KINH BỒ TÁT ĐỊA TRÌ
Hán dịch: Đời Bắc Lương, Đại sư Đàm Vô Sấm
Việt dịch: Cư sĩ Nguyên Huệ
QUYỂN 8
XỨ PHƯƠNG TIỆN THỨ NHẤT
Phẩm thứ 17: BỒ ĐỀ PHẦN, phần 2
Thế nào là Bồ-tát đối với kẻ hủy hoại pháp Phật dứt trừ sự bạo hại ấy? Người còn do dự khiến họ nhập pháp Phật. Người đã vào khiến thành thục. Người đã thành thục khiến được giải thoát.
Bồ-tát này đối với bốn thứ thành thục chúng sinh đó, nên biết về phương tiện thiện xảo, lược nêu có sáu thứ: Một là tùy thuận. Hai là cần lập. Ba là dị tướng. Bốn là bức bách. Năm là báo ân. Sáu là thanh tịnh.
Phương tiện thiện xảo tùy thuận của Bồ-tát: Nghĩa là Bồ-tát này muốn vì chúng sinh thuyết pháp, trước tiên các hành của thân, khẩu phải dịu dàng hòa nhã, dùng bố thí để tạo tùy thuận, tự xả bỏ sân hận. Trừ sân hận rồi, kẻ kia sinh ái kính ưa muốn nghe pháp, sau đó mới vì họ theo chỗ thích hợp thuyết giảng pháp, dễ nhập dễ hiểu, khi giảng nói có thứ tự, chân lý không đảo lộn, dùng nghĩa tạo lợi ích vì họ nói pháp nhẫn. Theo các câu hỏi đáp để điều phục chúng sinh, lợi ích đệ nhất là thành tựu sự thương xót. Hoặc dùng thần lực thị hiện tha tâm để vì họ thuyết pháp. Hoặc thỉnh người khác, khiến hiện hóa đủ các thứ để điều phục chúng sinh. Hoặc có khi lược nói về nghĩa tạo lợi ích thì cũng vì họ phân biệt bàn rộng.
Hoặc gặp phần luận rộng lớn, thì cũng có thể vì họ lược nêu, dạy trao khiến họ tụng rồi tùy ý vấn nạn. Họ đã thọ tụng, thì vì họ nói rộng về nghĩa, dùng tất cả duyên nơi môn Tam-muội giải thoát tùy thuận truyền dạy, tùy theo sự khuyên bảo để thâu giữ chúng sinh, khiến họ hành theo nghĩa, khiến các chúng sinh ấy, đối với các kinh tương ưng với nghĩa không, vô cùng sâu xa vi diệu, do Đức Như Lai giảng nói, nhận biết về diệu chỉ. Trong kinh kia nói: Pháp lìa tự tánh và lìa các sự việc, không khởi không diệt, như hư không, như huyễn, như mộng. Người không hiểu nghĩa nghe thì sợ hãi, hủy báng kinh sâu xa kia cho là không phải do Phật giảng nói. Bồ-tát vì chúng sinh ấy nên có phương tiện thiện xảo để tùy thuận, đối với diệu chỉ của Như Lai nơi kinh sâu xa kia, nên tùy thuận nơi nghĩa, phân biệt giải nói để thâu giữ họ. Tùy thuận như vậy là vì các chúng sinh kia nên nói: Kinh ấy không nói tất cả đều không thật có, chỉ nói tự tánh của ngã là không là không thật có. Đó gọi là lìa tự tánh, lìa ngôn thuyết.
Có sự việc dựa vào ngôn ngữ thì sự việc chuyển, thế nên ngôn thuyết có tự tánh, cũng không phải là đệ nhất nghĩa có tự tánh kia, vì vậy nói ngôn thuyết lìa tất cả sự. Tự tánh của ngôn thuyết từ xưa đến nay, tất cả đều không thật có, vậy thì sao có sinh có diệt? Do đó nên nói không sinh không diệt. Ví như hư không có vô số các thứ sắc và các sắc nghiệp đều được dung nạp, nên hư không kia làm chỗ nương dựa. Nghĩa là hư không dung nạp đủ các hành qua lại, đi đứng, co duỗi, cúi ngửa. Lại như trừ bỏ sắc và sắc nghiệp kia, đã cho đó là phần tự tánh vô sắc, gọi là hư không thanh tịnh. Như hư không là xứ sắc cùng sắc nghiệp chuyển, lìa sự ngôn thuyết, thì vô số các loại ngôn thuyết, vọng tưởng hư giả tùy chuyển được thiết lập cũng lại như vậy.
Lại như hư không dung nạp sắc cùng sắc nghiệp, pháp lìa ngôn thuyết, dung nạp vọng tưởng cũng lại như vậy. Nếu Bồ-tát dùng trí tuệ, trừ bỏ tất cả ngôn thuyết đã khởi, các thứ vọng tưởng tà hoặc, các thứ hư giả chuyển biến, tức Bồ-tát này dùng Thánh trí đệ nhất lìa sự ngôn thuyết, tự tánh của tất cả ngôn thuyết là chẳng phải tánh, như hư không thanh tịnh, cũng không phải là hư không kia lần lượt có tự tánh khác. Vì thế tất cả các pháp ví như hư không, ví như huyễn, không như sự có, cũng chẳng phải tất cả đều không là sự huyễn. Như vậy tất cả pháp không như ngôn thuyết, người ngu si chấp có. Cũng không phải tất cả đều không thật có, vì tự tánh của đệ nhất nghĩa là lìa ngôn thuyết. Phương tiện như vậy nhập phi hữu cũng phi vô. Do vậy nhận biết như huyễn nên nói như huyễn. Như thế, Bồ-tát đối với tất cả pháp giới, không lấy không bỏ, không tăng không giảm, cũng không có chỗ hủy hoại, đều nhận biết rõ như thật. Như những gì đã biết, vì người khác hiển bày. Đó gọi là phương tiện thiện xảo tùy thuận của Bồ-tát.
Thế nào là phương tiện thiện xảo cần lập của Bồ-tát? Nếu có chúng sinh lại theo Bồ-tát cầu xin mười thứ vật dụng để tự sinh sống, thì vì họ Bồ-tát cần lập lời nói: Ông có thể cúng dường cha mẹ, các Sa-môn, Bà-la-môn, nói rộng như trên, cho đến thọ giới. Nếu có thể làm được như vậy thì ta sẽ thí cho ông. Như kẻ kia không thể thực hiện thì không thí cho. Những thứ thí cho như là ruộng, nhà, hàng quán, quan tước, cõi nước, tiền tài, sáu loài súc vật (ngựa, bò, dê, gà, chó, lợn), kỹ thuật, phương thuốc. Hoặc kết hôn nhân, hoặc ăn uống không ăn uống, chỗ tạo tác đều đồng sự. Bấy giờ, Bồ-tát vì họ cần lập lời nói: Ông có thể cúng dường cha mẹ, cho đến thọ giới, ta sẽ bố thí cho ông các thức ăn uống, cho đến đồng sự.
Lại nữa, nếu có chúng sinh phạm tội mưu nghịch, làm những việc không lợi ích, bị người khác bắt trói, cắt chặt, đánh đập, hủy nhục, quở trách, đuổi khỏi chức vụ, hoặc bị bắt giữ, bấy giờ Bồ-tát vì họ cần lập lời nói: Ông có thể cúng dường cha mẹ, cho đến thọ giới, ta sẽ cứu giúp khiến ông thoát khỏi các khổ nạn.
Lại nữa, hoặc có chúng sinh bị những sự khủng bố do vua quan bạo ác, giặc cướp, nước lửa, người và phi nhân tạo nên, bấy giờ, Bồtát vì họ cần lập lời nói: Ông có thể cúng dường cha mẹ, cho đến thọ giới, ta sẽ cứu giúp khiến ông thoát khỏi những sự sợ hãi đó.
Lại nữa, hoặc có các chúng sinh vì yêu thương mà xa lìa, oán ghét lại cứ gặp gỡ nên sinh khổ não, bấy giờ Bồ-tát vì họ cần lập lời nói: Ông có thể cúng dường cha mẹ, cho đến thọ giới, ta sẽ tạo phương tiện theo sở nguyện của ông.
Lại nữa, hoặc có chúng sinh bị bệnh tật khốn khổ, bấy giờ Bồtát vì họ cần lập lời nói: Ông có thể cúng dường cha mẹ, cho đến thọ giới, ta sẽ giúp ông khiến bệnh khổ được trừ.
Bồ-tát như vậy là đã cần lập những nêu bày rồi, khiến các chúng sinh kia mau chóng tu tập pháp thiện, xa lìa các ác, đạt được theo chỗ mong muốn. Đó gọi là phương tiện thiện xảo cần lập của Bồ-tát.
Thế nào là theo phương tiện thiện xảo hiện dị tướng của Bồ-tát? Nếu Bồ-tát cùng với chúng sinh đã cần lập lời nêu bày rồi, nhưng các chúng sinh kia không thuận theo điều yêu cầu, thì như trên đã hứa, Bồ-tát cũng không bố thí cho họ. Vì nhằm hóa độ các chúng sinh ấy, nên Bồ-tát không phải là không muốn ban cho, để dứt trừ các nạn sợ hãi và các bệnh khổ. Bồ-tát ái niệm hòa hợp, không thương yêu biệt ly, vì hóa độ các chúng sinh ấy, nên tất cả đều buông bỏ. Hiện rõ tướng quyết định như vậy, không phải do thật tâm có niệm buông bỏ. Điều chính yếu dần dần khiến đoạn trừ pháp bất thiện, kiến lập pháp thiện. Hoặc lại có chúng sinh không cần mong muốn, cũng không có các nạn, cho đến không bệnh, nhưng cùng với Bồ-tát trước là thân quen, thì tùy chỗ thích hợp để khuyên dẫn, khiến tu tập pháp thiện, đó là cúng dường cha mẹ cho đến trì giới. Nếu chúng sinh ấy không theo lời chỉ dạy của Bồ-tát, bấy giờ Bồ-tát mới hiện tướng giận dữ, quở trách. Vì hóa độ người nên tâm không sân hận, đối với các việc đã làm đều hiện trái khác, vì để hóa độ các chúng sinh ấy, không phải thật sự là chống trái. Hoặc hiện thêm các việc không lợi ích cho kẻ kia là nhằm hóa độ, không phải là thật tâm của Bồ-tát. Bồ-tát theo phương tiện hiện bày dị tướng này, nhằm khiến cho chúng sinh tu các pháp thiện, đoạn trừ pháp bất thiện. Đó gọi là theo phương tiện thiện xảo hiện dị tướng của Bồ-tát.
Thế nào là phương tiện thiện xảo hiện sự bức bách của Bồtát? Nếu Bồ-tát làm chủ, làm vua, đối với quyến thuộc của mình nên chỉ dạy như vầy: Nếu quyến thuộc của ta có người không cúng dường cha mẹ, cho đến phạm giới, ta sẽ dứt bỏ mọi sự cung cấp, hoặc tăng thêm xử phạt, cho đến là đuổi đi. Bồ-tát lập một người nam luôn làm việc dò xét, các chúng sinh kia do sợ hãi nên siêng tu pháp thiện, đoạn trừ pháp bất thiện, các kẻ kia tuy không vui, vì cưỡng ép khiến tu. Đó gọi là phương tiện thiện xảo hiện sự bức bách của Bồ-tát.
Thế nào là phương tiện thiện xảo hành báo ân của Bồ-tát? Nếu Bồ-tát trước đối với chúng sinh bố thí các phần ân huệ, hoặc bố thí của cải vật dụng, hoặc cứu độ các nạn, hoặc cứu giúp những sợ hãi, hợp chỗ nhớ nghĩ, lìa chỗ không nhớ nghĩ, cứu chữa các bệnh, khiến được an vui. Chúng sinh biết ân, muốn báo đáp đức ấy, bấy giờ Bồtát khiến họ tu thiện, không cần đem các thứ của cải, lợi dưỡng nơi thế gian để đền đáp. Người báo đáp lớn nhất là nên biết cúng dường cha mẹ, cho đến trì giới. Người cầu báo ân khiến kẻ thọ ân hành thiện. Đó gọi là phương tiện thiện xảo hành báo ân của Bồ-tát.
Thế nào là phương tiện thiện xảo hành thanh tịnh của Bồ-tát? Bồ-tát trụ nơi địa Cứu cánh, hành đạo Bồ-tát thanh tịnh, sinh nơi cõi trời Đâu suất. Chúng sinh nghĩ: Bồ-tát tên là v.v… sinh lên cõi trời Đâu suất, không lâu sẽ sinh xuống châu Diêm-phù-đề, sẽ thành bậc Như Lai Chánh đẳng Chánh giác vô thượng, khiến ta yêu thích, chớ khiến không vui thích sinh nơi xứ kia. Ta cũng theo đấy để sinh. Vô lượng chúng sinh vui thích tu nguyện này.
Lại nữa, Bồ-tát từ cõi trời Đâu suất hạ sinh nơi thế gian, hoặc sinh nơi cung vua, hoặc sinh vào nhà Bà-la-môn, xả bỏ những hoan lạc thượng diệu, xuất gia học đạo, khiến các chúng sinh lìa bỏ kiêu mạn. Lại ở nơi cội cây, sáu năm khổ hạnh, khiến những chúng sinh khác tin khổ hạnh, đoạn trừ tín lạc.
Lại nữa, đã thành đạo quả Bồ-đề vô thượng, khiến các chúng sinh khác tin lạc kiên cố, cùng cầu Phật đạo. Lại thành Phật rồi, im lặng đợi thỉnh, vì khiến chúng sinh kính trọng chánh pháp. Phạm thiên khuyến thỉnh sau đó mới giảng nói. Lại dùng Phật nhãn quán sát thế gian, chớ khiến chúng sinh khởi lời phỉ báng, chỉ là do lực khuyến thỉnh của Phạm thiên, không phải Đức Như Lai do đại bi nên thuyết pháp. Vì trừ diệt các chúng sinh thâu nhận điều tà, nên chuyển chánh pháp luân, các thế gian khác chưa từng chuyển cũng chế lập giới luật. Đó gọi là phương tiện thiện xảo hành thanh tịnh của Bồ-tát.
Phương tiện thiện xảo như vậy là trọn vẹn không gì hơn. Đó gọi là sáu thứ phương tiện thiện xảo của Bồ-tát, nói rộng nói lược. Chúng sinh hủy hoại pháp, nhằm diệt trừ sự bạo hại kia, người còn do dự khiến nhập pháp Phật. Người nhập rồi khiến cho thành thục. Người thành thục rồi thì khiến được giải thoát, là hoàn toàn vô thượng. Đó gọi là phương tiện thiện xảo của Bồ-tát.
Thế nào là Đà-la-ni của Bồ-tát? Lược nêu có bốn thứ: Một là pháp Đà-la-ni. Hai là nghĩa Đà-la-ni. Ba là chú thuật Đà-la-ni. Bốn là đắc nhẫn Đà-la-ni của Bồ-tát.
Thế nào là pháp Đà-la-ni? Là Bồ-tát đạt được lực trí tuệ nhớ nghĩ, như thế đối với danh cú vị thân chưa từng được nghe, chưa từng tu tập, thì theo thứ lớp trang nghiêm, thứ lớp ứng hợp, nên vô lượng chương cú, trải qua vô lượng kiếp nhớ giữ không quên.
Thế nào là nghĩa Đà-la-ni? Như trước đã nói, nơi vô lượng nghĩa lý sâu xa của các pháp này, chưa từng đọc tụng chưa từng tu tập, trải qua vô lượng kiếp nhớ giữ không quên.
Thế nào là chú thuật Đà-la-ni? Là Bồ-tát đã được sức Tammuội như thế, dùng chương cú của chú thuật để đoạn trừ khổ hoạn cho chúng sinh, thần nghiệm bậc nhất, vô số các thứ tai họa đều khiến tiêu diệt.
Thế nào là đắc nhẫn Đà-la-ni của Bồ-tát? Là Bồ-tát tinh tấn tu tập, nhân đấy sinh khởi trí tuệ, một mình ở xứ tịch tĩnh, im lặng ít nói, cũng không du hành, ăn uống đều biết lượng, không ăn quá nhiều thứ, thường ăn một bữa, tư duy thiền định, ngủ nghỉ ít, tỉnh giác nhiều, đối với điều Đức Như Lai giảng nói, đắc chú thuật nhẫn của Bồ-tát. Đó là y trí, mật trí, cát chỉ tỉ, sằn đề bà đại tấp ba ha. Đối với các nghĩa của chương cú nơi chú thuật này nên lượng xét quán sát. Chương cú của chú thuật như thế, chánh tư duy như thế, như nghĩa ấy hãy còn không tự nghe, sao có sở đắc. Như chương cú của chú thuật, nghĩa không thể thủ đắc, tức là không có nghĩa. Các nghĩa như vậy gọi là vô nghĩa, thế nên cũng không có nghĩa khác để có thể cầu, như vậy gọi là khéo lãnh hội về câu nghĩa của chú thuật. Người khéo lãnh hội câu nghĩa của chú thuật, lấy nghĩa như vậy đem so sánh, nhận biết được nghĩa của tất cả các pháp, thảy đều khéo nhận biết, không phải được nghe từ người khác. Lại nhận biết tất cả ngôn thuyết, tự tánh của tất cả các pháp, nghĩa không thể thủ đắc. Do nghĩa của tự tánh vô ngôn thuyết như thế, tức nhận biết nghĩa tự tánh của tất cả các pháp. Đó gọi là nghĩa tối thắng của đệ nhất nghĩa được hoan hỷ tối thượng. Bồ-tát này đắc xứ chú thuật của Đà-la-ni ấy gọi là đắc nhẫn của Bồ-tát. Người đắc nhẫn này, không lâu sẽ được tâm tịnh nơi nhẫn của địa giải hành tăng thượng. Đó gọi là Bồ-tát đắc nhẫn Đà-la-ni của bậc Bồ-tát.
Do pháp Đà-la-ni, nghĩa Đà-la-ni kia, Bồ-tát này đã vượt qua A-tăng-kỳ kiếp thứ nhất, được nhập địa tâm tịnh, chỗ đạt được tất định bất động, tối thắng tối diệu. Nếu chỗ đạt được chỉ nửa chừng, hoặc nhân nơi nguyện lực, hoặc lực thiền định, thì không trụ không định, cũng không thắng diệu. Như pháp, nghĩa Đà-la-ni, thì chú thuật Đà-la-ni cũng như vậy. Đắc nhẫn Đà-la-ni của Bồ-tát, như trước đã nói. Như vậy, tất cả Đà-la-ni phải gồm đủ bốn công đức mới có thể đạt được, chẳng phải là không đầy đủ. Những gì là bốn? Một là không hành tập ái dục. Hai là không ganh ghét chỗ hơn của kẻ khác. Ba là đối với tất cả chỗ cầu đạt đều bình đẳng bố thí không hối. Bốn là ưa thích pháp, ưa thích sâu xa tạng Bồ-tát và tạng Ma-đắc-lặc-già.
Thế nào là nguyện của Bồ-tát? Lược nêu có năm thứ: Một là nguyện phát tâm. Hai là nguyện sinh. Ba là nguyện cảnh giới. Bốn là nguyện bình đẳng. Năm là nguyện lớn.
Bồ-tát kia khi mới phát tâm cầu đạo quả Bồ-đề vô thượng, đó gọi là nguyện phát tâm. Nguyện nơi đời vị lai vì chúng sinh nên sinh theo nẻo thiện, đó gọi là nguyện sinh. Nguyện chánh quán các pháp, vô lượng các căn thiện, tư duy về cảnh giới, đó gọi là nguyện cảnh giới. Nguyện nơi đời vị lai khéo gồm thâu sự việc của hết thảy Bồtát, đó gọi là nguyện bình đẳng. Nguyện lớn tức là nguyện bình đẳng.
Lại nói mười thứ nguyện lớn: Một là nguyện đem tất cả các thứ cúng dường vô lượng chư Phật. Hai là nguyện hộ trì chánh pháp của tất cả chư Phật. Ba là nguyện thông đạt chánh pháp của chư Phật. Bốn là nguyện sinh nơi cõi trời Đâu suất, cho đến Bát Niết-bàn. Năm là nguyện làm tất cả thứ hành chân chánh của Bồ-tát. Sáu là nguyện thành thục tất cả chúng sinh. Bảy là nguyện tất cả thế giới đều có thể hiện hóa. Tám là nguyện tất cả Bồ-tát nhất tâm theo phương tiện đem Đại thừa để hóa độ. Chín là nguyện tất cả chánh phương tiện đều không ngăn ngại. Mười là nguyện thành Chánh giác Vô thượng.
Thế nào là Tam-muội Không của Bồ-tát? Bồ-tát lìa tự tánh của tất cả ngôn thuyết, quán tự tánh là vô ngôn thuyết nên tâm trụ. Đó gọi là Tam-muội Không.
Thế nào là Tam-muội Vô nguyện của Bồ-tát? Bồ-tát đối với sự việc nơi tự tánh vô ngôn thuyết, do tà kiến vọng tưởng đã khởi phiền não, như lỗi lầm của thường kiến khổ kia, nên ở đời vị lai không nguyện trụ tâm. Đó gọi là Tam-muội Vô nguyện.
Thế nào là Tam-muội Vô tướng của Bồ-tát? Bồ-tát đối với sự việc nơi tự tánh vô ngôn thuyết, lìa tất cả vọng tưởng, diệt trừ tướng hư giả, quán sát như thật, tâm trụ vắng lặng. Đó gọi là Tam-muội Vô tướng.
Do những gì nên nói ba Tam-muội không tăng không giảm? Do có hai thứ: Hữu và vô hữu. Hữu vi, vô vi gọi là hữu. Vô ngã, vô ngã sở gọi là vô hữu. Đối với hữu của hữu vi không nguyện không tùy thuận, nên lập Tam-muội Vô nguyện. Đối với Niết-bàn vô vi, nguyện vui thích thâu nhận, nên lập Tam-muội Vô tướng. Lại đối với các sự việc này chẳng phải là nguyện, chẳng phải là không nguyện, nhưng nơi hữu, chẳng hữu, kiến cho là kiến, nên lập Tam-muội Không. Bồtát tu ba Tam-muội này, nhận biết như thật về sự kiến lập như vậy, hoặc có hành khác đều nhập nơi môn ba Tam-muội. Đó là chỗ tu học, hành trì của hàng Thanh văn.
Có bốn pháp Ưu-đàn-na (Tự thuyết). Chư Phật, Bồ-tát vì muốn khiến cho chúng sinh được thanh tịnh nên giảng nói. Những gì là bốn? Một là tất cả hành vô thường là pháp Ưu-đàn-na. Hai là tất cả hành khổ là pháp Ưu-đàn-na. Ba là tất cả pháp vô ngã là pháp Ưuđàn-na. Bốn là Niết-bàn tịch diệt là pháp Ưu-đàn-na. Chư Phật, Bồtát đầy đủ pháp này, lại đem pháp ấy truyền trao cho chúng sinh, đó gọi là Ưu-đàn-na. Quá khứ vắng lặng, các bậc Mâu-ni lần lượt cùng truyền, đó gọi là Ưu-đàn-na. Dũng xuất tăng thượng, cho đến xuất sinh đầy đủ hữu thứ nhất, đó gọi là Ưu-đàn-na.
Thế nào là Bồ-tát quán tất cả hành vô thường? Bồ-tát quán tự tánh ngôn thuyết của tất cả hành là luôn không thể thủ đắc. Hoặc lại không nhận biết về sự vô ngôn thuyết chân thật, nên có sinh có diệt. Nếu Bồ-tát quán tự tánh vô ngôn thuyết nơi hết thảy hành là vô thường. Quán hành quá khứ không sinh không diệt, hành ấy cũng không nhân, cũng không tự tánh có thể thủ đắc, thế nên cũng không nhân, cũng không tự tánh. Quán hành hiện tại không sinh không diệt, nhân kia không thủ đắc nhưng cho quả, nên tự tánh có thể thủ đắc, do đấy quán tự tánh là không nhân. Quán hành vị lai không sinh không diệt, nhân kia có thể thủ đắc nhưng không cho quả, nên không có tự tánh, vì thế quán nhân là không tự tánh. Như vậy thấy phần đoạn của ba đời lúc các hành nối tiếp chuyển, mỗi mỗi sát-na của hành có ba hữu vi, là tướng hữu vi, nơi sau sát-na có bốn tướng hữu vi. Tự tánh của các hành tướng trước kia hoại. Tiếp theo, tự tánh của hành tướng chưa từng hiện bày giờ thì khởi, gọi là sinh. Khởi rồi chưa hoại gọi là trụ. Nhớ nghĩ về tự tánh của hành tướng diệt ở trước, hành tướng ấy đã khởi tướng dị kia, dị gọi là lão. Vì thế sau sát-na sinh, tự tánh của hành tướng khởi kia hoại gọi là diệt. Nếu quán hành tướng của tự tánh khởi, tướng sinh, trụ, lão của tự tánh kia không có tự tánh khác, do đó sau sát-na tự tánh của hành tướng như vậy là diệt. Như thế, quán như thật về các hành tướng như sinh v.v…, bốn tướng hữu vi này lược nêu có hai thứ: hữu tánh và vô tánh. Đức Như Lai do khởi nên lập tướng hữu vi thứ nhất. Do tự tánh nên lập tướng hữu vi thứ hai. Do các hành trụ, lão nên lập tướng hữu vi thứ ba. Bồ-tát kia quán hành hữu vi có sai biệt, chẳng phải sinh, chẳng phải trụ, chẳng phải lão, chẳng phải hoại, tất cả thời riêng có sự khởi. Vì sao? Vì các hành sai biệt khi khởi, lại không riêng sinh, riêng trụ, riêng lão, riêng hoại. Khi các hành sai biệt trụ, lão, hoại, cũng không riêng sinh, riêng trụ, riêng lão, riêng hoại. Bồ-tát quán như thật, nghĩa là không có các sự việc riêng như sinh v.v… có thể thủ đắc. Nếu có thể thủ đắc thì lìa các hành như sắc v.v… nên riêng có sinh. Các hành như sắc v.v… tự tánh khởi, thì sắc kia cũng nên khởi. Nếu như vậy tức nên có hai sinh là hành sinh và sinh sinh. Nếu có hành sinh và sinh sinh, thì hoặc là một hoặc là khác. Nếu là một nhưng cho là riêng có sinh thì không kia là vô nghĩa. Còn nếu riêng có sinh, thì sự việc này không đúng. Nếu là khác, thì hành sinh kia không phải là cùng sinh được tạo nên. Hành sinh cùng sinh được tạo nên thì việc này không đúng. Như sinh, thì trụ, lão cũng như vậy. Nếu tự tánh của pháp có hoại thì việc kia nên sinh diệt. Nếu khi hoại sinh, thì tất cả hành nên liền diệt, như nhập chánh thọ diệt tận, do thiếu phương tiện nên tâm, tâm số pháp diệt. Hoặc khi hoại diệt, thì tất cả hành kia nên sinh, nhưng do hoại nên không có. Nói hoại có sinh diệt, thì sự việc này không đúng. Thiện nam, thiện nữ kia, tất cả thời thường có tự tánh, nghĩa là không nên có chán lìa. Lìa dục giải thoát do khác nên như vậy. Vì sự việc này, Bồ-tát đối với tất cả hành vô thường, nên nhận biết như thật.
Lại nữa, Bồ-tát đối với tất cả các hành vô thường khi nối tiếp chuyển, quán ba tướng khổ là hành khổ, biến dịch khổ và khổ khổ. Như vậy, Bồ-tát đối với tất cả hành khổ đều nhận biết như thật.
Lại nữa, Bồ-tát đối với các pháp hữu vi, vô vi, vô ngã, vô ngã sở đều nhận biết như thật, tức chúng sinh vô ngã và pháp vô ngã. Chúng sinh kia vô ngã: Nghĩa là pháp có chẳng phải là chúng sinh. Lìa pháp có cũng chẳng phải là chúng sinh. Pháp vô ngã: Nghĩa là tất cả sự ngôn thuyết cũng không có pháp của tự tánh ngôn thuyết. Như vậy, Bồ-tát đối với tất cả pháp vô ngã đều nhận biết như thật.
Lại nữa, nhân của tất cả hành khởi đã đoạn rốt ráo, các diệt rốt ráo khác gọi là Bát Niết-bàn, phiền não vắng lặng, các khổ dứt hẳn, Bồ-tát chưa nhập địa tâm tịnh, Thanh văn chưa thấy đế, đối với Niếtbàn tác tưởng ý giải, nói là Niết-bàn tịch diệt, nên biết những thứ như thế là không có được tri kiến của Niết-bàn chân thật, chỉ có chánh tư duy. Ví như quốc vương, trưởng giả giàu có vô lượng, vì các con nên tạo ra những dụng cụ vui chơi, như xe hươu, xe bò, xe ngựa, xe voi v.v… Các người con kia hoan hỷ yêu thích, tạo ra những tưởng chân thật về các đồ chơi như xe hươu, bò, ngựa, voi. Khi người cha nhận biết con mình đã dần khôn lớn, thì vì các con nói thật về hươu, bò, ngựa, voi. Các người con cho là cha mình đã khen ngợi về voi ngựa.
Thời gian sau, biết con mình chuyển lớn, sắp ra khỏi nhà, người cha chỉ voi ngựa thật, các con thấy thật rồi tức biết về các thứ voi ngựa thật kia, biết chắc cha mình thường khen nói, không phải như chúng trước đã vui nghĩ, những thứ vui chơi ngày trước không phải là voi ngựa thật. Như vậy, các hành được xem là nhà cửa, Bồ-tát chưa trụ địa tâm tịnh, Thanh văn chưa kiến đế như các đồng tử kia. Chư Phật, Như Lai và Bồ-tát nhập đại địa đã thấy rõ về Niết-bàn, vì Bồ-tát và các Thanh văn kia tán thán nói về Niết-bàn. Chư vị đã nghe rồi, tùy vào chỗ giảng nói để lãnh hội. Nếu các Bồ-tát kia dần dần học phẩm đạo đầy đủ, nhập địa tịnh tâm và Thanh văn kiến đế, thì đối với Niếtbàn sinh tri kiến hiện có. Như vậy, chư Phật, Bồ-tát đã khen ngợi về Niết-bàn, không như ý tưởng nơi trí tuệ tối kém của chúng ta đã hiểu. Chỗ khởi tưởng của chúng ta là tương tợ chẳng phải là thật, đối với chỗ hiểu biết của các Ngài sinh tâm hổ thẹn, nương vào tri kiến sau. Ví như người bệnh gặp được thầy thuốc giỏi vì để trị bệnh nên nói về thuốc theo bệnh. Các người bệnh kia nếu đã quen với thuốc này liền khởi tin hiểu, ưa thích thuốc ấy, do đó lành bệnh. Nếu lại khởi bệnh khác, nên uống thứ thuốc khác, thầy thuốc chỉ dẫn nên bỏ thuốc trước để uống thuốc này, các người bệnh kia do tin nơi thuốc trước nên không chịu xả bỏ, thầy thuốc phải tìm mọi cách khiến họ uống loại thuốc sau. Như vậy, Bồ-tát trụ nơi địa tâm tịnh, Thanh văn thấy đế, đối với các bệnh phiền não, chư Phật Như Lai, Bồ-tát trụ nơi đại địa, vì họ thuyết pháp: pháp thượng, pháp tối thượng, pháp thâm diệu, pháp thâm diệu tối thượng, pháp thù thắng, pháp thù thắng tối thượng, thảy đều chỉ dạy trao truyền khuyên răn. Bồ-tát nhập nơi địa tâm tịnh, Thanh văn kiến đế, nghe lời Phật giảng nói, tin nhận không nghi, nương vào lời Như Lai chỉ dạy về pháp thừa đầy đủ, khéo có thể điều phục, du hóa nơi đạo bình đẳng, nhanh chóng hướng đúng đến Niết-bàn vô dư.
*********
XỨ PHƯƠNG TIỆN THỨ NHẤT
Phẩm thứ 18: CÔNG ĐỨC CỦA BỒ TÁT
Bồ-tát học đạo quả Chánh đẳng Chánh giác vô thượng, có năm pháp đặc biệt chưa từng có. Những gì là năm? Một là đối với các chúng sinh không có nhân duyên nhưng khởi ái niệm. Hai là vì các chúng sinh nên thọ nhận vô lượng khổ. Ba là đối với các chúng sinh có nhiều phiền não dấy khởi mạnh khó giáo hóa, Bồ-tát luôn tạo phương tiện để điều phục. Bốn là nhập nơi nghĩa chân thật khó lãnh hội bậc nhất. Năm là nhập nơi diệu lực thần thông không thể nghĩ bàn. Như vậy, pháp đặc biệt chưa từng có là không cùng chung với tất cả chúng sinh.
Bồ-tát có năm sự việc không phải là đặc biệt, có thể trở thành pháp đặc biệt chưa từng có. Một là vì nhằm tạo an lạc cho chúng sinh nên thọ nhận nhân khổ, vì thọ nhận nhân khổ nên được thọ an vui. Hai là nhận biết lỗi lầm xấu ác của sinh tử, công đức của Niết-bàn, có nhớ nghĩ đến chúng sinh tịnh, không tự mình thọ vui, vì chúng sinh tịnh nên thọ nhận các sinh tử. Ba là tu tập lạc tịnh mặc, có nhớ nghĩ về chúng sinh tịnh, không tự thọ vui, vì chúng sinh tịnh nên diễn nói chánh pháp. Bốn là tu căn thiện là sáu Ba-la-mật, có nhớ nghĩ đến chúng sinh tịnh, không tự thọ nhận vui, vì chúng sinh tịnh nên không xả bỏ tất cả chúng sinh, cũng không xả bỏ quả báo. Năm là việc của người, việc của mình, tất cả như thế đều vì tạo lợi ích cho chúng sinh.
Bồ-tát có năm sự việc, đối với tất cả chúng sinh, tâm luôn bình đẳng: Một là mới phát tâm nguyện, vì hết thảy chúng sinh, tâm luôn bình đẳng. Hai là tu tập tâm đại bi, luôn thể hiện tâm thương xót, tâm ấy luôn bình đẳng. Ba là đối với hết thảy chúng sinh, khởi tưởng là con một, ái niệm luôn kết hợp tâm ấy bình đẳng. Bốn là xem xét các hành duyên khởi của tất cả chúng sinh, pháp của một chúng sinh cũng là pháp của tất cả chúng sinh, tùy thuận tất cả chúng sinh tâm ấy bình đẳng. Năm là như vì hành của một chúng sinh, thì đối với tất cả chúng sinh cũng như vậy, tâm tạo lợi ích luôn kết hợp, tâm ấy bình đẳng.
Bồ-tát có năm sự việc tạo lợi ích cho tất cả chúng sinh: Một là nói việc tạo lợi ích của chánh mạng. Hai là người không tùy thuận thì nói pháp tùy thuận tạo lợi ích. Ba là những người cô độc nghèo khổ không chỗ nương dựa, vì họ làm chỗ nương dựa để tạo lợi ích. Bốn là người hướng về nẻo thiện, vì họ giảng nói đạo tạo lợi ích. Năm là vì người của ba Thừa giảng nói lợi ích của ba Thừa.
Bồ-tát có năm sự việc gọi là báo ân của chúng sinh: Một là tự thành tựu công đức. Hai là khuyên người khác khiến họ thành tựu. Ba là vì những chúng sinh cô độc khổ sở nghèo khó không nơi nương dựa, vì họ làm chỗ nương dựa. Bốn là cúng dường Như Lai. Năm là đối với pháp Đức Phật đã giảng nói, tức nên hoặc đọc tụng, hoặc biên chép, hoặc cúng dường.
Bồ-tát hành đạo Bồ-đề thường cầu năm việc: Một là thường nguyện mong chư Phật xuất hiện ở đời. Hai là được ở nơi trụ xứ của chư Phật nghe, lãnh hội sáu Ba-la-mật và tạng Bồ-tát. Ba là có thể hành trì tất cả các thứ để thành thục chúng sinh. Bốn là có thể hành trì đạo vô thượng để thành thục chúng sinh. Năm là chứng đắc Chánh đẳng Chánh giác vô thượng, A duy tam Bồ-đề, Bồ-đề Thanh văn, hòa hợp với Thanh văn.
Bồ-tát có năm sự việc tạo phương tiện chân thật đem lại lợi ích cho chúng sinh. Bồ-tát này trước muốn tạo an vui cho chúng sinh, đối với sự an vui kia nhận biết như thật, không hiểu biết điên đảo, như nơi Phẩm Cúng Dường Tập Cận Vô Lượng ở trước đã nói.
Bồ-tát có năm thứ phương tiện gồm thâu tất cả chánh phương tiện: Một là phương tiện tùy hộ. Hai là phương tiện vô tội. Ba là phương tiện của lực tư duy. Bốn là phương tiện tâm tịnh. Năm là phương tiện quyết định.
Phương tiện tùy hộ có năm thứ: Một là hộ tuệ sáng, được trí câu sinh nên có thể nhanh chóng thọ nhận pháp. Hai là hộ niệm, nhớ nghĩ giữ gìn pháp. Ba là hộ trí, là được trí kiên cố, quán xét nghĩa của pháp. Do hộ tuệ sáng, hộ niệm và hộ trí nên lìa phần thoái chuyển, tu phần thắng tấn. Bốn là hộ tự tâm, là giữ gìn các căn môn. Năm là hộ tha tâm, là tùy thuận tâm người khác.
Phương tiện vô tội: Nghĩa là đối với các pháp thiện không điên đảo, sáng rõ vô lượng, thường tu hồi hướng nơi Bồ-đề.
Phương tiện của lực tư duy: Nghĩa là hiểu rõ về hành địa.
Phương tiện tâm tịnh: Nghĩa là địa tâm tịnh có đầy đủ hành địa.
Phương tiện quyết định: Nghĩa là hành địa quyết định của địa quyết định nơi địa cứu cánh.
Đó gọi là năm thứ phương tiện gồm thâu tất cả chánh phương tiện.
Bồ-tát nơi phần thoái chuyển có năm sự việc: Một là không cung kính pháp và người giảng nói pháp. Hai là phóng dật, biếng nhác. Ba là hành tập các phiền não và các hành ác. Bốn là nêu xét chỗ đồng với mình cùng các Bồ-tát khác để khởi tăng thượng mạn. Năm là đối với pháp điên đảo khởi tăng thượng mạn.
Bồ-tát nơi phần thắng tấn có năm sự việc, tức cùng với năm sự việc nơi phần thoái chuyển ở trên, theo thứ lớp trái nhau, gọi là phần thắng tấn.
Bồ-tát có năm sự việc lỗi lầm tương tợ như công đức của Bồtát: Một là đối với người hung ác và phạm giới, không đem tâm từ tạo lợi ích. Hai là hiện bày oai nghi quanh co, dua nịnh. Ba là nói các việc thế tục và kinh luận của ngoại đạo, cho là trí tuệ được sinh có thể tự tư duy. Bốn là hành trì căn thiện như bố thí v.v… nhưng theo nẻo có tội. Năm là diễn nói kiến lập pháp giống như công đức.
Bồ-tát có năm sự việc là công đức chân thật của Bồ-tát: Một là đối với người hung ác và người phạm giới, khởi tâm bi thù thắng. Hai là thành tựu đầy đủ oai nghi chân thật. Ba là đối với lời Như Lai giảng nói trí tuệ được sinh có thể tự tư duy. Bốn là hành trì căn thiện như bố thí v.v… hoàn toàn không tội. Năm là diễn nói chánh giáo, hủy bỏ pháp tương tợ.
Bồ-tát điều phục chúng sinh có mười thứ, gọi là điều phục đúng đắn. Những gì là mười? Là lìa các triền, lìa phiền não, phân biệt giới ác.
Bồ-tát có sáu sự việc được Đức Như Lai thọ ký Bồ-đề vô thượng: Một là chủng tánh chưa phát tâm. Hai là đã phát tâm. Ba là hiện tiền. Bốn là không hiện tiền. Năm là thời lượng, thời định chứng đắc Bồ-đề vô thượng. Sáu là thời không lượng, thời không định được thọ ký.
Bồ-tát có ba thứ quyết định: Một là chủng tánh gọi là quyết định. Vì sao? Vì có thể làm duyên, nên quyết định đạt quả Chánh đẳng Chánh giác vô thượng có chướng ngại. Hai là quyết định phát tâm Bồ-đề vô thượng, từ không thể cho đến không thoái chuyển để đạt đến Bồ-đề vô thượng. Ba là đắc diệu lực tạo lợi ích cho chúng sinh, như chỗ mong muốn, như chỗ tạo tác, như đầy đủ không hư giả, do quyết định sau cùng kia nên được Đức Như Lai quyết định thọ ký.
Bồ-tát luôn tạo năm thứ lực, thế nên chứng đắc đạo quả Chánh đẳng Chánh giác vô thượng: Một là phát tâm đầu tiên. Hai là thương xót chúng sinh. Ba là làm sáng rõ. Bốn là tinh tấn. Năm là đối với tất cả minh xứ tạo phương tiện không chán.
Bồ-tát có năm sự việc thường tu tập: Một là thường không phóng dật. Hai là đối với các chúng sinh cô độc, khổ sở nghèo thiếu, vì họ làm chỗ nương dựa. Ba là cúng dường Như Lai. Bốn là trì giới, có phạm liền nhận biết. Năm là các việc đã tạo tác, hành trì, nhớ nghĩ, tất cả đều hồi hướng nơi Bồ-đề vô thượng.
Bồ-tát có mười pháp là những pháp tối thắng bậc nhất của Bồtát: Một là chủng tánh của Bồ-tát là thù thắng đối với các chủng tánh khác. Hai là mới phát tâm là thù thắng đối với tất cả chánh nguyện. Ba là tinh tấn, trí tuệ là thù thắng so với các Ba-la-mật khác. Bốn là lời nói dịu dàng là thù thắng so với các nhiếp sự khác. Năm là Như Lai là thù thắng đối với các chúng sinh. Sáu là đại bi hơn hẳn các vô lượng khác. Bảy là thiền thứ tư hơn hẳn các thiền khác. Tám là Tammuội không hơn hẳn các Tam-muội khác. Chín là chánh thọ diệt tận hơn hẳn các chánh thọ khác. Mười là phương tiện thiện xảo thanh tịnh hơn hẳn các phương tiện thiện xảo khác.
Bồ-tát có bốn thứ thiết lập chân chánh. Thiết lập chân chánh như vậy là Đức Như Lai giảng nói, chẳng phải là từ nơi các hàng trời, người, hoặc Sa-môn, Bà-la-môn được nghe như vậy: Một là thiết lập pháp. Hai là thiết lập đế. Ba là thiết lập phương tiện. Bốn là thiết lập thừa.
Thiết lập pháp: Nghĩa là mười hai bộ kinh như Tu-đa-la v.v… theo thứ lớp diễn nói, theo thứ lớp kiến lập.
Thiết lập đế: Tức có một thứ, đó là Như thật nghĩa đế.
Lại có hai thứ: Thế đế và Đệ nhất nghĩa đế.
Lai có ba thứ: Tướng đế, Thuyết đế và Tác đế.
Lại có bốn thứ: Khổ đế, Tập đế, Diệt đế và Đạo đế.
Lại có năm thứ: Nhân đế, Quả đế, Trí đế, Cảnh giới trí đế và Vô thượng đế.
Lại có sáu thứ: Thật đế, Hư vọng đế, Tri đế, Đoạn đế, Chứng đế và Tu đế.
Lại có bảy thứ: Vị đế, Hoạn đế, Ly đế, Pháp đế, Giải đế, Thánh đế và Phi Thánh đế.
Lại có tám thứ: Hành khổ đế, Khổ khổ đế, Hoại khổ đế, Sinh đế, Diệt đế, Cấu uế đế, Thanh tịnh đế, Chánh phương tiện đế.
Lại có chín thứ: Vô thường đế, Khổ đế, Không đế, Phi ngã đế, Hữu ái đế, Vô hữu ái đế, Đoạn phương tiện đế, Hữu dư Niết-bàn đế, Vô dư Niết-bàn đế.
Lại có mười thứ: Tự tác khổ đế, Bần cùng khổ đế, Bốn đại tăng tổn khổ đế, Ái luyến khổ đế, Ô nhục khổ đế, Nghiệp khổ đế, Phiền não đế, Chánh tư duy đế, Chánh kiến đế, Chánh kiến quả đế.
Thiết lập phương tiện: Đó là bốn thứ phương tiện, như nơi Phẩm Lực Chủng Tánh ở trước đã nói.
Thiết lập thừa: Nghĩa là thừa Thanh văn, thừa Duyên giác, Đại thừa. Mỗi mỗi thừa có bảy thứ thiết lập: Tuệ của bốn Thánh đế, tuệ như vậy hoặc dựa hoặc duyên theo các thứ hành nghiệp, tuệ như vậy hoặc quả. Bảy thứ này gọi là thiết lập thừa Thanh văn. Như thiết lập thừa Thanh văn, thì thừa Duyên giác cũng như thế. Lìa cảnh giới của ngôn thuyết, tất cả pháp như lìa các vọng tưởng, tuệ bình đẳng, tuệ như vậy hoặc dựa hoặc duyên theo các thứ hành nghiệp, tuệ như thế hoặc quả. Bảy thứ ấy gọi là thiết lập Đại thừa. Quá khứ, vị lai, hiện tại, tất cả Bồ-tát đều đang thiết lập, đã làm, sẽ làm. Tất cả bốn thứ là rốt ráo không gì hơn.
Bồ-tát có năm thứ vô lượng, sinh khởi tất cả hành của phương tiện thiện xảo: Một là chúng sinh giới vô lượng. Hai là thế giới vô lượng. Ba là pháp giới vô lượng. Bốn là giới điều phục vô lượng. Năm là phương tiện điều phục vô lượng.
Sáu mươi mốt thứ chúng sinh gọi là chúng sinh giới. Như nơi thân của địa ý phân biệt tức có vô lượng.
Mười phương vô lượng gọi là thế giới vô lượng, như thế giới Ta-bà gọi là chủ Ta-bà.
Pháp thiện, bất thiện, vô ký phân biệt gọi là pháp giới vô lượng.
Điều phục có một thứ, là điều phục tất cả chúng sinh.
Lại có hai thứ: Một là có đủ trói buộc. Hai là không có đủ trói buộc.
Lại có ba thứ: Một là căn trí hạ. Hai là căn trí trung. Ba là căn trí thượng.
Lại có bốn thứ: Một là Sát lợi. Hai là Bà-la-môn. Ba là Tỳ-xá. Bốn là Thủ-đà
Lại có năm thứ: Một là tham dục. Hai là sân hận. Ba là ngu si. Bốn là kiêu mạn. Năm là giác quán (tầm tứ).
Lại có sáu thứ: Một là tại gia. Hai là xuất gia. Ba là chưa thành thục. Bốn là đã thành thục. Năm là chưa giải thoát. Sáu là đã giải thoát.
Lại có bảy thứ: Một là người ác. Hai là người trung bình. Ba là người trí nhỏ. Bốn là người trí lớn. Năm là hiện tại điều phục. Sáu là vị lai điều phục. Bảy là tùy duyên điều phục. Nếu được duyên như thế tức hồi hướng như thế.
Lại có tám thứ: Là tám chúng Sát lợi, cho đến Bà-la-môn.
Lại có chín thứ: Một là Như Lai điều phục. Hai là Thanh văn, Duyên giác điều phục. Ba là Bồ-tát điều phục. Bốn là khó điều phục. Năm là dễ điều phục. Sáu là nói lời dịu dàng điều phục. Bảy là quở trách điều phục. Tám là điều phục xa. Chín là điều phục gần.
Lại có mười thứ: Một là địa ngục. Hai là súc sinh. Ba là ngạ quỷ. Bốn là trời, người ở cõi dục. Năm là trung ấm. Sáu là sắc. Bảy là vô sắc. Tám là tưởng. Chín là vô tưởng. Mười là phi tưởng phi phi tưởng.
Đó là năm mươi lăm thứ phân biệt tức là vô lượng.
Chúng sinh giới và điều phục giới có gì sai biệt? Chúng sinh giới không phân biệt xứ chủng tánh của tất cả chúng sinh. Điều phục giới là xứ chủng tánh kia. Như vậy nơi xứ xứ kia, vô lượng phương tiện điều phục chuyển biến, như trong Phẩm Thành Thục ở trước đã nói, ở đó cũng có vô lượng thứ phân biệt.
Như vậy là theo thứ lớp nói năm thứ vô lượng. Vì sao? Do Bồtát này vì chúng sinh tu hành, thế nên nói vô lượng thứ nhất. Chúng sinh nơi xứ kia có thể thủ đắc, thế nên nói vô lượng thứ hai. Chúng sinh nơi các thứ thế giới kia, pháp phiền não, pháp thanh tịnh có thể thủ đắc, thế nên nói vô lượng thứ ba. Quán sát các chúng sinh ấy tùy theo khả năng có thể thoát khổ, thế nên nói vô lượng thứ tư. Cho đến phương tiện giải thoát khổ của chúng sinh, thế nên nói vô lượng thứ năm. Đó là năm thứ vô lượng sinh khởi tất cả phương tiện hành thiện xảo của Bồ-tát.
Bồ-tát có bốn thứ cầu, đối với tất cả pháp đều nhận biết như thật: Một là cầu danh. Hai là cầu sự. Ba là cầu thiết lập tự tánh. Bốn là cầu thiết lập sai biệt. Như trong Phẩm Chân Thật ở trước đã nói.
Bồ-tát có bốn sự việc, đối với tất cả pháp nhận biết như thật: Theo cầu danh nhận biết như thật. Theo cầu sự nhận biết như thật. Theo cầu thiết lập tự tánh nhận biết như thật. Theo cầu thiết lập sai biệt nhận biết như thật. Như trong Phẩm Chân Thật ở trước đã nói.
Chư Phật, Bồ-tát có năm sự việc, vì chúng sinh thuyết pháp được quả phước lợi lớn. Một là vì chúng sinh thuyết pháp sinh pháp nhãn lìa cấu uế. Hai là vì chúng sinh thuyết pháp được các lậu dứt hết. Ba là vì chúng sinh thuyết pháp phát tâm Bồ-đề vô thượng. Bốn là vì chúng sinh thuyết pháp được nhẫn đệ nhất của Bồ-tát. Năm là vì chúng sinh thuyết pháp, nghe rồi thọ tụng, tu tập đầy đủ, khiến chánh pháp trụ lâu. Đó gọi là năm thứ thuyết pháp được quả phước lợi lớn.
Thế nào gọi là Đại thừa? Có bảy thứ Đại (lớn) nên gọi là Đại thừa: Một là pháp đại, nghĩa là mười hai bộ kinh, tạng Bồ-tát phương quảng là tối thượng tối đại. Hai là tâm đại, nghĩa là phát tâm Chánh đẳng Chánh giác vô thượng. Ba là giải đại, nghĩa là hiểu rõ về tạng Bồ-tát phương quảng. Bốn là tâm tịnh đại, nghĩa là vượt qua địa giải hành nhập nơi địa tâm tịnh. Năm là các vật dụng đại, nghĩa là các vật dụng của phước đức, các vật dụng của trí tuệ chứng đắc Bồ-đề vô thượng. Sáu là thời gian đại, nghĩa là trải qua ba A-tăng-kỳ kiếp mới chứng đắc Bồ-đề vô thượng. Bảy là chứng đắc đại, nghĩa là chứng đắc đạo quả Bồ-đề vô thượng, thân không có gì sánh bằng, huống chi là vượt hơn.
Pháp đại, tâm đại, giải đại, tâm tịnh đại, vật dụng đại, thời gian đại: Sáu thứ đại này tức là nhân gieo trồng. Chứng đắc đại tức là xứ quả.
Bồ-tát có tám pháp gồm thâu tất cả sự thuyết giảng của tạng Bồ-tát thuộc Đại thừa. Nghĩa là tin Tạng Bồ-tát. Hiển bày nghĩa chân thật của tất cả pháp. Hiển bày tất cả thần lực thắng diệu đệ nhất không thể nghĩ bàn của chư Phật, Bồ-tát. Được văn tuệ, tư tuệ tư duy, dựa nơi văn tuệ, tư tuệ tư duy làm phương tiện đạt được tâm tịnh. Đạt được tâm tịnh làm phương tiện nhập hành tu tuệ. Nhập hành tu tuệ làm phương tiện đạt quả tu tuệ. Thành tựu quả tu tuệ như vậy là thành tựu sự xuất ly rốt ráo. Bồ-tát tu học như vậy, chứng đắc Bồ-đề vô thượng.
Bồ-tát tu học như thế, chứng đắc Bồ-đề vô thượng, lược nêu có mười thứ: Một là chủng tánh. Hai là nhập. Ba là chưa tịnh. Bốn là tịnh. Năm là chưa thành thục. Sáu là thành thục. Bảy là chưa định. Tám là định. Chín là một đời. Mười là thân sau cùng.
Chủng tánh là chưa được tâm tịnh. Phát tâm tu học gọi là nhập. Đã nhập nhưng chưa nhập địa tâm tịnh gọi là chưa tịnh. Nhập địa tâm tịnh gọi là tịnh. Người tịnh, chưa nhập địa cứu cánh gọi là chưa thành thục. Nhập địa cứu cánh gọi là thành thục. Người thành thục nhưng chưa nhập địa định gọi là chưa định. Đã nhập địa định gọi là định. Lại, thành thục có hai thứ: Một là một đời, theo thứ lớp chứng đắc Bồ-đề vô thượng. Hai là thân sau cùng, tức là đời này chứng đắc.
Như thế từ chủng tánh cho đến thân sau cùng chứng đắc Bồđề vô thượng, mười thứ này là đối tượng học của Bồ-tát phải học. Trên đấy tức không còn đối tượng học nữa. Bồ-tát như đối tượng học mà học, trên đấy thì không còn có Bồ-tát học. Bồ-tát như nơi đối tượng học mà học, được tên gọi của hết thảy công đức, đó là: Bồ-tát Ma-ha-tát. Dũng mãnh vô thượng. Phật tử Phật trì. Đại sư. Đại Thánh. Đại thương chủ. Đại danh xưng. Đại công đức. Đại tự tại. Như vậy, nơi mười phương vô lượng thế giới với vô lượng Bồtát, vô lượng nhân duyên, thiết lập tự tưởng, nên biết nếu có lời nói: Ta là Bồ-tát, nhưng không khéo học đối tượng học của Bồ-tát, nên biết đó là Bồ-tát danh tự, không phải là Bồ-tát chân thật. Nếu nói ta là Bồ-tát, đã khéo học đối tượng học của Bồ-tát, nên biết đó là Bồ-tát chân thật.
********
XỨ PHƯƠNG TIỆN THỨ PHÁP
Phẩm thứ 1: TƯỚNG BỒ TÁT
(Đoạn thứ hai có 4 phẩm)
Bồ-tát thành tựu năm thứ tướng chân thật, được nhập nơi số của các Bồ-tát: Một là thương xót. Hai là ái ngữ. Ba là dũng mãnh. Bốn là huệ thí. Năm là giảng nói nghĩa pháp sâu xa. Năm tướng này đều có năm thứ phân biệt: Một là tự tánh. Hai là cảnh giới. Ba là quả báo.
Bốn là thứ lớp. Năm là thâu nhận.
Tự tánh của thương xót có hai thứ: Một là chí tâm. Hai là đầy đủ. Chí tâm là tâm an ổn, tâm vui thích. Đầy đủ là Bồ-tát luôn chí tâm đối với các chúng sinh, tùy theo năng lực hành nghiệp thân khẩu tạo lợi ích.
Tự tánh của ái ngữ: Là trước nói lời an ủi, như trong Phẩm Nhiếp ở trước đã nói.
Tự tánh của dũng mãnh: Là đối với các chúng sinh, sức lực và ý chí luôn mạnh mẽ.
Tự tánh của huệ thí: Là bố thí thắng diệu, không phải thí với phiền não.
Tự tánh của thuyết giảng nghĩa pháp sâu xa: Là bốn trí vô ngại, xuất sinh trí chánh phương tiện.
Cảnh giới của thương xót có năm thứ: Một là chúng sinh thọ khổ. Hai là chúng sinh hành ác. Ba là chúng sinh phóng dật. Bốn là chúng sinh trong nẻo tà. Năm là chúng sinh bị phiền não sai khiến. Từ địa ngục cho đến tất cả khổ phải thọ nhận nối tiếp, đó gọi là thọ khổ. Tuy không thọ khổ, nhưng thân, khẩu, ý phần nhiều tạo hành ác, tức là mười hai luật nghi ác, đó gọi là hành ác. Tuy không thọ khổ, không tạo hành ác, nhưng tham đắm nơi năm dục, ca múa, vui đùa, đó gọi là phóng dật. Tuy không thọ khổ, không tạo hành ác, không tham đắm nơi năm dục, nhưng dựa vào tà kiến để cầu giải thoát khổ, đó gọi là nẻo tà. Lìa bỏ năm dục, theo pháp xuất gia, không thọ các khổ cho đến nẻo tà, nhưng có đủ phiền não hoặc có nhưng không nhiều, nghĩa là chánh phương tiện, phàm phu chân thật và các người học, đó gọi là bị phiền não sai khiến. Bồ-tát đối với cảnh giới này sinh tâm thương xót, là rốt ráo không gì hơn.
Cảnh giới của ái ngữ có năm thứ: Một là chánh ngữ thật. Hai là chánh ngữ hỷ. Ba là chánh ngữ tạo lợi ích. Bốn là chánh ngữ như pháp. Năm là phương tiện ngữ thuyết pháp, như trong Phẩm Nhiếp ở trước đã nói. Bồ-tát đối với cảnh giới này sinh tâm ái ngữ, là rốt ráo không gì hơn.
Cảnh giới của dũng mãnh có năm thứ: Như trong Phẩm Bồ Đề Phần ở trước đã nói. Bồ-tát đối với cảnh giới ấy sinh tâm dũng mãnh, là rốt ráo không gì hơn.
Cảnh giới của huệ thí có năm thứ: Một là thí không phân biệt. Hai là thí hoan hỷ. Ba là thí tức thì. Bốn là thí không nhiễm ô. Năm là thí không nương dựa. Như trong Phẩm Thí ở trước đã nói. Bồ-tát đối với cảnh giới này, sinh tâm huệ thí là rốt ráo không gì hơn.
Cảnh giới của thuyết giảng nghĩa pháp sâu xa có năm thứ: Một là đối với kinh của Đức Như Lai đã giảng nói luôn tùy thuận với duyên khởi, tương ưng với nghĩa không thâm diệu. Hai là đối với các giới luật, khéo nhận biết chỗ phạm, không phạm cùng với việc ra khỏi phạm. Ba là đối với Tạng Ma-đắc-lặc-già, kiến lập pháp tướng không điên đảo. Bốn là đối với nghĩa pháp sâu diệu dùng tưởng phân biệt. Năm là đối với nghĩa pháp của tất cả pháp, dùng vô số ngôn từ để tạo ra vô số phân biệt. Bồ-tát đối với cảnh giới này, sinh tâm thuyết giảng nghĩa pháp sâu xa là rốt ráo không gì hơn.
Bồ-tát thương xót các chúng sinh nên tu tập tâm từ, tạo phương tiện gần gũi đem lại lợi ích, không chán, phần nhiều trụ trong hiện pháp lạc vô tội, thâu giữ chúng sinh, như Đức Thế Tôn nói: Phước lợi của tâm từ, thân thường không bị đao gậy làm hại. Ở đây nên nói rộng, đó gọi là quả của thương xót.
Bồ-tát hành ái ngữ, ở trong pháp hiện tại, lìa bốn lỗi của miệng, là nói hai lưỡi, nói lời thô ác, nói dối, nó thêu dệt, đem ái ngữ này thâu giữ mình, thâu giữ người, nơi đời vị lai thành tựu chánh ngữ, lời nói liền được tin dùng. Đó gọi là quả của ái ngữ.
Bồ-tát hành dũng mãnh, ở trong hiện pháp luôn lìa biếng nhác, tâm thường hoan hỷ, thọ trì giới luật nghi của Bồ-tát, không hủy không phạm, dùng tâm an nhẫn thâu nhận mình và người, nơi đời vị lai, mọi thứ hành tác của Bồ-tát thảy đều có thể tu học, học rồi đạt kiên cố. Đó gọi là quả của dũng mãnh.
Bồ-tát hành huệ thí và giảng nói nghĩa pháp sâu xa, về quả đạt được như nơi Phẩm Lực, phần bố thí Ba-la-mật, Bát-nhã Ba-la-mật ở trước đã nói. Đó gọi là quả của huệ thí và giảng nói nghĩa pháp sâu xa.
Về thứ lớp, Bồ-tát trước hết tu pháp thương xót thâu giữ chúng sinh, vì khiến chúng sinh ra khỏi pháp bất thiện, an lập nơi pháp thiện. Vì nêu bày đầy đủ về chỉ dạy trao truyền, thế nên tiếp đến nói ái ngữ. Chúng sinh tạo ác và bị các thứ phiền não trói buộc không dứt, cho nên sau đấy là nói dũng mãnh. Hoặc có chúng sinh nên dùng tài vật để thâu nhận, hoặc có chúng sinh nên dùng pháp để thâu nhận, hoặc dùng cả tài vật và pháp để thâu nhận, vì thế tiếp sau là nói tuệ thí và giảng nói nghĩa pháp sâu xa.
Bồ-tát có năm thứ tướng thâu giữ sáu Ba-la-mật. Sáu Ba-lamật này thuộc về tướng nào? Tướng thương xót thâu giữ Thiền Bala-mật. Tướng ái ngữ thâu giữ Giới Ba-la-mật, Bát-nhã Ba-la-mật. Tướng dũng mãnh thâu giữ Nhẫn nhục Ba-la-mật, Tinh tấn Ba-lamật, Bát-nhã Ba-la-mật. Tướng huệ thí thâu giữ Bố thí Ba-la-mật. Tướng giảng nói nghĩa pháp sâu xa thâu giữ Thiền Ba-la-mật, Bátnhã Ba-la-mật.
Đó gọi là năm thứ tướng với năm thứ phân biệt của Bồ-tát.
********
XỨ PHƯƠNG TIỆN THỨ PHÁP
Phẩm thứ 2: HỖ TRỢ
Sự hỗ trợ (Dực) của Bồ-tát tại gia, xuất gia có bốn pháp, Bồtát tu học mau chóng chứng đắc đạo quả Chánh đẳng Chánh giác vô thượng: Một là khéo tu nghiệp. Hai là tạo phương tiện thiện xảo. Ba là thâu giữ chúng sinh. Bốn là hồi hướng.
Thế nào là Bồ-tát khéo tu nghiệp? Bồ-tát đối với sáu Ba-la-mật quyết định tu, chuyên tâm tu, thường tu, tu vô tội.
Thế nào là quyết định tu? Nơi bố thí Ba-la-mật, Bồ-tát đối với người đến cầu xin, hoặc có lợi ích, không lợi ích, có đức, có lỗi, đều cần phải bố thí cho họ, đối với các huệ thí, tâm không nghiêng động. Hoặc nhân, phi nhân, Sa-môn, Bà-la-môn, đồng pháp thế gian đều không thể hủy hoại.
Thế nào là chuyên tâm tu? Bồ-tát này đối với người đến cầu xin, sẵn sàng xả vật trong ngoài để thí cho tất cả không có tiếc lẫn.
Thế nào là thường tu? Bồ-tát này bố thí không chán mệt, tất cả thời gian đều bình đẳng tùy được, tùy thí.
Thế nào là tu vô tội? Như nơi Phẩm Thí đã nói, thí lìa phiền não. Đó gọi là Bồ-tát khéo tu bố thí Ba-la-mật. Như bố thí, thì giới, nhẫn, tinh tấn, thiền định, trí tuệ đều cũng như thế, theo chỗ ứng hợp nên biết.
Thế nào là Bồ-tát tạo phương tiện thiện xảo? Lược nêu có mười thứ: Phương tiện thiện xảo đối với các chúng sinh hủy hoại pháp, vì đấy nhằm dứt trừ não hại. Phương tiện thiện xảo đối với người trụ ở giữa khiến nhập. Người nhập rồi khiến thành thục. Người đã thành thục khiến giải thoát. Phương tiện thiện xảo đối với các thứ luận ở thế gian. Phương tiện thiện xảo quán xét về giới luật của Bồ-tát hoặc trì, hoặc phạm. Phương tiện thiện xảo đối với chánh nguyện. Phương tiện thiện xảo của thừa Thanh văn. Phương tiện thiện xảo của thừa Duyên giác. Phương tiện thiện xảo của Đại thừa. Như vậy, tất cả phương tiện thiện xảo theo chỗ ứng hợp, nơi địa Bồ-tát kia đã phân biệt rộng nên biết.
Mười thứ phương tiện thiện xảo này làm năm thứ sự việc: Bốn thứ phương tiện thiện xảo đầu là tạo lợi ích cho chúng sinh. Phương tiện thiện xảo đối với các thứ luận ở thế gian là hàng phục dị luận. Phương tiện thiện xảo quán xét về giới luật của Bồ-tát hoặc trì hoặc phạm là nhằm khiến không khởi phạm giới, người đã phạm khiến như pháp sám hối, thọ trì luật nghi thanh tịnh. Phương tiện thiện xảo đối với chánh nguyện, là Bồ-tát ở đời vị lai, tất cả chỗ nguyện mong thảy đều đạt được. Phương tiện thiện xảo của ba thừa là Bồ-tát tùy theo chủng tánh, căn cơ của chúng sinh để giải thích, thí dụ, tùy thuận thuyết pháp, thuyết pháp đầy đủ. Như vậy là mười thứ phương tiện thiện xảo làm năm thứ sự việc, tất cả chỗ làm thảy đều đầy đủ, vì hiện pháp và đời sau cùng được lợi ích.
Thế nào là Bồ-tát thâu giữ chúng sinh? Bồ-tát này dựa nơi bốn nhiếp pháp là bố thí, ái ngữ, lợi ích, đồng sự. Hoặc có chúng sinh dùng an để tạo lợi ích, dùng lạc để tạo lợi ích, dùng an lạc để tạo lợi ích, nói rộng như trong Phẩm Tự Lợi Lợi Tha ở trước.
Thế nào là Bồ-tát hồi hướng? Bồ-tát tu tập ba môn căn thiện, nghĩa là khéo tu nghiệp, tạo phương tiện thiện xảo, thâu giữ chúng sinh, đối với tất cả quá khứ, hiện tại, vị lai tâm luôn thuần tịnh, hồi hướng nơi Chánh đẳng Chánh giác vô thượng, không đem căn thiện cầu quả báo khác.
Như Đức Thế Tôn đã nói: Pháp tu học của các Bồ-tát tại gia, xuất gia, nên biết tất cả đều là bốn pháp: khéo tu nghiệp, tạo phương tiện thiện xảo, thâu giữ chúng sinh, hồi hướng. Do đó, Bồ-tát khéo tu nghiệp, hành phương tiện thiện xảo, thâu giữ, tích tập hồi hướng, nên biết là gần tòa Bồ-đề. Tất cả Bồ-tát tại gia xuất gia nơi quá khứ hiện tại vị lai, đối với việc tu học đạo quả Chánh đẳng Chánh giác vô thượng, đã học, đang học, sẽ học. Bốn pháp như vậy là rốt ráo không có gì hơn.
Bốn pháp như thế, Bồ-tát xuất gia, tại gia đều thành tựu. Nhưng người xuất gia đối với người tại gia có khác biệt lớn. Bồ-tát xuất gia thâu nhận giải thoát, vượt qua những liên hệ như cha mẹ, vợ con, quyến thuộc, không phải như người tại gia. Bồ-tát xuất gia thâu nhận giải thoát, những thứ khổ như làm nông, kinh doanh mưu sinh, phục vụ vua quan cũng không như người tại gia. Bồ-tát xuất gia tu đầy đủ phạm hạnh, tất cả pháp Bồ-đề phần, chóng đắc thần thông, hoặc tu pháp thiện mau được rốt ráo. Bồ-tát xuất gia khi thuyết giảng pháp được người tín nhận. Đó gọi là chỗ khác biệt lớn của tại gia và xuất gia.
HẾT – QUYỂN 8