KINH HOA NGHIÊM ĐẠI PHƯƠNG QUẢNG PHẬT

QUYỂN NĂM MƯƠI TÁM
 
PHẨM LÌA THẾ GIAN THỨ BA MƯƠI TÁM PHẦN SÁU

Phật tử ! Đại Bồ Tát có mười thứ bố thí thanh tịnh. Những gì là mười ? 

Đó là : Bình đẳng bố thí, vì chẳng lựa chúng sinh. Tuỳ ý bố thí, vì làm họ mãn nguyện. Chẳng loạn bố thí, vì khiến cho được lợi ích. Tuỳ nghi bố thí, vì biết thượng trung hạ. Chẳng trụ bố thí, vì chẳng cầu quả báo. Khai xả bố thí, vì tâm chẳng luyến chấp. Tất cả bố thí, vì rốt ráo thanh tịnh. Hồi hướng bồ đề bố thí, vì xa lìa hữu vi vô vi. Giáo hoá chúng sinh bố thí, vì cho đến Đạo Tràng vẫn không bỏ sự bố thí. Tam luân thanh tịnh bố thí, vì đối với người thí kẻ nhận và vật bố thí, chánh niệm quán sát như hư không. Đó là mười. 

Nếu các Bồ Tát an trụ pháp nầy, thì sẽ đắc được bố thí rộng lớn thanh tịnh vô thượng của Như Lai.

Các vị đệ tử của Phật ! Đại Bồ Tát có mười thứ bố thí thanh tịnh. Những gì là mười ? Đó là :

1. Bình đẳng bố thí, vì chẳng lựa chúng sinh, bố thí bình đẳng như nhau.

2. Tuỳ ý bố thí, vì làm mãn nguyện của họ, phàm là có người đến xin, thảy đều bố thí.

3. Chẳng loạn bố thí, vì chúng sinh có nhu cầu, đều bố thí, khiến cho họ được lợi ích.

4. Tuỳ nghi bố thí, vì biết quán sát thời nghi, chúng sinh có thượng căn, trung căn và hạ căn, vì người mà bố thí.

5. Chẳng trụ bố thí, vì bố thí chẳng cầu quả báo, cũng chẳng chấp vào sự bố thí, do đó có câu : « Tam luân thể không », mới là thật bố thí.

6. Khai xả bố thí, vì đại khai môn phương tiện, để hành bố thí, chẳng có tư tưởng : « Bỏ một được vạn », cũng chẳng tham trước sau khi bố thí, rằng bố thí có được công đức gì không ?

7. Tất cả bố thí, vì hết thảy nội tài và ngoại tài, đều bố thí hết, chẳng có tâm bỏn xẻn, cho nên đến được sự rốt ráo thanh tịnh.

8. Hồi hướng bồ đề bố thí, vì đem hết thảy công đức bố thí, đều hồi hướng về bồ đề, xa lìa hữu vi và vô vi.

9. Giáo hoá chúng sinh bố thí, vì sự bố thí nầy vĩnh viễn không đoạn tuyệt, cho đến khi thành Phật ngồi Đạo Tràng, vẫn không bỏ pháp môn bố thí.

10. Tam luân thanh tịnh bố thí, vì đối với người thí, kẻ nhận, và vật bố thí, dùng chánh niệm để quán sát như hư không.

Đó là mười thứ bố thí thanh tịnh của Bồ Tát. Nếu các Bồ Tát an trụ trong pháp nầy, thì sẽ đắc được bố thí rộng lớn thanh tịnh vô thượng của Như Lai.

Phật tử ! Đại Bồ Tát có mười thứ giới thanh tịnh. Những gì là mười ? 

Đó là : Giới thân thanh tịnh, vì giữ ba điều ác nơi thân. Giới lời thanh tịnh, vì lìa bốn lỗi lầm nơi lời. Giới ý thanh tịnh, vì vĩnh viễn lìa tham sân tà kiến. Giới chẳng phá tất cả học xứ thanh tịnh, vì làm tôn chủ trong tất cả trời người. Giới giữ gìn bồ đề tâm thanh tịnh, vì chẳng thích tiểu thừa. Giới giữ gìn quy chế của Như Lai thanh tịnh, vì cho đến tội rất nhỏ cũng sinh sợ hãi. Giới ẩn mật hộ trì thanh tịnh, vì khéo cứu chúng sinh phạm giới. Giới thanh tịnh chẳng làm tất cả điều ác, vì thệ tu tất cả pháp lành. Giới thanh tịnh xa lìa tất cả cõi kiến chấp, vì nơi giới không chấp. Giới giữ gìn tất cả chúng sinh thanh tịnh, vì phát khởi đại bi. Đó là mười. 

Nếu các chúng sinh an trụ pháp nầy, thì sẽ đắc được giới thanh tịnh không lỗi vô thượng của Như Lai.

Các vị đệ tử của Phật ! Đại Bồ Tát có mười thứ giới thanh tịnh. Những gì là mười ? Đó là :

1. Giới thân thanh tịnh, vì giữ ba điều ác nơi thân là : Giết, trộm, dâm.

2. Giới lời thanh tịnh, vì xa lìa bốn lỗi lầm nơi lời là : Nói dối, nói thêu dệt, nói hai lưỡi, chửi mắng.

3. Giới ý thanh tịnh, vì giữ gìn ý nghiệp thanh tịnh, vĩnh viễn lìa tham, sân, si.

4. Giới chẳng phá tất cả học xứ thanh tịnh, học xứ tức là bậc hữu học, đó là : Sơ quả, nhị quả, tam quả A la hán. Làm tôn chủ trong tất cả trời và người.

5. Giới giữ gìn bồ đề tâm thanh tịnh, bồ đề tâm là A nậu đa la tam miệu tam bồ đề, tức cũng là tâm mong cầu giác ngộ Phật đạo vô thượng. Nội dung của bồ đề tâm là bốn hoằng thệ nguyện, bốn tâm vô lượng, bốn pháp nhiếp. Phát bồ đề tâm thì phải tu sáu độ vạn hạnh, mới có thể tự độ độ tha, mà chẳng thích học pháp tiểu thừa, tự độ chẳng độ tha.

6. Giới giữ gìn quy chế của Như Lai thanh tịnh, Tỳ kheo có 250 giới và Tỳ kheo ni có 348 giới, nhất định phải giữ gìn và hộ trì, dù có giới rất nhỏ, cũng không được huỷ phạm. Nếu không cẩn thận mà lỡ phạm thì phải sinh sợ hãi, liền sám hối.

7. Giới ẩn mật hộ trì thanh tịnh, tức là ở chỗ người không biết, quỷ không hay, cũng phải giữ gìn giới thanh tịnh, thậm chí vọng tưởng không chánh đáng, cũng không thể sinh khởi. Khéo cứu chúng sinh phạm giới, khiến cho họ có cơ hội sửa lỗi làm mới.

8. Giới thanh tịnh chẳng làm tất cả điều ác, vì thệ nguyện tu tất cả pháp lành.

9. Giới thanh tịnh xa lìa tất cả cõi kiến chấp, vì vĩnh viễn thoát khỏi ba cõi hữu kiến, đối với giới tướng không chấp trước.

10. Giới giữ gìn tất cả chúng sinh thanh tịnh, vì phát khởi tâm đại bi, cứu hộ tất cả chúng sinh thoát khỏi biển khổ ba cõi.
Đó là mười thứ giới thanh tịnh của Bồ Tát. Nếu các chúng sinh an trụ trong pháp nầy, thì sẽ đắc được giới thanh tịnh không lỗi vô thượng của Như Lai.

Phật tử ! Đại Bồ Tát có mười thứ nhẫn thanh tịnh. Những gì là mười ? 

Đó là : Nhẫn thanh tịnh an thọ sự mắng nhục, vì hộ các chúng sinh. Nhẫn thanh tịnh an thọ đao gậy, vì khéo hộ ta người. Nhẫn thanh tịnh chẳng sinh sân hại, vì tâm bất động. Nhẫn thanh tịnh chẳng trách kẻ ti tiện, vì người trên rộng lượng. Nhẫn thanh tịnh có ai trở về đều cứu giúp, vì xả thân mạng mình. Nhẫn thanh tịnh xa lìa ngã mạn, vì chẳng khinh kẻ chưa học. Nhẫn thanh tịnh bị tàn hại huỷ báng chẳng sân, vì quán sát như huyễn. Nhẫn thanh tịnh bị xâm hại không báo oán, vì chẳng thấy ta người. Nhẫn thanh tịnh chẳng theo phiền não, vì lìa các cảnh giới. Nhẫn thanh tịnh tuỳ thuận chân thật trí của Bồ Tát, biết tất cả pháp không sinh, vì chẳng do người khác dạy, nhập vào cảnh giới nhất thiết trí. Đó là mười. 
Nếu các Bồ Tát an trụ pháp nầy, thì sẽ đắc được vô thượng pháp nhẫn của tất cả chư Phật, không do người khác mà giác ngộ.

Các vị đệ tử của Phật ! Đại Bồ Tát có mười thứ nhẫn thanh tịnh. Những gì là mười ? Đó là :

1. Nhẫn thanh tịnh an thọ sự mắng nhục, nếu có người vô cớ đến chửi bạn, hoặc làm nhục bạn, thì bạn phải nhẫn thọ, đừng nổi giận, còn phải thủ hộ tất cả chúng sinh, dùng thân làm khuông phép, hiện thân thuyết pháp, khiến cho họ học tu pháp môn nhẫn nhục Ba La Mật.

2. Nhẫn thanh tịnh an thọ đao gậy, vì khéo hộ mình, lại khéo hộ người khác.

3. Nhẫn thanh tịnh chẳng sinh sân hại, bất cứ thọ sự thương hại như thế nào, tâm cũng bất động. Đó là tình hình không thể nhẫn mà nhẫn được, cũng chẳng sinh tâm báo thù. Do đó có câu : « Lấy đức báo oán », dùng đức để cảm hoá kẻ địch, thì tự nhiên mọi sự sẽ tốt đẹp.

4. Nhẫn thanh tịnh chẳng trách kẻ ti tiện, tâm của người làm chủ phải khoan hồng độ lượng, có tâm từ bi đối đãi với kẻ dưới, phải có tâm thương xót, đừng trách mắng họ.

5. Nhẫn thanh tịnh có ai trở về đều cứu độ, phàm là có người trở về nương tựa, hoặc là người có tai nạn, nhất định phải tìm cách cứu giúp, khiến cho họ được ấm no, hoặc cứu họ thoát khỏi cảnh nguy dầu sôi lửa bỏng, khiến cho họ được an lạc. Cảnh giới lâm nguy đó, dù có hy sinh thân mạng mình cũng không từ, đó là đại bố thí vô uý, cũng là tinh thần của Bồ Tát.

6. Nhẫn thanh tịnh xa lìa ngã mạn, chẳng có thái độ cống cao ngã mạn, đối với mọi người rất có lễ phép, chẳng khinh khi kẻ không có học thức, phải có tác phong hoà mục thân thiện.

7. Nhẫn thanh tịnh bị tàn hại huỷ báng chẳng sân, nếu có người tàn hại thân thể của mình, hoặc huỷ báng danh dự của mình, cũng phải tha thứ cho họ, đừng có sinh tâm sân hận, không thể sinh tâm báo thù. Vì quán sát tất cả mọi sự vật, như huyễn như hoá, vốn chẳng chân thật.

8. Nhẫn thanh tịnh bị xâm hại không báo oán, nếu có người đến xâm phạm sự tự do của bạn, nhưng bạn không có tâm báo thù. Tại sao ? vì chẳng thấy tướng ta, cũng chẳng thấy tướng người, cho nên không ta, không người, thì vạn sự đều hanh thông, đều đại hoan hỉ.

9. Nhẫn thanh tịnh chẳng theo phiền não, vì lìa khỏi tất cả cảnh giới, thì làm gì có phiền não !

10. Nhẫn thanh tịnh tuỳ thuận chân thật trí của Bồ Tát, biết tất cả pháp không sanh, vì chẳng do người khác dạy, nhập vào cảnh giới nhất thiết trí.

Đó là mười thứ nhẫn thanh tịnh. Nếu các Bồ Tát an trụ trong pháp nầy, thì sẽ đắc được vô thượng pháp nhẫn của tất cả chư Phật, không do người khác mà giác ngộ.

Phật tử ! Đại Bồ Tát có mười thứ tinh tấn thanh tịnh. Những gì là mười ? 

Đó là : Thân thanh tịnh tinh tấn, vì thừa sự cúng dường chư Phật Bồ Tát và các sư trưởng, tôn trọng phước điền, chẳng thối chuyển. Lời thanh tịnh tinh tấn, vì tuỳ sự nghe pháp, rộng vì người khác nói, khen ngợi công đức của Phật, không mệt mỏi. Ý thanh tịnh tinh tấn, vì khéo nhập xuất từ bi hỷ xả, thiền định giải thoát, và các tam muội, không ngừng nghỉ. Tâm ngay thẳng thanh tịnh tinh tấn, vì không dối, không xiểm nịnh, không cong vạy, không hư nguỵ, siêng tu tất cả, không thối chuyển. Tâm tăng thắng thanh tịnh tinh tấn, vì chí thường hướng cầu trí huệ vô thượng, nguyện đủ tất cả pháp trắng tịnh. Chẳng luống bỏ thanh tịnh tinh tấn, vì nhiếp lấy bố thí, giới, nhẫn, đa văn và không phóng dật, cho đến bồ đề không nghỉ giữa đường.

Các vị đệ tử của Phật ! Đại Bồ Tát có mười thứ tinh tấn thanh tịnh. Những gì là mười ? Đó là :

1. Thân thanh tịnh tinh tấn, vì thừa sự cúng dường chư Phật Bồ Tát và các sư trưởng, tôn trọng phước điền Tăng, chẳng thối chuyển tâm bồ đề.

2. Lời thanh tịnh tinh tấn, vì tuỳ sự nghe pháp bất cứ ở đâu, đều rộng vì người khác diễn nói, đem pháp bố thí cho người, khen ngợi công đức của chư Phật, không khi nào mệt mỏi.

3. Ý thanh tịnh tinh tấn, vì khéo nhập xuất từ bi hỷ xả bốn tâm vô lượng, thiền định giải thoát, và các tam muội, không khi nào ngừng nghỉ.

4. Tâm ngay thẳng thanh tịnh tinh tấn, vì không nói dối, không xiểm nịnh, không cong vạy, không hư nguỵ, tinh tấn siêng tu tất cả, không thối chuyển bồ đề tâm.

5. Tâm tăng thắng thanh tịnh tinh tấn, vì chí nguyện thường hướng cầu trí huệ vô thượng, nguyện đầy đủ tất cả pháp trắng tịnh, tức cũng là pháp thanh tịnh.

6. Chẳng luống bỏ thanh tịnh tinh tấn, vì nhiếp lấy bố thí, trì giới, nhẫn nhục, đa văn và không phóng dật, cho đến bồ đề, không khi nào nghỉ, hoặc ngừng ở giữa đường.

Hàng phục tất cả ma thanh tịnh tinh tấn, vì đều trừ diệt tham dục sân hận ngu si tà kiến tất cả phiền não các triền cái. Thành tựu viên mãn trí huệ quang thanh tịnh tinh tấn, vì có làm việc gì, đều khéo quán sát, đều khiến rốt ráo, chẳng khiến cho hậu hối, đắc được tất cả pháp bất cộng của Phật. Không đến, không đi, thanh tịnh tinh tấn, vì được trí như thật, vào môn pháp giới, thân lời và tâm thảy đều bình đẳng, thấu rõ tướng chẳng phải tướng, không chấp trước. Thành tựu pháp quang thanh tịnh tinh tấn, vì vượt qua các địa, được Phật quán đảnh, dùng thân vô lậu mà thị hiện mất, sinh, xuất gia, thành đạo, thuyết pháp, diệt độ, đầy đủ việc Phổ Hiền như vậy. Đó là mười. 
Nếu các Bồ Tát an trụ pháp nầy, thì sẽ đắc được đại tinh tấn thanh tịnh vô thượng của Như Lai.

7. Hàng phục tất cả ma thanh tịnh tinh tấn, ma là gì ? Tức là dứt huệ mạng của người tu đạo. Tóm lại, phàm là chướng ngại, nhiễu loạn, phá hoại tâm của người tu đạo, đều là ma. Hàng phục tất cả ma, là trừ diệt tham dục, sân hận, ngu si, tà kiến, tất cả phiền não, mười triền, năm cái. Hôm nay nói sơ lược về mười triền năm cái như sau :

Mười triền là gì ?

1. Vô tàm : Tàm tức là trước kia từng làm những việc sai lầm, bây giờ sửa đổi, không tái phạm nữa.

2. Vô quý : Quý tức là trong tâm cảm thấy xấu hổ, cảm thấy không thoải mái, lương tâm bảo mình làm những việc không đúng, trong tâm không thể hiện ra ánh sáng. Biết sai mà không sửa; biết không đúng, cũng chẳng thừa nhận, đó tức là biểu hiện vô tàm vô quý (không biết hổ thẹn)

3. Đố kị : Người ta tốt, họ cũng chẳng vui; người ta xảy ra tai nạn, thì họ vui mừng, có tâm lý hạnh tai lạc hoạ tác quái, bị tâm đố kị trói chặt, không được tự do, thì không có được sự hoan hỉ, suốt ngày hận đông oán tây.

4. Tham xẻn : Tức là chẳng bố thí xả bỏ được, chẳng chịu cứu giúp người khó khăn, do đó có câu : « Tham xẻn thành tánh ».

5. Hối : Tức là hậu hối, bố thí tài vật rồi, sau lại hối hận, cảm thấy không đáng bố thí, đáng giữ lại để mình dùng. Đó là chẳng có tâm từ bi cứu giúp.

6. Thuỳ miên (ngủ gục) : Đây cũng là một thứ triền (ràng buộc), đến lúc ngủ gục, nếu không ngủ thì con mắt mở chẳng lên. Người ham ngủ thì ngủ li bì suốt ngày, chiếm hết thời gian, thật đáng thương xót !

7. Trạo cử : Trong tâm không an ninh, vọng tưởng lăn xăn, tay chân loạn động, cử động chẳng chánh đáng.

8. Hôn trầm : Tức là muốn ngủ, tinh thần chẳng tập trung. Bất cứ làm gì, cũng đều cảm thấy chẳng hứng thú, xem kinh cũng hôn trầm, nghe kinh cũng hôn trầm. Tóm lại, đều ở trong sự hôn trầm.

9. Sân phẫn : Sân là sân hận, phẫn là phẫn nộ. Giống như có người bị hại thì họ nổi nóng lên, thật là oan uổn cho tôi, tôi chẳng phải là hạng người đó. Do đó bèn sinh tâm sân hận hoặc phẫn nộ.

10. Phú : Tức là phú cái (che đậy) hành vi xấu xa của mình, sợ người khác biết, cho nên tìm cách che đậy lại, không để người khác nhìn thấy.
Đó là nói sơ lược về mười triền. Chúng ta người học Phật, phải ghi nhớ mười thứ triền nầy cho rõ ràng, ngàn vạn đừng để bị nó trói buộc, không thể nào được giải thoát.

Năm cái là gì ? Tức là nói về năm thứ cái, che đây tâm tánh, không thể sinh ra pháp lành.

1. Tham dục cái : Tham luyến khoái lạc : Tài, sắc, danh, ăn, ngủ, năm thứ dục lạc. Do đó có câu : « Tài sắc danh ăn ngủ, năm lối vào địa ngục », bất cứ một thứ dục nào, cũng sẽ đoạ vào địa ngục thọ khổ. Người tu đạo phải xa lìa năm dục, sẽ đoạn tuyệt gốc rễ địa ngục.

2. Sân hận cái : Gặp việc không như ý, liền sinh tâm sân hận, đó là hòn đá cột chân người tu đạo. Do đó có câu :

« Một niệm tâm sân khởi
Trăm vạn cửa chướng mở ra ».

Tu đạo là tu cái gì ? Là tu nhẫn nhục Ba La Mật. Pháp môn nhẫn nhục tu đến nhà, thì bất cứ nghịch cảnh gì, cũng không động tâm, tức là không động lửa gan, không thương hại thể, cũng không phiền não tâm, nhất cử lưỡng đắc, còn vui nào bằng !

3. Thuỳ miên cái : Ngủ nhiều thì có hiện tượng đầu óc hôn mê mệt mỏi, giống như bệnh tật, chẳng muốn làm bất cứ việc gì. Đừng thái quá, cũng đừng bất cập, là trung đạo. Nếu ngủ nhiều, thì che lấp mất tâm tánh, không biết tinh tấn tu đạo.

4. Trạo cử cái : Vì tư tưởng chẳng thanh tịnh, cho nên tâm phiền ý loạn, thập phần náo động. Làm việc gì cũng khiến cho tâm sinh phiền não, thứ phiền não đó cũng che lấp tâm tánh.

5. Nghi pháp cái : Đối với tất cả Phật pháp, đều sinh tâm hoài nghi, hoặc bán tín bán nghi, hoặc do dự chẳng quyết định được, bồi hồi ở ngoài cửa, chẳng nhập môn được, có người học Phật nhiều năm, cuối cùng vẫn ở ngoài cửa. Tại sao vậy ? Vì đối với Phật pháp chẳng thấu hiểu triệt để, chẳng có vào sâu tạng Kinh, cho nên chẳng có trí huệ. Nếu có trí huệ, thì tuyệt đối sẽ tin pháp từ kim khẩu của Phật nói ra, tuyệt đối không nói dối. Tám vạn bốn ngàn pháp môn, môn nào cũng là đệ nhất, chỉ cần do một môn mà thâm nhập, thì sẽ đạt đến Niết Bàn rốt ráo, chấm dứt sinh tử, đắc được khoái lạc thường lạc ngã tịnh không gì bằng, đó mới thật là khoái lạc.

8. Thành tựu viên mãn trí huệ quang thanh tịnh tinh tấn, vì có làm việc gì, đều khéo quán sát, đều khiến rốt ráo, chẳng khiến cho hậu hối, liền đắc được mười tám pháp bất cộng của Phật. Pháp bất cộng nầy chẳng giống như Thanh Văn, Duyên Giác, Bồ Tát, chỉ có Phật mới có pháp nầy, là pháp không thể nghĩ bàn.

9. Không đến không đi thanh tịnh tinh tấn, vì đắc được trí huệ như thật, vào môn pháp giới, thân lời và tâm thảy đều bình đẳng, thấu rõ tướng chẳng phải tướng, không chấp trước.

10. Thành tựu pháp quang thanh tịnh tinh tấn, vì vượt qua Thập địa, được chư Phật quán đảnh, dùng pháp thân vô lậu mà thị hiện mất, sinh, xuất gia, thành đạo, thuyết pháp, diệt độ, đầy đủ việc Phổ Hiền như vậy.

Đó là mười thứ tinh tấn thanh tịnh. Nếu các Bồ Tát an trụ trong pháp nầy, thì sẽ đắc được đại tinh tấn thanh tịnh vô thượng của Như Lai.

Phật tử ! Đại Bồ Tát có mười thứ thiền thanh tịnh. Những gì là mười ? 

Đó là : Thiền thanh tịnh thường thích xuất gia, vì xả bỏ được hết thảy tất cả. Thiền thanh tịnh được bạn lành chân thật, vì chỉ dạy chánh đạo. Thiền thanh tịnh trụ A lan nhã chịu mưa gió .v.v… vì lìa cái ta, của ta. Thiền thanh tịnh lìa chúng sinh ồn náo, vì thường thích vắng lặng. Thiền thanh tịnh tâm nghiệp điều nhu, vì giữ gìn các căn. Thiền thanh tịnh tâm trí vắng lặng, vì tất cả âm thanh các chướng thiền định, không thể loạn được. Thiền thanh tịnh giác đạo phương tiện, vì quán sát tất cả đều hiện chứng. Thiền thanh tịnh lìa chấp trước vị, vì chẳng bỏ cõi dục. Thiền thanh tịnh phát khởi thông minh, vì biết căn tánh của tất cả chúng sinh. Thiền thanh tịnh tự tại du hí, vì vào tam muội của Phật biết không có cái ta. Đó là mười. 

Nếu các Bồ Tát an trụ trong pháp nầy, thì sẽ đắc được đại thiền thanh tịnh vô thượng của Như Lai.

Phật tử ! Đại Bồ Tát có mười thứ thiền thanh tịnh. Những gì là mười ? Đó là :

1. Thiền thanh tịnh thường thích xuất gia, vì xả bỏ được hết thảy tất cả tài vật, bố thí cho người khác.

2. Thiền thanh tịnh được bạn lành chân thật, bạn đồng tu đạo, khuyến khích lẫn nhau, động viên lẫn nhau, chỉ bày chánh pháp lẫn nhau, chỉ dạy chánh đạo lẫn nhau, cùng nhau tu hành, làm gương lẫn nhau.

3. Thiền thanh tịnh trụ A lan nhã chịu mưa gió .v.v… ở chỗ vắng lặng tham thiền đả toạ, rất dễ nhập định. Tu thiền như thế phải chịu đựng mưa gió, phải lìa khỏi cảnh giới cái ta và của ta. Chẳng có mọi sự chấp trước, mới có thể tĩnh tâm ngồi thiền.

4. Thiền thanh tịnh lìa chúng sinh ồn náo, phải lìa khỏi sự ồn ào náo nhiệt, phải lìa khỏi chúng sinh thích nói thị phi. Phàm là khiến cho bạn tâm chẳng thanh tịnh, chẳng an lạc, tức là ồn náo. Giống như ở dưới nhà bếp, là nơi ồn náo, có những người chẳng dụng công tu đạo, thường chạy xuống nhà bếp, nhóm họp nói chuyện, chẳng thảo luận về chánh sự, mà chuyên môn nói chuyện thị phi.

Các vị chú ý ! Nếu có sự ồn náo, thì không thể nào đắc được thiền định thanh tịnh; nếu không có ồn náo, thì sẽ đắc được thiền định thanh tịnh. Do đó có câu : « Sai một ly, đi ngàn dặm », tại sao chúng ta chẳng chứng quả ? Vì chẳng lìa khỏi chúng sinh ồn náo. Tại sao chúng ta chẳng có chứng quả ? Vì chẳng lìa khỏi tập khí mao bệnh. Nếu buông bỏ hết tập khí mao bệnh, thì không còn xuống nhà bếp nói đông, nói tây, nói nam, nói bắc, như vậy sẽ đắc được thiền định thanh tịnh. Tại sao phải lìa khỏi chúng sinh ồn náo ? Vì mình muốn sự vắng lặng, an tâm tu đạo.

5. Thiền thanh tịnh tâm nghiệp điều nhu, tâm nghiệp tức là sự nghiệp vọng tưởng tạo ra. Phải điều phục tánh cang cường của mình, phải nhu hoà tập khí của mình, thì mới có thể đắc được thiền định thanh tịnh. Phải giữ gìn mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý sáu căn, đừng bị cảnh giới sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp sáu trần làm lay chuyển.

6. Thiền thanh tịnh tâm trí vắng lặng, trí huệ trong tâm thường vắng lặng, chẳng có vọng tưởng. Tất cả âm thanh và các chướng thiền định, không thể bị nó làm lay chuyển, không thể tán loạn được. Nếu bị vọng tưởng làm lay chuyển, thì chắc chắn sẽ tán loạn. Tại sao trong tâm chúng ta không thể vắng lặng ? Vì chẳng có trí huệ, bị cảnh giới bên ngoài kích thích, mê hoặc, làm cho hồ đồ, tuỳ theo cảnh giới mà lay chuyển, mất đi định lực, mà làm những việc điên đảo phạm giới.

7. Thiền thanh tịnh giác đạo phương tiện, vì quán sát nhất thiết trí huệ đều hiện chứng.

8. Thiền thanh tịnh lìa chấp trước vị, tất cả chúng sinh đều chấp vào cảnh giới sáu trần, nhất là rất gần gũi với vị trần, rất dễ chấp vào mùi vị. Ví như, ngồi thiền thì chấp vào vị thiền, đó tức là chấp trước. Nếu lìa khỏi những sự chấp trước đó, thì mới có thể đắc được thiền định thanh tịnh. Thiền nầy chẳng bỏ cõi dục, tuy ở tại cõi dục, nhưng hay lìa khỏi cõi dục.

9. Thiền thanh tịnh phát khởi thông minh, vì biết được căn tánh của tất cả chúng sinh. Chúng sinh nào có căn tánh gì, thì đều biết được rất rõ ràng.

10. Thiền thanh tịnh tự tại du hí, thiền nhậm vận tự tại du hí nầy, chẳng tạo tác, cũng chẳng tác ý, tự nhiên mà có. Thiền thanh tịnh nầy, hay nhập vào tam muội của Phật biết không có cái ta.

Đó là mười thứ thiền thanh tịnh của Bồ Tát. Nếu các Bồ Tát an trụ trong pháp nầy, thì sẽ đắc được đại thiền thanh tịnh vô thượng của Như Lai.

Phật tử ! Đại Bồ Tát có mười thứ huệ thanh tịnh. Những gì là mười ? 

Đó là : Huệ thanh tịnh biết tất cả nhân, vì chẳng hoại quả báo. Huệ thanh tịnh biết tất cả duyên, vì chẳng trái với hoà hợp. Huệ thanh tịnh biết chẳng đoạn, chẳng thường, vì thấu đạt duyên khởi đều như thật. Huệ thanh tịnh trừ tất cả kiến chấp, vì nơi tướng chúng sinh chẳng thủ lấy. Huệ thanh tịnh quán tâm hạnh của tất cả chúng sinh, vì biết rõ như huyễn. Huệ thanh tịnh biện tài rộng lớn, vì phân biệt các pháp vấn đáp vô ngại. Huệ thanh tịnh tất cả các ma ngoại đạo Thanh Văn Độc Giác không thể biết được, vì vào sâu tất cả trí của Như

Lai. Huệ thanh tịnh thấy pháp thân vi diệu của tất cả chư Phật, thấy bổn tánh thanh tịnh của tất cả chúng sinh, thấy tất cả pháp đều vắng lặng, thấy tất cả cõi đồng với hư không, vì biết tất cả tướng đều vô ngại. Huệ thanh tịnh tất cả tổng trì biện tài phương tiện Ba la mật, vì khiến cho đắc được tất cả trí huệ tối thắng. Huệ thanh tịnh một niệm tương ưng kim cang trí, thấu rõ tất cả pháp bình đẳng, vì đắc được tất cả pháp tối tôn trí. Đó là mười. 

Nếu các Bồ Tát an trụ trong pháp nầy, thì sẽ đắc được đại trí huệ không chướng ngại của Như Lai.

Các vị đệ tử của Phật ! Đại Bồ Tát có mười thứ huệ thanh tịnh. Những gì là mười ? Đó là :

1. Huệ thanh tịnh biết tất cả nhân, vì khi ở tại nhân địa, tất cả đều làm thanh tịnh, cho nên mới có trí huệ thanh tịnh. Khi đến quả địa, thì đắc được quả báo chẳng hoại.

2. Huệ thanh tịnh biết tất cả duyên, vì vạn pháp do duyên sinh, vạn pháp do duyên diệt, cho nên chẳng trái với đạo lý hoà hợp.

3. Huệ thanh tịnh biết chẳng đoạn, chẳng thường, vì các pháp chẳng phải đoạn tuyệt, chẳng phải hằng thường, đó là trung đạo. Có thể thấu đạt được đạo lý duyên khởi, chẳng lìa khỏi lý thể thật tướng.

4. Huệ thanh tịnh trừ tất cả kiến chấp, khiến cho tà tri tà kiến chẳng còn nữa, đối với tướng chúng sinh cũng chẳng thủ lấy, cũng chẳng xả bỏ.

5. Huệ thanh tịnh quán tâm hạnh của tất cả chúng sinh, vì biết rõ tất cả hết thảy đều hư vọng chẳng thật, như huyễn như hoá.

6. Huệ thanh tịnh biện tài rộng lớn, vì phân biệt rõ ràng được các pháp của chư Phật, cho nên khi vấn đáp đều viên dung vô ngại, đối đáp như nước chảy, không có gì phải sợ hãi.

7. Huệ thanh tịnh tất cả các ma, ngoại đạo, Thanh Văn, Độc Giác, không thể biết được, vì vào sâu tất cả trí huệ của Như Lai.

8. Huệ thanh tịnh thấy pháp thân vi diệu của tất cả chư Phật, thấy bổn tánh thanh tịnh của tất cả chúng sinh, thấy tất cả pháp đều vắng lặng, thấy tất cả cõi đồng với hư không, vì biết tất cả tướng đều vô ngại.

9. Huệ thanh tịnh tất cả tổng trì, biện tài, phương tiện, Ba la mật, vì khiến cho đắc được tất cả trí huệ tối thù thắng.

10. Huệ thanh tịnh một niệm tương ưng kim cang trí, thấu rõ tất cả pháp bình đẳng, vì đắc được tất cả pháp tối tôn trí.

Đó là mười thứ huệ thanh tịnh. Nếu các Bồ Tát an trụ trong pháp nầy, thì sẽ đắc được đại trí huệ không chướng ngại của Như Lai.

Phật tử ! Đại Bồ Tát có mười thứ từ thanh tịnh. Những gì là mười ? 

Đó là : Từ thanh tịnh tâm bình đẳng, vì nhiếp khắp chúng sinh, chẳng có lựa chọn. Từ thanh tịnh lợi ích, vì tuỳ theo việc làm đều khiến cho hoan hỉ. Từ thanh tịnh nhiếp vật đồng như mình, vì rốt ráo đều khiến cho thoát khỏi sinh tử. Từ thanh tịnh chẳng bỏ thế gian, vì tâm thường duyên niệm tích tập căn lành. Từ thanh tịnh hay đến giải thoát, vì khắp khiến chúng sinh trừ diệt tất cả các phiền não. Từ thanh tịnh sinh ra bồ đề, vì khắp khiến chúng sinh phát tâm cầu nhất thiết trí. Từ thanh tịnh thế gian vô ngại, vì phóng đại quang minh bình đẳng chiếu khắp. Từ thanh tịnh đầy dẫy hư không, vì cứu hộ chúng sinh không nơi nào chẳng đến. Từ thanh tịnh pháp duyên, vì chứng pháp như như chân thật. Từ thanh tịnh vô duyên, vì vào tánh lìa sanh của Bồ Tát. Đó là mười. 

Nếu các Bồ Tát an trụ pháp nầy, thì sẽ đắc được từ thanh tịnh rộng lớn vô thượng của Như Lai.

Các vị đệ tử của Phật ! Đại Bồ Tát có mười thứ từ thanh tịnh. Những gì là mười ? Đó là :

1. Từ thanh tịnh tâm bình đẳng, vì nhiếp thọ khắp tất cả chúng sinh, chẳng có tâm phân biệt lựa chọn.

2. Từ thanh tịnh lợi ích, vì tuỳ theo việc làm đều khiến cho hoan hỉ.

3. Từ thanh tịnh nhiếp vật đồng như mình, vì rốt ráo đều khiến cho tất cả chúng sinh, thoát khỏi ba cõi, chấm dứt sinh tử.

4. Từ thanh tịnh chẳng bỏ thế gian, chẳng bỏ pháp thế gian mà tu pháp xuất thế, vì tâm thường duyên niệm, cho nên tích tập đủ thứ căn lành. Tóm lại, tuy ở tại thế gian, mà trồng căn lành xuất thế.

5. Từ thanh tịnh hay đến giải thoát, vì khắp khiến cho tất cả chúng sinh trừ diệt tất cả các phiền não.

6. Từ thanh tịnh sinh ra bồ đề, vì khắp khiến chúng sinh phát tâm cầu nhất thiết trí.

7. Từ thanh tịnh thế gian vô ngại, vì phóng đại quang minh bình đẳng chiếu khắp tất cả thế giới.

8. Từ thanh tịnh đầy dẫy hư không, vì cứu hộ tất cả chúng sinh, không nơi nào chẳng đến. Tâm từ bi của Bồ Tát đến khắp nơi cứu khổ cứu nạn.

9. Từ thanh tịnh pháp duyên, vì chứng đắc pháp của Phật như như chân thật.

10. Từ thanh tịnh vô duyên, vì vào được đạo tánh lìa sinh của Bồ Tát.

Đó là mười thứ từ thanh tịnh của Bồ Tát. Nếu các Bồ Tát an trụ trong pháp nầy, thì sẽ đắc được từ thanh tịnh rộng lớn vô thượng của Như Lai.

Phật tử ! Đại Bồ Tát có mười thứ bi thanh tịnh. Những gì là mười ? 

Đó là : Bi thanh tịnh không bạn bè, vì chỉ mình phát tâm đó. Bi thanh tịnh chẳng nhàm mỏi, vì thế tất cả chúng sinh thọ khổ, chẳng cho rằng cực nhọc. Bi thanh tịnh thọ sinh xứ nạn, vì độ chúng sinh. Bi thanh tịnh thọ sinh cõi lành, vì thị hiện vô thường. Bi thanh tịnh vì chúng sinh tà định, vì trải qua số kiếp chẳng bỏ thệ nguyện. Bi thanh tịnh chẳng chấp vui của mình, vì khắp ban cho chúng sinh an lạc. Bi thanh tịnh chẳng cầu báo ân, vì tu tâm trong sạch. Bi thanh tịnh hay trừ điên đảo, vì thuyết pháp như thật. Đại Bồ Tát biết tất cả pháp tánh vốn thanh tịnh, không nhiễm trước, không nhiệt não, vì dùng khách trần phiền não, mà thọ các khổ. Biết như vậy rồi, đối với các chúng sinh mà khởi đại bi, tên là Bổn tánh thanh tịnh, vì họ thuyết pháp vô cấu quang minh thanh tịnh. Đại Bồ Tát biết tất cả pháp như dấu chim trong hư không, chúng sinh si mù, không thể chiếu rõ quán sát, đối với họ khởi tâm đại bi, tên là Chân thật trí, vì họ khai thị pháp Niết Bàn. Đó là mười. 

Nếu các Bồ Tát an trụ pháp nầy, thì sẽ đắc được đại bi thanh tịnh rộng lớn vô thượng của Như Lai.

Các vị đệ tử của Phật ! Đại Bồ Tát có mười thứ bi thanh tịnh. Những gì là mười ? Đó là :

1. Bi thanh tịnh không bạn bè, vì chỉ riêng mình phát tâm đại bồ đề, phát tâm đại bi, để cứu hộ tất cả chúng sinh, lìa khổ được vui. Có người hỏi : « Thanh tịnh là gì » ? Thanh tịnh tức là trong sạch, chẳng có pháp nhiễm ô xen tạp vào, chỉ có pháp thanh tịnh. Đối với người phải có tâm đại bi, vì bi hay cứu khổ. Khi cứu chúng sinh khổ chẳng có xí đồ, chẳng có tư tưởng nhiễm ô xen tạp vào, thì đó mới là tâm đại bi thanh tịnh chân chánh.

2. Bi thanh tịnh chẳng nhàm mỏi, chẳng khi nào mỏi mệt và nhàm chán. Bồ Tát bi tâm tha thiết cam tâm tình nguyện, để thế tất cả chúng sinh thọ khổ, nhưng chẳng cho rằng cực nhọc. Tuy Ngài thế chúng sinh thọ khổ, nhưng chẳng cho rằng là cực nhọc, cũng chẳng cảm thấy mình có công lao, tại sao ? Vì Bồ Tát có tâm đại bi thanh tịnh.

3. Bi thanh tịnh thọ sinh xứ nạn, Bồ Tát vì giáo hoá chúng sinh, nên chuyên đến những nơi khó khăn hoạn nạn để thọ sinh, đến những nơi chẳng có Phật pháp để giáo hoá chúng sinh, hoằng dương Phật pháp.

4. Bi thanh tịnh thọ sinh cõi lành, Bồ Tát khéo thọ sinh ở trong bốn đường ác, tại sao ? Muốn vì chúng sinh thọ khổ, thị hiện đạo lý sinh diệt vô thường, cho nên thường thị hiện sinh, thường thị hiện chết, hiện thân thuyết pháp, khiến cho chúng sinh giác ngộ, sớm được thoát khỏi biển khổ.

5. Bi thanh tịnh vì chúng sinh tà định, chúng sinh có chúng sinh chánh tri chánh kiến, có chúng sinh tà tri tà kiến. Có những chúng sinh, bạn giảng chánh pháp cho họ nghe, thì họ chẳng tin, còn nói tà pháp bàng môn ngoại đạo với họ, thì họ vui mừng, muốn tiếp thọ. Tại sao vậy ? Vì những thứ đó có chỗ tương đồng với họ, cho nên họ hoan hỉ tu tà định. Bồ Tát vì những chúng sinh tà định, mà khổ khẩu tâm bà khuyên răn họ cải tà quy chánh, trải qua số kiếp cũng chẳng bỏ. Tại sao vậy ? Vì thuở xưa đã từng phát bốn đại thệ nguyện, trong đó có một thệ nguyện rằng : « Chúng sinh vô biên thệ nguyện độ », Bồ Tát nói ra là làm, do đó mà chẳng bỏ những chúng sinh đó, nhất định phải độ thoát họ, cho đến thành tựu quả giác bồ đề.

6. Bi thanh tịnh chẳng chấp vui của mình, Bồ Tát đem niềm vui của mình, bố thí khắp cho tất cả chúng sinh. Tâm trạng của Bồ Tát rất từ bi, thấy chúng sinh vui, giống như mình vui; thấy chúng sinh khổ, giống như mình khổ. Một chút ích kỷ lợi mình cũng chẳng có, hoàn toàn đều nghĩ cho chúng sinh, chỉ cần chúng sinh an vui, thì mình sẽ được sự an ủi.

7. Bi thanh tịnh chẳng cầu báo ân, do đó có câu : « Thi ân bất cầu báo, cho người chẳng hối tiếc ». Bồ Tát đối đãi tốt với chúng sinh, chẳng cầu mong họ tương lai có quả báo tốt, lo tu tâm mình cho trong sạch, chẳng có vọng tưởng và tạp niệm.

8. Bi thanh tịnh hay trừ điên đảo, có tâm đại bi thanh tịnh, thì thường diễn nói pháp như thật, khiến cho chúng sinh chẳng còn tưởng điên đảo.

9. Đại Bồ Tát biết tất cả pháp tánh vốn thanh tịnh, không có nhiễm trước, không có nhiệt não, chỉ vì dùng khách trần phiền não, mà thọ các khổ. Vì bị khách trần làm chủ nhân ông, cho nên tâm chúng sinh mới sinh ra phiền não, thọ đủ thứ khổ. Bồ Tát biết như vậy rồi, đối với các chúng sinh mà khởi tâm đại bi, tên là Bổn tánh thanh tịnh, vì họ thuyết pháp vô cấu quang minh thanh tịnh.

10. Đại Bồ Tát biết tất cả pháp như dấu chim bay trong hư không, nhưng chúng sinh bị màng ngu si che đậy, không thể chiếu rõ quán sát. Có người nói : « Chim bay ở trong hư không, chẳng nhất định có dấu », tuy nhiên nói như thế, nhưng kỳ thật dấu chim bay ở trong hư không vẫn tồn tại, chỉ bất quá mắt thịt phàm phu chúng ta chẳng nhìn thấy mà thôi. Phải trải qua một thời gian, thì dấu tích đó mới bị mai một. Dù chim có bay xa bao nhiêu, cũng phải tìm đến sào huyệt của nó. Tại sao vậy ? Vì nó từng ở trong không khí, lưu lại vết tích những hạt bụi bố lập, chẳng tan ra.

Xúc giác và khứu giác của chim rất là linh mẫn, cho nên chim có thể nhớ đường đi, trở về chỗ ở của mình.
Bồ Tát quán sát tất cả chúng sinh đều là ngu si, đều có tà kiến, chẳng minh bạch chân lý, cho nên Bồ Tát sinh khởi tâm đại bi, tên là Chân thật trí, vì chúng sinh mà khai thị pháp Niết Bàn.

Đó là mười thứ bi thanh tịnh. Nếu các Bồ Tát an trụ pháp nầy, thì sẽ đắc được đại bi thanh tịnh rộng lớn vô thượng của Như Lai.

Phật tử ! Đại Bồ Tát có mười thứ hỉ thanh tịnh. Những gì là mười ? 

Đó là : Hỉ thanh tịnh phát bồ đề tâm. Hỉ thanh tịnh đều xả bỏ hết thảy. Hỉ thanh tịnh chẳng ghét bỏ chúng sinh phá giới, mà giáo hoá họ được thành tựu. Hỉ thanh tịnh hay nhẫn thọ chúng sinh tạo ác, thệ nguyện cứu độ họ. Hỉ thanh tịnh xả thân cầu pháp, chẳng sinh tâm hối hận. Hỉ thanh tịnh tự bỏ dục lạc, thường thích pháp lạc. Hỉ thanh tịnh khiến cho tất cả chúng sinh bỏ sự thích đồ tư sanh, thường thích pháp lạc. Hỉ thanh tịnh thấy tất cả chư Phật cung kính cúng dường, không có nhàm đủ, pháp giới bình đẳng. Hỉ thanh tịnh khiến cho tất cả chúng sinh ưa thích thiền định giải thoát tam muội, du hí nhập xuất. Hỉ thanh tịnh tâm thích đủ hành tuỳ thuận Bồ Tát đạo tất cả khổ hạnh, chứng được mâu ni tịch tĩnh bất động định huệ vô thượng. Đó là mười. 

Nếu các Bồ Tát an trụ pháp nầy, thì sẽ đắc được đại hỉ thanh tịnh vô thượng của Như Lai.

Các vị đệ tử của Phật ! Đại Bồ Tát có mười thứ hỉ thanh tịnh. Những gì là mười ? Đó là :

1. Hỉ thanh tịnh phát bồ đề tâm, tu hành pháp môn quan trọng nhất, đó là phát bồ đề tâm, nếu không phát bồ đề tâm, thì không thể nào đắc được tâm đại hỉ thanh tịnh.

2. Hỉ thanh tịnh đều xả bỏ hết thảy, Bồ Tát có thể xả bỏ hết thảy tài vật, bố thí cho tất cả chúng sinh, chẳng giữ lại cho mình bất cứ thứ gì.

3. Hỉ thanh tịnh chẳng ghét bỏ chúng sinh phá giới, mà giáo hoá họ được thành tựu. Bất cứ chúng sinh phạm giới luật gì, Bồ Tát đều tha thứ cho họ, và còn giáo hoá họ, khiến cho họ thành tựu đạo nghiệp.

4. Hỉ thanh tịnh hay nhẫn thọ chúng sinh tạo ác thệ nguyện cứu độ họ. Bất cứ là chúng sinh thiện, hoặc là chúng sinh ác, Bồ Tát đều bình đẳng giáo hoá, khiến cho thành tựu Phật đạo. Bồ Tát đối đãi với tất cả chúng sinh, đặc biệt từ bi. Do đó : « Mắt từ nhìn chúng sinh, biển phước tụ vô lượng ». Bồ Tát đã từng phát đại thệ nguyện, phải nhẫn thọ những chúng sinh ác, phải cứu độ chúng sinh ác khổ nạn, khiến cho họ lập tức hồi đầu, cải ác hướng thiện.

5. Hỉ thanh tịnh xả thân cầu pháp, chẳng sinh tâm hối hận. Vì cầu chánh pháp, dù phải hi sinh thân mạng mình, cũng chẳng sinh tâm hối hận. Do đó có câu : « Vì pháp quên mình ». Thuở xưa khi đức Phật Thích Ca Mâu Ni còn làm Bồ Tát, thì vì nửa câu kệ, mà xả thân mạng mình cho quỷ La Sát làm thức ăn, tinh thần đó thật là vĩ đại.

6. Hỉ thanh tịnh tự bỏ dục lạc, thường thích pháp lạc. Bồ Tát thấy rằng học Phật pháp, mới là chân chánh khoái lạc, cho nên xả bỏ vui năm dục. Vui năm dục trong mắt của Bồ Tát chỉ là mây trôi, chuyển nháy mắt, gió thổi mây tan mất.

7. Hỉ thanh tịnh khiến cho tất cả chúng sinh bỏ sự thích đồ tư sanh, thường thích pháp lạc. Bồ Tát chẳng những mình bỏ dục lạc, cũng giáo hoá chúng sinh bỏ sự vui thích đồ tư sanh, tại sao vậy ? Vì sự vui của thể gian đều là vô thường, chốc lát không còn nữa, không đáng để tham luyến, chỉ có pháp lạc, mới thật là niềm vui chân chánh không đổi. Giống như ăn thức ăn, mặc quần áo, ở trong nhà, những thứ đồ tư sanh đó, đừng nói nhiều quá, có dùng là được rồi. Phải chuyên tâm nghiên cứu Phật pháp, tham thiền đả toạ, tụng Kinh niệm Phật, tu đến lúc lư hoả trừng thanh, thì vui sướng vô cùng.

8. Hỉ thanh tịnh thấy tất cả chư Phật cung kính cúng dường, không có nhàm đủ, pháp giới bình đẳng. Khi Bồ Tát gặp được mười phương tất cả chư Phật, thì nhất định cung kính, thành tâm cúng dường, dù trải qua vô số kiếp, cũng không khi nào nhàm đủ. Đối với chúng sinh trong pháp giới, đều đối đãi bình đẳng như nhau, không có sự phân biệt đó đây, không phân biệt kẻ oán người thân, không phân biệt chủng tộc, không phân biệt quốc tịch.

9. Hỉ thanh tịnh khiến cho tất cả chúng sinh ưa thích thiền định giải thoát tam muội, du hí nhập xuất. Du hí ở trong tam muội, muốn xuất định thì xuất định, muốn nhập định thì nhập định, toại tâm như ý, nhậm vận tự tại, chẳng bị bất cứ sự hạn chế nào.

10. Hỉ thanh tịnh tâm thích đủ hành tuỳ thuận Bồ Tát đạo tất cả khổ hạnh, chứng được mâu ni tịch tĩnh bất động định huệ vô thượng.
Đó là mười thứ hỉ thanh tịnh của Bồ Tát. Nếu các Bồ Tát an trụ trong pháp nầy, thì sẽ đắc được đại hỉ thanh tịnh vô thượng của Như Lai.

Phật tử ! Đại Bồ Tát có mười thứ xả thanh tịnh. Những gì là mười ? 

Đó là : Xả thanh tịnh tất cả chúng sinh cung kính cúng dường, chẳng sinh ái trước. Xả thanh tịnh tất cả chúng sinh khinh mạn huỷ nhục, chẳng sinh sân hận. 

Xả thanh tịnh thường đi trong thế gian, chẳng bị tám pháp thế gian làm làm ô nhiễm. Xả thanh tịnh đối với pháp khí chúng sinh chờ thời mà hoá độ, đối với chúng sinh chẳng phải pháp khí cũng chẳng sinh hiềm ghét. 

Xả thanh tịnh chẳng cầu pháp nhị thừa học vô học. Xả thanh tịnh tâm thường xa lìa tất cả dục lạc thuận pháp phiền não. Xả thanh tịnh chẳng khen nhị thừa nhàm lìa sinh tử. 

Xả thanh tịnh lìa khỏi tất cả lời lẽ thế gian, lời lẽ chẳng phải Niết Bàn, lời lẽ chẳng phải lìa dục, lời lẽ chẳng thuận lý, lời lẽ não loạn người khác, lời lẽ Thanh Văn Độc Giác, lược nói cho đến tất cả lời lẽ chướng Bồ Tát đạo, thảy đều xa lìa.

Các vị đệ tử của Phật ! Đại Bồ Tát có mười thứ xả thanh tịnh. Những gì là mười ? Đó là :

1. Xả thanh tịnh tất cả chúng sinh cung kính cúng dường chẳng sinh ái trước.

2. Xả thanh tịnh nếu tất cả chúng sinh khinh mạn Bồ Tát, huỷ nhục Bồ Tát, thì Bồ Tát cũng chẳng sinh sân hận. Phải xả được chính mình, mới gọi là đại xả, nếu xả chẳng được chính mình, thì không thể nói đến xả thanh tịnh. Bồ Tát làm được cảnh giới nầy, nên có xả thanh tịnh.

3. Xả thanh tịnh Bồ Tát thường đi trong thế gian, chẳng lìa khỏi thế gian, nếu lìa khỏi thế gian, thì không thể giáo hoá chúng sinh. Tuy Bồ Tát thường ở tại thế gian, nhưng chúng sinh chẳng nhận biết, do đó có câu : « Đối diện chẳng biết Quán Thế Âm », nghĩa là cùng ở với Bồ Tát Quán Thế Âm, nhưng chúng ta chẳng nhận ra Ngài là Bồ Tát Quán Thế Âm, tại sao vậy ? Vì mắt thịt của phàm phu chúng ta bị vô minh che đậy, chẳng đắc được con mắt pháp thanh tịnh. Bồ Tát ở tại thế gian, nhưng chẳng bị tám pháp thế gian làm làm nhiễm ô. Tám pháp là gì ? Tức là tám gió :

Khen, chê, khổ, vui, lợi, suy, được, mất. Phàm phu tục tử dễ bị tám gió nầy làm mê hoặc, bị tám gió nầy mà sinh ra phiền não, chuyển theo cảnh giới.

I. Khen : Nghĩa là khen ngợi. Ví như : Được người ta khen, người chẳng có trí huệ, nghe rồi rất là vui mừng, giống như ăn mật ong ngọt vô cùng, nhận rằng mình không tệ, đó là bị gió khen thổi cho hồ đồ.

II. Chê : Nghĩa là chê bai. Khi chúng ta làm việc gì đó không được tốt lắm, liền bị họ chê bai, nói nầy nói nọ, khiến cho chúng ta nổi giận, đó là bị gió chê thổi làm cho hồ đồ.

III. Khổ : Nghĩa là phiền não : Giống như người xuất gia ở Vạn Phật Thành, mỗi ngày chỉ ăn một bữa trưa, tối thì ngồi ngủ không nằm. Có người nghĩ : Sự khổ nầy thật khó mà chịu được, bèn sinh phiền não. Đó là bị gió khổ thổi làm cho lay động.

IV. Vui : Nghĩa là hoan hỉ. Nếu như có chuyện gì vừa ý của mình, thì rất là hoan hỉ, do đó có câu : « Vui quá quên lo », khi vui quá thì mình sẽ quên hết nỗi lo sầu, đó là bị gió vui thổi làm cho giao động.

V. Lợi : Lợi là lợi ích. Có những người thấy lợi thì quên nghĩa, chỉ biết có công lợi, chẳng biết có nghĩa, thậm chí vì mục đích mà bất chấp thủ đoạn, có thể rao bán bạn bè, có thể bán quốc gia, đó là bị gió lợi thổi làm cho hồ đồ.

VI. Suy : Suy là suy bại. Làm ăn lỗ vốn, thất bại, bị gió suy thổi làm cho mê hoặc.

VII. Dự : Dự là được tiếng khen, được mọi người khen ngợi có tài cán, có học vấn, thì vui mừng, đó là bị gió được làm lay động.

VIII. Huỷ : Huỷ là bị phỉ báng. Vô duyên vô cớ bị người phỉ báng, phá hoại đi thanh danh của mình, lúc đó trong tâm rất buồn rầu bất mãn, đó là bị gió huỷ thổi làm cho giao động. Tám gió nầy làm cho con người hồ đồ, chẳng phân biệt được đông, tây, nam, bắc rõ ràng, nhưng Bồ Tát chẳng bị tám gió nầy thổi động, nên có thứ xả thanh tịnh nầy.

Hôm nay giảng về xả thanh tịnh, khiến cho tôi có cảm xúc. Người học Phật pháp, vẫn xả chẳng được thanh tịnh. Dục niệm trong tâm đã hết chưa ? Vấn đề nầy, chúng ta người tu đạo, phải làm cho rõ ràng, phải minh bạch, bằng không, thuỷ chung sẽ không có sự thành tựu.

4. Xả thanh tịnh đối với pháp khí chúng sinh chờ thời cơ thành thục mà đi giáo hoá họ, độ thoát họ, trở thành pháp khí, thiệu long Tam Bảo. Đối với chúng sinh chẳng phải pháp khí, cũng chẳng sinh hiềm ghét họ, vẫn giáo hoá họ.

5. Xả thanh tịnh chẳng cầu pháp nhị thừa bậc hữu học và vô học, chỉ học tập pháp đại thừa.

6. Xả thanh tịnh tâm thường xa lìa tất cả dục lạc, vì dục lạc là thuận pháp phiền não mà sinh ra, cho nên phải đoạn tuyệt quan hệ, xa lìa khỏi nó.

7. Xả thanh tịnh chẳng khen ngợi Thanh Văn và Duyên Giác nhị thừa. Nhị thừa nhàm chán sinh tử, coi sinh tử là oan gia, cho nên lìa khỏi sinh tử. Người nhị thừa là độ mình chẳng độ người, độc thiện kỳ thân, chỉ lo cho mình thôi, chẳng có tư tưởng kiêm thiện thiên hạ, lo cho thiên hạ, nên làm tự liễu hán. Do đó có câu :

« Ma ha tát bất quản tha,
A Di Đà các cố các »

Mình tự lo cho mình, chẳng màng đến người khác, chẳng giáo hoá chúng sinh. Tác phong của Bồ Tát thì ngược lại, chuyên môn lo việc nhàn, nghe tiếng kêu cứu, thì bất cứ xa gần, lập tức hoá thân đến trước họ, cứu họ ra khỏi khổ nạn, mà chẳng cầu báo đáp.

8. Xả thanh tịnh lìa khỏi tất cả lời lẽ thế gian, lời lẽ chẳng phải Niết Bàn thì chẳng nói. Lời lẽ Niết Bàn là gì ? Tức là lời lẽ chẳng sinh chẳng diệt, chẳng dơ chẳng sạch, chẳng tăng chẳng giảm. Lời lẽ chẳng phải lìa dục thì chẳng nói. Thế nào là lời lẽ lìa dục ? Tức là chẳng nói lời nhiễm ô. Phàm là lời khiến cho người nghe sinh ra phi phi tưởng, tăng thêm dục niệm, thì tuyệt đối chẳng nói. Lời lẽ chẳng thuận lý thì chẳng nói, tức là lời lẽ chẳng hợp với tình lý thì tuyệt đối chẳng nói. Lời lẽ não loạn người khác thì chẳng nói, tức là lời lẽ khiến cho người sinh phiền não, thì tuyệt đối không nói. Lời lẽ Thanh Văn nói về tiểu thừa, lời lẽ Độc Giác nói về trung thừa, những lời nầy cũng không nói, lược nói cho đến tất cả lời lẽ chướng Bồ Tát đạo, thảy đều xa lìa.

Xả thanh tịnh, hoặc có chúng sinh căn cơ đã thành thục, phát sinh niệm huệ, mà chưa biết được pháp tối thượng, thì đợi đến lúc mới hoá độ. 

Xả thanh tịnh, hoặc có chúng sinh, Bồ Tát thuở xưa đã từng giáo hoá, đến nơi Phật địa mới có thể điều phục được, thì cũng đợi thời cơ. Đại Bồ Tát ở nơi hai hạng người đó, không cao không thấp, không lấy không bỏ, xa lìa tất cả đủ thứ sự phân biệt, luôn trụ chánh định vào pháp như thật, tâm được kham nhẫn xả thanh tịnh. Đó là mười. 

Nếu các Bồ Tát an trụ trong pháp nầy, thì sẽ đắc được xả thanh tịnh rộng lớn vô thượng của Như Lai.

9. Xả thanh tịnh, hoặc có chúng sinh căn cơ của họ đã thành thục. Tuy nhiên sinh ra : Tín, tấn, niệm, định, huệ năm căn, mà chưa biết được pháp tối thượng bồ đề, thì phải đợi thời cơ đến mới hoá độ.

10. Xả thanh tịnh, hoặc có chúng sinh, Bồ Tát thuở xưa đã từng giáo hoá họ, đến lúc Bồ Tát thành Phật, thì mới có thể điều phục được chúng sinh đó, thì Ngài cũng đợi thời cơ đến, mới giáo hoá chúng sinh đó. Xả thanh tịnh, đại Bồ Tát ở nơi hai hạng người đó, không có phân biệt là cao, cũng không phân biệt là thấp, cũng không chấp lấy, cũng không xả bỏ, xa lìa khỏi tất cả đủ thứ sự phân biệt, luôn trụ ở trong chánh định vào pháp chân thật, tâm được kham nhẫn xả thanh tịnh.

Đó là mười pháp xả thanh tịnh. Nếu các Bồ Tát an trụ trong pháp nầy, thì sẽ đắc được xả thanh tịnh rộng lớn vô thượng của Như Lai.

Phật tử ! Đại Bồ Tát có mười thứ nghĩa. Những gì là mười ? 

Đó là : Nghĩa đa văn, vì kiên cố tu hành. Nghĩa pháp, vì khéo léo suy gẫm lựa chọn. Nghĩa không, vì đệ nhất nghĩa không. Nghĩa tịch tĩnh, vì lìa các chúng sinh ồn náo. Nghĩa bất khả thuyết, vì chẳng chấp tất cả lời nói. Nghĩa như thật, vì thấu đạt ba đời bình đẳng. Nghĩa pháp giới, vì tất cả các pháp một vị. Nghĩa chân như, vì tất cả Như Lai thuận vào. Nghĩa thật tế, vì biết rõ rốt ráo như thật. Nghĩa Đại Bát Niết Bàn, vì diệt tất cả khổ mà tu các hạnh của Bồ Tát. Đó là mười. 

Nếu các Bồ Tát an trụ pháp nầy, thì sẽ đắc được nghĩa vô thượng nhất thiết trí.

Các vị đệ tử của Phật ! Đại Bồ Tát có mười thứ nghĩa. Những gì là mười ? Đó là :

1. Nghĩa đa văn : Nghe kinh nhiều, nghe pháp nhiều, thì sẽ đắc được văn, tư, tu, ba huệ. Từ chỗ nghe pháp rồi, nhất định phải tư duy, nghiên cứu nghĩa lý của pháp. Sau khi hiểu rõ rồi, nhất định phải y theo pháp tu hành, thì mới có sự thọ dụng. Nếu nghe pháp mà chẳng tu hành, thì nghe pháp có ý nghĩa gì chứ ? Người tu hành, rất dễ gặp ma chướng, đó là đến để khảo nghiệm có định lực hay không ! Bất cứ gặp cảnh giới gì, đều phải kiên cố tu hành, đừng bị cảnh giới lay chuyển, do đó có câu : « Do tu chẳng do nghe ».
Giống như tôn giả A Nan, Ngài là bậc Đa văn đệ nhất, pháp của Phật nói ra, Ngài đều nhớ hết không sót một chữ, giống như máy thu âm, nhưng khi gặp nữ Ma đăng già, thì bị cô ta dụ dỗ, may không mất giới thể, cho nên nói « Đa văn không bằng Đa tu », nghe nhiều không bằng tu nhiều.

2. Nghĩa pháp : Đối với nghĩa lý của pháp, phải dùng phương pháp khéo léo để suy gẫm, phải dùng con mắt chọn pháp để lựa chọn.

3. Nghĩa không : Đối với nghĩa lý không, thì phải hiểu đạo lý chân không chẳng ngại diệu hữu, diệu hữu chẳng ngại chân không. Đó là đệ nhất nghĩa không.

4. Nghĩa tịch tĩnh : Phải lìa khỏi tất cả chúng sinh ồn ào và náo nhiệt, đến chỗ yên tĩnh tu hành.

5. Nghĩa bất khả thuyết : Chẳng chấp vào tất cả lời nói, chẳng dùng tất cả lời lẽ để thuyết pháp, do đó có câu : « Thuyết pháp không lời ».

6. Nghĩa như thật : Thấu rõ thông đạt ba đời đều là bình đẳng, chẳng có cao thấp.

7. Nghĩa pháp giới : Tất cả các pháp là một vị, đều khuyên người cải ác hướng thiện, phát tâm tu hành, học vô thượng đạo.

8. Nghĩa chân như : Tất cả chư Phật đều thuận vào chân như thật tướng, mà thành Chánh Giác.

9. Nghĩa thật tế : Thật tế tức là vô tướng, cũng có thể nói lìa tướng, biết rõ lý thể rốt ráo như thật.

10. Nghĩa Đại Bát Niết Bàn : Hay diệt tất cả khổ thế gian, hay tu các hạnh của Bồ Tát.

Đó là mười thứ nghĩa của Bồ Tát. Nếu các Bồ Tát an trụ pháp nầy, thì sẽ đắc được nghĩa vô thượng nhất thiết trí.

Phật tử ! Đại Bồ Tát có mười thứ pháp. Những gì là mười ? 

Đó là : Pháp chân thật, vì như thuyết tu hành. Pháp lìa chấp, vì năng chấp và sở chấp đều lìa. Pháp không tranh, vì không có tất cả mê hoặc tranh cãi. Pháp tịch diệt, vì diệt trừ tất cả nhiệt não. Pháp lìa dục, vì tất cả tham dục đều dứt. Pháp không phân biệt, vì vĩnh viễn ngừng phan duyên phân biệt. Pháp không sinh, vì bất động giống như hư không. Pháp vô vi, vì lìa sinh trụ diệt các tướng. Pháp bổn tánh, vì tự tánh thanh tịnh không nhiễm. Pháp bỏ tất cả Hữu Dư Niết Bàn, vì hay sinh tất cả Bồ Tát hạnh tu tập không dứt. Đó là mười. 

Nếu các Bồ Tát an trụ trong pháp nầy, thì sẽ đắc được pháp rộng lớn vô thượng của Như Lai.

Các vị đệ tử của Phật ! Đại Bồ Tát có mười thứ pháp. Những gì là mười ? Đó là :

1. Pháp chân thật, vì y chiếu theo như pháp nói mà tu hành, bằng không, tu mù luyện đui, uổng phí công phu.

2. Pháp lìa chấp, vì năng chấp và sở chấp đều lìa.

3. Pháp không tranh, vì không có tất cả sự tranh luận mê hoặc. Do đó có câu :

« Tranh là tâm hơn thua
Trái ngược lại với đạo
Liền sinh tâm bốn tướng
Làm sao được tam muội ».

4. Pháp tịch diệt, vì diệt trừ tất cả nhiệt phiền não, phiền não gì cũng chẳng còn.

5. Pháp lìa dục, vì tất cả tham dục : tài, sắc, danh, ăn, ngủ đều dứt, chẳng còn tâm tham, như vậy tâm sẽ thanh tịnh không nhiễm, do đó có câu : « Tâm thanh thuỷ hiện nguyệt », trí huệ sẽ tự nhiên hiện tiền.

6. Pháp không phân biệt, gì cũng không phân biệt, gì cũng không tồn tại, chẳng có tâm phan duyên. Bồ Tát đã vĩnh viễn diệt trừ tâm phan duyên và tâm phân biệt.

7. Pháp không sinh, vì bất động giống như hư không.

8. Pháp vô vi, vì đã lìa khỏi sinh trụ dị diệt bốn tướng, thành tựu pháp không chỗ làm.

9. Pháp bổn tánh, vì tự tánh thanh tịnh không nhiễm ô.

10. Pháp bỏ tất cả Hữu Dư Niết Bàn, vì hay sinh ra tất cả Bồ Tát hạnh, tu tập mà không gián đoạn, chẳng giống như hàng nhị thừa, được ít cho là đủ, trung đạo tự vẽ, chẳng tinh tấn tiến về trước, cuối cùng chẳng đến được chốn Bảo sở, chỉ chứng được Hữu Dư Niết Bàn. Bồ Tát thì tu pháp Vô Dư Niết Bàn. Thế nào là Hữu Dư Niết Bàn ? Tức là không có nhân sinh tử, mà có quả sinh tử. Thế nào là Vô Dư Niết Bàn ? Tức là không có nhân sinh tử, cũng không có quả sinh tử. Tóm lại, lúc thân A la hán còn, là Hữu Dư Niết Bàn. Lúc thân A la hán mất rồi, là Vô Dư Niết Bàn.

Đó là mười thứ pháp rộng lớn của Bồ Tát. Nếu các Bồ Tát an trụ trong pháp nầy, thì sẽ đắc được pháp rộng lớn vô thượng của Như Lai.

Phật tử ! Đại Bồ Tát có mười thứ công cụ trợ đạo phước đức. Những gì là mười ? 

Đó là : Khuyên chúng sinh khởi bồ đề tâm, là công cụ trợ đạo phước đức của Bồ Tát, vì chẳng dứt giống Tam Bảo. 

Tuỳ thuận mười thứ hồi hướng, là công cụ trợ đạo phước đức của Bồ Tát, vì dứt tất cả pháp bất thiện, tích tập tất cả pháp lành. 

Trí huệ dạy dỗ, là công cụ trợ đạo của Bồ Tát, vì vượt qua phước đức ba cõi. 

Tâm không mệt mỏi, là công cụ trợ đạo phước đức của Bồ Tát, vì rốt ráo độ thoát tất cả chúng sinh. 

Đều xả bỏ tất cả sở hữu trong ngoài, là công cụ trợ đạo phước đức của Bồ Tát, vì đối với tất cả mọi vật đều không chấp trước. 

Vì đầy đủ tướng tốt tinh tấn chẳng thối chuyển, là công cụ trợ đạo phước đức của Bồ Tát, vì mở cửa bố thí lớn không giới hạn. 

Thượng trung hạ ba phẩm căn lành đều đem hồi hướng vô thượng bồ đề, tâm không chỗ khinh, là công cụ trợ đạo phước đức của Bồ Tát, vì thiện xảo phương tiện tương ưng.

Các vị đệ tử của Phật ! Đại Bồ Tát có mười thứ công cụ trợ đạo phước đức. Thế nào là công cụ trợ đạo ? Trợ là nhân duyên trợ giúp tu đạo, chẳng phải là chánh duyên, mà là phó duyên. Chẳng phải chủ, mà là khách. Những gì là mười thứ phước đức công cụ trợ đạo ? Đó là :

1. Khuyên chúng sinh phát khởi bồ đề tâm, là công cụ trợ đạo phước đức của Bồ Tát, vì chẳng dứt giống Tam Bảo.

2. Tuỳ thuận mười thứ hồi hướng, là công cụ trợ đạo phước đức của Bồ Tát, vì đoạn tuyệt tất cả pháp bất thiện, hay tích tập tất cả pháp lành.

Mười thứ hồi hướng là :
I. Cứu hộ chúng sinh lìa tướng chúng sinh hồi hướng.
II. Bất hoại hồi hướng.
III. Đồng tất cả Phật hồi hướng.
IV. Đến tất cả mọi nơi hồi hướng.
V. Vô tận công đức tạng hồi hướng.
VI. Tuỳ thuận kiên cố tất cả thiện căn hồi hướng.
VII. Đồng tuỳ thuận tất cả chúng sinh hồi hướng.
VIII. Chân như tướng hồi hướng.
IX. Không ràng buộc giải thoát hồi hướng.
X. Pháp giới vô lượng hồi hướng.

3. Trí huệ dạy dỗ, là công cụ trợ đạo của Bồ Tát, vì vượt qua phước đức cõi dục, cõi sắc, cõi vô sắc.

4. Giáo hoá chúng sinh tâm không mệt mỏi, là công cụ trợ đạo phước đức của Bồ Tát, vì rốt ráo độ thoát tất cả chúng sinh.

5. Đều xả bỏ được tất cả nội tài và ngoại tài, hết thảy tất cả đều bố thí được hết, chẳng có gì mà không xả bỏ được, là công cụ trợ đạo phước đức của Bồ Tát, vì đối với tất cả tài vật đều không chấp trước, đều không tham luyến.

6. Vì đầy đủ ba mươi hai tướng tốt, tám mươi vẻ đẹp trang nghiêm, cho nên tinh tấn tu đạo, chẳng thối bồ đề tâm, là công cụ trợ đạo phước đức của Bồ Tát, vì mở cửa bố thí lớn, tuỳ thuận tâm ý của chúng sinh, thích cái gì thì lấy cái đó, cứ lấy mang đi, không có giới hạn.

7. Thượng trung hạ ba phẩm căn lành đều đem hồi hướng vô thượng bồ đề, tâm không chỗ khinh, là công cụ trợ đạo phước đức của Bồ Tát, vì dùng pháp thiện xảo phương tiện, giáo hoá chúng sinh, khiến cho tương ưng.

Đối với chúng sinh tà định hạ liệt bất thiện, đều sinh tâm đại bi, chẳng khinh tiện, là công cụ trợ đạo phước đức của Bồ Tát, vì thường khởi tâm hoằng thệ của bậc đại nhân. 
Cung kính cúng dường tất cả Như Lai, đối với tất cả Bồ Tát khởi tưởng Như Lai, khiến cho tất cả chúng sinh đều sinh hoan hỉ, là công cụ trợ đạo phước đức của Bồ Tát, vì giữ chí nguyện xưa rất vững bền. 

Đại Bồ Tát ở trong A tăng kỳ kiếp, tích tập căn lành, tự muốn thủ chứng vô thượng bồ đề, như ở trong lòng bàn tay, nhưng đều đem xả thí cho tất cả chúng sinh, tâm không lo buồn, cũng không hối hận, tâm Ngài rộng lớn đồng cõi hư không. Đó là công cụ trợ đạo phước đức của Bồ Tát, vì khởi đại trí huệ, chứng pháp lớn. Đó là mười. 
Nếu các Bồ Tát an trụ trong pháp nầy, thì sẽ đầy đủ phước đức tụ rộng lớn vô thượng của Như Lai.

8. Bồ Tát đối với chúng sinh tà định, hạ liệt, bất thiện, đều sinh tâm đại bi, thương xót họ, khiến cho họ lìa khổ được vui. Ngài chẳng có tâm khinh tiện, đối với chúng sinh hạ liệt cũng đối đãi bình đẳng, chẳng giống như tâm lý của chúng ta, phân biệt quý tiện, gặp người tôn quý thì sinh tâm cung kính; còn gặp người bần tiện thì sinh tâm khinh khi. Bồ Tát chẳng có tâm lý như thế, đó là công cụ trợ đạo phước đức của Bồ Tát, vì thường khởi tâm hoằng thệ của bậc đại nhân, tâm đại bi để giáo hoá chúng sinh, cứu hộ chúng sinh.

9. Cung kính tất cả chư Phật, cúng dường tất cả chư Phật, đối với tất cả Bồ Tát, cũng cung kính cúng dường giống như Phật, chẳng những mình nghĩ tưởng như thế, mà cũng khiến cho tất cả chúng sinh đều sinh tâm hoan hỉ, đó là công cụ trợ đạo phước đức của Bồ Tát, vì giữ chí nguyện xưa của mình rất vững bền, vĩnh viễn không thay đổi.

10. Đại Bồ Tát ở trong A tăng kỳ kiếp, tích tập đủ thứ căn lành, mình muốn thủ chứng vô thượng bồ đề, dễ dàng như ở trong lòng bàn tay, tuy nhiên họ có thể thành Phật, nhưng mình chẳng thành Phật, đem Phật quả bố thí cho tất cả chúng sinh, tâm không lo buồn, cũng không hối hận, tâm của Bồ Tát rất rộng lớn đồng cõi hư không. Đó là công cụ trợ đạo phước đức của Bồ Tát, vì khởi đại trí huệ, sẽ chứng được đại pháp tạng.

Đó là mười thứ công cụ trợ đạo phước đức. Nếu các Bồ Tát an trụ trong pháp nầy, thì sẽ đầy đủ phước đức tụ rộng lớn vô thượng của Như Lai. Do đó có câu :

« Mắt từ trông chúng sinh
Biển phước tụ vô lượng ».

Các vị hãy nghĩ xem ! Bồ Tát có thể thành Phật, nhưng Bồ Tát chẳng thành Phật, đem công đức thành Phật bố thí cho chúng sinh, tinh thần đó thật là vĩ đại. Tại sao chúng ta chẳng học theo tinh thần của Bồ Tát, xả mình vì người ? Vì tâm lượng của chúng ta quá nhỏ, chẳng lớn bằng tâm của Bồ Tát, có thể bao dung hư không. Nếu tâm có thể lớn như hư không, thì sẽ trở thành đại Bồ Tát. Chúng ta phải phát tâm bồ đề, hành Bồ Tát đạo, dần dần tiến tu đến quả vị Đẳng giác Bồ Tát.

Phật tử ! Đại Bồ Tát có mười thứ trí huệ công cụ trợ đạo. Những gì là mười ? 

Đó là : Gần gũi bậc đa văn chân thiện tri thức, cung kính cúng dường, tôn trọng lễ bái, tuỳ thuận mọi thứ, chẳng trái lời dạy dỗ, đó là trí huệ công cụ trợ đạo thứ nhất, vì tất cả chánh trực không hư dối. 

Vĩnh viễn lìa kiêu mạn, thường có hạnh khiêm cung. Thân lời ý nghiệp không thô bạo, nhu hoà thiện thuận, chẳng dối trá, chẳng quanh co, đó là trí huệ công cụ trợ đạo thứ hai, vì thân Bồ Tát kham làm Phật pháp khí.

Niệm huệ tuỳ giác, chưa từng tán loạn. Tàm quý nhu hoà, tâm an bất động. Thường nhớ lục niệm, thường hành lục kính. Thường tuỳ thuận trụ pháp lục kiên cố, đó là trí huệ công cụ trợ đạo thứ ba, vì là phương tiện với mười thứ trí.

Thích pháp thích nghĩa, lấy pháp làm vui. Thường thích lắng nghe, không nhàm đủ. Xả lìa luận nghị và lời nói thế gian, chuyên tâm nghe thọ lời xuất thế gian. Xa lìa tiểu thừa, vào huệ đại thừa, đó là trí huệ công cụ trợ đạo thứ tư, vì một lòng nghĩ nhớ, không tán động.

Tâm chuyên gánh vác sáu Ba La Mật. Hạnh đã thành thục, bốn thứ phạm trụ. Đều khéo tu hành, tuỳ thuận minh pháp. Đều siêng thỉnh vấn người trí huệ thông mẫn. Xa lìa cõi ác, hướng về đường lành, tâm thường ưa thích, chánh niệm quán sát. Điều phục lòng mình, thủ hộ ý người, đó là trí huệ công cụ trợ đạo thứ năm, vì kiên cố tu hành hạnh chân thật.

Các vị đệ tử của Phật ! Đại Bồ Tát có mười thứ trí huệ công cụ trợ đạo. Những gì là mười ? Đó là :

1. Gần gũi bậc đa văn chân thiện tri thức, nên cung kính cúng dường thiện tri thức, nên tôn trọng lễ bái thiện tri thức, đủ thứ phương pháp tuỳ thuận sự chỉ dạy của thiện tri thức, chẳng trái lời dạy dỗ. Thế nào gọi là thiện tri thức ? Hay giáo hoá chúng sinh, xa lìa pháp thập ác, tịnh tu pháp thập thiện, là thiện tri thức. Hoặc là giáo hoá chúng sinh siêng tu giới định huệ ba học, tiêu diệt tham sân si ba độc, là thiện tri thức, đó là trí huệ công cụ trợ đạo thứ nhất. Phải có thái độ nhu hoà, phải có hàm dưỡng nhẫn nhục. Tất cả phải chánh trực, chẳng có lời nói hư vọng không thật, chẳng có sự làm bộ. Thế nào là làm bộ ? Tức là không được tự nhiên, rất miễn cưỡng, việc làm không thái quá thì là bất cập, chẳng hợp với trung đạo. Tóm lại, bất cứ sự lý gì, nếu lìa khỏi trung đạo, là làm bộ. Thế nào là trung đạo ? Không chấp đoạn, không chấp thường, gọi là trung đạo. Chẳng rơi vào không, có, hai bên, gọi là trung đạo. Chân không diệu hữu, gọi là trung đạo.

2. Vĩnh viễn lìa khỏi kiêu ngạo ngã mạn, thường hành trì hạnh khiêm cung hoà mục. Phải cung kính đối với người khác, không được vô lễ. Do đó có câu : « Ý khí dụng sự ». Bạn chẳng cung kính tôi, thì tôi chẳng cung kính bạn, đó đây hổ tương chẳng cung kính. Bồ Tát còn có tâm cung kính, hà huống là phàm phu chúng ta, càng phải có tâm cung kính, phàm là người có trí huệ, đều có tâm cung kính. Do đó có câu : « Kính người thì người kính lại », người ngu si thì mới không có tâm cung kính. Thân lời ý ba nghiệp thanh tịnh của Bồ Tát, không có hành vi thô bạo. Thân của Ngài chẳng thô bạo, cử chỉ hành động, lời nói việc làm, đều hợp với quy cụ, đó là thân nghiệp thanh tịnh. Lời cũng chẳng thô bạo, tuyệt đối chẳng nói những lời khiến cho người khác sinh phiền não, đó là lời nghiệp thanh tịnh. Ý cũng chẳng thô bạo, đối với việc không như ý, nhẫn chịu trong tâm, thì ý nghiệp cũng thanh tịnh. Phàm là đối với người khác chẳng nổi nóng để đàn áp người, tức là chẳng thô bạo. Bồ Tát rất nhu hoà, rất thiện thuận, cũng chẳng dối trá, làm gì cũng đều chân thật, chẳng quanh co, đó là trí huệ công cụ trợ đạo thứ hai. Thân đó có thể kham làm Phật pháp khí.

3. Hết thảy trí huệ tưởng niệm trong tâm, tuỳ khởi tuỳ giác, tuỳ sanh tuỳ diệt. Chuyển phiền não lớn thành phiền não nhỏ, chuyển phiền não nhỏ thành không còn nữa. Do đó có câu :

« Niệm khởi liền giác, giác rồi tức không ».

Tuỳ giác nầy chưa từng tán loạn, chẳng có lúc nào mà không giữ quy cũ. Thường sinh tâm tàm quý, cảm thấy có lỗi với mọi người. Tâm rất nhu hoà, lại rất bình an, không bị cảnh giới làm giao động. Thường thường nhớ pháp lục niệm, tức là :

1. Niệm Phật.
2. Niệm pháp.
3. Niệm Tăng.
4. Niệm giới.
5. Niệm thí.
6. Niệm thiên.

Thường thường hành trì pháp lục hoà kính, tức là :

1. Thân hoà kính
2. Miệng hoà kính.
3. Ý hoà kính.
4. Giới hoà kính.
5. Kiến hoà kính.
6. Lợi hoà kính.

Thường thường tuỳ thuận trụ tại pháp lục kiên cố, tức là :

1. Tin kiên cố.
2. Pháp kiên cố.
3. Tu kiên cố.
4. Đức kiên cố.
5. Đảnh kiên cố.
6. Giác kiên cố.

Đó là trí huệ công cụ trợ đạo thứ ba, vì là phương tiện với mười thứ trí. Mười thứ trí tức là :

1. Pháp trí.
2. So sánh trí.
3. Tha tâm trí.
4. Thế trí.
5. Khổ đế trí.
6. Tập đế trí.
7. Diệt đế trí.
8. Đạo đế trí.
9. Tận đế trí.
10. Vô sanh trí.

Nếu muốn hiểu nội dung những danh từ ở trên, thì có thể tham khảo tự điện Phật học.

4. Pháp hoan hỉ, hoan hỉ nghĩa lý của pháp, lấy pháp làm việc vui nhất. Thường thường thích lắng nghe diệu pháp, không khi nào nhàm đủ. Xả lìa tất cả luận nghị và lời nói thế gian, chuyên tâm nghe thọ tất cả lời nói xuất thế gian. Xa lìa hàng nhị thừa Thanh Văn Duyên Giác, thâm nhập môn trí huệ đại thừa, đó là trí huệ công cụ trợ đạo thứ tư, vì một lòng nghĩ nhớ pháp môn nầy, không khi nào tán loạn giao động.

5. Đối với pháp lục độ Ba La Mật, Ba la mật dịch là đến bờ kia. Người Ấn Độ lấy sự việc làm xong rồi, gọi là Ba La Mật. Lục Ba La Mật tức là :

1. Bố thí.
2. Trì giới.
3. Nhẫn nhục.
4. Tinh tấn.
5. Thiền định.
6. Trí huệ.

Bồ Tát chuyên tâm tu hành pháp lục độ Ba La Mật, tức cũng là tu cho đến lúc viên mãn. Thực hành đã xong, đã thành thục, bốn thứ phạm trụ, tức là : Từ, Bi, Hỉ, Xả. Tuỳ thuận theo pháp trí sáng, tu hành đến cảnh giới chí thiện chí mỹ, tất cả đều viên mãn. Phàm là người trí huệ thông minh sáng suốt, đều siêng thỉnh vấn. Thỉnh vấn ở đây có hai ý nghĩa : Một là Bồ Tát hướng về người có trí huệ thỉnh vấn Phật pháp không minh bạch. Hai là người trí huệ hướng về Bồ Tát thỉnh vấn Phật pháp không minh bạch. Xa lìa bốn cõi ác, tức là :

1. A tu la.
2. Súc sinh.
3. Ngạ quỷ.
4. Địa ngục.

Hướng về đường lành, trong tâm thường ưa thích, dùng chánh niệm để quán sát. Chánh niệm tức là chánh tri chánh kiến, tà niệm tức là tà tri tà kiến. Dùng niệm chánh đáng để điều phục lòng mình, không để cho những tánh khác tuỳ ý phát sinh, phải an phận giữ mình. Do đó có câu : « Lý trí khống chế tình cảm », thủ hộ ý người khác, chẳng khiến cho họ sinh phiền não, đó là trí huệ công cụ trợ đạo thứ năm, vì dùng tâm kiên cố để tu hành hạnh chân thật, chẳng phải miệng nói mà là thực hành. Nói đến độ hoa trời rơi xuống, mà không thực hành, thì cũng giống như « khẩu đầu thiền », nói mà không thực hành, cũng chẳng có ích gì. Người tu đạo có một phần chân tâm, thì sẽ được một phần pháp ích ; có mười phần chân tâm, thì sẽ được mười phần pháp ích ; nếu không có nửa phần chân tâm, thì dù có nửa phần pháp ích cũng không đắc được. Tu đạo là phải chân tu thật luyện, mới có sự thành tựu, chẳng phải đầu cơ thủ xảo, cứ đi tìm tiện nghi, thì đó chỉ là vọng tưởng của kẻ ngu si.

Thường thích xuất ly, chẳng chấp vào ba cõi. Luôn giác tâm mình, chưa từng có niệm ác. Ba giác đã đoạn tuyệt, ba nghiệp đều thiện. Quyết định biết rõ tự tánh của tâm. Đó là trí huệ công cụ trợ đạo thứ sáu, vì hay khiến tâm mình người khác thanh tịnh. 

Quán sát năm uẩn, đều như việc huyễn, giới như rắn độc, xứ như không tụ. Tất cả các pháp, như huyễn, như diệm, như trăng trong nước, như mộng, như bóng, như tiếng vang, như hình tượng, như vẽ giữa hư không, như vòng lửa quay, như màu sắc cầu vồng. Như ánh sáng mặt trời, mặt trăng, không tướng, không hình, chẳng thường, chẳng đoạn, chẳng đến, chẳng đi, cũng không chỗ trụ. Quán sát như vậy, thì sẽ biết tất cả các pháp không sinh, không diệt. Đó là trí huệ công cụ trợ đạo thứ bảy, vì biết tất cả pháp tánh vắng lặng. 

Đại Bồ Tát nghe tất cả pháp không có cái ta, không chúng sinh, không thọ giả, không người, không tâm, không cảnh, không tham sân si, không thân, không vật, không chủ, không đãi, không chấp, không hành. Như vậy tất cả đều không chỗ có, đều quy về tịch diệt. Nghe rồi tin sâu, chẳng nghi, chẳng chê bai. Đó là trí huệ công cụ trợ đạo thứ tám, vì dùng sự thành tựu viên mãn sự hiểu biết.

6. Thường thích xuất ly, chẳng chấp vào ba cõi. Ba cõi là gì ? Đó là : Cõi dục, cõi sắc, cõi vô sắc. Có nhân, có quả, có sanh tử, còn là hai mươi lăm cõi. Do đó có câu :

« Bốn châu bốn cõi ác,
Phạm Thiên Lục Dục Thiên,
Vô Tưởng Ngũ Hàm Na,
Tứ Không và Tứ Thiền ».

Luôn luôn giác tâm mình, không để cho vọng tưởng khởi lên, do đó có câu : « Niệm khởi liền giác, giác rồi tức không », tức cũng là ý nghĩa tuỳ khởi tuỳ giác, tuỳ giác tuỳ không, chưa từng có chút niệm ác nào tồn tại, hoàn toàn thanh tịnh. Ba giác đã đoạn tuyệt, tức là đoạn tuyệt dục, sân, hại, cũng có thể nói các ác giác quán, tà giác, mạn giác. Giác là giác biết, nhưng giác không đúng. Bồ Tát thì ba nghiệp đều thiện. Thân của Ngài chẳng có sát, đạo, dâm. Lời nói chẳng có nói dối, thêu dệt, hai lưỡi, chửi mắng. Ý chẳng có tham, sân, si. Thân miệng ý ba nghiệp thanh tịnh, tức là thập thiện ; thân miệng ý ba nghiệp chẳng thanh tịnh, tức là thập ác. Ngài quyết định chân thật nhận thức được tự tánh chân tâm của mình, cũng hiễu rõ nữa, cũng biết rõ nữa. Đó là trí huệ công cụ trợ đạo thứ sáu, vì hay khiến tâm của mình thanh tịnh, cũng khiến cho tâm của người khác thanh tịnh. Nếu không thanh tịnh, nghe được đạo lý nầy rồi, cũng sẽ thanh tịnh. Tóm lại, hay khiến cho trong tâm của mình chẳng còn tham sân si, cũng khiến cho người khác dứt trừ được tham sân si.

7. Quán sát pháp năm uẩn (Sắc thọ tưởng hành thức), như huyễn, như hoá, đều là hư vọng không thật. Trong Tâm Kinh có nói : « Thực hành sâu vào Bát Nhã Ba la mật đa thời, chiếu thấy năm uẩn đều không, qua khỏi tất cả khổ ách ». Mười tám giới (trong sáu căn, ngoài sáu trần, giữa sáu thức) cũng chẳng chân thật, giống như như rắn độc, rất là đáng sợ. Mười hai xứ (Sáu căn và sáu trần) giống như không tụ, vì giữa không có người. Tất cả các pháp thế gian, bao quát sắc pháp, tâm pháp, tâm sở pháp, bất tương ưng pháp, vô vi pháp, cộng lại là một trăm pháp, đều là như huyễn không thật, giống như dương diệm, ở xa nhìn tựa như có, đến gần thì không có ; lại giống như trăng trong nước, nhìn thì có, lấy thì không có ; lại giống như mộng, như bóng, như tiếng vang, như hình tượng, đều là hư vọng. Như vẽ giữa hư không, như vòng lửa quay, như màu sắc cầu vồng. Như ánh sáng mặt trời mặt trăng, đều là không tướng không hình, chẳng thuộc về thường, chẳng thuộc về đoạn, cũng chẳng đến, cũng chẳng đi, cũng không chỗ trụ. Quán sát như vậy, thì sẽ biết tất cả các pháp, cũng không sinh, cũng không diệt. Đó là trí huệ công cụ trợ đạo thứ bảy, vì biết tất cả pháp tánh vắng lặng.

8. Đại Bồ Tát nghe tất cả pháp chẳng có tướng ta, không có tướng chúng sinh, không có tướng thọ mạng, không có tướng người, không có tâm, không có cảnh, không có tham sân si, không có thân, không có vật, không có chủ, không có kẻ đãi, không có mọi sự chấp trước, không có mọi hành vi. Tất cả như vậy đều không chỗ có, thảy đều quy về tịch diệt. Ngài nghe pháp nầy rồi, tin sâu chẳng nghi, chẳng chê bai. Đó là trí huệ công cụ trợ đạo thứ tám, vì dùng sự thành tựu viên mãn sự hiểu biết.

Đại Bồ Tát khéo điều các căn, như lý tu hành, luôn trụ chỉ quán, tâm ý vắng lặng. Tất cả động niệm, thảy đều chẳng sinh. Không ta, không người, không làm, không hành, không chấp tưởng cái ta, không chấp nghiệp của ta, không có tỳ vết, không có rạn nứt, cũng không có đắc được nhẫn nơi đây. Thân lời ý nghiệp, không đến, không đi, không có tinh tấn, cũng không có dũng mãnh. Quán tất cả chúng sinh, tất cả các pháp, tâm đều bình đẳng, mà không chỗ trụ. Chẳng bờ nầy, chẳng bờ kia. Tánh đó đây đều lìa. Không chỗ đến, không chỗ đi. Thường dùng trí huệ tư duy như vậy. Đó là trí huệ công cụ trợ đạo thứ chín, vì đến nơi bờ kia tướng phân biệt.

Vì đại Bồ Tát thấy pháp duyên khởi, nên thấy pháp thanh tịnh. Vì thấy pháp thanh tịnh, nên thấy cõi nước thanh tịnh. Vì thấy cõi nước thanh tịnh, nên thấy hư không thanh tịnh. Vì thấy hư không thanh tịnh, nên thấy pháp giới thanh tịnh. Vì thấy pháp giới thanh tịnh, nên thấy trí huệ thanh tịnh. Đó là trí huệ công cụ trợ đạo thứ mười, vì tu hành tích tập nhất thiết trí.

9. Đại Bồ Tát khéo điều phục mắt tai mũi lưỡi thân ý sáu căn, khiến cho chúng đều nghe theo mình, không khởi cách mạng, sáu căn tuyệt đối phục tùng mệnh lệnh. Nếu không khéo điều phục các căn, thì khi mắt thấy sắc đẹp, liền bị sắc đẹp làm lay chuyển, nếu không để cho nó chuyển theo sắc đẹp, thì nó sẽ chẳng khách sáo với bạn, muốn phản kháng lại sự độc lập chính mình, chẳng nghe sự chỉ huy của bạn, năm căn kia cũng như thế. Phải như lý tu hành, luôn trụ chỉ quán. Chỉ quán là một thứ thiền định, quán là một thứ huệ. Tóm lại, chỉ tất cả ác, quán tất cả thiện. Khi tham thiền đả toạ, trạo cứ đến thì phải dùng công phu chỉ để khống chế. Khi hôn trầm đến, thì dùng công phu quán để đề khởi, tâm ý rất vắng lặng, chẳng sinh vọng tưởng, chẳng sinh phiền não. Bất cứ trong cảnh giới gì, có định lực, thì chẳng giao động, không bị vật bên ngoài mê hoặc, hết thảy vọng tưởng tạp niệm, một chút cũng không sinh. Lúc đó, mình mới được làm chủ, tâm ý vắng lặng, chẳng có giao động, thì chẳng còn cái ta tồn tại. Chúng ta phàm phu đều chấp trước vào cái ta, xem cái ta rất quan trọng, chẳng để cho nó bị thiệt thòi, chẳng để cho nó chịu khổ, chẳng để cho nó chịu mắng, chẳng để cho nó chịu nhẫn nại, tóm lại, để cái ta ở trước mặt. Vì có cái ta, mà sinh ra chúng sinh, thọ mạng, đủ thứ các pháp ; nếu chẳng có tư tưởng về cái ta, thì chẳng có mọi sự phiền não. Cái ta là gì ? Tìm khắp toàn thân, cũng tìm chẳng được cái ta. Những bộ phận trên thân đều có tên của nó, đầu có tên đầu, tay có tên tay, chân có tên chân, mỗi bộ phận trên thân đều có tên của nó, tức là chẳng có tên cái ta, bất quá nó chỉ là cái tên tổng quá của cái thân mà thôi. Tức nhiên tìm chẳng được cái ta tồn tại, lại hà tất phải chấp trước vào nó ?

Nếu chẳng chấp trước thì sẽ không có cái ta, không có cái ta thì không có người, không có tác giả, không có hành giả, không chấp vào tưởng cái ta, không chấp nghiệp của ta. Trong tự tánh không có phiền não, không có vô minh, nên không có tỳ vết, tất cả lỗi lầm đều chẳng có, cho nên không có rạn nứt, cũng không có đắc được nhẫn nơi đây. Thân lời ý ba nghiệp, cũng không đến, cũng không đi, không có tinh tấn, cũng không có dũng mãnh, tất cả đều ngừng lại.

Kinh văn ở trên đều là nói về chữ « chỉ ». Ở dưới đây là giải thích về chữ « Quán ». Bồ Tát dùng diệu quán sát trí để quán sát tất cả chúng sinh, quán sát tất cả các pháp, trong tâm chẳng có sự phân biệt, một luật bình đẳng, chẳng  có chỗ trụ, do đó có câu : « Ưng vô sở trụ, nhi sinh kỳ tâm ». Chẳng có gì gọi bờ nầy sinh tử, chẳng có gì gọi bờ kia Niết Bàn. Tánh bờ nầy, bờ kia, đã đều lìa khỏi. Không chỗ đến, không chỗ đi. Có thể nói tận hư không khắp pháp giới, vô tại vô bất tại. Thường dùng trí huệ tư duy như vậy. Đó là trí huệ công cụ trợ đạo thứ chín, vì đã đến được nơi bờ kia tướng phân biệt.

10. Vì đại Bồ Tát thấy được tất cả pháp từ duyên sinh khởi, nên thấy bổn tánh của pháp là thanh tịnh. Vì thấy pháp thanh tịnh, nên thấy cõi nước cũng thanh tịnh. Vì thấy cõi nước thanh tịnh, nên thấy hư không cũng thanh tịnh. Vì thấy hư không thanh tịnh, nên thấy pháp giới cũng thanh tịnh. Vì thấy pháp giới thanh tịnh, nên thấy trí huệ cũng thanh tịnh. Bởi quan hệ đó, nên biết mình vốn là thanh tịnh. Đó là trí huệ công cụ trợ đạo thứ mười, vì tu hành tích tập tất cả căn lành, mới thành tựu nhất thiết trí huệ.

Phật tử ! Đó là mười thứ trí huệ công cụ trợ đạo của đại Bồ Tát. Nếu các Bồ Tát an trụ pháp nầy, thì sẽ đắc được trí huệ vi diệu thanh tịnh nơi tất cả các pháp của Như Lai.

Các vị đệ tử của Phật ! Đó là mười thứ trí huệ công cụ trợ đạo của đại Bồ Tát. Nếu các Bồ Tát an trụ trong pháp nầy, thì sẽ đắc được trí huệ vi diệu thanh tịnh nơi tất cả các pháp của Như Lai.

Phật tử ! Đại Bồ Tát có mười thứ minh túc. Những gì là mười ? 

Đó là : Minh túc khéo phân biệt các pháp. Minh túc chẳng chấp trước các pháp. Minh túc lìa kiến điên đảo. Minh túc trí huệ quang minh chiếu các căn. Minh túc khéo phát khởi chánh tinh tấn. Minh túc hay vào sâu chân đế trí. Minh túc diệt phiền não nghiệp thành tựu tận trí vô sanh trí. Minh túc thiên nhãn trí khắp quán sát. Minh túc túc trụ niệm biết thuở xưa thanh tịnh. Minh túc lậu tận thần thông trí đoạn chúng sinh các lậu. Đó là mười. 

Nếu các Bồ Tát an trụ pháp nầy, thì sẽ đắc được đại quang minh vô thượng nơi tất cả Phật pháp của Như Lai.

Các vị đệ tử của Phật ! Đại Bồ Tát có mười thứ minh túc, tức cũng là minh hạnh túc, một trong mười hiệu của Phật. Trí huệ cũng viên mãn, tu hành cũng viên mãn. Minh là ba minh, tức là : Thiên nhãn minh, túc mạng minh, lậu tận minh. Hạnh là năm hạnh, tức là : Thánh hạnh, Phạm hạnh, Thiên hạnh, anh nhi hạnh, bệnh hạnh. Ba minh thuộc về huệ, năm hạnh thuộc về phước. Đức Phật trải qua ba A tăng kỳ tu phước huệ, trí huệ Lưỡng Túc Tôn. Những gì là mười thứ minh túc ? Đó là :

1. Minh túc khéo phân biệt các pháp, thứ trí huệ nầy tu hành đã đến chỗ viên mãn.
2. Minh túc chẳng chấp trước các pháp, đối với các pháp chẳng chấp trước, chẳng thủ trước, tất cả đều chẳng có, thứ trí huệ nầy đã tu đến chỗ viên mãn.
3. Minh túc lìa khỏi kiến điên đảo. Một số phàm phu lấy trái làm phải, lấy phải làm trái ; lấy đen làm trắng, lấy trắng làm đen, chẳng nhận thức lý lẽ rõ ràng, đó là thấy điên đảo. Tóm lại, thanh tịnh là phước, ai cũng chẳng chú ý nó ; phiền não là hoạ, ai cũng hoan hỉ nó, đó tức là thấy điên đảo. Bồ Tát đã tu hành viên mãn thứ trí huệ nầy.
4. Minh túc dùng trí huệ quang minh chiếu các căn, đã tu hành viên mãn thứ trí huệ nầy.
5. Minh túc khéo phát khởi chánh tinh tấn, thân cũng tinh tấn, tâm cũng tinh tấn, ngày cũng tinh tấn, đêm cũng tinh tấn, thứ trí huệ nầy cũng đã tu hành đến chỗ viên mãn.
6. Minh túc hay vào sâu chân đế trí, chân đến tức là pháp xuất thế gian, tục đế tức là pháp thế gian. Chân đế là sự thấy lý tánh chân thật của thánh trí ; tục đế là sự thấy sự tướng thế gian mê tình, thứ trí huệ nầy tu hành đã đến chỗ viên mãn.
7. Minh túc diệt trừ tất cả phiền não nghiệp, thành tựu tận trí vô sanh trí. Phiền não có bao nhiêu ? Nếu nói rộng thì có tám vạn bốn ngàn, nếu nói ít thì chỉ có một niệm vô minh. Nếu diệt hết một niệm vô minh, thì phiền não tự nhiên sẽ chấm dứt. Do đó có câu :

« Thanh tịnh là phước không ai hưởng,
Phiền não là tội ai cũng tham ».

Thành tựu tận trí, tức là trí huệ rốt ráo. Thành tựu vô sanh trí, tức là trí huệ không chỗ nào sinh ra. Thứ trí huệ bình đẳng nầy rất là sáng đạt, Bồ Tát đã tu đến cảnh giới viên mãn.
8. Minh túc thiên nhãn trí khắp quán sát, có thể nhìn thấy được chư Thiên chúng sinh ba cõi đang làm gì ? Thứ trí huệ nầy đã tu đến chỗ viên mãn.

9. Minh túc túc trụ niệm biết thuở xưa thanh tịnh, tức cũng là trí huệ túc mạng thông. Biết được khi nào đến thì thừa nguyện tái lai ; biết được khi nào đi, thì nhắm mắt mà đi. Biết được quá khứ vô lượng kiếp, biết được vị lai vô lượng kiếp, thông đạt vô ngại, thứ trí huệ nầy đã tu đến chỗ viên mãn.

10. Minh túc lậu tận thần thông trí đoạn chúng sinh các lậu. Lậu tận thông là một trong sáu thần thông, ngoại đạo có thể chứng được năm thần thông, nhưng không thể đắc được lậu tận thông, chỉ có tu hành Phật pháp, mới chứng được lậu tận thông, tức cũng là đoạn trừ tất cả tập khí mao bệnh. Thứ trí huệ nầy tu hành đã đến chỗ viên mãn.

Đó là mười thứ pháp minh túc. Nếu các Bồ Tát an trụ pháp nầy, thì sẽ đắc được đại quang minh vô thượng  nơi tất cả Phật pháp của Như Lai.

Phật tử ! Đại Bồ Tát có mười thứ cầu pháp. Những gì là mười ? 

Đó là : Chân tâm cầu pháp, vì không có hư dối. Tinh tấn cầu pháp, vì xa lìa giải đãi. Một lòng cầu pháp, vì chẳng tiếc thân mạng. Vì đoạn trừ phiền não của tất cả chúng sinh mà cầu pháp, bởi chẳng vì danh lợi cung kính. Vì lợi ích mình, người khác tất cả chúng sinh mà cầu pháp, vì chẳng riêng tự lợi. Vì vào trí huệ mà cầu pháp, vì chẳng thích văn tự. Vì thoát sanh tử mà cầu pháp, vì chẳng tham vui thế gian. Vì độ chúng sinh mà cầu pháp, vì phát tâm bồ đề. Vì dứt nghi của tất cả chúng sinh mà cầu pháp, vì khiến cho không do dự. Vì đầy đủ Phật pháp mà cầu pháp, vì chẳng thích thừa khác. Đó là mười. 

Nếu các Bồ Tát an trụ pháp nầy, thì sẽ đắc được đại trí huệ tất cả Phật pháp không do người khác dạy.

Các vị đệ tử của Phật ! Đại Bồ Tát có mười thứ cầu pháp. Những gì là mười ? Đó là :

1. Chân tâm cầu pháp, vì không có xiểm nịnh hư dối. Tâm cầu pháp phải chánh trực, không thể cong vẹo quanh co để cầu pháp, đừng dùng tình người để cầu pháp, đừng dùng cảm tình để cầu pháp, đừng dùng tâm không ngay thẳng để cầu pháp. Vậy phải nên như thế nào để cầu pháp ? Nên dùng tâm ngay thẳng. Do đó có câu : « Trực tâm là đạo tràng », dùng tâm ngay thẳng để cầu pháp, thì pháp đó sẽ ngay thẳng ; dùng tâm quanh co để cầu pháp, thì pháp đó sẽ quanh co. Do đó có câu :

« Nhân địa chẳng thật,
Thì chiêu quả quanh co ».

Tâm chẳng thật thì ý chẳng thật, như vậy thì cầu chẳng được pháp. Bồ Tát cầu pháp, chẳng có hành vi xiểm nịnh hư dối. Thế nào gọi là xiểm nịnh hư dối ? Nghĩa là giả nhân, giả nghĩa hướng về người khác cầu xin, cứ nói những lời vuốt ve, làm cho họ hoan hỉ. Do đó có câu : « Xiểm phú kiêu bần, nhàm cố hỉ tân », nghĩa là : Đối với người giàu thì sinh tâm nịnh bợ, đối với người nghèo thì kiêu ngạo. Nhàm chán cái cũ, hoan hỉ cái mới, đó là tư tưởng không thể chấp nhận được. Bồ Tát cầu pháp, không dùng thủ đoạn lời lẽ dối trá. Thế nào là lời dối trá ? Đó là khinh khi người chẳng nói lời chân thật, dùng phương pháp nầy để cầu pháp, thì cầu chẳng được pháp.

2. Tinh tấn cầu pháp, vì xa lìa giải đãi. Cầu pháp không thể giải đãi, giải đãi cầu chẳng được pháp, thời thời tinh tấn, mới có thể cầu được pháp.

3. Một hướng cầu pháp, vì chẳng tiếc thân mạng. Cầu pháp phải dũng mãnh hướng về trước, chỉ biết có pháp, chẳng biết có người. Do đó có câu : « Vì pháp quên mình ». Giống như đức Phật Thích Ca Mâu Ni, thuở xưa khi còn làm Bồ Tát, thì vì cầu nửa bài kệ mà hi sinh thân mạng của mình. Nhị Tổ Huệ Khả Đại Sư, vì cầu pháp mà chặt cánh tay, đó là tinh thần cầu pháp.

4. Vì đoạn trừ phiền não của tất cả chúng sinh mà cầu pháp, bởi chẳng vì danh lợi cung kính. Bồ Tát vẫn còn một phần sinh tướng vô minh chưa phá, có thể hy vọng chúng sinh dứt trừ phiền não. Bồ Tát biết được phương pháp dứt trừ phiền não, cho nên mới có tư cách khiến cho chúng sinh dứt trừ phiền não, vì đã có đại trí huệ, cho nên mới có thể làm được viên mãn. Bồ Tát chẳng phải vì danh lợi và thích người cung kính mà cầu pháp, chỉ vì giáo hoá chúng sinh và độ thoát chúng sinh mà cầu pháp. Có người thiết lập pháp khiến cho người biết họ là lão tu hành, cho rằng có được danh tiếng, thì có người đến cúng dường, có người đến cung kính họ, đó là tư tưởng của kẻ phàm phu, Bồ Tát chẳng có tư tưởng như thế.

5. Vì lợi ích mình, người khác, tất cả chúng sinh mà cầu pháp, vì chẳng riêng tự lợi, mà vì lợi ích của chúng sinh. Bồ Tát chẳng có ý đồ vì ích kỷ lợi mình, chỉ biết có mình, chẳng biết có người khác.

6. Bồ Tát vì vào nhất thiết trí huệ mà cầu pháp, trí huệ chân chánh là lìa tướng văn tự, lìa tâm duyên tướng. Tuy là trên văn tự được Bát Nhã văn tự, nhưng tại văn tự Bát Nhã nếu khởi quán chiếu Bát Nhã, do quán chiếu Bát Nhã có thể khế hợp với thật tướng Bát Nhã, thật tướng tức là lìa khỏi văn tự.

7. Bồ Tát vì thoát khỏi sanh tử mà cầu pháp, vì chẳng tham trước tất cả danh văn lợi dưỡng, vinh hoa phú quý, và vui tài sắc danh ăn ngủ năm dục của thế gian.

8. Vì độ thoát tất cả chúng sinh mà cầu pháp, vì giáo hoá chúng sinh, khiến cho chúng sinh lìa khổ được vui, mà phát tâm bồ đề, tức là trên cầu Phật đạo, dưới độ chúng sinh.

9. Vì dứt sự hoài nghi của tất cả chúng sinh mà cầu pháp, vì khiến cho chúng sinh không có tư tưởng do dự không quyết định.

10. Vì đầy đủ Phật pháp mà cầu pháp, chỉ cầu Phật thừa, chẳng cầu thừa khác.

Đó là mười thứ cầu pháp của Bồ Tát. Nếu các Bồ Tát an trụ trong pháp nầy, thì sẽ đắc được đại trí huệ của tất cả Phật pháp không do người khác dạy.

Phật tử ! Đại Bồ Tát có mười thứ pháp thấu rõ. Những gì là mười ? 

Đó là : Tuỳ thuận thế tục sinh trưởng căn lành, là pháp thấu rõ của đồng mông phàm phu. Được tin vô ngại bất hoại, giác pháp tự tánh, là pháp thấu rõ của người theo tin thực hành. Siêng tu tập pháp, tuỳ thuận pháp trụ, là pháp thấu rõ của người theo pháp thực hành. Xa lìa tám tà, hướng tám chánh đạo, là pháp thấu rõ của người thứ tám. Trừ diệt các kết, dứt lậu sinh tử, thấy đế chân thật, là pháp thấu rõ của bậc Tu Đà Hoàn. Quán vị là hoạ hoạn, biết không đến đi, là pháp thấu rõ của bậc Tư Đà Hàm. Chẳng thích ba cõi, cầu hết hữu lậu, nơi thọ sanh pháp, cho đến một niệm, chẳng sanh ái trước, là pháp thấu rõ của bậc A Na Hàm. Đắc được sáu thần thông, được tám giải thoát, chín định, bốn vô ngại biện, thảy đều thành tựu, là pháp thấu rõ của bậc A La Hán. Tánh thích quán sát một vị duyên khởi, tâm thường vắng lặng, biết đủ ít việc, hiểu nhân tự được, ngộ không do người khác dạy, thành tựu đủ thứ thần thông trí huệ, là pháp thấu rõ của bậc Bích chi Phật. Trí huệ rộng lớn, các căn lanh lợi, thường thích độ thoát tất cả chúng sinh, siêng tu phước trí pháp trợ đạo, hết thảy mười lực vô uý của Như Lai, tất cả công đức, đầy đủ viên mãn, là pháp thấu rõ của bậc Bồ Tát. Đó là mười. 

Nếu các Bồ Tát an trụ pháp nầy, thì sẽ đắc được pháp thấu rõ vô thượng đại trí của Như Lai.

Các vị đệ tử của Phật ! Đại Bồ Tát có mười thứ pháp thấu rõ. Những gì là mười ? Đó là :

1. Tuỳ thuận thế tục sinh trưởng bốn thứ căn lành, đó là : Noãn pháp, đỉnh pháp, nhẫn pháp, thế đệ nhất pháp, tức cũng là bốn pháp gia hạnh. Đó là pháp thấu rõ của đồng mông phàm phu không thể xuất thế.

2. Đắc được tin vô ngại bất hoại, giác ngộ pháp nầy, minh bạch tự tánh của pháp, đó là chỉ người thuần căn, tin theo người khác nói mà hành đạo, đó là pháp thấu rõ của người theo tin thực hành.

3. Siêng tu hành học tập pháp, tuỳ thuận tất cả pháp mà trụ, đó là chỉ người lợi căn, tự xem kinh điển mà hành đạo, đó là pháp thấu rõ của người theo pháp thực hành.

4. Xa lìa tám tà, tám tà tức là :

1. Tà kiến.
2. Tà tư duy.
3. Tà ngữ.
4. Tà nghiệp.
5. Tà mạng.
6. Tà phương tiện.
7. Tà niệm.
8. Tà định.

Trái ngược với tám chánh đạo, hướng về tám chánh đạo mà đi. Tám chánh đạo tức là :

1. Chánh kiến : Thấy biết chân chánh.
2. Chánh tư duy : Suy nghĩ chân chánh.
3. Chánh ngữ : Lời nói chân chánh.
4. Chánh nghiệp : Hành vi chân chánh.
5. Chánh mạng : Nghề nghiệp chân chánh.
6. Chánh tinh tấn : Học tập chân chánh.
7. Chánh niệm : Nghĩ nhớ chân chánh.
8. Chánh định : Thiền định chân chánh.

Đó là pháp thấu rõ của người thứ tám (Người hướng về sơ quả, chưa chứng được sơ quả A La Hán).

5. Trừ  diệt tất cả các kết, kết là phiền não. Do phiền não mà kết tập sinh tử, tức cũng là tám mươi tám sử, đoạn trừ được lậu sinh tử, tức cũng là vô minh, tức cũng là dục niệm. Dục tức là lậu sinh tử, dục tức là năm dục. Do đó có cầu : « Tài sắc danh ăn ngủ, là năm gian địa ngục ». Tại sao chẳng nói thiên đường năm gian ? Tại sao chẳng nói là Phật quả năm gian ? Vì năm dục nầy là đoạ lạc, một khi đoạ lạc thì đi xuống địa ngục, sẽ thấy đế chân thật, lý thể chân thậy, đó là pháp thấu rõ của bậc Tu Đà Hoàn. Tu Đà Hoàn dịch là « Nhập lưu », nhập vào dòng Thánh nhân pháp tánh, ngược lại dòng phàm phu sáu trần, chẳng nhập vào trong dòng sắc thanh hương vị xúc pháp sáu trần, chẳng bị sáu trần làm lay chuyển : Mắt thấy sắc chẳng bị sắc lay chuyển, tai nghe tiếng chẳng bị tiếng lay chuyển, mũi ngửi mùi chẳng bị mùi lay chuyển, lưỡi nếm vị chẳng bị vị lay chuyển, thân giác xúc, chẳng bị xúc lay chuyển, ý biết pháp chẳng bị pháp lay chuyển. Đã dứt được kiến hoặc tam giới tám mươi tám phẩm, chứng được sơ quả A La Hán, gọi là bậc hữu học.

6. Quán vị thiền là hoạ hoạn, biết tất cả là vắng lặng, không đến không đi, là pháp thấu rõ của bậc Tư Đà Hàm. Tư Đà Hàm dịch là « Nhất lai », tức là còn một lần sinh vào cõi trời dục giới và nhân gian, đã đoạn được kiến hoặc tam giới, và đoạn dục giới tư hoặc sáu phẩm trước (Tam giới có tám mươi mốt phẩm tư hoặc). Chứng được Tam quả A La Hán, gọi là bậc hữu học.

7. Chẳng thích khoái lạc ba cõi, do đó có câu :

« Ba cõi như nhà lửa,
Sinh tử như oan gia ».

Cho nên cầu hết pháp hữu lậu, sẽ chấm dứt sinh tử. Đối với pháp thọ sanh, cho đến một niệm, cũng chẳng sanh ái trước. Xa lìa sinh tử pháp vô thường nầy, là pháp thấu rõ của bậc A Na Hàm. A Na Hàm dịch là « Bất hoàn », tức là không trở lại dục giới thọ sinh tử nữa. Đã đoạn được kiến hoặc tam giới, và đoạn được tư hoặc dục giới ba phẩm sau (Dục giới có chín phẩm tư hoặc, sắc giới có ba mươi sáu phẩm tư hoặc, vô sắc giới có ba mươi sáu phẩm tư hoặc), chứng được Tam quả A La Hán, là bậc hữu học.

8. Do được sáu thần thông, tức là :

I. Thiên nhãn thông.
II. Thiên nhĩ thông.
III. Tha tâm thông.
IV. Túc mạng thông.
V. Thần túc thông.
VI. Lậu tận thông.

Lại đắc được tám giải thoát, tức là :

I. Trong có sắc tưởng quán ngoại sắc giải thoát.
II. Trong không sắc tưởng ngoại sắc giải thoát.
III. Tịnh giải thoát thân tác chứng cụ túc trụ.
IV. Không vô biên xứ giải thoát.
V. Thức vô biên xứ giải thoát.
VI. Vô sở hữu xứ giải thoát.
VII. Phi tưởng phi phi tưởng xứ giải thoát.
VIII. Diệt thọ tưởng định thân tác chứng cụ túc trụ.

Lại có chín định, tức cũng là chín thứ đệ định :

I. Sơ thiền thứ đệ định.
II. Nhị thiền thứ đệ định.
III. Tam thiền thứ đệ định.
IV. Tứ thiền thứ đệ định.
V. Không xứ thứ đệ định.
VI. Thức xứ thứ đệ định.
VII. Vô sở hữu xứ thứ đệ định.
VIII. Phi tưởng phi phi tưởng xứ thứ đệ định.
IX. Diệt thọ tưởng thứ đệ định.

Lại đắc được bốn vô ngại biện, tức là :

I. Pháp vô ngại biện.
II. Nghĩa vô ngại biện.
III. Từ vô ngại biện.
IV. Nhạo thuyết vô ngại biện.

Đủ thứ những pháp đó, thảy đều thành tựu viên mãn, đó là pháp thấu rõ của bậc A La Hán. A La Hán dịch là « Sát tặc », nghĩa là giết hết tặc phiền não. Còn dịch là « Ứng cúng », vì đạo cao đức trọng, là ruộng phước của thế gian, xứng đáng thọ trời người cúng dường. Còn dịch là « Bất sinh », chẳng thọ phần đoạn sinh tử nữa, đắc được Hữu Dư Niết Bàn. Do đó có câu : « Các lậu đã sạch, Phạm hạnh đã vững, việc làm đã xong, chẳng thọ thân sau nữa ». Đã đoạn tam giới kiến tư hai hoặc, chứng được Tứ quả A La Hán, gọi là bậc vô học.

9. Tánh thích quán sát tất cả pháp, đều từ duyên khởi, do đó có câu :

« Các pháp do duyên sanh
Các pháp do duyên diệt
Phật ta đại Sa Môn
Thường hay nói như thế ».

Tâm thường vắng lặng bất động, biết đủ thì vui, ít việc thì an, thấu hiểu nhân duyên pháp, tự tánh tự chứng mà được khai ngộ, chẳng do người khác dạy mà khai ngộ. Mùa xuân quán trăm hoa nở, mùa thu quán lá vàng rơi, thấu hiểu tất cả vạn vật, tự sinh tự diệt, mà ngộ đạo quả, thành tựu đủ thứ thần thông, viên mãn nhất thiết trí huệ, đó là pháp thấu rõ của bậc Bích chi Phật. Bích Chi Phật dịch là “Độc giác”, trước khi Phật chưa ra đời, tự tu tự chứng, là Độc giác. Sau khi Phật ra đời, nghe pháp mười hai nhân duyên mà ngộ đạo, gọi là Duyên Giác. Đó là tiểu thừa, tự tu tự ngộ, chẳng màng đến sinh tử của chúng sinh, làm tự liễu hán.

10. Trí huệ rộng lớn, các căn lanh lợi, thường thích độ thoát tất cả chúng sinh, thoát khỏi biển khổ, siêng tu phước đức và trí huệ pháp trợ đạo, hết thảy mười lực và bốn vô uý của Như Lai, tất cả công đức, hoàn toàn đầy đủ, viên mãn thành tựu, đó là pháp thấu rõ của bậc Bồ Tát. Bồ Tát dịch là “Hữu tình giác”, hay giác ngộ tất cả hữu tình chúng sinh. Bồ Tát có tinh thần tự giác giác tha.
Đó là mười pháp thấu rõ của Bồ Tát. Nếu các Bồ Tát an trụ pháp nầy, thì sẽ đắc được pháp thấu rõ vô thượng đại trí của Như Lai.

Phật tử ! Đại Bồ Tát có mười thứ pháp tu hành. Những gì là mười ? 

Đó là : Pháp tu hành cung kính tôn trọng các thiện tri thức. Pháp tu hành thường làm cho chư Thiên được giác ngộ. Pháp tu hành ở chỗ chư Phật thường có lòng tám quý. Pháp tu hành thương xót chúng sinh, chẳng bỏ sinh tử. Pháp tu hành sự việc rốt ráo, tâm không biến động. Pháp tu hành chuyên niệm tuỳ duyên phát tâm đại thừa, các chúng Bồ Tát tinh tấn siêng tu học. Pháp tu hành xa lìa tà kiến, siêng cầu chánh đạo. Pháp tu hành phá tan chúng ma và phiền não nghiệp. Pháp tu hành biết các chúng sinh căn tánh thắng liệt mà vì họ thuyết pháp, khiến cho họ trụ Phật địa. Pháp tu hành an trụ vô biên pháp giới rộng lớn, trừ diệt phiền não, khiến cho thân thanh tịnh. Đó là mười. 

Nếu các Bồ Tát an trụ pháp nầy, thì sẽ đắc được pháp tu hành vô thượng của Như Lai.

Các vị đệ tử của Phật ! Đại Bồ Tát có mười thứ pháp tu hành. Tức là không làm các điều ác, hãy làm các việc lành, đừng cho rằng việc thiện nhỏ mà không làm, đừng cho rằng việc ác nhỏ mà đi làm. Những gì là mười ? Đó là :

1. Pháp tu hành : Cung kính tôn trọng tất cả các vị thiện tri thức.
2. Pháp tu hành : Thường khiến cho chư Thiên được giác ngộ.
3. Pháp tu hành : Ở chỗ đạo tràng của mười phương chư Phật thường có lòng tám quý, cảm thấy chẳng bằng người, phải tinh tấn, đừng sinh tâm tự mãn, mà kiêu ngạo nói : « Tôi hơn tất cả mọi người », tuyệt đối đừng có tư tưởng như thế.
4. Pháp tu hành : Vì thương xót tất cả chúng sinh, nên tự mình chẳng bỏ sinh tử, chẳng vào Niết Bàn.
5. Pháp tu hành : Bất cứ làm việc gì, nhất định phải đến nơi rốt ráo, đừng có bỏ phế giữa đường, lãng phí công lao. Bất cứ gặp cảnh giới gì, tâm cũng đừng biến động, dù núi Thái Sơn sập xuống phía trước cũng không sợ, mỹ nữ đứng ở trước mặt tâm cũng không động, định lực đầy đủ.
6. Pháp tu hành : Chuyên một niệm theo đuổi phát tâm đại thừa, tất cả chúng Bồ Tát tinh tấn siêng tu học lục độ vạn hạnh.
7. Pháp tu hành : Xa lìa tất cả tà tri tà kiến, siêng cầu đạo chánh tri chánh kiến.
8. Pháp tu hành : Phá tan chúng ma và phiền não nghiệp chướng.
9. Pháp tu hành : Biết căn tánh của tất cả chúng sinh, là thắng, hoặc là liệt. Thắng là thiện, liệt là ác, sau đó vì họ thuyết pháp, khiến cho họ trụ Phật địa. Phật địa có đại công đức lực, sau đó là trí huệ. Một niệm tương ưng huệ quán chân đế đến nơi rốt ráo, tập nhiễm rốt ráo hết sạch không còn.
10. Pháp tu hành : An trụ vô biên không bờ mé pháp giới rộng lớn, trừ diệt tất cả phiền não, khiến cho thân thanh tịnh, chẳng còn nhiễm ô.
Đó là mười thứ pháp tu hành của Bồ Tát. Nếu các Bồ Tát an trụ trong pháp nầy, thì sẽ đắc được pháp tu hành vô thượng của Như Lai.

Phật tử ! Đại Bồ Tát có mười thứ ma. Những gì là mười ? 

Đó là : Uẩn ma, vì sinh các chấp thủ. Phiền não ma, vì luôn tạp nhiễm. Nghiệp ma, vì hay chướng ngại. Tâm ma, vì khởi cao mạn. Tử ma, vì bỏ nơi sinh. Thiên ma, vì tự kiêu căn phóng túng. Thiện căn ma, vì luôn chấp lấy. Tam muội ma, vì say đắm vị thiền lâu dài. Thiện tri thức ma, vì khởi tâm chấp. Bồ đề pháp trí ma, vì chẳng muốn xả lìa. Đó là mười. Đại Bồ Tát nên làm phương tiện sớm cầu xa lìa.

Các vị đệ tử của Phật ! Đại Bồ Tát có mười thứ ma. Ma hay chướng ngại người làm việc lành, hay đoạn trừ phá hoại huệ mạng của người tu đạo. Những gì là mười thứ ma ? Đó là :

1. Uẩn ma, tức là : Sắc thọ tưởng hành thức năm uẩn, hay sinh ra đủ thứ khổ não, hay sinh ra tất cả chấp thủ, chướng ngại chánh đạo, dứt hại huệ mạng.
2. Phiền não ma, tức là : Tham sân si mạn nghi phiền não, hay mê hoặc sự lý, hay não hại thân tâm. Thường sinh tư tưởng tạp nhiễm bất tịnh, chướng ngại chánh đạo, dứt hại huệ mạng.
3. Nghiệp ma, tức là : Giết, trộm, dâm, dối, rượu, các nghiệp ác, chướng ngại chánh đạo, dứt hại huệ mạng.
4. Tâm ma, tức là tâm cống cao ngã mạn, đều cảm giác mình giỏi hơn người, trong mắt mình coi ai cũng chẳng ra gì, khinh thường tất cả mọi người, đây cũng chướng ngại chánh đạo, dứt hại huệ mạng.
5. Tử ma, thọ mạng có hạn, xả bỏ nơi sinh, chướng ngại chánh đạo, dứt hại huệ mạng.
6. Thiên ma, Ma Vương Ba Tuần cõi trời Tha Hoá Tự Tại, rất là tự kiêu căn phóng túng, biến hoá đủ thứ chướng ngại, khiến cho người tu hành thối chuyển bồ đề tâm.
7. Thiện căn ma, chấp trước vào mình đắc được căn lành, không chịu tu thêm nữa, chướng ngại chánh đạo, dứt hại huệ mạng.
8. Tam muội ma, đắm trước vào mình đắc được vị thiền, dừng lại ở cảnh giới Tứ thiền, chẳng cầu tiến lên, chướng ngại chánh đạo, dứt hại huệ mạng.
9. Thiện tri thức ma, sinh tâm chấp trước vào pháp, chẳng chịu vì người thuyết pháp, chướng ngại chánh đạo, dứt hại huệ mạng.
10. Bồ đề pháp trí ma, đối với pháp bồ đề sinh khởi chấp trước trí, chẳng muốn xả lìa, chướng ngại chánh đạo, dứt hại huệ mạng.

Đó là mười thứ ma của Bồ Tát. Đại Bồ Tát nên làm phương tiện, sớm cầu xa lìa khỏi mười thứ ma.

Phật tử ! Đại Bồ Tát có mười thứ ma nghiệp. Những gì là mười ? 

Đó là : Quên mất bồ đề tâm, tu các căn lành, đó là ma nghiệp. 

Ác tâm bố thí, sân tâm trì giới, bỏ người tánh ác, xa người giải đãi, khinh mạn kẻ loạn ý, chê hiềm người ác huệ, đó là ma nghiệp.

Nơi pháp thâm sâu, sinh tâm tham sẻn, có người hoá độ được, mà chẳng vì họ nói pháp. Nếu được tài lợi cung kính cúng dường, tuy họ chẳng phải pháp khí mà vì họ nói pháp, đó là ma nghiệp.

Chẳng thích lắng nghe các Ba La Mật, giả sử nghe nói mà chẳng tu hành, tuy cũng tu hành, phần nhiều sinh giải đãi. Do vì giải đãi, nên ý chí hẹp kém, chẳng cầu pháp vô thượng đại bồ đề, đó là ma nghiệp.

Xa thiện tri thức, gần ác tri thức, thích cầu nhị thừa, chẳng thích thọ sinh, chí hướng Niết Bàn, lìa dục tịch tĩnh, đó là ma nghiệp.

Các vị đệ tử của Phật ! Đại Bồ Tát có mười thứ ma nghiệp. Những gì là mười ? Đó là :

1. Quên mất bồ đề tâm, tu tất cả căn lành, đó là ma nghiệp. Tại sao ? Vì có bồ đề tâm, thì mới có thể hồi hướng căn lành của mình tu tập được, đến pháp giới chúng sinh. Nếu quên mất bồ đề tâm, thì căn lành tu được, lưu lại cho chính mình, chẳng chịu hồi hướng, chỉ lợi mình mà chẳng lợi người.

2. Dùng ác tâm để bố thí, dùng sân tâm để trì giới, xả bỏ người tánh ác, xa lìa người giải đãi, khinh mạn kẻ loạn ý, chê hiềm người ác huệ, những hành vi đó đều trái với tâm từ bi, do đó có câu : « Từ hay ban vui, bi hay cứu khổ », đó là ma nghiệp.

3. Nơi pháp thâm sâu vi diệu, sinh tâm tham sẻn, có người hoá độ được, mà chẳng chịu vì họ nói pháp. Tại sao vậy ? Vì có sí đồ, cầu danh văn lợi dưỡng. Nếu được người có tài lợi, hoặc được sự cung kính, hoặc khi cúng dường, tuy họ chẳng phải là pháp khí, nhưng lại vì họ nói pháp, đó là ma nghiệp.

4. Chẳng thích lắng nghe mười pháp Ba La Mật : Bố thí, trì giới, nhẫn nhục, tinh tấn, thiền định, trí huệ, phương tiện, nguyện, lực, trí. Giả sử nghe nói đến mười pháp nầy, cũng chẳng chịu tu hành. Tuy cũng miễn cưỡng tu hành, nhưng phần nhiều sinh tâm giải đãi, chẳng muốn dũng mãnh tinh tấn. Do vì giải đãi, nên ý chí hẹp kém, chẳng cầu pháp vô thượng đại bồ đề, đó là ma nghiệp.

5. Xa thiện tri thức gần ác tri thức, thích cầu pháp nhị thừa, chẳng thích thọ sinh, chí nguyện chứng được Hữu Dư Niết Bàn, xa lìa dục niệm mà cầu tịch tĩnh, đó là ma nghiệp.

Ở chỗ Bồ Tát, khởi tâm sân hận, nhìn với cặp mắt ác. Tìm tòi tội sơ hở, nói lỗi lầm của họ, dứt hết thảy tài lợi cúng dường của họ, đó là ma nghiệp.
Phỉ báng chánh pháp, chẳng thích lắng nghe. Giả sử được nghe, liền sinh chê bai. Thấy người nói pháp, chẳng sinh tôn trọng. Nói mình nói đúng, người khác nói đều sai, đó là ma nghiệp.

Thích học thế luận, xảo thuật văn từ. Khai xiển nhị thừa, che lấp pháp thâm sâu. Hoặc dùng diệu nghĩa, truyền dạy người chẳng đáng dạy, xa lìa bồ đề, trụ nơi tà đạo, đó là ma nghiệp.

Người đã được giải thoát đã an ổn rồi, thường thích gần gũi mà cúng dường. Người chưa được giải thoát chưa được an ổn, chẳng chịu gần gũi, cũng chẳng giáo hoá, đó là ma nghiệp.

Tăng trưởng ngã mạn, không có sự cung kính. Đối với các chúng sinh, làm nhiều sự não hại. Chẳng cầu chánh pháp trí huệ chân thật, tâm ý tệ ác, khó khai ngộ được, đó là ma nghiệp. Đó là mười. 

Đại Bồ Tát nên sớm xa lìa, siêng cầu Phật nghiệp.

6. Ở chỗ Bồ Tát, sinh khởi tâm sân hận, nhìn với cặp mắt ác. Cố ý tìm tòi tội sơ hở, nói lỗi lầm của Bồ Tát, dứt hết thảy tài lợi và cúng dường của họ, đó là ma nghiệp.

7. Chẳng những phỉ báng chánh pháp, mà cũng chẳng thích lắng nghe. Giả sử được nghe, liền sinh chê bai thế nầy thế nọ, chỉ trích thế nọ thế kia. Thấy người giảng Kinh nói pháp, cũng chẳng sinh tâm tôn trọng. Tự tuyên truyền cho mình, nói mình nói pháp thì đúng, còn người khác nói pháp đều sai, đó là ma nghiệp.

8. Thích học ngôn luận thế gian, xảo thuật văn từ. Tán thán khai xiển pháp nhị thừa, che lấp pháp đại thừa thâm sâu. Hoặc đem nghĩa lý diệu pháp, truyền dạy cho người chẳng có tâm tin, xa lìa đạo bồ đề, trụ ở nhà tà đạo, đó là ma nghiệp.

9. Người đã đắc được giải thoát, người đã được an ổn rồi, thường thích gần gũi thiện tri thức, hoan hỉ cúng dường Phật Pháp Tăng Tam Bảo. Người chưa được giải thoát và an ổn, chẳng chịu gần gũi thiện tri thức, cũng chẳng chịu giáo hoá chúng sinh, đó là ma nghiệp.

10. Tăng trưởng ngã mạn, lúc nào cũng cảm thấy mình giỏi, buông bỏ mình chẳng đặng, sinh ra tâm cống cao ngã mạn, đối với Tam Bảo không sinh tâm cung kính. Đối với các chúng sinh, làm nhiều việc não hại. Chẳng cầu chánh pháp trí huệ chân thật, chuyên cầu tà pháp của tà tri thức, tâm ý của họ rất tệ ác, chẳng dễ giáo hoá, rất khó khiến cho họ khai ngộ được, đó là ma nghiệp.
Đó là mười thứ ma nghiệp của Bồ Tát. Đại Bồ Tát nên sớm xa lìa mười thứ ma nghiệp, siêng cầu tất cả Phật nghiệp.

Phật tử ! Đại Bồ Tát có mười thứ xả lìa ma nghiệp. Những gì là mười ? 

Đó là : Gần gũi thiện tri thức, cung kính cúng dường, là xả lìa ma nghiệp. Chẳng tự cao tự đại, chẳng tự khen ngợi mình, là xả lìa ma nghiệp. Nơi pháp Phật thâm sâu, tin hiểu chẳng phỉ báng, là xả lìa ma nghiệp. Chưa từng quên mất tâm nhất thiết trí, là xả lìa ma nghiệp. Siêng tu diệu hạnh, luôn chẳng phóng dật, là xả lìa ma nghiệp. Thường cầu tạng pháp của tất cả Bồ Tát, là xả lìa ma nghiệp. Luôn diễn nói pháp tâm không mệt mỏi, là xả lìa ma nghiệp. Nương tựa mười phương tất cả chư Phật, khởi tâm cứu hộ, là xả lìa ma nghiệp. Tin thọ nghĩ nhớ tất cả chư Phật, được thần lực của chư Phật gia trì, là xả lìa ma nghiệp. Với tất cả Bồ Tát đồng trồng căn lành, bình đẳng không hai, là xả lìa ma nghiệp. Đó là mười. 

Nếu các Bồ Tát an trụ pháp nầy, thì sẽ lìa khỏi tất cả ma đạo.

Các vị đệ tử của Phật ! Đại Bồ Tát có mười thứ xả lìa ma nghiệp. Những gì là mười ? Đó là :

1. Gần gũi thiện tri thức, cung kính Tam Bảo, cúng dường Tam Bảo, đó là xả lìa ma nghiệp.
2. Chẳng tự cao tự đại, chẳng tự khen ngợi mình, đó là xả lìa ma nghiệp.
3. Nơi pháp Phật nói thâm sâu, tin hiểu chẳng nghi, chẳng sinh tâm phỉ báng, chẳng nói lời phỉ báng, đó là xả lìa ma nghiệp.
4. Chưa từng quên mất tâm nhất thiết trí, đó là xả lìa ma nghiệp.
5. Siêng tu diệu hạnh, thường giữ quy cụ, chẳng khi nào phóng dật, đó là xả lìa ma nghiệp.
6. Thường cầu tạng pháp của tất cả Bồ Tát tu, đó là xả lìa ma nghiệp.
7. Luôn diễn nói Phật pháp, tâm không mệt mỏi, cũng chẳng nhàm chán, đó là xả lìa ma nghiệp.
8. Nương tựa mười phương tất cả chư Phật, khởi tâm cứu hộ chúng sinh, đó là xả lìa ma nghiệp.
9. Tin thọ tất cả chư Phật, nghĩ nhớ tất cả chư Phật, được đại oai thần lực của chư Phật gia trì, đó là xả lìa ma nghiệp.
10. Với tất cả Bồ Tát đồng gieo trồng tất cả căn lành, bình đẳng không hai, đó là xả lìa ma nghiệp.

Đó là mười thứ xả lìa ma nghiệp của Bồ Tát. Nếu các Bồ Tát an trụ trong pháp nầy, thì sẽ lìa khỏi tất cả thiên ma ngoại đạo.

Phật tử ! Đại Bồ Tát có mười thứ thấy Phật. Những gì là mười ? 

Đó là : An trụ thế gian thành Chánh Giác Phật, là thấy không chấp trước. Nguyện Phật, là thấy xuất sinh. Nghiệp báo Phật, là thấy tin sâu. Trụ trì Phật, là thấy tuỳ thuận. Niết Bàn Phật, là thấy vào sâu. Pháp giới Phật, là thấy đến khắp. Tâm Phật, là thấy an trụ. Tam muội Phật, là thấy vô lượng vô y. Bổn tánh Phật, là thấy thấu rõ. Tuỳ lạc Phật, là thấy thọ khắp. Đó là mười. 

Nếu các Bồ Tát an trụ pháp nầy, thì sẽ thấy được Như Lai vô thượng.

Các vị đệ tử của Phật ! Đại Bồ Tát có mười thứ thấy Phật. Mười Phật tức là mười thân, mỗi một thứ Phật, đều có mười thứ công đức. Những gì là mười thứ thấy Phật ? Đó là :

1. An trụ thế gian thành Chánh Giác Phật, là thấy không chấp trước, tức là bồ đề thân. Có mười thứ không chấp :
I. Đối với tất cả thế gian không chấp.
II. Đối với tất cả chúng sinh không chấp.
III. Đối với tất cả pháp không chấp.
IV. Đối với tất cả việc làm không chấp.
V. Đối với tất cả căn lành không chấp.
VI. Đối với tất cả nơi sinh không chấp.
VII. Đối với tất cả nguyện không chấp.
VIII. Đối với tất cả hạnh không chấp.
IX. Đối với tất cả Bồ Tát không chấp.
X. Đối với tất cả Phật không chấp.

2. Nguyện Phật, là thấy xuất sinh, tức là nguyện thân. Có mười thứ xuất sinh :

I. Từ trời sinh xuống.
II. Bồ Tát thọ sinh.
III. Xuất gia học đạo.
IV. Dưới cội bồ đề thành Chánh Giác.
V. Chuyển bánh xe pháp.
VI. Giáo hoá chúng sinh, cúng dường chư Phật.
VII. Bất khả thuyết đủ thứ thân Phật.
VIII. Đủ thứ trang nghiêm, vô lượng trang nghiêm, Như Lai tự tại nhất thiết trí tạng.
IX. Vô lượng vô số thanh tịnh chúng sinh.
X. Ba đời chư Phật đủ thứ căn tánh, đủ thứ tinh tấn, đủ thứ hạnh giải, ở trong ba đời, thành Đẳng Chánh Giác.

3. Nghiệp báo Phật, là thấy tin sâu, tức là trang nghiêm thân, có mười thứ tin sâu :

I. Tin tất cả pháp không.
II. Tin tất cả pháp vô tướng.
III. Tin tất cả pháp vô nguyện.
IV. Tin tất cả pháp vô tác.
V. Tin tất cả pháp không phân biệt.
VI. Tin tất cả pháp không chỗ nương.
VII. Tin tất cả pháp không thể lường.
VIII. Tin tất cả pháp vô hữu thượng.
IX. Tin tất cả pháp lìa siêu việt.
X. Tất cả pháp không sinh.

4. Trụ trì Phật, là thấy tuỳ thuận, tức là trụ trì thân, có mười thứ tuỳ thuận chúng sinh mà làm Phật sự:

I. Thị hiện sắc thân.
II. Vang diệu âm thanh.
III. Có sở thọ.
IV. Không sở thọ.
V. Dùng đất nước gió lửa.
VI. Thần lực tự tại thị hiện tất cả cảnh giới sở duyên.
VII. Đủ thứ danh hiệu.
VIII. Dùng cảnh giới cõi Phật.
IX. Nghiêm tịnh cõi Phật.
X. Yên lặng không nói.

5. Niết Bàn Phật, là thấy vào sâu, tức là hoá thân. Biết rõ tức là vào sâu, có mười thứ biết rõ:

I. Biết rõ chân như Niết Bàn.
II. Biết rõ thật tế Niết Bàn
III. Biết rõ pháp giới Niết Bàn.
IV. Biết rõ hư không Niết Bàn.
V. Biết rõ pháp tánh Niết Bàn.
VI. Biết rõ ly dục tế Niết Bàn.
VII. Biết rõ vô tướng tế Niết Bàn.
VIII. Biết rõ ngã tánh tế Niết Bàn.
IX. Biết rõ nhất thiết pháp tánh tế Niết Bàn.
X. Biết rõ chân như tế Niết Bàn.

6. Pháp giới Phật, là thấy đến khắp, tức là pháp thân, đến khắp cùng tất cả mọi nơi, có mười thứ đến:

I. Đến tất cả vật.
II. Đến tất cả thế gian.
III. Đến tất cả chúng sinh.
IV. Đến tất cả cõi nước.
V. Đến tất cả pháp.
VI. Đến tất cả hư không.
VII. Đến tất cả ba đời.
VIII. Đến tất cả hữu vi.
IX. Đến tất cả vô vi.
X. Đến tất cả lời nói âm thanh.

7. Tâm Phật, là thấy an trụ, tức là oai thế thân, có mười thứ trụ :

I. Thường trụ đại bi.
II. Trụ đủ thứ thân, làm các Phật sự.
III. Trụ tâm bình đẳng, chuyển tịnh pháp luân.
IV. Trụ bốn biện tài, nói vô lượng pháp.
V. Trụ tất cả Phật pháp không nghĩ bàn.
VI. Trụ thanh tịnh âm.
VII. Trụ vô lượng cõi.
VIII. Trụ bất khả thuyết pháp giới thâm sâu.
IX. Trụ hiện tất cả thần thông tối thắng.
X. Trụ hay khai thị pháp rốt ráo không có chướng ngại.

8. Tam muội Phật, là thấy vô lượng vô y, tức là phước đức thân. Phật có mười thứ tam muội Phật vô lượng không thể nghĩ bàn, thường ở trong định, khắp tất cả mọi nơi, diễn nói diệu pháp:

I. Khắp vì chúng sinh, diễn nói diệu pháp.
II. Khắp vì chúng sinh, nói vô ngã tế.
III. Khắp vào ba đời.
IV. Khắp vào mười phương cõi Phật rộng lớn.
V. Khắp hiện vô lượng đủ thứ thân Phật
VI. Tuỳ các chúng sinh đủ thứ tâm hiểu biết, mà hiện thân thuyết pháp.
VII. Nói tất cả pháp, lìa dục chân tế.
VIII. Diễn nói tất cả duyên khởi tự tánh.
IX. Thị hiện vô lượng thế gian xuất thế gian, trang nghiêm rộng lớn, khiến các chúng sinh, thường được thấy Phật.
X. Khiến các chúng sinh, đều thông đạt được tất cả Phật pháp, vô lượng giải thoát, rốt ráo đến bờ bên kia vô thượng.

9. Bổn tánh Phật, là thấy thấu rõ. Thấu rõ tức là trí thân, có mười thứ biết hết tất cả pháp không thừa sót:

I. Biết tất cả pháp quá khứ.
II. Biết tất cả pháp vị lai.
III. Biết tất cả pháp hiện tại.
IV. Biết tất cả lời lẽ của pháp.
V. Biết tất cả tâm chúng sinh.
VI. Biết tất cả căn lành của Bồ Tát thượng trung hạ đủ thứ phần vị.
VII. Biết tất cả Phật viên mãn trí, và các căn lành, không tăng không giảm.
VIII. Biết tất cả pháp, đều do từ duyên khởi.
IX. Biết tất cả loại thế giới.
X. Biết tất cả các việc khác nhau trong pháp giới, như lưới Nhân đà la.

10. Tuỳ lạc Phật, là thấy thọ khắp, tức là ý sinh thân, tuỳ ý mình và người, chẳng có thân nào mà chẳng thọ. Có mười thứ Phật sự, khiến cho chúng sinh thấy thọ khắp:

I. Nếu có chúng sinh, chuyên tâm nghĩ nhớ, thì liền hiện ra trước họ.
II. Nếu có chúng sinh, tâm không điều thuận, thì vì họ thuyết pháp.
III. Nếu có chúng sinh, hay sinh tịnh tín, đều khiến cho họ đắc được vô lượng căn lành.
IV. Nếu có chúng sinh, vào được pháp vị, thảy đều hiện chứng.
V. Giáo hoá chúng sinh, chẳng có mỏi nhàm.
VI. Đến các cõi Phật, đến đi vô ngại.
VII. Đại bi chẳng bỏ tất cả chúng sinh.
VIII. Hiện thân biến hoá, luôn chẳng đoạn tuyệt.
IX. Thần thông tự tại, chưa từng nghỉ ngơi.
X. An trụ pháp giới, hay quán sát khắp.

Ở trên là mười thứ pháp thấy Phật. Nếu các Bồ Tát an trụ trong pháp nầy, thì sẽ thấy được Như Lai vô thượng.

Phật tử! Đại Bồ Tát có mười thứ Phật nghiệp. Những gì là mười? 

Đó là: Tuỳ thời khai đạo, là Phật nghiệp, vì khiến cho chân chánh tu hành. 

Trong mộng khiến thấy, là Phật nghiệp, vì giác ngộ căn lành thuở xưa. 

Vì họ diễn nói Kinh chưa từng nghe qua, là Phật nghiệp, vì khiến cho họ sinh trí dứt nghi. 

Vì người ăn năn ràng buộc của sự ràng buộc nói pháp xuất ly, là Phật nghiệp, vì khiến cho họ lìa tâm nghi. 

Nếu có chúng sinh, khởi tâm tham sẻn, cho đến tâm ác huệ, tâm nhị thừa, tâm tổn hại, tâm nghi hoặc, tâm tán động, tâm kiêu mạn, vì họ hiện thân Như Lai các tướng trang nghiêm, là Phật nghiệp, vì sinh trưởng căn lành quá khứ. 

Khi lúc chánh pháp khó gặp, rộng vì họ nói pháp, khiến cho họ nghe rồi, đắc được trí đà la ni, trí thần thông, hay lợi ích khắp vô lượng chúng sinh, là Phật nghiệp, vì thắng giải thanh tịnh. 

Nếu có ma sự sinh khởi, hay dùng phương tiện hiện âm thanh đồng cõi hư không, nói pháp đừng tổn não họ dùng để đối trị, khiến cho họ khai ngộ, chúng ma nghe rồi, oai quang diệt mất, là Phật nghiệp, vì chí thích thù thắng, đại oai đức. 

Tâm không gián đoạn, thường tự giữ gìn, chẳng khiến cho chứng nhập chánh vị nhị thừa, nếu có chúng sinh căn lành chưa thành thục, thì trọn không vì họ nói cảnh giới giải thoát, là Phật nghiệp, vì làm theo nguyện xưa. 

Các vị đệ tử của Phật ! Đại Bồ Tát có mười thứ Phật nghiệp. Những gì là mười? Đó là:

1. Tuỳ thời khai đạo tất cả chúng sinh, là Phật nghiệp, vì khiến cho chúng sinh chân chánh tu hành.

2. Trong mộng khiến cho tất cả chúng sinh thấy Phật, là Phật nghiệp, vì có thể giác ngộ căn lành thuở xưa đã tu.

3. Vì chúng sinh diễn nói Kinh điển chưa từng nghe qua, là Phật nghiệp, vì khiến cho họ sinh ra trí huệ dứt trừ nghi hoặc.

4. Vì người ăn năn ràng buộc của sự ràng buộc thân tâm bởi tập khí, chẳng được tự tại, đối với họ diễn nói pháp xuất ly thế gian, là Phật nghiệp, vì khiến cho họ lìa khỏi tâm nghi hoặc.

5. Nếu có chúng sinh, khởi tâm tham sẻn, cho đến tâm ác huệ (thế trí biện thông), tâm nhị thừa (Thanh Văn và Duyên Giác), tâm tổn hại (tất cả chúng sinh), tâm nghi hoặc (chẳng tin Phật), tâm tán động (tinh thần chẳng tập trung), tâm kiêu mạn (cống cao ngã mạn), vì họ hiện thân Như Lai các tướng trang nghiêm, ba mươi hai tướng, tám mươi vẻ đẹp, là Phật nghiệp, vì sinh trưởng căn lành quá khứ.

6. Khi lúc tất cả chánh pháp khó gặp, rộng vì tất cả chúng sinh, diễn nói diệu pháp, khiến cho họ nghe rồi, đắc được trí đà la ni (tổng trì), trí thần thông, hay lợi ích khắp vô lượng vô số chúng sinh, là Phật nghiệp, vì thù thắng liễu giải thanh tịnh.

7. Nếu có ma sự sinh khởi, hay dùng phương tiện thị hiện âm thanh đồng cõi hư không, diễn nói pháp đừng tổn não ma, để đối trị ma sự, khiến cho ma cũng khai ngộ, chúng ma nghe pháp rồi, oai quang của ma diệt mất, là Phật nghiệp, vì chí thích rất thù thắng, oai đức đặc biệt rộng lớn.

8. Trong tâm không gián đoạn, thường tự giữ gìn, khiến cho thân miệng ý ba nghiệp thanh tịnh, chẳng khiến cho chứng nhập chánh vị nhị thừa. Nếu có chúng sinh căn lành chưa thành thục, thì trọn không vì họ nói pháp cảnh giới giải thoát, là Phật nghiệp, vì làm theo nguyện xưa.

Sinh tử kết lậu, tất cả đều lìa, tu Bồ Tát hạnh liên tục không ngừng, dùng tâm đại bi nhiếp lấy chúng sinh, khiến cho họ khởi sự tu hành, rốt ráo giải thoát, là Phật nghiệp, vì tu hành Bồ Tát hạnh không dứt.

Đại Bồ Tát thấu đạt thân mình và chúng sinh vốn là tịch diệt, chẳng sợ chẳng hãi, mà siêng tu phước trí, không có nhàm đủ. Tuy biết tất cả pháp không có tạo tác, mà cũng chẳng bỏ tự tướng các pháp. Tuy nơi các cảnh giới vĩnh viễn lìa tham dục, mà thường thích chiêm ngưỡng khen ngợi sắc thân chư Phật. Tuy biết chẳng do người khác ngộ nhập nơi pháp, mà đủ thứ phương tiện, cầu nhất thiết trí. Tuy biết các cõi nước đều như hư không, mà thường thích trang nghiêm tất cả cõi Phật. Tuy luôn quán sát không người, không ta, mà giáo hoá chúng sinh, không có nhàm mỏi. Tuy nơi pháp giới vốn bất động, mà dùng thần thông trí lực, hiện các biến hoá. Tuy đã thành tựu trí nhất thiết trí, mà tu Bồ Tát hạnh, không có ngừng nghỉ. Tuy biết các pháp không thể nói, mà chuyển tịnh pháp luân, khiến tâm chúng sinh hoan hỉ. Tuy hay thị hiện chư Phật thần lực, mà chẳng nhàm bỏ thân Bồ Tát. Tuy hiện nhập Đại Bát Niết Bàn, mà vẫn thị hiện thọ sinh tất cả mọi nơi. Hay làm pháp quyền thật song hành như thế, là Phật nghiệp. 

Đó là mười. Nếu các Bồ Tát an trụ trong pháp nầy, thì sẽ đắc được nghiệp rộng lớn, vô thượng vô sư, không do người khác dạy.

9. Sinh tử kết lậu, tất cả đều lìa khỏi, tu Bồ Tát hạnh liên tục không ngừng. Dùng tâm đại bi nhiếp lấy chúng sinh, khiến cho họ khởi tâm tu hành, rốt ráo được giải thoát, là Phật nghiệp, vì tu hành Bồ Tát hạnh không dứt.

10. Đại Bồ Tát thấu đạt thân mình và chúng sinh vốn là tịch diệt, nghe được đạo lý đó rồi, chẳng sợ sệt, chẳng kinh hãi, mà siêng tu phước tu trí, không khi nào nhàm đủ. Tuy biết tất cả pháp không có tạo tác, mà cũng chẳng bỏ tự tướng các pháp. Tuy đối với các cảnh giới vĩnh viễn lìa tham dục, mà thường thích chiêm ngưỡng khen ngợi sắc thân chư Phật. Tuy biết chẳng do người khác ngộ nhập nơi pháp, mà vẫn dùng đủ thứ phương tiện, cầu nhất thiết trí huệ. Tuy biết các cõi nước đều như hư không, mà thường thích trang nghiêm tất cả cõi Phật. Tuy luôn quán sát không người, không ta, mà giáo hoá chúng sinh, không khi nào nhàm mỏi. Tuy nơi pháp giới vốn bất động, mà dùng thần thông trí lực, hay thị hiện các tướng biến hoá. Tuy đã thành tựu trí nhất thiết trí, mà tu Bồ Tát hạnh, không có ngừng nghỉ. Tuy biết các pháp không thể nói, mà vẫn chuyển tịnh pháp luân, khiến cho tất cả chúng sinh, sinh tâm hoan hỉ. Tuy hay thị hiện chư Phật thần lực, mà chẳng nhàm bỏ thân Bồ Tát. Tuy thị hiện nhập Đại Bát Niết Bàn, mà vẫn thị hiện thọ sinh tất cả mọi nơi. Hay làm pháp quyền thật song hành như thế, là Phật nghiệp.

Đó là mười thứ Phật nghiệp của Bồ Tát. Nếu các Bồ Tát an trụ trong pháp nầy, thì sẽ đắc được nghiệp rộng lớn, vô thượng vô sư, không do người khác dạy.

Phật tử! Đại Bồ Tát có mười thứ mạn nghiệp. Những gì là mười? 

Đó là: Đối với sư Tăng, cha mẹ, Sa Môn, Bà La Môn, trụ nơi chánh đạo, hướng về chánh đạo, là nơi tôn trọng phước điền, mà chẳng cung kính, là mạn nghiệp. 
Hoặc có pháp sư, đắc được pháp tối thắng, trụ nơi đại thừa, biết đạo xuất thế, đắc được Đà La Ni, diễn nói pháp khế kinh rộng lớn, không có ngừng nghỉ, mà đối với bậc ấy, khởi

tâm cao mạn, và đối với pháp của vị ấy nói, chẳng sinh tâm cung kính, là mạn nghiệp.

Ở trong chúng hội, nghe nói diệu pháp, chẳng chịu khen hay, khiến người tin thọ, là mạn nghiệp.

Ưa khởi lỗi lầm ngã mạn, tự cao ngạo lấn người, chẳng thấy lỗi mình, chẳng biết mình dở, là mạn nghiệp.

Ưa khởi lỗi lầm ngã mạn, thấy người có đức, đáng khen mà chẳng khen. Thấy họ khen ngợi, chẳng sinh tâm hoan hỉ, là mạn nghiệp.

Thấy có pháp sư, vì người thuyết pháp, biết đúng pháp đúng luật, là chân thật, là lời của Phật, vì hiềm người đó, cũng hiềm pháp của người đó nói, tự khởi sự phỉ báng, cũng khiến cho họ phỉ báng, là mạn nghiệp.

Các vị đệ tử của Phật ! Đại Bồ Tát có mười thứ mạn nghiệp. Những gì là mười? Đó là:

1. Đối với sư phụ, Tỳ Kheo, Tỳ Kheo Ni, cha mẹ, Sa Môn, Bà La Môn, trụ nơi chánh đạo, chuyên tâm tu hành. Phải hướng về người tu chánh đạo, tôn trọng cúng dường, là phước điền nên làm, mà chẳng cung kính họ, là mạn nghiệp.

Xin mọi người chú ý! Người tại gia đối với người xuất gia phải cung kính, không thể khinh thường xem ai cũng chẳng ra gì, phê bình người xuất gia. Phải cúng dường người xuất gia, phải khen ngợi người xuất gia, như vậy mới không có mạn nghiệp, bằng không, tức là cống cao ngã mạn, chẳng những chẳng đắc được công đức, ngược lại tạo thêm tội lỗi. Theo nhân quả mà nói, thì nhất định sẽ đoạ lạc vào ba đường ác.

Nói đi cũng phải nói lại, chúng ta là người xuất gia, tiếp thọ người tại gia cúng dường, thế họ trồng ruộng phước. Cũng phải hồi quang phản chiếu, hãy nghĩ xem, hằng ngày mình có chân thật tu hành không? Do đó có câu:

“Hạt gạo thí chủ cho
Nặng bằng núi Tu Di
Ăn xong chẳng tu đạo
Mang lông đội sừng trả”.

Chúng ta nhận sự cung kính của người, mình phải phản tỉnh lại xem, mình có xứng đáng thọ người cung kính chăng? Mình mặc áo của người xuất gia, có khác với người tại gia chăng? Phải chăng suốt ngày cứ vọng tưởng vô ích chăng? Phải chăng suốt ngày đến tối nóng giận, đố kị chăng? Hoặc làm hại người khác tu đạo? Nếu có những tình hình như thế, thì không xứng đáng thọ người tại gia cung kính và cúng dường. Nếu miễn cưỡng thọ nhận, phải có tâm hổ thẹn. Chúng ta người tu đạo, phải luôn luôn chú ý, không thể ở trong đạo tràng hồ đồ lãng phí thời gian, tiếp thọ sự cúng dường của người tại gia như thế, thật là việc sai lầm và hết sức sai lầm.

Tại sao người tại gia cúng dường người xuất gia? Vì người xuất gia chuyên tâm tu hành, không có nhiều vọng tưởng, nhiều phiền não, đố kị, như người thế tục. Nếu được như thế thì, mới xứng đáng thọ nhận người tại gia cung kính và cúng dường. Nếu không chân thật tu hành, thậm chí sự kiền thành không bằng người tại gia, thì chẳng có tư cách thọ nhận người tại gia cung kính cúng dường. Điểm nầy phải giác ngộ cho thật sâu, đừng có nhận lầm mắt cá làm hạt châu, trà trộn vào Phật giáo ăn cơm.

Khi người tại gia cúng dường người xuất gia, cũng đừng có tâm phân biệt, đừng có tâm lựa chọn, rằng vị pháp sư nầy có tu hành, tôi phải cúng dường họ, vị pháp sư kia không tu hành, tôi chẳng cúng dường họ, đừng có tâm không chánh đáng như thế. Bất cứ ở tại đâu, đều nên cúng dường Tam Bảo, đừng có tìm lỗi lầm của Tam Bảo, bới lông tìm vết. Nếu cứ chuyên tìm mao bệnh của Tam Bảo, thì đó là cống cao ngã mạn.

2. Hoặc có vị pháp sư, đã đắc được diệu pháp tối thù thắng, tu hành pháp môn đại thừa, biết đạo xuất thế, đắc được pháp Đà La Ni. Đà La Ni dịch là “Tổng trì”, tức là tổng tất cả pháp, trì vô lượng nghĩa. Hay diễn nói pháp khế kinh điển rộng lớn, không khi nào ngừng nghỉ, mà có người ở trong đạo tràng của vị ấy, khởi tâm cống cao ngã mạn, chẳng cung kính Tam Bảo, hoặc đối với pháp của vị ấy nói, cũng chẳng sinh tâm cung kính, là mạn nghiệp.

3. Ở trong đại chúng hải hội, nghe pháp sư diễn nói diệu pháp, chẳng chịu khen hay, khiến cho người tin thọ, là mạn nghiệp.

4. Ưa khởi lỗi lầm cống cao ngã mạn, tự cao ngạo lấn người, tự thấy mình giỏi hơn người, chẳng thấy lỗi mình, chẳng biết mình dở, là mạn nghiệp.

5. Ưa khởi lỗi lầm ngã mạn, thấy người có đức, vốn được đáng khen mà chẳng khen. Thấy người khác khen ngợi, ngược lại chẳng sinh tâm hoan hỉ, đó là tâm đố kị đang tác quái, là mạn nghiệp.

6. Thấy có pháp sư, vì người thuyết pháp, biết đúng pháp, đúng luật, là chân thật, là lời của Phật. Pháp của vị pháp sư đó nói, đều là đúng, nhưng vì hiềm vị pháp sư đó, cũng hiềm pháp của người đó nói, tự sinh khởi lời lẽ phỉ báng, đi các nới tuyên truyền, cũng khiến cho người sinh tâm phỉ báng, là mạn nghiệp.

Tự cầu toà cao, tự xưng là pháp sư, nên được cung cấp, chẳng đáng phải làm việc. Thấy người già cả, tu hành đã lâu, chẳng đứng dậy nghinh tiếp, chẳng chịu hầu hạ, là mạn nghiệp. 

Thấy người có đức, nhíu mày chẳng vui, nói lời thô lỗ, tìm lỗi lầm của họ, là mạn nghiệp.

Thấy có người thông minh trí huệ biết pháp, chẳng chịu gần gũi cung kính cúng dường, chẳng chịu thưa hỏi, những gì là pháp lành, những gì không nên làm, những gì nên làm, để mãi mãi đắc được đủ thứ lợi ích an lạc. Ngu si ngoan cố, bị chìm trong ngã mạn, thì trọn không thể thấy đạo xuất yếu, là mạn nghiệp.

Lại có chúng sinh, bị tâm ngã mạn che đậy, nên chư Phật ra đời, không được gần gũi cung kính cúng dường. Việc thiện mới chẳng sinh khởi, việc thiện cũ tiêu diệt, chẳng nên nói mà nói, chẳng nên tranh mà tranh. Vị lai sẽ đoạ lạc vào hố sâu nguy nan. Trong trăm ngàn kiếp, không được gặp Phật, hà huống là nghe pháp. Nhưng do đã từng phát bồ đề tâm, cuối cùng tự tỉnh ngộ, là mạn nghiệp. Đó là mười.

7. Tự cầu toà cao, tự xưng là pháp sư, các vị nên cúng dường cho tôi, các vị nên cung kính tôi. Tôi là pháp sư, chẳng nên làm bất cứ việc gì. Thấy người già cả có hiền đức, hoặc bậc tu hành đã lâu, chẳng đứng dậy nghinh tiếp, chẳng chịu hầu hạ vị ấy, là mạn nghiệp.

8. Thấy người có đạo đức, thì nhíu mày chẳng vui, nói lời thô lỗ đối với các bậc trưởng lão và thiện tri thức, chẳng có lễ phép, chuyên tìm lỗi lầm của họ, là mạn nghiệp.
9. Thấy có người thông minh trí huệ biết Phật pháp, chẳng chịu gần gũi họ, chẳng cung kính họ, chẳng cúng dường cho họ, lại chẳng chịu thưa hỏi: Những gì gọi là pháp lành? Những gì không

nên làm? Những gì nên làm, để mãi mãi đắc được đủ thứ lợi ích an lạc. Nếu ngu si ngoan cố, bị chìm trong ngã mạn, chẳng giữ quy cụ, chẳng nghe sự giáo hoá, thì trọn không thể thấy được đạo thoát khỏi ba cõi, là mạn nghiệp.

10. Lại có chúng sinh, bị tâm ngã mạn che đậy, cho nên chư Phật ra đời, không được gần gũi chư Phật, không được cung kính chư Phật, không được cúng dường chư Phật. Việc thiện mới chẳng sinh khởi, còn việc thiện cũ tiêu diệt, chẳng nên nói mà nói, chẳng nên tranh mà tranh. Những hành vi đó, nếu không biết sửa đổi, thì vị lai sẽ bị đoạ lạc vào hố sâu nguy nan. Trong trăm ngàn kiếp, không gặp được Phật, hà huống là nghe pháp. Nhưng do quá khứ đã từng phát bồ đề tâm, cuối cùng vẫn sẽ có một ngày nào đó, tự tỉnh ngộ trước kia đã tạo đủ thứ mạn nghiệp, lập tức sám hối, lại phát bồ đề tâm, đó là mạn nghiệp.

Đó là mười thứ mạn nghiệp.

Mười thứ mạn nghiệp nầy đã giảng xong, tôi có ý tưởng là, chúng ta ở trong đạo tràng đừng có tạo mạn nghiệp, phải làm nhiều công đức, mới có thể tiêu diệt mạn nghiệp quá khứ. Trước hết, nên nói về sám hối, do đó có câu : “ Tội lỗi tày trời, sám hối liền tiêu”. Sám hối như thế nào? Phải ở trước mặt bốn chúng, kể ra hết tội của mình, và phát nguyện từ nay về sau, tuyệt đối không tái phạm nữa. Như vậy thì Phật Bồ Tát sẽ tha thứ cho bạn, thay thế nghiệp của bạn, vì trước kia là vô tâm mà phạm, nhưng từ nay về sau, mới là cố ý. Do đó có câu : “Biết rõ cố phạm”, thì dù có sám hối, cũng chẳng dễ gì tiêu diệt, mà trở thành định nghiệp, tương lai chắc chắn sẽ thọ nhân quả. Có người đừng có nghĩ rằng: Ban ngày tạo tội, ban đêm cầu nguyện, cho rằng không có tội. Che đậy sự tạo nghiệp của mình, mà tiếp tục cầu nguyện. Tội nghiệp tương lai sẽ tích tụ nhiều như núi Tu Di, như vậy không đoạ địa ngục chăng!

Trong đạo tràng của chúng ta, có hoá thân của chư Phật mười phương, có hoá thân của chư Bồ Tát mười phương, cũng có hoá thân của các Thánh nhân A La Hán, còn có Thiên Long bát bộ hộ pháp. Chúng ta ở trong đạo tràng, nếu cứ quấy nhiễu người khác, cứ tìm lỗi lầm của người khác, thì cũng giống như tìm lỗi lầm của mười phương chư Phật Bồ Tát, cho đến cũng giống như tìm lỗi lầm không đúng của các vị Thánh nhân mười phương. Ở trong đạo tràng, một mặt thì tu hành, một mặt thì tạo nghiệp, tu thì ít mà tạo nghiệp thì nhiều, cũng giống như lấy và rút tiền trong ngân hang, lấy tiền thì nhiều, bỏ tiền vào thì ít, tương lai tín dụng sẽ bị phá sản. Do đó có câu:

“Thiện ác là hai con đường,
Tu thì tu, tạo thì tạo”.

Đừng có ở trong đạo tràng, chỉ biết tạo nghiệp ác, chẳng biết tạo nghiệp lành. Phải thường tìm chỗ nào mình không đúng, đừng có tìm chỗ không đúng của người khác. Nếu cứ chuyên đi tìm người khác quấy nhiễu, chướng ngại người khác tu đạo, thì chẳng những chẳng có ích lợi gì đối với mình, mà tương lai phải thọ quả báo, hậu quả không cần nói cũng biết.

Nếu các Bồ Tát lìa mạn nghiệp nầy, thì sẽ đắc được mười thứ trí nghiệp. Những gì là mười? 

Đó là: Tin hiểu nghiệp báo, chẳng hoại nhân quả, là trí nghiệp. 

Chẳng bỏ bồ đề tâm, thường niệm chư Phật, là trí nghiệp. 

Gần thiện tri thức, cung kính cúng dường, sinh tâm tôn trọng, trọn không nhàm mỏi giải đãi, là trí nghiệp. 

Thích pháp thích nghĩa, không có nhàm đủ, xa lìa tà niệm, siêng tu chánh niệm, là trí nghiệp. 

Đối với tất cả chúng sinh, lìa ngã mạn. Đối với các Bồ Tát, nghĩ tưởng Như Lai, ái trọng chánh pháp, như tiếc thân mình, tôn kính phụng thờ Như Lai, như hộ mạng mình. Đối với người tu hành, nghĩ tưởng chư Phật, là trí nghiệp. 

Thân miệng ý nghiệp, không có các điều bất thiện, khen Hiền Thánh hay, tuỳ thuận bồ đề, là trí nghiệp. 

Chẳng hoại duyên khởi, lìa các tà kiến. Phá tối được sáng, chiếu tất cả pháp, là trí nghiệp.

Nếu các Bồ Tát lìa khỏi nghiệp ngã mạn nầy, thì sẽ đắc được mười thứ trí nghiệp. Những gì là mười? Đó là:

1. Tin sâu nhân quả, hiểu rõ nhân quả, minh bạch đạo lý khởi hoặc tạo nghiệp thọ báo. Do đó, có câu: “Trồng dưa được dưa, trồng đậu được đậu”, luật nhân quả chẳng bao giờ sai, đó là trí nghiệp.

2. Chẳng xả bỏ bồ đề tâm, thường niệm mười phương chư Phật, đó là trí nghiệp.

3. Gần gũi thiện tri thức, xa lìa ác tri thức, đó là việc thiên kinh địa nghĩa. Chẳng những gần gũi thiện tri thức, mà còn phải cung kính thiện tri thức, còn phải cúng dường thiện tri thức, sinh tâm tôn trọng, vĩnh viễn không nhàm mỏi giải đãi, đó là trí nghiệp.

4. Hoan hỉ Phật pháp và nghĩa lý, không khi nào nhàm đủ, phải xa lìa tà niệm, chẳng sinh vọng niệm bất chánh, phải siêng tu chánh niệm, mà niệm thật tánh của các pháp, đó là trí nghiệp.

5. Đối với tất cả chúng sinh, lìa khỏi tâm ngã mạn. Coi chúng sinh là cha mẹ của mình trong quá khứ, xem chúng sinh là những vị Phật tương lai, nên quán sát như thế, thì sẽ chẳng sinh tâm ngã mạn. Đối với tất cả Bồ Tát, sinh tâm nghĩ tưởng Như Lai. Ái trọng chánh pháp, như tiếc thân mạng của mình. Tôn kính phụng thờ Như Lai, giống như bảo hộ thân mạng của mình. Đối với tất cả những người tu hành, đều sinh tâm nghĩ tưởng như đối đãi với chư Phật, tại sao? Vì người tu hành, tương lai sẽ thành Phật, đó là trí nghiệp.

6. Thân miệng ý ba nghiệp thanh tịnh, không có mười điều ác bất thiện, khen ngợi tất cả Hiền Thánh, tuỳ thuận bồ đề đạo, đó là trí nghiệp.

7. Chẳng phá hoại pháp duyên khởi, lìa khỏi tất cả tà kiến, tức là: Thân kiến, biên kiến, giới thủ kiến, kiến thủ kiến, tà kiến. Phá trừ đen tối, đắc được ánh sáng, chiếu soi tất cả các pháp, đó là trí nghiệp.

Mười thứ hồi hướng, tuỳ thuận tu hành. Đối với các Ba La Mật, khởi tưởng mẹ hiền. Đối với thiện xảo phương tiện, khởi tưởng cha lành. Dùng tâm tịnh thâm sâu, vào nhà bồ đề, là trí nghiệp.

Thí giới đa văn, chỉ quán phước huệ, tất cả pháp trợ đạo như vậy, thường siêng tích tập, không có nhàm mỏi, là trí nghiệp.

Nếu có một nghiệp được Phật khen ngợi, phá được các ma phiền não đấu tranh, lìa được tất cả chướng cái ràng buộc, giáo hoá điều phục được tất cả chúng sinh, hay tuỳ thuận trí huệ, nhiếp lấy chánh pháp, hay nghiêm tịnh cõi Phật, hay phát khởi dũng mãnh, đều siêng tu tập, không giải đãi thối chuyển, là trí nghiệp. Đó là mười. Nếu các Bồ Tát an trụ trong pháp nầy, thì sẽ đắc được đại trí nghiệp vô thượng tất cả thiện xảo phương tiện của Như Lai.

8. Y chiếu mười thứ pháp hồi hướng, tuỳ thuận tu hành. Đối với tất cả các pháp môn Ba La Mật, sinh khởi tưởng mẹ hiền, giống như từ ái của người mẹ hiền. Đối với pháp thiện xảo phương tiện, sinh khởi tưởng cha lành. Dùng tâm tin thanh tịnh thâm sâu, vào nhà bồ đề, đó là trí nghiệp.

9. Bố thí hoặc trì giới, hoặc đa văn, hoặc tu chỉ quán, hoặc tu phước huệ, tất cả pháp trợ đạo như vậy, thường siêng tích tập đủ thứ căn lành, không có nhàm mỏi, đó là trí nghiệp.
10. Nếu có một thứ nghiệp, được Phật khen ngợi, hay phá được tất cả các ma phiền não đấu tranh. Lìa được tất cả chướng nghiệp, che đậy, ràng buộc. Hay giáo hoá điều phục được tất cả chúng sinh. Hay tuỳ thuận nhất thiết trí huệ, nhiếp lấy tất cả chánh pháp, hay trang nghiêm thanh tịnh tất cả cõi Phật. Hay phát khởi dũng mãnh, đều siêng tu tập, không khi nào giải đãi thối chuyển, đó là trí nghiệp.
Đó là mười thứ trí huệ. Nếu các Bồ Tát an trụ trong pháp nầy, thì sẽ đắc được đại trí nghiệp vô thượng tất cả thiện xảo phương tiện của Như Lai.

Phật tử! Đại Bồ Tát có mười thứ ma nhiếp trì. Những gì là mười? 
Đó là: Tâm giải đãi, bị ma nhiếp trì. Chí thích hẹp kém, bị ma nhiếp trì. Đối với hạnh nhỏ sinh đủ, bị ma nhiếp trì. Thọ một chẳng thừa sót, bị ma nhiếp trì. Chẳng phát nguyện lớn, bị ma nhiếp trì. Thích nơi tịch diệt, đoạn trừ phiền não, bị ma nhiếp trì. Dứt hẳn sinh tử, bị ma nhiếp trì. Bỏ hạnh Bồ Tát, bị ma nhiếp trì. Chẳng độ chúng sinh, bị ma nhiếp trì. Nghi ngờ phỉ báng chánh pháp, bị ma nhiếp trì. Đó là mười.

Các vị đệ tử của Phật! Đại Bồ Tát có mười thứ ma nhiếp trì. Mỗi ngày chúng ta làm gì, có phải đều được Phật nhiếp trì chăng? Hay là ma nhiếp trì? Hãy xem đoạn kinh văn dưới đây, thì mình sẽ biết rõ về mình, sẽ nhận thức rõ về mình. Những gì là mười thứ ma nhiếp trì ? Đó là:

1. Tâm giải đãi, là bị ma nhiếp trì.

2. Chí nguyện hẹp kém, ưa thích hạ liệt. Có người nói : « Tu hành là việc của bậc trượng phu, tôi chẳng phải là trượng phu, cho nên chẳng tu hành ». Lại có người nói : « Tu hành là việc của bậc Thánh nhân, tôi chẳng phải là Thánh nhân, tôi chẳng muốn tu hành ». Người có những tư tưởng như thế, là bị ma nhiếp trì.

3. Tu hành vừa mới có chút thành tựu, bèn sinh tâm biết đủ, trong tâm nghĩ : « Chúng ta tu đến trình độ nầy là được rồi, không cần phải tinh tấn nữa », đó là bị ma nhiếp trì. Chúng ta phải phản tỉnh, phải kiểm tra lại, mỗi ngày tinh tấn nhiều, hay là giải đãi nhiều ?

4. Mình thọ trì một thứ pháp, mà phỉ báng các pháp khác, phê bình nói nó không đúng, chẳng phải Phật nói. Nếu chẳng phải bị ma nhiếp trì, thì có thể nói là biên kiến, nói tầm bậy ! Tự nói mình đúng, nói người khác sai, phàm là có biên kiến như thế, đều bị ma nhiếu trì. Nếu người bị ma nhiếp trì, hy vọng hãy mau thay đổi tư duy chẳng chánh đáng như thế. Do đó có câu : « Tất cả do tâm tạo », tâm có thể thay đổi, thì tất cả đều có thể thay đổi ; nếu tâm không thay đổi, thì vĩnh viễn bị ma nhiếp trì.

5. Người tu hành mà chẳng phát thệ nguyện lớn, thì cũng giống như hoa nở mà chẳng kết trái, chẳng ích lợi gì, đó là bị ma nhiếp trì.

6. Mình thích nơi tịch tĩnh tu hành, đoạn trừ sinh tử phiền não, chẳng chịu giáo hoá chúng sinh, lìa khổ được vui, đó là tư tưởng của hàng nhị thừa, đó là bị ma nhiếp trì. Trong Kinh Lăng Nghiêm có nói về thức ấm ma rất rõ ràng.

7. Vĩnh viễn dứt hẳn sinh tử, đó là tư tưởng ích kỷ lợi mình, đó là bị ma nhiếp trì. Bồ Tát đại thừa ở trong sinh tử, mà chẳng giác có sinh tử, vốn có thể chứng được quả vị Vô Dư Niết Bàn, nhưng chẳng nhập Niết Bàn, tại sao vậy ? Vì muốn độ thoát chúng sinh, lìa khỏi bờ sinh tử bên nầy, qua dòng sông phiền não, đạt đến bờ bên kia rốt ráo, cho nên Bồ Tát « Đảo giá từ thuyền », đến thế giới Ta Bà, giáo hoá chúng sinh.

8. Người tu hành, luôn luôn tu hạnh Bồ Tát, lục độ vạn hạnh. Nếu xả bỏ Bồ Tát hạnh, là bị ma nhiếp trì.

9. Chức nghiệp của Bồ Tát là giáo hoá chúng sinh, độ thoát chúng sinh, nếu chẳng làm là bị ma nhiếp trì.

10. Nghi ngờ chánh pháp, hoặc phỉ báng chánh pháp, là bị ma nhiếp trì. Đó là mười thứ pháp bị ma nhiếp trì.

Nếu các Bồ Tát xả bỏ pháp bị ma nhiếp trì nầy, thì sẽ đắc được mười thứ được Phật nhiếp trì. Những gì là mười ? 

Đó là : Ban đầu phát bồ đề tâm, được Phật nhiếp trì. Đời đời gìn giữ bồ đề tâm, đừng để quên mất, được Phật nhiếp trì. Giác ngộ các việc ma, đều xa lìa, được Phật nhiếp trì. Nghe các Ba La Mật, như thuyết tu hành, được Phật nhiếp trì. Biết sinh tử khổ mà chẳng nhàm chán, được Phật nhiếp trì. Quán pháp thâm sâu, được vô lượng quả, được Phật nhiếp trì.

Vì các chúng sinh, nói pháp nhị thừa, mà chẳng chứng lấy giải thoát thừa đó, được Phật nhiếp trì. Thích quán pháp vô vi mà chẳng trụ trong đó, nơi hữu vi vô vi, chẳng sinh hai tưởng, được Phật nhiếp trì. Đến nơi vô sinh mà hiện thọ sinh, được Phật nhiếp trì. Tuy chứng được nhất thiết trí, mà khởi Bồ Tát hạnh, chẳng dứt giống Bồ Tát, được Phật nhiếp trì. Đó là mười. 

Nếu các Bồ Tát an trụ trong pháp nầy, thì sẽ đắc được lực nhiếp trì vô thượng của chư Phật.

Nếu các Bồ Tát xả bỏ pháp bị ma nhiếp trì nầy, thì sẽ đắc được mười thứ được Phật nhiếp trì. Những gì là mười ? Đó là :

1. Lúc ban đầu Bồ Tát phát bồ đề tâm, là được Phật nhiếp trì.
2. Bồ Tát ở trong đời đời kiếp kiếp gìn giữ bồ đề tâm, đừng để quên mất, là được Phật nhiếp trì.
3. Bồ Tát giác ngộ các việc ma, đều xa lìa tất cả ma nghiệp, là được Phật nhiếp trì.
4. Bồ Tát lắng nghe mười Ba La Mật, như thuyết tu hành, dũng mãnh tinh tấn, chẳng giải đãi, chẳng phóng dật, là được Phật nhiếp trì.
5. Bồ Tát biết sinh tử là khổ, mà vẫn chẳng nhàm chán, tại sao vậy, vì cứu độ chúng sinh, là được Phật nhiếp trì.
6. Bồ Tát hoan hỉ pháp quán diệu pháp thâm sâu, đắc được vô lượng quả lành, được Phật nhiếp trì.
7. Bồ Tát tuy vì các chúng sinh, nói pháp nhị thừa, nhưng mình chẳng chứng lấy giải thoát nhị thừa đó, là được Phật nhiếp trì.
8. Bồ Tát tuy hoan hỉ quán pháp vô vi, mà chẳng trụ trong pháp vô vi đó, đối với pháp hữu vi và pháp vô vi, chẳng sinh tưởng phân biệt, là được Phật nhiếp trì.
9. Bồ Tát chứng được vô sinh pháp nhẫn, mà chấm dứt sinh tử, nhưng vẫn thị hiện thọ sinh tử, là được Phật nhiếp trì.
10. Bồ Tát tuy chứng được quả vị nhất thiết trí, mà vẫn tu Bồ Tát hạnh, chẳng dứt giống Bồ Tát, là được Phật nhiếp trì.

Đó là mười pháp được Phật nhiếp trì. Nếu các Bồ Tát an trụ trong pháp nầy, thì sẽ đắc được lực nhiếp trì vô thượng của chư Phật.

Phật tử ! Đại Bồ Tát có mười thứ được pháp nhiếp trì. Những gì là mười ? 

Đó là : Biết tất cả hành vô thường, được pháp nhiếp trì. Biết tất cả hành khổ, được pháp nhiếp trì. Biết tất cả hành vô ngã, được pháp nhiếp trì. Biết tất cả pháp tịch diệt Niết Bàn, được pháp nhiếp trì. Biết các pháp từ duyên khởi, không duyên thì chẳng khởi, được pháp nhiếp trì. Biết tư duy bất chánh nên khởi vô minh, do vô minh khởi cho đến lão tử khởi, tư duy bất chánh diệt nên vô minh diệt, do vô minh diệt cho đến lão tử diệt, được pháp nhiếp trì. Biết ba môn giải thoát sinh ra Thanh Văn thừa, chứng pháp không tranh sinh ra Độc Giác thừa, được pháp nhiếp trì. Biết sáu Ba La Mật, bốn pháp nhiếp, sinh ra đại thừa, được pháp nhiếp trì. Biết tất cả cõi, tất cả pháp, tất cả chúng sinh, tất cả đời, là cảnh giới của Phật, được pháp nhiếp trì. Biết dứt tất cả niệm, xả tất cả chấp, lìa thuở trước sau, tuỳ thuận Niết Bàn, được pháp nhiếp trì. Đó là mười. 

Nếu các Bồ Tát an trụ trong pháp nầy, thì sẽ đắc được pháp nhiếp trí vô thượng của tất cả chư Phật.

Các vị đệ tử của Phật ! Đại Bồ Tát có mười thứ được pháp nhiếp trì. Những gì là mười ? Đó là :

1. Bồ Tát biết tất cả hành là vô thường, được pháp nhiếp trì.
2. Bồ Tát biết tất cả hành là khổ, được pháp nhiếp trì.
3. Bồ Tát biết tất cả hành là vô ngã, được pháp nhiếp trì.
4. Bồ Tát biết tất cả pháp là tịch diệt Niết Bàn, được pháp nhiếp trì.
5. Bồ Tát biết các pháp là từ duyên khởi, nếu không có duyên thì chẳng sinh khởi, được pháp nhiếp trì.
6. Bồ Tát biết tư duy bất chánh, là từ vô minh sinh khởi, vô minh khởi, hành khởi, thức khởi, danh sắc khởi, lục nhập khởi, xúc khởi, thủ khởi, thọ khởi, ái khởi, hữu khởi, sinh khởi, lão tử khởi, bèn có sinh tử. Tu duy bất chánh diệt, nên vô minh cũng diệt, nếu vô minh diệt hết, cho đến lão tử diệt hết, thì chẳng còn sinh tử. Đây là pháp mười hai nhân duyên, được pháp nhiếp trì.
7. Bồ Tát biết ba môn giải thoát (Không, vô tướng, vô nguyện) sinh ra Thanh Văn thừa. Chứng pháp không tranh, sinh ra Độc Giác thừa, được pháp nhiếp trì.
8. Bồ Tát biết sáu Ba La Mật, bốn pháp nhiếp, sinh ra pháp đại thừa Bồ Tát, được pháp nhiếp trì.
9. Bồ Tát biết tất cả cõi, tất cả pháp, tất cả chúng sinh, tất cả đời, là cảnh giới của Phật, được pháp nhiếp trì.
10. Bồ Tát biết dứt tất cả niệm, xả tất cả chấp, lìa khỏi thuở trước và thuở sau, tuỳ thuận pháp Niết Bàn, được pháp nhiếp trì.

Đó là mười thứ pháp được pháp nhiếp trì. Nếu các Bồ Tát an trụ trong pháp nầy, thì sẽ đắc được pháp nhiếp trí vô thượng của tất cả chư Phật.

Ở trên là Bồ Tát Phổ Hiền trả lời Bồ Tát Phổ Huệ hỏi ba mươi hai câu về nhân quả trong năm mươi mốt vấn đề ở trước, tức cũng là vấn đề của bậc Đẳng giác Bồ Tát. Vì hỏi một đáp mười, cho nên có ba trăm hai mươi câu trả lời.

7. TRẢ LỜI PHÁP QUẢ DỤNG VIÊN MÃN (BẬC DIỆU GIÁC)

Phật tử ! Đại Bồ Tát trụ ở cõi trời Đâu Suất, có mười thứ việc làm. Những gì là mười ? 
Đó là : Vì các Thiên tử cõi dục giới, nói pháp nhàm lìa, rằng tất cả tự tại, đều là vô thường. Tất cả khoái lạc, đều sẽ tàn tạ. Khuyên chư Thiên đó phát bồ đề tâm. Đó là việc làm thứ nhất.

Vì chư Thiên cõi sắc giới, nói nhập xuất các thiền giải thoát tam muội. Nếu ở trong đó mà sinh ái trước, thì do ái trước lại khởi thân kiến, tà kiến, vô minh v.v… liền vì họ nói trí huệ như thật. Nếu đối với tất cả pháp sắc chẳng phải sắc, khởi tưởng điên đảo, cho rằng thanh tịnh, thì vì họ nói chẳng thanh tịnh, đều là vô thường, khuyên họ khiến cho họ phát bồ đề tâm, đó là việc làm thứ hai.

Bồ Tát Phổ Hiền lại gọi một tiếng Phật tử ! Đại Bồ Tát trụ ở cõi trời Đâu Suất, có mười thứ việc làm. Những gì là mười ? Đó là :

1. Vì các Thiên tử cõi dục giới, diễn nói pháp nhàm lìa, rằng tất cả tự tại, đều là vô thường, chẳng vĩnh viễn. Tất cả khoái lạc, đều sẽ tàn tạ, chẳng tồn tại lâu dài. Khuyên chư Thiên cõi dục đó phát bồ đề tâm, trên cầu Phật đạo, dưới độ chúng sinh. Đó là việc làm thứ nhất của Bồ Tát.

2. Vì chư Thiên cõi sắc giới, diễn nói đạo lý nhập xuất các thiền giải thoát tam muội. Nếu ở trong đó mà sinh ái trước, thì do ái trước lại khởi thân kiến, tà kiến, vô minh v.v… liền vì họ nói trí huệ như thật. Nếu đối với tất cả pháp sắc chẳng phải sắc, sinh khởi tưởng điên đảo, lấy phải làm quấy, lấy quấy làm phải, lấy trắng làm đen, lấy đen làm trắng, cho rằng là pháp thanh tịnh, thì vì họ nói pháp chẳng thanh tịnh, tất cả đều là vô thường, khuyên nói họ khiến cho họ phát bồ đề tâm, đó là việc làm thứ hai của Bồ Tát.

Đại Bồ Tát trụ ở cõi trời Đâu Suất, nhập tam muội tên là Quang minh trang nghiêm. Thân phóng quang minh, chiếu khắp ba ngàn đại thiên thế giới. Tuỳ tâm chúng sinh, dùng đủ thứ âm thanh, để vì họ nói pháp. Chúng sinh nghe rồi, tâm tin thanh tịnh. Sau khi mạng chung sẽ sinh về cõi trời Đâu Suất. Khuyên họ khiến cho họ phát bồ đề tâm, đó là việc làm thứ ba.

Đại Bồ Tát trụ ở cõi trời Đâu Suất, dung mắt vô ngại, thấy khắp tất cả Bồ Tát cõi trời Đâu Suất trong mười phương. Các Bồ Tát đó cũng đều thấy đây, thấy nhau rồi, luận nói diệu pháp là: Hàng thần, vào thai mẹ, sơ sinh, xuất gia, đi đến đạo tràng, đủ đại trang nghiêm, lại còn thị hiện hạnh tu hành từ thuở xưa đến nay. Do nhờ hạnh đó, mà thành đại trí nầy, hết thảy công đức, chẳng lìa chỗ ngồi, mà có thể thị hiện những việc như vậy, đó là việc làm thứ tư.

3. Đại Bồ Tát trụ ở cõi trời Đâu Suất, nhập tam muội tên là Quang minh trang nghiêm. Thân phóng đại quang minh, chiếu khắp ba ngàn đại thiên thế giới. Tuỳ thuận tâm ý của tất cả chúng sinh, dùng đủ thứ âm thanh, để vì họ nói pháp. Do đó có câu:

“ Phật dùng một âm diễn nói pháp
Chúng sinh tuỳ loài đều hiểu được”.

Chúng sinh nghe pháp rồi, tâm tin tăng thêm thanh tịnh. Sau khi mạng chung, liền sinh về cõi trời Đâu Suất. Khuyên họ khiến cho họ phát bồ đề tâm, đó là việc làm thứ ba của Bồ Tát.

4. Đại Bồ Tát trụ ở nội viện cõi trời Đâu Suất, dùng mắt pháp vô ngại, thấy khắp tất cả Bồ Tát cõi trời Đâu Suất trong mười phương. Các Bồ Tát đó cũng đều thấy vị Bồ Tát nầy, thấy nhau rồi, luận nói diệu pháp là: Hàng sinh, nhập thai mẹ, sơ sinh, xuất gia, đi đến đạo tràng (ngồi dưới cội bồ đề), đầy đủ đại trang nghiêm, lại còn thị hiện Bồ Tát hạnh tu hành từ thuở xưa đến nay. Do nhờ Bồ Tát hạnh mà thành tựu đại trí huệ nầy, cùng hết thảy công đức, Bồ Tát chẳng lìa khỏi chỗ ngồi, mà có thể thị hiện những cảnh giới như vậy, đó là việc làm thứ tư của Bồ Tát.

Đại Bồ Tát trụ ở cõi trời Đâu Suất, thì tất cả các chúng Bồ Tát cõi trời Đâu Suất trong mười phương, đều đến tụ tập, cung kính vây quanh. Bấy giờ, đại Bồ Tát muốn khiến cho các Bồ Tát đó, đều viên mãn nguyện của họ, nên sinh tâm hoan hỉ. Tuỳ theo Bồ Tát đó đáng trụ bậc nào, sự thực hành, sự đoạn tuyệt, sở tu, sở chứng, mà diễn nói pháp môn. Các Bồ Tát đó nghe thuyết pháp rồi, đều đại hoan hỉ, được chưa từng có. Ai nấy đều trở về cung điện chỗ ở của mình. Đó là việc làm thứ năm.

Đại Bồ Tát trụ ở cõi trời Đâu Suất, thì chủ cõi dục giới, Thiên ma Ba Tuần, vì muốn phá hoại nhiễu loạn Bồ Tát nghiệp, nên quyến thuộc vây quanh, đến chỗ Bồ Tát. Bấy giờ, Bồ Tát vì hàng phục ma quân, nên trụ môn Kim cang đạo sở nhiếp Bát Nhã Ba La Mật trí huệ phương tiện thiện xảo, dùng hai thứ lời nhu nhuyến và thô bạo, để vì họ thuyết pháp, khiến cho ma Ba Tuần không được tuỳ tiện. Ma thấy oai lực tự tại của Bồ Tát, đều phát tâm A nậu đa la tam miệu tam bồ đề. Đó là việc làm thứ sáu.

5. Khi đại Bồ Tát trụ ở cõi trời Đâu Suất, thì tất cả các chúng Bồ Tát cõi trời Đâu Suất trong mười phương, đều đến tụ tập ở nội viện cung trời Đâu Suất thế giới Ta Bà, cung kính vị Bồ Tát đó, vây quanh vị Bồ Tát đó. Bấy giờ, đại Bồ Tát vì muốn khiến cho tất cả các Bồ Tát vân tập đến, đều viên mãn nguyện của họ, đều khiến cho họ sinh tâm đại hoan hỉ. Tuỳ theo hết thảy Bồ Tát đó, đáng trụ bậc nào, sự tu hành, sự đoạn tuyệt phiền não, sở tu Bồ Tát đạo, sở chứng được đạo quả, mà vị họ diễn nói tất cả diệu pháp môn. Tất cả các Bồ Tát đó nghe thuyết pháp rồi, đều đại hoan hỉ, đắc được pháp chưa từng có. Các vị Bồ Tát đó đều trở về cung điện chỗ ở của mình. Đó là việc làm thứ năm của Bồ Tát.

6. Khi đại Bồ Tát trụ ở nội viện cõi trời Đâu Suất, thì có vị chủ cõi trời dục giới Thiên ma Ba Tuần, vì muốn phá hoại Bồ Tát tu hành, nên phái quyến thuộc của ma, đến để nhiễu loạn tâm Bồ Tát, khiến cho Bồ Tát mất đi bồ đề tâm, lại sai ma nữ đến vây quanh Bồ Tát, đến chỗ Bồ Tát ở. Bấy giờ, Bồ Tát vì hàng phục ma quân, nên trụ vào pháp môn Kim cang đạo sở nhiếp Bát Nhã Ba La Mật trí huệ phương tiện thiện xảo, dùng hai pháp môn triết nhiếp để hàng phục ma quân, dùng lời nhu nhuyến để nhiếp thọ ma quân, dùng lời thô bạo triết phục ma quân. Dùng hai thứ lời đó, để vì ma thuyết pháp, khiến cho ma Ba Tuần không được tuỳ tiện. Bất cứ dùng phương pháp gì để phá hoại cũng không hiệu dụng, cũng không thành công. Ma thấy oai lực tự tại của Bồ Tát mà được cảm hoá, đều phát tâm A nậu đa la tam miệu tam bồ đề (Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác). Đó là việc làm thứ sáu của Bồ Tát.

Đại Bồ Tát trụ ở cõi trời Đâu Suất, biết các Thiên tử cõi dục giới không thích nghe pháp. Bấy giờ, Bồ Tát phát ra tiếng lớn, khắp bảo họ rằng: Hôm nay Bồ Tát sẽ ở trong cung hiện việc hi hữu. Nếu ai muốn thấy, thì hãy mau đi đến. Lúc đó, các Thiên tử nghe lời đó rồi, thì vô lượng trăm ngàn ức Na Do Tha Thiên chúng, đều tụ hội đến. Bấy giờ, Bồ Tát thấy các Thiên chúng đều đã đến rồi, bèn hiện các việc hi hữu ở trong cung, mà các Thiên tử đó chưa từng thấy nghe. Khi được thấy rồi, đều đại hoan hỉ say sưa. Lại ở trong sự vui thích vang ra tiếng bảo rằng: Này các vị ! Tất cả các hành, đều vô thường. Tất cả các hành, đều là khổ. Tất cả các pháp, đều là không, Niết Bàn tịch diệt. Lại bảo rằng: Các vị đều nên tu Bồ Tát hạnh, đều sẽ viên mãn trí nhất thiết trí. Các vị Thiên tử đó nghe pháp âm rồi, vui buồn than thở mà sinh nhàm lìa, thảy đều phát bồ đề tâm. Đó là việc làm thứ bảy.

Đại Bồ Tát trụ ở cõi trời Đâu Suất, chẳng rời chỗ ở của mình, mà đi đến mười phương vô lượng chỗ tất cả chư Phật, gặp các Như Lai, gần gũi lễ bái, cung kính nghe pháp. Bấy giờ, chư Phật vì muốn khiến cho Bồ Tát đắc được pháp quán đảnh tối thượng, nên nói Bồ Tát địa tên là Nhất thiết thần thông. Dùng một niệm huệ tương ưng, đầy đủ tất cả công đức tối thắng, nhập vào bậc trí nhất thiết trí. Đó là việc làm thứ tám.

7. Khi đại Bồ Tát trụ ở cõi trời Đâu Suất, biết các Thiên tử cõi dục giới thích hưởng thụ khoái lạc tự tại, không thích nghe Phật pháp. Bấy giờ, Bồ Tát phát ra tiếng lớn, khắp bảo các Thiên tử rằng: Hôm nay Bồ Tát sẽ ở trong cung điện thị hiện cảnh giới hi hữu, không thể nghĩ bàn. Nếu ai muốn nhìn thấy, thì hãy mau đi đến chỗ Bồ Tát. Lúc đó, các Thiên tử nghe lời đó rồi, thì vô lượng trăm ngàn ức Na Do Tha Thiên chúng, đều tụ hội đến chỗ Bồ Tát. Bấy giờ, Bồ Tát thấy các Thiên chúng đều đã tụ hội đến rồi, bèn hiện các việc hi hữu ở trong cung điện, mà các Thiên tử đó chưa từng thấy qua những cảnh giới đó, chưa từng nghe qua những cảnh giới đó. Khi được thấy rồi, thì đều sinh tâm đại hoan hỉ say sưa ở trong những cảnh giới đó. Lại ở trong sự vui thích vang ra tiếng bảo các vị Thiên tử rằng: Này các vị ! Tất cả các hành, đều vô thường! Tất cả các hành, đều là khổ! Tất cả các pháp, đều là không, Niết Bàn là tịch tĩnh, có: Thường, lạc, ngã, tịnh bốn đức, đó mới là khoái lạc thật sự, khoái lạc vĩnh viễn. Lại bảo các Thiên tử rằng: Các vị đều nên tu Bồ Tát hạnh, các vị đều sẽ viên mãn trí nhất thiết trí. Các vị Thiên tử đó nghe pháp âm rồi, đại chúng đều vui buồn, chúng ta phải làm sao đây? Mọi người đều than thở với nhau, mà sinh ra tâm nhàm lìa sự khoái lạc ở cõi trời, thảy đều phát bồ đề tâm. Đó là việc làm thứ bảy của Bồ Tát.

8. Khi đại Bồ Tát trụ ở cõi trời Đâu Suất, chẳng rời chỗ ở của mình, ở trong định mà đi đến mười phương vô lượng đạo tràng của tất cả chư Phật, gặp các Như Lai, gần gũi lễ bái, cung kính nghe Phật thuyết pháp. Bấy giờ, chư Phật vì muốn khiến cho Bồ Tát đắc được pháp quán đảnh thọ ký tối thượng, nên nói Bồ Tát địa tên là Nhất thiết thần thông. Dùng một niệm trí huệ tương ưng, đầy đủ tất cả công đức tối thắng, nhập vào bậc trí huệ nhất thiết trí. Đó là việc làm thứ tám của Bồ Tát.

Đại Bồ Tát trụ ở cõi trời Đâu Suất, vì muốn cúng dường các Như Lai, nên dùng đại thần lực, hiện ra đủ thứ các đồ cúng dường, tên là Thù thắng khả lạc, đầy khắp pháp giới, hư không giới, tất cả thế giới, cúng dường chư Phật. Vô lượng chúng sinh trong thế giới đó, thấy sự cúng dường như vậy, đều phát tâm A nậu đa la tam miệu tam bồ đề. Đó là việc làm thứ chín.

Đại Bồ Tát trụ ở cõi trời Đâu Suất, vang ra vô lượng vô biên pháp môn như huyễn, như bóng, khắp cùng mười phương tất cả thế giới. Thị hiện đủ thứ sắc, đủ thứ tướng, đủ thứ hình thể, đủ thứ oai nghi, đủ thứ sự nghiệp, đủ thứ phương tiện, đủ thứ ví dụ, đủ thứ lời nói. Tuỳ tâm chúng sinh, đều khiến cho hoan hỉ. Đó là việc làm thứ mười.
Phật tử! Đó là mười thứ việc làm của đại Bồ Tát trụ ở cõi trời Đâu Suất. Nếu các Bồ Tát thành tựu pháp nầy, thì sau này sẽ hạ sinh xuống nhân gian.

9. Khi đại Bồ Tát trụ ở nội viện cõi trời Đâu Suất, vì muốn cúng dường mười phương tất cả chư Phật, nên dùng đại thần thông lực, hiện ra đủ thứ các đồ cúng dường, tên là Thù thắng khả lạc, đầy khắp pháp giới, hư không giới, tất cả thế giới, cúng dường chư Phật. Vô lượng chúng sinh trong những thế giới của chư Phật đó, thấy sự cúng dường như vậy, đều phát tâm A nậu đa la tam miệu tam bồ đề. Đó là việc làm thứ chín của Bồ Tát.

10. Đại Bồ Tát trụ ở cõi trời Đâu Suất, vang ra vô lượng vô biên pháp môn như huyễn, như bóng, khắp cùng mười phương tất cả thế giới. Thị hiện đủ thứ sắc, đủ thứ tướng, đủ thứ hình thể, đủ thứ oai nghi, đủ thứ sự nghiệp, đủ thứ phương tiện, đủ thứ ví dụ, đủ thứ lời nói. Tuỳ tâm chúng sinh, đều khiến cho hoan hỉ. Đó là việc làm thứ mười của Bồ Tát.
Các vị đệ tử của Phật! Đó là mười thứ việc làm của đại Bồ Tát khi trụ ở nội viện cõi trời Đâu Suất. Nếu các Bồ Tát thành tựu pháp nầy, thì sau này sẽ hạ sinh xuống nhân gian, còn có mười thứ việc làm.

Phật tử! Khi đại Bồ Tát từ cõi trời Đâu Suất sắp hạ sinh, thì có mười việc. Những gì là mười? 

Phật tử! Khi đại Bồ Tát từ cõi trời Đâu Suất sắp hạ sinh, thì dưới chân phải, phóng đại quang minh, tên là An Lạc Trang Nghiêm. Chiếu khắp ba ngàn đại thiên thế giới. Chúng sinh trong tất cả cõi ác và các nạn, xúc chạm được quang minh đó, thì đều được lìa khổ được vui. Được an lạc rồi, đều biết sẽ có đại nhân kỳ đặc sắp xuất hiện ra đời. Đó là việc thị hiện thứ nhất.

Phật tử! Khi đại Bồ Tát từ cõi trời Đâu Suất sắp hạ sinh thì, từ tướng bạch hào giữa chân mày, phóng đại quang minh, tên là Giác ngộ. Chiếu khắp ba ngàn đại thiên thế giới, chiếu đến tất cả các thân Bồ Tát đồng hành đời quá khứ. Các Bồ Tát đó được quang minh chiếu rồi, đều biết Bồ Tát sắp muốn hạ sinh. Ai nấy đều hiện ra vô lượng đồ cúng dường, đi đến chỗ Bồ Tát để cúng dường. Đó là việc thị hiện thứ hai.

Các vị đệ tử của Phật! Khi đại Bồ Tát từ cõi trời Đâu Suất sắp hạ sinh xuống nhân gian, thì có mười thứ việc. Những gì là mười?

1. Phật tử! Khi đại Bồ Tát từ cõi trời Đâu Suất sắp hạ sinh, thì dưới chân phải, phóng đại quang minh, tên là An Lạc Trang Nghiêm. Chiếu khắp ba ngàn đại thiên thế giới. Trong bốn đường ác, có tất cả chúng sinh khổ nạn, nếu xúc chạm được quang minh đó, thì thảy đều được lìa khổ được vui. Đắc được an lạc rồi, đều biết sẽ có đại nhân kỳ đặc sắp xuất hiện ra đời. Đó là việc thị hiện thứ nhất của Bồ Tát.

2. Phật tử! Khi đại Bồ Tát từ cõi trời Đâu Suất sắp hạ sinh thì, từ tướng bạch hào giữa chân mày, phóng đại quang minh, tên là Giác ngộ. Chiếu khắp ba ngàn đại thiên thế giới, chiếu đến tất cả các thân Bồ Tát đồng hành đời quá khứ. Các Bồ Tát đó được quang minh chiếu rồi, đều biết Bồ Tát sắp muốn hạ sinh xuống nhân gian thành Phật. Ai nấy đều hiện ra vô lượng đồ cúng dường, đi đến chỗ vị Bồ Tát đó để cúng dường. Đó là việc thị hiện thứ hai của Bồ Tát.

Phật tử! Khi đại Bồ Tát từ cõi trời Đâu Suất sắp hạ sinh thì, trong lòng bàn tay phải, phóng ra đại quang minh, tên là Thanh tịnh cảnh giới. Đều có thể nghiêm tịnh tất cả ba ngàn đại thiên thế giới. Trong đó nếu có vị đã đắc được vô lậu Bích Chi Phật, giác ngộ quang minh đó, thì liền xả bỏ thọ mạng. Nếu vị nào không giác ngộ, thì do sức quang minh, dời họ đến trong những thế giới khác. Tất cả các ma và các ngoại đạo chúng sinh có kiến chấp, cũng đều dời đến thế giới phương khác. Chỉ trừ chúng sinh đáng được chư Phật thần lực gia trì hoá độ. Đó là việc thị hiện thứ ba.

Phật tử! Khi đại Bồ Tát từ cõi trời Đâu Suất sắp hạ sinh, thì từ hai đầu gối, phóng đại quang minh, tên là Thanh tịnh trang nghiêm. Chiếu khắp tất cả cung điện chư Thiên. Dưới từ cõi trời Hộ Thế, trên đến cõi trời Tịnh Cư, đều khắp cùng. Chư Thiên chúng đó, đều biết Bồ Tát ở cõi trời Đâu Suất sắp muốn hạ sinh. Đều ôm lòng ái mộ, buồn than lo sầu. Ai nấy đều mang đủ thứ hoa, tràng hoa, y phục, hương đốt, hương bột, phan lọng, kỹ nhạc, đi đến chỗ Bồ Tát, cung kính cúng dường. Theo Bồ Tát hạ sinh, cho đến Niết Bàn. Đó là việc thị hiện thứ tư.

3. Phật tử! Khi đại Bồ Tát từ cõi trời Đâu Suất sắp hạ sinh thì, trong lòng bàn tay phải, phóng ra đại quang minh, tên là Thanh tịnh cảnh giới. Đều có thể nghiêm tịnh tất cả ba ngàn đại thiên thế giới. Trong đó nếu có vị đã đắc được vô lậu Bích Chi Phật, giác xúc được quang minh đó, thì liền xả bỏ thọ mạng. Nếu vị nào không giác xúc được, thì do sức quang minh, dời họ đến trong những thế giới khác. Tất cả các ma và các ngoại đạo chúng sinh có kiến chấp, cũng đều dời đến thế giới phương khác. Chỉ trừ chúng sinh đáng được chư Phật thần lực gia trì hoá độ. Đó là việc thị hiện thứ ba của Bồ Tát.

4. Phật tử! Khi đại Bồ Tát từ cõi trời Đâu Suất sắp hạ sinh, thì từ hai đầu gối, phóng đại quang minh, tên là Thanh tịnh trang nghiêm. Chiếu khắp tất cả cung điện chư Thiên. Dưới từ cõi trời Hộ Thế Tứ Thiên Vương, trên đến cõi trời Tịnh Cư, đó là cõi trời Ngũ Bất Hoàn, đều khắp cùng. Chư Thiên sáu cõi trời dục giới, và hai mươi tám cõi trời sắc giới, đều biết Bồ Tát ở cõi trời Đâu Suất sắp muốn hạ sinh xuống nhân gian. Thảy đều ôm lòng ái mộ, buồn than lo sầu. Ai nấy đều mang đủ thứ hoa, tràng hoa, y phục, hương đốt, hương bột, phan báu và lọng báu, kỹ nhạc, đi đến chỗ Bồ Tát, cung kính cúng dường. Theo Bồ Tát hạ sinh, cho đến vào Niết Bàn. Đó là việc thị hiện thứ tư của Bồ Tát.

Phật tử! Khi đại Bồ Tát từ cõi trời Đâu Suất sắp hạ sinh, thì trong tâm tạng chữ vạn kim cang trang nghiêm, phóng đại quang minh, tên là Vô năng thắng tràng. Chiếu khắp Kim Cang Lực Sĩ mười phương tất cả thế giới. Lúc đó, có trăm ức Kim Cang Lực Sĩ, thảy đều tụ tập đến, đi theo bảo vệ, lúc mới sinh ra, cho đến vào Niết Bàn. Đó là việc thị hiện thứ năm.
Phật tử! Khi đại Bồ Tát từ cõi trời Đâu Suất sắp hạ sinh, thì tất cả lỗ chân lông trên thân của Ngài, phóng ra đại quang minh, tên là Phân biệt chúng sinh. Chiếu khắp tất cả đại thiên thế giới, xúc chạm khắp tất cả thân các Bồ Tát, lại xúc chạm khắp tất cả chư Thiên và người đời. Các Bồ Tát đều nghĩ rằng: Tôi nên ở đây để cúng dường Như Lai, giáo hoá chúng sinh. Đó là việc thị hiện thứ sáu.

5. Phật tử! Khi đại Bồ Tát từ cõi trời Đâu Suất sắp hạ sinh, thì trong tâm tạng chữ vạn kim cang trang nghiêm, phóng đại quang minh, tên là Vô năng thắng tràng. Chiếu khắp Kim Cang Lực Sĩ (hộ pháp thiện thần) mười phương tất cả thế giới. Lúc đó, có trăm ức Kim Cang Lực Sĩ, thảy đều tụ tập đến, đi theo Bồ Tát để bảo vệ, lúc mới sinh ra, cho đến vào Niết Bàn. Đó là việc thị hiện thứ năm của Bồ Tát.

6. Phật tử! Khi đại Bồ Tát từ cõi trời Đâu Suất sắp hạ sinh, thì trong tất cả lỗ chân lông trên thân của Ngài, phóng đại quang minh, tên là Phân biệt chúng sinh. Chiếu khắp tất cả đại thiên thế giới, chiếu đến khắp tất cả thân của các Bồ Tát, lại chiếu đến khắp tất cả chư Thiên và người đời. Các Bồ Tát đều nghĩ rằng: Tôi nên ở nơi đây để cúng dường Như Lai, giáo hoá chúng sinh. Đó là việc thị hiện thứ sáu của Bồ Tát.

Phật tử! Khi đại Bồ Tát từ cõi trời Đâu Suất sắp hạ sinh, thì từ trong điện Đại Ma Ni Bảo Tạng, phóng đại quang minh, tên là Thiện trụ quán sát. Chiếu chỗ sắp sinh của Bồ Tát, chỗ cung vua. Quang minh đó chiếu rồi, thì các Bồ Tát khác đều cùng đi theo, hạ sinh xuống cõi Diêm Phù Đề. Hoặc ở nơi nhà, hoặc ở tụ lạc, hoặc ở thành ấp, mà hiện thọ sinh, vì muốn giáo hoá các chúng sinh. Đó là việc thị hiện thứ bảy.

Phật tử! Khi đại Bồ Tát từ cõi trời Đâu Suất sắp hạ sinh, thì từ trong cung điện trời và đại lầu các trang nghiêm, phóng đại quang minh, tên là Nhất thiết cung điện thanh tịnh trang nghiêm. Chiếu chỗ sinh trong bụng mẹ. Quang minh đó chiếu rồi, khiến cho mẹ của Bồ Tát an ổn khoái lạc, thành tựu đầy đủ tất cả công đức. Ở trong thai mẹ, tự nhiên có lầu các rộng lớn, trang nghiêm bằng đại ma ni báu, vì muốn thân Bồ Tát được an ổn. Đó là việc thị hiện thứ tám.

7. Phật tử! Khi đại Bồ Tát từ cõi trời Đâu Suất sắp hạ sinh, thì từ trong Điện Đại Ma Ni Bảo Tạng, phóng đại quang minh, tên là Thiện trụ quán sát. Chiếu chỗ sắp sinh của Bồ Tát, tức là chỗ cung vua ở. Quang minh đó chiếu rồi, thì các Bồ Tát khác đều cùng đi theo, hạ sinh xuống cõi Diêm Phù Đề. Hoặc ở nơi nhà, hoặc ở tụ lạc, hoặc ở thành ấp, mà thị hiện thọ sinh, vì muốn giáo hoá các chúng sinh. Đó là việc thị hiện thứ bảy của Bồ Tát.

8. Phật tử! Khi đại Bồ Tát từ cõi trời Đâu Suất sắp hạ sinh thì, từ trong cung điện trời và đại lầu các tất cả trang nghiêm, phóng đại quang minh, tên là Nhất thiết cung điện thanh tịnh trang nghiêm. Chiếu đến bụng của người mẹ. Quang minh đó chiếu rồi, khiến cho mẹ của Bồ Tát an ổn vui vẻ, chẳng có cảm giác không thoải mái, thành tựu đầy đủ tất cả công đức. Ở trong thai mẹ, tự nhiên có lầu các rộng lớn, trang nghiêm bằng đại ma ni báu, vì muốn thân Bồ Tát được an ổn. Đó là việc thị hiện thứ tám của Bồ Tát.

Phật tử! Khi đại Bồ Tát từ cõi trời Đâu Suất sắp hạ sinh thì, từ dưới hai bàn chân, phóng đại quang minh, tên là Thiện trụ. Nếu các Thiên tử và các Phạm Thiên, thọ mạng sắp hết, được quang minh chiếu đến, thì đều được sống lâu thêm. Cúng dường Bồ Tát, từ lúc hạ sinh, cho đến vào Niết Bàn. Đó là việc thị hiện thứ chín.
Phật tử! Khi đại Bồ Tát từ cõi trời Đâu Suất sắp hạ sinh, thì trong những vẻ đẹp, phóng đại quang minh, tên là Nhãn trang nghiêm. Thị hiện đủ thứ các nghiệp Bồ Tát. Lúc đó các trời, người, hoặc thấy Bồ Tát ở cõi trời Đâu Suất, hoặc thấy nhập thai, hoặc thấy sơ sinh, hoặc thấy xuất gia, hoặc thấy thành đạo, hoặc thấy hàng ma, hoặc thấy chuyển pháp luân, hoặc thấy vào Niết Bàn. Đó là việc thị hiện thứ mười.

Phật tử! Nơi thân, nơi toà ngồi, nơi cung điện, ở trong lầu các của đại Bồ Tát, phóng ra trăm vạn A tăng kỳ quang minh như vậy, đều hiện đủ thứ các nghiệp Bồ Tát. Hiện các nghiệp đó rồi, vì đầy đủ tất cả pháp công đức, nên từ cõi trời Đâu Suất hạ sinh xuống nhân gian.

9. Phật tử! Khi đại Bồ Tát từ cõi trời Đâu Suất sắp hạ sinh, thì từ dưới hai bàn chân, phóng đại quang minh, tên là Thiện trụ. Nếu có các Thiên tử và các Phạm Thiên, thọ mạng sắp hết, được quang minh đó chiếu đến, thì đều được sống lâu thêm. Cúng dường Bồ Tát, từ lúc hạ sinh, cho đến vào Niết Bàn. Đó là việc thị hiện thứ chín của Bồ Tát.

10. Phật tử! Khi đại Bồ Tát từ cõi trời Đâu Suất sắp hạ sinh, thì từ trong tướng tám mươi vẻ đẹp, phóng đại quang minh, tên là Nhãn trang nghiêm. Thị hiện đủ thứ các nghiệp của Bồ Tát. Lúc đó những người ở nhân gian và chư Thiên trên trời, hoặc thấy Bồ Tát ở cõi trời Đâu Suất, hoặc thấy Bồ Tát nhập thai, hoặc thấy Bồ Tát sơ sinh, hoặc thấy Bồ Tát xuất gia, hoặc thấy Bồ Tát thành đạo, hoặc thấy Bồ Tát hàng ma, hoặc thấy Bồ Tát chuyển pháp luân, hoặc thấy Bồ Tát vào Niết Bàn. Đây là cảnh giới tám tướng thành đạo của Bồ Tát. Đó là việc thị hiện thứ mười của Bồ Tát.
Các vị đệ tử của Phật! Nơi thân, nơi toà ngồi, nơi cung điện, ở trong lầu các của đại Bồ Tát, phóng ra trăm vạn A tăng kỳ (vô lượng số) quang minh như vậy, đều hiện đủ thứ các nghiệp Bồ Tát. Hiện ra các nghiệp đó rồi, vì đầy đủ tất cả pháp công đức, nên từ cõi trời Đâu Suất hạ sinh xuống nhân gian để làm Phật.

Pages: 1 2 3 4 5 6 7