LUẬN BIỆN TRUNG BIÊN
Thế Thân Bồ-tát tạo luận
Đường Tam tạng pháp sư Huyền Trang dịch
Nguyên Hồng dịch tiếng Việt

 

QUYỂN TRUNG

Phẩm 3: BIỆN CHÂN THẬT

Đã nói xong về chướng, nay sẽ nói về chân thật.

Tụng nói:

Chân thật chỉ có 10,

Là căn bản và tướng,

Không điên đảo nhân quả

Và thô tế chân thật.

Cực thành tịnh sở hành,

Nhiếp thụ và sai biệt.

Mười thiện xảo chân thật

Đều là trừ ngã kiến.

Luận nói: Phải biết chân thật chỉ có 10 thứ: 1.Căn bản chân thật. 2.Tướng chân thật. 3.Không điên đảo chân thật. 4.Nhân quả chân thật. 5.Thô tế chân thật. 6.Cực thành chân thật. 7.Tịnh sở hành chân thật. 8.Nhiếp thụ chân thật. 9.Sai biệt chân thật. 10.Thiện xảo chân thật. Đây lại có 10 thứ là vì muốn khiển trừ 10 ngã kiến. Mười thiện xảo là: 1.Uẩn thiện xảo. 2.Giới thiện xảo. 3.Xứ thiện xảo.

4.Duyên khởi thiện xảo. 5.Xứ phi xứ thiện xảo. 6.Căn thiện xảo. 7.Thế thiện xảo. 8.Đế thiện xảo. 9.Thừa thiện xảo. 10.Hữu vi vô vi pháp thiện xảo.

Trong đây, căn bản chân thật là gì? Là 3 tự tính: 1.Biến kế sở chấp tự tính. 2.Y tha khởi tự tính. 3.Viên thành thật tự tính. Dựa vào đây mà thành lập các chân thật khác. Ở đây nói trong 3 tự tính, nghĩa nào là chân thật?

Tụng nói:

Ở trong 3 tự tính,

Chỉ một thường phi hữu.

Một hữu chẳng chân thật,

Một hữu không chân thật.

Luận nói: Ngay ở trong 3 tự tính này, tướng biến kế sở chấp là thường phi hữu. Chỉ có cái thường phi hữu trong tính này là chân thật vì không điên đảo. Tướng y tha khởi là hữu mà chẳng chân thật. Chỉ có cái hữu phi chân ở trong y tha khởi là chân thật vì có loạn tính. Tướng viên thành thật cũng là hữu phi hữu. Chỉ cái hữu phi hữu ở trong tính này là chân thật, vì có không tính.

Tướng chân thật là thế nào?

Tụng nói:

Nơi pháp thường thủ thú,

Và sở thủ năng thủ,

Trong tính hữu phi hữu,

Thấy tăng ích tổn giảm.

Biết thế nên không chuyển,

Đó là tướng chân thật.

Luận nói: Nơi tất cả pháp, Bổ-đặc-già-la thấy có tăng ích tổn giảm. Nếu biết như vậy nên kia không chuyển. Đó là tướng chân thật của tự tính biến kế sở chấp. Trong các pháp sở thủ năng thủ thấy có tăng ích và tổn giảm. Nếu biết như vậy nên kia không chuyển. Đó là tướng chân thật của tự tính y tha khởi. Đối với hữu phi hữu thấy có tăng ích và tổn giảm. Nếu biết như vậy nên kia không chuyển. Đó là tướng chân thật của tự tính viên thành thật. Đây trong tướng căn bản chân thật không điên đảo nên gọi là tướng chân thật. Không điên đảo chân thật, nghĩa là tính vô thường, khổ, không, vô ngã, do đây trị thường v.v…4 đảo kia.

Làm sao biết được vô thường này v.v…được lập dựa trên căn bản chân thật?

Tụng nói:

Vô tính với sinh diệt,

Cấu tịnh 3 vô thường.

Sở thủ và sự tướng,

Hòa hợp khổ 3 thứ.

Không và hữu 3 thứ,

Là tự tính không khác.

Vô tướng và dị tướng,

Tự tướng 3 vô ngã.

Như tiếp 4, 3 thứ,

Y căn bản chân thật.

Luận nói: Ba vô thường là:

1. Vô tính vô thường, là biến kế sở chấp. Thường này là không.

2. Sinh diệt vô thường, là y tha khởi. Cái khởi này có lúc hết.

3. Cấu tịnh vô thường, là viên thành thật. Vì vị chuyển biến.

Ba thứ khổ là:

1. Sở thủ khổ, là biến kế sở chấp. Vì Bổ-đặc-già-la pháp chấp sở thủ.

2. Sự tướng khổ, là y tha khởi. Vì có 3 tướng khổ.

3. Hòa hợp khổ, là viên thành thật. Vì hợp các tướng khổ.

Ba thứ không là:

1. Vô tính không, là biến kế sở chấp. Đây không có một lý thú nào có thể nói là hữu, vì do phi hữu này mà nói là không.

2. Dị tính không, là y tha khởi. Như chỗ vọng chấp không phải hữu, chẳng phải tất cả chủng tính là hoàn toàn không.

3. Tự tính không, là viên thành thật. Vì 2 không, hiển thị tự tính.

Ba vô ngã là:

1. Vô tướng vô ngã, là biến kế sở chấp. Vì tướng này vốn không, nên gọi vô tướng. Tức nơi vô tướng này gọi là vô ngã.

2. Dị tướng vô ngã, là y tha khởi. Tướng này tuy là hữu, nhưng không như tướng hữu của biến kế sở chấp kia, nên gọi là dị tướng. Tức nơi cái tướng khác này mà nói là vô ngã.

3. Tự tướng vô ngã, là viên thành thật. Cái vô ngã hiển thị làm tự tướng. Tức nơi tự tướng này mà nói là vô ngã.

Như vậy đã nói 4 thứ vô thường, khổ, không, vô ngã, như tuần tự y vào căn bản chân thật đều chia làm 3 thứ. Nghĩa là 4 thứ, mỗi thứ đều có 3 thứ như btrước nói.

Nhân quả chân thật, là 4 Thánh đế. Vì sao đây y vào căn bản chân thật?

Tụng nói:

Đã nói 3 tướng khổ,

Tập cũng có 3 thứ,

Là tập khí, đẳng khởi,

Và tướng vị ly hệ.

Hai tự tính không sinh,

Cấu tịch nhị tam diệt.

Biến tri và vĩnh đoạn,

Chứng đắc 3 đạo đế.

Luận nói: Khổ đế có 3, nghĩa là vô thường v.v… 4 thứ, mỗi thứ có 3 tướng hư trước đã nói.

Ba tập đế là:

1. Tập khí tập, là biến kế sở chấp. Tự tính chấp tập khí.

2. Đẳng khởi tạp, là nghiệp phiền não.

3. Vị ly hệ tập, là chưa lìa chướng chân như.

Ba diệt đế là:

1. Tự tính diệt, là vì tự tính không sinh.

2. Hai thủ diệt, là vì sở thủ năng thủ cả 2 không sinh.

3. Bản tính diệt, là cấu tịch 2 thứ, tức trạch diệt và chân như.

Ba đạo đế là:

  1. Biến tri đạo
  2. Vĩnh đoạn đạo
  3. Chứng đắc đạo.

Nên biết rằng trong đây, nơi biến kế sở chấp chỉ có biến tri, nơi y tha khởi có biến tri và vĩnh đoạn, nơi viên thành thật có biến tri và chứng đắc. Cho nên y vào đây mà thiết lập đạo đế.

Thô tế chân thật, là thế tục đế và thắng nghĩa đế. Vì sao đây y vào căn bản chân thật?

Tụng nói:

Nên biết thế tục đế,

Có ba thứ sai biệt.

Là giả, hành, hiển liễu,

Y vào ba căn bản.

Thắng nghĩa đế cũng ba,

Là nghĩa, đắc, chính hành,

Y bản một vô biến,

Vô đảo hai viên thật.

Luận nói: Thế tục đế có 3 thứ: 1.Giả thế tục. 2.Hành thế tục. 3.Hiển liễu thế tục. Ba thế tục này theo thứ tự như vậy được thiết lập dựa vào 3 căn bản chân thật.

Thắng nghĩa đế cũng có 3: 1.Nghĩa thắng nghĩa. Nghĩa là cảnh của thắng trí chân như, gọi là thắng nghĩa. 2.Đắc thắng nghĩa. Tức Niết-bàn. Vì đây là thắng quả và cũng là nghĩa lợi. 3.Chính hành thắng nghĩa. Tức Thánh đạo, lấy thắng pháp làm nghĩa. Nên biết 3 thắng nghĩa này được thành lập chỉ dựa vào viên thành thật trong 3 căn bản . Viên thành thật này, nói chung có 2 thứ là vô vi và hữu vi, vì có sai biệt. Vô vi thì tổng nhiếp chân như Niết-bàn, không biến đổi nên gọi là viên thành thật. Hữu vi thì tổng nhiếp tất cả Thánh đạo. Đối với cảnh không điên đảo nên cũng gọi là viên thành thật.

Cực thành chân thật, sơ lược có 2 thứ: 1.Thế gian cực thành chân thật. 2.Thánh đạo cực thành chân thật.

Hai cái này y vào căn bản chân thật kia mà thành lập như thế nào?

Tụng nói:

Thế cực thành y một,

Lý cực thành y ba.

Luận nói: Nếu sự thế gian cùng an lập. Tùy theo tập quán nhập vào giác tuệ thủ lấy. Tất cả thế gian đều đồng chấp một việc như thế, như đất, chẳng phải lửa, chẳng phải âm thanh v.v…, gọi lsf thế gian cực thành chân thật. Cái này trong 3 căn bản chân thật chỉ dựa vào biến kế sở chấp mà thành lập. Nếu có nghĩa lý thông duệ, tư duy suy tìm tốt, y vào 3 lượng chứng thành đạo lý mà thiết lập, thì gọi là đạo lý cực thành chân thật. Cái này dựa vào căn bản 3 chân thật mà lập.

Tịnh sở hành chân thật, sơ lược cũng có 2 thứ: 1. Phiền não chướng tịnh trí sở hành chân thật. 2. Sở tri chướng tịnh trí sở hành chân thật.

Hai cái này y vào căn bản chân thật kia mà thành lập như thế nào?

Tụng nói:

Tịnh sở hành có hai,

Y một viên thành thật.

Luận nói: Phiền não sở tri 2 chướng, tịnh trí sở hành chân thật, trong căn bản 3 chân thật chỉ dựa vào viên thành thật mà thành lập. Vì 2 cái kia không phải cảnh của tịnh trí này.

Làm sao biết tướng, tên, phân biệt, chân như, chính trí, gồm trong căn bản 3 chân thật?

Tụng nói:

Tên biến kế sở chấp,

Tướng phân biệt y tha.

Chân như và chính trí,

Gồm trong viên thành thật.

Luận nói: Tướng v.v…5 việc tùy chỗ thích ứng, đều gồm trong 3 thứ chân thật. Nghĩa là tên thì gồm trong tướng biến kế sở chấp, và phân biệt thì gồm trong y tha, viên thành thật thì gồm thâu chân như chính trí.

Sai biệt chân thật, sơ lược có 7 thứ: 1q.Lưu chuyển chân thật. 2.Thật tướng chân thật. 3.Duy thức chân thật. 4.An lập chân thật. 5.Tà hạnh chân thật. 6.Thanh tịnh chân thật. 7.Chính hành chân thật. Làm sao 7 chân thật này dựa vào 3 căn bản chân thật mà thành lập?

Tụng nói:

Lưu chuyển với an lập,

Tà hạnh y hai trước,

Thật tướng duy thức tịnh,

Chính hạnh y một sau.

Luận nói: Lưu chuyển v.v… 7 thứ tùy chỗ thích ứng, gồm trong căn bản 3 thứ chân thật. Nghĩa là lưu chuyển, an lập, tà hạnh kia y vào biến kế sở chấp và y tha khởi trong căn bản, còn thật tướng duy thức thanh tịnh chính hạnh thì y vào viên thành thật trong căn bản mà thành lập.

Thiện xảo chân thật nghĩa là đối trị 10 ngã kiến. Nói có 10 thứ, làm sao trong uẩn v.v… khởi 10 ngã kiến?

Tụng nói:

Trong uẩn v.v… ngã kiến,

Chấp một nhân, thụ giả,

Tác giả tự tại chuyển,

Nghĩa tăng thượng và thường,

Tạp nhiễm thanh tịnh y

Quán trói mở là tính.

Luận nói: Trong uẩn v.v…10 pháp khởi 10 thứ ngã kiến: 1.Tính chấp một. 2.Tính chấp nhân. 3.Tính chấp thụ giả. 4.Tính chấp tác giả. 5.Tính chấp tự tại chuyển. 6.Tính chấp nghĩa tăng thượng. 7.Tính chấp thường. 8.Tính chấp nhiễm tịnh sở y. 9.Tính chấp quán hành giả. 10.Tính chấp trói mở. Tu 10 thiện xảo để trừ kiến chấp này. Vì sao 10 thứ thiưện xảo chân thật dựa vào 3 căn bản chân thật mà thành lập? Bởi uẩn v.v… 10 thứ không thứ nào không gồm trong 3 thứ tự tính căn bản. Gồm thâu trong 3 tự tính như thế nào?

Tụng nói:

Phân biệt sở chấp này,

Nghĩa pháp tính nơi đó.

Luận nói: Uẩn v.v… 10 thứ mỗi thứ đều có 3 nghĩa. Trong sắc uẩn có 3 nghĩa là: 1. Sở chấp nghĩa sắc, nghĩa là tính biến kế sở chấp của sắc. 2. Phân biệt nghĩa sắc, nghĩa là tính y tha khởi của sắc. Trong đó lấy sự phân biẹt làm sắc. 3. Pháp tính nghĩa sắc, nghĩa là tính viên thành thật của sắc. Giống như trong sắc uẩn có 3 nghĩa, thụ v.v…4 uẩn giới v.v… 9 pháp đều có 3 nghĩa phù hợp. Như vậy uần v.v… do 3 nghĩa khác biệt không nghĩa nào không nhập vào trong 3 tính kia, cho nên phải biết 10 thiện xảo chân thật đều dựa vào căn bản 3 chân thật mà lập.

Như vậy tuy nói là muốn đối gtrị10 thứ ngã kiến nên tu uẩn v.v… các thiện xảo, nhưng chưa nói đến nghĩa riêng của các uẩn này. Vậy trước tiên phải biết nghĩa uẩn như thế nào?

Tụng nói:

Chẳng một và tổng lược,

Nghĩa phân đoạn là uẩn.

Luận nói: Phải biết nghĩa của uẩn sơ lược có 3 thứ: Một là chẳng một nghĩa, như khế kinh nói các sở hữu sắc v.v… hoặc quá khứ, hoặc vị lai, hoặc hiện tại, hoặc trong , hoặc ngoài, hoặc thô, hoặc tế, hoặc kém, hoặc hơn, hoặc xa, hoặc gần. Hai là nghĩa tổng và lược, như khế kinh nói như vậy tất cả lược lại làm một tụ. Ba là nghĩa phân đoạn, như khế kinh nói sắc uẩn v.v… đều an lập riêng tướng sắc v.v…, cho nên do nghĩa tụ đây mà thành nghĩa uẩn. Lại nữa thấy nghĩa tụ của thế gian gọi là uẩn.

Đã nói nghĩa uẩn. Thế nào là nghĩa giới?

Tụng nói:

Năng sở thủ kia thủ

Nghĩa chủng tử là giới.

Luận nói: Nghĩa năng thủ chủng tử, nghĩa là nhãn v.v… 6 nội giới. Nghĩa sở thủ chủng tử, là sắc v.v… 6 ngoại giới. Nghĩa kia thủ chủng tử, là nhãn thức v.v… 6 thức giới. Đã nói nghĩa của giới. Còn nghĩa của xứ như thế nào?

Tụng nói:

Năng thụ sở liễu cảnh,

Nghĩa dụng môn là xứ.

Luận nói: Trong đây nghĩa năng thụ thụ dụng môn, nghĩa 6 nội xứ. Nếu nghĩa của sở liễu cảnh thụ dụng môn, nghĩa là 6 ngoại xứ. Đã nói xong nghĩa của xứ. Nghĩ duyên khởi như thế nào?

Tụng nói:

Nghĩa duyên khởi nơi nhân,

Quả dụng không tăng giảm.

Luận nói: Đối với nhân quả dụng, nếu không tăng ích và không tổn giàm là nghĩa của duyên khởi. Nên biết rằng trong đây nhân tăng ích là chấp hành v.v…có nhân bất bình đẳng, nhân tổn giảm, là chấp kia không có nhân. Quả tăng ích, là chấp có ngã hành v.v…duyên vô minh v.v… sinh. Quả tổn giảm, là chấp vô minh v.v…không hành v.v… quả. Tăng ích thụ dụng, là chấp vô minh v.v… đối với sinh, hành v.v… có tác dụng riêng. Tổn giảm dụng là, chấp vô minh đối với sinh, hành v.v… hoàn toàn không có công năng. Nếu không có 3 tăng giảm chấp như vậy thì biết là duyên khởi thiện xảo.

Đã nói xong nghĩa đuyên khởi. Nghĩa của xứ phi xứ là thế nào?

Tụng nói:

Với phi ái ái tịnh,

Câu sinh và thắng chủ,

Đắc hành không tự tại

Là nghĩa xsứ phi xứ.

Luận nói: Nghĩa của xứ phi xứ sơ lược do 7 thứ không được tự tại, cần phải biết tướng của nó.

1. Đối với phi ái, không được tự tại. Nghĩa là do ác hạnh, tuy không ái dục mà đọa ác thú.

2. Đối với khả ái, không được tự tại. Nghĩa là do diệu hạnh, tuy không ái dục mà thắng thiện thú.

3. Đối với thanh tịnh, không được tự tại. Nghĩa là không đọan 5 cái, không tu 7 giác chi, quyết định không thể tạo khổ biên tế.

4. Đối với câu sinh, không được tự tại. Nghĩa là một thế giới không 2 Như Lai, 2 Chuyển luân vương đồng thời xuất hiện.

5. Đối với thắng chủ, không được tự tại. Nghĩa là người nữ không làm Chuyển luân vương.

6. Đối với chứng đắc, không được tự tại. Nghĩa là người nữ không chứng Độc Giác, vô thượng chính đẳng Bồ-đề.

7. Đối với hiện hành, không được tự tại. Nghĩa là đã kiến đế thì không hiện hành hại sinh các việc. Có thể hiện hành các loại dị sinh nhiều giới, trong kinh có nói rộng các điều này, tùy đó mà quyết định là xứ hay phi xứ.

Như vậy đã nói xong nghĩa của xứ phi xứ. Nghĩa của căn như thế nào?

Tụng nói:

Căn trong thủ, trụ, tục,

Dùng hai tịnh tăng thượng.

Luận nói: Hai mươi hai căn dựa vào 6 việc nghĩa tăng thượng mà lập. Nghĩa là trong khi thủ cảnh, nhãn v.v…6 căn có nghĩa tăng thượng. Mạng căn trong khi trụ một thời kỳ tương tục có nghĩa tăng thượng. Nam nữ 2 căn trong khi làm việc nối dõi có nghĩa tăng thượng. Trong năng thụ dụng cái vui của nghiệp quả thiện ác v.v… 5 căncó nghĩa tăng thượng. Trong thế gian tịnh tín v.v… 5 căn có nghĩa tăng thượng. Trong xuất thế gian vị tri v.v…các căn có nghĩa tăng thượng. Đã nói xong nghĩa của căn. Thế nghĩa như thế nào?

Tụng nói:

Nhân quả đã, chưa dùng,

Phải biết là thế nghĩa.

Luận nói: Phải biết nhân quả đã và chưa thụ dụng, tùy chỗ thích hợp, 3 đời nghĩa khác nhau. Nghĩa là trong nhân quả đều đã thụ dụng, là nghĩa quá khứ. Nếu trong nhân quả đều chưa thụ dụng, là nghĩa vị lai. Nếu đã thụ dụng nhân chưa thụ dụng quả, là nghĩa hiện tại. Đã nói xong thế nghĩa. Còn đế nghĩa là thế nào?

Tụng nói:

Thụ và thụ tư lương,

Kia là nhân các hành,

Hai tịch diệt đối trị

Nên biết là đế nghĩa.

Luận nói: Nên biết đế là 4 Thánh đế:

1. Khổ thánh đế. Nghĩa là tất cả thụ và thụ tư lương. Trong khế kinh nói các thụ đều là khổ. Thụ tư lương, nghĩa là thuận thụ pháp.

2. Tập thánh đế. Nghĩa là tức các khổ kia là nhân các hành.

3. Diệt thánh đế. Nghĩa là 2 thứ trước rốt ráo vắng lặng.

4. Đạo thánh đế. Nghĩa là đạo có khả năng đối trị dứt khổ, tập.

Đã nói xong đế nghĩa. Còn nghĩa của thừa là như thế nào?

Tụng nói:

Do công đức, tội lỗi,

Và trí vô phân biệt,

Y tha tự xuất ly,

Nên biết là thừa nghĩa.

Luận nói: Nên biết thừa, tức là 3 thừa. Trong đây nghĩa của 3 thừa được hiển thị như sau. Nếu từ người khác nghe công đức của Niết-bàn, tội lỗi của sinh tử mà phát khởi trí này, do trí này nên được xuất ly, đó là Thanh Văn thừa. Không phải nghe từ người khác công đức của Niết-bàn, tội lỗi của sinh tử mà tự phát khởi trí này, do trí này nên được xuất ly, đó là Độc Giác thừa. Nếu tự nhiên khởi trí vô phân biệt, do trí này được xuất ly, đó là vô thượng thừa. Đã nói thừa nghĩa xong. Thế nào là nghĩa của pháp hữu vi vô vi?

Tụng nói:

Nghĩa hữu vi vô vi,

Là như giả, như nhân,

Như tướng, như vắng lặng,

Như nghĩa sở quán kia.

Luận nói: Nên biết trong này nói giả, tức là tên gọi v.v…, nhân tức chủng tử thâu chứa trong tàng thức, tướng tức là khí thế giới thân căn cùng các thứ thụ dụng. Và chuyển thức nhiếp ý thủ tư duy. Ý, nghĩa là cái thức có tính luôn luôn suy lường. Thủ, nghĩa là 5 thức thủ hiện cảnh. Tư duy tức ý thức thứ 6, vì có khả năng phân biệt tất cả cảnh. Như vậy giả, nhân, tướng, và các pháp tương ưng, gọi chung là hữu vi. Như vắng lặng, nghĩa là diệt sở chứng và đạo năng chứng. Có thể vắng lặng cho nên cái nghĩa sở quán kia, tức là chân như, là cảnh sở duyên của đạo vắng lặng. Như vậy nghĩa sở quán của các vắng lặng đã nói, gọi chung là vô vi. Nên biết trong đây duyên uẩn v.v… 10 nghĩa khởi chính tri, gọi là thiện xảo của uẩn v.v…

Nghĩa chung của chân thật , sơ lược có 2 thứ: năng hiển và sở hiển chân thật. Năng hiển chân thật, tức là 3 thứ căn bản trước tiên, vì nó có thể hiển thị các cái khác. Sở hiển chân thật, tức là 9 thứ sau, vì được hiển thị bởi căn bản ban đầu. Chín sở hiển là:

  1. Lìa tăng thượng mạn , sở hiển chân thật.
  2. Đối trị điên đảo, sở hiển chân thật.
  3. Thanh Văn thừa xuất ly, sở hiển chân thật.
  4. Vô thượng thừa xuất ly, sở hiển chân thật, vì do thô có thể thành thục tế, có thể giải thoát.
  5. Có thể hàng phục các luận khác, sở hiển chân thật, vì dựa vào thí dụ đưa ra lý hàng phục người khác.
  6. Hiển rõ Đại thừa, sở hiển chân thật.
  7. Nhập vào tất cả thứ sở tri, sở hiển chân thật.
  8. Hiển thị chân như không hư vọng, sở hiển chân thật.
  9. Nhập vào ngã chấp sự tất cả bí mật, sở hiển chân thật.

Phẩm 4: BIỆN TU ĐỐI TRỊ

Đã nói xong về chân thật. Nay tiếp nói về tu các đối trị. Tức tu tất cả pháp Bồ-đề phần. Trong đây, trước tiên phải nói tu niệm trụ.

Tụng nói:

Bởi ái nhân thô nặng,

Vì ngã sự không mê.

Để vào 4 Thánh đế,

Phải biết tu niệm trụ.

Luận nói: Thô nặng do thân được hiển rõ, cho nên quan sát đây được ngộ nhập khổ thánh đế, vì thân có các tướng thô nặng về hành vi, và các thô nặng tức hiện hành tính khổ. Do quán thánh đế này thấy hữu lậu đều là khổ. Các thụ của hữu lậu nói là nhân của ái, cho nên quán sát đây sẽ ngộ nhập tập thánh đế. Tâm là duyên sự sở y của ngã chấp, cho nên quán sát đây sẽ ngộ nhập diệt thánh đế. Sợ cái ngã đoạn diệt do tách rời đây, cho nên quán sát pháp, đối với pháp nhiễm tịnh xa lìa ngu mê là ngộ nhập đạo thánh đế. Cho nên đó là lý ngộ nhập 4 Thánh đế trước tiện nói tu quán 4 niệm trụ.

Đã nói xong về tu niệm trụ. Nay sẽ nói về tu chính đoạn.

Tụng nói:

Đã biết khắp chướng trị,

Cả mọi thứ sai biệt,

Là xa lìa tu tập

Siêng tu 4 chính đoạn.

Luận nói: Trước tu niệm trụ đã có thểbiết khắp tất cả phẩm loại sai biệt củ chướng trị. Nay để xa lìa pháp sở chướng trị và để tu tập đạo năng đối trị, phải siêng năng tu tập 4 chính đoạn. Như nói đã sinh pháp ác, bất thiện, vì vậy nên đoạn trừ. Cho đến nói rộng.

Đã nói tu chính đoạn. Nay sẽ nói về tu thần túc.

Tụng nói:

Y trụ tính kham năng,

Là tất cả sự thành.

Diệt trừ 5 tội lỗi,

Siêng tu 8 đoạn hành.

Luận nói: Dựa vào chỗ tu trước, tinh tiến lìa các tập, tâm được an trụ chỗ kham năng. Để thắng sự thành tựu nên tu 4 thần túc, vì đó là nhân muốn được các thắng sự. Trụ, nghĩa là tâm trụ, vì đây tức là đẳng trì. Cho nên tiếp chính đoạn là nói 4 thần túc. Tính kham n ăng này, nghĩa là có khả năng diệt trừ 5 thứtội lỗi, tu 8 đoạn hành.

Thế nào là 5 thứ tội lỗi?

Tụng nói:

Lười biếng quên lời Phật,

Và hôn trầm, trạo cử,

Bất tác hành, tác hành

Đó là 5 tội lỗi.

Luận nói: Nên biết rằng trong đây hôn trầm và trạo cử hợp lại làm một lỗi. Nếu để diệt trừ hôn trầm trạo cử mà không làm gia hành, hoặc đã diệt trừ hôn trầm trạo cử mà lại làm gia hành, cả hai đều là sai lầm. Để trừ 5 thứ này phải tu8n đoạn hành. Hành tướng của chúng được an lập như thế nào?

Tụng nói:

Để đoạn trừ biếng nhác,

Tu dục, cần, tín, an.

Tức sở y, năng y,

Và sở nhân, năng quả.

Để trừ 4 lỗi khác,

Tu niệm, trí, tư, xả,

Ký ngôn, giác, trầm, trạo,

Phục hành diệt đẳng lưu.

Luận nói: Để diệt trừ biếng nhác, tu 4 đoạn hành là: 1. Dục. 2. Chính cần. 3. Tín. 4. Khinh an. Nên biết như sau. Tức sở y v.v… Sở y, nghĩa là sở y của dục, cần. Năng y, nghĩa là cần y vào dục mà khởi. Sở nhân, nghĩa là tín là sở y. Dục sinh khởi nhân gần. Nếu tin thụ kia liền sinh hi vọng. Năng quả, nghĩa là an là năng y. Cần gần sinh quả. Cần, tinh tiến là được thắng định.

Để đối trị 4 tội lỗi sau, như thường tu 4 thứ đoạn hành khác: 1. Niệm. 2. Chính tri. 3. Tư. 4. Xả. Nên biết theo thứ tự như thế. Tức ký ngôn v.v… Ký ngôn, nghĩa là có thể niệm không quên mất cảnh, vì ghi nhớ lời Phật dạy. Giác trầm trạo, tức là chính tri, do niệm ký ngôn có thể tùy biết được hôn trầm trạo cử 2 lỗi lầm. Phục hành, nghĩa là tư, do có thể tùy biết được lỗi của hôn trầm trạo cử rồi, để muốn phục trừ nên phát khởi gia hành. Diệt đẳng lưu, nghĩa là hôn trầm và trạo cử kia đã diệt rồi, tâm liền trụ nơi xả, bình đẳng lưu xuất.

Đã nói tu thần túc xong. Nay sẽ nói về tu 5 căn. Tu 5 căn an lập như thế nào?

Tụng nói:

Đã trồng thuận giải thoát,

Lại tu 5 tăng thượng.

Là muốn hành không mất,

Không tán loạn tư trạch.

Luận nói: Do 4 thần túc nên tâm được kham năng, thiện căn thuận giải thoát phần được đầy đủ. Lại phải tu tập 5 thứ tăng thượng: 1. Dục tăng thượng. 2. Gia hành tăng thượng. 3. Không mất cảnh tăng thượng. 4. Không tán loạn tăng thượng. 5. Tư trạch tăng thượng. Năm thứ này như tuần tự tức tín v.v… 5 căn.

Đã nói xong tu 5 căn. Nay sẽ nói tu 5 lực. Những gì là 5 lực và thứ tự như thế nào?

Tụng nói:

Tức tổn chướng là lực,

Lập thứ tự nhân quả.

Luận nói: Như trước đã nói tín v.v… 5 căn, có cái dụng thắng thế lại nói là lực. Nghĩa là có thể đè bẹp tiêu diệt cái bất tín chướng, cũng không bị kia trà trộn. Năm lực này lậpn theo thứ tự nhân quả, vì dựa vào nhân trước dẫn đến kết quả sau. Nghĩa là nếu quyết định tin có nhân quả thì phát khởi siêng năng tinh tiến để được quả này. Siêng năng btinh tiến rồi liền trụ chính niệm. Trụ chính niệm thì tămmđợc định. Tâm được định rồi mới có thể biết như thật. Đã biết như thật thì không việc gì không hoàn thành. Cho nên thứ tự này dựa theo nhân quả mà lập.

Như trước đã nói, thuận giải thoát phần đã viên mãn rồi lại tu 5 căn. Vị tu tập nào là thuận quyết trạch phần? Năm căn vị hay 5 lực vị?

Tụng nói:

Thuận quyết trạch hai hai,

Tại 5 căn, 5 lực.

Luận nói: Trong thuận quyết trạch phần, noãn, đỉnh 2 thứ ở trong 5 căn vị. Nhẫn và thế đệ nhất pháp ở trong 5 lực vị.

Đã nói tu 5 lực xong. Nay nói về tu giác chi. Tu giác chi được an lập như thế nào?

Tụng nói:

Giác chi lược có 5,

Là sở y tự tính,

Xuất ly và lợi ích,

Với 3 chi vô nhiễm.

Luận nói: Các chi này trợ giúp cho sự giác ngộ, nên gọi là giác chi, do giác chi vị này ở tại kiến đạo. Rộng thì có 7 thứ, sơ lược thì có 5 chi: 1. Giác sở y chi, tức là niệm. 2. Giác tự tính chi, tức trạch pháp. 3. Giác xuất ly chi, tức tinh tiến. 4. Giác lợi ích chi, tức hỷ. 5. Giác vô nhiễm chi. Đây lại có 3 thứ là an, định và xả.

Vì sao lại nói vô nhiễm là 3?

Tụng nói:

Do nhân duyên sở y,

Nghĩa tự tính sai biệt,

Nên khinh an, định, xả,

Gọi là vô nhiễm chi.

Luận nói: Khinh an tức là nhân duyên của vô nhiễm. Thô nặng là nguyên nhân sinh các tạp nhiễm. Khinh an là gần với sự đối trị. Sở y là tự tính của định, tức xả. Cho nên nghĩa vô nhiễm này đặc biệt có 3.

Đã nói xong tu giác chi. Nay sẽ nói về tu đạo chi. Tu đạo chi được an lập như thế nào?

Tụng nói:

Phân biệt và hối thị,

Khiến người tin có 3.

Đối trị chướng cũng 3,

Nên đạo chi thành 8.

Luận nói: Trong tu đạo vị thiết lập đạo chi, cho nên đạo chi này rộng thì có 8, sơ lược có 4:

1. Phân biệt chi, tức chính kiến. Đây tuy là thế gian nhưng sau được xuất thế gian, do trong kiến đạo vị có thể phân biệt tự sở chứng.

2. Hối thị tha chi, tức chính tư duy, chính ngữ, một phần đẳng khởi, phát ngôn dạy bảo người khác.

3. Linh tha tín chi. Đây có 3 thứ, tức chính ngữ, chính nghiệp, chính mạng.

4. Đối trị chướng chi. Cũng có 3 thứ, tức chính tinh tiến,chính niệm, chính định. Do đó đạo chi sơ lược có 4, rộng thì có 8.

Vì lẽ gì 2 chi sau mỗi thứ đều chia 3?

Tụng nói:

Biểu kiến, giới, viễn ly,

Khiến người tin thụ sâu.

Đối trị bản tùy hoặc,

Cùng với tự tại chướng.

Luận nói: Chính ngữ v.v…3 theo thứ tự biểu thị rồi. Kiến, giới, viễn ly khiến người tin thụ, nghĩa là do chính ngữ luận nghị quyết trạch khiến người tin hiểu. Đã có thắng tuệ, do chính nghiệp nên không làm tà nghiệp khiến người tin hiểu. Đã có tịnh giới, do chính mạng nên ứng lượng, ứng thời, như pháp khất cầu y bát v.v… khiến người tin. Đã có thắng viễn ly, chính tinh tiến v.v… 3 thứ tự đối trị bản tùy 2 phiền não và tự tại chướng. Sở đối trị này, sơ lược có 3 thứ: 1. Căn bản phiền não, tức tu sở đoạn. 2. Tùy phiền não, tức hôn trầm trạo cử. 3. Tự tại chướng, tức chướng ngại những gì dẫn đến công đức thắng phẩm. Trong đây chính tinh tiến riêng có thể đối trị. Trước tiên là đối trị kia siêng tu đạo, nên chính niệm riêng có thể đối trị. Thứ hai là buộc niệm an trụ trong các tướng, vì xa lìa hôn trầm và trạo cử chính định riêng có thể đối trị. Thứ ba là dựa vào thắng tĩnh lự có thể mau chóng dẫn phát các thần thông vì công đức thù thắng.

Làm thế nào biết được sự tu trị sai biệt?

Tụng nói:

Hữu đảo thuận vô đảo,

Vô đảo theo hữu đảo,

Vô đảo theo vô đảo,

Là tu trị sai biệt.

Luận nói: Tu đối trị này sơ lược có 3 thứ: 1. Hữu điên đảo thuận vô điên đảo. 2. Vô điên đảo theo hữu điên đảo. 3. Vô điên đảo theo vô điên đảo. Như vậy 3 tu trị sai biệt như sau tại dị sinh hữu học vô học vị Bồ-tát. Làm sao biết được tướng sai biệt tu đối trị của nhị thừa?

Tụng nói:

Chỗ tu tập Bồ-tát,

Do sở duyên tác ý,

Mà chứng đắc thù thắng,

Khác với hàng nhị thừa.

Luận nói: Thanh Văn và Độc Giác dùng cái thân tương tục của mình v.v…làm cảnh mà tu đối trị. Bồ-tát dùng thân tương tục tự tha v.v… làm cảnh mà tu đối trị. Thanh Văn Độc Giác đối với cảnh như thân v.v…dùng hành tướng vô thường v.v…tư duy mà tu đối trị. Còn các Bồ-tát đối với cảnh như thân v.v… lấy hành tướng vô sở đắc tư duy mà tu đối trị. Thanh Văn Độc Giác tu niệm ytụ v.v… chỉ vì thân v.v… mau được lìa sự trói buộc. Còn chư Bồ-tát tu niệm trụ v.v… không vì thân v.v…mau đựoc lìa sự trói buộc, mà chỉ vì chứng đắc vô trụ Niết-bàn. Chỗ tu trị của Bồ-tát và nhị thừa do 3 duyên này mà có sai khác.

Nghĩa tổng quát của tu đối trị là khai giác tu, tổn giảm tu, oánh sức tu, phát thượng tu, lân cận tu, nghĩa là lân cận kiến đạo, chứng nhập tu, tăng thắng tu, sơ vị tu, trung vị tu, hậu vị tu, hữu thượng tu, vô thượng tu, nghĩa là sở duyên tác ý cho đến được thù thắng.

Phẩm 5: BIỆN TU PHẦN VỊ

Đã nói xong tu đối trị. Còn tu phần vị như thế nào?

Tụng nói:

Nói về tu đối trị, Có 18 phần vị.

Là nhân, nhập, hành, quả,

Vô tác, tác, thù thắng,

Vô thượng, thượng, giải hành,

Nhập, xuất ly, ký, thuyết,

Quán đỉnh và chứng đắc,

Thắng lợi, thành sở tác.

Luận nói: Như trước đã nói tu các đối trị có 18 thứ phần vị sai biệt:

  1. Nhân vị, nghĩa là trụ chủng tính Bổ-đặc-già-la.
  2. Nhập vị, nghĩa là đã phát tâm.
  3. Gia hành vị, nghĩa là đã phát tâm , chưa được quả chứng.
  4. Quả vị, nghĩa là đã được quả.
  5. Hữu sở tác vị, nghĩa là trụ hữu học.
  6. Vô sở tác vị, nghĩa là trụ vô học.
  7. Thù thắng vị, nghĩa là đã thành tựu các thần thông v.v… các công đức thù thắng.
  8. Hữu thượng vị, nghĩa là vượt các Thanh Văn v.v… đã nhập Bồ-tát địa.
  9. Vô thượng vị, nghĩa là đã thành Phật, từ đây trở lên không có địa vị nào hơn.
  10. Thắng giải hành vị, nghĩa là tất cả Bồ-tát ở Thắng giải hành địa.
  11. Chứng nhập vị, tức là Cực hỷ địa.
  12. Xuất ly vị, tức là sau địa thứ 6.
  13. Thụ ký vị, tức là địa thứ 8.
  14. Biện thuyết vị, tức là địa thứ 9.
  15. Quán đỉnh vị, tức là địa thứ 10.
  16. Chứng đắc vị, tức là pháp thân Phật.
  17. Thắng lợi vị, tức là thụ dụng thân.
  18. Thành sở tác vị, tức là biến hóa thân.

Nên biết rằng các phần vị này tuy khác nhau nhiều, nhưng sơ lược chỉ có 3 thứ. Ba thứ là những gì?

Tụng nói:

Nên biết trong pháp giới,

Lược có 3 phần vị:

Bất tịnh, tịnh bất tịnh,

Thanh tịnh, tùy thích ứng.

Luận nói: Trongnchân pháp giới vị có 3, tùy chỗ thích ứng gồm thâu các vị: 1. Bất tịnh vị, nghĩa là từ nhân vị đến gia hành vị. 2. Tịnh bất tịnh vị, nghĩa là hữu học vị. 3. Thanhn tịnh vị, nghĩa là vô học vị. Làm sao biết được dựa vào các sai biệt trước kiến lập Bổ-đặc-già-la?

Tụng nói:

Dựa vào các vị trước,

Có các tướng sai biệt,

Tùy thích ứng thiết lập

Các Bổ-đặc-già-la.

Luận nói: Nên biết dựa vào tướng sai biệt các vị trước mà thiết lập Bổ-đặc-già-la. Nghĩa là đây trụ nơi chủng tính, đây đã phát tâm v.v…

Nghĩa tổng quát của tu phần vị, nghĩa là kham năng vị tức chủng tính vị, phát thú vị tức nhập gia hành vị, bất tịnh vị, tịnh bất tịnh vị, thanh tịnh vị, hữu trang nghiêm vị, bién mãn vị, tức biến mãn 10 địa nên là vô thượng vị.

QUYỂN TRUNG HẾT

Pages: 1 2 3