KINH HOA NGHIÊM
ĐẠI PHƯƠNG QUẢNG PHẬT
QUYỂN BẢY MƯƠI MỐT
PHẨM VÀO PHÁP GIỚI
THỨ BA MƯƠI CHÍN PHẦN MƯỜI HAI
36. DẠ THẦN THỦ HỘ NHẤT THIẾT THÀNH PHÓ THÁC THỨ SÁU HIỆN TIỀN ĐỊA
Bấy giờ, Thiện Tài đồng tử tuỳ thuận lời dạy của Chủ Dạ Thần Tịch Tĩnh Âm Hải, suy gẫm quán sát pháp môn của Ngài đã nói. Mỗi mỗi câu văn đều không quên mất. Nơi vô lượng thâm tâm, vô lượng pháp tánh, tất cả phương tiện thần thông trí huệ, nghĩ nhớ suy chọn, liên tục không dứt. Tâm rộng lớn, chứng nhập an trụ, đi đến chỗ vị Dạ Thần Thủ Hộ Nhất Thiết Thành.
Lúc đó, Thiện Tài đồng tử, tuỳ thuận lời dạy của Chủ Dạ Thần Tịch Tĩnh Âm Hải, suy gẫm quán sát pháp môn của Ngài đã nói. Mỗi mỗi câu văn, đều nhớ ở trong biển não, không quên mất. Đối với vô lượng thâm tâm, vô lượng pháp tánh, cùng với tất cả phương tiện thần thông trí huệ, nghĩ nhớ suy chọn, liên tục không dứt. Tâm rất rộng lớn, chứng nhập an trụ, mà đi đến chỗ vị Dạ Thần Thủ Hộ Nhất Thiết Thành. (Khiến cho tất cả chúng sinh thủ hộ tâm thành, xả bỏ thành ba cõi, vì khiến cho đắc được nhất thiết trí vô thượng pháp thành, cho nên gọi là Dạ Thần Thủ Hộ Nhất Thiết Thành).
Đây là Hiện Tiền Địa thứ sáu. Trụ duyên khởi trí, dẫn đến Bát Nhã tối thù thắng không phân biệt, tức cũng là chẳng có sự phân biệt nhiễm tịnh, vì khiến cho hiện tiền, cho nên gọi là Hiện Tiền Địa. Khi Bồ Tát tu bậc Thập Địa, thì tu pháp môn mười Ba La Mật. Mỗi thứ pháp môn tu hành viên mãn, thì sẽ thành tựu cảnh giới địa đó. Đây là Địa Thứ Sáu, thành tựu pháp môn Bát Nhã Ba La Mật, đã đoạn trừ kiến tư hai hoặc của ba cõi.
Thiện Tài đồng tử thấy vị Dạ Thần đó, ngồi trên toà sư tử Nhất thiết báu quang minh ma ni vương. Có vô số vị Dạ Thần cùng nhau vây quanh. Hiện thân sắc tướng tất cả chúng sinh. Hiện thân đối với khắp tất cả chúng sinh. Hiện thân không nhiễm tất cả thế gian. Hiện thân đồng số tất cả thân chúng sinh. Hiện thân vượt qua tất cả thế gian. Hiện thân thành thục tất cả chúng sinh. Hiện thân mau đến tất cả mười phương. Hiện thân nhiếp khắp tất cả mười phương. Hiện thân Như Lai thể tánh rốt ráo. Hiện thân điều phục chúng sinh rốt ráo.
Thiện Tài thấy rồi, hoan hỉ vui mừng, đảnh lễ vị Dạ Thần, đi nhiễu quanh vô lượng vòng, chắp tay ở trước mà bạch rằng: Đức Thánh! Con trước đã phát tâm A nậu đa la tam miệu tam bồ đề, mà chưa biết khi Bồ Tát tu Bồ Tát hạnh, thì làm thế nào lợi ích chúng sinh? Làm thế nào dùng nhiếp thọ vô thượng mà nhiếp thọ chúng sinh? Làm thế nào tuỳ thuận lời dạy của chư Phật? Làm thế nào gần gũi bậc Pháp Vương? Xin Ngài thương xót vì con mà tuyên nói.
Thiện Tài đồng tử thấy vị Dạ Thần Thủ Hộ Nhất Thiết Thành, ngồi trên toà sư tử Nhất thiết báu quang minh ma ni vương. Có vô lượng vô số vị Dạ Thần cùng nhau vây quanh tứ phía. Ngài hiện ra thân sắc tướng tất cả chúng sinh. Hiện ra thân đối với khắp tất cả chúng sinh. Hiện ra thân không nhiễm tất cả thế gian. Hiện ra thân đồng số thân tất cả chúng sinh. Hiện ra thân vượt qua tất cả thế gian. Hiện ra thân thành thục tất cả chúng sinh. Hiện ra thân mau đến tất cả mười phương. Hiện ra thân nhiếp khắp tất cả mười phương. Hiện ra thân Như Lai thể tánh rốt ráo. Hiện ra thân điều phục chúng sinh rốt ráo.
Thiện Tài thấy nhiều thân như vậy rồi, hoan hỉ không kiềm chế được nhảy nhót lên, đảnh lễ vị Dạ Thần, đi nhiễu quanh bên phải vô lượng vòng, sau đó chắp tay ở trước vị Dạ Thần mà bạch rằng: Đức Thánh! Con trước đã phát tâm A nậu đa la tam miệu tam bồ đề, mà chưa biết khi Bồ Tát tu Bồ Tát hạnh, thì làm thế nào lợi ích chúng sinh? Làm thế nào dùng nhiếp thọ vô thượng mà nhiếp thọ chúng sinh? Làm thế nào tuỳ thuận lời dạy của chư Phật? Làm thế nào gần gũi bậc Pháp Vương? Bốn vấn đề nầy, xin Ngài từ bi thương xót vì con mà tuyên nói.
Bấy giờ, vị Dạ Thần đó bảo Thiện Tài rằng: Thiện nam tử! Ngươi vì cứu hộ tất cả chúng sinh. Ngươi vì nghiêm tịnh tất cả cõi Phật. Ngươi vì cúng dường tất cả Như Lai. Ngươi vì muốn trụ tất cả kiếp để cứu chúng sinh. Ngươi vì muốn giữ gìn giống tánh của tất cả chư Phật. Ngươi vì muốn vào khắp mười phương tu các hạnh. Ngươi vì muốn vào khắp tất cả biển pháp môn. Ngươi vì muốn dùng tâm bình đẳng khắp tất cả. Ngươi vì muốn thọ khắp bánh xe pháp của tất cả chư Phật. Ngươi vì muốn tuỳ thuận khắp sự ưa thích tất cả tâm chúng sinh mà mưa pháp vũ, mà hỏi hạnh môn tu của các Bồ Tát.
Lúc đó, vị Dạ Thần Thủ Hộ Nhất Thiết Thành bảo Thiện Tài đồng tử rằng: Thiện nam tử! Ngươi vì cứu hộ tất cả chúng sinh. Ngươi vì nghiêm tịnh tất cả cõi Phật. Ngươi vì cúng dường tất cả Như Lai. Ngươi vì muốn trụ trong tất cả kiếp để cứu hộ tất cả chúng sinh. Ngươi vì muốn giữ gìn giống tánh của tất cả chư Phật. Ngươi vì muốn vào khắp mười phương tu các hạnh. Ngươi vì muốn vào khắp tất cả biển pháp môn. Ngươi vì muốn dùng tâm bình đẳng khắp tất cả. Ngươi vì muốn thọ khắp bánh xe pháp của tất cả chư Phật. Ngươi vì muốn tuỳ thuận khắp sự ưa thích tất cả tâm chúng sinh mà mưa pháp vũ, mà hỏi hạnh môn tu hành của tất cả các Bồ Tát.
Thiện nam tử! Ta đắc được giải thoát Bồ Tát diệu âm tự tại thâm sâu.
Vị Dạ Thần Thủ Hộ Nhất Thiết Thành kêu một tiếng thiện nam tử! Ta chứng đắc được giải thoát Bồ Tát diệu âm tự tại thâm sâu. Thế nào gọi là thâm sâu? Tức là sự khế hợp lý. Thế nào gọi là tự tại? Tức là quyền thật vô ngại, uẩn nhiếp diệu biện. Thế nào là diệu âm? Tức là nương đây diễn pháp, phổ ứng quần cơ. Thế nào là giải thoát? Tức là giải trói phiền não, thoát khổ sinh tử.
Làm đại pháp sư, không quái ngại, vì khéo hay khai thị tạng pháp của chư Phật. Đủ đại thệ nguyện đại từ bi lực, vì khiến cho tất cả chúng sinh trụ tâm bồ đề. Hay làm tất cả việc lợi ích chúng sinh, vì tích tập căn lành không ngừng nghỉ. Làm Điều Ngự Sư của tất cả chúng sinh, vì khiến cho tất cả chúng sinh trụ đạo nhất thiết trí. Làm mặt trời pháp thanh tịnh tất cả thế gian, vì chiếu khắp thế gian khiến sinh căn lành. Tâm bình đẳng đối với tất cả thế gian, vì khắp khiến cho chúng sinh tăng trưởng pháp lành. Tâm thanh tịnh đối với các cảnh giới, vì trừ diệt tất cả các nghiệp bất thiện. Thệ nguyện lợi ích tất cả chúng sinh, vì thân luôn hiện khắp tất cả cõi nước. Thị hiện tất cả nhân duyên bổn sự, vì khiến cho các chúng sinh an trụ hạnh lành. Luôn hầu hạ tất cả thiện tri thức, vì khiến cho chúng sinh an trụ trong Phật giáo.
Trong quá khứ ta đã từng làm đại pháp sư, tất cả đều không quái ngại, vì khéo hay khai thị tạng pháp của tất cả chư Phật. Đầy đủ đại thệ nguyện đại từ bi lực, vì hay khiến cho tất cả chúng sinh trụ tâm bồ đề. Hay làm tất cả sự việc lợi ích chúng sinh, vì tích tập tất cả căn lành, đều hồi hướng khắp pháp giới, không khi nào ngừng nghỉ. Làm Điều Ngự Sư của tất cả chúng sinh, vì khiến cho tất cả chúng sinh an trụ đạo nhất thiết trí (Tát Bà Nhạ). Làm mặt trời pháp thanh tịnh tất cả thế gian, vì chiếu khắp thế gian tất cả chúng sinh, khiến cho họ sinh căn lành. Người đã sinh căn lành, thì khiến cho họ thành thục; người đã thành thục, thì khiến cho họ được giải thoát. Tâm bình đẳng đối với tất cả thế gian, chẳng có sự phân biệt cao thấp, vì khắp khiến cho chúng sinh tăng trưởng pháp lành. Tâm thanh tịnh đối với tất cả cảnh giới, chẳng có tư tưởng nhiễm ô, vì hay trừ diệt tất cả các nghiệp báo bất thiện. Phát đại thệ nguyện, lợi ích tất cả chúng sinh, vì thân luôn hiện khắp tất cả cõi nước. Thị hiện tất cả nhân duyên bổn sự (những việc đời trước), vì khiến cho tất cả chúng sinh an trụ hạnh lành. Luôn hầu hạ tất cả thiện tri thức, vì khiến cho tất cả chúng sinh an trụ trong Phật giáo.
Phật tử! Ta dùng những pháp nầy bố thí cho chúng sinh, khiến cho họ sinh pháp trắng, cầu nhất thiết trí. Tâm kiên cố, như tạng kim cang Na la diên. Khéo hay quán sát Phật lực, ma lực. Thường được gần gũi các thiện tri thức, phá tan tất cả núi chướng nghiệp hoặc. Tích tập pháp nhất thiết trí trợ đạo, tâm luôn không bỏ bậc nhất thiết trí.
Đệ tử của Phật! Ta dùng những pháp nầy, bố thí cho chúng sinh, khiến cho họ sinh ra pháp trắng tịnh, cầu nhất thiết trí huệ. Tâm kiên cố, như tạng kim cang Na la diên. Khéo hay quán sát Phật lực và ma lực. Thường được cơ hội gần gũi tất cả thiện tri thức, phá tan tất cả núi chướng ngại, nghiệp chướng, mê hoặc. Tích tập pháp nhất thiết trí huệ, làm trợ đạo, trong tâm luôn không xả bỏ bậc nhất thiết trí.
Thiện nam tử! Ta dùng pháp tịnh quang minh như vậy, lợi ích tất cả chúng sinh, khi tích tập căn lành pháp trợ đạo, thì làm mười thứ quán sát pháp giới.
Những gì là mười? Đó là: Ta biết pháp giới vô lượng, nên đắc được trí huệ quang minh rộng lớn. Ta biết pháp giới vô biên, nên thấy chỗ thấy biết của tất cả chư Phật. Ta biết pháp giới vô hạn, nên vào khắp tất cả cõi nước chư Phật, cung kính cúng dường các Như Lai. Ta biết pháp giới không bờ mé, vì khắp ở trong tất cả biển pháp giới, thị hiện tu hành Bồ Tát hạnh. Ta biết pháp giới không dứt, vì vào nơi trí huệ không dứt của Như Lai. Ta biết pháp giới một tánh, vì một âm thanh của Như Lai tất cả chúng sinh đều hiểu rõ. Ta biết tánh pháp giới thanh tịnh, vì thấu rõ Như Lai nguyện độ khắp tất cả các chúng sinh. Ta biết pháp giới khắp chúng sinh, vì diệu hạnh Phổ Hiền đều khắp cùng. Ta biết một pháp giới trang nghiêm, vì diệu hạnh Phổ Hiền khéo trang nghiêm. Ta biết pháp giới không thể hoại, vì nhất thiết trí căn lành đầy khắp pháp giới không thể hoại.
Thiện nam tử! Ta dùng pháp tịnh quang minh như vậy, lợi ích tất cả chúng sinh, khi tích tập tất cả căn lành pháp trợ đạo, thì làm mười thứ quán sát pháp giới. Những gì là mười? Đó là:
1. Ta biết pháp giới vô lượng, nên đắc được đại trí huệ quang minh rộng lớn.
2. Ta biết pháp giới vô biên, nên thấy được chỗ thấy biết của tất cả chư Phật.
3. Ta biết pháp giới vô hạn, nên vào khắp tất cả cõi nước chư Phật, cung kính cúng dường tất cả các Như Lai.
4. Ta biết pháp giới không bờ mé, vì khắp ở trong tất cả biển pháp giới, thị hiện tu hành Bồ Tát hạnh.
5. Ta biết pháp giới không dứt, vì vào nơi trí huệ không dứt của Như Lai.
6. Ta biết pháp giới một tánh, vì một âm thanh của Như Lai tất cả chúng sinh đều hiểu rõ. Do đó có câu:
“Phật dùng một âm diễn nói pháp
Chúng sinh tuỳ loài đều hiểu được”.
7. Ta biết tánh pháp giới thanh tịnh, vì thấu rõ Như Lai nguyện độ khắp tất cả các chúng sinh, lìa khổ được vui.
8. Ta biết pháp giới đầy khắp chúng sinh, vì diệu hạnh của Bồ Tát Phổ Hiền đều khắp cùng.
9. Ta biết một pháp giới trang nghiêm, vì diệu hạnh của Bồ Tát Phổ Hiền khéo trang nghiêm.
10. Ta biết pháp giới không thể hoại, vì nhất thiết trí căn lành đầy khắp pháp giới không thể hoại.
Thiện nam tử! Ta dùng mười thứ quán sát pháp giới nầy, tích tập các căn lành, làm pháp trợ đạo. Biết rõ oai đức rộng lớn của chư Phật, vào sâu cảnh giới khó nghĩ bàn của Như Lai.
Thiện nam tử! Ta dùng mười thứ quán sát pháp giới nầy, để tích tập các căn lành, làm pháp trợ đạo. Biết rõ oai đức rộng lớn của chư Phật, vào sâu cảnh giới khó nghĩ bàn của Như Lai.
Lại nữa, thiện nam tử! Ta chánh niệm suy gẫm như vậy, đắc được mười thứ đại oai đức đà la ni luân của Như Lai.
Những gì là mười? Đó là: Vào khắp tất cả pháp đà la ni luân. Trì khắp tất cả pháp đà la ni luân. Nói khắp tất cả pháp đà la ni luân. Niệm khắp mười phương tất cả chư Phật đà la ni luân. Nói khắp danh hiệu tất cả chư Phật đà la ni luân. Vào khắp biển nguyện của chư Phật ba đời đà la ni luân. Vào khắp tất cả biển các thừa đà la ni luân. Vào khắp biển nghiệp của tất cả chúng sinh đà la ni luân. Mau chuyển tất cả nghiệp đà la ni luân. Mau sinh nhất thiết trí đà la ni luân.
Thiện nam tử! Đà la ni luân nầy, có mười ngàn đà la ni luân làm quyến thuộc, luôn vì chúng sinh diễn nói diệu pháp.
Vị Dạ Thần Thủ Hộ Nhất Thiết Thành lại gọi một tiếng thiện nam tử! Ta chánh niệm suy gẫm như vậy, đắc được mười thứ pháp luân đại oai đức đà la ni của Như Lai. Những gì là mười? Đó là:
1. Vào khắp tất cả pháp đà la ni luân.
2. Trì khắp tất cả pháp đà la ni luân.
3. Nói khắp tất cả pháp đà la ni luân.
4. Niệm khắp mười phương tất cả chư Phật đà la ni luân.
5. Nói khắp danh hiệu tất cả chư Phật đà la ni luân.
6. Vào khắp biển nguyện của chư Phật ba đời đà la ni luân.
7. Vào khắp tất cả biển các thừa đà la ni luân.
8. Vào khắp biển nghiệp của tất cả chúng sinh đà la ni luân.
9. Mau chuyển tất cả nghiệp đà la ni luân.
10. Mau sinh nhất thiết trí đà la ni luân.
Thiện nam tử! Đà la ni luân nầy, có mười ngàn đà la ni luân làm quyến thuộc, luôn vì tất cả chúng sinh diễn nói diệu pháp, khiến cho chúng sinh phát tâm bồ đề, tức cũng là phát tâm Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác.
Thiện nam tử! Ta vì chúng sinh nói pháp văn huệ. Hoặc vì chúng sinh nói pháp tư huệ. Hoặc vì chúng sinh nói pháp tu huệ. Hoặc vì chúng sinh nói pháp một cõi. Hoặc vì chúng sinh nói pháp tất cả cõi. Hoặc vì chúng sinh nói pháp biển danh hiệu của một Như Lai. Hoặc vì chúng sinh nói pháp biển danh hiệu của tất cả Như Lai. Hoặc vì chúng sinh nói pháp biển một thế giới. Hoặc vì chúng sinh nói pháp biển tất cả thế giới. Hoặc vì chúng sinh nói pháp biển một Phật thọ ký. Hoặc vì chúng sinh nói pháp biển tất cả chư Phật thọ ký. Hoặc vì chúng sinh nói pháp biển chúng hội đạo tràng của một Như Lai. Hoặc vì chúng sinh nói pháp biển chúng hội đạo tràng của tất cả Như Lai. Hoặc vì chúng sinh nói pháp biển pháp luân của một Như Lai. Hoặc vì chúng sinh nói pháp biển pháp luân của tất cả Như Lai. Hoặc vì chúng sinh nói pháp Tu Đa La của một Như Lai. Hoặc vì chúng sinh nói pháp Tu Đa La của tất cả Như Lai. Hoặc vì chúng sinh nói pháp tập hội của một Như Lai. Hoặc vì chúng sinh nói pháp tập hội của tất cả Như Lai. Hoặc vì chúng sinh nói pháp biển tâm của một nhất thiết trí. Hoặc vì chúng sinh nói pháp biển tâm của tất cả nhất thiết trí. Hoặc vì chúng sinh nói pháp một thừa xuất ly. Hoặc vì chúng sinh nói pháp tất cả thừa xuất ly.
Thiện nam tử! Ta dùng bất khả thuyết pháp môn như vậy, để vì chúng sinh nói pháp.
Thiện nam tử! Ta vì tất cả chúng sinh nói pháp văn huệ. Hoặc vì tất cả chúng sinh nói pháp tư huệ. Hoặc vì tất cả chúng sinh nói pháp tu huệ. Ba huệ tức là văn tư tu – Văn là thấy nghe Kinh giáo mà sinh trí huệ; tư là suy gẫm lý Kinh mà sinh trí huệ; tu là tu thiền định mà sinh trí huệ. Hoặc vì chúng sinh nói pháp một cõi. Hoặc vì chúng sinh nói pháp tất cả cõi. Hữu là tam giới hai mươi lăm cõi. Do đó:
“Bốn châu bốn đường ác,
Phạm Thiên lục dục Thiên.
Vô Tưởng ngũ na hàm,
Tứ không và tứ thiền”.
Trong dục giới có mười bốn cõi, sắc giới có bảy cõi, vô sắc giới có bốn cõi. Hoặc vì chúng sinh nói pháp biển danh hiệu của một Như Lai. Hoặc vì chúng sinh nói pháp biển danh hiệu của tất cả Như Lai. Hoặc vì chúng sinh nói pháp biển một thế giới. Hoặc vì chúng sinh nói pháp biển tất cả thế giới. Hoặc vì chúng sinh nói pháp biển một Phật thọ ký. Hoặc vì chúng sinh nói pháp biển tất cả chư Phật thọ ký. Hoặc vì chúng sinh nói pháp biển chúng hội đạo tràng của một Như Lai. Hoặc vì chúng sinh nói pháp biển chúng hội đạo tràng của tất cả Như Lai. Hoặc vì chúng sinh nói pháp biển pháp luân của một Như Lai. Hoặc vì chúng sinh nói pháp biển pháp luân của tất cả Như Lai. Hoặc vì chúng sinh nói pháp Tu Đa La của một Như Lai. Hoặc vì chúng sinh nói pháp Tu Đa La của tất cả Như Lai. Hoặc vì chúng sinh nói pháp tập hội của một Như Lai. Hoặc vì chúng sinh nói pháp tập hội của tất cả Như Lai. Hoặc vì chúng sinh nói pháp biển tâm của một nhất thiết trí. Hoặc vì chúng sinh nói pháp biển tâm của tất cả nhất thiết trí. Hoặc vì chúng sinh nói pháp một thừa (Phật thừa) thoát khỏi ba cõi. Hoặc vì chúng sinh nói pháp tất cả thừa thoát khỏi ba cõi.
Thiện nam tử! Ta dùng bất khả thuyết pháp môn như vậy, để vì tất cả chúng sinh nói pháp, khiến cho họ biết pháp thế gian là vô thường, khổ, không, vô ngã. Biết rõ pháp xuất thế gian là thường, lạc, ngã, tịnh. Lìa khỏi bờ sinh tử bên nầy, qua dòng phiền não, đạt đến bờ rốt ráo bên kia. Làm thế nào mới thành công? Phải thiền tịnh song tu. Thiền là tự lực, tịnh là tha lực. Chúng ta phải ngồi thuyền pháp (tu tịnh – tha lực), nhưng mình phải lái thuyền (tu thiền – tự lực), mới có thể bình an bờ Niết Bàn bên kia. Do đó phải thiền tịnh song tu, thì mới có công hiệu. Không thể tu thiền chẳng tu tịnh, tu tịnh chẳng tu thiền, mà nên tu cả hai, thiếu một thì khó tiến về trước, không thể đến được bảo sở.
Thiện nam tử! Ta vào biển môn pháp giới không khác biệt của Như Lai, nói pháp vô thượng, nhiếp khắp chúng sinh. Hết kiếp thuở vị lai, trụ hạnh Phổ Hiền.
Thiện nam tử! Ta thành tựu giải thoát diệu âm tự tại thâm sâu nầy. Ở trong niệm niệm, tăng trưởng tất cả các môn giải thoát. Niệm niệm đầy khắp tất cả pháp giới.
Thiện nam tử! Ta vào biển môn pháp giới không khác biệt của Như Lai, nói diệu pháp vô thượng, nhiếp khắp tất cả chúng sinh. Hết kiếp thuở vị lai, trụ nơi đại hạnh nguyện của Bồ Tát Phổ Hiền.
Thiện nam tử! Ta thành tựu giải thoát diệu âm tự tại thâm sâu nầy. Ở trong niệm niệm, tăng trưởng tất cả các môn giải thoát. Niệm niệm đầy khắp tất cả pháp giới.
Bấy giờ, Thiện Tài đồng tử bạch Dạ Thần rằng: Lạ thay Thiên Thần! Môn giải thoát nầy ít có như vậy, đức Thánh chứng được đã bao lâu rồi?
Lúc đó, Thiện Tài đồng tử bạch với vị Dạ Thần Thủ Hộ Nhất Thiết Thành rằng: Lạ thay! Thiên Thần! Môn giải thoát nầy ít có như vậy, xin hỏi đức Thánh Ngài chứng đắc đã được bao lâu rồi?
Vị Dạ Thần nói: Thiện nam tử! Vào thuở quá khứ, trải qua số kiếp nhiều như số hạt bụi thế giới chuyển, có kiếp tên là Ly Cấu Quang Minh. Có thế giới tên là Pháp Giới Công Đức Vân, dùng hiện ra tất cả chúng sinh nghiệp ma ni vương hải làm thể. Hình như hoa sen, trụ trong lưới hương ma ni Tu Di sơn, nhiều như số hạt bụi bốn thiên hạ. Dùng hiện ra tất cả Như Lai bổn nguyện âm liên hoa để làm trang nghiêm. Có các hoa sen nhiều như số hạt bụi núi Tu Di làm quyến thuộc, xen lẫn hương ma ni, nhiều như số hạt bụi núi Tu Di. Có bốn thiên hạ nhiều như số hạt bụi núi Tu Di. Mỗi mỗi bốn thiên hạ, có trăm ngàn ức Na do tha bất khả thuyết bất khả thuyết thành.
Vị Dạ Thần Thủ Hộ Nhất Thiết Thành nói: Thiện nam tử! Vào thuở quá khứ, trải qua số kiếp nhiều như số hạt bụi thế giới chuyển (Tức là thế giới nghiền nát làm bụi, một hạt bụi làm một cõi nước, lại đem mỗi mỗi cõi nước đó nghiền nát làm bụi, đây là số lượng của thế giới chuyển), có kiếp tên là Ly Cấu Quang Minh. Có thế giới tên là Pháp Giới Công Đức Vân, dùng hiện ra tất cả chúng sinh nghiệp ma ni vương hải làm thể. Hình trạng như đoá hoa sen, trụ trong lưới hương ma ni Tu Di sơn, nhiều như số hạt bụi bốn thiên hạ. Dùng hiện ra tất cả Như Lai bổn nguyện âm liên hoa để làm trang nghiêm. Lại có các hoa sen nhiều như số hạt bụi núi Tu Di làm quyến thuộc, xen lẫn hương ma ni nhiều như số hạt bụi núi Tu Di. Có bốn thiên hạ (tức là bốn đại châu, Đông Thắng Thần Châu, Nam Thiệm Bộ Châu, Tây Ngưu Hoá Châu, Bắc Câu Lưu Châu. Chỗ chúng ta ở là Nam Thiệm Bộ Châu, còn gọi là Nam Diêm Phù Đề), nhiều như số hạt bụi núi Tu Di. Mỗi mỗi bốn thiên hạ, có trăm ngàn ức Na do tha bất khả thuyết bất khả thuyết thành.
Thiện nam tử! Trong thế giới đó, có bốn thiên hạ tên là Diệu Tràng. Trong đó có vương đô, tên là Phổ Bảo Hoa Quang. Cách đó không xa, có Bồ Đề Tràng tên là Phổ Hiển Hiện Pháp Vương Cung Điện. Có các Như Lai nhiều như số hạt bụi núi Tu Di, xuất hiện ra đời ở nơi đó.
Thiện nam tử! Trong thế giới đó, có bốn thiên hạ tên là Diệu Tràng. Trong đó có vương đô, tên là Phổ Bảo Hoa Quang. Cách đó không xa, có Bồ Đề Đạo Tràng tên là Phổ Hiển Hiện Pháp Vương Cung Điện. Có các Như Lai nhiều như số hạt bụi núi Tu Di, xuất hiện ra đời ở nơi đó. Nay đưa ra một vị Phật để làm đại biểu.
Vị Phật thứ nhất, hiệu là Pháp Hải Lôi Âm Quang Minh Vương. Khi đức Phật đó ra đời, thì có Chuyển Luân Vương, tên là Thanh Tịnh Nhựt Quang Minh Diện. Ở chỗ đức Phật đó, thọ trì tất cả pháp hải toàn Tu Đa La. Khi đức Phật đó vào Niết Bàn rồi, vị Vua Chuyển Luân Vương đó xuất gia, hộ trì chánh pháp, khi pháp sắp diệt, có ngàn bộ dị chúng, ngàn thứ thuyết pháp. Gần lúc mạt kiếp, nghiệp hoặc chướng nặng, các Tỳ Kheo ác, nhiều sự đấu tranh, thích chấp cảnh giới, chẳng cầu công đức, thích nói về việc vua, việc giặc giã, việc người nữ, việc quốc gia, việc biển cả và tất cả những việc thế gian.
Bấy giờ, vị Vua Tỳ Kheo đó nói rằng: Lạ thay! Khổ thay! Đức Phật ở trong vô lượng biển đại kiếp, tích tập ngọn đuốc pháp nầy, sao các ngươi cùng nhau huỷ diệt? Nói lời đó rồi, bèn thăng lên hư không, cao khoảng bảy cây đa la. Thân hiện ra vô lượng các mây sắc diệm, phóng ra lưới đại quang minh đủ thứ màu sắc, khiến cho vô lượng chúng sinh diệt trừ nóng phiền não, khiến cho vô lượng chúng sinh phát tâm bồ đề. Nhờ nhân duyên đó, giáo pháp của đức Như Lai đó, được hưng thạnh trở lại trong sáu vạn năm ngàn năm.
Vị Phật thứ nhất xuất hiện ra đời, hiệu là Phật Pháp Hải Lôi Âm Quang Minh Vương. Khi đức Phật đó xuất hiện ra đời, thì có vị Vua Chuyển Luân Thánh Vương, tên là Thanh Tịnh Nhựt Quang Minh Diện. Ngài ở chỗ đức Phật đó, thọ trì tất cả pháp hải toàn Tu Đa La. Khi đức Phật đó vào Niết Bàn rồi, vị Vua Chuyển Luân Thánh Vương đó xuất gia, hộ trì chánh pháp, hoằng dương chánh pháp, khi pháp sắp diệt, có ngàn bộ dị chúng (bàng môn tả đạo), dùng ngàn thứ tà tri tà kiến để thuyết pháp. Gần lúc mạt kiếp, nghiệp chướng của chúng sinh nặng nề. Tất cả các Tỳ Kheo ác, cùng nhau đấu tranh. Bạn nói tôi không giữ giới luật, tôi nói bạn không giữ quy cụ, cùng nhau phỉ báng, cùng nhau công kích, chẳng khác gì mấy so với thời đại mạt pháp ngày nay. Họ tham chấp cảnh giới khoái lạc, chẳng cầu công đức sự nghiệp, thích nói về việc vua chúa, như làm thế nào để có quyền, có thế, có địa vị? Làm thế nào trị lý quốc gia? Lại thích nói về việc trộm cướp, trộm cướp như thế nào? Lại thích nói về việc người nữ, nói người nữ đó đẹp ra sao. Lại thích nói về việc quốc gia đại sự, thảo luận về làm thế nào xâm chiếm lãnh thổ và tài vật nước khác. Lại thích nói về việc biển cả, làm thế nào để phát triển những mỏ dầu trong biển .v.v… và tất cả những việc thế gian khác. Nhưng chẳng có ai nói về pháp xuất thế, làm thế nào tu hành để chấm dứt sinh tử?
Bấy giờ, vị Vua Tỳ Kheo đó nói rằng: Lạ thay! Khổ thay! Đức Phật ở trong vô lượng biển đại kiếp, tích tập ngọn đuốc pháp nầy, sao các ngươi cùng nhau huỷ diệt? Nói lời đó rồi, bèn thăng lên hư không, cao khoảng bảy cây đa la. Thân hiện ra vô lượng các mây sắc diệm, phóng ra lưới đại quang minh đủ thứ màu sắc, khiến cho vô lượng chúng sinh trừ nóng phiền não, khiến cho vô lượng chúng sinh phát tâm bồ đề. Nhờ nhân duyên đó, giáo pháp của đức Như Lai đó, được hưng thạnh trở lại trong sáu vạn năm ngàn năm.
Bấy giờ, có Tỳ Kheo Ni tên là Pháp Luân Hoá Quang, là con gái của vua Chuyển Luân Vương đó, có năm ngàn vị Tỳ Kheo Ni làm quyến thuộc. Nghe lời vua cha và thấy thần lực, bèn phát tâm bồ đề, vĩnh viễn không thối chuyển. Đắc được tam muội tên là Nhất thiết Phật giáo đăng. Lại đắc được giải thoát diệu âm tự tại thâm sâu nầy. Đắc được rồi, thân tâm mềm mại, lập tức thấy được tất cả thần lực của Như Lai Hiện Kiến Pháp Hải Lôi Âm Quang Minh.
Thiện nam tử! Ý ngươi thế nào? Vua Chuyển Luân Thánh Vương lúc đó, theo đức Như Lai chuyển bánh xe chánh pháp, sau khi đức Phật vào Niết Bàn rồi, phục hưng chánh pháp, đâu phải là người nào khác, chính là Bồ Tát Phổ Hiền, còn vị Tỳ Kheo Ni Pháp Luân Hoá Quang, chính là thân ta. Lúc đó ta giữ gìn Phật pháp, khiến cho mười vạn Tỳ Kheo Ni, được không thối chuyển nơi A nậu đa la tam miệu tam bồ đề. Lại khiến cho họ đắc được tam muội Hiện thấy tất cả Phật. Lại khiến cho họ đắc được Đà La Ni Nhất Thiết Phật Pháp Luân Kim Cang Quang Minh. Lại khiến cho họ đắc được Bát Nhã Ba La Mật vào khắp tất cả biển pháp môn.
Bấy giờ, có vị Tỳ Kheo Ni (tiền thân của vị Dạ Thần Thủ Hộ Nhất Thiết Thành) tên là Pháp Luân Hoá Quang, là con gái của vua Chuyển Luân Thánh Vương Thanh Tịnh Nhựt Quang Minh Diện, có năm ngàn vị Tỳ Kheo Ni làm quyến thuộc. Vị Tỳ Kheo Ni nghe lời vua cha và thấy thần lực đó, bèn phát tâm bồ đề, vĩnh viễn không thối chuyển A nậu đa la tam miệu tam bồ đề, nhờ đó đắc được tam muội tên là Nhất thiết Phật giáo đăng. Lại đắc được môn giải thoát diệu âm tự tại thâm sâu nầy. Đắc được rồi, thân tâm mềm mại, lập tức thấy được tất cả sức thần thông biến hoá của Như Lai Hiện Kiến Pháp Hải Lôi Âm Quang Minh.
Thiện nam tử! Ý của ngươi thế nào? Vị vua Chuyển Luân Thánh Vương lúc đó, theo Như Lai Pháp Hải Lôi Âm Quang Minh Vương chuyển bánh xe chánh pháp, sau khi đức Phật nhập Niết Bàn rồi, phục hưng chánh pháp, đâu phải là người nào khác, chính là Bồ Tát Phổ Hiền, còn vị Tỳ Kheo Ni Pháp Luân Hoá Quang, đâu phải là người nào khác, chính là tiền thân của ta. Ta lúc đó giữ gìn Phật pháp, khiến cho mười vạn Tỳ Kheo Ni, được không thối chuyển nơi A nậu đa la tam miệu tam bồ đề. Lại khiến cho đắc được tam muội Hiện Thấy Tất Cả Phật. Lại khiến cho họ đắc được Đà La Ni Nhất Thiết Phật Pháp Luân Kim Cang Quang Minh. Lại khiến cho họ đắc được Bát Nhã Ba La Mật vào khắp tất cả biển pháp môn.
Kế đó, có vị Phật ra đời, hiệu là Ly Cấu Pháp Quang Minh. Kế lại có vị Phật ra đời, hiệu là Pháp Luân Quang Minh Kế. Kế lại có vị Phật ra đời, hiệu là Pháp Nhựt Công Đức Vân. Kế lại có vị Phật ra đời, hiệu là Pháp Hải Diệu Âm Vương. Kế lại có vị Phật ra đời, hiệu là Pháp Nhựt Trí Huệ Đăng. Kế lại có vị Phật ra đời, hiệu là Pháp Hoa Tràng Vân. Kế lại có vị Phật ra đời, hiệu là Pháp Diệm Sơn Tràng Vương. Kế lại có vị Phật ra đời, hiệu là Thậm Thâm Pháp Công Đức Nguyệt. Kế lại có vị Phật ra đời, hiệu là Pháp Trí Phổ Quang Tạng. Kế lại có vị Phật ra đời, hiệu là Khai Thị Phổ Trí Tạng. Kế lại có vị Phật ra đời, hiệu là Công Đức Tạng Sơn Vương. Kế lại có vị Phật ra đời, hiệu là Phổ Môn Tu Di Hiền. Kế lại có vị Phật ra đời, hiệu là Nhất Thiết Pháp Tinh Tấn Tràng. Kế lại có vị Phật ra đời, hiệu là Pháp Bảo Hoa Công Đức Vân. Kế lại có vị Phật ra đời, hiệu là Tịch Tĩnh Quang Minh Kế. Kế lại có vị Phật ra đời, hiệu là Pháp Quang Minh Từ Bi Nguyệt. Kế lại có vị Phật ra đời, hiệu là Công Đức Diệm Hải. Kế lại có vị Phật ra đời, hiệu là Trí Nhựt Phổ Quang Minh. Kế lại có vị Phật ra đời, hiệu là Phổ Hiền Viên Mãn Trí.
Kế đó, lại có vị Phật ra đời, hiệu là Phật Ly Cấu Pháp Quang Minh. Kế lại có vị Phật ra đời, hiệu là Pháp Luân Quang Minh Kế. Kế lại có vị Phật ra đời, hiệu là Phật Pháp Nhựt Công Đức Vân. Kế lại có vị Phật ra đời, hiệu là Phật Pháp Hải Diệu Âm Vương. Kế lại có vị Phật ra đời, hiệu là Phật Pháp Nhựt Trí Huệ Đăng. Kế lại có vị Phật ra đời, hiệu là Phật Pháp Hoa Tràng Vân. Kế lại có vị Phật ra đời, hiệu là Phật Pháp Diệm Sơn Tràng Vương. Kế lại có vị Phật ra đời, hiệu là Phật Thậm Thâm Pháp Công Đức Nguyệt. Kế lại có vị Phật ra đời, hiệu là Phật Pháp Trí Phổ Quang Tạng. Kế lại có vị Phật ra đời, hiệu là Phật Khai Thị Phổ Trí Tạng. Kế lại có vị Phật ra đời, hiệu là Phật Công Đức Tạng Sơn Vương. Kế lại có vị Phật ra đời, hiệu là Phật Phổ Môn Tu Di Hiền. Kế lại có vị Phật ra đời, hiệu là Phật Nhất Thiết Pháp Tinh Tấn Tràng. Kế lại có vị Phật ra đời, hiệu là Phật Pháp Bảo Hoa Công Đức Vân. Kế lại có vị Phật ra đời, hiệu là Phật Tịch Tĩnh Quang Minh Kế. Kế lại có vị Phật ra đời, hiệu là Phật Pháp Quang Minh Từ Bi Nguyệt. Kế lại có vị Phật ra đời, hiệu là Phật Công Đức Diệm Hải. Kế lại có vị Phật ra đời, hiệu là Phật Trí Nhựt Phổ Quang Minh. Kế lại có vị Phật ra đời, hiệu là Phật Phổ Hiền Viên Mãn Trí.
Kế lại có vị Phật ra đời, hiệu là Thần Thông Trí Quang Vương. Kế lại có vị Phật ra đời, hiệu là Phước Đức Hoa Quang Đăng. Kế lại có vị Phật ra đời, hiệu là Trí Sư Tử Tràng Vương. Kế lại có vị Phật ra đời, hiệu là Nhựt Quang Phổ Chiếu Vương. Kế lại có vị Phật ra đời, hiệu là Tu Di Thật Trang Nghiêm Tướng. Kế lại có vị Phật ra đời, hiệu là Nhựt Quang Phổ Chiếu. Kế lại có vị Phật ra đời, hiệu là Pháp Vương Công Đức Nguyệt. Kế lại có vị Phật ra đời, hiệu là Khai Phu Liên Hoa Diệu Âm Vân. Kế lại có vị Phật ra đời, hiệu là Nhựt Quang Minh Tướng. Kế lại có vị Phật ra đời, hiệu là Phổ Quang Minh Diệu Pháp Âm. Kế lại có vị Phật ra đời, hiệu là Sư Tử Kim Cang Na La Diên Vô Uý. Kế lại có vị Phật ra đời, hiệu là Phổ Trí Dũng Mãnh Tràng. Kế lại có vị Phật ra đời, hiệu là Phổ Khai Pháp Liên Hoa Thân. Kế lại có vị Phật ra đời, hiệu là Công Đức Diệu Hoa Hải. Kế lại có vị Phật ra đời, hiệu là Đạo Tràng Công Đức Nguyệt. Kế lại có vị Phật ra đời, hiệu là Pháp Cự Xí Nhiên Nguyệt. Kế lại có vị Phật ra đời, hiệu là Phổ Quang Minh Kế. Kế lại có vị Phật ra đời, hiệu là Pháp Tràng Đăng. Kế lại có vị Phật ra đời, hiệu là Kim Cang Hải Tràng Vân.
Kế lại có vị Phật ra đời, hiệu là Phật Thần Thông Trí Quang Vương. Kế lại có vị Phật ra đời, hiệu là Phật Phước Đức Hoa Quang Đăng. Kế lại có vị Phật ra đời, hiệu là Phật Trí Sư Tử Tràng Vương. Kế lại có vị Phật ra đời, hiệu là Phật Nhựt Quang Phổ Chiếu Vương. Kế lại có vị Phật ra đời, hiệu là Phật Tu Di Thật Trang Nghiêm Tướng. Kế lại có vị Phật ra đời, hiệu là Phật Nhựt Quang Phổ Chiếu. Kế lại có vị Phật ra đời, hiệu là Phật Pháp Vương Công Đức Nguyệt. Kế lại có vị Phật ra đời, hiệu là Phật Khai Phu Liên Hoa Diệu Âm Vân. Kế lại có vị Phật ra đời, hiệu là Phật Nhựt Quang Minh Tướng. Kế lại có vị Phật ra đời, hiệu là Phật Phổ Quang Minh Diệu Pháp Âm. Kế lại có vị Phật ra đời, hiệu là Phật Sư Tử Kim Cang Na La Diên Vô Uý. Kế lại có vị Phật ra đời, hiệu là Phật Phổ Trí Dũng Mãnh Tràng. Kế lại có vị Phật ra đời, hiệu là Phật Phổ Khai Pháp Liên Hoa Thân. Kế lại có vị Phật ra đời, hiệu là Phật Công Đức Diệu Hoa Hải. Kế lại có vị Phật ra đời, hiệu là Phật Đạo Tràng Công Đức Nguyệt. Kế lại có vị Phật ra đời, hiệu là Phật Pháp Cự Xí Nhiên Nguyệt. Kế lại có vị Phật ra đời, hiệu là Phật Phổ Quang Minh Kế. Kế lại có vị Phật ra đời, hiệu là Phật Pháp Tràng Đăng. Kế lại có vị Phật ra đời, hiệu là Phật Kim Cang Hải Tràng Vân.
Kế lại có vị Phật ra đời, hiệu là Danh Xưng Sơn Công Đức Vân. Kế lại có vị Phật ra đời, hiệu là Chiên Đàn Diệu Nguyệt. Kế lại có vị Phật ra đời, hiệu là Phổ Diệu Quang Minh Hoa. Kế lại có vị Phật ra đời, hiệu là Chiếu Nhứt Thiết Chúng Sinh Quang Minh Vương. Kế lại có vị Phật ra đời, hiệu là Công Đức Liên Hoa Tạng. Kế lại có vị Phật ra đời, hiệu là Hương Diệm Quang Minh Vương. Kế lại có vị Phật ra đời, hiệu là Ba Đầu Ma Hoa Nhân. Kế lại có vị Phật ra đời, hiệu là Chúng Tướng Sơn Vương Phổ Quang Minh. Kế lại có vị Phật ra đời, hiệu là Phổ Danh Xưng Tràng. Kế lại có vị Phật ra đời, hiệu là Tu Di Phổ Môn Quang. Kế lại có vị Phật ra đời, hiệu là Công Đức Pháp Thành Quang. Kế lại có vị Phật ra đời, hiệu là Đại Thụ Sơn Quang Minh. Kế lại có vị Phật ra đời, hiệu là Phổ Đức Quang Minh Tràng. Kế lại có vị Phật ra đời, hiệu là Công Đức Cát Tường Tướng. Kế lại có vị Phật ra đời, hiệu là Dũng Mãnh Pháp Lực Tràng. Kế lại có vị Phật ra đời, hiệu là Pháp Luân Quang Minh Âm. Kế lại có vị Phật ra đời, hiệu là Công Đức Sơn Trí Huệ Quang. Kế lại có vị Phật ra đời, hiệu là Vô Thượng Diệu Pháp Nguyệt. Kế lại có vị Phật ra đời, hiệu là Pháp Liên Hoa Tịnh Quang Tràng. Kế lại có vị Phật ra đời, hiệu là Bảo Liên Hoa Quang Minh Tạng. Kế lại có vị Phật ra đời, hiệu là Quang Diệm Vân Sơn Đăng.
Kế lại có vị Phật ra đời, hiệu là Phật Danh Xưng Sơn Công Đức Vân. Kế lại có vị Phật ra đời, hiệu là Phật Chiên Đàn Diệu Nguyệt. Kế lại có vị Phật ra đời, hiệu là Phật Phổ Diệu Quang Minh Hoa. Kế lại có vị Phật ra đời, hiệu là Phật Chiếu Nhứt Thiết Chúng Sinh Quang Minh Vương. Kế lại có vị Phật ra đời, hiệu là Phật Công Đức Liên Hoa Tạng. Kế lại có vị Phật ra đời, hiệu là Phật Hương Diệm Quang Minh Vương. Kế lại có vị Phật ra đời, hiệu là Phật Ba Đầu Ma Hoa Nhân. Kế lại có vị Phật ra đời, hiệu là Phật Chúng Tướng Sơn Vương Phổ Quang Minh. Kế lại có vị Phật ra đời, hiệu là Phật Phổ Danh Xưng Tràng. Kế lại có vị Phật ra đời, hiệu là Phật Tu Di Phổ Môn Quang. Kế lại có vị Phật ra đời, hiệu là Phật Công Đức Pháp Thành Quang. Kế lại có vị Phật ra đời, hiệu là Phật Đại Thụ Sơn Quang Minh. Kế lại có vị Phật ra đời, hiệu là Phật Phổ Đức Quang Minh Tràng. Kế lại có vị Phật ra đời, hiệu là Phật Công Đức Cát Tường Tướng. Kế lại có vị Phật ra đời, hiệu là Phật Dũng Mãnh Pháp Lực Tràng. Kế lại có vị Phật ra đời, hiệu là Phật Pháp Luân Quang Minh Âm. Kế lại có vị Phật ra đời, hiệu là Phật Công Đức Sơn Trí Huệ Quang. Kế lại có vị Phật ra đời, hiệu là Phật Vô Thượng Diệu Pháp Nguyệt. Kế lại có vị Phật ra đời, hiệu là Phật Pháp Liên Hoa Tịnh Quang Tràng. Kế lại có vị Phật ra đời, hiệu là Phật Bảo Liên Hoa Quang Minh Tạng. Kế lại có vị Phật ra đời, hiệu là Phật Quang Diệm Vân Sơn Đăng.
Kế lại có vị Phật ra đời, hiệu là Phổ Giác Hoa. Kế lại có vị Phật ra đời, hiệu là Chủng Chủng Công Đức Diệm Tu Di Tạng. Kế lại có vị Phật ra đời, hiệu là Viên Mãn Quang Sơn Vương. Kế lại có vị Phật ra đời, hiệu là Phước Đức Vân Trang Nghiêm. Kế lại có vị Phật ra đời, hiệu là Pháp Sơn Vân Tràng. Kế lại có vị Phật ra đời, hiệu là Công Đức Sơn Quang Minh. Kế lại có vị Phật ra đời, hiệu là Pháp Nhựt Vân Đăng Vương. Kế lại có vị Phật ra đời, hiệu là Pháp Vân Danh Xưng Vương. Kế lại có vị Phật ra đời, hiệu là Pháp Luân Vân. Kế lại có vị Phật ra đời, hiệu là Khai Ngộ Bồ Đề Trí Quang Tràng. Kế lại có vị Phật ra đời, hiệu là Phổ Trí Vân. Kế lại có vị Phật ra đời, hiệu là Pháp Lực Công Đức Sơn. Kế lại có vị Phật ra đời, hiệu là Công Đức Hương Diệm Vương. Kế lại có vị Phật ra đời, hiệu là Kim Sắc Ma Ni Sơn Diệu Âm Thanh. Kế lại có vị Phật ra đời, hiệu là Đảnh Kế Xuất Nhất Thiết Pháp Quang Minh Vân. Kế lại có vị Phật ra đời, hiệu là Pháp Luân Xí Thạnh Quang. Kế lại có vị Phật ra đời, hiệu là Vô Thượng Công Đức Sơn.
Kế lại có vị Phật ra đời, hiệu là Phật Phổ Giác Hoa. Kế lại có vị Phật ra đời, hiệu là Phật Chủng Chủng Công Đức Diệm Tu Di Tạng. Kế lại có vị Phật ra đời, hiệu là Phật Viên Mãn Quang Sơn Vương. Kế lại có vị Phật ra đời, hiệu là Phật Phước Đức Vân Trang Nghiêm. Kế lại có vị Phật ra đời, hiệu là Phật Pháp Sơn Vân Tràng. Kế lại có vị Phật ra đời, hiệu là Phật Công Đức Sơn Quang Minh. Kế lại có vị Phật ra đời, hiệu là Phật Pháp Nhựt Vân Đăng Vương. Kế lại có vị Phật ra đời, hiệu là Phật Pháp Vân Danh Xưng Vương. Kế lại có vị Phật ra đời, hiệu là Phật Pháp Luân Vân. Kế lại có vị Phật ra đời, hiệu là Phật Khai Ngộ Bồ Đề Trí Quang Tràng. Kế lại có vị Phật ra đời, hiệu là Phật Phổ Trí Vân. Kế lại có vị Phật ra đời, hiệu là Phật Pháp Lực Công Đức Sơn. Kế lại có vị Phật ra đời, hiệu là Phật Công Đức Hương Diệm Vương. Kế lại có vị Phật ra đời, hiệu là Phật Kim Sắc Ma Ni Sơn Diệu Âm Thanh. Kế lại có vị Phật ra đời, hiệu là Phật Đảnh Kế Xuất Nhất Thiết Pháp Quang Minh Vân. Kế lại có vị Phật ra đời, hiệu là Phật Pháp Luân Xí Thạnh Quang. Kế lại có vị Phật ra đời, hiệu là Phật Vô Thượng Công Đức Sơn.
Kế lại có vị Phật ra đời, hiệu là Tinh Tấn Cự Quang Minh Vân. Kế lại có vị Phật ra đời, hiệu là Tam Muội Ấn Quảng Đại Quang Minh Quan. Kế lại có vị Phật ra đời, hiệu là Bảo Quang Minh Công Đức Vương. Kế lại có vị Phật ra đời, hiệu là Pháp Cự Bảo Cái Âm. Kế lại có vị Phật ra đời, hiệu là Phổ Chiếu Hư Không Giới Vô Uý Pháp Quang Minh. Kế lại có vị Phật ra đời, hiệu là Nguyệt Tướng Trang Nghiêm Tràng. Kế lại có vị Phật ra đời, hiệu là Quang Minh Diệm Sơn Vân. Kế lại có vị Phật ra đời, hiệu là Chiếu Vô Chướng Ngại Pháp Hư Không. Kế lại có vị Phật ra đời, hiệu là Khai Hiển Trí Quang Thân. Kế lại có vị Phật ra đời, hiệu là Thế Chủ Đức Quang Minh Âm. Kế lại có vị Phật ra đời, hiệu là Nhất Thiết Pháp Tam Muội Quang Minh Âm. Kế lại có vị Phật ra đời, hiệu là Pháp Âm Công Đức Tạng. Kế lại có vị Phật ra đời, hiệu là Xí Nhiên Diệm Pháp Hải Vân. Kế lại có vị Phật ra đời, hiệu là Phổ Chiếu Tam Thế Tướng Đại Quang Minh. Kế lại có vị Phật ra đời, hiệu là Phổ Chiếu Pháp Luân Sơn. Kế lại có vị Phật ra đời, hiệu là Pháp Giới Sư Tử Quang. Kế lại có vị Phật ra đời, hiệu là Tu Di Hoa Quang Minh. Kế lại có vị Phật ra đời, hiệu là Nhất Thiết Tam Muội Hải Sư Tử Diệm. Kế lại có vị Phật ra đời, hiệu là Phổ Trí Quang Minh Đăng.
Kế lại có vị Phật ra đời, hiệu là Phật Tinh Tấn Cự Quang Minh Vân. Kế lại có vị Phật ra đời, hiệu là Phật Tam Muội Ấn Quảng Đại Quang Minh Quan. Kế lại có vị Phật ra đời, hiệu là Phật Bảo Quang Minh Công Đức Vương. Kế lại có vị Phật ra đời, hiệu là Phật Pháp Cự Bảo Cái Âm. Kế lại có vị Phật ra đời, hiệu là Phật Phổ Chiếu Hư Không Giới Vô Uý Pháp Quang Minh. Kế lại có vị Phật ra đời, hiệu là Phật Nguyệt Tướng Trang Nghiêm Tràng. Kế lại có vị Phật ra đời, hiệu là Phật Quang Minh Diệm Sơn Vân. Kế lại có vị Phật ra đời, hiệu là Phật Chiếu Vô Chướng Ngại Pháp Hư Không. Kế lại có vị Phật ra đời, hiệu là Phật Khai Hiển Trí Quang Thân. Kế lại có vị Phật ra đời, hiệu là Phật Thế Chủ Đức Quang Minh Âm. Kế lại có vị Phật ra đời, hiệu là Phật Nhất Thiết Pháp Tam Muội Quang Minh Âm. Kế lại có vị Phật ra đời, hiệu là Phật Pháp Âm Công Đức Tạng. Kế lại có vị Phật ra đời, hiệu là Phật Xí Nhiên Diệm Pháp Hải Vân. Kế lại có vị Phật ra đời, hiệu là Phật Phổ Chiếu Tam Thế Tướng Đại Quang Minh. Kế lại có vị Phật ra đời, hiệu là Phật Phổ Chiếu Pháp Luân Sơn. Kế lại có vị Phật ra đời, hiệu là Phật Pháp Giới Sư Tử Quang. Kế lại có vị Phật ra đời, hiệu là Phật Tu Di Hoa Quang Minh. Kế lại có vị Phật ra đời, hiệu là Phật Nhất Thiết Tam Muội Hải Sư Tử Diệm. Kế lại có vị Phật ra đời, hiệu là Phật Phổ Trí Quang Minh Đăng.
Thiện nam tử! Các Như Lai nhiều như số hạt bụi núi Tu Di như vậy, vị Phật cuối cùng hiệu là Pháp Giới Thành Trí Huệ Đăng, cũng ở trong kiếp Ly Cấu Quang Minh, xuất hiện ra đời. Ta đều tôn trọng gần gũi cúng dường, lắng nghe thọ trì diệu pháp của chư Phật nói. Cũng ở chỗ tất cả các đức Như Lai đó, xuất gia học đạo, hộ trì giáo pháp. Nhập vào giải thoát Bồ Tát diệu âm tự tại thâm sâu nầy, đủ thứ phương tiện, giáo hoá thành thục vô lượng chúng sinh. Từ đó đến nay, số kiếp nhiều như số hạt bụi cõi Phật, hết thảy chư Phật xuất hiện ra đời, ta đều cúng dường, tu hành pháp của các Ngài.
Thiện nam tử! Ta từ đó đến nay, ta ở trong các chúng sinh tối tăm sinh tử vô minh, mà tự mình giác ngộ, khiến cho các chúng sinh giữ gìn tâm thành, xả bỏ thành ba cõi, trụ pháp thành nhất thiết trí vô thượng.
Thiện nam tử! Các Như Lai nhiều như số hạt bụi núi Tu Di như vậy, vị Phật cuối cùng hiệu là Phật Pháp Giới Thành Trí Huệ Đăng, cũng ở trong kiếp Ly Cấu Quang Minh, xuất hiện ra đời. Ta đều tôn trọng gần gũi cúng dường, lắng nghe thọ trì diệu pháp của chư Phật nói. Cũng ở trong tất cả đạo tràng của các đức Như Lai đó, xuất gia học đạo, hộ trì giáo pháp, chứng được môn giải thoát Bồ Tát diệu âm tự tại thâm sâu nầy, dùng đủ thứ pháp môn phương tiện, để giáo hoá thành thục vô lượng chúng sinh. Từ khi ta phát tâm đến nay, số kiếp nhiều như số hạt bụi cõi Phật, hết thảy chư Phật xuất hiện ra đời, ta đều cúng dường, tu hành pháp của chư Phật nói.
Thiện nam tử! Ta từ đó đến nay, ta ở trong các chúng sinh tối tăm sinh tử vô minh, mà tự mình giác ngộ, khiến cho các chúng sinh giữ gìn tâm bảo thành, xả bỏ thành ngục tù ba cõi, trụ trong pháp thành nhất thiết trí vô thượng.
Thiện nam tử! Ta chỉ biết giải thoát Diệu âm tự tại thâm sâu nầy, khiến cho các thế gian lìa khỏi lời hí luận, không nói hai lời, thường nói lời chân thật, lời nói luôn thanh tịnh.
Như các đại Bồ Tát, biết được tất cả lời nói tự tánh. Ở trong niệm niệm, tự tại khai ngộ tất cả chúng sinh. Nhập vào biển lời nói của tất cả chúng sinh. Đối với tất cả lời lẽ thảy đều hiểu rõ. Thấy rõ tất cả các biển pháp môn. Nhiếp khắp tất cả pháp Đà La Ni, đã được tự tại. Tuỳ tâm hoài nghi của các chúng sinh, mà vì họ nói pháp, rốt ráo điều phục tất cả chúng sinh. Khắp nhiếp thọ khắp tất cả chúng sinh, khéo tu các nghiệp vô thượng của Bồ Tát. Thâm nhập vào các trí huệ vi tế của Bồ Tát. Khéo quán sát các Bồ Tát tạng. Tự tại nói pháp của các Bồ Tát. Tại sao? Vì đã thành tựu tất cả pháp luân Đà La Ni. Mà ta làm sao biết được nói được những hạnh công đức đó?
Thiện nam tử! Ta chỉ biết được môn giải thoát Diệu âm tự tại thâm sâu nầy, khiến cho tất cả chúng sinh thế gian lìa khỏi lời hí luận, không nói hai lời, thường nói lời chân thật, lời nói luôn thanh tịnh không ô nhiễm.
Như các đại Bồ Tát, các Ngài biết được tất cả lời nói tự tánh. Ở trong niệm niệm, tự tại khai ngộ tất cả chúng sinh. Nhập vào biển lời nói của tất cả chúng sinh. Đối với tất cả lời lẽ thảy đều hiểu rõ. Thấy rõ tất cả các biển pháp môn. Nhiếp khắp tất cả pháp Đà La Ni, đã được nhậm vận tự tại. Tuỳ theo tâm hoài nghi của các chúng sinh, mà vì họ nói pháp, giải trừ lưới nghi cho họ, rốt ráo điều phục được tất cả chúng sinh. Khắp nhiếp thọ hết tất cả chúng sinh, khéo tu các nghiệp vô thượng của Bồ Tát. Thâm nhập vào các trí huệ vi tế của Bồ Tát. Lại khéo quán sát pháp tạng của tất cả Bồ Tát. Tự tại diễn nói diệu pháp của các Bồ Tát. Tại sao vậy? Vì đã thành tựu tất cả pháp luân Đà La Ni. Mà ta làm sao biết được nói được những hạnh công đức đó?
Thiện nam tử! Trong hội Phật nầy, có vị Chủ Dạ Thần, tên là Khai Phu Nhất Thiết Thụ Hoa. Ngươi hãy đến đó hỏi: Bồ Tát làm thế nào học nhất thiết trí? Làm thế nào an lập tất cả chúng sinh trụ nhất thiết trí?
Thiện nam tử! Ở trong hội Phật nầy, có vị Chủ Dạ Thần, tên là Khai Phu Nhất Thiết Thụ Hoa. Ngươi hãy đi đến đó hỏi Ngài: Bồ Tát làm thế nào học tập nhất thiết trí huệ? Làm thế nào an lập tất cả chúng sinh trụ bậc nhất thiết trí huệ?
Bấy giờ, Chủ Dạ Thần Thủ Hộ Nhất Thiết Thành, muốn thuật lại nghĩa giải thoát nầy, vì Thiện Tài đồng tử mà nói kệ rằng:
Bấy giờ, Chủ Dạ Thần Thủ Hộ Nhất Thiết Thành, muốn tường thuật lại nghĩa lý môn giải thoát nầy, vì Thiện Tài đồng tử mà nói kệ rằng:
Bồ Tát giải thoát sâu khó thấy
Hư không như như tướng bình đẳng
Thấy khắp vô biên trong pháp giới
Tất cả các Như Lai ba đời.
Môn Bồ Tát giải thoát nầy, thâm sâu khó thấy được, cũng không dễ gì minh bạch. Môn giải thoát nầy và hư không như như bất động, rõ ràng sáng suốt, đó là tướng bình đẳng, tức cũng là một tướng vô tướng. Môn giải thoát nầy, thấy khắp vô biên cảnh giới trong pháp giới, tất cả chư Phật mười phương ba đời, đều thấy được khắp hết.
Sinh ra vô lượng thắng công đức
Chứng nhập khó nghĩ chân pháp tánh
Tăng trưởng nhất thiết trí tự tại
Khai thông đạo giải thoát ba đời.
Môn giải thoát nầy, hay sinh ra vô lượng công đức thù thắng, chứng nhập pháp tánh chân như không thể nghĩ bàn. Hay tăng trưởng nhất thiết trí huệ tự tại, hay khai thông đạo giải thoát ba đời.
Qua số kiếp hạt bụi cõi chuyển
Bấy giờ có kiếp tên Tịnh Quang
Thế giới tên là Pháp Diệm Vân
Thành đó tên là Bảo Hoa Quang.
Vượt qua số kiếp nhiều như số hạt bụi cõi chuyển, lúc đó có kiếp tên Tịnh Quang. Trong kiếp đó, có thế giới tên là Pháp Diệm Vân. Trong thế giới đó, có thành tên là Bảo Hoa Quang.
Trong đó chư Phật hiện ra đời
Nhiều như hạt bụi núi Tu Di
Có Phật hiệu là Pháp Hải Âm
Xuất hiện đầu tiên trong kiếp đó.
Trong thành Bảo Hoa Quang đó, chư Phật thị hiện ra đời, nhiều như hạt bụi núi Tu Di. Lúc đó, có vị Phật xuất hiện ra đời, hiệu là Phật Pháp Hải Lôi Âm Quang Minh Vương, xuất hiện ra đời đầu tiên trong đại kiếp đó.
Cho đến Phật cuối cùng kiếp đó
Hiệu là Pháp Giới Diệm Đăng Vương
Tất cả các Như Lai như vậy
Ta đều cúng dường nghe thọ pháp.
Cho đến vị Phật xuất hiện ra đời cuối cùng kiếp đó, hiệu là Phật Pháp Giới Diệm Đăng Vương. Tất cả các Như Lai nhiều như số hạt bụi núi Tu Di như vậy xuất hiện ra đời, ta đều gần gũi cúng dường, lắng nghe thọ trì pháp của tất cả chư Phật nói.
Ta thấy Phật Pháp Hải Lôi Âm
Thân Ngài đều bằng màu vàng ròng
Các tướng trang nghiêm như núi báu
Phát tâm nguyện được thành Như Lai.
Vị Dạ Thần Thủ Hộ Nhất Thiết Thành nói: Ta thấy Phật Pháp Hải Lôi Âm Vương, thân của Ngài đều bằng màu vàng ròng, các tướng trang nghiêm như núi báu, ta phát tâm nguyện được thành tựu Như Lai.
Ta tạm thấy thân Như Lai đó
Liền phát tâm bồ đề rộng lớn
Thệ nguyện siêng cầu nhất thiết trí
Tánh đồng với hư không pháp giới.
Ta tạm thấy thân Như Lai đó, lập tức phát tâm bồ đề rộng lớn, phát thệ nguyện siêng cầu nhất thiết trí huệ. Tánh đó đồng với hư không pháp giới, chẳng có gì khác biệt.
Nhờ đó thấy khắp Phật ba đời
Cùng với tất cả chúng Bồ Tát
Cũng thấy cõi nước biển chúng sinh
Mà khắp phan duyên khởi đại bi.
Nhờ đó thấy khắp tất cả chư Phật mười phương ba đời, cùng với tất cả đại chúng Bồ Tát, cũng thấy biển cõi nước và biển chúng sinh, khắp phan duyên mà sinh khởi tâm đại bi, do đó có câu: “Đồng thể đại bi”. Bồ Tát mắt từ trông chúng sinh, coi như là một thể, chẳng có gì khác biệt. Ngài thấy chúng sinh thọ khổ, giống như chính mình thọ khổ.
Tuỳ tâm ưa thích của chúng sinh
Thị hiện đủ thứ vô lượng thân
Khắp cùng mười phương các cõi nước
Động địa phóng quang ngộ hàm thức.
Tuỳ thuận tâm ưa thích của tất cả chúng sinh, mà thị hiện đủ thứ vô lượng hoá thân, khắp cùng mười phương tất cả cõi nước. Lúc đó, khiến cho đại địa có sáu thứ chấn động (chấn, hống, kích, động, dũng, khởi), lại phóng ra quang minh thanh tịnh, khiến cho tất cả hàm thức đều khai ngộ, hiểu rõ nghĩa lý tất cả Phật pháp.
Thấy Phật thứ hai mà gần gũi
Cũng thấy mười phương biển cõi Phật
Cho đến Phật cuối cùng ra đời
Số đồng bụi Tu Di như vậy.
Từ đó về sau, thấy được vị Phật thứ hai xuất hiện ra đời, ta cũng gần gũi Phật, cúng dường Phật. Cũng thấy mười phương biển cõi Phật, ta đều gần gũi cúng dường. Cho đến vị Phật cuối cùng thị hiện ra đời, ta cũng gần gũi cúng dường. Tình hình như vậy, ta thấy được chư Phật nhiều như số hạt bụi núi Tu Di như vậy, ta đều gần gũi cúng dường, chẳng khi nào nhàm mỏi.
Số kiếp hạt bụi các cõi chuyển
Hết thảy Như Lai Chiếu Thế Đăng
Ta đều gần gũi mà chiêm phụng
Khiến giải thoát nầy được thanh tịnh.
Số kiếp nhiều như số hạt bụi tất cả cõi chuyển, hết thảy chư Phật đều là đèn sáng chiếu thế gian, ta đều gần gũi mà chiêm bái và cúng dường. Khiến cho môn giải thoát Diệu âm tự tại thâm sâu nầy được thanh tịnh.
Bấy giờ, Thiện Tài đồng tử vào được giải thoát Bồ Tát diệu âm tự tại thâm sâu nầy. Vào vô biên biển tam muội. Vào tổng trì Bồ Tát đại thần thông rộng lớn. Được đại biện tài của Bồ Tát. Tâm đại hoan hỉ. Quán sát giữ gìn tất cả thành Chủ Dạ Thần, dùng kệ khen ngợi rằng:
Lúc đó, Thiện Tài đồng tử chứng được môn giải thoát Bồ Tát Diệu âm tự tại thâm sâu nầy. Vào vô biên biển tam muội. Vào tổng trì Bồ Tát đại thần thông rộng lớn. Đắc được đại biện tài của Bồ Tát. Tâm đại hoan hỉ. Quán sát giữ gìn tất cả thành Chủ Dạ Thần, dùng kệ để khen ngợi Ngài rằng:
Đã tu biển diệu huệ rộng lớn
Đã độ vô biên các biển cõi
Trưởng dưỡng thân trí tạng không bệnh
Oai đức quang minh trụ chúng nầy.
Ngài đã tu hành biển trí huệ rộng lớn thù diệu không thể tả được. Ngài đã vượt qua biển tam giới hai mươi lăm cõi. Thọ mạng tăng trưởng, thân trí huệ tạng chẳng có tất cả tật bệnh nào. Đại oai đức quang minh của Ngài trụ trong chúng hội nầy.
Thấu đạt pháp tánh như hư không
Vào khắp ba đời đều vô ngại
Niệm niệm phan duyên tất cả cảnh
Tâm tâm dứt hẳn các phân biệt.
Ngài thấu rõ thông đạt tất cả pháp tánh như hư không. Vào khắp ba đời đều vô ngại. Niệm niệm tu hành truy cầu pháp môn vô thượng đạo. Tuy ở trong niệm niệm phan duyên tất cả cảnh giới, nhưng trong tâm của Ngài đều đã dứt hẳn hết thảy tâm phân biệt.
Thấu đạt chúng sinh không có tánh
Mà nơi chúng sinh khởi đại bi
Thâm nhập môn giải thoát Như Lai
Rộng độ quần mê vô lượng chúng.
Ngài thấu đạt tất cả chúng sinh đều không có tánh, đều là không. Tuy là không, nhưng Ngài đối đãi với tất cả chúng sinh khởi tâm đại bi, hành sở vô sự. Ngài thâm nhập môn giải thoát vô thượng của Như Lai, rộng độ vô lượng chúng sinh mê hoặc.
Quán sát suy gẫm tất cả pháp
Biết rõ chứng nhập tánh các pháp
Tu hành Phật trí huệ như vậy
Độ khắp chúng sinh khiến giải thoát.
Ngài quán sát suy gẫm tất cả Phật pháp, biết rõ chứng nhập tự tánh của các pháp. Tu hành Phật trí huệ như vậy, khắp giáo hoá tất cả chúng sinh, khiến cho họ đều được giải thoát.
Ngài là Điệu Ngự Sư chúng sinh
Khai thị đạo trí huệ Như Lai
Khắp vì pháp giới các hàm thức
Nói các hạnh sợ lìa thế gian.
Thiên Thần Ngài là Điệu Ngự Sư của tất cả chúng sinh, hay khai thị đạo trí huệ Như Lai. Khắp vì pháp giới tất cả các hàm thức, diễn nói các hạnh sợ hãi lìa thế gian.
Đã trụ các nguyện đạo Như Lai
Đã thọ giáo bồ đề rộng lớn
Đã tu khắp tất cả hạnh lực
Đã thấy mười phương Phật tự tại.
Ngài đã trụ đạo tất cả nguyện của Như Lai. Đã thọ sự giáo hoá bồ đề rộng lớn. Đã tu hành khắp tất cả hạnh thần thông lực. Đã thấy mười phương ba đời tất cả chư Phật, đắc được nhậm vận tự tại.
Thiên Thần tâm tịnh như hư không
Khắp lìa tất cả các phiền não
Biết rõ ba đời vô lượng cõi
Chư Phật Bồ Tát và chúng sinh.
Thiên Thần tâm của Ngài thanh tịnh như hư không, khắp lìa tất cả các phiền não. Biết rõ ba đời vô lượng cõi nước chư Phật và tất cả chư Phật, tất cả Bồ Tát, tất cả chúng sinh.
Thiên Thần một niệm đều biết rõ
Ngày đêm ngày tháng năm biển kiếp
Cũng biết tất cả loài chúng sinh
Đủ thứ danh tướng đều khác nhau.
Thiên Thần Ngài có thể một niệm đều biết rõ tất cả cảnh giới, biển thời gian ngày đêm và ngày tháng cùng năm kiếp. Ngài cũng biết tất cả loài chúng sinh, có đủ thứ danh tướng đều khác nhau.
Mười phương chúng sinh nơi sinh tử
Có sắc không sắc tưởng không tưởng
Tuỳ thuận thế tục đều biết rõ
Dẫn dắt khiến vào đạo bồ đề.
Trong mười phương thế giới, hết thảy chúng sinh đều ở trong biển sinh tử, chẳng được giải thoát. Hoặc thai noãn thấp hoá, hoặc có sắc, không có sắc, hoặc có tưởng, không có tưởng. Tuỳ thuận pháp thế tục, Ngài đều biết rõ, dẫn dắt họ vào đạo bồ đề, tiến về trước, đạt đến bờ Niết Bàn bên kia.
Đã sinh nhà thệ nguyện Như Lai
Đã vào biển công đức chư Phật
Pháp thân thanh tịnh tâm vô ngại
Tuỳ chúng sinh thích hiện các sắc.
Ngài đã sinh vào nhà thệ nguyện của Như Lai. Đã vào biển công đức của tất cả chư Phật. Pháp thân của Ngài cũng thanh tịnh không nhiễm. Tâm của Ngài cũng vô ngại. Ngài hay tuỳ thuận sự hoan hỉ của tất cả chúng sinh, mà thị hiện các sắc tướng, khiến cho họ sinh tâm hoan hỉ.
Bấy giờ, Thiện Tài đồng tử nói bài kệ nầy rồi, đảnh lễ vị Dạ Thần, đi nhiễu quanh vô lượng vòng, ân cần chiêm ngưỡng, rồi từ tạ mà đi.
Lúc đó, Thiện Tài đồng tử nói bài kệ nầy rồi, bèn đảnh lễ vị Dạ Thần, đi nhiễu phải vô lượng vòng, ân cần chiêm ngưỡng dung nhan của vị Dạ Thần, có cảm giác mến luyến không xả, từ tạ mà đi, tìm cầu vị thiện tri thức khác.