạn chư Phật. Sinh ra trăm vạn Bồ Tát đại nguyện. Trong niệm niệm chiếu đến trăm vạn cõi Phật mười phương. Trong niệm niệm nghĩ nhớ thuở trước sau trăm vạn chư Phật mười phương thế giới. Trong niệm niệm biết được biển biến hoá của trăm vạn chư Phật mười phương thế giới. Trong niệm niệm thấy được hết thảy chúng sinh trăm vạn thế giới mười phương, đủ thứ các cõi, theo nghiệp thọ báo. Hết thảy chúng sinh, lúc sinh ra như thế nào, chẳng biết. Lúc chết như thế nào, rất hồ đồ. Hoặc sinh về cõi lành, hoặc sinh về cõi ác, đều tuỳ theo nghiệp thọ báo. Sắc tốt, tướng mạo đoan chánh. Sắc xấu, tướng mạo xấu xí, đây là theo nghiệp mà quyết định.

Tóm lại, tu phước thì được sắc đẹp, tạo nghiệp thì được sắc xấu. Đức Phật còn phải trải qua ba A tăng kỳ tu phước huệ, trăm kiếp trồng tướng tốt, hà huống là chúng ta phàm phu, càng phải tu phước, tu huệ, mới đầy đủ tướng tốt trang nghiêm. Hết thảy chúng sinh có đủ thứ tâm tư, đủ thứ hành vi. Có đủ thứ sự ham muốn, có đủ thứ ưa thích, lại có đủ thứ căn tánh. Tu nghiệp lành thì căn tánh lành, tu nghiệp ác thì căn tánh ác. Ví như, quá khứ tạo nghiệp sát sinh, thì đời nầy thần khí thô bạo, vô duyên vô cớ tìm người khác làm phiền họ, không thể lý dụ. Căn tánh nhất định là ác liệt. Lại có đủ thứ nghiệp tập, lại có đủ thứ thành tựu. Đủ thứ những tình hình nầy, ta đều thấu rõ.

Phật tử! Lúc bấy giờ sau khi ta mạng chung, lại sinh vào trong nhà vua đó, làm Chuyển Luân Vương. Đức Như Lai Pháp Luân Âm Hư Không Đăng Vương diệt độ rồi, kế đó ở đây, ta gặp đức Như Lai Pháp Không Vương, ta hầu hạ cúng dường. Kế đó, ta làm Đế Thích, tại đạo tràng nầy, ta gặp đức Như Lai Thiên Vương Tạng, ta gần gũi cúng dường. Kế đó, ta làm Dạ Ma Thiên Vương, nơi thế giới nầy, ta gặp đức Như Lai Đại Địa Oai Lực Sơn, ta gần gũi cúng dường. Kế đó, ta làm Đâu Suất Thiên Vương, nơi thế giới nầy, ta gặp đức Như Lai Pháp Luân Quang Âm Thanh Vương, ta gần gũi cúng dường. Kế đó, ta làm Hoá Lạc Thiên Vương, nơi thế giới nầy, ta gặp đức Như Lai Hư Không Trí Vương, ta gần gũi cúng dường. Kế đó, ta làm Tha Hoá Tự Tại Thiên Vương, nơi thế giới nầy, ta gặp đức Như Lai Vô Năng Hoại Tràng, ta gần gũi cúng dường. Kế đó, ta làm A Tu La Vương, nơi thế giới nầy, ta gặp đức Như Lai Nhất Thiết Pháp Lôi Âm Vương, ta gần gũi cúng dường. Kế đó, ta làm Phạm Vương, nơi thế giới nầy, ta gặp đức Như Lai Phổ Hiện Hoá Diễn Pháp Âm, ta gần gũi cúng dường.

Phật tử! Trong kiếp Thiện Quang thế giới Bảo Quang đó, có một vạn vị Phật xuất hiện ra đời, ta đều gần gũi hầu hạ cúng dường.

Phật tử! Lúc bấy giờ sau khi ta mạng chung, lại sinh vào trong nhà vua đó, làm Chuyển Luân Thánh Vương. Sau khi đức Phật Pháp Luân Âm Hư Không Đăng Vương vào Niết Bàn rồi, kế đó ở đây, ta lại gặp đức Phật Pháp Không Vương xuất hiện ra đời, ta hầu hạ cúng dường Phật. Kế đó, ta làm Đế Thích, tại đạo tràng nầy, ta lại gặp đức Phật Thiên Vương Tạng xuất hiện ra đời, ta gần gũi cúng dường Phật. Kế đó, ta làm Dạ Ma Thiên Vương, nơi thế giới nầy, ta lại gặp đức Phật Đại Địa Oai Lực Sơn xuất hiện ra đời, ta gần gũi cúng dường Phật. Kế đó, ta làm Đâu Suất Thiên Vương, nơi thế giới nầy, ta lại gặp đức Phật Pháp Luân Quang Âm Thanh Vương xuất hiện ra đời, ta gần gũi cúng dường Phật. Kế đó, ta làm Hoá Lạc Thiên Vương, nơi thế giới nầy, ta lại gặp đức Phật Hư Không Trí Vương xuất hiện ra đời, ta gần gũi cúng dường Phật. Kế đó, ta làm Tha Hoá Tự Tại Thiên Vương, nơi thế giới nầy, ta lại gặp đức Phật Vô Năng Hoại Tràng xuất hiện ra đời, ta gần gũi cúng dường Phật. Kế đó, ta làm A Tu La Vương, nơi thế giới nầy, ta lại gặp đức Phật Nhất Thiết Pháp Lôi Âm Vương xuất hiện ra đời, ta gần gũi cúng dường Phật.

Các vị xem! Đại Bồ Tát hoá thân ngàn vạn ức, tuỳ loài thọ sinh. Loại chúng sinh nào đáng được độ, thì Bồ Tát liền thọ sinh vào trong loài đó. Hiện thân đồng loại, thì dễ dàng giáo hoá. Các vị đừng bao giờ hiểu lầm, cho rằng làm A Tu La Vương tức là hoại vương (ông vua xấu), điều nầy không nhất định được, không thể một lời giải thích được. Có rất nhiều A Tu La Vương là hoá thân của pháp thân Đại Sĩ. Có lúc Bồ Tát hiện thân thuyết pháp, cố ý thị hiện thân A Tu La Vương. Kế đó, ta làm Phạm Vương, nơi thế giới nầy, ta lại gặp đức Phật Phổ Hiện Hoá Diễn Pháp Âm xuất hiện ra đời, ta gần gũi cúng dường Phật.

Phật tử! Trong kiếp Thiện Quang thế giới Bảo Quang đó, có một vạn vị Phật xuất hiện ra đời, ta đều đến chỗ Phật, gần gũi Phật, hầu hạ Phật, cúng dường Phật. Mỗi vị Phật quán triệt thuỷ chung, chẳng khi nào nhàm mỏi.

Kế lại có kiếp tên là Nhựt Quang, có sáu mươi ức vị Phật xuất hiện ra đời. Vị Phật thứ nhất hiệu là Diệu Tướng Sơn. Lúc đó ta làm vua, tên là Đại Huệ. Ta ở chỗ đức Phật đó, hầu hạ cúng dường. Kế lại có vị Phật ra đời, hiệu là Viên Mãn Kiên. Ta làm cư sĩ, gần gũi cúng dường. Kế có vị Phật ra đời, hiệu là Ly Cấu Tràng. Ta làm đại thần, gần gũi cúng dường. Kế lại có vị Phật ra đời, hiệu là Dũng Mãnh Trì. Ta làm A Tu La Vương, gần gũi cúng dường. Kế lại có vị Phật ra đời, hiệu là Tu Di Tướng. Ta làm Thọ Thần, gần gũi cúng dường. Kế lại có vị Phật ra đời, hiệu là Ly Cấu Tí. Ta làm thương chủ, gần gũi cúng dường. Kế lại có vị Phật ra đời, hiệu là Sư Tử Du Bộ. Ta làm thành Thần, gần gũi cúng dường. Kế lại có vị Phật ra đời, hiệu là Bảo Kế. Ta làm Tỳ Sa Môn Thiên Vương, gần gũi cúng dường. Kế lại có vị Phật ra đời, hiệu là Tối Thượng Pháp Xưng. Ta làm Càn Thát Bà Vương, gần gũi cúng dường. Kế lại có vị Phật ra đời, hiệu là Quang Minh Quan. Ta làm Cưu Bàn Trà Vương, gần gũi cúng dường. 

Kế lại có một kiếp tên là Nhựt Quang, trong kiếp đó, có sáu mươi ức vị Phật xuất hiện ra đời. Vị Phật thứ nhất hiệu là Phật Diệu Tướng Sơn. Lúc đó ta làm vua, tên là Đại Huệ. Ta ở chỗ đức Phật đó, hầu hạ cúng dường. Kế lại có vị Phật ra đời, hiệu là Phật Viên Mãn Kiên. Lúc đó ta làm cư sĩ, ta gần gũi cúng dường vị Phật đó. Kế lại có vị Phật ra đời, hiệu là Phật Ly Cấu Tràng. Lúc đó ta làm đại thần, ta gần gũi cúng dường vị Phật đó. Kế lại có vị Phật ra đời, hiệu là Phật Dũng Mãnh Trì. Lúc đó ta làm A Tu La Vương, ta gần gũi cúng dường vị Phật đó. Kế lại có vị Phật ra đời, hiệu là Phật Tu Di Tướng. Lúc đó ta làm Thọ Thần, ta gần gũi cúng dường vị Phật đó. Kế lại có vị Phật ra đời, hiệu là Phật Ly Cấu Tí. Lúc đó ta làm thương chủ, ta gần gũi cúng dường vị Phật đó. Kế lại có vị Phật ra đời, hiệu là Phật Sư Tử Du Bộ. Lúc đó ta làm thành Thần, ta gần gũi cúng dường vị Phật đó. Kế lại có vị Phật ra đời, hiệu là Phật Bảo Kế. Lúc đó ta làm Tỳ Sa Môn Thiên Vương, ta gần gũi cúng dường vị Phật đó. Kế lại có vị Phật ra đời, hiệu là Phật Tối Thượng Pháp Xưng. Lúc đó ta làm Càn Thát Bà Vương, ta gần gũi cúng dường vị Phật đó. Kế lại có vị Phật ra đời, hiệu là Phật Quang Minh Quan. Lúc đó ta làm Cưu Bàn Trà Vương, ta gần gũi cúng dường vị Phật đó.

Ở trong kiếp đó, thứ tự như vậy, có sáu mươi ức vị Phật xuất hiện ra đời. Ta thường thọ đủ thứ thân như vậy, ở mỗi chỗ vị Phật, ta gần gũi cúng dường, giáo hoá thành thục vô lượng chúng sinh. 

Ở chỗ mỗi vị Phật, ta đắc được đủ thứ môn tam muội, đủ thứ môn Đà La Ni, đủ thứ môn thần thông, đủ thứ môn biện tài, đủ thứ môn nhất thiết trí, đủ thứ môn pháp minh, đủ thứ môn trí huệ, chiếu đủ thứ biển mười phương, vào đủ thứ biển cõi Phật, thấy đủ thứ biển chư Phật, thanh tịnh thành tựu, tăng trưởng rộng lớn.

Ở trong kiếp Nhựt Quang đó, thứ tự như vậy, có sáu mươi ức vị Phật xuất hiện ra đời. Ta ở trong thế giới đó, thường thọ đủ thứ thân như vậy, ở chỗ đạo tràng của mỗi vị Phật, ta đều gần gũi cúng dường, giáo hoá thành thục vô lượng chúng sinh. Ở chỗ mỗi vị Phật, ta đắc được đủ thứ môn tam muội, đủ thứ môn Đà La Ni, đủ thứ môn thần thông, đủ thứ môn biện tài, đủ thứ môn nhất thiết trí, đủ thứ môn pháp minh, đủ thứ môn trí huệ. Chiếu đủ thứ biển mười phương, vào đủ thứ biển cõi Phật, thấy đủ thứ biển chư Phật, thanh tịnh thành tựu, tăng trưởng rộng lớn.

Như ở trong kiếp đó, ta gần gũi cúng dường hết thảy các đức Phật như vậy. Ở tất cả mọi nơi, số kiếp nhiều như số hạt bụi tất cả biển thế giới, hết thảy chư Phật, xuất hiện ra đời, ta đều gần gũi cúng dường, lắng nghe thuyết pháp, tin thọ hộ trì, cũng lại như thế. Ở chỗ tất cả các đức Phật như vậy, ta đều tu tập môn giải thoát nầy. Lại đắc được vô lượng giải thoát phương tiện.

Như ở trong kiếp Nhựt Quang đó, ta gần gũi cúng dường hết thảy các đức Phật như vậy. Ở trong những kiếp khác, cũng gần gũi cúng dường hết thảy các đức Phật. Tất cả mọi nơi, số kiếp nhiều như số hạt bụi tất cả biển thế giới, hết thảy chư Phật, xuất hiện ra đời, ta đều gần gũi Phật, cúng dường Phật, lắng nghe Phật thuyết pháp, tin thọ Phật pháp, hộ trì Phật pháp. Hết thảy pháp của chư Phật nói, cũng đều như thế. Ở chỗ đạo tràng của tất cả các đức Phật như vậy, ta đều tu tập môn giải thoát nầy. Lại đắc được vô lượng giải thoát phương tiện. Ở trên là vị Chủ Dạ Thần Đại Nguyện Tinh Tấn Lực Cứu Hộ Nhất Thiết Chúng Sinh, tường thuật lại hạnh môn tu hành thuở xưa.

Bấy giờ, vị Chủ Dạ Thần Cứu Hộ Nhất Thiết Chúng Sinh, muốn thuật lại nghĩa giải thoát nầy, liền vì Thiện Tài mà nói kệ rằng:

Lúc đó, vị Chủ Dạ Thần Cứu Hộ Nhất Thiết Chúng Sinh, muốn tường thuật lại nghĩa lý môn giải thoát giáo hoá chúng sinh khiến sinh căn lành, liền vì Thiện Tài đồng tử mà nói kệ rằng:

Ngươi dùng tâm hoan hỉ tin ưa
Hỏi pháp giải thoát khó nghĩ nầy
Ta nương sức hộ niệm của Phật
Vì ngươi tuyên nói nên nghe thọ.

Ngươi dùng tâm hoan hỉ tin ưa, thưa hỏi pháp giải thoát không thể nghĩ bàn nầy. Ta nương sức hộ niệm của mười phương chư Phật, nay vì ngươi tuyên nói nghĩa lý nầy, hy vọng ngươi nên chú ý lắng nghe lãnh thọ pháp nầy.

Quá khứ vô biên kiếp rộng lớn
Trải qua số hạt bụi biển cõi
Thời có thế giới tên Bảo Quang
Trong đó có kiếp tên Thiện Quang.

Bây giờ ta nhớ lại, trong quá khứ vô biên đại kiếp rộng lớn, trải qua số hạt bụi nhiều như biển cõi. Lúc đó có thế giới tên Bảo Quang, trong thế giới đó, có một kiếp tên là kiếp Thiện Quang.

Ở trong đại kiếp Thiện Quang đó
Một vạn vị Phật hiện ra đời
Ta đều gần gũi cúng dường Phật
Theo Phật tu học giải thoát nầy.

Ở trong đại kiếp Thiện Quang đó, có một vạn vị Phật xuất hiện ra đời. Ta đều đến chỗ Phật, gần gũi Phật, cúng dường Phật. Ta theo một vạn vị Phật tu học pháp môn giải thoát nầy.

Thời có cung vua tên Hỉ Nghiêm
Ngang dọc rộng bằng rất tráng lệ
Chúng sinh tạp nghiệp ở trong đó
Hoặc tâm thanh tịnh hoặc làm ác.

Lúc đó, có một cung vua tên là Bảo Trang Nghiêm, ngang dọc rộng lớn, bằng phẳng rất đặc thù đẹp đẽ tráng lệ. Thành đó là nơi chúng sinh tạp nghiệp ở, có chúng sinh tâm thanh tịnh, có chúng sinh tâm ác liệt. Người tâm thanh tịnh thì phụng hành năm giới tu trì pháp thập thiện. Người tâm ác liệt thì chẳng giữ năm giới, chuyên sát sinh, trộm cắp, tà dâm, nói dối, nói thêu dệt, nói hai lưỡi, chửi mắng, tham lam, sân hận, si mê, mười điều ác.

Bấy giờ có vua tên Thắng Quang
Luôn dùng chánh pháp trị quần sinh
Thái tử vua đó tên Thiện Phục
Thân hình đoan chánh đủ các tướng.

Lúc bấy giờ, có một ông vua tên là Thắng Quang. Luôn luôn tuyên dương Phật pháp, dùng chánh pháp trị lý tất cả chúng sinh. Vua Thắng Quang có một vị thái tử, tên là Thiện Phục. Thái tử có thân hình đoan chánh, đầy đủ ba mươi hai tướng đại nhân.

Thời có vô lượng các tội nhân
Giam trong ngục tối sẽ hành hình
Thái tử thấy rồi sinh thương xót
Tâu lên vua cha xin ân xá.

Lúc đó, có vô lượng người phạm tội, bị giam ở trong lao ngục tối tăm, tay chân bị gông cùm, đi lại chẳng được tự do, chờ đợi sẽ đem ra hành hình. Thái tử Thiện Phục ở trong cung điện, nghe tiếng kêu cứu, bèn sinh tâm trắc ẩn, đến lao ngục xem thử, thì thấy các tội nhân thọ đủ thứ hình phạt, rất là đáng thương, bèn sinh tâm đại bi thương xót những tội nhân đó. Trở về cung, liền đi gặp vua Thắng Quang, tâu rằng: “Xin đại vương từ bi, hãy tha thứ cho những tội nhân ngu si, hãy thả họ ra! Để cho họ sửa lỗi làm mới”.

Bấy giờ các quan đều tâu vua
Nay thái tử nầy phạm vương pháp
Tội nhân như vậy đáng hành hình
Sao lại cứu họ xin ân xá.

Lúc đó năm trăm vị đại thần đều phản đối hành vi của thái tử, đều cùng nhau đến tâu với vua rằng: “Đại vương! Hiện tại lời yêu cầu của thái tử là trái với luật pháp quốc gia, không thể phê chuẩn. Bằng không, sẽ nguy hại đến sự an toàn của Ngài. Hy vọng đại vương hãy nghĩ kỹ lại. Những tội nhân nầy đáng xử theo pháp luật, phải chém đầu thị chúng. Sao lại ân xá cho họ, không trừng phạt họ, không thể được”.

Thời vua Thắng Quang bảo thái tử
Ngươi cứu tội nhân phải chịu chết
Thái tử lòng thương càng sâu nặng
Thề cứu chúng sinh không lui sợ.

Lúc đó, vua Thắng Quang bảo thái tử Thiện Phục rằng: “Ngươi hãy đổi ý định đi. Nếu ngươi muốn cứu những tội nhân đó, thì ngươi phải thay thế họ chịu hành hình. Đây là quốc pháp, mọi người đều bình đẳng, chẳng có tư tình để nói. Ngươi hãy suy nghĩ cho kỹ, không thể dụng việc cảm tình”. Thái tử nghe lời đó rồi, lòng thương người càng sâu nặng hơn. Tâm đồng tình đó, vĩnh viễn không lui sợ, nhất định muốn cứu những tội nhân đó thoát khỏi khổ ngục tù.

Thời hoàng hậu cùng với thể nữ
Đều đến chỗ vua cùng bạch rằng:
Xin cho thái tử trong nửa tháng
Bố thí chúng sinh làm công đức.

Lúc bấy giờ, hoàng hậu cùng với tất cả thể nữ, cùng nhau đi đến chỗ vua, cùng bạch với vua rằng: “Xin đại vương hãy tạm tha cho thái tử trong vòng nửa tháng, để cho thái tử bố thí cho tất cả chúng sinh, tu tập các công đức”.

Thời vua nghe rồi liền hứa khả
Lập đại thí hội cứu dân nghèo
Tất cả chúng sinh đều đến hội
Tuỳ ý họ cần đều cấp cho.

Bấy giờ, vua Thắng Quang nghe lời cầu xin của hoàng hậu rồi, bèn hứa khả yêu cầu đó. Khiến cho thái tử lập pháp hội bố thí lớn, để cứu giúp những chúng sinh nghèo thiếu. Tất cả chúng sinh đều đến pháp hội bố thí lớn đó, tuỳ ý họ cần gì, đều bố thí cho họ cái đó, chẳng khiến cho chúng sinh thất vọng.

Như vậy nửa tháng đã trôi qua
Giờ xử thái tử đã sắp đến
Đại chúng trăm ngàn vạn ức người
Đồng thời chiêm ngưỡng đều gào khóc.

Bố thí như vậy, trải qua được nửa tháng, thời kỳ đã mãn, giờ xử thái tử đã sắp đến. Đại chúng có hàng trăm ngàn vạn ức người, đồng thời chiêm ngưỡng dung nhan thái tử, mắt chẳng tạm rời, cùng kêu gào khóc than. Tại sao? Vì họ cảm động tâm nhân từ của thái tử, mà kêu gào khóc than như vậy.

Phật đó biết các căn thành thục
Bèn đến hội đó hoá quần sinh
Hiển hiện thần biến đại trang nghiêm
Đại chúng gần gũi và cung kính.

Lúc đó, đức Phật Pháp Luân Âm Hư Không Đăng Vương, biết căn tánh của đại chúng sắp thành thục, cho nên đến hội thí đó, khắp giáo hoá những chúng sinh đó, hiển hiện thần thông biến hoá đại trang nghiêm. Hết thảy chúng sinh đều đến gần gũi, đều đến cung kính cúng dường đức Phật.

Phật dùng một âm phương tiện nói
Đèn pháp chiếu khắp Tu Đa La
Vô lượng chúng sinh tâm mềm mại
Đều được Phật thọ ký bồ đề.

Phật dùng một thứ âm thanh, phương tiện vì chúng sinh nói pháp. Đèn pháp chiếu khắp Tu Đa La, pháp môn khế kinh nầy. Vô lượng chúng sinh nghe được bộ kinh nầy rồi, tâm ý mềm mại. Chúng sinh cang cường, tâm sinh từ bi, cải ác hướng thiện. Đại chúng phát tâm bồ đề, được Phật thọ ký bồ đề.

Thái tử Thiện Phục sinh hoan hỉ
Phát hưng tâm chánh giác vô thượng
Thệ nguyện hầu hạ nơi đức Phật
Khắp vì chúng sinh làm chỗ nương.

Lúc đó, thái tử Thiện Phục được đức Phật thương xót, sinh đại hoan hỉ, phát hưng tâm bồ đề chánh giác vô thượng, phát đại thệ nguyện đời đời kiếp kiếp hầu hạ Phật. Khắp vì tất cả chúng sinh làm chỗ nương tựa, khiến cho chúng sinh chuyên tâm nhất chí tu trì Phật pháp.

Lập tức xuất gia nương tựa Phật
Tu hành đạo nhất thiết chủng trí
Bấy giờ liền được giải thoát nầy
Đại bi rộng cứu các quần sinh.

Thái tử Thiện Phục phát đại thệ nguyện rồi, lập tức xuất gia tu đạo, nương tựa Phật mà trụ. Tu hành pháp môn nhất thiết trí huệ. Lúc bấy giờ, thái tử liền đắc được môn giải thoát nầy. Phát tâm đại bi rộng cứu giúp tất cả chúng sinh, khiến cho họ lìa khổ ba cõi, đắc được vui Niết Bàn.

Trụ ở trong đó trải biển kiếp
Quán sát các pháp tánh chân thật
Thường nơi biển khổ cứu chúng sinh
Tu tập đạo bồ đề như vậy.

Trụ ở trong đó, trải qua thời gian biển kiếp lâu dài, quán sát kỹ càng tự tánh chân thật của tất cả các pháp. Thường ở trong biển khổ cứu giúp tất cả chúng sinh. Tu tập đạo bồ đề như vậy, chẳng khi nào mỏi nhàm.

Kiếp đó hết thảy chư Phật hiện
Thảy đều hầu hạ không dư thừa
Đều dùng tâm tin hiểu thanh tịnh
Lắng nghe hộ trì pháp Phật nói.

Trong biển kiếp đó, khi hết thảy tất cả chư Phật xuất hiện ra đời, ta đều đến chỗ đức Phật, hầu hạ Phật. Ta dùng tâm tin hiểu thanh tịnh, lắng nghe chánh pháp của Phật nói, tu trì chánh pháp của Phật nói, hộ trì chánh pháp của Phật nói.

Kế số bụi nhiều như cõi Phật
Vô lượng vô biên các biển kiếp
Hết thảy chư Phật hiện thế gian
Mỗi mỗi cúng dường đều như vậy.

Kế vô lượng vô biên các biển kiếp, số bụi nhiều như cõi Phật, khi hết thảy tất cả chư Phật xuất hiện nơi thế gian. Bất cứ vị Phật nào, ta cũng đều đi đến chỗ đức Phật hầu hạ cúng dường, chẳng có bỏ sót không hầu hạ cúng dường một vị Phật nào. Tóm lại, hết thảy chư Phật ta đều cúng dường.

Ta nhớ thuở xưa làm thái tử
Thấy các chúng sinh trong lao ngục
Thệ nguyện xả thân để cứu hộ
Nhờ đó chứng môn giải thoát nầy.

Ta nhớ thuở xưa khi làm thái tử, đã từng thấy rất nhiều chúng sinh thọ khổ hình trong lao ngục. Ta sinh tâm trắc ẩn, phát thệ nguyện xả thân mạng của ta, để cứu hộ những tội nhân đó, được thoát khỏi khổ sở ngục tù. Bởi nguyên nhân đó, cho nên ta chứng được pháp môn giải thoát nầy. Pháp môn nầy là pháp môn không thể nghĩ bàn.

Trải số bụi nhiều như cõi Phật
Biển kiếp rộng lớn thường tu tập
Niệm niệm khiến cho được tăng trưởng
Lại được vô biên phương tiện khéo.

Trải qua biển đại kiếp rộng lớn nhiều như số bụi cõi Phật, ta thường tu tập pháp môn giải thoát nầy. Trong mỗi một niệm, đều khiến cho môn giải thoát nầy được cơ hội tăng trưởng. Lại đắc được vô biên pháp môn phương tiện khéo léo, tăng trưởng sức lực môn giải thoát.

Trong đó hết thảy các Như Lai
Ta đều thấy được mà khai ngộ
Khiến ta hiểu thêm giải thoát nầy
Cùng với đủ thứ sức phương tiện.

Trong đó hết thảy tất cả chư Phật đó, ta đều thấy được, lại được chư Phật khai thị, mà được giác ngộ. Khiến cho ta hiểu thêm nghĩa lý môn giải thoát nầy, và đủ thứ sức phương tiện.

Ta trong vô lượng ngàn ức kiếp
Học môn giải thoát khó nghĩ nầy
Biển pháp chư Phật không bờ mé
Một thời ta đều uống được khắp.

Ta ở trong vô lượng ngàn ức đại kiếp, tu học môn giải thoát không thể nghĩ bàn nầy. Tất cả biển pháp của chư Phật không bờ mé, nhưng ta có thể một thời uống được khắp biển pháp của chư Phật.

Mười phương hết thảy tất cả cõi
Thân ta vào khắp không chướng ngại
Ba đời đủ thứ tên cõi nước
Niệm niệm biết hết đều rất rõ.

Mười phương hết thảy tất cả cõi, thân ta đều có thể vào khắp không chướng ngại. Ba đời đủ thứ tên cõi nước, ta ở trong niệm niệm biết được hết rất rõ ràng.

Ba đời hết thảy biển chư Phật
Mỗi mỗi thấy rõ hết không thừa
Cũng hay thị hiện thân tướng Phật
Đến khắp chỗ các Như Lai đó.

Mười phương ba đời hết thảy biển chư Phật, khi hết thảy chư Phật xuất hiện ra đời, ta đều thấy rõ hết, đến gần gũi cúng dường, không bỏ sót một vị Phật nào. Bất cứ có bao nhiêu vị Phật, ta lần lược thị hiện thân tướng, đến khắp chỗ đức Phật, gần gũi Phật, hầu hạ Phật, cúng dường Phật.

Lại nơi mười phương tất cả cõi
Trước tất cả chư Phật đạo sư
Khắp mưa tất cả mây trang nghiêm
Cúng dường tất cả Vô Thượng Giác.

Ta lại ở nơi mười phương tất cả cõi, trước tất cả chư Phật đạo sư, khắp mưa tất cả mây trang nghiêm, cúng dường tất cả mười phương Vô Thượng Giác, tức cũng là Phật, cũng là A nậu đa la tam miệu tam bồ đề, nghĩa là Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác.

Lại dùng vô biên biển thưa hỏi
Thưa thỉnh tất cả các Thế Tôn
Phật đó mưa xuống mây diệu pháp
Thảy đều thọ trì không quên mất.

Lại dùng vô biên biển thưa hỏi, thưa thỉnh mười phương ba đời tất cả các Thế Tôn, xin phát tâm từ bi, vì con nói Phật pháp nghĩa chân thật. Phật đó mưa xuống mây diệu pháp, ta đều thọ trì không khi nào quên mất. Do đó có câu: “Một khi lọt qua tai, vĩnh viễn hạt giống đạo”.

Lại nơi mười phương vô lượng cõi
Trước chúng hội tất cả Như Lai
Ngồi nơi toà trang nghiêm vi diệu
Thị hiện đủ thứ sức thần thông.

Lại ở nơi mười phương vô lượng cõi, trước chúng hội đạo tràng của tất cả Như Lai, ngồi nơi toà sư tử trang nghiêm vi diệu, thị hiện đủ thứ sức thần thông biến hoá, nhậm vận tự tại, tuỳ theo ý muốn, chẳng bị sự hạn chế nào.

Lại nơi mười phương vô lượng cõi
Thị hiện đủ thứ các thần biến
Một thân thị hiện vô lượng thân
Trong vô lượng thân hiện một thân.

Lại ở nơi mười phương vô lượng cõi, thị hiện đủ thứ các thần thông biến hoá. Một thân thị hiện vô lượng thân, trong vô lượng thân thị hiện làm một thân. Do đó có câu: “Một làm vô lượng, vô lượng làm một”. Đây là cảnh giới viên dung vô ngại của Kinh Hoa Nghiêm.

Lại trong mỗi mỗi lỗ chân lông
Đều phóng vô số đại quang minh
Đều dùng đủ thứ phương tiện khéo
Trừ diệt lửa phiền não chúng sinh.

Lại ở trong mỗi lỗ chân lông, đều phóng ra vô số đại quang minh. Đều dùng đủ thứ phương tiện khéo léo, trừ diệt lửa phiền não của tất cả chúng sinh. Chúng sinh có tám vạn bốn ngàn bệnh nhiệt phiền não, cho nên Phật thiết lập tám vạn bốn ngàn pháp môn mát mẻ, chuyên trị tất cả bệnh phiền não.

Lại trong mỗi mỗi lỗ chân lông
Xuất hiện vô lượng mây hoá thân
Đầy khắp mười phương các thế giới
Khắp mưa pháp vũ cứu quần sinh.

Lại ở trong mỗi lỗ chân lông, xuất hiện vô lượng mây hoá thân. Đầy khắp trong mười phương tất cả các thế giới, khắp mưa tất cả pháp vũ cứu tế tất cả chúng sinh, được uống nước cam lồ, giải trừ nhiệt phiền não.

Mười phương tất cả các Phật tử
Vào môn giải thoát khó nghĩ nầy
Hết thuở vị lai vô lượng kiếp
An trụ tu hành Bồ Tát hạnh.

Mười phương tất cả các Phật tử, vào môn giải thoát khó nghĩ bàn nầy, đều hết thuở vị lai vô lượng đại kiếp, an trụ tu hành Bồ Tát hạnh, tức cũng là pháp lục độ vạn hạnh. Pháp môn xả mình vì người, tức là Bồ Tát hạnh.

Tuỳ tâm ưa thích mà thuyết pháp
Khiến họ đều trừ lưới tà kiến
Chỉ bày Thiên đạo và hai thừa
Cho đến Như Lai nhất thiết trí.

Tuỳ tâm ưa thích của chúng sinh mà thuyết pháp, khiến cho họ đều trừ diệt lưới tà kiến. Chỉ bày thiên đạo và nhị thừa (Thanh Văn và Duyên Giác), cho đến Phật thừa nhất thiết trí, đương nhiên Bồ Tát thừa cũng ở trong đó. Bộ Kinh Hoa Nghiêm nầy, đều nói về đạo lý Bồ Tát làm thế nào phát bồ đề tâm, làm thế nào hành Bồ Tát đạo.

Nơi tất cả chúng sinh thọ sinh
Thị hiện vô biên đủ thứ thân
Đều đồng loại họ hiện thân hình
Khắp ứng tâm họ mà thuyết pháp.

Nơi tất cả chúng sinh thọ sinh, thị hiện vô biên đủ thứ sắc thân. Khi ở nơi chúng sinh nào, thì hiện ra thân hình chúng sinh đó, tại sao? Vì khắp ứng tâm của chúng sinh mà vì họ thuyết pháp. Bằng không, không dễ gì giáo hoá. Bồ Tát hành Bồ Tát đạo, thường dùng bốn pháp nhiếp (Bố thí, ái ngữ, lợi hành, đồng sự), để nhiếp thọ chúng sinh khó điều, khó phục, khiến cho tâm họ nhu hoà, có tâm đồng tình, ái hộ tất cả hữu tình chúng sinh, dù con kiến, con muỗi, cũng không làm hại.

Nếu ai được môn giải thoát nầy
Sẽ trụ vô biên biển công đức
Ví như số hạt bụi biển cõi
Không thể nghĩ bàn vô số lượng.

Nếu có ai đắc được môn giải thoát nầy, thì sẽ trụ ở trong vô biên biển công đức. Ví như số hạt bụi biển cõi, không thể nghĩ bàn vì vô số lượng. Biển công đức nầy, cũng chẳng có bờ mé, sâu không thể dò được, rộng không thể lường được.

Thiện nam tử! Ta chỉ biết môn giải thoát Giáo hoá chúng sinh khiến sinh căn lành nầy. Như các đại Bồ Tát vượt các thế gian, hiện thân các cõi, chẳng trụ phan duyên, không có chướng ngại, thấu đạt tự tánh tất cả các pháp. Khéo quán sát tất cả các pháp, đắc được trí vô ngã, chứng pháp vô ngã, giáo hoá điều phục tất cả chúng sinh, luôn không ngừng nghỉ. Tâm thường an trụ pháp môn không hai. Vào khắp tất cả các biển lời lẽ. Ta nay làm sao biết được, nói được, biển công đức đó, trí dũng mãnh đó, tâm hành xứ đó, cảnh tam muội đó, sức giải thoát đó?

Vị Dạ Thần Đại Nguyện Tinh Tấn Lực lại gọi một tiếng thiện nam tử! Ta chỉ biết môn giải thoát giáo hoá chúng sinh khiến sinh căn lành nầy. Như các đại Bồ Tát vượt khỏi các thế gian, hiện thân các cõi, chẳng trụ phan duyên, không có chướng ngại, thấu đạt tự tánh tất cả các pháp. Khéo quán sát tất cả các pháp, đắc được trí huệ vô ngã, chứng pháp môn vô ngã, giáo hoá tất cả chúng sinh, điều phục được tất cả chúng sinh, luôn không ngừng nghỉ. Tâm thường an trụ pháp môn không hai, tức cũng là tư duy đệ nhất nghĩ đế. Vào khắp tất cả các biển lời lẽ. Những vấn đề đó, ta nay làm sao biết được những đạo lý đó? Làm sao nói được biển công đức đó? Trí dũng mãnh đó? Tâm hành xứ đó? Cảnh tam muội đó? Sức giải thoát đó? Ta thật không cách chi nói ra được.

Thiện nam tử! Tại Diêm Phù Đề nầy, có một khu rừng, tên là Lam Tỳ Ni. Khu rừng đó có vị Thần, tên là Diệu Đức Viên Mãn. Ngươi đến đó hỏi: Bồ Tát làm thế nào tu Bồ Tát hạnh, sinh vào nhà Như Lai, làm ánh sáng cho đời. Hết kiếp thuở vị lai, mà không nhàm mỏi?

Thiện nam tử! Tại cõi Diêm Phù Đề nầy, có một khu rừng, tên là Lam Tỳ Ni. Trong khu vườn rừng đó có vị Thần, tên là Thần Diệu Đức Viên Mãn. Ngươi đến đó hỏi: Bồ Tát làm thế nào tu Bồ Tát hạnh? Làm thế nào sinh vào nhà Như Lai? Làm thế nào ánh sáng chiếu cho đời? Hết kiếp thuở vị lai, mà không khi nào nhàm mỏi?

Bấy giờ, Thiện Tài đồng tử đảnh lễ vị Dạ Thần, đi nhiễu quanh vô lượng vòng, chắp tay chiêm ngưỡng, rồi từ tạ mà đi.

Lúc đó, Thiện Tài đồng tử nghe sự khai thị của vị Dạ Thần Đại Nguyện Tinh Tấn Lực Cứu Hộ Nhất Thiết Chúng Sinh rồi, thọ được pháp ích, bèn đảnh lễ vị Dạ Thần, đi nhiễu quanh bên phải vô lượng vòng, chắp tay chiêm ngưỡng vị Dạ Thần, sau đó từ tạ vị Dạ Thần mà đi đến khu vườn rừng Lam Tỳ Ni, tham phương vị Thần Diệu Đức Viên Mãn, để thưa hỏi vấn đề cần muốn biết.

Pages: 1 2 3 4 5 6