Thiền Sư Thần Hội Giảng Giải
Hòa Thượng Thích Thanh Từ dịch và giảng

 

Pháp Sư Chí Đức [1]

CHÁNH VĂN:

(21) Pháp sư Chí Đức hỏi: Thiền sư, ngày nay dạy chúng sanh chỉ cầu đốn ngộ. Vì sao không theo Tiểu thừa mà dẫn tiệm tu? Chẳng có người nào lên đài chín tầng mà không do đi dần từng bậc?

Đáp: Chỉ sợ chỗ người lên không phải là đài chín tầng, mà e rằng uổng công leo lên đống đất mồ cao. Nếu thật là đài chín tầng, đây tức là nghĩa đốn ngộ. Ngày nay ở trong đốn mà lập tiệm, giống như đài chín tầng vậy; phải bước lên từng bậc, trọn không được hướng trong tiệm mà lập nghĩa tiệm.

GIẢNG:

Câu hỏi này cũng hay. Hỏi như người muốn lên lầu chín tầng thì phải đi từ tầng một, hai, ba, bốn mới lên tới tầng chín. Nói đốn ngộ đi thẳng, không qua thứ bậc, như vậy là sao?

Ngài trả lời:

Ngày nay ở trong đốn mà lập tiệm, giống như đài chín tầng vậy, phải bước lên từng bậc, trọn không được hướng trong tiệm mà lập nghĩa tiệm.

Đốn là chỉ thẳng chỗ cuối cùng, nhưng lập tiệm là phương tiện để đi. Giống như muốn lên đài chín tầng, phải đi từ tầng một, tầng hai dần dần mới lên tới tầng chín. Không được trong các chặng đường đi lên, dừng lại một chỗ, đó là trong tiệm lập nghĩa tiệm. Nghĩa là dù phải đi lên từng bước, nhưng chỗ mình nhắm là mục đích cuối cùng, không có quyền dừng chân ở bất cứ tầng nào khi chưa lên tới tầng chót. Đó là đốn, mà đốn có phương tiện tiệm.

CHÁNH VĂN:

Sự cần lý, trí gồm giải, gọi là đốn ngộ.

GIẢNG:

Mấy câu này quá gọn. Sự cần lý, trí gồm giải là sao? Nói Sự là phải hiểu thấu được Lý. Nói Trí phải gồm cả Giải. Trí là trí nhận xét chín chắn. Giải là giải hội để thấu được chỗ cuối cùng. Như vậy Sự không rời Lý, Trí không rời Giải. Có thế mới gọi là đốn ngộ.

Chúng ta tu, trên lý là đạt đến vô niệm. Nhưng muốn đạt đến vô niệm phải làm sao? Nếu y như người thế gian, không tu gì cả thì không bao giờ vô niệm được. Cho nên phải dùng phương tiện tu. Người mới thì dùng hơi thở v.v… để nhớ hơi thở, quên đi những thứ lăng xăng. Nên Sự là phương tiện tu hành, còn Lý là mục tiêu ta nhắm đến. Muốn được chỗ vô niệm là lý tột cùng, trước đó chúng ta phải dùng phương tiện. Niệm dấy lên biết nó giả dối, buông đi, đó là Sự. Dùng Sự như thế để đi tới đâu? Đi tới Lý. Lý đó là Lý gì? Lý tột cùng.

Trí gồm cả Giải nghĩa là có Trí nhưng phải Giải hội nữa mới được. Trí biết suông không được, nên khi có Trí phải thấu được lẽ thật của sự vật hay công việc mình làm. Không thể nói có trí khôn là đủ, phải có sự lãnh hội về chỗ nhắm đến. Như vậy mới gọi là tu Thiền đốn ngộ.

CHÁNH VĂN:

Thảy đều không do đi dần từng bậc, tự nhiên là nghĩa đốn ngộ.

GIẢNG:

Khi đang Sự là đã thấy Lý rồi. Như vậy không phải ta đi từng bước, mà đi thẳng tới chỗ đốn ngộ không nghi ngờ. Sự là dụng công, Lý là mục tiêu nhắm đến, đạt được. Cả hai không rời nhau.

CHÁNH VĂN:

Tự tâm từ xưa đến nay vắng lặng là đốn ngộ. Tức tâm không chỗ được là đốn ngộ. Tức tâm là đạo, đó là đốn ngộ. Tức tâm không chỗ trụ là đốn ngộ. Còn pháp ngộ tâm, tâm không sở đắc là đốn ngộ. Biết tất cả pháp là tất cả pháp, đó là đốn ngộ. Nghe nói không mà không chấp không, tức là chẳng chấp chẳng không là đốn ngộ. Nghe nói ngã mà không chấp ngã, tức là không chấp không ngã là đốn ngộ. Không bỏ sanh tử vào Niết-bàn là đốn ngộ.

GIẢNG:

Đoạn này Ngài giải ý nghĩa đốn ngộ rất đầy đủ.

Tự tâm từ xưa đến nay vắng lặng là đốn ngộ.

Biết rõ tự tâm từ xưa đến nay vắng lặng đó là đốn ngộ.

Như chúng ta thấy, tâm mình đứng về mặt động, mặt sanh diệt gọi là thức. Thức đó tạo nghiệp đi trong sanh tử, tùy theo nghiệp lành nghiệp dữ mà sanh các cõi lành cõi dữ, vì vậy không phải là đốn ngộ. Còn biết rõ ràng tự tâm xưa nay vắng lặng, khi không dấy niệm phải quấy, hơn thua, tốt xấu, tâm vẫn lặng yên không động mà hằng tri giác. Biết rõ tâm như vậy tức là đốn ngộ.

Tức tâm không chỗ được là đốn ngộ.

Tâm đó không có hình tướng, không phải là vật chất. Thấy rõ nó không hình tướng, đó là đốn ngộ. Vì vậy Lục Tổ lấy Vô tướng là thể. Do thấy được chỗ vô tướng đó nên Ngài mới nói “Bản lai vô nhất vật”, đó là đốn ngộ.

Tức tâm là đạo, đó là đốn ngộ.

Tức tâm đó là đạo. Chúng ta hỏi đạo, hỏi tâm đủ thứ. Nhưng với nhà thiền, tâm tức là đạo chớ không có gì khác. Ngài Nam Tuyền nói: “bình thường tâm thị đạo”, tâm bình thường là đạo. Đốn ngộ là thấy tâm bình thường, tức là thấy đạo.

Tức tâm không chỗ trụ là đốn ngộ.

Tâm không dính, không kẹt chỗ nào hết, đó là đốn ngộ.

Còn pháp ngộ tâm, tâm không sở đắc là đốn ngộ.

Còn có pháp ngộ tâm, nhưng thật ra tâm không sở đắc, đó là đốn ngộ. Chúng ta nhớ câu “dĩ vô sở đắc cố” của Bát-nhã, đó là đốn ngộ.

Biết tất cả pháp là tất cả pháp, đó là đốn ngộ.

Sao biết tất cả pháp là tất cả pháp lại là đốn ngộ? Ví dụ như những nhà học giả thông thạo tất cả sự vật, danh tướng, như vậy có được gọi là đốn ngộ chưa? – Chưa được. Ở đây biết tất cả pháp mà không có niệm nào chia chẻ phân biệt, pháp là pháp, tâm là tâm. Như vậy là đốn ngộ. Không phải biết tất cả pháp rồi phân biệt cái này tên gì, cái kia tên gì, lăng xăng lộn xộn như thế chưa phải là đốn ngộ. Biết tất cả pháp là tất cả pháp, nó như vậy, đây là đốn ngộ.

Nghe nói không mà không chấp không, tức là chẳng chấp chẳng không là đốn ngộ.

Nghe nói không mà không mắc kẹt bên không và bên chẳng không, đó là đốn ngộ.

Nghe nói ngã mà không chấp ngã, tức là không chấp không ngã là đốn ngộ.

Ngã và vô ngã hai cái đều không mắc kẹt, đó là đốn ngộ.

Không bỏ sanh tử vào Niết-bàn là đốn ngộ.

Ngay trong vòng sanh tử này mà được Niết-bàn, đó là đốn ngộ. Chúng ta tu chỗ này khác với giáo lý Nhị thừa. Giáo lý Nhị thừa dạy bỏ chấp ngã để tu pháp vô ngã. Một bên là ngã, một bên là vô ngã, như vậy chưa phải là đốn ngộ. Không chấp ngã cũng không chấp vô ngã, như vậy mới là đốn ngộ. Nếu còn ngã và vô ngã là còn hai bên, còn hai bên thì chưa phải đốn ngộ. Như chữ đốn ngộ ở đây chỉ cho không còn mắc kẹt ở hai bên.

Lục Tổ nói lý đốn ngộ thế này: “Không nghĩ thiện, không nghĩ ác, cái gì là Bản lai diện mục của Thượng tọa Minh?” Không mắc kẹt hai bên là Bản lai diện mục hiện ra, chớ không có gì lạ. Thế nên nói không bỏ sanh tử vào Niết-bàn là đốn ngộ. Nhị thừa muốn vào Niết-bàn phải xả ly sanh tử. Ở đây ngay trong sanh tử mà sống với Niết-bàn, đó là đốn ngộ.

CHÁNH VĂN:

Lại có kinh nói: Nói Tự nhiên trí, Vô sư trí, ở nơi người lý phát thì đến đạo nhanh, người tu theo bên ngoài thì đến đạo chậm.

GIẢNG:

Chỗ này nói rõ nơi chúng ta có Tự nhiên trí, Vô sư trí, ở nơi người lý phát thì đến đạo nhanh. Lý phát là thấu được lý. Người tu theo hình thức bên ngoài thì đến đạo chậm. Đây là chỗ người tu chúng ta phải quan tâm.

Lâu nay có một số người nghĩ rằng, học Phật, chịu khó nghiền ngẫm thấu đáo lời Phật dạy đó là trí tuệ. Trí tuệ này nhà Phật gọi là Trí hữu sư. Khi nào buông hết những niệm tưởng, tâm luôn luôn yên tĩnh trong sáng, trí tuệ tự hiện tự sáng đó là Tự nhiên trí. Trí này đã sẵn có rồi, chỉ khi niệm lặng nó mới hiện gọi là Trí vô sư, tức trí không có thầy.

Đức Phật sau khi thành đạo, Ngài tuyên bố ta học đạo không có thầy. Vậy Ngài thấu suốt được tất cả là từ đâu ra? Từ Trí vô sư mà ra. Bao giờ ta buông xả hết những khôn dại của thế gian, tâm lặng yên trong sáng, thì Trí vô sư tự hiện. Ai cũng có Trí vô sư nhưng vì những lăng xăng lộn xộn của thế gian phủ che nên bị mờ khuất đi. Bây giờ muốn cho trí đó hiện ra, chúng ta phải dẹp bỏ những lăng xăng ở nội tâm, những lộn xộn ở ngoại cảnh, để tâm yên tĩnh trong sáng thì Trí vô sư tự hiện.

CHÁNH VĂN:

Nên có việc xuất thế không thể nghĩ lường, người nghe nói tức sanh nghi sợ. Nay thấy việc mau chóng không thể nghĩ lường ở đời có người tin chăng?

GIẢNG:

Nên có việc xuất thế không thể nghĩ lường, người nghe nói tức sanh nghi sợ.

Nơi chúng ta có một cái xuất thế không thể nghĩ lường, người nghe liền sanh nghi sợ.

Nay thấy việc mau chóng không thể nghĩ lường ở đời có người tin chăng?

Mau chóng tức là đốn ngộ. Mau chóng không thể nghĩ lường, như vậy trên đời có người tin không?

CHÁNH VĂN:

Hỏi: Nghĩa này thế nào? Xin bày tỏ điểm cương yếu kia?

Đáp: Như truyện Châu Thái Công nhà Ân nói, do cầm cần câu trúc câu cá mà chiếm được lòng Vua. Từ kẻ thất phu được chóng lên đài cao, đâu chẳng phải là việc không thể nghĩ lường ở thế gian?

GIẢNG:

Ngài đặt nghi vấn: Có một cái mau chóng không thể nghĩ lường, ở đời có người tin không? Pháp sư liền hỏi thêm:

Nghĩa này thế nào? Xin bày tỏ điểm cương yếu kia?

Ngài dẫn truyện Châu Thái Công, tức Khương Thượng Tử Nha đời nhà Ân. Lúc ông cầm cần trúc câu cá, là một dân dã bần cùng. Nhà vua thấy ông, sau vài câu hỏi đáp qua lại, Vua thích ông và đem về cử làm quan. Như vậy có qua trường lớp thi cử nào không? Để thấy thế gian cũng có những việc vượt thứ bậc. Cho nên nói rằng:

Từ kẻ thất phu được chóng lên đài cao, đâu chẳng phải là việc không thể nghĩ lường ở thế gian?

CHÁNH VĂN:

Việc xuất thế chẳng thể nghĩ lường. Ở trong tâm chúng sanh, rõ ràng đầy đủ tham ái vô minh, chỉ gặp Thiện tri thức chân chánh, một niệm tương ưng liền thành chánh giác, đâu chẳng phải là việc xuất thế không thể nghĩ lường?

GIẢNG:

Châu Thái Công từ một thường dân, nhân gặp Vua liền được cất lên làm quan to. Trong đạo Phật cũng có những việc không thể nghĩ lường như vậy. Trong tâm chúng sanh rõ ràng đầy đủ tham ái, vô minh. Nhưng khi gặp thiện hữu tri thức chân chánh, một niệm tương ưng, nhận được rồi liền lên chánh giác. Đâu chẳng phải là việc xuất thế không thể nghĩ lường?

CHÁNH VĂN:

Lại kinh nói: Chúng sanh thấy tánh thành Phật đạo. Long nữ trong khoảng chốc lát chóng phát tâm Bồ-đề, liền thành chánh giác. Lại khiến cho chúng sanh nhập Tri kiến Phật, nếu người không chịu đốn ngộ, Như lai sẽ gồm chung mà nói năm thừa. Nay đã không nói năm thừa, chỉ nói chúng sanh nhập Tri kiến Phật. Tóm lược nghĩa kinh này chỉ hiển bày đốn môn, ở nơi một niệm tương ưng, thật chẳng do cấp bậc từ từ. Người khéo tương ưng là thấy vô niệm. Người thấy vô niệm gọi là liễu Tự tánh. Người liễu Tự tánh gọi là không có sở đắc. Do người kia không có sở đắc, tức Như Lai thiền. Duy-ma-cật nói: Như con quán thật tướng sắc thân mình, quán Phật cũng vậy. Con quán Như Lai đời trước không đến, đời sau không đi, hiện tại không trụ. Do không trụ tức Như Lai thiền.

GIẢNG:

Trước hết Ngài dẫn kinh Pháp Hoa nói về Long nữ, chỉ trong khoảng chốc lát phát tâm Bồ-đề liền thành chánh giác. Đó là việc không thể nghĩ bàn. Trong kinh Pháp Hoa lại chỉ cho chúng sanh nhập Phật tri kiến, chúng sanh nào không chịu theo đốn ngộ nhập Phật tri kiến thì Phật phải phương tiện nói Ngũ thừa. Chỉ đốn mà chúng sanh không thể đốn được thì Phật phải đi đường tiệm.

Nay đã không nói năm thừa, chỉ nói chúng sanh nhập Tri kiến Phật.

Thiền tông không nói theo thứ tự năm thừa, mà nói thẳng nhập Tri kiến Phật.

Tóm lược nghĩa kinh này chỉ hiển bày đốn môn, ở nơi một niệm tương ưng, thật chẳng do cấp bậc từ từ.

Như vậy chính trong kinh Pháp Hoa, đức Phật không nói Ngũ thừa, chỉ nói nhập Phật tri kiến. Để biết rằng người nhập Phật tri kiến là theo đốn ngộ. Muốn thế phải một niệm tương ưng. Người khéo được một niệm tương ưng là thấy được vô niệm.

Chúng ta có khả năng thấy được vô niệm không? Tất cả chúng ta ai cũng có khả năng đó hết. Lúc khởi niệm ta biết, khi hết niệm ta cũng biết. Hết niệm là vô niệm chớ gì. Thấy rõ nơi tâm rồi, chỉ cần khuếch trương cái thấy đó. Từ một điểm nhỏ khuếch trương lần lần thành lớn, từ một giây khuếch trương lần thành một phút, rồi hai phút, ba phút. Cho đến ngồi một giờ mà không có niệm nào hết thì thích biết mấy, vì lúc đó mình đang ở trong Niết-bàn rồi. Như vậy không cần rời sanh tử mà vẫn được Niết-bàn. Đốn ngộ là ở chỗ đó.

Người biết tu rồi thì việc làm không có gì ngăn trở hết. Bỏ niệm là quyền của mình, khởi nghĩ cũng quyền của mình. Như vậy chúng ta đủ tư cách để đi tới vô niệm. Vô niệm phút nào là Niết-bàn phút ấy. Thế thì có gì mà lo!

Cho nên ở đây Ngài nói thêm:

Người khéo tương ưng là thấy vô niệm. Người thấy vô niệm gọi là liễu Tự tánh. Người liễu Tự tánh gọi là không có sở đắc.

Liễu ngộ Tự tánh không hình không tướng, không diện mạo gì hết, chỉ là một thể trong sáng trùm khắp, cho nên nói không sở đắc.

Do người kia không có sở đắc, tức Như Lai thiền.

Ai tu không có sở đắc gọi là Như Lai thiền. Ở đây không khéo sẽ hiểu lầm Như Lai thiền với Tổ sư thiền. Khi dùng Như Lai thiền đối chiếu với Tổ sư thiền là muốn nói Như Lai thiền là Thiền nguyên thủy, vì do Phật dạy; còn Tổ sư thiền là Thiền đốn ngộ do chư Tổ dạy. Đó là so sánh giữa Như Lai thiền và Tổ sư thiền.

Ý đoạn này không phải như vậy. Người tu thiền đi thẳng tới chỗ giác ngộ chân thật, không qua thứ bậc gọi là Như Lai thiền. Muốn khỏi lầm ta nên gọi là “Như Lai tự tánh thanh tịnh thiền”. Như Lai tự tánh tức là Phật tự tánh, thanh tịnh thiền là thiền đốn ngộ. Người nào tu không có sở đắc là đi theo thiền đốn ngộ, còn gọi là Như Lai tự tánh thanh tịnh thiền.

Duy-ma-cật nói: Như con quán thật tướng sắc thân mình, quán Phật cũng vậy.

Ngài Duy-ma-cật quán thật tướng sắc thân của mình thế nào thì quán thật tướng sắc thân của Phật cũng vậy.

Con quán Như Lai đời trước không đến, đời sau không đi, hiện tại không trụ. Do không trụ tức Như Lai thiền.

Như vậy ngài Duy-ma-cật chủ trương quán Thật tướng sắc thân mình và Phật cũng vậy. Thật tướng sắc thân mình và Thật tướng sắc thân Phật không khác. Quán Phật không có quá khứ, hiện tại, vị lai; tất cả đều không trụ. Thấy ba đời không thật, đó là Như Lai thiền.

CHÁNH VĂN:

Lại kinh nói: Tất cả chúng sanh xưa nay Niết-bàn, Vô lậu trí tánh vốn tự đầy đủ, hoặc giả muốn khéo phân biệt tự tâm hiện cùng lý tương ưng, lìa năm pháp, ba tự tánh, lìa bát thức, hai vô ngã, lìa chấp trong chấp ngoài (nội kiến ngoại kiến), lìa hai pháp có không. Rốt ráo bình đẳng, lặng lẽ thường tịch, rộng lớn vô biên, thường hằng không biến hoại.

GIẢNG:

Ở đây nói cái dụng của thiền hay của Niết-bàn.

Tất cả chúng sanh xưa nay Niết-bàn, Vô lậu trí tánh vốn tự đầy đủ, nghĩa là tất cả chúng sanh xưa nay Niết-bàn, ai cũng có đầy đủ Vô lậu trí. Nói xưa nay là Niết-bàn mà bây giờ ai cũng than khổ quá, phiền não quá. Than khổ, than phiền não là Niết-bàn chưa? Như vậy trong kinh nói không đúng sự thật sao? Kinh nói không bao giờ sai sự thật. Tất cả chúng ta xưa nay Niết-bàn, đó là nói trên cái Tự tánh vô niệm. Ai cũng sẵn có vô niệm. Dấy niệm liền buông, buông rồi thì hết niệm, hết niệm tức là vô niệm. Vô niệm luôn sẵn có, là hiện tướng của Niết-bàn, chỉ vì chúng ta chạy theo niệm thành ra điên đảo.

Nếu biết niệm làm cho mình điên đảo, luân hồi trong lục đạo thì bỏ nó đi. Bỏ niệm là trở về với vô niệm, như sóng lặng thì trở về mặt biển bình yên. Chúng ta thấy biển nổi sóng, nhưng người trí nhìn xa biết thể của biển là thanh tịnh. Sóng chỉ là tướng vọng động tạm thời thôi, khi tướng vọng động dừng lại thì thể yên tịnh hiện bày.

Chúng ta cứ thấy tâm mình lăng xăng, lộn xộn rồi lo buồn, không biết bao giờ thành Phật? Tu mà không tin mình thành Phật thì tu làm gì cho uổng. Tu là để thành Phật, mà Phật ở sẵn nơi mình, chỉ đừng cho chúng ma quấy nhiễu thôi. Dẹp ma thì Phật hiện, ma còn quấy nhiễu hoài thì Phật không bao giờ hiện. Nên nhớ buồn, thương, giận, ghét là hiện tướng của ma, chúng ta phải loại bỏ nó ngay, đừng ôm ấp trong tâm nữa thì mới mong thành Phật được.

Động là dụng, còn thể là cái bất động. Chúng ta dẹp cái động để trở về thể. Thể là cái sẵn có, còn động là cái theo duyên. Ví như sóng nổi trên mặt hồ có chừng mực, nhưng mặt hồ thì trùm hết. Nếu gió dừng thì sóng tự lặng, sóng lặng rồi chỉ còn một mặt hồ thôi. Sóng là cái mới sanh, nhưng có lượn sóng nào không từ mặt hồ mà dấy lên? Còn cái phẳng lặng của mặt hồ luôn sẵn có.

Thấy rõ như vậy chúng ta mới có hướng tu. Bỏ cái phẳng lặng để giữ sóng được không? Bỏ cái phẳng lặng tức bỏ mặt hồ thì sóng cũng đâu còn. Nhưng bỏ những ngọn sóng dấy động, mặt hồ còn không? – Vẫn còn. Rõ ràng sóng tựa vào mặt hồ mà dấy. Khi gió nghiệp thổi sóng thức dấy lên thành ra đảo điên. Nếu ta cho sóng thức lặng xuống thì trở về Tự nhiên trí có sẵn của mình. Tìm ở đâu cho xa xôi!

Trên lý thật không xa, nhưng vì nghiệp duyên nhiều đời nhiều kiếp, chúng ta tích lũy quá đậm, cho nên thấy khó. Nên biết sóng trong tâm thức đâu phải tự nhiên dấy động, mà do gió nghiệp lùa đẩy. Khi nổi sóng ta cố kềm chế cho lặng, lặng rồi có ai đó chọc thì nổi sóng nữa, cứ vậy cả đời khổ nhọc. Bây giờ ta biết rõ sóng thức là tạm bợ, vô nghĩa, không cần dấy niệm. Gió nghiệp thổi cũng không thật luôn. Nhớ vậy nên cười thôi, gió nghiệp có xúc phạm tới danh dự của mình, ta cũng cười vì có thật đâu mà giận mà buồn. Được thế từ từ hết nghiệp thì Tâm thể phẳng lặng trở lại. Như vậy giải thoát nằm sẵn trong ta, chớ không ở đâu xa hết.

Tất cả chúng sanh xưa nay Niết-bàn, Vô lậu trí tánh vốn tự đầy đủ, hoặc giả muốn khéo phân biệt tự tâm hiện cùng lý tương ưng, lìa năm pháp, ba tự tánh, lìa bát thức, hai vô ngã, lìa chấp trong chấp ngoài (nội kiến ngoại kiến), lìa hai pháp có không. Rốt ráo bình đẳng, lặng lẽ thường tịch, rộng lớn vô biên, thường hằng không biến hoại.

Chúng ta biết mình có đủ nào là Niết-bàn, nào là Vô lậu trí tánh. Nếu muốn khéo phân biệt nơi tự tâm hiện cùng lý tương ưng, thì chịu khó lìa năm pháp. Năm pháp là danh, tướng, phân biệt, chánh trí, như như, trong kinh Lăng-già có nói rõ. Lìa ba Tự tánh là Biến kế sở chấp tánh, Y tha khởi tánh, Viên thành thật tánh. Lìa bát thức là nhãn, nhĩ, tỹ, thiệt, thân, ý, Mạt-na và A-lại-da thức. Lìa hai vô ngã là nhân vô ngã và pháp vô ngã. Lìa chấp trong chấp ngoài là nội kiến và ngoại kiến. Lìa pháp có và không. Nếu lìa được tất cả những thứ đó thì rốt ráo bình đẳng, lặng lẽ, thường tịch, rộng lớn vô biên, thường hằng không biến hoại.

Nói gọn nhất là lìa hai bên như Lục Tổ đã dạy. Ai nói gì ta cũng đừng nghĩ phải, nghĩ quấy, đừng nghĩ khen nghĩ chê, thì mọi thứ đều an lành hết. Nếu được như vậy là tâm mình bình đẳng, lặng lẽ, thường tịch rộng lớn vô biên, thường hằng không biến hoại.

CHÁNH VĂN:

Vì cớ sao? Tự tánh vốn thanh tịnh, thể không thể được. Người thấy như thế tức được Bản tánh. Nếu người thấy Bản tánh tức sanh Như Lai địa. Người thấy như thế, lìa tất cả tướng, ấy gọi là chư Phật.

GIẢNG:

Tại sao lìa tất cả thì được thanh tịnh? Đơn giản quá! Vì “Tự tánh vốn thanh tịnh”, tánh mình vốn tự thanh tịnh. Lâu nay chúng ta cứ ngỡ trong tâm mình ngàu đục, xấu xa đủ thứ hết. Nhưng thật ra những thứ đó đâu có sẵn trong tâm, vì ta đem vô, giữ lại thành thói quen, chớ nó không có sẵn. Cái sẵn của mình là tâm thanh tịnh, Tự tánh vốn thanh tịnh.

Thể không thể được, nói cho dễ hiểu là thể ấy không có tướng mạo. Tự tánh vốn thanh tịnh không có tướng mạo gì hết.

Người thấy như thế tức được Bản tánh.

Thấy được như vậy là nhận ra Bản tánh của chính mình rồi.

Nếu người thấy Bản tánh tức sanh Như Lai địa.

Người nào thấy được Bản tánh của mình, người ấy sẽ sanh ở đất Phật.

Người thấy như thế, lìa tất cả tướng, ấy gọi là chư Phật.

Như trong kinh Kim Cang nói: “Phàm sở hữu tướng, giai thị hư vọng, nhược kiến chư tướng phi tướng, tức kiến Như Lai.” Người thấy như thế là lìa tất cả tướng, lìa tất cả tướng gọi là chư Phật. Như vậy đừng dính, đừng kẹt một tướng nào hết đó là Phật.

CHÁNH VĂN:

Người thấy như thế, vọng niệm như cát sông Hằng, đồng một lúc đều lặng lẽ. Người thấy như thế, công đức thanh tịnh như cát sông Hằng, cùng một lúc đồng đầy đủ.

GIẢNG:

Nếu người thấy được như vậy, vọng niệm nhiều như cát sông Hằng cũng có thể lặng lẽ hết, không khó chút nào.

Người thấy được như vậy công đức thanh tịnh như cát sông Hằng, cùng một lúc đồng đầy đủ.

Câu này hơi khó hiểu. Người ta thường nói “tích công lũy đức”, tức là làm việc tốt giúp người này, kẻ kia gọi là tích lũy công đức. Nhưng ở đây nói chỉ cần thấy được như vậy, công đức nhiều như cát sông Hằng một lúc đều đầy đủ, nghĩa là sao?

Thật ra không có gì lạ, bởi chúng ta tạo công đức sanh diệt, nên bòn mót từng chút, công đức đó gọi là phước đức. Do phước lành ta được công đức như vậy, đã tạo công đức trên cái sanh diệt thì nó cũng bại hoại theo cái sanh diệt. Còn nhận chân ra Bản thể thanh tịnh, trùm khắp, vô lượng vô biên của chính mình, từ Bản thể đó ứng hiện thì tất cả phước đức, công đức đều tự đầy đủ trong đó. Nên nói dạy một trăm người tu phước lành để đời sau hưởng, không bằng dạy một người tu, biết xa lìa tất cả phiền não để tiến tới Bồ-đề.

Cũng vậy, một người thể nhập được Như Lai thanh tịnh thiền hay là Phật tánh thì tất cả công đức đồng thời đầy đủ hết. Bởi vì không có công đức nào bì được với công đức không sanh, không diệt. Nói cho dễ hiểu, như chúng ta độ chúng sanh bằng cách dạy họ bỏ ác làm lành thì mình có phước, người tu theo cũng có phước. Nhưng phước đó được sanh ở cõi trời hoặc trở lại làm người là cùng. Khi hết phước cũng trở lại nữa, trở đi trở lại lên xuống mãi không cùng. Đó là vì tu tạo phước sanh diệt, nên còn giới hạn trong sanh tử.

Còn độ một người tu được giải thoát sanh tử thì phước được bao nhiêu? Vô lượng, không thể tính kể. Nên Phật không khuyên chúng ta lên cõi trời vì sợ hết phước cũng tuột xuống nữa. Chỉ ra khỏi sanh tử mới là cứu kính, là trên hết. Vì vậy đạo Phật là đạo giải thoát sanh tử, mục tiêu chính là chỗ đó. Ở đây nói người đạt được chỗ cứu kính thanh tịnh là trên hết, không gì sánh bằng. Vì vậy mọi công đức đều được đầy đủ.

CHÁNH VĂN:

Người thấy được như thế, gọi là pháp môn một chữ.

GIẢNG:

Pháp môn một chữ là chữ gì? Ở đây Ngài không nói chữ gì hết. Tôi tạm nói chữ “Tâm” hoặc chữ “Phật”.

CHÁNH VĂN:

Người thấy như thế, Lục độ viên mãn. Người thấy như thế, gọi là Trí vô lậu. Người thấy như thế, gọi là Pháp nhãn tịnh. Người thấy như thế, gọi là Vô sở đắc. Vô sở đắc là chân giải thoát.

GIẢNG:

Người thấy được chỗ chân thật của mình thì Lục độ viên mãn, tức đầy đủ công đức của Lục độ vạn hạnh.

Người thấy như thế gọi là Trí vô lậu, trí không còn đi trong sanh tử. Người thấy được như thế gọi là Pháp nhãn tịnh, tức là được con mắt pháp thanh tịnh.Người thấy được như thế gọi là Vô sở đắc. Vô sở đắc là không có gì để được. Nhưng có ai tu mà không muốn được đâu, ai cũng muốn được hết, vì vậy nên không được. Bởi vì còn có chỗ được thì còn chấp ngã chấp pháp. Pháp để được và ngã hay được. Chỗ đó không có gì để được, do không có gì để được gọi là chân giải thoát, còn có chỗ được là chưa giải thoát.

CHÁNH VĂN:

Chân giải thoát tức đồng Như Lai, tri kiến rộng lớn sâu xa, đều không sai khác. Người biết như thế, tức là Như Lai, Ứng cúng, Chánh biến tri. Người thấy như thế, phóng ánh sáng đại trí tuệ, chiếu soi khắp thế giới. Vì cớ sao? Vì thế giới tức là tâm, nói tâm ứng Chánh biến tri, đây chính là chỉ tâm không tịch, trọn không có niệm khác(1). Cho nên nói chiếu sáng khắp thế giới.

GIẢNG:

Chân giải thoát tức đồng Như Lai, nếu được chân giải thoát là đồng với Phật.

Người nào thấy như thế, thấy như thế là thấy làm sao? Thấy được Tự tánh mình vốn thanh tịnh. Người ấy sẽ có đủ tất cả các diệu dụng tri kiến rộng lớn sâu xa, đều không sai khác.

Người biết như thế, tức là Như Lai, Ứng cúng, Chánh biến tri. Người thấy như thế, phóng ánh sáng đại trí tuệ, chiếu soi khắp thế giới. Vì cớ sao? Vì thế giới tức là tâm.

Tại sao có đại trí tuệ chiếu soi khắp thế giới? Vì tâm trùm khắp thế giới, thế giới tức là tâm.

Nói tâm ứng Chánh biến tri, đây chính là chỉ tâm không tịch, trọn không có niệm khác. Cho nên nói chiếu sáng khắp thế giới.

Tâm không tịch là tâm rỗng lặng, không có niệm thứ hai, thứ ba. Tâm này chiếu khắp thế giới.

Tất cả công năng bất khả tư nghì gốc đều từ tâm không có giới hạn. Bản tâm chúng ta vốn thanh tịnh trùm khắp, không tướng mạo, luôn luôn trong sáng. Nếu nhận ra Bản tâm đó thì đầy đủ tất cả công đức, công đức nào chư Phật có chúng ta cũng có. Thế nên người tu muốn đạt được Phật quả, không gì khác hơn là sống được với Bản tâm thanh tịnh của chính mình. Muốn sống được với Bản tâm thanh tịnh ấy, trước phải đuổi hết tam bành lục tặc đi.

Chúng ta còn tam bành lục tặc không? Như mình đang nghe pháp, thấy thanh tịnh lắm. Nhưng bước ra khỏi cổng có ai chỉ mặt chửi mắng, lúc đó biết phàm hay Thánh ngay. Tam bành lục tặc nổi lên thì Thánh trốn mất. Nếu khéo đuổi bọn gian manh đó đi thì Thánh hiện tiền. Người hết tam bành lục tặc, đi đâu thiên hạ cũng xá vì là ông Phật con rồi. Người không đuổi tam bành lục tặc, mà cầu phép lạ nơi này nơi kia để thành Phật, chuyện này không bao giờ có. Hiểu như vậy rồi không ai dám thả trôi đời mình để chịu luân hồi sanh tử muôn kiếp.

CHÁNH VĂN:

Các người học đạo tâm không có xanh, vàng, đỏ, trắng, đen. Cũng không có ra vào, đến đi, gần xa trước sau, cũng không có tác ý, cũng không có chẳng tác ý. Nếu được như thế, gọi là tương ưng.

GIẢNG:

Tâm chân thật của chúng ta không có xanh, vàng, trắng, đỏ, đen; không có đến đi, không có trước sau, cũng không tác ý hay chẳng tác ý. Không tác ý là không dấy niệm. Vì sao cũng không chẳng tác ý? Vì thể vốn không động, nhưng dụng cần quán chiếu thì tác ý mới quán chiếu được, nên nói không tác ý cũng không chẳng tác ý.

Nếu được như thế, gọi là tương ưng.

Người nào được vậy là được tương ưng.

CHÁNH VĂN:

Nếu có xuất định, nhập định và tất cả cảnh giới, chẳng luận là thiện ác… đều không rời vọng tâm.

GIẢNG:

Ở đây nói đốn nên không đặt từ Sơ thiền, Nhị thiền, Tam thiền, Tứ thiền, mà phải đi thẳng trở về Tự tánh thanh tịnh thiền của chính mình. Vì vậy cũng không đặt vấn đề thiện ác, vì còn thiện ác là còn đối đãi, mà đối đãi tức là vọng tâm.

CHÁNH VĂN:

Tất cả đều có sở đắc, do có sở đắc nên đều là hữu vi, hoàn toàn không tương ưng.

GIẢNG:

Những gì còn hữu vi thì không tương ưng. Nhà Phật nói vật gì có sanh trụ diệt đều gọi là pháp hữu vi, không có sanh trụ diệt là pháp vô vi. Như vậy tất cả cảnh giới nhập định, xuất định hay thiện ác đều có sở đắc nên đều là hữu vi. Mà hữu vi thì chưa tương ưng với Thể bất sanh bất diệt vô sở đắc.

CHÁNH VĂN:

Nếu người quyết tâm tu chứng, đến chỗ ba quân, ngay lúc tiếp cận gươm đao, bị gươm đao chia cắt thân thể, vẫn thấy vô niệm, cứng như kim cang, mảy may chẳng động.

GIẢNG:

Điều này khó đây. Nghĩa là biết được vô niệm rồi thì đối với tất cả cảnh, không còn gì phải hồi hộp, lo sợ. Như vậy mới thật là được chỗ chân thật vô niệm.

CHÁNH VĂN:

Dù khiến chư Phật như hằng sa đến, cũng không có một niệm mừng. Dù gặp chúng sanh như hằng sa đồng thời đều bị tiêu diệt, cũng không khởi một niệm tâm bi. Đây là đại trượng phu, được tâm rỗng không bình đẳng.

GIẢNG:

Các tâm buồn, tâm mừng đều không còn nữa, lặng lẽ, thanh tịnh không dấy niệm, mới được gọi là bậc đại trượng phu.

CHÁNH VĂN:

Nếu có người ngồi “tâm si nhập định, trụ tâm khán tịnh, khởi tâm chiếu bên ngoài, nhiếp tâm lắng lặng bên trong”, đây là chướng Bồ-đề, chẳng cùng Bồ-đề tương ưng, do đâu có thể được giải thoát?

Giải thoát, Bồ-đề nếu như thế thì Xá-lợi-phất ngồi yên trong rừng, không bị ngài Duy-ma-cật quở. Ngài quở “không ở trong tam giới hiện thân ý, đó là ngồi yên”.

GIẢNG:

Tâm si nhập định là nhập định mà quên thân quên cảnh, không biết gì cả, đây gọi là si định. Trụ tâm khán tịnh là ngồi kềm tâm nhìn vào chỗ yên tịnh. Khán tịnh với nhìn vọng tưởng, hai thứ có khác nhau không? Trụ tâm khán tịnh là nhìn ở chỗ yên tịnh lặng lẽ và đem tâm kềm giữ chỗ yên tịnh lặng lẽ đó. Còn nhìn vọng tưởng là ngồi thấy vọng niệm khởi lên liền bỏ, không trụ tâm kềm một chỗ. Vì vậy hai việc khác nhau. Người trụ tâm kềm một chỗ thì dễ định, nhưng định đó do kềm chớ không phải tự nhiên.

Khởi tâm chiếu bên ngoài tức là khởi tâm quán vật quán người, vô thường bất tịnh v.v… Nhiếp tâm lắng lặng bên trong tức là nhiếp tâm kềm cho yên ở bên trong.

Đây là chướng Bồ-đề, chẳng cùng Bồ-đề tương ưng, do đâu có thể được giải thoát?

Chúng ta khi ngồi thiền thường mắc phải lỗi kềm tâm cho lắng lặng, ở đây gọi là nhiếp tâm lắng lặng bên trong. Như vậy là đè nén, không thoải mái, tự nhiên.

Khi nào các vọng tưởng vắng bặt, tâm tự lặng lẽ, đó mới là chân thật. Cho nên khi dấy niệm ta thấy, buông thôi thì trở về vô niệm, chớ không kềm đè gì cả. Nếu còn kềm đè bên trong là chưa trở về chỗ chân thật.

Không ở trong tam giới hiện thân ý, đó là ngồi yên, định của ngài Duy-ma-cật là cái định đó. Ở trong tam giới mà không hiện thân ý, nghĩa là sống trong cõi phàm tục này mà không dấy niệm chạy theo cảnh, theo người đó là không hiện thân ý. Được như vậy là ngồi yên, tuy nói ngồi yên nhưng vẫn đi đứng bình thường.

CHÁNH VĂN:

Chỉ trong tất cả thời thấy vô niệm, không thấy thân tướng, gọi là chánh định. Không thấy tâm tướng, gọi là chánh tuệ.

GIẢNG:

Chỉ trong tất cả thời thấy vô niệm, nghĩa là thấy tâm không có một niệm nào.

Không thấy thân tướng, gọi là chánh định. Không thấy tâm tướng, gọi là chánh tuệ.

Tâm lặng lẽ thanh tịnh, không thấy thân tướng tâm tướng, gọi là chánh định chánh tuệ.

***

(1) Hai câu nầy e có sai lầm, bản của Hồ Thích không có mười chữ “ngôn tâm ứng chánh biến tri, thử giả chánh tâm”.