KINH HOA NGHIÊM
ĐẠI PHƯƠNG QUẢNG PHẬT

QUYỂN NĂM MƯƠI BẢY
 
PHẨM LÌA THẾ GIAN THỨ BA MƯƠI TÁM PHẦN NĂM

 

Phật tử ! Đại Bồ Tát có mười thứ tập khí. Những gì là mười ? 

Đó là : Tập khí bồ đề tâm. Tập khí căn lành. Tập khí giáo hoá chúng sinh. Tập khí thấy Phật. Tập khí thọ sinh nơi thế giới thanh tịnh. Tập khí hạnh. Tập khí nguyện. Tập khí Ba la mật. Tập khí tư duy pháp bình đẳng. Tập khí đủ thứ cảnh giới khác biệt. Đó là mười. 

Nếu các Bồ Tát an trụ pháp nầy, thì vĩnh viễn lìa khỏi tất cả tập khí phiền não, đắc được đại trí tập khí, trí huệ chẳng có tập khí của Như Lai.

Các vị đệ tử của Phật ! Đại Bồ Tát có mười thứ tập khí. Tập khí là gì ? Tập tức là tập nhiễm, học được từng chút từng chút. Khí là tư tưởng và hành vi. Tóm lại, tức là những gì mình muốn, những gì mình nói thành thói quen, trở thành tập quán, tập dần thành bình thường.

Giống như tôn giả Ca Lưu Đà Di, mỗi lần đến sông Hằng, liền nói với Thần sông rằng : « Tiểu tì ngừng chảy » ! Vị Thần sông đó là người nữ, trong quá khứ đã từng làm nô tỳ trong nhà của tôn giả Ca Lưu Đà Di. Vị Thần sông nghe những lời đó thì chẳng vui tí nào, thật là khó mà nhẫn nại được, bèn đi đến chỗ Đức Phật, nói tôn giả Ca Lưu Đà Di đối với cô ta chẳng lịch sự tí nào, cô ta bạch với Đức Phật rằng : « Đức Thế Tôn ! Đệ tử của Ngài Ca Lưu Đà Di, tuy chứng quả A La Hán, nhưng đối với người chẳng có lịch sự gì hết. Mỗi lần Ngài đến bên bờ sông, đều dùng thân phận A La Hán bức bách con, Ngài kêu con ‘Tiểu tỳ ngừng chảy’. Tuy con là nữ, cũng không nên kêu là Tiểu tỳ ».

Do đó, Đức Phật kêu tôn giả Ca Lưu Đà Di đừng có gọi như thế nữa. Lúc đó, trong tâm của vị Thần sông rất vui, tôn giả Ca Lưu Đà Di cũng nhận điều không phải của mình. Sau đó, tôn giả Ca Lưu Đà Di đối với Thần sông nói : « Tiểu tỳ đừng giận », vẫn gọi cô ta là Tiểu tỳ ! Thần sông không nói gì và bỏ đi, đó là câu chuyện về tập khí thành tự nhiên.

Thần sông rất buồn bã bỏ đi, có người chẳng minh bạch nguyên nhân bên trong, bèn hỏi Đức Phật rằng : « Tại sao tôn giả Ca Lưu Đà Di khi gặp vị Thần sông thì gọi là Tiểu tỳ » ? Đức Phật nói với chúng đệ tử trong pháp hội rằng : « Vì đời quá khứ, cô ta là nô tỳ trong nhà của Ca Lưu Đà Di, ông ta kêu đã quen rồi, bất cứ ở đâu, cũng đều kêu cô ta là Tiểu tỳ. Cho đến hiện tại, cũng vẫn còn gọi cô ta là Tiểu tỳ ». Đó là tập khí, do đó bất cứ cái gì tập lâu dần sẽ thành một thứ tập khí.

Những gì là mười ? Đó là :

1. Tập khí bồ đề tâm. Bồ Tát đều phát bồ đề tâm, tức cũng là : Trên cầu Phật đạo, dưới độ chúng sinh.

2. Tập khí căn lành. Bồ Tát luôn luôn gieo trồng căn lành cho chính mình, tài bồi căn lành của chính mình, cũng khiến người khác tăng trưởng căn lành, thành thục căn lành.

3. Tập khí giáo hoá chúng sinh. Bồ Tát luôn luôn giáo hoá chúng sinh, điều phục chúng sinh. Tại sao ? Vì Bồ Tát coi mình và chúng sinh đều đồng một thể, có tâm đại từ bi.

4. Tập khí thấy Phật. Bồ Tát thường hoan hỉ thấy tất cả chư Phật, gần gũi chư Phật, cúng dường chư Phật.

5. Tập khí thọ sinh nơi thế giới thanh tịnh. Bồ Tát có sinh tử, chẳng muốn dứt sinh tử. Tại sao ? Vì muốn hoá độ chúng sinh, cho nên nguyện thọ sinh trong thế giới thanh tịnh, để giáo hoá chúng sinh.

6. Tập khí hạnh. Bồ Tát muốn hành Bồ Tát đạo, nguyện đem công đức hồi hướng cho chúng sinh.

7. Tập khí nguyện. Bồ Tát thường phát nguyện lớn, lúc nào cũng giữ gìn lời nguyện của mình, y theo lời nguyện mà tu hành. Chẳng giống như phàm phu chúng ta phát nguyện, hôm nay vừa mới phát nguyện, ngày mai thì không giữ lời nguyện của mình đã phát ra.

8. Tập khí Ba la mật. Bất cứ Bồ Tát làm gì, nhất định cũng làm đến nơi rốt ráo bờ bên kia.

9. Tập khí tư duy pháp bình đẳng. Bồ Tát thường tư duy pháp bình đẳng, đối với tất cả chúng sinh đều bình đẳng như nhau.

10. Tập khí đủ thứ cảnh giới khác biệt. Bồ Tát thường quán sát đủ thứ cảnh giới khác nhau.

Đó là mười thứ pháp tập khí của Bồ Tát. Nếu các Bồ Tát an trụ pháp nầy, thì vĩnh viễn lìa khỏi tất cả tập khí phiền não, đắc được đại trí tập khí, trí huệ chẳng có tập khí của Như Lai.

Phật tử ! Đại Bồ Tát có mười thứ thủ, nhờ đó mà không dứt các Bồ Tát hạnh. Những gì là mười ? 

Đó là : Thủ tất cả cõi chúng sinh, vì giáo hoá rốt ráo. Thủ tất cả thế giới, vì nghiêm tịnh rốt ráo. Thủ Như Lai, vì tu Bồ Tát hạnh là cúng dường. Thủ căn lành, vì tích tập tướng tốt công đức của chư Phật. Thủ đại bi, vì diệt tất cả khổ của chúng sinh. Thủ đại từ, vì ban cho tất cả chúng sinh vui nhất thiết trí. Thủ Ba la mật, vì tích tập các trang nghiêm của Bồ Tát. Thủ thiện xảo phương tiện, vì ở tất cả mọi nơi đều thị hiện. Thủ bồ đề, vì được trí vô ngại. Lược nói Bồ Tát thủ tất cả pháp, vì ở tất cả mọi nơi đều dùng trí sáng mà hiện rõ. Đó là mười. 

Nếu các Bồ Tát an trụ pháp nầy, thì sẽ không dứt các Bồ Tát hạnh, đắc được pháp không chỗthủ vô thượng của tất cả Như Lai.

Các vị đệ tử của Phật ! Đại Bồ Tát có mười thứ thủ, nhờ đó mà không dứt các Bồ Tát hạnh. Những gì là mười ? Đó là :

1. Thủ tất cả cõi chúng sinh, vì giáo hoá rốt ráo hết thảy chúng sinh, khiến cho họ đều thành Phật, tuyệt đối chẳng bỏ một chúng sinh nào.

2. Thủ tất cả thế giới, vì rốt ráo thành tựu thanh tịnh trang nghiêm thế giới, khiến cho tất cả chúng sinh đều đắc được khoái lạc.

3. Thủ Như Lai, vì tại nhân địa tu Bồ Tát hạnh là cúng dường các Như Lai.

4. Thủ căn lành, vì tích tập tướng tốt công đức của chư Phật. Nghĩa là 32 tướng tốt, 80 vẻ đẹp trang nghiêm thân.

5. Thủ đại bi, vì hay diệt trừ khổ đau của tất cả chúng sinh.

6. Thủ đại từ, vì ban cho tất cả chúng sinh vui nhất thiết trí.

7. Thủ Ba la mật, vì tích tập các trang nghiêm của Bồ Tát, khiến cho tất cả chúng sinh đắc được đại trí huệ.

8. Thủ thiện xảo phương tiện, vì ở tất cả mọi nơi đều thị hiện giáo hoá chúng sinh, điều phục chúng sinh, khiến cho chúng sinh lìa khổ được vui.

9. Thủ bồ đề, vì đắc được trí huệ vô ngại.

10. Lược nói Bồ Tát thủ tất cả pháp, vì ở tất cả mọi nơi đều dùng trí huệ sáng suốt mà thị hiện rõ tất cả pháp.

Đó là mười pháp thủ của Bồ Tát. Nếu các Bồ Tát an trụ trong pháp nầy, thì sẽ không đoạn tuyệt các Bồ Tát hạnh, đắc được pháp không chỗthủ vô thượng của tất cả Như Lai.

Phật tử ! Đại Bồ Tát có mười pháp tu. Những gì là mười ? 

Đó là : Tu các Ba la mật. Tu học. Tu huệ. Tu nghĩa. Tu pháp. Tu xuất ly. Tu thị hiện. Tu siêng thực hành chẳng giải đãi. Tu thành Đẳng Chánh Giác. Tu chuyển bánh xe chánh pháp. Đó là mười. 

Nếu các Bồ Tát an trụ trong pháp nầy, thì sẽ đắc được tu vô thượng, tu tất cả pháp.

Các vị đệ tử của Phật ! Đại Bồ Tát có mười pháp tu. Những gì là mười ? Đó là :

1. Tu tất cả các Ba la mật.
2. Tu tất cả học thức.
3. Tu tất cả trí huệ.
4. Tu tất cả nghĩa lý.
5. Tu tất cả Phật pháp.
6. Tu pháp xuất ly ba cõi.
7. Tu thị hiện pháp thần thông.
8. Tu siêng thực hành pháp chẳng giải đãi.
9. Tu thành Đẳng Chánh Giác.
10. Tu chuyển bánh xe chánh pháp.

Đó là mười pháp tu của Bồ Tát. Nếu các Bồ Tát an trụ trong pháp nầy, thì sẽ đắc được tu vô thượng, tu tất cả pháp.

Phật  tử ! Đại Bồ Tát có mười thứ thành tựu Phật pháp. Những gì là mười ? 

Đó là : Chẳng lìa thiện tri thức thành tựu Phật pháp. Tin sâu lời Phật thành tựu Phật pháp. Chẳng phỉ báng chánh pháp thành tựu Phật pháp. Dùng vô lượng vô tận căn lành hồi hướng thành tựu Phật pháp. Tin hiểu cảnh giới Như Lai không bờ mé thành tựu Phật pháp. Biết cảnh giới của tất cả thế giới thành tựu Phật pháp. Chẳng bỏ cảnh giới của pháp giới thành tựu Phật pháp. Xa lìa cảnh giới các ma thành tựu Phật pháp. Chánh niệm cảnh giới của tất cả chư Phật thành tựu Phật pháp. Thích cầu cảnh giới thập lực của Như Lai thành tựu Phật pháp. Đó là mười. 

Nếu các Bồ Tát an trụ pháp nầy, thì sẽ thành tựu được đại trí huệ vô thượng của Như Lai.

Các vị đệ tử của Phật ! Đại Bồ Tát có mười thứ thành tựu Phật pháp. Những gì là mười ? Đó là :

1. Chẳng lìa thiện tri thức, gần gũi thiện tri thức, mới thành tựu Phật pháp.
2. Phải tin sâu lời của Phật dạy, mới thành tựu Phật pháp.
3. Chẳng phỉ báng chánh pháp, mới thành tựu Phật pháp.
4. Dùng vô lượng vô tận căn lành, hồi hướng pháp giới tất cả chúng sinh, mới thành tựu Phật pháp.
5. Tin hiểu cảnh giới Như Lai không bờ mé, mới thành tựu Phật pháp.
6. Biết cảnh giới của tất cả thế giới, mới thành tựu Phật pháp.
7. Chẳng bỏ cảnh giới của pháp giới, mới thành tựu Phật pháp.
8. Xa lìa cảnh giới các ma, mới thành tựu Phật pháp.
9. Chánh niệm cảnh giới của tất cả chư Phật, mới thành tựu Phật pháp.
10. Thích cầu cảnh giới thập lực của Như Lai, mới thành tựu Phật pháp.

Đó là mười pháp thành tựu Phật pháp. Nếu các Bồ Tát an trụ trong pháp nầy, thì sẽ được thành tựu đại trí huệ vô thượng của Như Lai.

Phật tử ! Đại Bồ Tát có mười thứ thối thất Phật pháp, nên phải xa lìa. Những gì là mười ? 

Đó là : Khinh mạn thiện tri thức thối thất Phật pháp. Sợ khổ sinh tử thối thất Phật pháp. Chán tu Bồ Tát hạnh thối thất Phật pháp. Chẳng thích trụ thế gian thối thất Phật pháp. Đắm trước tam muội thối thất Phật pháp. Chấp lấy căn lành thối thất Phật pháp. Phỉ báng chánh pháp thối thất Phật pháp. Dứt Bồ Tát hạnh thối thất Phật pháp. Thích đạo nhị thừa thối thất Phật pháp. Hiềm hận các Bồ Tát thối thất Phật pháp. Đó là mười. 

Nếu các Bồ Tát xa lìa pháp nầy, thì sẽ vào đạo lìa sanh tử của Bồ Tát.

Các vị đệ tử của Phật ! Đại Bồ Tát có mười thứ thối thất Phật pháp, nên phải xa lìa. Những gì là mười ? Đó là :

1. Khinh mạn thiện tri thức, khinh thường người tu hành, thì sẽ thối thất Phật pháp.
2. Sợ khổ sinh tử, cảm thấy quá khổ, chẳng biết tu hành, thì sẽ thối thất Phật pháp.
3. Nhàm chán tu Bồ Tát hạnh, thì sẽ thối thất Phật pháp.
4. Chẳng thích trụ ở thế gian, thì sẽ thối thất Phật pháp.
5. Đắm trước vị thiền của tam muội, thì sẽ thối thất Phật pháp.
6. Chấp lấy căn lành, thì sẽ thối thất Phật pháp.
7. Phỉ báng tất cả chánh pháp, thì sẽ thối thất Phật pháp.
8. Dứt Bồ Tát hạnh, thì sẽ thối thất Phật pháp.
9. Thích đạo nhị thừa, thì sẽ thối thất Phật pháp.
10. Hiềm hận các Bồ Tát, thì sẽ thối thất Phật pháp.

Đó là mười pháp thối thất Phật pháp. Nếu các Bồ Tát xa lìa các pháp nầy, thì sẽ vào đạo lìa khỏi sanh tử của Bồ Tát.

Phật tử ! Đại Bồ Tát có mười thứ đạo lìa sanh. Những gì là mười ? 

Đó là : Thứ nhất : Sinh ra Bát Nhã Ba La Mật, mà luôn quán sát tất cả chúng sinh. Thứ hai : Xa lìa các kiến, mà độ thoát tất cả chúng sinh kiến ràng buộc. Thứ ba : Chẳng niệm tất cả tướng, mà chẳng bỏ tất cả chúng sinh chấp tướng. Thứ tư : Vượt qua ba cõi, mà thường ở tại tất cả thế giới. Thứ năm : Vĩnh lìa phiền não, mà cùng ở với tất cả chúng sinh. Thứ sáu : Được pháp lìa dục, mà thường dùng đại bi thương xót tất cả chúng sinh chấp trước dục. Thứ bảy : Thường thích tịch tĩnh, mà luôn thị hiện tất cả quyến thuộc. Thứ tám : Lìa sinh thế gian, mà chết đây sinh kia khởi Bồ Tát hạnh. Thứ chín : Chẳng nhiễm tất cả pháp thế gian, mà chẳng dứt tất cả việc làm của thế gian. Thứ mười : Chư Phật bồ đề đã hiện ra ở trước mắt, mà chẳng bỏ tất cả hạnh nguyện của Bồ Tát. Đó là mười.

Các vị đệ tử của Phật ! Đại Bồ Tát có mười thứ đạo lìa sanh. Những gì là mười ? Đó là :

1. Thứ nhất : Sinh ra Bát Nhã Ba La Mật, mà luôn quán sát tất cả chúng sinh.

2. Thứ hai : Xa lìa các kiến, tức là thân kiến, biên kiến, giới thủ kiến, kiến thủ kiến, tà kiến. Phàm là tà tri tà kiến, đều phải xa lìa, mà hay độ thoát tất cả chúng sinh ràng buộc các kiến.

3. Thứ ba : Chẳng niệm tất cả tướng, cũng chẳng bỏ tất cả chúng sinh chấp tướng.

4. Thứ tư : Vượt qua ba cõi, nhưng vẫn thường ở tại tất cả thế giới.

5. Thứ năm : Vĩnh viễn lìa khỏi phiền não, nhưng cùng ở với tất cả chúng sinh trong ba cõi.

6. Thứ sáu : Đắc được pháp lìa dục, tức là chẳng còn tâm tham dục, chẳng còn tâm nhiễm ô, chỉ có tâm thanh tịnh, tu hạnh thanh tịnh. Bồ Tát tuy lìa khỏi cảnh giới các dục, nhưng thường dùng tâm đại bi thương xót tất cả chúng sinh chưa lìa được dục, giáo hoá chúng sinh chấp trước dục niệm, luôn chẳng bỏ chúng sinh.

7. Thứ bảy : Bồ Tát thường thích tịch tĩnh, thích tu hành ở trong rừng sâu núi thẳm, nhưng thường thị hiện tất cả quyến thuộc. Như Phật tử quy y một vị đại đức cao Tăng nào đó, là quyến thuộc của vị đại đức cao Tăng đó. Giống như Vạn Phật Thánh Thành, là Thánh địa Phật giáo, rất là tịch tịnh, là chỗ tu hành rất tốt, cho nên rất nhiều người đến tu hành, tức là quyến thuộc của Vạn Phật Thánh Thành.

8. Thứ tám : Tuy Bồ Tát đã lìa sinh tử của thế gian, nhưng Bồ Tát vẫn phải chết đây sinh kia, sinh khởi Bồ Tát hạnh.

9. Thứ chín : Chẳng nhiễm trước tất cả pháp thế gian, nhưng vẫn chẳng dứt tất cả việc làm của thế gian.

10. Thứ mười : Chư Phật bồ đề đã hiện ra ở trước mắt, chứng được quả vị giác đạo, nhưng chẳng xả bỏ tất cả hạnh nguyện của Bồ Tát đã phát ra.

Đó là mười pháp đạo chẳng lìa sanh của Bồ Tát.

Phật tử ! Đó là mười thứ đạo lìa sanh của Bồ Tát, lìa khỏi thế gian, chẳng cùng với đời, mà cũng chẳng tạp với hạnh nhị thừa. Nếu các Bồ Tát an trụ pháp nầy, thì sẽ đắc được pháp quyết định của Bồ Tát.

Các vị đệ tử của Phật ! Đó là mười thứ đạo lìa sanh của Bồ Tát, hay lìa khỏi thế gian, chẳng cùng với pháp thế gian, mà cũng chẳng tạp với hạnh của nhị thừa tu. Nếu các Bồ Tát an trụ trong pháp nầy, thì sẽ đắc được pháp quyết định lìa khỏi ba cõi của Bồ Tát.

Phật tử ! Đại Bồ Tát có mười thứ pháp quyết định. Những gì là mười ? 

Đó là : Quyết định sinh ra ở trong dòng dõi của Như Lai. Quyết định trụ trong cảnh giới của chư Phật. Quyết định biết rõ việc làm của Bồ Tát. Quyết định an trụ các Ba la mật. Quyết định được dự chúng hội Như Lai. Quyết định hayhiển giống tánh Như Lai. Quyết định an trụ lực của Như Lai. Quyết định vào sâu Phật bồ đề. Quyết định với tất cả Như Lai đồng một thân. Quyết định chỗ trụ với tất cả Như Lai không hai. Đó là mười. 

Các vị đệ tử của Phật ! Đại Bồ Tát có mười thứ pháp quyết định. Những gì là mười ? Đó là :

1. Quyết định sinh ra ở trong dòng dõi của Như Lai.
2. Quyết định trụ trong cảnh giới của chư Phật.
3. Quyết định biết rõ việc làm của Bồ Tát.
4. Quyết định an trụ các Ba la mật.
5. Quyết định được dự chúng hội của Như Lai.
6. Quyết định hayhiển giống tánh Như Lai.
7. Quyết định an trụ trong mười lực của Như Lai.
8. Quyết định vào sâu Phật bồ đề.
9. Quyết định với tất cả Như Lai đồng một pháp thân.
10. Quyết định chỗ trụ với tất cả Như Lai không hai.

Đó là mười pháp quyết định của Bồ Tát.

Phật tử ! Đại Bồ Tát có mười thứ đạo sinh ra Phật pháp. Những gì là mười ? 

Đó là : Tuỳ thuận bạn lành, là đạo sinh ra Phật pháp, vì đồng trồng căn lành. Thâm tâm tin hiểu, là đạo sinh ra Phật pháp, vì biết tự tại của Phật. Phát thệ nguyện lớn, là đạo sinh ra Phật pháp, vì tâm đó rộng lớn. Nhẫn căn lành của mình, là đạo sinh ra Phật pháp, vì biết nghiệp chẳng mất. Tất cả kiếp tu hành không nhàm đủ, là đạo sinh ra Phật pháp, vì hết thuở vị lai. A tăng kỳ thế giới đều thị hiện, là đạo sinh ra Phật pháp, vì thành thục chúng sinh. Chẳng dứt hạnh Bồ Tát, là đạo sinh ra Phật pháp, vì tăng trưởng đại bi. Vô lượng tâm, là đạo sinh ra Phật pháp, vì một niệm khắp tất cả cõi hư không. Thù thắng hạnh, là đạo sinh ra Phật pháp, vì gốc của sự tu hành không mất hoại. Giống Như Lai, là đạo sinh ra Phật pháp, vì khiến cho tất cả chúng sinh thích phát bồ đề tâm, dùng tất cả pháp lành nương nhờ giữ gìn. Đó là mười. 

Nếu các Bồ Tát an trụ pháp nầy, thì sẽ đắc được danh hiệu Đại Trượng Phu.

Các vị đệ tử của Phật ! Đại Bồ Tát có mười thứ đạo sinh ra Phật pháp. Những gì là mười ? Đó là :

1. Tuỳ thuận bạn lành (thiện tri thức), là đạo sinh ra Phật pháp, vì cùng bạn lành gieo trồng căn lành.
2. Thâm tâm tin hiểu tất cả Phật pháp, là đạo sinh ra Phật pháp, vì biết tự tại của Phật là vô ngại.
3. Phát thệ nguyện lớn, là đạo sinh ra Phật pháp, vì tâm đó rộng lớn. Do đó : « Tâm bao thái hư, lượng khắp pháp giới ».
4. Nhẫn nại tu căn lành của mình, là đạo sinh ra Phật pháp, vì biết làm công đức nghiệp lành, tuyệt đối chẳng mất đi.
5. Trong tất cả kiếp tu hành không nhàm đủ, là đạo sinh ra Phật pháp, vì hết thuở vị lai cũng chẳng ngừng nghỉ.
6. Trong A tăng kỳ thế giới đều thị hiện, giáo hoá chúng sinh, là đạo sinh ra Phật pháp, vì thành thục tất cả chúng sinh, khiến cho họ sớm thành Phật đạo.
7. Chẳng dứt hạnh của Bồ Tát tu, là đạo sinh ra Phật pháp, vì tăng trưởng tâm đại bi, độ khắp tất cả chúng sinh, chấm dứt sinh tử.
8. Tâm từ vi vô lượng, là đạo sinh ra Phật pháp, vì một niệm đầy khắp tất cả cõi hư không.
9. Hạnh thù thắng, là đạo sinh ra Phật pháp, vì gốc của sự tu hành căn lành, không khi nào mất hoại.
10. Giống Như Lai, là đạo sinh ra Phật pháp, vì khiến cho tất cả chúng sinh hoan hỉ phát bồ đề tâm, dùng tất cả pháp lành nương nhờ và giữ gìn.

Đó là mười thứ đạo sinh ra Phật pháp của Bồ Tát. Nếu các Bồ Tát an trụ pháp nầy, thì sẽ đắc được danh hiệu Đại Trượng Phu.

Phật tử ! Đại Bồ Tát có mười danh hiệu Đại trượng phu. Những gì là mười ? 

Đó là : Tên là Bồ đề toá đoả, vì bồ đề trí sinh ra. Tên là Ma ha tát đoả, vì an trụ đại thừa. Tên là Đệ nhứt tát đoả, vì chứng pháp đệ nhứt. Tên là Thắng tát đoả, vì giác ngộ thắng pháp. Tên là Tối thắng tát đoả, vì trí huệ tối thắng. Tên là Thượng tát đoả, vì khởi thượng tinh tấn. Tên là Vô thượng tát đoả, vì khai thị pháp vô thượng. Tên là Lực tát đoả, vì rộng biết mười lực. Tên là Vô đẳng tát đoả, vì thế gian không gì sánh bằng. Tên là Bất tư nghì tát đoả, vì một niệm thành Phật. Đó là mười. 

Nếu các Bồ Tát an trụ pháp nầy, thì sẽ thành tựu đạo Bồ Tát.

Các vị đệ tử của Phật ! Đại Bồ Tát có mười danh hiệu Đại trượng phu. Những gì là mười ? Đó là :

1. Tên là Bồ đề toá đoả, vì do bồ đề trí huệ sinh ra.
2. Tên là Ma ha tát đoả, vì do an trụ trong đại thừa.
3. Tên là Đệ nhứt tát đoả, vì chứng đắc pháp môn đệ nhứt nghĩa.
4. Tên là Thắng tát đoả, vì giác ngộ tất cả pháp thù thắng.
5. Tên là Tối thắng tát đoả, vì đắc được trí huệ tối thắng.
6. Tên là Thượng tát đoả, vì hay sinh khởi tâm tinh tấn tối thượng.
7. Tên là Vô thượng tát đoả, vì hay khai thị Phật pháp vô thượng.
8. Tên là Lực tát đoả, vì rộng biết mười lực của Phật là không thể nghĩ bàn.
9. Tên là Vô đẳng tát đoả, vì hết thảy chúng sinh thế gian, không gì sánh bằng.
10. Tên là Bất tư nghì tát đoả, vì trong một niệm lập tức có thể thành Phật.

Đó là mười danh hiệu Đại trượng phu của Bồ Tát. Nếu các Bồ Tát an trụ pháp nầy, thì sẽ thành tựu đạo Bồ Tát.

Phật tử ! Đại Bồ Tát có mười thứ đạo. Những gì là mười ? 

Đó là : Một đạo là Bồ Tát đạo, vì chẳng bỏ tâm bồ đề độc nhứt. 

Hai đạo là Bồ Tát đạo, vì sinh ra trí huệ và phương tiện. 

Ba đạo là Bồ Tát đạo, vì hành không vô tướng vô nguyện, chẳng chấp ba cõi. 

Bốn hạnh là Bồ Tát đạo, vì sám trừ nghiệp chướng, tuỳ hỉ phước đức, cung kính tôn trọng khuyến thỉnh Như Lai, thiện xảo hồi hướng không ngừng nghỉ. 

Năm căn là Bồ Tát đạo, vì an trụ tịnh tín kiên cố bất động, khởi đại tinh tấn việc làm rốt ráo, một hướng chánh niệm không khác phan duyên, khéo biết tam muội nhập xuất phương tiện, khéo hay phân biệt cảnh giới trí huệ.

Các vị đệ tử của Phật ! Đại Bồ Tát có mười thứ đạo. Những gì là mười ? Đó là :

1. Một đạo là Bồ Tát đạo. Một đạo là đạo gì ? Tức là Bồ Tát đạo, tức cũng là lục độ vạn hạnh của Bồ Tát tu. Phải phát tâm bồ đề, phải cầu đạo bồ đề. Đó là Phật thừa độc nhứt vô nhị. Bồ Tát giữ gìn tâm bồ đề, chẳng xả bỏ, cũng chẳng thối chuyển.

2. Hai đạo là Bồ Tát đạo. Hai đạo là đạo gì ? Tức là đạo phước huệ song tu. Tu phước tu huệ, phước huệ tròn đầy, mới có thể thành Phật đạo, sinh ra nhất thiết trí và tất cả phương tiện.

3. Ba đạo là Bồ Tát đạo. Ba đạo là đạo gì ? Tức là hành không, vô tướng, vô nguyện. Bồ Tát chẳng chấp trước tất cả không, cũng chẳng có tất cả tướng, cũng chẳng có mọi sự chấp trước. Chẳng chấp trước dục của dục giới, chẳng chấp trước sắc của sắc giới, chẳng chấp trước vô sắc của vô sắc giới. Tóm lại, tất cả đều không chấp trước.

4. Bốn hạnh là Bồ Tát đạo. Bốn hạnh là gì ? Tức là bồ đề, phước đức, trí huệ, sám hối. Hay sám trừ nghiệp chướng thuở xưa, hay tuỳ hỉ phước đức vị lai, cung kính tôn trọng tất cả chư Phật hiện tại, khuyến thỉnh Như Lai, thiện xảo hồi hướng vĩnh viễn không ngừng nghỉ. Bốn hạnh lại có thể nói là bốn hoằng thệ nguyện : « Chúng sinh vô biên thệ nguyện độ, phiền não vô tận thệ nguyện đoạn, pháp môn vô lượng thệ nguyện học, Phật đạo vô thượng thệ nguyện thành ». Lại có thể nói là bốn pháp nhiếp : Bố thí, ái ngữ, lợi hành, đồng sự. Đó đều là đạo của Bồ Tát.

5. Năm căn là Bồ Tát đạo. Năm căn là gì ? Tức là : Tín căn, tấn căn, niệm căn, định căn, huệ căn. An trụ nơi tín căn thanh tịnh, kiên cố bất động. Tại sao bất động ? Vì gốc rễ sinh ra tâm đại tinh tấn. Làm tất cả sự nghiệp đều rốt ráo, một hướng chánh niệm, tức là niệm. Chẳng đi phan duyên, tức là định. Khéo biết tam muội, tức là huệ. Nhập xuất phương tiện, khéo hay phân biệt cảnh giới nhất thiết trí huệ.

Sáu thông là Bồ Tát đạo. Đó là : Thiên nhãn, đều thấy hết thảy các sắc trong tất cả thế gian, biết các chúng sinh chết đây sinh kia. Thiên nhĩ, đều nghe chư Phật thuyết pháp, thọ trì nghĩ nhớ, rộng vì chúng sinh tuỳ căn cơ mà diễn xướng. Tha tâm thông, biết được tâm người khác tự tại vô ngại. Túc mạng thông, nhớ biết quá khứ tất cả kiếp số, tăng trưởng căn lành. Thần túc thông, tuỳ sự ứng hoá tất cả chúng sinh, thị hiện đủ thứ, khiến cho họ ưa thích pháp. Lậu tận thông, hiện chứng thật tế, khởi Bồ Tát hạnh chẳng đoạn tuyệt.

6. Sáu thông là Bồ Tát đạo. Sáu thông là gì ? Tức là : Thiên nhãn thông, thiên nhĩ thông, tha tâm thông, túc mạng thông, thần túc thông, lậu tận thông.

1. Thiên nhãn thông : Có thể nhìn thấy được hết thảy nhan sắc trong tất cả thế gian, biết được tất cả chúng sinh chết ở chỗ đây, rồi sinh về chỗ kia, nhìn thấy được rất rõ ràng.

2. Thiên nhĩ thông : Mười phương chư Phật thuyết pháp đều nghe được, lại có thể thọ trì, và nghĩ nhớ, rộng vì tất cả chúng sinh tuỳ căn cơ mà diễn xướng tất cả Phật pháp.

3. Tha tâm thông : Biết được hết thảy vọng tưởng trong tâm người khác, muốn nói gì. Tại sao biết được ? Vì tự tại vô ngại.

4. Túc mạng thông : Chẳng những biết sự việc đời nầy, mà còn biết sự việc đời trước, có thể nhớ lại quá khứ tất cả kiếp số, tăng trưởng căn lành.

5. Thần túc thông : Tuỳ sự ứng hoá tất cả chúng sinh, thị hiện đủ thứ, khiến cho họ hoan hỉ Phật pháp.

6. Lậu tận thông : Hay hiện chứng thật tế, chẳng còn tất cả lậu, chẳng còn tất cả tập khí. Hay khởi Bồ Tát hạnh, vĩnh viễn chẳng đoạn tuyệt. Ngoại đạo chỉ có ngũ thông, chẳng có lậu tận thông, cho nên không thể chứng được Phật quả.

Bảy niệm là Bồ Tát đạo. Đó là : Niệm Phật, trong một lỗ lông thấy vô lượng chư Phật, khai ngộ tâm của tất cả chúng sinh. Niệm Pháp, chẳng lìa tất cả chúng hội của Như Lai, ở trong tất cả chúng hội của Như Lai, thân thừa diệu pháp, tuỳ căn tánh dục lạc của các chúng sinh, mà vì họ diễn nói, khiến cho ngộ nhập. Niệm Tăng, luôn thấy tương tục, không ngừng nghỉ, nơi tất cả thế gian thấy Bồ Tát. Niệm xả, biết rõ hạnh xả của tất cả Bồ Tát, tăng trưởng tâm bố thí rộng lớn. Niệm giới, chẳng bỏ tâm bồ đề, đem tất cả căn lành hồi hướng cho chúng sinh. Niệm Thiên, thường nghĩ nhớ Nhất Sinh Bổ Xứ Bồ Tát cung trời Đâu Suất. Niệm chúng sinh, trí huệ phương tiện giáo hoá điều phục, đến khắp tất cả, không gián đoạn.

7. Bảy niệm là Bồ Tát đạo. Bảy niệm là gì ? Tức là : Niệm Phật, niệm pháp, niệm Tăng, niệm xả, niệm giới, niệm Thiên, niệm chúng sinh.

1. Niệm Phật : Có thể ở trong một lỗ chân lông, thấy được vô lượng vô biên chư Phật, khai ngộ tâm của tất cả chúng sinh.

2. Niệm Pháp : Chẳng lìa khỏi tất cả chúng hội của Như Lai, ở trong tất cả đạo tràng chúng hội của Như Lai, thân thừa diệu pháp, tuỳ thuận căn của chúng sinh, mà vì họ diễn nói diệu pháp, khiến cho chúng sinh ngộ nhập đạo bồ đề.

3. Niệm Tăng : Thường luôn thấy tương tục không dứt, thấy tất cả Bồ Tát nơi thế gian không có ngừng nghỉ.

4. Niệm xả : Biết rõ hạnh hỉ xả của tất cả Bồ Tát, tăng trưởng tâm bố thí rộng lớn.

5. Niệm giới : Phải nghiêm trì giới luật, chẳng xả bỏ tâm bồ đề, đem tất cả căn lành hồi hướng cho chúng sinh.

6. Niệm Thiên : Thường nghĩ nhớ Nhất Sinh Bổ Xứ Bồ Tát ở cung trời Đâu Suất, tương lai sẽ đến nhân gian thành Phật.

7. Niệm chúng sinh : Dùng pháp môn trí huệ phương tiện giáo để hoá điều phục tất cả chúng sinh, đến khắp tất cả, không khi nào gián đoạn.

Tuỳ thuận bồ đề tám Thánh đạo là Bồ Tát đạo. Đó là : Hành đạo chánh kiến, xa lìa tất cả các tà kiến. Khởi chánh tư duy, bỏ vọng phân biệt, tâm thường tuỳ thuận nhất thiết trí. Thường hành chánh ngữ, lìa bốn lỗi lời nói, thuận lời nói của bậc Thánh. Luôn tu chánh nghiệp, giáo hoá chúng sinh khiến được điều phục. An trụ chánh mạng, khổ hạnh biết đủ, oai nghi chỉnh tề, tuỳ thuận hạnh bồ đề bốn bậc Thánh, tất cả lỗi lầm đều lìa khỏi. Khởi chánh tinh tấn, siêng tu tất cả khổ hạnh của Bồ Tát, nhập vào mười lực không quái ngại của Phật. Tâm thường chánh niệm, đều ghi nhớ tất cả lời nói âm thanh, trừ diệt tâm tán động của thế gian. Tâm thường chánh định, khéo vào môn giải thoát không nghĩ bàn của Bồ Tát, ở trong một tam muội sinh ra tất cả các tam muội.

8. Tuỳ thuận bồ đề tám thánh đạo là Bồ Tát đạo. Tám thánh đạo là gì ? Tức là : Chánh kiến, chánh tư duy, chánh ngữ, chánh nghiệp, chánh mạng, chánh tinh tấn, chánh niệm, chánh định.

1. Chánh kiến : Phải tu hành đạo chánh tri chánh kiến, xa lìa đạo tà tri tà kiến.

2. Chánh tư duy : Thường khởi sự suy nghĩ chánh đáng, xả bỏ tâm vọng tưởng phân biệt. Trong tâm thường tuỳ thuận nhất thiết trí huệ, không tuỳ thuận tất cả ngu si.

3. Chánh ngữ : Thường nói những lời chánh đáng, không nói dối, không nói thêu dệt, không nói hai lưỡi, không chửi mắng, đó là lìa khỏi bốn lỗi của lời nói, phải tuỳ thuận lời nói của bậc Thánh nhân.

4. Chánh nghiệp : Luôn tu hành nghiệp chánh đáng, giáo hoá chúng sinh, điều phục chúng sinh, khiến cho chúng sinh cải tà quy chánh.

5. Chánh mạng : An trụ tại chánh mạng, tu hành đầu đà khổ hạnh, luôn luôn biết đủ, chẳng khởi tâm tham, oai nghi chỉnh tề, theo đúng như pháp, tất cả phải đoan chánh, tuỳ thuận hạnh bồ đề giác đạo, tu hành bốn bậc Thánh, tức là : Phật, Bồ Tát, Duyên Giác, Thanh Văn, tất cả lỗi lầm đều vĩnh viễn lìa khỏi.

6. Chánh tinh tấn : Siêng tu tất cả khổ hạnh của Bồ Tát tu, chứng nhập vào cảnh giới mười lực không quái ngại của Phật.

7. Chánh niệm : Trong tâm thường phải có ý niệm chánh đáng, đều ghi nhớ tất cả lời nói âm thanh, trừ diệt tâm niệm tán động của thế gian.

8. Chánh định : Tâm thường nhập định chánh đáng, khéo nhập vào môn giải thoát không nghĩ bàn của Bồ Tát, ở trong một thứ tam muội sinh ra tất cả các tam muội.

Nhập chín thứ đệ định, là Bồ Tát đạo. Đó là : Lìa dục sân hại, mà dùng tất cả ngữ nghiệp nói pháp vô ngại. Diệt trừ giác quán, mà dùng nhất thiết trí giác quán giáo hoá chúng sinh. Xả lìa hỉ ái, mà thấy tất cả Phật, tâm đại hoan hỉ. Lìa vui thế gian, mà tuỳ thuận vui xuất thế Bồ Tát đạo. Từ đây bất động nhập vào vô sắc định, mà cũng chẳng bỏ dục sắc thọ sanh. Tuy trụ diệt tất cả tưởng thọ định, mà cũng chẳng ngừng Bồ Tát hạnh.

9. Nhập chín thứ đệ định, là Bồ Tát đạo. Chín thứ đệ định là gì ? Tức là : Tại sắc giới có định căn bản của Tứ Thiền, tại vô sắc giới có định căn bản của Tứ Không Xứ, và diệt thọ tưởng định, còn gọi là diệt tận định. Phải lìa khỏi tâm dục niệm, sân hận, thương hại, mà dùng tất cả lờinghiệp để nói pháp vô ngại. Diệt sạch tiêu trừ tất cả giác quán ác, mà dùng nhất thiết trí huệ giác quán, để giáo hoá tất cả chúng sinh. Xả lìa hoan hỉ và tình ái, mà thấy tất cả chư Phật, tâm sinh đại hoan hỉ. Lìa khỏi tất cả sự vui thế gian, mà tuỳ thuận sự vui xuất thế Bồ Tát đạo. Từ đây bất động nhập vào vô sắc định, mà cũng chẳng bỏ thọ sanh dục giới và sắc giới. Tuy nhiên trụ tại diệt tất cả tưởng thọ định, tư tưởng gì cũng không còn nữa, nhưng cũng chẳng ngừng hạnh của Bồ Tát tu.

Học thập lực của Phật là Bồ Tát đạo. Đó là : Trí khéo biết thị xứ phi xứ. Trí khéo biết nhân quả nghiệp báo của tất cả chúng sinh quá khứ vị lai hiện tại. Trí khéo biết căn thượng trung hạ khác nhau của tất cả chúng sinh, tuỳ nghi thuyết pháp. Trí khéo biết đủ thứ vô lượng tánh của tất cả chúng sinh. Trí khéo biết kiến giải hạ trung thượng khác nhau của tất cả chúng sinh, khiến cho họ vào pháp phương tiện. Trí khắp tất cả thế gian tất cả cõi, tất cả ba đời tất cả kiếp khắp hiện hình tướng oai nghi của Như Lai, mà cũng chẳng bỏ hạnh của Bồ Tát tu. Trí khéo biết tất cả các thiền giải thoát, và các tam muội, hoặc dơ, hoặc sạch, thời với phi thời, phương tiện sinh ra các môn giải thoát của Bồ Tát. Trí biết tất cả chúng sinh, ở trong các loài, chết đây sinh kia khác nhau. Trí ở trong một niệm đều biết tất cả kiếp số ba đời. Trí khéo biết tất cả chúng sinh lạc dục các sử hoặc tập diệt sạch, mà chẳng bỏ các Bồ Tát hạnh. Đó là mười. 

Nếu các Bồ Tát an trụ pháp nầy, thì sẽ đắc đuợc tất cả đạo phương tiện thiện xảo vô thượng của Như Lai.

10. Học thập lực của Phật là Bồ Tát đạo. Thập lực là gì ? Tức là :

1. Khéo biết về đạo lý nầy, đúng hay là không đúng.

2. Khéo biết về đủ thứ nhân quả nghiệp báo của tất cả chúng sinh quá khứ, hiện tại, vị lai.

3. Khéo biết về căn thượng, trung, hạ, khác nhau của tất cả chúng sinh, có thể tuỳ nghi thuyết pháp, giáo hoá chúng sinh.

4. Khéo biết về đủ thứ vô lượng tánh của tất cả chúng sinh.

5. Khéo biết về kiến giải phân biệt thượng, trung, hạ, của tất cả chúng sinh, khiến cho họ nhập vào pháp phương tiện.

6. Có thể đầy khắp tất cả thế gian tất cả cõi nước, tất cả ba đời tất cả cõi nước, khắp thị hiện hình tướng và oai nghi của Như Lai, những vẫn không xả bỏ hạnh của Bồ Tát tu.

7. Khéo biết tất cả các thiền giải thoát và tất cả tam muội, hoặc nhiễm cấu, hoặc là thanh tịnh, hoặc thời, hoặc phi thời. Phương tiện sinh ra tất cả các môn giải thoát của Bồ Tát.

8. Khéo biết về tất cả chúng sinh, ở trong sáu loài, sinh tử không kỳ chấm dứt. Chết ở đây lại sinh về kia, có đủ thứ sự khác nhau.

9. Ở trong một niệm, liền biết tất cả số kiếp ba đời.

10. Khéo biết tất cả chúng sinh, hoan hỉ các dục (tài, sắc, danh, ăn, ngủ, năm dục), các sử (thân, biên, giới, kiến, tà, năm lợi sử, và tham, sân, si, mạn, nghi, năm độn sử), hoặc (kiến tư hoặc, trần sa hoặc, vô minh hoặc), tập khí (tập quán chẳng chánh đáng), có thể diệt chúng sạch hết, nhưng cũng không xả bỏ tất cả hạnh của Bồ Tát tu.

Ở trên là mười thứ đạo của Bồ Tát. Nếu các Bồ Tát an trụ trong pháp nầy, thì sẽ đắc được tất cả đạo thiện xảo phương tiện trí huệ vô thượng của Như Lai.

Các vị thiện tri thức ! Hôm nay (05/05/1978) là ngày Phật Đản. Đức Phật đã thị hiện ra đời cách đây ba ngàn năm tại Ấn Độ. Vì lịch của các nước khác nhau, cho nên ngày tháng cũng có sự khác nhau, không cách gì khảo chứng. Có người chủ trương là ngày nầy, có người chủ trương là ngày kia, ai cũng cho mình đúng. Vậy cứu kính là ngày nào ? Chẳng ai biết rõ. Căn cứ vào chỗ nghĩ của tôi, thì không cần truy cứu ngày nào. Ngày nào chúng ta tưởng nhớ đến ngày Phật đản sinh thì là ngày đó. Bạn không cần phải chấp trước vào ngày đó, vì không dễ gì khảo chứng chắc chắn là ngày nào.

Giữa Nam Tông và Bắc Tông có sự bất đồng về ngày đản sanh của Ðức Phật. Tuy nhiên, bất luận ngày nào, chỉ cần mọi người thành kính tưởng nhớ, trang nghiêm lễ bái, thì ngày đó chính là ngày Ðức Phật đản sanh. Bởi lẽ “pháp vô định pháp,” cho nên dẫu có nghiên cứu riêng về một vấn đề này đến tóc bạc, mắt lòa, cũng vẫn không tìm ra được một đáp án đúng đắn, chỉ lãng phí thì giờ quý báu, như thế thì đáng tiếc biết bao!

Theo đạo Phật, mỗi người nói chung đều có chỗ chấp trước, câu nệ. Người thì chấp trước Phật Giáo Ấn Ðộ, kẻ thì chấp trước Phật Giáo Tích Lan, Phật Giáo Trung Hoa hoặc Phật Giáo Nhật Bản v.v… Chính vì sự chấp trước và quan điểm bất đồng đã khiến cho Phật Giáo trở thành có giới hạn, có ranh giới, và gây nên sự chia rẽ trong Phật Giáo.

Thật ra, Phật Giáo vô lượng vô biên, không hề có một phạm vi nhất định. Do đó, tôi trước sau vẫn chủ trương là không nên vạch ranh giới cho Phật Giáo, mà trái lại, tất cả phải đoàn kết nhất trí, “thế giới một nhà” mới đúng! Tôi vẫn thường nói: “Phật Giáo mà tôi giảng thì không phải là Phật Giáo Ấn Ðộ, cũng chẳng là Phật Giáo Trung Hoa, mà chính là thứ Phật Giáo ‘tận hư không, khắp Pháp Giới!'” Nói rõ hơn thì không có Phật Giáo nào có quốc tịch, không có Phật Giáo nào có chủng tộc, và cũng không có thứ Phật Giáo phân chia nhân, ngã hay ta, người! Không phải chỉ có kẻ tín ngưỡng Phật Giáo mới là đệ tử Phật, mà ngay cả những người không tín ngưỡng Phật Giáo cũng là đệ tử của Phật! Tại sao? Vì Ðức Phật Thích Ca Mâu Ni từng dạy rằng:

Nhất thiết chúng sinh,
Giai hữu Phật tánh,
Giai kham tác Phật!

Nghĩa là:

Tất cả chúng sinh,
Ðều có Phật tánh,
Ðều đặng thành Phật!

Ðiều này chứng tỏ rằng người tin Phật là chúng sinh, mà người không tin Phật cũng là chúng sinh!

– Có người nói: “Tôi không phải là chúng sinh!” Thế thì, thử hỏi: “Bạn không phải là chúng sinh; vậy thì bạn là gì?”

– Có người lại cả quyết: “Tôi tên là Thiên (trời), vậy thì tôi là trời!” Bạn nên biết rằng: “Trời” cũng là một chúng sinh!

– Cũng có người nói: “Tôi tên là Ðịa (đất), vậy thì tôi là đất!” Bạn nên nhớ rằng: “Ðất” cũng là chúng sinh và cũng không vượt ra ngoài vòng chúng sinh!

Tận cùng cõi hư không và khắp cả pháp giới đều là nơi cư ngụ của chúng sinh. Trong mười Pháp Giới, chỉ có Phật Pháp giới là vượt ra ngoài vòng chúng sinh; còn chín pháp giới còn lại (Bồ Tát, Duyên Giác, Thanh Văn, Trời, Người, A Tu La, Súc Sanh, Ngạ Quỷ, Ðịa Ngục) đều thuộc trong vòng chúng sinh, nên đều được gọi là “chúng sinh.”

Chúng ta đều là chúng sinh, thế thì, nếu tôi xem những kẻ không tin theo đạo Phật cũng thuộc về Phật Giáo thì có gì là không công bằng chứ? Ðây chính là tánh cách “toàn thể đại dụng” của Phật Giáo. Ðức Phật dạy rằng:

Nhất thiết chúng sanh giai khả thành Phật!

Nghĩa là :

Tất cả chúng sanh đều có thể thành Phật!

Dù các bạn có tin theo Phật giáo hay không, trong tương lai, tất cả các bạn đều sẽ thành Phật! Tại sao? Vì các bạn chạy không khỏi cái vòng chúng sinh! Người nào hiện tại không tin Phật, thì tương lai sẽ tin Phật; đời này không tin Phật; thì đời sau có thể sẽ tin Phật, nói tóm lại là mọi người rồi sẽ tin Phật, do đó mà tất cả chúng sinh đều được xem như đệ tử của Phật.

Hiện nay có tôn giáo không giảng đạo lý, cứ quả quyết rằng: “Chỉ có một vị Thần độc nhất vô nhị, có thể làm chủ tể thế giới, sáng tạo thế giới, và khống chế vũ trụ mà thôi. Con người thì không có tư cách làm Thần, mà chỉ có thể làm nô lệ cho Thần và chịu sự chi phối của Thần!” Thứ lý luận này rất tương phản với tông chỉ của Phật Giáo!

Theo tông chỉ của Phật Giáo thì ai ai cũng có thể thành Phật được cả. Các chúng sanh đời hiện tại, chính là cha mẹ của chúng ta trong đời quá khứ và là những vị Phật trong tương lai. Nếu chúng ta sinh lòng sân hận đối với chúng sinh, thì cũng như sân hận đối với cha mẹ mình và chư Phật; và như thế tức là chúng ta trở thành những kẻ bất hiếu, đại nghịch! Do vậy, đối với chúng sinh thì chúng ta cần phải từ bi, kính trọng. Giữa người với người thì nên đối đãi một cách chân thành và sẵn sàng giúp đỡ lẫn nhau; chứ đừng chướng ngại, đố kỵ nhau. Ðó là điểm vĩ đại nhất của đạo Phật.

Hôm nay các bạn đến Vạn Phật Thánh Thành tham gia Lễ Tắm Phật, thì tôi xem các bạn như là đệ tử của Phật, mà không cần biết các bạn có tin Phật hay không, có tắm Phật hay không! Người tín ngưỡng Thiên Chúa tôi cũng kể như đệ tử của Phật, người tín ngưỡng Giê-su tôi cũng coi là đệ tử của Phật. Ngay cả những người tín ngưỡng Do Thái giáo, hoặc Hồi giáo v.v… Tôi cũng đều xem họ như đệ tử của Phật. Tôi tuyệt nhiên không hề xem các bạn là “người ngoài” đối với Phật giáo. Tất cả mọi người đều là một nhà, cùng chung một gia đình, không phân biệt người này kẻ nọ. Các bạn xem, Phật giáo hoàn toàn không có tư tưởng bài xích tôn giáo khác, thật là vĩ đại biết bao!

Phật tử ! Đại Bồ Tát có vô lượng đạo, vô lượng trợ đạo, vô lượng tu đạo, vô lượng trang nghiêm đạo.

Các vị đệ tử của Phật ! Đại Bồ Tát có vô lượng vô biên đạo phải tu hành, lại có vô lượng vô biên trợ đạo phải tu hành, lại có vô lượng vô biên tu đạo phải tu hành, lại có vô lượng vô biên trang nghiêm đạo phải tu hành. Hai đạo ở trước là Ngũ địa (Nan Thắng Địa), tu đạo là Lục địa (Hiện Tiền Địa), trang nghiêm đạo là Thất địa (Viễn Hành Địa).

Phật tử ! Đại Bồ Tát có mười thứ vô lượng đạo. Những gì là mười ? 

Đó là : Vì hư không vô lượng, nên Bồ Tát đạo cũng vô lượng. Vì pháp giới vô biên, nên Bồ Tát đạo cũng vô lượng. Vì cõi chúng sinh vô tận, nên Bồ Tát đạo cũng vô lượng. Vì thế giới không bờ mé, nên Bồ Tát đạo cũng vô lượng. Vì kiếp số không thể tận, nên Bồ Tát đạo cũng vô lượng. Vì pháp ngôn ngữ của tất cả chúng sinh vô lượng, nên Bồ Tát đạo cũng vô lượng. Vì thân Như Lai vô lượng, nên Bồ Tát đạo cũng vô lượng. Vì âm thanh của Phật vô lượng, nên Bồ Tát đạo cũng vô lượng. Vì lực của Như Lai vô lượng, nên Bồ Tát đạo cũng vô lượng. Vì trí Nhất Thiết Trí vô lượng, nên Bồ Tát đạo cũng vô lượng. Đó là mười.

Các vị đệ tử của Phật ! Đại Bồ Tát có mười thứ vô lượng đạo. Những gì là mười ? Đó là :

1. Vì hư không vô lượng, nên Bồ Tát đạo cũng vô lượng.
2. Vì pháp giới vô biên, nên Bồ Tát đạo cũng vô lượng.
3. Vì cõi chúng sinh vô tận, nên Bồ Tát đạo cũng vô lượng.
4. Vì thế giới không bờ mé, nên Bồ Tát đạo cũng vô lượng.
5. Vì kiếp số không thể tận, nên Bồ Tát đạo cũng vô lượng.
6. Vì pháp ngôn ngữ của tất cả chúng sinh vô lượng, nên Bồ Tát đạo cũng vô lượng.
7. Vì thân Như Lai vô lượng, nên Bồ Tát đạo cũng vô lượng.
8. Vì âm thanh của Phật vô lượng, nên Bồ Tát đạo cũng vô lượng.
9. Vì lực của Như Lai vô lượng, nên Bồ Tát đạo cũng vô lượng.
10. Vì trí huệ Nhất Thiết Trí vô lượng, nên Bồ Tát đạo cũng vô lượng.

Đó là mười thứ đạo vô lượng của Bồ Tát.

Phật tử ! Đại Bồ Tát có mười thứ vô lượng trợ đạo. 

Đó là : Như cõi hư không vô lượng, Bồ Tát tích tập trợ đạo cũng vô lượng. 

Như pháp giới vô biên, Bồ Tát tích tập trợ đạo cũng vô biên. 

Như cõi chúng sinh vô tận, Bồ Tát tích tập trợ đạo cũng vô tận. 

Như thế giới không bờ mé, Bồ Tát tích tập trợ đạo cũng không bờ mé. 

Như kiếp số nói không hết được, Bồ Tát tích tập trợ đạo tất cả thế gian cũng nói không hết được. 

Như pháp lời nói của chúng sinh vô lượng, Bồ Tát tích tập trợ đạo sinh ra trí huệ biết pháp lời nói cũng vô lượng. 

Như thân Như Lai vô lượng, Bồ Tát tích tập trợ đạo khắp tất cả chúng sinh, tất cả cõi, tất cả thế giới, tất cả kiếp, cũng vô lượng. 

Như âm thanh của Phật vô lượng, Bồ Tát vang ra một tiếng nói khắp cùng pháp giới, tất cả chúng sinh thảy đều nghe biết, tích tập trợ đạo cũng vô lượng. 

Như Phật lực vô lượng, Bồ Tát thừa lực Như Lai tích tập trợ đạo cũng vô lượng. 

Như trí Nhất thiết trí vô lượng, Bồ Tát tích tập trợ đạo cũng vô lượng như vậy. Đó là mười. 

Nếu các Bồ Tát an trụ pháp nầy, thì sẽ được vô lượng trí huệ của Như Lai.

Các vị đệ tử của Phật ! Đại Bồ Tát có mười thứ vô lượng trợ đạo. Đó là :

1. Như cõi hư không vô lượng, Bồ Tát tích tập pháp trợ đạo cũng vô lượng.
2. Như pháp giới vô biên, Bồ Tát tích tập pháp trợ đạo cũng vô biên.
3. Như cõi chúng sinh vô tận, Bồ Tát tích tập pháp trợ đạo cũng vô tận.
4. Như thế giới không bờ mé, Bồ Tát tích tập pháp trợ đạo cũng không bờ mé.
5. Như kiếp số nói không hết được, Bồ Tát tích tập pháp trợ đạo tất cả thế gian cũng nói không hết được.
6. Như pháp lời nói của chúng sinh vô lượng, Bồ Tát tích tập pháp trợ đạo sinh ra trí huệ biết pháp lời nói cũng vô lượng.
7. Như thân Như Lai vô lượng, Bồ Tát tích tập pháp trợ đạo khắp tất cả chúng sinh, tất cả cõi, tất cả thế giới, tất cả kiếp số, cũng vô lượng.
8. Như âm thanh của Phật vô lượng, Bồ Tát vang ra một tiếng nói khắp cùng pháp giới, tất cả chúng sinh thảy đều nghe biết, tích tập pháp trợ đạo cũng vô lượng.
9. Như Phật lực vô lượng, Bồ Tát thừa lực Như Lai tích tập trợ đạo cũng vô lượng.
10. Như trí Nhất thiết trí vô lượng, Bồ Tát tích tập trợ đạo cũng vô lượng như vậy.

Đó là mười thứ pháp vô lượng trợ đạo. Nếu các Bồ Tát an trụ trong pháp nầy, thì sẽ đắc được vô lượng trí huệ của Như Lai.

Phật tử ! Đại Bồ Tát có mười thứ vô lượng tu đạo. Những gì là mười ? 

Đó là : Tu chẳng đến, chẳng đi, vì thân miệng ý nghiệp không động tác. Tu chẳng tăng, chẳng giảm, vì như bổn tánh. Tu chẳng có, chẳng không, vì không có tự tánh. Tu như huyễn, như mộng, như bóng, như vang, như hình, trong gương, như ánh nắng khi trời nóng, như trăng trong nước, vì lìa tất cả sự chấp trước. Tu không, vô tướng, vô nguyện, vô tác, vì thấy rõ ba cõi mà tích tập phước đức không ngừng nghỉ. Tu bất khả thuyết, không lời nói, lìa lời nói, vì xa lìa pháp thi thiết an lập. Tu chẳng hoại pháp giới, vì trí huệ hiện biết tất cả pháp. Tu chẳng hoại chân như thật tế, vì vào khắp chân như thật tế bờ mé hư không. Tu trí huệ rộng lớn, vì hết thảy việc làm sức lực vô tận. Tu trụ Như Lai thập lực bốn vô sở uý nhất thiết trí bình đẳng, vì hiện thấy tất cả pháp không nghi hoặc. Đó là mười. 

Nếu các Bồ Tát an trụ pháp nầy, thì sẽ đắc được tu nhất thiết trí vô thượng thiện xảo của Như Lai.

Các vị đệ tử của Phật ! Đại Bồ Tát có mười thứ vô lượng tu đạo. Những gì là mười ? Đó là :

1. Tu đạo chẳng đến, chẳng đi, vì thân miệng ý nghiệp không động tác.
2. Tu đạo chẳng tăng, chẳng giảm, vì như bổn tánh.
3. Tu đạo chẳng có, chẳng không, vì không có tự tánh.
4. Tu đạo như huyễn, như mộng, như bóng, như vang, như hình trong gương, như ánh nắng khi trời nóng, như trăng trong nước, vì lìa tất cả sự chấp trước.
5. Tu đạo không, vô tướng, vô nguyện, vô tác, vì thấy rõ ba cõi mà tích tập phước đức không ngừng nghỉ.
6. Tu đạo bất khả thuyết, không lời nói, lìa lời nói, vì xa lìa pháp thi thiết an lập.
7. Tu đạo chẳng hoại pháp giới, vì trí huệ hiện biết tất cả pháp.
8. Tu đạo chẳng hoại chân như thật tế, vì vào khắp chân như thật tế và bờ mé hư không.
9. Tu đạo trí huệ rộng lớn, vì hết thảy việc làm sức lực vô tận.
10. Tu đạo trụ Như Lai thập lực và bốn vô sở uý, nhất thiết trí bình đẳng, vì hiện thấy tất cả pháp không nghi hoặc.

Đó là mười pháp vô lượng tu đạo của Bồ Tát. Nếu các Bồ Tát an trụ trong pháp nầy, thì sẽ đắc được tu nhất thiết trí vô thượng thiện xảo của Như Lai.

Phật tử ! Đại Bồ Tát có mười thứ trang nghiêm đạo. Những gì là mười ? 

Phật tử ! Đại Bồ Tát không lìa dục giới, mà nhập vào thiền định giải thoát và các tam muội của sắc giới vô sắc giới, cũng chẳng do vậy mà thọ sanh ở đó. Đó là trang nghiêm đạo thứ nhất. 

Trí huệ hiện tiền nhập vào Thanh Văn đạo, chẳng dùng đạo nầy mà lấy xuất ly. Đó là trang nghiêm đạo thứ hai. 

Trí huệ hiện tiền nhập Bích Chi Phật đạo, mà khởi đại bi không ngừng nghỉ. Đó là trang nghiêm đạo thứ ba.

Tuy có quyến thuộc trời người vây quanh, trăm ngàn thể nữ ca múa hầu hạ, mà chưa từng tạm xả thiền định giải thoát và các tam muội. Đó là trang nghiêm đạo thứ tư.

Với tất cả chúng sinh thọ các dục lạc cùng vui chơi với nhau, mà vẫn chưa từng trong khoảng một niệm xả lìa Bồ Tát tam muội bình đẳng. Đó là trang nghiêm đạo thứ năm.

Các vị đệ tử của Phật ! Đại Bồ Tát có mười thứ trang nghiêm đạo. Những gì là mười ?

1. Phật tử ! Đại Bồ Tát không cần lìa khỏi dục giới, mà có thể nhập vào thiền định giải thoát và các tam muội của sắc giới và vô sắc giới, ở đó nhập vào thiền định giải thoát và các tam muội, cũng chẳng do vậy mà thọ sinh ở sắc giới và vô sắc giới. Đó là trang nghiêm đạo thứ nhất.

2. Trí huệ hiện tiền nhập vào Thanh Văn đạo, nhưng chẳng dùng đạo nầy mà lấy xuất ly ba cõi. Đó là trang nghiêm đạo thứ hai.

3. Trí huệ hiện tiền nhập vào Bích Chi Phật đạo, mà sinh khởi tâm đại bi, phổ độ chúng sinh, không khi nào ngừng nghỉ. Đó là trang nghiêm đạo thứ ba.

4. Tuy có quyến thuộc trời người vây quanh, lại có trăm ngàn thể nữ, hoặc ca múa, hoặc hầu hạ, mà chưa từng tạm xả lìa thiền định giải thoát và các tam muội. Đó là trang nghiêm đạo thứ tư.

5. Với tất cả chúng sinh thọ các dục lạc, đại chúng cùng vui chơi với nhau, mà vẫn chưa từng trong khoảng một niệm tạm xả lìa Bồ Tát tam muội bình đẳng. Đó là trang nghiêm đạo thứ năm.

Đã đến bờ bên kia của tất cả thế gian, nơi các pháp thế gian đều không nhiễm trước, mà cũng chẳng bỏ hạnh độ chúng sinh. Đó là trang nghiêm đạo thứ sáu.
An trụ trong chánh đạo, chánh trí, chánh kiến, mà hay thị hiện vào tất cả tà đạo, chẳng lấy làm thật, chẳng chấp làm tịnh, khiến cho chúng sinh đó xa lìa tà pháp. Đó là trang nghiêm đạo thứ bảy.

Thường khéo hộ trì tịnh giới của Như Lai, thân lời ý nghiệp không có các lỗi lầm. Vì muốn giáo hoá chúng sinh phạm giới, mà thị hiện hành tất cả hạnh của phàm phu ngu si. Tuy đã đầy đủ phước đức thanh tịnh trụ cõi Bồ Tát, mà thị hiện sinh nơi tất cả địa ngục, súc sinh, ngạ quỷ, và các nơi hiểm nạn bần cùng, khiến cho chúng sinh đều được giải thoát, mà thật Bồ Tát chẳng sinh cõi đó. Đó là trang nghiêm đạo thứ tám.

6. Đã đến được bờ bên kia của tất cả thế gian, đối với tất cả pháp thế gian hoàn toàn không nhiễm trước, mà cũng chẳng bỏ hạnh độ chúng sinh. Đó là trang nghiêm đạo thứ sáu.

7. An trụ trong chánh đạo, chánh trí, chánh kiến, mà hay thị hiện vào tất cả tà đạo, nhưng chẳng lấy làm thật, cũng chẳng chấp làm tịnh. Tại sao vậy ? Vì hiện thân thuyết pháp, khiến cho tất cả chúng sinh đó xa lìa tà pháp. Đó là trang nghiêm đạo thứ bảy.

8. Thường khéo hộ trì tịnh giới của Như Lai, khiến cho thân lời ý ba nghiệp hoàn toàn không có các lỗi lầm. Vì muốn giáo hoá chúng sinh phạm giới, mà thị hiện làm tất cả việc làm của phàm phu ngu si. Tuy đã đầy đủ phước đức thanh tịnh, trụ trong cõi Bồ Tát, mà thị hiện thọ sinh nơi tất cả địa ngục, súc sinh, ngạ quỷ, và các nơi hiểm nạn bần cùng, khiến cho chúng sinh đều được giải thoát, mà thật Bồ Tát chẳng sinh ở trong cõi đó, bất quá chỉ là thị hiện thọ sinh mà thôi. Đó là trang nghiêm đạo thứ tám.

Chẳng do người khác dạy, mà được vô ngại biện tài, trí huệ quang minh, chiếu sáng khắp tất cả Phật pháp, được tất cả Như Lai thần lực gia trì. Với tất cả chư Phật đồng một pháp thân, thành tựu tất cả mật pháp kiên cố đại nhân minh tịnh. An trụ tất cả các thừa bình đẳng, cảnh giới chư Phật đều hiện ở trước, đầy đủ tất cả thế trí quang minh, chiếu thấy tất cả các cõi chúng sinh. Hay vì chúng sinh làm tri pháp sư, mà thị hiện cầu chánh pháp chưa từng ngừng nghỉ. Tuy thật với chúng sinh làm vô thượng sư, mà thị hiện tôn kính hoà thượng A xà lê. Tại sao ? Vì đại Bồ Tát thiện xảo phương tiện trụ Bồ Tát đạo, tuỳ sự ứng hoá đều vì họ thị hiện. Đó là trang nghiêm đạo thứ chín.

9. Chẳng do người khác dạy, mà được vô ngại biện tài, trí huệ quang minh, chiếu sáng khắp tất cả Phật pháp, được tất cả Như Lai thần lực gia trì, với tất cả chư Phật mười phương ba đời đồng một pháp thân. Thành tựu tất cả mật pháp kiên cố đại nhân minh tịnh. An trụ trong tất cả các thừa bình đẳng, cảnh giới của tất cả chư Phật đều hiện ở trước, đầy đủ tất cả trí huệ quang minh thế gian, chiếu thấy tất cả các cõi chúng sinh. Hay vì chúng sinh làm tri pháp sư, phàm là những sự lý mà chúng sinh không biết, thì Ngài đều biết, mà thị hiện cầu chánh pháp chưa từng khi nào ngừng nghỉ. Tuy thật tế làm vô thượng sư của chúng sinh, mà thị hiện tôn kính hoà thượng A xà lê. Tại sao vậy? Vì đại Bồ Tát có trí huệ thiện xảo phương tiện trụ Bồ Tát đạo, tuỳ sự ứng hoá đều vì họ thị hiện. Đó là trang nghiêm đạo thứ chín.

Căn lành đầy đủ, các hạnh rốt ráo. Được tất cả Như Lai cùng quán đảnh. Đến được bờ bên kia tất cả các pháp tự tại. Lụa pháp vô ngại dùng làm mão đội trên đầu. Thân của Bồ Tát đến khắp tất cả thế giới. Khắp hiện thân vô ngại của Như Lai. 

Nơi pháp tự tại rốt ráo tối thượng, chuyển bánh xe pháp thanh tịnh vô ngại. Pháp tự tại của tất cả Bồ Tát, đều đã thành tựu. Do vì chúng sinh, mà ở trong tất cả cõi nước thị hiện thọ sinh. Với chư Phật ba đời đồng một cảnh giới, mà chẳng bỏ Bồ Tát hạnh. Chẳng bỏ pháp của Bồ Tát, chẳng giải đãi nghiệp của Bồ Tát, chẳng lìa Bồ Tát đạo, chẳng thả lỏng oai nghi của Bồ Tát, chẳng đoạn tuyệt thủ lấy của Bồ Tát, chẳng ngừng thiện xảo phương tiện của Bồ Tát, chẳng dứt hẳn việc làm của Bồ Tát, chẳng nhàm sinh thành dụng của Bồ Tát, chẳng ngừng trụ trì lực của Bồ Tát. Tại sao ? Vì Bồ Tát muốn sớm chứng đắc A nậu đa la tam miệu tam bồ đề, quán tất cả môn trí huệ, tu Bồ Tát hạnh không ngừng nghỉ. Đó là trang nghiêm đạo thứ mười.

10. Căn lành của Bồ Tát đã đầy đủ, các hạnh của Bồ Tát đều đã rốt ráo. Được tất cả mười phương chư Phật cùng quán đảnh cho Ngài. Đến được bờ bên kia tất cả các pháp tự tại, dùng lụa pháp vô ngại làm mũ đội trên đầu. Thân của Bồ Tát đến khắp tất cả thế giới, khắp hiện thân vô ngại của Như Lai. Đối với tất cả pháp tự tại rốt ráo tối thượng, thường chuyển bánh xe pháp thanh tịnh vô ngại. Pháp tự tại của tất cả Bồ Tát, đều đã thành tựu. Vì hoá độ tất cả chúng sinh, mà ở trong tất cả cõi nước thị hiện thọ sinh. Với chư Phật ba đời đồng một cảnh giới, mà chẳng bỏ Bồ Tát hạnh, chẳng bỏ pháp của Bồ Tát, chẳng giải đãi nghiệp của Bồ Tát, chẳng lìa Bồ Tát đạo, chẳng thả lỏng oai nghi của Bồ Tát, chẳng đoạn tuyệt thủ lấy của Bồ Tát, chẳng ngừng thiện xảo phương tiện của Bồ Tát, chẳng dứt hẳn việc làm của Bồ Tát, chẳng nhàm chán sinh thành dụng của Bồ Tát, chẳng ngừng trụ trì lực của Bồ Tát. Tại sao vậy? Vì Bồ Tát muốn sớm chứng được A nậu đa la tam miệu tam bồ đề, quán tất cả môn trí huệ, tu Bồ Tát hạnh không ngừng nghỉ. Đó là trang nghiêm đạo thứ mười.

Nếu các Bồ Tát an trụ pháp nầy, thì sẽ đắc được đại trang nghiêm đạo vô thượng của Như Lai, cũng chẳng xả bỏ Bồ Tát đạo.

Nếu các Bồ Tát an trụ trong pháp nầy, thì sẽ đắc được đại trang nghiêm đạo vô thượng của Như Lai, cũng chẳng xả bỏ Bồ Tát đạo.

Phật tử ! Đại Bồ Tát có mười thứ chân. Những gì là mười ? 

Đó là : Chân trì giới, vì đại nguyện thù thắng đều thành tựu viên mãn. Chân tinh tấn, vì tích tập tất cả pháp bồ đề phần chẳng thối chuyển. Chân thần thông, vì tuỳ sự ham muốn của chúng sinh, khiến cho họ hoan hỉ. Chân thần lực, vì chẳng lìa một cõi Phật, mà đến tất cả cõi Phật. Chân tâm sâu, vì nguyện cầu tất cả pháp thù thắng. Chân kiên thệ, vì tất cả việc làm đều rốt ráo. Chân tuỳ thuận, vì chẳng trái với lời dạy của tất cả tôn giả. Chân lạc pháp, vì văn trì tất cả pháp của Phật nói, chẳng lười mỏi. Chân pháp vũ, vì chúng diễn nói pháp không khiếp nhược. Chân tu hành, vì tất cả các ác đều xa lìa. Đó là mười. 

Nếu các Bồ Tát an trụ pháp nầy, thì sẽ đắc được chân tối thắng vô thượng của Như Lai. Nếu một khi cất chân lên, đều có thể đến khắp tất cả thế giới.

Các vị đệ tử của Phật ! Đại Bồ Tát có mười thứ chân. Những gì là mười ? Đó là :

1. Chân trì giới, hết thảy đại nguyện thù thắng đều thành tựu viên mãn.

2. Chân tinh tấn, tích tập tất cả pháp bồ đề phần, tức là bảy giác chi : Trạch pháp giác chi, tinh tấn giác chi, hỉ giác chi, khinh an giác chi, niệm giác chi, định giác chi, hạnh xả giác chi, tích tụ lại với nhau, chẳng thối chuyển pháp bồ đề phần.

3. Chân thần thông, hay tuỳ thuận sự ham muốn của tất cả chúng sinh, khiến cho họ được đầy đủ, mà sinh hoan hỉ.

4. Chân thần lực, vì có sức thần lực, nên chẳng cần lìa khỏi một cõi Phật, mà có thể đi đến tất cả cõi Phật.

5. Chân tâm sâu, phát đại thệ nguyện cầu tất cả pháp thù thắng, từ chỗ cạn mà vào chỗ sâu, từ chỗ sâu lại đến pháp môn thù thắng.

6. Chân kiên thệ, bất cứ làm việc gì, phải có thệ nguyện kiên cố, mới có thể đến được nơi rốt ráo.

7. Chân tuỳ thuận, phải tuỳ thuận lời dạy của tất cả bậc tôn túc, tuỳ thuận pháp môn của tất cả các vị tôn giả nói, y theo pháp mà tu hành, đừng trái với lời dạy của tất cả bậc Thánh nhân. Bao quát pháp của chư Phật nói, pháp của Bồ Tát nói, pháp của pháp sư nói, pháp của thiện tri thức nói.

8. Chân lạc pháp, văn trì tất cả pháp của chư Phật nói, vĩnh viễn không giải đãi lười biếng.

9. Chân pháp vũ, vì tất cả chúng sinh diễn nói Phật pháp không khiếp nhược.

10. Chân tu hành, đối với tất cả các điều ác đều xa lìa. Do đó có câu : « Không làm các điều ác, hãy làm các điều lành ». Đó là pháp căn bản tu hành. Đó là mười thứ chân của Bồ Tát.
Nếu các Bồ Tát an trụ trong pháp nầy, thì sẽ đắc được chân tối thù thắng vô thượng của Như Lai. Nếu một khi cất chân lên, đều có thể đến khắp tất cả thế giới.

Phật tử ! Đại Bồ Tát có mười thứ tay. Những gì là mười ? 

Đó là : Tay tin sâu, vì đối với lời của Phật nói, một lòng nhẫn nại, rốt ráo thọ trì. Tay bố thí, vì có ai đến cầu xin, tuỳ theo chỗ họ muốn, đều khiến cho được đầy đủ. Tay hỏi thăm trước, vì dơ tay phải nghênh tiếp nhau. Tay cúng dường chư Phật, vì tích tập phước đức, không nhàm mỏi. Tay đa văn thiện xảo, vì đều dứt trì nghi hoặc của tất cả chúng sinh. Tay khiến cho thoát ba cõi, vì hay trợ giúp chúng sinh vượt khỏi bùn ái dục. Tay đặt để nơi bờ kia, vì cứu chúng sinh chìm trong bốn dòng nước xoáy. Tay chẳng xẻn chánh pháp, vì hết thảy diệu pháp thảy đều khai thị. Tay khéo dùng các luận, vì dùng thuốc trí huệ, diệt trừ bệnh thân tâm. Tay luôn giữ trí báu, vì khai pháp quang minh, phá tối phiền não. Đó là mười. 
Nếu các Bồ Tát an trụ pháp nầy, thì sẽ đắc được tay vô thượng của Như Lai, che khắp mười phương tất cả thế giới.

Các vị đệ tử của Phật ! Đại Bồ Tát có mười thứ tay. Những gì là mười ? Đó là :

1. Tay tin sâu, vì đối với lời của Phật nói, bất cứ pháp không hiểu như thế nào, vẫn một lòng nhẫn nại nơi tâm, thọ trì nơi thân.

2. Tay bố thí, vì có ai đến cầu xin tất cả tài vật, thì Bồ Tát đều tuỳ theo chỗ họ muốn, đều bố thí khiến cho được đầy đủ.

3. Tay hỏi thăm trước, vì khi gặp người thì trước hết chào hỏi người đó, không đợi người đó chào hỏi mình. Chủ động dơ tay phải nghênh tiếp họ, dẫn dắt họ, biểu thị có sự lễ nghĩa. Giống như bây giờ, khi gặp nhau thì bắt tay với nhau.

4. Tay cúng dường chư Phật, vì tích tập phước đức, để cúng dường chư Phật, không khi nào nhàm mỏi.

5. Tay đa văn thiện xảo, vì bát học đa văn hay dứt trừ nghi hoặc của tất cả chúng sinh, giải đáp mọi vấn nạn.

6. Tay khiến cho thoát ba cõi, vì hay trợ giúp chúng sinh vượt khỏi khổ bùn ái dục, thoát khỏi ba cõi, chấm dứt sinh tử.

7. Tay đặt để nơi bờ kia, vì cứu chúng sinh chìm trong bốn dòng nước xoáy (Kiến lưu, dục lưu, hữu lưu, vô minh lưu), cứu ra khỏi biển khổ.

8. Tay chẳng xẻn chánh pháp, vì hết thảy diệu pháp thảy đều khai thị cho chúng sinh, tuyệt đối chẳng xẻn tiếc pháp thí.

9. Tay khéo dùng các luận, vì dùng thuốc trí huệ, diệt trừ bệnh thân tâm của chúng sinh.

10. Tay luôn giữ trí báu, vì khai pháp quang minh, phá tối phiền não của chúng sinh.

Đó là mười thứ tay của Bồ Tát. Nếu các Bồ Tát an trụ trong pháp nầy, thì sẽ đắc được tay vô thượng của Như Lai, che khắp mười phương tất cả thế giới.

Phật tử ! Đại Bồ Tát có mười thứ bụng : Những gì là mười ? 

Đó là : Bụng lìa dua vạy, vì tâm thanh tịnh. Bụng lìa huyễn nguỵ, vì tánh ngay thẳng. Bụng lìa hư giả, vì không hiểm dối. Bụng không dối đoạt, vì đối với tất cả vật đều không tham. Bụng dứt phiền não, vì đủ trí huệ. Bụng tâm thanh tịnh, vì lìa các ác. Bụng quán sát ăn uống, vì niệm pháp như thật. Bụng quán sát không làm, vì giác ngộ duyên khởi. Bụng giác ngộ tất cả đạo xuất ly, vì khéo thành tựu thâm tâm. Bụng xa lìa tất cả dơ bẩn biên kiến, vì khiến cho tất cả chúng sinh được nhập vào bụng Phật. Đó là mười. 

Nếu các Bồ Tát an trụ pháp nầy, thì sẽ đắc được bụng rộng lớn vô thượng của Như Lai, đều có thể dung thọ tất cả chúng sinh.

Các vị đệ tử của Phật ! Đại Bồ Tát có mười thứ bụng : Những gì là mười ? Đó là :

1. Bụng lìa dua vạy, dua là thấy người giàu thì nói lời nịnh bợ, vạy là gặp người chẳng nói lời ngay thẳng. Bồ Tát xa lìa thứ hành vi nầy, cho nên trong tâm rất thanh tịnh.

2. Bụng lìa huyễn nguỵ, huyễn là hư huyễn chẳng thật, nguỵ là hư nguỵ chẳng chân. Bồ Tát xa lìa huyễn nguỵ, cho nên tâm tánh ngay thẳng.

3. Bụng lìa hư giả, Bồ Tát chẳng có nguy hiểm khi dối, phàm nói ra lời gì cũng đều chân thật, khiến cho mọi người tin.

4. Bụng không dối đoạt, Bồ Tát chẳng có tâm gian dối tranh đoạt, đối với tất cả tài vật, đều không có lòng tham cầu.

5. Bụng dứt phiền não, vì đủ nhất thiết trí huệ, cho nên dứt được tất cả phiền não.

6. Bụng tâm thanh tịnh, vì lìa tất cả ác niệm, sinh ra tất cả thiện niệm.

7. Bụng quán sát ăn uống, vì niệm niệm chẳng quên pháp như thật, tức cũng là pháp chân thật liễu nghĩa.

8. Bụng quán sát không làm, vì hay giác ngộ tất cả pháp, đều từ duyên khởi. Do đó có câu :

« Các pháp do duyên sinh
Các pháp do duyên diệt
Phật ta đại Sa Môn
Thường hay nói như thế ».

9. Bụng giác ngộ tất cả đạo xuất ly, vì khéo thành tựu thâm tâm, khiến cho thân tâm của tất cả chúng sinh, đều được thành thục.

10. Bụng xa lìa tất cả dơ bẩn biên kiến, vì hay khiến cho tất cả chúng sinh được vào trong bụng của Phật, tức cũng là hay xa lìa sự dơ bẩn của thân biên giới kiến tà, liền đắc được trí huệ của Phật.

Đó là mười thứ bụng của Bồ Tát. Nếu các Bồ Tát an trụ trong pháp nầy, thì sẽ đắc được bụng rộng lớn vô thượng của Như Lai, đều có thể dung thọ tất cả chúng sinh. Chúng sinh vốn ở trong bụng của Phật, bất quá chúng sinh chẳng biết mà thôi.

Phật tử ! Đại Bồ Tát có mười thứ tạng. Những gì là mười ? 

Đó là : Chẳng dứt giống Phật là tạng của Bồ Tát, vì khai thị Phật pháp vô lượng oai đức. 

Tăng trưởng giống pháp là tạng của Bồ Tát, vì sinh ra trí huệ quang minh rộng lớn. 

Trụ trì giống Tăng là tạng của Bồ Tát, vì khiến cho được vào bánh xe pháp bất thối. 

Giác ngộ chúng sinh chánh định là tạng của Bồ Tát, vì khéo tuỳ thời không sai một niệm. 

Rốt ráo thành thục chúng sinh bất định là tạng của Bồ Tát, vì khiến cho nhân liên tục không có gián đoạn. 

Vì chúng sinh tà định phát khởi đại bi là tạng của Bồ Tát, vì khiến cho nhân vị lai, đều được thành tựu. 

Đủ mười lực của Phật nhân không thể hoại là tạng của Bồ Tát, vì đủ căn lành vô đối hàng phục ma quân. 

Tối thắng vô uý đại sư tử hống là tạng của Bồ Tát, vì khiến cho tất cả chúng sinh đều hoan hỉ. 

Được mười tám pháp bất cộng của Phật là tạng của Bồ Tát, vì trí huệ vào khắp tất cả mọi nơi. 

Khắp biết rõ tất cả chúng sinh, tất cả cõi, tất cả pháp, tất cả Phật, là tạng của Bồ Tát, vì ở trong một niệm đều thấy rõ. Đó là mười. 

Nếu các Bồ Tát an trụ pháp nầy, thì sẽ đắc được tạng đại trí huệ vô thượng căn lành không thể hoại của Như Lai.

Các vị đệ tử của Phật ! Đại Bồ Tát có mười thứ tạng. Những gì là mười ? Đó là :

1. Chẳng dứt hạt giống Phật là bảo tạng của Bồ Tát, vì tiếp tục huệ mạng của Phật, khai thị Phật pháp có vô lượng oai đức.

2. Tăng trưởng hạt giống pháp là bảo tạng của Bồ Tát, vì sinh ra trí huệ quang minh rộng lớn.

3. Trụ trì hạt giống Tăng là bảo tạng của Bồ Tát, vì khiến cho họ được vào bánh xe pháp không thối chuyển.

4. Giác ngộ chúng sinh chánh định là bảo tạng của Bồ Tát, vì khéo tuỳ thời vì tất cả chúng sinh thuyết pháp, không sai một niệm. Tóm lại, chúng sinh cơ duyên thành thục, đáng được hoá độ, thì liền độ thoát. Chúng sinh cơ duyên chưa thành thục, thì tạm thời không độ, tương lai sẽ độ.

5. Rốt ráo thành thục chúng sinh bất định là bảo tạng của Bồ Tát, vì khiến cho nhân liên tục không gián đoạn, khiến cho chúng sinh phát tâm bồ đề.

6. Vì chúng sinh tà định. Tà định tức là định không chánh đáng. Hoan hỉ pháp ngoại đạo, thì có tư tưởng tà tri tà kiến. Như ở trong định, đi khắp nơi nghe người khác nói chuyện, lắng nghe rất rõ ràng. Hoặc ở trong định, đi khắp nơi trộm cắp đồ vật của người khác. Đó tức là tà định. Tóm lại, phàm là ở trong định có tư tưởng và hành vi nhiễm ô, tức là tà định. Bồ Tát phát khởi tâm đại bi thương xót chúng sinh hành vi bất chánh, là bảo tạng của Bồ Tát, vì khiến cho tất cả chúng sinh chưa trồng nhân bồ đề vị lai, đều được viên mãn thành tựu.

7. Đủ mười lực của Phật nhân không thể hoại là bảo tạng của Bồ Tát, vì đủ căn lành vô đối hàng phục tất cả ma quân.

8. Tối thắng vô uý đại sư tử hống là bảo tạng của Bồ Tát, vì khiến cho tất cả chúng sinh nghe được đều sinh hoan hỉ.

9. Được mười tám pháp bất cộng của Phật là bảo tạng của Bồ Tát. Mười tám pháp bất cộng là: Thân không lỗi, miệng không lỗi, niệm không lỗi, vô dị tưởng, vô bất định tâm, vô bất tri kỷ xả, dục không giảm, tinh tấn không giảm, niệm không giảm, huệ không giảm, giải thoát không giảm, giải thoát tri kiến không giảm, tất cả thân nghiệp tuỳ trí huệ hành, tất cả miệng nghiệp tuỳ trí huệ hành, tất cả ý nghiệp tuỳ trí huệ hành, trí huệ biết đời quá khứ vô ngại, trí huệ biết đời vị lai vô ngại, trí huệ biết đời hiện tại vô ngại. Pháp nầy giữa Phật, Bồ Tát, và Thanh Văn khác nhau, nên gọi là bất cộng. Trí huệ vào khắp tất cả mọi nơi.

10. Khắp biết rõ tất cả chúng sinh, tất cả cõi Phật, tất cả các pháp, tất cả chư Phật, là bảo tạng của Bồ Tát, vì ở trong một niệm đều thấy rõ mười phương ba đời Phật Pháp Tăng Tam Bảo.

Đó là mười pháp bảo tạng của Bồ Tát. Nếu các Bồ Tát an trụ trong pháp nầy, thì sẽ đắc được bảo tạng đại trí huệ vô thượng căn lành không thể hoại của Như Lai.

Phật tử! Đại Bồ Tát có mười thứ tâm. Những gì là mười? 

Đó là : Tâm tinh cần, vì tất cả việc làm đều rốt ráo. Tâm chẳng giải đãi, vì tích tập tướng tốt hạnh phước đức. Tâm đại dũng kiện, vì phá tan tất cả các ma quân. Tâm như lý hành, vì trừ diệt tất cả các phiền não. Tâm bất thối chuyển, vì cho đến bồ đề trọn không ngừng nghỉ. Tâm tánh thanh tịnh, vì biết tâm bất động không chấp trước. Tâm biết chúng sinh, vì tuỳ sự hiểu muốn của họ, khiến cho được xuất ly. Tâm khiến vào Phật pháp đại phạm trụ, vì biết các chúng sinh đủ thứ sự hiểu muốn, chẳng dùng thừa khác mà cứu hộ. Tâm không vô tướng vô nguyện vô tác, vì thấy tướng ba cõi, chẳng chấp lấy. Tâm tướng chữ vạn kim cang kiên cố thắng tạng trang nghiêm, vì số lượng của ma đến đồng số tất cả chúng sinh, cho đến không thể động một sợi lông. Đó là mười. 

Nếu các Bồ Tát an trụ pháp nầy, thì sẽ đắc được tâm đại trí quang minh tạng vô thượng của Như Lai.

Các vị đệ tử của Phật! Đại Bồ Tát có mười thứ tâm. Những gì là mười? Đó là :

1. Tâm tinh cần, vì tất cả việc làm đều đến nơi rốt ráo.
2. Tâm chẳng giải đãi, vì tích tập tướng tốt, tu hành tất cả phước đức. Do đó :

« Ba A tăng kỳ tu phước huệ
Trăm kiếp trồng tướng tốt ».

3. Tâm đại dũng kiện, vì phá tan tất cả các ma quân và quyến thuộc của chúng.
4. Tâm như lý hành, vì trừ diệt tất cả các phiền não.
5. Tâm bất thối chuyển, vì từ lúc ban đầu phát tâm bồ đề, cho đến rốt ráo thành Phật, trọn không ngừng nghỉ.
6. Tâm tánh thanh tịnh, vì Bồ Tát biết tự tánh thanh tịnh, gì cũng chẳng chấp trước, cho nên tâm bất động. Nếu có sự chấp trước thì tâm sẽ bị động.
7. Tâm biết chúng sinh, vì tuỳ thuận sự hiểu muốn của chúng sinh, khiến cho họ thoát khỏi ba cõi. Do đó :

« Muốn khiến vào Phật trí
Trước dùng câu dục móc ».

Phải hiểu rõ dục niệm của chúng sinh, mới có thể giáo hoá chúng sinh được. Cho nên Bồ Tát dùng bốn tâm vô lượng (Từ, bi, hỉ, xả) và bốn pháp nhiếp (Bố thí, ái ngữ, lợi hành, đồng sự) để giáo hoá chúng sinh, để điều phục chúng sinh.

8. Tâm khiến vào Phật pháp đại phạm trụ, vì biết các chúng sinh đủ thứ sự hiểu biết và ham muốn, chẳng dùng thừa khác giáo hoá, mà dùng Bồ Tát thừa giáo hoá, để cứu hộ chúng sinh.

9. Tâm không vô tướng vô nguyện vô tác, vì thấy tất cả tướng ba cõi, chẳng chấp lấy.

10. Tâm tướng chữ vạn kim cang kiên cố thắng tạng trang nghiêm, tướng cát tường trang nghiêm nầy, dù số lượng của ma đến đồng số tất cả chúng sinh, để nhiễu loạn, cho đến không thể động một sợi lông.

Đó là mười thứ pháp của Bồ Tát. Nếu các Bồ Tát an trụ trong pháp nầy, thì sẽ đắc được tâm đại trí quang minh tạng vô thượng của Như Lai.

Phật tử ! Đại Bồ Tát có mười thứ mặc giáp. Những gì là mười ? 

Đó là : Mặc giáp đại từ, vì cứu hộ tất cả chúng sinh. Mặc giáp đại bi, vì kham nhẫn tất cả các sự khổ. Mặc giáp đại nguyện, vì tất cả việc làm đều rốt ráo. Mặc giáp hồi hướng, vì kiến lập tất cả Phật trang nghiêm. Mặc giáp phước đức, vì lợi ích tất cả các chúng sinh. Mặc giáp Ba la mật, vì độ thoát tất cả các hàm thức. Mặc giáp trí huệ, vì diệt tất cả tối phiền não của chúng sinh. Mặc giáp thiện xảo phương tiện, vì sinh phổ môn căn lành. Mặc giáp nhất thiết trí tâm kiên cố không tán loạn, vì chẳng thích thừa khác. Mặc giáp một lòng quyết định, vì nơi tất cả pháp lìa nghi hoặc. Đó là mười. 

Nếu các Bồ Tát an trụ pháp nầy, thì sẽ mặc mão giáp vô thượng của Như Lai, phá tan được tất cả ma quân.

Các vị đệ tử của Phật ! Đại Bồ Tát có mười thứ mặc giáp. Những gì là mười ? Đó là :

1. Mặc giáp đại từ, mới có thể cứu hộ được tất cả chúng sinh, lìa khổ được vui.
2. Mặc giáp đại bi, mới có thể kham nhẫn tất cả các sự khổ não, thoát khỏi biển khổ.
3. Mặc giáp đại nguyện, vì tất cả việc làm đều rốt ráo viên mãn.
4. Mặc giáp hồi hướng, vì kiến lập tất cả Phật trang nghiêm. Hồi hướng có năm thứ :

a. Hồi tự hướng tha.
b. Hồi tiểu hướng đại.
c. Hồi sự hướng lý.
d. Hồi nhân hướng quả.
e. Hồi sinh tử hướng Niết Bàn.

5. Mặc giáp phước đức, vì rộng tích tụ phước đức, lợi ích tất cả các chúng sinh.
6. Mặc giáp Ba la mật, vì hay độ thoát tất cả các hàm thức.
7. Mặc giáp trí huệ, vì diệt trừ tất cả tối phiền não của tất cả chúng sinh.
8. Mặc giáp thiện xảo phương tiện, vì sinh pháp môn phổ môn, tích tập tất cả căn lành.
9. Mặc giáp nhất thiết trí tâm kiên cố không tán loạn, vì chỉ tu pháp đại thừa, chẳng tu pháp tiểu thừa.
10. Mặc giáp một lòng quyết định, vì nơi tất cả pháp chẳng có sự hoài nghi hoặc mê hoặc.

Đó là mười pháp mặc giáp của Bồ Tát. Nếu các Bồ Tát an trụ pháp nầy, thì sẽ mặc mão giáp vô thượng của Như Lai, phá tan được tất cả ma quân.

Phật tử ! Đại Bồ Tát có mười thứ khí trượng. Những gì là mười ? 

Đó là : Bố thí là khí trượng của Bồ Tát, vì phá tan tất cả sự bỏn xẻn. Trì giới là khí trượng của Bồ Tát, vì từ bỏ tất cả sự huỷ phạm. Bình đẳng là khí trượng của Bồ Tát, vì đoạn trừ tất cả sự phân biệt. Trí huệ là khí trượng của Bồ Tát, vì tiêu diệt tất cả phiền não. Chánh mạng là khí trượng của Bồ Tát, vì xa lìa tất cả tà mạng. Thiện xảo phương tiện là khí trượng của Bồ Tát, vì thị hiện ở tất cả mọi nơi. Lược nói tham sân si tất cả phiền não là khí trượng của Bồ Tát, vì dùng môn phiền não độ chúng sinh. Sinh tử là khí trượng của Bồ Tát, vì chẳng dứt Bồ Tát hạnh, giáo hoá chúng sinh. Nói pháp như thật là khí trượng của Bồ Tát, vì phá được tất cả sự chấp trước. Nhất thiết trí là khí trượng của Bồ Tát, vì chẳng bỏ hạnh môn Bồ Tát. Đó là mười. 

Nếu các Bồ Tát an trụ pháp nầy, thì sẽ trừ diệt được tập phiền não kiết sử đêm dài của tất cả chúng sinh.

Các vị đệ tử của Phật ! Đại Bồ Tát có mười thứ khí trượng. Những gì là mười ? Đó là :

1. Bố thí là khí trượng của Bồ Tát, vì phá tan tất cả sự bỏn xẻn.
2. Trì giới là khí trượng của Bồ Tát, vì từ bỏ tất cả sự huỷ phạm giới.
3. Bình đẳng là khí trượng của Bồ Tát, vì đoạn trừ tất cả sự phân biệt.
4. Trí huệ là khí trượng của Bồ Tát, vì tiêu diệt tất cả phiền não.
5. Chánh mạng là khí trượng của Bồ Tát, vì xa lìa tất cả tà mạng. Tà mạng tức là tà tri tà kiến.
6. Thiện xảo phương tiện là khí trượng của Bồ Tát, vì thị hiện ở tất cả mọi nơi, giáo hoá chúng sinh.
7. Lược nói tham sân si tất cả phiền não là khí trượng của Bồ Tát, vì dùng môn phiền não để độ thoát chúng sinh.
8. Sinh tử là khí trượng của Bồ Tát, vì chẳng dứt hạnh của Bồ Tát tu, để giáo hoá chúng sinh.
9. Nói pháp như thật là khí trượng của Bồ Tát, vì phá được tất cả sự chấp trước.
10. Nhất thiết trí là khí trượng của Bồ Tát, vì chẳng bỏ hạnh môn của Bồ Tát tu.

Đó là mười thứ pháp khí trượng của Bồ Tát. Nếu các Bồ Tát an trụ pháp nầy, thì sẽ trừ diệt được tập phiền não kiết sử đêm dài của tất cả chúng sinh, tức cũng là thân biên giới định tà và tham sân si mạn nghi mười sử.

Phật tử ! Đại Bồ Tát có mười thứ đầu. Những gì là mười ? 

Đó là : Đầu Niết Bàn, vì không thấy được đảnh. Đầu tôn kính, vì được tất cả trời người kính lễ. Đầu thắng giải rộng lớn, vì thù thắng nhất trong ba ngàn cõi. Đầu căn lành đệ nhứt, vì chúng sinh ba cõi đều cúng dường. Đầu gánh đội chúng sinh, vì thành tựu tướng nhục kế trên đảnh. Đầu chẳng khinh khi người khác, vì thường tôn thắng ở tất cả mọi nơi. Đầu Bát Nhã Ba La Mật, vì trưởng dưỡng tất cả pháp công đức. Đầu phương tiện trí tương ưng, vì khắp hiện thân tất cả đồng loại. Đầu giáo hoá tất cả chúng sinh, vì dùng tất cả chúng sinh làm đệ tử. Đầu thủ hộ chư Phật pháp nhãn, vì hay khiến giống Tam Bảo chẳng đoạn tuyệt. Đó là mười. 

Nếu các Bồ Tát an trụ pháp nầy, thì sẽ đắc được đầu đại trí huệ vô thượng của Như Lai.

Các vị đệ tử của Phật ! Đại Bồ Tát có mười thứ đầu. Những gì là mười ? Đó là :

1. Đầu Niết Bàn, vì không thể thấy được đảnh. Do đó : « Vô kiến đảnh tướng ».
2. Đầu tôn kính, vì được tất cả trời người tôn kính đảnh lễ.
3. Đầu thắng giải rộng lớn, vì thù thắng nhất trong ba ngàn đại thiên thế giới.
4. Đầu căn lành đệ nhứt, vì chúng sinh trong ba cõi đều đến cúng dường.
5. Đầu gánh đội chúng sinh, vì thành tựu tướng nhục kế trên đảnh (1 trong 32 tướng).
6. Đầu chẳng khinh khi người khác, vì thường tôn thắng ở tất cả mọi nơi.
7. Đầu Bát Nhã Ba La Mật, vì trưởng dưỡng tất cả công đức, tất cả Phật pháp.
8. Đầu phương tiện trí tương ưng, vì khắp hiện thân tất cả đồng loại.
9. Đầu giáo hoá tất cả chúng sinh, vì dùng tất cả chúng sinh làm đệ tử của Bồ Tát.
10. Đầu thủ hộ chư Phật pháp nhãn, vì hay khiến hạt giống Tam Bảo chẳng đoạn tuyệt.

Đó là mười thứ đầu của Bồ Tát. Nếu các Bồ Tát an trụ trong pháp nầy, thì sẽ đắc được đầu đại trí huệ vô thượng của Như Lai.

Phật tử ! Đại Bồ Tát có mười thứ mắt. Đó là : Nhục nhãn, nhìn thấy được tất cả sắc. Thiên nhãn, thấy được tất cả tâm chúng sinh. Huệ nhãn, thấy được cảnh giới các căn của tất cả chúng sinh. Pháp nhãn, thấy được tất cả pháp như thật tướng. Phật nhãn, thấy được thập lực của Như Lai. Trí nhãn, thấy biết được các pháp. Quang minh nhãn, thấy được quang minh của Phật. Xuất sinh tử nhãn, thấy được Niết Bàn. Vô ngại nhãn, sự thấy không có chướng ngại. Nhất thiết trí nhãn, thấy được phổ môn pháp giới. Đó là mười. 
Nếu các Bồ Tát an trụ pháp nầy, thì sẽ đắc được mắt đại trí huệ vô thượng của Như Lai.

Các vị đệ tử của Phật ! Đại Bồ Tát có mười thứ mắt. Đó là :

1. Nhục nhãn, nhìn thấy được tất cả màu sắc sự vật.
2. Thiên nhãn, nhìn thấy được trong tâm của tất cả chúng sinh.
3. Huệ nhãn, nhìn thấy được cảnh giới các căn của tất cả chúng sinh.
4. Pháp nhãn, nhìn thấy được tất cả pháp như thật tướng.
5. Phật nhãn, nhìn thấy được thập lực của Như Lai.
6. Trí nhãn, thấy biết được bản thể của tất cả các pháp.
7. Quang minh nhãn, nhìn thấy được quang minh của tất cả chư Phật.
8. Xuất sinh tử nhãn, nhìn thấy được cảnh giới Niết Bàn.
9. Vô ngại nhãn, nhìn thấy được sự vật không có chướng ngại.
10. Nhất thiết trí nhãn, thấy được phổ môn pháp giới.

Đó là mười thứ mắt của Bồ Tát. Nếu các Bồ Tát an trụ trong pháp nầy, thì sẽ đắc được mắt đại trí huệ vô thượng của Như Lai.

Phật tử ! Đại Bồ Tát có mười thứ tai. Những gì là mười ? 

Đó là : Nghe tiếng tán thán, thì dứt trừ tham ái. Nghe tiếng huỷ báng, thì dứt trừ tâm sân hận. Nghe nói nhị thừa, thì chẳng chấp, chẳng cầu. Nghe đạo Bồ Tát, thì hớn hở vui mừng. Nghe đến địa ngục, các nơi khổ nạn, thì khởi tâm đại bi, phát hoằng thệ nguyện. Nghe nói đến việc trời người thù thắng vi diệu, thì biết đó đều là pháp vô thường. Nghe sự tán thán công đức của chư Phật, thì siêng năng tinh tấn, khiến cho sớm được viên mãn. Nghe nói pháp lục độ, bốn pháp nhiếp, thì phát tâm tu hành, nguyện đến bờ kia. Nghe tất cả âm thanh mười phương thế giới, thì đều biết như vang, nhập vào bất khả thuyết diệu nghĩa thâm sâu. Đại Bồ Tát từ lúc ban đầu phát tâm, cho đến Đạo Tràng, thường nghe chánh pháp, chưa từng tạm ngừng nghỉ, mà luôn không bỏ việc giáo hoá chúng sinh. Đó là mười. 

Nếu các Bồ Tát thành tựu pháp nầy, thì sẽ đắc được tai đại trí huệ vô thượng của Như Lai.

Các vị đệ tử của Phật! Đại Bồ Tát có mười thứ tai. Những gì là mười ? Đó là :

1. Nghe tiếng tán thán, thì dứt trừ được tất cả tham dục và tất cả ái tình.
2. Nghe tiếng huỷ báng, thì dứt trừ được tất cả tâm sân hận, chẳng có phiền não, chẳng có sự nóng giận.
3. Nghe nói nhị thừa, thì chẳng chấp vào nhị thừa, cũng chẳng cầu nhị thừa.
4. Nghe đạo Bồ Tát, thì hớn hở vui mừng.
5. Nghe đến địa ngục, các nơi khổ nạn, thì khởi tâm đại bi, phát hoằng thệ nguyện, cứu hộ chúng sinh.
6. Nghe nói đến việc trời người thù thắng vi diệu, thì biết đó đều là pháp vô thường.
7. Nghe sự tán thán công đức của chư Phật, thì siêng năng học tập, dũng mãnh tinh tấn, khiến cho sớm được thành tựu viên mãn.
8. Nghe nói pháp lục độ, bốn pháp nhiếp, thì phát tâm tu hành bố thí, trì giới, nhẫn nhục, tinh tấn, thiền định, Bát Nhã, và bố thí, ái ngữ, lợi hành, đồng sự, nguyện đến được bờ Niết Bàn bên kia.
9. Nghe tất cả âm thanh mười phương thế giới, thì đều biết như vang, nhập vào bất khả thuyết diệu nghĩa thâm sâu.
10. Đại Bồ Tát từ lúc ban đầu phát tâm, cho đến Đạo Tràng, thường nghe chánh pháp, chưa từng tạm ngừng nghỉ, mà luôn không bỏ việc giáo hoá chúng sinh.

Đó là mười thứ tai của Bồ Tát. Nếu các Bồ Tát thành tựu được pháp nầy, thì sẽ đắc được tai đại trí huệ vô thượng của Như Lai.

Phật tử ! Đại Bồ Tát có mười thứ mũi. Những gì là mười ? 

Đó là : Ngửi các mùi hôi, mà không cho là hôi. 

Ngửi các mùi thơm mà không cho là thơm. 

Thơm hôi đều ngửi, tâm đều bình đẳng, chẳng thơm, chẳng hôi, an trụ nơi xả. 

Nếu ngửi mùi y phục toạ cụ và thân thể của chúng sinh có mùi thơm hôi, thì biết được chúng sinh đó có tham sân si bằng nhau. 

Nếu ngửi mùi hương các hầm mỏ, cây cỏ, thì đều phân minh rất rõ, như ở trước mắt. 

Nếu ngửi mùi hương chúng sinh dưới đến địa ngục A tỳ, trên đến cõi trời Hữu Đỉnh, thì đều biết được việc làm trong quá khứ của họ. 

Nếu ngửi mùi hương các Thanh Văn bố thí trì giới đa văn trí huệ, thì trụ tâm nhất thiết trí, chẳng khiến cho tán động. 

Nếu ngửi mùi hương tất cả Bồ Tát hạnh, thì dùng trí huệ bình đẳng, vào bậc Như Lai. 

Ngửi mùi hương cảnh giới trí huệ của tất cả chư Phật, thì cũng chẳng xả bỏ các hạnh Bồ Tát. Đó là mười. 

Nếu các Bồ Tát thành tựu pháp nầy, thì sẽ đắc được mũi thanh tịnh vô lượng vô biên của Như Lai.

Các vị đệ tử của Phật ! Đại Bồ Tát có mười thứ mũi. Những gì là mười ? Đó là :

1. Ngửi tất cả các mùi hôi, mà không có sự cảm giác là hôi.

2. Ngửi tất cả các mùi thơm, mà không có sự cảm giác là thơm.

3. Thơm hôi đều ngửi, tâm đều bình đẳng, chẳng trụ vào mùi thơm, chẳng trụ vào mùi hôi.

4. Chẳng thơm chẳng hôi, an trụ nơi xả, chẳng bị cảnh giới mùi thơm hôi làm lay chuyển.

5. Nếu ngửi mùi y phục toạ cụ và thân thể của chúng sinh có mùi thơm hôi, thì biết được chúng sinh đó có tham dục, sân hận, ngu si bằng nhau. Tóm lại, chẳng có mùi thơm thì có mùi hôi.

6. Nếu ngửi tất cả mùi hương các hầm mỏ, hoặc cây, hoặc cỏ, thì đều phân minh rất rõ ràng, như ở trước mắt. Ngửi mùi hương gì thì biết được vật đó rất rõ ràng.

7. Nếu ngửi mùi hương chúng sinh dưới đến địa ngục A tỳ, trên đến cõi trời Hữu Đỉnh, thì đều biết được việc làm trong quá khứ của họ, sự tu hành của họ.
Có người khởi vọng tưởng rằng : « Chúng sinh ở địa ngục, làm sao toả mùi hương ? Tôi không tin. Người trên trời thường toả ra mùi thơm, thì tôi tin ». Vì Bồ Tát phát tâm đại bồ đề, thường đến

địa ngục cứu chúng sinh, cam tâm tình nguyện cùng thọ khổ với chúng sinh, tuỳ cơ thuyết pháp, khiến cho chúng sinh thọ khổ cải ác hướng thiện. Đó là đồng sự trong bốn pháp nhiếp. Tuy Bồ

Tát ở trong địa ngục, nhưng thân vẫn toả ra mùi thơm đặc biệt.

8. Nếu ngửi mùi hương các Thanh Văn bố thí trì giới đa văn trí huệ, thì trụ tâm nhất thiết trí, chẳng khiến cho tâm tán động, rất là kiên cố như kim cang.

9. Nếu ngửi mùi hương tất cả Bồ Tát hạnh, thì dùng trí huệ bình đẳng, vào bậc Như Lai.

10. Ngửi mùi hương cảnh giới trí huệ của tất cả chư Phật, thì cũng chẳng xả bỏ các hạnh Bồ Tát, vẫn tu Bồ Tát hạnh.

Đó là mười thứ mũi của Bồ Tát. Nếu các Bồ Tát thành tựu được pháp nầy, thì sẽ đắc được mũi thanh tịnh vô lượng vô biên của Như Lai.

Phật tử ! Đại Bồ Tát có mười thứ lưỡi. Những gì là mười ? 

Đó là : Lưỡi khai thị diễn nói hạnh chúng sinh vô tận. Lưỡi khai thị diễn nói pháp môn vô tận. Lưỡi tán thán công đức chư Phật vô tận. Lưỡi diễn xướng từ biện vô tận. Lưỡi khai xiển đại thừa trợ đạo. Lưỡi trùm khắp mười phương hư không. Lưỡi chiếu khắp tất cả cõi Phật. Lưỡi khiến khắp chúng sinh ngộ hiểu. Lưỡi đều khiến chư Phật hoan hỉ. Lưỡi hàng phục tất cả các ma ngoại đạo trừ diệt tất cả sinh tử phiền não khiến cho đến Niết Bàn. Đó là mười. 

Nếu các Bồ Tát thành tựu pháp nầy, thì sẽ đắc được lưỡi vô thượng của Như Lai trùm khắp tất cả cõi nước chư Phật.

Các vị đệ tử của Phật ! Đại Bồ Tát có mười thứ lưỡi. Những gì là mười ? Đó là :

1. Lưỡi khai thị diễn nói hạnh chúng sinh vô tận.
2. Lưỡi khai thị diễn nói pháp môn vô tận.
3. Lưỡi tán thán công đức chư Phật vô tận.
4. Lưỡi diễn xướng từ biện vô tận.
5. Lưỡi khai xiển đại thừa trợ đạo.
6. Lưỡi trùm khắp mười phương hư không.
7. Lưỡi chiếu khắp tất cả cõi Phật.
8. Lưỡi khiến khắp chúng sinh ngộ hiểu.
9. Lưỡi đều khiến chư Phật hoan hỉ.
10. Lưỡi hàng phục tất cả các thiên ma ngoại đạo, trừ diệt tất cả sinh tử phiền não, khiến cho đến Niết Bàn.

Đó là mười thứ lưỡi của Bồ Tát. Nếu các Bồ Tát thành tựu pháp nầy, thì sẽ đắc được lưỡi vô thượng của Như Lai trùm khắp tất cả cõi nước chư Phật.

Phật tử ! Đại Bồ Tát có mười thứ thân. Những gì là mười ? 

Đó là : Thân người, vì giáo hoá tất cả mọi người. Thân chẳng phải người, vì giáo hoá địa ngục, súc sinh, ngạ quỷ. Thân trời, vì giáo hoá chúng sinh cõi dục, cõi sắc, cõi vô sắc. Thân học, vì thị hiện bậc học. Thân vô học, vì thị hiện bậc A la hán. Thân Độc Giác, vì giáo hoá khiến cho nhập vào bậc Bích Chi Phật. Thân Bồ Tát, vì khiến cho thành tựu đại thừa. Thân Như Lai, vì nước trí huệ quán đảnh. Ý sinh thân, vì khéo léo sinh ra. Pháp thân vô lậu, vì dùng vô công dụng thị hiện thân của tất cả chúng sinh. Đó là mười. 

Nếu các Bồ Tát thành tựu pháp nầy, thì sẽ đắc được thân vô thượng của Như Lai.

Các vị đệ tử của Phật ! Đại Bồ Tát có mười thứ thân. Những gì là mười ? Đó là :

1. Thân người, vì giáo hoá tất cả mọi người.
2. Thân chẳng phải người, vì giáo hoá chúng sinh trong địa ngục, súc sinh, ngạ quỷ.
3. Thân trời, vì giáo hoá chúng sinh trong ba cõi : cõi dục, cõi sắc, cõi vô sắc.
4. Thân học, vì thị hiện bậc học sơ quả, nhị quả, tam quả A la hán, giáo hoá chúng sinh bậc hữu học.
5. Thân vô học, vì thị hiện bậc A la hán, giáo hoá chúng sinh bậc vô học.
6. Thân Độc Giác, vì giáo hoá tất cả chúng sinh, khiến cho nhập vào bậc Bích Chi Phật.
7. Thân Bồ Tát, vì giáo hoá tất cả chúng sinh, khiến cho thành tựu bậc Bồ Tát đại thừa.
8. Thân Như Lai, vì dùng nước trí huệ quán đảnh cho Bồ Tát, thành bậc Pháp Vương tử.
9. Ý sinh thân, tức là thân tác ý sinh ra, khéo léo sinh ra để giáo hoá chúng sinh.
10. Pháp thân vô lậu, vì dùng vô công dụng thị hiện thân của tất cả chúng sinh, để giáo hoá chúng sinh.

Đó là mười thứ thân của Bồ Tát. Nếu các Bồ Tát thành tựu pháp nầy, thì sẽ đắc được thân vô thượng của Như Lai.

Phật tử ! Đại Bồ Tát có mười thứ ý. Những gì là mười ? 

Đó là : Ý thượng thủ, vì phát khởi tất cả căn lành. Ý an trụ, vì tin sâu kiến cố bất động. Ý thâm nhập, vì tuỳ thuận Phật pháp mà hiểu rõ. Ý thấu rõ bên trong, vì biết tâm ưa thích của các chúng sinh. Ý không loạn, vì tất cả phiền não chẳng tạp. Ý sáng tịnh, vì khách trần không thể nhiễm trước. Ý khéo quán chúng sinh, vì không có một niệm nào lỗi thời. Ý khéo chọn việc làm, vì chưa từng có nơi nào sinh lỗi lầm. Ý mật hộ các căn, vì điều phục chẳng khiến cho buông lung tán loạn. Ý khéo vào tam muội, vì thâm nhập tam muội của Phật không ta, không của ta. Đó là mười. 

Nếu các Bồ Tát an trụ pháp nầy, thì sẽ đắc được ý vô thượng của tất cả chư Phật.

Các vị đệ tử của Phật ! Đại Bồ Tát có mười thứ ý. Những gì là mười ? Đó là :

1. Ý thượng thủ, vì phát khởi tất cả căn lành, hồi hướng cho tất cả chúng sinh.
2. Ý an trụ, vì tâm bồ đề tin sâu kiến cố bất động.
3. Ý thâm nhập, vì tuỳ thuận Phật pháp mà hiểu rõ chân thật nghĩa.
4. Ý thấu rõ bên trong, vì biết tâm ưa thích của các chúng sinh.
5. Ý không loạn, vì tất cả phiền não không thể tạp loạn.
6. Ý sáng tịnh, vì khách trần không thể nhiễm trước, khách trần là hình dung phiền não.
7. Ý khéo quán chúng sinh, vì không có một niệm nào giáo hoá chúng sinh lỗi thời.
8. Ý khéo chọn việc làm, vì chưa từng có nơi nào tạo ra tội nghiệp.
9. Ý mật hộ các căn, vì điều phục mắt tai mũi lưỡi thân ý, chẳng khiến cho sáu căn buông lung tán loạn.
10. Ý khéo vào tam muội, vì thâm nhập tam muội của Phật, không còn cái ta, cũng không còn của ta.

Đó là mười thứ ý của Bồ Tát. Nếu các Bồ Tát an trụ pháp nầy, thì sẽ đắc được ý vô thượng của tất cả chư Phật.

Phật tử ! Đại Bồ Tát có mười thứ hạnh. Những gì là mười ? 

Đó là : Hạnh nghe pháp, vì thọ sự ưa thích nơi pháp. Hạnh thuyết pháp, vì lợi ích chúng sinh. Hạnh lìa tham sân si sợ hãi, vì điều phục tâm mình. Hạnh dục giới, vì giáo hoá chúng sinh dục giới. Hạnh tam muội sắc giới, vô sắc giới, vì khiến cho chúng sinh sớm quay trở về. Hạnh hướng về pháp nghĩa, vì sớm đắc được trí huệ. Hạnh tất cả nơi sanh, vì tự tại giáo hoá chúng sinh. Hạnh tất cả cõi Phật, vì lễ bái cúng dường chư Phật. Hạnh Niết Bàn, vì chẳng dứt sinh tử tiếp nối. Hạnh thành tựu viên mãn tất cả Phật pháp, vì chẳng bỏ pháp hạnh của Bồ Tát. Đó là mười. 

Nếu các Bồ Tát an trụ pháp nầy, thì sẽ đắc được hạnh không đến không đi của Như Lai.

Các vị đệ tử của Phật ! Đại Bồ Tát có mười thứ hạnh. Những gì là mười ? Đó là :

1. Hạnh nghe pháp, vì thọ sự ưa thích nơi pháp.
2. Hạnh thuyết pháp, vì đem pháp bố thí, lợi ích tất cả chúng sinh.
3. Hạnh lìa tham sân si sợ hãi, vì điều phục được tâm mình.
4. Hạnh dục giới, vì giáo hoá chúng sinh trong dục giới.
5. Hạnh tam muội sắc giới vô sắc giới, vì khiến cho chúng sinh cõi sắc giới và chúng sinh vô sắc giới sớm quay trở về, hồi tiểu hướng đại, phát bồ đề tâm.
6. Hạnh hướng về pháp nghĩa, vì sớm đắc được trí huệ, hiểu rõ tất cả pháp đều không, chẳng có sự tham chấp.
7. Hạnh tất cả nơi sanh, vì nhậm vận tự tại giáo hoá tất cả chúng sinh.
8. Hạnh tất cả cõi Phật, vì hay lễ bái cúng dường tất cả chư Phật.
9. Hạnh Niết Bàn, vì chẳng dứt sinh tử, chẳng bỏ Niết Bàn, sinh tử tiếp nối.
10. Hạnh thành tựu viên mãn tất cả Phật pháp, vì chẳng bỏ pháp của Bồ Tát, chẳng bỏ hạnh của Bồ Tát.

Đó là mười thứ hạnh của Bồ Tát. Nếu các Bồ Tát an trụ trong pháp nầy, thì sẽ đắc được hạnh không đến không đi của Như Lai.

Phật tử ! Đại Bồ Tát có mười thứ trụ. Những gì là mười ? 

Đó là : Trụ bồ đề tâm, vì chưa từng quên mất. Trụ Ba La Mật, vì chẳng nhàm trợ đạo. Trụ thuyết pháp, vì tăng trưởng trí huệ. Trụ A Lan Nhã, vì chứng đại thiền định. Trụ tuỳ thuận nhất thiết trí, đầu đà tri túc bốn Thánh chủng, vì ít dục, ít việc. Trụ tin sâu, vì gánh vác chánh pháp. Trụ gần gũi đức Như Lai, vì học oai nghi của Phật. Trụ xuất sinh thần thông, vì viên mãn đại trí. Trụ đắc được nhẫn, vì thọ ký đầy đủ. Trụ đạo tràng, vì đầy đủ lực vô sở uý tất cả Phật pháp. Đó là mười. 

Nếu các Bồ Tát an trụ pháp nầy, thì sẽ đắc được trụ vô thượng nhất thiết trí.

Các vị đệ tử của Phật ! Đại Bồ Tát có mười thứ trụ. Những gì là mười ? Đó là :

1. Trụ bồ đề tâm, vì chưa từng quên mất bồ đề tâm.
2. Trụ Ba La Mật, vì chẳng nhàm lìa pháp trợ đạo.
3. Trụ thuyết pháp, vì tăng trưởng nhất thiết trí huệ.
4. Trụ A Lan Nhã (nơi vắng lặng), vì chứng được đại thiền định.
5. Trụ tuỳ thuận nhất thiết trí, đầu đà (khổ hạnh), tri túc, bốn Thánh chủng (Phật, Bồ Tát, Duyên Giác, Thanh Văn), vì ít dục, ít việc.
6. Trụ tin sâu, vì gánh vác chánh pháp nhãn tạng.
7. Trụ gần gũi đức Như Lai, vì học tất cả oai nghi của Phật. Có ba ngàn oai nghi, tám vạn tế hạnh.
8. Trụ xuất sinh thần thông, vì viên mãn đại trí huệ, chứng được thần thông vô ngại.
9. Trụ đắc được nhẫn, vì thọ ký đầy đủ cho tất cả chúng sinh.
10. Trụ đạo tràng, vì đầy đủ mười lực, bốn vô sở uý, tất cả Phật pháp.

Đó là mười thứ trụ của Bồ Tát. Nếu các Bồ Tát an trụ trong pháp nầy, thì sẽ đắc được trụ vô thượng nhất thiết trí.

Phật tử ! Đại Bồ Tát có mười thứ toà ngồi. Những gì là mười ? 

Đó là : Toà ngồi Chuyển Luân Vương, vì hưng khởi mười đường lành. Toà ngồi Tứ Thiên Vương, vì nơi tất cả thế gian tự tại an lập Phật pháp. Toà ngồi Đế Thích, vì làm thắng chủ của tất cả chúng sinh. Toà ngồi Phạm Vương, vì đối với mình và người tâm được tự tại. Toà ngồi sư tử, vì hay thuyết pháp. Toà ngồi chánh pháp, vì dùng sức tổng trì biện tài mà khai thị. Toà ngồi kiên cố, vì thệ nguyện rốt ráo. Toà ngồi đại từ, vì khiến cho chúng sinh ác đều hoan hỉ. Toà ngồi đại bi, vì nhẫn chịu tất cả khổ không nhàm mỏi. Toà ngồi kim cang, vì hàng phục chúng ma và ngoại đạo. Đó là mười. 

Nếu các Bồ Tát an trụ pháp nầy, thì sẽ đắc được toà ngồi chánh giác vô thượng của Như Lai.

Các vị đệ tử của Phật ! Đại Bồ Tát có mười thứ toà ngồi. Những gì là mười ? Đó là :

1. Toà ngồi Chuyển Luân Vương, vì hưng khởi mười đường lành. Tức là : Không sát sinh, không trộm cắp, không tà dâm, không nói dối, không nói thêu dệt, không nói hai lưỡi, không chửi mắng, không san tham, không sân hận, không si mê.
2. Toà ngồi Tứ Thiên Vương, vì nơi tất cả thế gian tự tại an lập tất cả Phật pháp.
3. Toà ngồi Đế Thích, vì làm Thiên Chủ thù thắng chủ của tất cả chúng sinh.
4. Toà ngồi Phạm Vương, vì đối với mình và người tâm đều được tự tại.
5. Toà ngồi sư tử, vì hay diễn nói tất cả Phật pháp, khiến cho chúng sinh được lợi ích.
6. Toà ngồi chánh pháp, vì dùng sức tổng trì biện tài mà khai thị cho tất cả chúng sinh.
7. Toà ngồi kiên cố, vị thệ nguyện phát ra đều rốt ráo viên mãn.
8. Toà ngồi đại từ, vì khiến cho chúng sinh tội ác lớn, đều lìa khổ được vui, sinh đại hoan hỉ.
9. Toà ngồi đại bi, vì hay nhẫn chịu tất cả khổ, không bao giờ nhàm mỏi.
10. Toà ngồi kim cang, vì phá tan tất cả chúng ma, hàng phục tất cả ngoại đạo.

Đó là mười pháp toà ngồi của Bồ Tát. Nếu các Bồ Tát an trụ trong pháp nầy, thì sẽ đắc được toà ngồi chánh giác vô thượng của Như Lai.

Phật tử ! Đại Bồ Tát có mười thứ nằm. Những gì là mười ? 

Đó là : Nằm tịch tĩnh, vì thân tâm đạm bạc. Nằm thiền định, vì như lý tu hành. Nằm tam muội, vì thân tâm mềm mại. Nằm Phạm Thiên, vì chẳng não hại mình người. Nằm thiện nghiệp, vì về sau chẳng hối hận. Nằm chánh tín, vì không thể khuynh động. Nằm chánh đạo, vì bạn lành khai giác. Nằm diệu nguyện, vì thiện xảo hồi hướng. Nằm tất cả việc xong rồi, vì việc làm đều đã thành tựu. Nằm xả bỏ các công dụng, vì tất cả tập quán. Đó là mười. 

Nếu các Bồ Tát an trụ pháp nầy, thì sẽ đắc được nằm đại pháp vô thượng của Như Lai, đều có thể khai ngộ tất cả chúng sinh.

Các vị đệ tử của Phật ! Đại Bồ Tát có mười thứ nằm. Những gì là mười ? Đó là :

1. Nằm tịch tĩnh, vì điều hoà được thân tâm, khiến cho thân tâm đạm bạc. Tức là thanh cao, chẳng màng danh lợi. Tóm lại, chẳng cầu bất cứ thứ gì, cũng chẳng tham, cũng chẳng tranh, cũng chẳng ích kỷ, cũng chẳng tự lợi.

2. Nằm thiền định, vì thường ở trong tam muội, như lý mà tu hành.

3. Nằm tam muội, vì thường ở trong định, thân tâm mềm mại, chẳng cang cường. Người tu đạo, thân cũng mềm mại, tâm cũng mềm mại, chẳng có nóng giận. Bất cứ người nào đối với mình không tốt, cũng phải nhẫn trong tâm, đừng nổi giận. Tu đạo là tu chữ « nhẫn » nầy, một nhẫn vạn sự hoà, cổ nhân thường nói :

« Việc nhỏ không thể nhẫn
Thì việc lớn sẽ loạn ».

Cho nên nói nhẫn là cao quý.
4. Nằm Phạm Thiên, vì chẳng não hại mình, chẳng não hại người.

5. Nằm thiện nghiệp, vì thường tu nghiệp thiện, chẳng tu nghiệp ác. Tu nghiệp thiện, thường hành bố thí. Bố thí rồi, thì tuyệt đối chẳng hối hận.

6. Nằm chánh tín, vì có tâm chánh tín, bất cứ ai nói gì, cũng không thể khuynh động được ý chí của mình.

7. Nằm chánh đạo, vì gần gũi bạn lành, tức là thiện tri thức, khích lệ với nhau, khai thị lẫn nhau, giác ngộ lẫn nhau.

8. Nằm diệu nguyện, vì phát nguyện không thể nghĩ bàn, thiện xảo phương hồi hướng cho chúng sinh.

9. Nằm tất cả việc xong rồi, vì việc làm đều đã thành tựu.

10. Nằm xả bỏ các công dụng, vì tu vô công dụng đạo, chẳng chấp vào tất cả công dụng. Vô công dụng đạo tức là một chút cũng không miễn cưỡng. Do đó : « Tập quán thành tự nhiên ».

Đó là mười thứ nằm của Bồ Tát. Nếu các Bồ Tát an trụ trong pháp nầy, thì sẽ đắc được nằm đại pháp vô thượng của Như Lai, đều có thể khai ngộ tất cả chúng sinh, khiến cho chúng sinh đều minh bạch, biết pháp thế gian là vô thường, khổ, không, vô ngã.

Phật tử ! Đại Bồ Tát có mười chỗ trụ xứ. Những gì là mười ? 

Đó là : Dùng đại từ làm chỗ trụ xứ, vì đối với tất cả chúng sinh tâm đều bình đẳng. Dùng đại bi làm chỗ trụ xứ, vì chẳng khinh những người chưa học. Dùng đại hỉ làm chỗ trụ xứ, vì lìa tất cả sự lo buồn. Dùng đại xả làm chỗ trụ xứ, vì nơi hữu vi vô vi đều bình đẳng. Dùng tất cả Ba La Mật làm chỗ trụ xứ, vì bồ đề tâm làm đầu. Dùng tất cả không làm chỗ trụ xứ, vì khéo léo quán sát. Dùng vô tướng làm chỗ trụ xứ, vì chẳng xuất chánh vị. Dùng vô nguyện làm chỗ trụ xứ, vì quán sát thọ sanh. Dùng niệm huệ làm chỗ trụ xứ, vì pháp nhẫn thành tựu viên mãn. Dùng tất cả pháp bình đẳng làm chỗ trụ xứ, vì được thọ ký. Đó là mười. 

Nếu các Bồ Tát an trụ pháp nầy, thì sẽ đắc được chỗ trụ xứ vô ngại vô thượng của Như Lai.

Các vị đệ tử của Phật ! Đại Bồ Tát có mười chỗ trụ xứ. Những gì là mười ? Đó là :

1. Dùng đại từ làm chỗ trụ xứ, vì đối với tất cả chúng sinh tâm bình đẳng như nhau. Do đó : « Từ hay ban vui », tức cũng là « vô duyên đại từ », oán thân bình đẳng.

2. Dùng đại bi làm chỗ trụ xứ, vì chẳng khinh mạn những người chưa học. Do đó : « Bi hay cứu khổ », tức cũng là « Đồng thể đại bi », ta, người một thể.

3. Dùng đại hỉ làm chỗ trụ xứ, vì lìa khỏi tất cả sự lo buồn, chẳng có mọi phiền não.

4. Dùng đại xả làm chỗ trụ xứ, vì đối với hữu vi và vô vi đều bình đẳng.

5. Dùng tất cả Ba La Mật làm chỗ trụ xứ, vì bồ đề tâm làm đầu.

6. Dùng tất cả không làm chỗ trụ xứ, vì khéo léo quán sát tất cả các pháp, đều do duyên khởi, rốt ráo là không.

7. Dùng vô tướng làm chỗ trụ xứ, vì chẳng xuất chánh vị, thuỷ chung đều là tu đạo.

8. Dùng vô nguyện làm chỗ trụ xứ, vì có thể quán sát tất cả chúng sinh, thọ sinh như thế nào ? Thọ tử như thế nào ?

9. Dùng niệm huệ làm chỗ trụ xứ, vì thường niệm trí huệ, thì vô sinh pháp nhẫn sẽ thành tựu viên mãn.

10. Dùng tất cả pháp bình đẳng làm chỗ trụ xứ, vì được chư Phật thọ ký. Đó là mười chỗ trụ xứ của Bồ Tát. Nếu các Bồ Tát an trụ trong pháp nầy, thì sẽ đắc được chỗ trụ xứ vô ngại vô thượng của Như Lai.

Phật tử ! Đại Bồ Tát có mười chỗ hành xứ. Những gì là mười ? 

Đó là : Dùng chánh niệm làm chỗ hành xứ, vì đầy đủ niệm xứ. Dùng các cõi làm chỗ hành xứ, vì chánh giác pháp cõi. Dùng trí huệ làm chỗ hành xứ, vì được Phật hoan hỉ. Dùng Ba La Mật làm chỗ hành xứ, vì đầy đủ trí nhất thiết trí. Dùng bốn pháp nhiếp làm chỗ hành xứ, vì giáo hoá chúng sinh. Dùng sinh tử làm chỗ hành xứ, vì tích tập căn lành. Dùng sự nói chuyện tạp vui đùa với tất cả chúng sinh làm chỗ hành xứ, vì tuỳ cơ giáo hoá khiến cho họ lìa hẳn. Dùng thần thông làm chỗ hành xứ, vì biết cảnh giới các căn của tất cả chúng sinh. Dùng thiện xảo phương tiện làm chỗ hành xứ, vì Bát Nhã Ba La Mật tương ưng. Dùng đạo tràng làm chỗ hành xứ, vì thành nhất thiết trí mà chẳng dứt Bồ Tát hạnh. Đó là mười. 

Nếu các Bồ Tát an trụ pháp nầy, thì sẽ đắc được chỗ hành xứ đại trí huệ vô thượng của Như Lai.

Các vị đệ tử của Phật ! Đại Bồ Tát có mười chỗ hành xứ. Những gì là mười ? Đó là :

1. Dùng chánh niệm làm chỗ hành xứ, vì viên mãn đầy đủ bốn niệm xứ. Tức là quán thân bất tịnh, quán thọ thị khổ, quán tâm vô thường, quán pháp vô ngã.

2. Dùng các cõi làm chỗ hành xứ, vì có thể dùng chánh giác pháp cõi hướng bồ đề.

3. Dùng trí huệ làm chỗ hành xứ, vì được chư Phật hoan hỉ, gia trì hộ niệm.

4. Dùng Ba La Mật làm chỗ hành xứ, vì đầy đủ trí huệ nhất thiết trí.

5. Dùng bốn pháp nhiếp làm chỗ hành xứ, vì dùng bố thí, ái ngữ, lợi hành, đồng sự, bốn pháp nhiếp để giáo hoá chúng sinh, khiến cho họ thoát khỏi biển khổ, do đó :

« Biển khổ vô biên, hồi đầu là bờ ».

6. Dùng sinh tử làm chỗ hành xứ, vì tích tập đủ thứ căn lành, chấm dứt sinh tử.

7. Dùng sự nói chuyện tạp vui đùa với tất cả chúng sinh làm chỗ hành xứ, vì tuỳ cơ thuyết pháp, giáo hoá, khiến cho tất cả chúng sinh lìa khổ ba đường ác.

8. Dùng thần thông làm chỗ hành xứ, vì biết cảnh giới các căn của tất cả chúng sinh.

9. Dùng thiện xảo phương tiện làm chỗ hành xứ, vì tu pháp Bát Nhã Ba La Mật đến chỗ tương ưng, chẳng còn sự chướng ngại.

10. Dùng đạo tràng làm chỗ hành xứ, vì thành nhất thiết trí huệ mà chẳng dứt Bồ Tát hạnh.

Đó là mười pháp hành xứ của Bồ Tát. Nếu các Bồ Tát an trụ trong pháp nầy, thì sẽ đắc được chỗ hành xứ đại trí huệ vô thượng của Như Lai.

Ở trên là Bồ Tát Phổ Hiền trả lời năm mươi câu hỏi của Bồ Tát Phổ Huệ hỏi về hạnh Thập địa. Vì hỏi một đáp mười, cho nên đáp án thành năm trăm.

6. TRẢ LỜI PHÁP NHÂN VIÊN CỨU KÍNH (BẬC ĐẲNG GIÁC)

Phật tử ! Đại Bồ Tát có mười thứ quán sát. Những gì là mười ? 

Đó là : Quán sát biết các nghiệp, vì vi tế đều thấy. Quán sát biết các cõi, vì chẳng chấp chúng sinh. Quán sát biết các căn, vì thấu đạt không căn. Quán sát biết các pháp, vì chẳng hoại pháp giới. Quán sát thấy Phật pháp, vì siêng tu Phật nhãn. Quán sát được trí huệ, vì như lý thuyết pháp. Quán sát vô sinh nhẫn, vì quyết định thấu rõ Phật pháp. Quán sát bậc bất thối, vì diệt tất cả phiền não, thoát khỏi ba cõi bậc nhị thừa. Quán sát bậc quán đảnh, vì đối với tất cả Phật pháp tự tại bất động. Quán sát thiện giác trí tam muội, vì đối với tất cả mười phương bố thí làm Phật sự. Đó là mười. 

Nếu các Bồ Tát an trụ pháp nầy, thì sẽ đắc được đại quán sát trí vô thượng của Như Lai.

Các vị đệ tử của Phật ! Đại Bồ Tát có mười thứ quán sát. Những gì là mười ? Đó là :

1. Quán sát biết các nghiệp, vì vi tế đều thấy.
2. Quán sát biết các cõi, vì chẳng chấp chúng sinh.
3. Quán sát biết các căn, vì thấu đạt không căn.
4. Quán sát biết các pháp, vì chẳng phá hoại pháp giới.
5. Quán sát thấy Phật pháp, vì siêng tu Phật nhãn, quán sát chúng sinh.
6. Quán sát đắc được trí huệ, vì y chiếu tướng thật thể, mà diễn nói diệu pháp.
7. Quán sát vô sinh pháp nhẫn, vì quyết định thấu rõ Phật pháp. Thế nào là vô sinh pháp nhẫn ? Tức là chẳng thấy có chút pháp sinh, chẳng thấy có chút pháp diệt, nhẫn thọ nơi tâm. Tóm lại, cảnh giới nầy phải thân tự chứng đắc, mình biết mà thôi.
8. Quán sát bậc bất thối, vì diệt tất cả phiền não, thoát khỏi ba cõi và bậc nhị thừa.
9. Quán sát bậc quán đảnh, vì đối với tất cả Phật pháp nhậm vận tự tại, đã đạt đến cảnh giới bất động.
10. Quán sát thiện giác trí tam muội, vì đối với tất cả mười phương thế giới, bố thí làm đại Phật sự.

Đó là mười thứ quán sát của Bồ Tát. Nếu các Bồ Tát an trụ trong pháp nầy, thì sẽ đắc được đại quán sát trí vô thượng của Như Lai.

Phật tử ! Đại Bồ Tát có mười thứ quán sát khắp. Những gì là mười ? 

Đó là : Quán khắp tất cả những người đến cầu, vì dùng tâm không trái làm mãn nguyện ý của họ. Quán khắp tất cả chúng sinh phạm giới, vì an trí họ trong tịnh giới của Như Lai. Quán khắp tất cả chúng sinh có tâm tổn hại, vì an trí họ sức nhẫn nhục của Như Lai. Quán khắp tất cả chúng sinh giải đãi, vì khuyên nói khiến cho họ tinh tấn không bỏ trách nhiệm gánh vác đại thừa. Quán khắp tất cả chúng sinh loạn tâm, vì khiến cho họ trụ bậc nhất thiết trí của Như Lai, không tán động. Quán khắp tất cả chúng sinh ác huệ, vì khiến cho họ trừ nghi hoặc, phá tan hữu kiến. Quán khắp tất cả bạn lành bình đẳng, vì thuận theo giáo mạng của họ, trụ nơi Phật pháp. Quán khắp tất cả pháp đã nghe được, vì sớm được chứng thấy nghĩa tối thượng. Quán khắp tất cả vô biên chúng sinh, vì thường chẳng lìa bỏ sức đại bi. Quán khắp tất cả pháp của chư Phật, vì sớm được thành tựu nhất thiết trí. Đó là mười. 

Nếu các Bồ Tát an trụ pháp nầy, thì sẽ đắc được đại trí huệ quán sát khắp vô thượng của Như Lai.

Các vị đệ tử của Phật ! Đại Bồ Tát có mười thứ quán sát khắp. Những gì là mười ? Đó là :

1. Quán khắp tất cả chúng sinh đến cầu, mà dùng tâm không trái với sở cầu của họ, làm mãn nguyện ý mong cầu của họ.
2. Quán khắp tất cả chúng sinh phạm giới, mà an trí họ trong tịnh giới của Như Lai.
3. Quán khắp tất cả chúng sinh có tâm tổn hại, mà an trí họ trong sức nhẫn nhục của Như Lai.
4. Quán khắp tất cả chúng sinh giải đãi, mà khuyên nói khiến cho họ tinh tấn, không bỏ trách nhiệm gánh vác đại thừa.
5. Quán khắp tất cả chúng sinh loạn tâm, vì khiến cho họ trụ bậc nhất thiết trí của Như Lai, không còn sự tán loạn giao động.
6. Quán khắp tất cả chúng sinh ác huệ, vì khiến cho họ trừ nghi hoặc, phá tan sự chấp trước hữu kiến. Tóm lại, tiêu diệt tất cả tà tri tà kiến, tăng trưởng tất cả chánh tri chánh kiến.
7. Quán khắp tất cả bạn lành bình đẳng, tức cũng là thiện tri thức, vì thuận theo giáo mạng của thiện tri thức, trụ ở trong Phật pháp, chẳng vượt ra ngoài Phật pháp.
8. Quán khắp tất cả pháp đã nghe được, vì sớm được chứng thấy nghĩa lý tối thượng.
9. Quán khắp tất cả vô biên chúng sinh, vì thường chẳng lìa bỏ sức đại bi.
10. Quán khắp tất cả pháp của chư Phật, vì sớm được thành tựu viên mãn nhất thiết trí.

Đó là mười thứ quán sát khắp. Nếu các Bồ Tát an trụ trong pháp nầy, thì sẽ đắc được đại trí huệ quán sát khắp vô thượng của Như Lai.

Phật tử ! Đại Bồ Tát có mười thứ phấn tấn. Những gì là mười ? 

Đó là : Ngưu vương phấn tấn, vì che chói tất cả các đại chúng Thiên, Long, Dạ Xoa, Càn Thát Bà v.v… Tượng vương phấn tấn, vì tâm khéo điều nhu, gánh vác tất cả các chúng sinh. Long vương phấn tấn, vì nổi mây dày đại pháp, chiếu ánh chớp giải thoát, chấn tiếng sấm như thật nghĩa, mưa xuống nước cam lồ các căn lực giác phần thiền định giải thoát tam muội. Đại kim xí điểu vương phấn tấn, vì cạn nước tham ái, phá vỏ ngu si, chụp bắt các rồng độc phiền não, khiến cho thoát khỏi biển lớn khổ sinh tử. Đại sư tử vương phấn tấn, vì an trụ vô uý bình đẳng đại trí dùng làm khí trượng, phá tan chúng ma và ngoại đạo. Dũng mãnh phấn tấn, vì có thể ở trong đại chiến trận sinh tử, mà diệt tan tất cả oán phiền não. Đại trí phấn tấn, vì biết uẩn giới xứ và các duyên khởi, tự tại khai thị tất cả các pháp. Đà la ni phấn tấn, vì dùng sức niệm huệ, trì pháp không quên, tuỳ căn cơ chúng sinh vì họ tuyên nói. Biện tài phấn tấn, vì vô ngại mau chóng, phân biệt tất cả, đều khiến cho được lợi ích, tâm hoan hỉ. Như Lai phấn tấn, vì trí huệ nhất thiết trí pháp trợ đạo thảy đều thành tựu viên mãn, dùng một niệm huệ tương ưng, người đáng được tất cả đều được. Người đáng ngộ tất cả đều ngộ, ngồi toà sư tử, hàng phục ma oán địch, thành tựu A nậu đa la tam miệu tam bồ đề. Đó là mười. 

Nếu các Bồ Tát an trụ pháp nầy, thì sẽ đắc được tự tại phấn tấn vô thượng của chư Phật đối với tất cả các pháp.

Các vị đệ tử của Phật ! Đại Bồ Tát có mười thứ phấn tấn. Những gì là mười ? Đó là :

1. Ngưu vương phấn tấn, vì che chói tất cả các đại chúng : Thiên, Long, Dạ Xoa, Càn Thát Bà v.v…
2. Tượng vương phấn tấn, vì tâm khéo điều hoà nhu thuận, gánh vác tất cả các chúng sinh, từ bờ này độ qua dòng sinh tử phiền não, đến bờ bên kia.
3. Long vương phấn tấn, vì nổi mây dày đại pháp, chiếu ánh chớp giải thoát, chấn tiếng sấm như thật nghĩa, mưa xuống nước cam lồ các căn lực, giác phần, thiền định, giải thoát, tam muội.
4. Đại kim xí điểu vương phấn tấn, vì cạn nước tham ái, phá trừ vỏ ngu si, chụp bắt các rồng độc phiền não, khiến cho thoát khỏi biển lớn khổ sinh tử.
5. Đại sư tử vương phấn tấn, vì an trụ vô uý bình đẳng đại trí huệ, dùng làm khí trượng, phá tan tất cả chúng ma và ngoại đạo.
6. Dũng mãnh phấn tấn, vì có thể ở trong đại chiến trận sinh tử, mà diệt tan tất cả oán địch phiền não.
7. Đại trí phấn tấn, vì biết uẩn (sắc, thọ, tưởng, hành, thức năm uẩn), biết giới (bên trong có : mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý sáu căn; bên ngoài có : sắc, thanh, hương, vị, xúc sáu trần; giữa có : nhãn thức, nhĩ thức, tỹ thức, thiệt thức, thân thức, ý thức sáu thức, cộng thành 18 giới), lại biết xứ (sáu căn và sáu trần cộng thành 12 xứ), và các duyên khởi, tự tại khai thị tất cả các pháp của chư Phật nói.
8. Đà la ni phấn tấn, vì dùng sức niệm huệ, để tu trì Phật pháp, vĩnh viễn không quên mất, tuỳ thuận căn cơ của tất cả chúng sinh, vì họ tuyên nói tất cả Phật pháp.
9. Biện tài phấn tấn, vì không có mọi chướng ngại, tốc độ rất mau chóng, phân biệt được tất cả, khiến cho chúng sinh đắc được lợi ích, sinh tâm hoan hỉ.
10. Như Lai phấn tấn, vì trí huệ nhất thiết trí, pháp trợ đạo thảy đều thành tựu viên mãn, dùng một niệm trí huệ tương ưng, người đáng đắc được, tất cả đều được. Người đáng được giác ngộ, tất cả đều được giác ngộ. Bồ Tát ngồi toà sư tử, hàng phục tất cả chúng ma và oán địch, thành tựu A nậu đa la tam miệu tam bồ đề, tức là Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác.

Đó là mười thứ phấn tấn của Bồ Tát. Nếu các Bồ Tát an trụ trong pháp nầy, thì sẽ đắc được tự tại phấn tấn vô thượng của chư Phật đối với tất cả các pháp.

Phật tử ! Đại Bồ Tát có mười thứ sư tử hống. Những gì là mười ? 

Đó là : Xướng rằng : Tôi chắc chắn sẽ thành Chánh Đẳng Giác, là bồ đề tâm đại sư tử hống. Tôi sẽ khiến cho tất cả chúng sinh chưa độ được độ, chưa giải thoát được giải thoát, chưa an lạc được an lạc, chưa Niết Bàn được Niết Bàn, là đại bi đại sư tử hống. Tôi sẽ khiến cho hạt giống Phật Pháp Tăng không đoạn tuyệt, là báo ân Như Lai đại sư tử hống. Tôi sẽ nghiêm tịnh tất cả cõi Phật, là thệ nguyện rốt ráo kiên cố đại sư tử hống. Tôi sẽ trừ diệt tất cả đường ác và các xứ nạn, là tự giữ tịnh giới đại sư tử hống. Tôi sẽ đầy đủ thân lời và ý tướng tốt trang nghiêm của tất cả chư Phật, là cầu phước không nhàm đại sư tử hống. Tôi sẽ thành tựu viên mãn hết thảy trí huệ của tất cả chư Phật, là cầu trí không nhàm đại sư tử hống.

Các vị đệ tử của Phật ! Đại Bồ Tát có mười thứ sư tử hống. Những gì là mười ? Đó là : Bồ Tát xướng lớn tiếng rằng :
1. Tôi chắc chắn sẽ thành Phật Chánh Đẳng Giác, là bồ đề tâm đại sư tử hống của Bồ Tát, làm kinh động tất cả thiên ma ngoại đạo, khiến cho chúng hàng phục, không thể nhiễu loạn tâm thanh

tịnh của người tu đạo.

2. Tôi sẽ khiến cho tất cả chúng sinh chưa độ được độ, chưa được giải thoát được giải thoát, chưa được an lạc được an lạc, chưa được Niết Bàn được Niết Bàn, là đại bi đại sư tử hống của Bồ Tát.

3. Tôi sẽ khiến cho hạt giống Phật Pháp Tăng vĩnh viễn không khi nào đoạn tuyệt, tiếp tục thường trụ tại thế gian, là báo ân Như Lai đại sư tử hống.

4. Tôi sẽ trang nghiêm thanh tịnh tất cả cõi Phật, là thệ nguyện rốt ráo kiên cố đại sư tử hống của Bồ Tát.

5. Tôi sẽ trừ diệt tất cả đường ác và các xứ nạn, là tự giữ tịnh giới đại sư tử hống.

6. Tôi sẽ đầy đủ thân lời ý ba nghiệp thanh tịnh, và đắc được tướng tốt trang nghiêm của tất cả chư Phật, là cầu phước không nhàm đại sư tử hống.

7. Tôi sẽ thành tựu viên mãn hết thảy trí huệ của tất cả chư Phật, là cầu trí không nhàm đại sư tử hống.

Tôi sẽ diệt trừ tất cả chúng ma và các ma nghiệp, là chánh hạnh dứt các phiền não đại sư tử hống. Tôi sẽ biết rõ tất cả các pháp không ta, không chúng sinh, không thọ mạng, không người, không, vô tướng, vô nguyện, tịnh như hư không, là vô sanh pháp nhẫn đại sư tử hống. Tối hậu sanh Bồ Tát chấn động tất cả cõi nước chư Phật đều khiến cho nghiêm tịnh. Bấy giờ tất cả Thích Phạm Tứ Vương khen ngợi thỉnh cầu : Xin Bồ Tát dùng pháp vô sinh mà hiện thọ sinh. Bồ Tát liền dùng mắt trí huệ vô ngại, quán khắp tất cả chúng sinh thế gian không ai bằng ta, liền thị hiện đản sinh ở nơi cung vua, tự đi bảy bước đại sư tử hống. Ta ở nơi thế gian là tối thắng đệ nhất, ta sẽ vĩnh viễn chấm dứt bờ mé sinh tử. Là như thuyết mà làm đại sư tử hống. Đó là mười. 

Nếu các Bồ Tát an trụ pháp nầy, thì sẽ đắc được đại sư tử hống vô thượng của Như Lai.

8. Tôi sẽ diệt trừ tất cả chúng ma và các ma nghiệp, là tu chánh hạnh dứt các phiền não đại sư tử hống.

9. Tôi sẽ biết rõ tất cả các pháp : không cái ta, không chúng sinh, không thọ mạng, không người, không, vô tướng, vô nguyện, thanh tịnh như hư không, là vô sanh pháp nhẫn đại sư tử hống.

10. Tối hậu sanh Bồ Tát chấn động tất cả cõi nước chư Phật, đều khiến cho trang nghiêm thanh tịnh. Lúc đó, tất cả trời Đế Thích, Đại Phạm Thiên Vương, Hộ Thế Tứ Thiên Vương, đều đến trước khen ngợi thỉnh cầu : Chúng con xin Bồ Tát dùng pháp vô sinh mà thị hiện thọ sinh. Bồ Tát liền dùng con mắt trí huệ vô ngại, quán sát khắp tất cả chúng sinh thế gian, không ai bằng ta. Liền thị hiện đản sinh ở nơi cung vua, tự đi bảy bước đại sư tử hống. Ta ở nơi thế gian là tối thắng đệ nhất, ta sẽ vĩnh viễn chấm dứt bờ mé sinh tử. Là như thuyết mà làm đại sư tử hống.

Đó là mười thứ sư tử hống. Nếu các Bồ Tát an trụ trong pháp nầy, thì sẽ đắc được đại sư tử hống vô thượng của Như Lai.

Pages: 1 2 3 4 5 6 7