KINH BỒ TÁT ĐỊA TRÌ
Hán dịch: Đời Bắc Lương, Đại sư Đàm Vô Sấm
Việt dịch: Cư sĩ Nguyên Huệ

 

QUYỂN 9

XỨ PHƯƠNG TIỆN THỨ PHÁP

Phẩm thứ 3: TÂM TỊNH

Bồ-tát đối với các chúng sinh có bảy thứ thương yêu, gọi là chân thật bậc nhất: Một là vô úy. Hai là phương tiện thiện xảo. Ba là không chán. Bốn là không cầu. Năm là không tham. Sáu là rộng lớn. Bảy là bình đẳng.

Bồ-tát không do sợ hãi, nên đối với các chúng sinh khởi tâm thương yêu, tu nghiệp thân, khẩu, ý tạo an lạc cho chúng sinh. Đó gọi là vô úy.

Bồ-tát dùng trí tuệ thiện xảo, đối với các chúng sinh khởi tâm thương yêu, không giáo hóa phi pháp, phi luật, phi chân đế, phi xứ. Đó gọi là phương tiện thiện xảo.

Bồ-tát đối với các chúng sinh hành tất cả phương tiện nhưng không chán mệt. Đó gọi là không chán.

Bồ-tát đối với các chúng sinh khởi tâm thương yêu, không mong cầu việc gì. Đó gọi là không cầu.

Bồ-tát đối với các chúng sinh khởi tâm thương yêu không cầu báo ân. Đó gọi là không tham.

Bồ-tát đối với các chúng sinh khởi tâm thương yêu, không giới hạn về chúng sinh, ở chỗ các chúng sinh được lợi ích, không được lợi ích, đều không lìa bỏ. Đó gọi là rộng lớn.

Bồ-tát đối với các chúng sinh khởi tâm thương yêu, cùng với cảnh giới của chúng sinh không hạn chế về phương hướng. Đó gọi là bình đẳng.

Bồ-tát thành tựu bảy thứ thương yêu như vậy, đó gọi là chân thật bậc nhất.

Bồ-tát đối với Phật Pháp Tăng, tạo phương tiện quán sát, đạt được sự hiểu biết quyết định. Đó gọi là tâm tịnh. Lược nêu có mười lăm thứ: Một là tâm vô thượng. Hai là tâm giới. Ba là tâm Ba-lamật. Bốn là tâm nghĩa chân thật. Năm là tâm thần lực. Sáu là tâm an. Bảy là tâm lạc. Tám là tâm giải thoát. Chín là tâm kiên cố. Mười là tâm không hư giả. Mười một là tâm bất tịnh. Mười hai là tâm tịnh. Mười ba là tâm vui tịnh. Mười bốn là tâm điều phục. Mười lăm là tâm câu sinh.

Tâm tịnh chuyên vui thích Tam bảo, đó gọi là tâm vô thượng.

Tâm tịnh thọ giới luật của Bồ-tát, đó gọi là tâm giới.

Tâm tịnh hành thí, nhẫn, tinh tấn, thiền định, trí tuệ, đó gọi là tâm Ba-la-mật.

Tâm tịnh nhận biết về pháp của đệ nhất nghĩa thâm diệu là người vô ngã, pháp vô ngã, người pháp vô ngã, đó gọi là tâm nghĩa chân thật.

Tâm tịnh nhận biết về lực câu sinh, lực thần thông không thể nghĩ bàn của chư Phật, Bồ-tát, đó gọi là tâm thần lực.

Đối với các chúng sinh muốn đem pháp thiện để tạo lợi ích, đó gọi là tâm an.

Đối với các chúng sinh muốn dùng sự thâu giữ để tạo lợi ích, đó gọi là tâm lạc.

Nơi các chúng sinh lìa tâm tham cùng với sự thọ báo, đó gọi là tâm giải thoát.

Đối với Bồ-đề vô thượng, tâm luôn kiên cố, đó gọi là tâm kiên cố.

Theo phương tiện tạo lợi ích cho chúng sinh, phương tiện khai ngộ, trí không điên đảo đều cùng giải thoát, đó gọi là tâm không hư giả.

Tâm Bồ-tát của địa giải hành, đó gọi là tâm bất tịnh.

Tâm Bồ-tát nơi Địa tâm tịnh cho đến Địa quyết định hành, đó gọi là tâm tịnh.

Tâm Bồ-tát của Địa cứu cánh, đó gọi là tâm vui tịnh.

Tâm không tịnh kia, đó gọi là tâm điều phục.

Tâm tịnh, tâm vui tịnh tư duy, đó gọi là tâm câu sinh. Tánh tự chân thật, thân tâm thanh tịnh nên gọi là câu sinh.

Như thế gọi là mười lăm thứ tâm tịnh.

Mười lăm thứ tâm tịnh này, tùy theo tất cả địa, lược nêu là đã tạo ra mười việc:

Tâm vô thượng: Là tịnh tu tất cả loại hành của tuệ Tam bảo, tu tất cả Bồ-đề gồm đủ chân thật đệ nhất.

Tâm giới: Là từ khi thọ giới luật của Bồ-tát, cho đến mạng chung, trọn không hủy phạm, nếu có chỗ phạm tức có thể diệt trừ.

Tâm Ba-la-mật: Là các pháp căn thiện thường siêng năng tu tập, trụ trong pháp không phóng dật.

Tâm nghĩa chân thật: Là đem tâm không nhiễm ô, vì chúng sinh nên thọ nhận sinh tử, tâm tịnh không xả bỏ Niết-bàn giải thoát.

Tâm thần lực: Là tịnh tín thuần hậu khai ngộ cùng tu tưởng niệm sinh tử, phần nhiều trụ trong văn, tư, biết lượng, biết đủ.

Tâm an, tâm lạc, tâm giải thoát: Là tạo tất cả thứ lợi ích cho chúng sinh, nhưng không chán mệt.

Tâm kiên cố: Là tinh tấn sáng rõ, tinh tấn rộng lớn, phương tiện bình đẳng, phương tiện không trì hoãn, phương tiện không dứt.

Tâm không hư giả: Là mau chóng chứng đắc thần thông, những thứ pháp thiện kia, không do tâm nhỏ, tâm thấp mà sinh khởi tưởng đủ.

Tâm điều phục sinh tâm câu sinh. Tâm câu sinh mau chóng chứng đắc đạo quả Chánh đẳng Chánh giác vô thượng, tạo lợi ích an lạc cho chư thiên và người đời.

Tâm điều phục thâu giữ tâm bất tịnh, tâm câu sinh thâu giữ tâm tịnh, tâm vui tịnh.

Như Đức Thế Tôn nói: Tâm tịnh của Bồ-tát thiết lập hiển bày tất cả, đều là thuộc về mười lăm thứ tâm tịnh. Bồ-tát quá khứ, hiện tại, vị lai tu tập chứng đắc Bồ-đề vô thượng, đã đắc, nay đắc, sẽ đắc, tất cả đều là mười lăm thứ tâm tịnh rốt ráo, không gì hơn. Như vậy, mười lăm thứ tâm tịnh có quả phước lợi lớn, dựa vào đấy để chứng đắc Bồ-đề vô thượng.

*********

XỨ PHƯƠNG TIỆN THỨ PHÁP

Phẩm thứ 4: TRỤ

Đã nói về chủng tánh của Bồ-tát, cho đến việc tu học của Bồtát, nhưng tướng của Bồ-tát học, Bồ-tát hỗ trợ, Bồ-tát tâm tịnh, nay sẽ lược nêu. Mười hai trụ của Bồ-tát gồm thâu tất cả trụ và tất cả hành của Bồ-tát. Trụ Như Lai thứ mười ba là trụ vô thượng.

Những gì là mười hai trụ của Bồ-tát? Một là trụ chủng tánh. Hai là trụ giải hành. Ba là trụ hoan hỷ. Bốn là trụ giới tăng thượng. Năm là trụ ý tăng thượng. Sáu là trụ tuệ tăng thượng. Trụ tuệ tăng thượng có ba loại: Một là tương ưng nơi Bồ-đề phần pháp. Hai là tương ưng với đế. Ba là tương ưng với duyên khởi sinh diệt. Bồ-tát theo trí chân thật quán chân thật, nghĩa là nhận biết chúng sinh, sinh khổ, diệt khổ, thế nên Bồ-tát ở nơi ba môn có ba thứ tuệ, ba thứ trụ. Chín là trụ vô tướng có hành, có khai phát. Mười là trụ vô tướng không hành, không khai phát. Mười một là trụ vô ngại. Mười hai là trụ Bồ-tát tối thượng.

Mười hai trụ như thế gồm thâu tất cả trụ, tất cả hành của Bồ-tát. Trụ Như Lai thì vượt hơn tất cả trụ của Bồ-tát. Trụ A duy tam Phật, trụ Như Lai, nơi Phẩm An Lập ở sau sẽ nói rộng. Mười hai trụ Bồ-tát đã kiến lập, nay sẽ nói.

Thế nào là trụ chủng tánh? Bồ-tát này tánh tự hiền thiện, tánh tự có thể hành công đức nơi pháp thiện. Tánh hiền thiện cho nên hành phương tiện theo ý, các pháp thiện sinh không đợi tư duy, sau đó có thể đạt được chủng tánh Bồ-tát, là chủng tử của tất cả pháp Phật. Chủng tử của tất cả pháp Phật ở trong thân, lìa phiền não thô. Bồ-tát của trụ chủng tánh tuy khởi phiền não bậc thượng trói buộc, nhưng trọn không hề hành năm nghiệp vô gián và đoạn căn thiện. Nghĩa của chủng tánh như trong Phẩm Chủng Tánh đã nói. Đó gọi là trụ chủng tánh.

Thế nào là trụ giải hành? Bồ-tát này mới phát tâm, chưa được địa tâm tịnh, tuy chưa được nhưng Bồ-tát hiện có các hành. Đó gọi là trụ giải hành.

Bồ-tát của trụ chủng tánh, đối với các trụ Bồ-tát khác cùng trụ Như Lai, sinh nhân gồm thâu nhân, không phải là phương tiện, cũng không phải là đạt được, cũng không phải là thanh tịnh, huống gì là trụ Như Lai.

Bồ-tát của trụ giải hành, đối với các trụ Bồ-tát khác cùng trụ Như Lai, là phương tiện, nhưng không phải là đạt được, cũng không phải là thanh tịnh, chỉ được giải hành và hướng thanh tịnh. Bồ-tát của trụ giải hành tịnh tu trụ hoan hỷ, đạt được phương tiện trước cùng hướng thanh tịnh.

Bồ-tát của trụ hoan hỷ tịnh tu trụ giới tăng thượng, đạt được phương tiện trước cùng hướng thanh tịnh.

Như thế, nói rộng cho đến trụ Bồ-tát tối thượng, nên biết cũng như vậy. Trụ Bồ-tát tối thượng thứ lớp tịnh tu trụ Như Lai, nơi trụ Như Lai của phương tiện trước, chứng đắc tức thì cùng thanh tịnh. Đó là sự sai biệt giữa trụ Như Lai và trụ Bồ-tát.

Thế nào là trụ hoan hỷ? Bồ-tát nơi trụ tâm tịnh, đó gọi là trụ hoan hỷ.

Thế nào là trụ giới tăng thượng? Bồ-tát nhân nơi tâm tịnh trụ đầy đủ nơi tánh giới.

Thế nào là trụ ý tăng thượng? Bồ-tát nhân nơi giới tăng thượng tịnh trụ nơi thiền thế tục, Tam-muội chánh thọ.

Thế nào là trụ tuệ tương ưng với pháp phần Bồ-đề? Bồ-tát nhân nơi tịnh trí thế tục, Tam-muội chân thật nhận biết về chân đế, ba mươi bảy pháp Bồ-đề phần như chánh niệm xứ v.v… quán sát an trụ.

Thế nào là trụ tuệ tương ưng với đế? Bồ-tát nhân nơi pháp phần Bồ-đề, trụ tuệ quán sát chân đế.

Thế nào là trụ tuệ tương ưng với duyên khởi sinh diệt? Bồ-tát nơi chân đế nhận biết là tăng thượng rồi, có nhân duyên khổ sinh, có nhân duyên khổ diệt, quán sát tánh an trụ.

Thế nào là trụ vô tướng có hành, có khai phát? Bồ-tát nơi ba thứ tuệ tăng thượng làm tăng thượng rồi, có hành, có khai phát, không đoạn tất cả pháp như vô gián, lìa các vọng tưởng, tu tuệ cùng trụ.

Thế nào là trụ vô tướng không hành không khai phát? Nghĩa là trụ vô tướng này phần nhiều thuần tu cho đến không đoạn đạo vô gián tăng tưởng tùy thuận an trụ.

Thế nào là trụ vô ngại? Bồ-tát dựa nơi Tam-muội của trí tuệ bất động vui tịnh, đối với lời, nghĩa, chương câu của pháp Phương quảng vô thượng do Đức Phật thuyết giảng, quán sát phân biệt an trụ.

Thế nào là trụ Bồ-tát tối thượng? Bồ-tát trụ nơi đạo Bồ-tát cứu cánh, chứng đắc Chánh đẳng Chánh giác vô thượng, hành đại pháp quán đảnh một đời tiếp nối, hoặc thân sau cùng ở trụ này lần lượt chứng đắc Bồ-đề vô thượng, làm tất cả Phật sự an trụ.

Bồ-tát của trụ giải hành, tu tập hành ít, hành đoạn, hành bất định, chỗ chứng đắc có thoái chuyển.

Bồ-tát của trụ hoan hỷ cho đến ba thứ trụ tuệ, tu tập hành rộng, hành không đoạn, hành quyết định, chỗ chứng đắc không thoái chuyển.

Bồ-tát nơi trụ vô tướng có hành có khai phát, cho đến trụ Bồ-tát tối thượng, tu tập vô lượng hành, hành không đoạn, hành quyết định, chỗ chứng đắc không thoái chuyển.

Bồ-tát của trụ giải hành tu phương tiện vô tướng.

Bồ-tát của trụ hoan hỷ cho đến trụ tuệ tăng thượng, được tu vô tướng.

Bồ-tát của trụ vô tướng thứ nhất, trụ vô tướng thứ hai, tu tịnh vô tướng.

Bồ-tát của trụ vô ngại cho đến trụ Bồ-tát tối thượng, tu quả vô tướng.

Thế nào là hành tướng của Bồ-tát nơi Trụ giải hành? Bồ-tát của Trụ giải hành khi hành giải hành, dùng lực tư duy về những chỗ tạo tác của Bồ-tát làm phương tiện tư duy tu tập. Tánh không thể tự chân thật, kiên cố không thoái chuyển, không được như cách tu của Bồ-tát không thoái chuyển đã tu. Tu quả như vậy nơi vô số thần thông vô ngại, Tam-muội chánh thọ giải thoát thảy đều không được, cũng chưa lìa năm thứ lo sợ, đó là sợ không sống nổi, sợ tiếng xấu, sợ chết, sợ nẻo ác, sợ đại chúng. Tư duy tu tập tạo lợi ích cho chúng sinh, tánh không thể tự thương xót, hoặc có khi khởi nghiệp thân khẩu ý tà vạy, có khi tham vướng nơi cảnh giới năm dục, có khi tham tiếc các vật dụng hiện có. Do đối với Phật, Bồ-tát sinh khởi tịnh tín, nhưng không thể tự khởi trí tuệ chân thật. Đó là nghĩa chân thật nơi công đức của Tam bảo, lực thần thông của chư Phật, Bồ-tát, hoặc nhân, hoặc quả, hoặc đạt được nghĩa, hoặc đạt được phương tiện, hoặc cảnh giới. Nghe ít, tư duy ít, nên trí tuệ thành tựu không thể là vô lượng. Hoặc có khi quên mất sự thành tựu đạo khổ chậm của Bồ-tát, không thể chuyên tinh hành Đại Bồ-đề, theo phương tiện sáng rõ, vui thích sâu xa tịnh tín, đối với sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp, nơi đáng vui mừng không thể vui mừng. Hoặc thọ sinh điên đảo ở giữa hai thân kia, hoặc khi thọ tụng trì pháp tạo tác lâu, tu lâu, nơi ba việc ấy quên mất chánh niệm. Hoặc khi tuệ sáng thọ trì chánh pháp, khéo hiểu về nghĩa ấy. Hoặc khi không hiểu, hoặc không khéo nhận biết tùy thuận điều phục. Hoặc lại không nhận biết nên tự sinh pháp Phật, theo ý thuyết pháp, chỉ dạy khuyên răn, do theo ý nên không nhận biết như thật. Hoặc khi nói không thực, như ở trong chỗ tối bắn tên, hoặc trúng hoặc không trúng. Hoặc khi thoái chuyển xả bỏ tâm Đại Bồ-đề. Hoặc khi thọ giới Bồ-tát, trở lại hủy phạm. Hoặc khi có thể theo phương tiện tạo lợi ích cho chúng sinh. Hoặc khi chán mệt, vì thế đối với phương tiện thoái chuyển, thích tự mình vui. Hoặc khi tư duy nhận biết sự ưa thích chúng sinh thiếu giảm nhưng không thể đoạn. Hoặc có đoạn trừ nhưng lại luôn thiếu giảm. Hoặc lúc có thể thuyết giảng tạng pháp Bồ-tát. Hoặc khi nghe giảng nói về pháp sâu xa vi diệu liền sinh sợ hãi, dao động, nghi vấn. Đối với tất cả chúng sinh xa lìa đại bi, ít có thể tạo an lạc, không thể hành rộng lớn, tức không thể như trên đã nói về sự tu học của Bồ-tát nên học, đầy đủ tướng Bồ-tát, Bồ-tát hỗ trợ, Bồ-tát tâm tịnh, cách xa quả vị Chánh đẳng Chánh giác vô thượng, tâm không thể tịnh vui thích sâu xa về Niết-bàn, lìa bỏ sinh tử, căn thiện bất động, pháp Bồ-đề phần đều không thành tựu. Những thứ như vậy gọi là hành tướng của Bồ-tát nơi trụ giải hành.

Bồ-tát của trụ giải hành khi hành nhẫn hạ, như trên đã nói hành tướng tăng, khi hành nhẫn trung thì trung bình, khi hành nhẫn thượng thì kém. Như vậy, khi hành nhẫn thượng thì đoạn hành tướng này, theo thứ lớp nhập trụ hoan hỷ, theo phương tiện được trụ hoan hỷ. Tất cả pháp kia đều không còn có trụ. Trụ giải hành đã nói là trái với tất cả phần pháp không nhiễm ô, thành tựu gọi là trụ tâm tịnh.

Bồ-tát của trụ giải hành có phương tiện hạ, trung, thượng, lần lượt tịnh giải thoát, nhưng không phải là thanh tịnh vô tội. Vì sao? Vì giải thoát kia có các thứ phiền não loại triền bậc thượng sinh ra. Bồ-tát của trụ hoan hỷ giải thoát các phiền não loại triền bậc thượng kia đoạn lìa phiền não, sinh giải thoát thanh tịnh.

Thế nào là hành tướng của Bồ-tát nơi Trụ hoan hỷ? Bồ-tát này ở Trụ giải hành nhập Trụ hoan hỷ, trước khéo nhập nơi Bồ-đề vô thượng, nguyện khéo nhập nơi phương tiện Bồ-đề, tu tập quyết định.

Quyết định có sáu thứ: Một là có khả năng tự tu tập, khởi nguyện Bồ-đề, vượt ra ngoài tất cả nguyện tịnh khác. Hai là quả không chung, không gì sánh bằng, vượt ra ngoài tất cả cảnh giới của thế gian. Ba là thuận độ các chúng sinh khổ, không chung với tất cả hàng Thanh văn, Duyên giác. Bốn là phát khởi nguyện nhất niệm, tánh tự nhiên vui thích vô lượng pháp tịnh và hành không chán. Năm là được nguyện vô tận thường không thoái chuyển. Sáu là tăng trưởng phần thù thắng là Đại Bồ-đề rốt ráo. Đó gọi là nguyện chân thật.

Bồ-tát hành nguyện chân thật có bốn việc: Một là vì những người nào nên phát tâm? Hai là duyên vào gì để phát tâm? Ba là phát tâm có tướng gì? Bốn là phát tâm có phước lợi gì?

Bồ-tát của trụ giải hành tu tập tất cả loại căn thiện, xuất sinh chánh hạnh Bồ-đề nên phát tâm. Đó là lược nói về người phát tâm.

Ở đời vị lai, mau chóng đạt đầy đủ tất cả loại tư lương của Bồđề, đầy đủ sự việc Bồ-tát tạo lợi ích cho chúng sinh, đầy đủ tất cả hành của Bồ-đề vô thượng, đầy đủ tất cả Phật sự nên phát tâm. Đó là lược nêu về duyên phát tâm.

Bồ-tát phát tâm, mau chóng đầy đủ tất cả chủng loại tư lương của Bồ-đề, các sự việc Bồ-tát tạo lợi ích cho chúng sinh, tất cả hành của Bồ-đề vô thượng, tất cả Phật sự, vượt qua địa phàm phu, nhập quả vị Bồ-tát, sinh nơi nhà Như Lai, gọi là Phật tử, quyết định cầu đạt Bồ-đề vô thượng rốt ráo, được tịnh bất hoại, sinh tâm hoan hỷ, lìa các tâm như tham sân của phi luật nghi. Tất cả các thứ tạo lợi ích cho chúng sinh, tất cả chủng loại tư lương của Bồ-đề, đầy đủ pháp Phật, Phật sự, thần lực, duyên kết nơi tâm tịnh, ý giải thứ lớp. Tự thấy được pháp Phật kia, mau chóng tùy thuận hành trì, sinh tâm vui vẻ, gìn giữ các căn thiện. Xuất gia tạo lợi ích bình đẳng, lìa dục, thân tâm thâu nhận, vui mừng hiện rõ, thành tựu pháp thiện, gần gũi tâm thanh tịnh của Bồ-đề vô thượng, đối với Đại Bồ-đề khởi tâm hoan hỷ. Bồ-tát theo tâm quyết đinh xuất sinh xa lìa năm thứ lo sợ, tu trí vô ngã, ngã tưởng không sinh, nên không có ngã ái và các thứ vật dụng để tham ái, thế nên lìa lo sợ không thể sống. Đối với người khác không hành việc cầu dục, thường muốn tạo lợi ích cho tất cả chúng sinh, cho nên lìa mọi lo sợ về tiếng xấu ác. Xa lìa ngã kiến, ngã tưởng dứt bặt, do đó lìa mọi lo sợ về chết. Thân này mạng chung, nơi đời vị lai tất cùng với chư Phật, Bồ-tát tụ hội, vì thế lìa mọi lo sợ về nẻo ác. Quán xét ở thế gian không ai sánh bằng, huống gì là vượt hơn, thế nên lìa mọi lo sợ nơi đại chúng. Như vậy, lìa năm thứ lo sợ, tức cũng xa lìa sự lo sợ khi nghe pháp sâu xa, dứt bỏ kiêu mạn cao ngạo, đối với người khác không tạo lợi ích, các thứ sân hận tham hỷ cũng đều xa lìa, không nhiễm ô, không hành tạp, tất cả pháp thiện, tất cả các thứ tinh tấn, phương tiện tịnh tín hiện tại đều tu hành. Đối với sự việc vị lai sinh khởi mười đại nguyện. Mười đại nguyện ấy như trong phẩm Bồ-đề phần ở trước đã nói.

Trụ hoan hỷ này tịnh tu sinh: Một là đem tâm thanh tịnh thường nguyện cúng dường tất cả chư Phật. Hai là thọ trì giữ gìn chánh pháp của chư Phật. Ba là khuyến thỉnh chư Phật chuyển pháp chưa từng có. Bốn là thuận hành chánh hạnh của Bồ-tát. Năm là tất cả các vật dụng thành thục đầy đủ. Sáu là nơi tất cả thế giới đều có thể hiện thọ sinh. Bảy là tự làm thanh tịnh cõi Phật. Tám là tất cả Bồ-tát đồng một phương tiện đem Đại thừa giáo hóa. Chín là tạo lợi ích cho tất cả chúng sinh, hết thảy đều chẳng không. Mười là nơi tất cả thế giới chứng đắc Chánh đẳng Chánh giác vô thượng, thực hiện tất cả Phật sự.

Như vậy, mười đại nguyện ấy có thể sinh khởi vô lượng trăm ngàn đại nguyện, không lìa cảnh giới của chúng sinh, không lìa thuận với thế gian, các đại nguyện này đời đời luôn hành trì, trọn không quên mất. Hiện pháp theo phương tiện tinh tấn tu tịnh, trụ nơi mười pháp thuộc Trụ hoan hỷ tịnh tu sinh: Một là đối với tất cả pháp Phật đều tín không hoại. Hai là tạo phương tiện quán sát duyên khởi, khổ ấm nơi chúng sinh sinh tâm đại bi. Ba là quán sát chúng sinh khổ, khiến được giải thoát, sinh tâm đại từ. Bốn là do đại từ bi, nhằm độ tất cả chúng sinh thọ khổ, nên tự xả thân mình không bỏ chúng sinh, xả mọi vật trong ngoài để hành bố thí. Năm là vì hóa độ chúng sinh nên siêng cầu pháp thế gian, xuất thế gian, tâm không chán mệt. Sáu là do tâm không chán mệt nên nhận biết tất cả luận. Bảy là do nhận biết tất cả luận nên nhận biết chúng sinh loại hạ, trung, thượng, theo sự ứng hợp nên hiểu biết về thế gian. Tám là theo chỗ ứng hợp nên luôn biết thời, biết lượng, sinh tâm hổ thẹn. Chín là hành phương tiện như vậy, đạt được lực mạnh mẽ. Mười là được tài lợi thế gian luôn cúng dường Như Lai. Mười pháp như vậy làm tịnh trụ hoan hỷ, đó là tín, từ, bi, thí, không nhàm chán, biết luận, biết thế gian, hổ thẹn, dũng mãnh, cúng dường Như Lai.

Bồ-tát tu tập mười pháp này, đối với chín trụ còn lại như trụ giới tăng thượng v.v… quán sát công đức hay lỗi ác của tất cả các thứ đạo, cầu thần thông hiện có của chư Phật, Bồ-tát, vui thích đạo không hoại, khéo thâu giữ hành được nương dựa, vượt qua tất cả trụ, đắc Đại Bồ-đề, làm bậc Đại Đạo sư, độ thoát chúng sinh nơi đồng hoang vắng sinh tử, chỉ dạy khiến nhập hành. Nhập hành rồi chứng đắc quả phước lợi thành tựu, gọi là dựa nơi trụ.

Bồ-tát đạt trụ này có hai nhân duyên: Thấy vô lượng Phật, nghe giảng nói về Tạng Bồ-tát, tức có thể hiểu biết, biết vô số danh hiệu của chư Phật trong vô lượng thế giới nơi mười phương, từ tịnh tín thấy thô, cho đến được kiến giải chân thật. Đó gọi là nhân duyên thứ nhất.

Lại khởi nguyện: Đức Phật kia ra đời, ta sẽ sinh nơi cõi ấy, tùy nguyện vãng sinh. Như vậy, do nguyện lực nên từ tịnh tín thấy thô được thấy chư Như Lai với tất cả các thứ cúng dường, các thứ tạo an lạc lợi ích, tùy theo khả năng, tùy theo lực để cúng dường Pháp, Tăng. Ở chỗ Đức Như Lai nghe nhận chánh pháp, nghe rồi thì thọ trì pháp tiếp pháp hướng, dùng bốn nhiếp sự để thành thục chúng sinh, tất cả căn thiện hồi hướng nơi Bồ-đề, do ba thứ thanh tịnh nên các căn thiện kia lại chuyển thanh tịnh. Phật, Pháp, Tăng thâu nhận cúng dường, do bốn nhiếp sự thành thục chúng sinh, tất cả căn thiện đều hồi hướng Bồ-đề, trong vô lượng trăm ngàn ức kiếp luôn làm tịnh thân tâm. Ví như vàng ròng được thử trong lửa, thợ khéo luyện trị càng thêm sáng sạch. Căn thiện của Bồ-tát chuyển tăng thanh tịnh cũng lại như vậy. Nếu lại thọ sinh, làm Chuyển luân vương, làm vua châu Diêm-phù-đề, tùy ý tự tại, xa lìa tham lam keo kiệt, cũng giáo hóa chúng sinh xa lìa mọi thứ cấu uế của keo kiệt, đem bốn nhiếp sự thâu giữ chúng sinh, khiến khắp chúng sinh được đệ nhất nghĩa. Hoặc muốn tinh tấn, xả bỏ của cải, nhà cửa, ở nơi chánh pháp của Phật xuất gia học đạo. Trong khoảnh khắc một niệm có thể đạt đầy đủ trăm Tam-muội của Bồ-tát, có thể dùng Tam-muội thấy trăm thế giới Phật, đem trí lực thần thông có thể làm chấn động trăm thế giới Phật, thân cũng có thể vượt quá ánh sáng. Có thể biến hóa một thân thành trăm thân, hiện bày rộng khắp, thành thục chúng sinh, có thể trụ lâu trăm kiếp, có thể nhận biết sự việc nơi trăm kiếp quá khứ. Có thể nhận biết ấm, giới, nhập, mỗi thứ đều có trăm pháp môn, có thể hóa trăm Bồ-tát làm quyến thuộc. Hoặc đem nguyện lực, sức thần thông để tạo tác, tức có vô lượng trăm ngàn ức kiếp không thể tính biết. Đó gọi là lược nêu về Trụ hoan hỷ. Nghĩa là quyết định bốn sự việc, xuất sinh đại nguyện, xuất sinh phương tiện tinh tấn, tu tập pháp tịnh trụ, nơi các trụ kia đều tịnh tu, thấy Phật, căn thiện thanh tịnh, thần lực thọ sinh, nói rộng như nơi Địa Hoan Hỷ trong Kinh Thập Địa đã nói. Kinh nói mười Địa, còn Ma-đắc-lặc-già của tạng Bồ-tát này nói mười Trụ. Thâu nhận chúng sinh nên nói là Địa. Tự thọ nhận hành trụ nên nói là Trụ.

Thế nào là hành tướng của Bồ-tát nơi Trụ giới tăng thượng? Bồ-tát này ở Trụ hoan hỷ được mười thứ tâm tịnh: Một là tâm đem tất cả các thứ cúng dường phước điền tôn trọng, trước nói lời thưa hỏi. Hai là tâm cùng với Bồ-tát đồng pháp gần gũi vui trụ. Ba là tâm thắng tất cả các phiền não, các thứ nghiệp ma trói buộc. Bốn là tâm thấy được lỗi ác của tất cả hành. Năm là tâm thấy rõ phước lợi của Niết-bàn. Sáu là tâm thường tu căn thiện của pháp Bồ-đề phần. Bảy là tâm tùy thuận tu Bồ-đề nơi xứ thanh tịnh vắng vẻ. Tám là tâm không nghĩ nhớ về những tham ái, kiêu mạn, lợi dưỡng của thế gian. Chín là tâm lìa thừa Thanh văn hướng đến Đại thừa. Mười là tâm tạo tất cả mọi thứ lợi ích cho chúng sinh.

Mười thứ tâm sinh như vậy gọi là được tâm tịnh. Tâm tịnh đầy đủ như thế, thứ lớp nhập Trụ giới tăng thượng. Nhập Trụ giới tăng thượng rồi, tức tánh giới đầy đủ, dấu vết của nghiệp tà loại thấp chỗ gồm thâu giới ác thảy đều không làm, huống gì là loại trung, thượng. Tánh giới đầy đủ như vậy, thì nghiệp nhiễm ô, không nhiễm ô, dấu vết của nghiệp nơi nẻo thiện nẻo ác, xứ nhân xứ quả đều nhận biết như thật, quả chánh báo quả y báo và nghiệp kia cũng nhận biết như thật, tự đoạn mười nghiệp ác, hành mười nghiệp thiện. Lại đem pháp này dạy trao cho chúng sinh, cho đến cảnh giới của những chúng sinh tạo nghiệp ác, lỗi lầm độc hại cũng bình đẳng truyền dạy không sai khác. Nghiệp thiện, nghiệp ác, đệ nhất nghĩa khổ, các thứ hoạn nạn, đều tạo được sự thương xót rộng lớn, thấy Phật, căn thiện thanh tịnh, như trước đã nói. Ví như vàng ròng được tăng thêm thuốc riêng, bỏ vào trong lửa càng thêm sáng sạch. Bồ-tát đạt căn thiện thanh tịnh cũng lại như vậy. Trụ nơi tâm thanh tịnh này, thành tựu thọ sinh, làm Chuyển luân vương, cai trị bốn châu thiên hạ, dùng lực tự tại khiến các chúng sinh lìa các giới ác, hành đạo nghiệp thiện. Mười sự việc thần lực như trong kinh đã nói. Đó gọi là lược nêu về Trụ giới tăng thượng. Nghĩa là tâm tịnh, tánh giới đầy đủ, lìa tất cả giới ác, lìa tất cả nẻo nghiệp, tất cả nhân quả đều nhận biết như thật, phân biệt bốn thứ nghiệp dạy trao chúng sinh. Nghiệp thiện ác trong cảnh giới chúng sinh sinh khổ và các nạn, tạo được sự thương xót rộng lớn, thấy Phật, căn thiện thanh tịnh, thần lực thọ sinh, nói rộng như nơi Địa Ly Cấu của Kinh Thập Địa đã nói. Lìa cấu uế của giới ác nên gọi là Ly cấu. Địa Ly Cấu kia tức ở đây là Trụ giới tăng thượng.

Thế nào là hành tướng của Bồ-tát nơi Trụ ý tăng thượng? Bồtát này ở Trụ giới tăng thượng được mười thứ tư duy. Mười thứ tư duy đầy đủ rồi, tức vượt qua Trụ giới tăng thượng, nhập vào Trụ ý tăng thượng: Một là làm tịnh mười thứ tâm tịnh. Hai là lìa mười thứ tâm bất tịnh. Ba là đối với tất cả pháp hữu lậu đều có thể sinh chán lìa. Bốn là biết tu pháp đối trị. Năm là tu pháp đối trị không thoái chuyển. Sáu là đối trị kiên cố hơn hẳn tất cả hữu lậu, tất cả nghiệp ma. Bảy là đối với tất cả pháp Phật không có yếu kém, thoái lui. Tám là đối với các khổ hạnh không cho là khó. Chín là tin hiểu Đại thừa, không ưa thích Tiểu thừa. Mười là tất cả các thứ đều tạo lợi ích cho chúng sinh.

Bồ-tát của trụ ý tăng thượng quán tất cả hành có vô lượng lỗi ác sinh khởi chán lìa, quán công đức phước lợi nơi trí tuệ của Phật sinh khởi chánh niệm, tín tâm thuần tịnh. Quán các hành khổ trong cảnh giới chúng sinh, thương nhớ chúng sinh, nương nơi nghĩa, đối với hành hữu vi không có phóng dật, đối với Đại Bồ-đề tinh tấn dũng mãnh, đối với các chúng sinh sinh tâm đại bi, khiến các chúng sinh rốt ráo thoát khổ. Quan sát tất cả chướng ngại của phiền não, hướng chánh trí giải thoát. Quan sát hết thảy vọng tưởng của pháp giới, phiền não khởi lên dùng trí tuệ đối trị, quán trí tuệ, Tam-muội thành tựu v.v… Nghe Tạng Bồ-tát lấy đó làm phương tiện, nhân nơi phương tiện nghe nên siêng tu tinh tấn. Lãnh hội chánh pháp nên không tiếc thân mạng, mọi thứ vật dụng trong ngoài thảy đều bố thí. Đối với các bậc đáng tôn trọng luôn thể hiện sự cung kính. Đối với chánh giáo luôn tùy thuận phụng hành. Luôn đem thân khổ để cầu pháp. Dùng tâm ái niệm nghe mỗi bài kệ bốn câu hơn là nhớ nghĩ về các thứ châu báu chứa nhóm trong ba ngàn đại thiên thế giới. Nếu nghe một bài kệ, hướng đúng đến Phật đạo, tịnh tu hạnh Bồ-tát, thì hơn hẳn việc được làm Chuyển luân Thánh vương, làm Hộ thế, Đế thích, Ma, Phạm. Nếu có người nói: Ta có chánh pháp, chánh hướng Phật đạo, tịnh tu hạnh Bồ-tát, ông nếu có thể nhảy vào hầm lửa lớn nhận lấy đại khổ, ta sẽ vì ông nói rõ. Bồ-tát nghe rồi hoan hỷ vui nhận, khởi niệm: Nếu nghe chánh pháp hướng đúng đến Phật đạo, tịnh tu hạnh Bồ-tát, giả như lửa lớn cháy bừng khắp tam thiên đại thiên thế giới, cho đến cõi Phạm thiên, ta hãy còn đi vào trong đó, huống gì là hầm lửa nhỏ. Trải qua mọi thứ khổ ở địa ngục, Bồ-tát hãy còn dốc cầu pháp Phật, huống gì là khổ nhỏ. Phương tiện tinh tấn tư duy như thế để cầu pháp, như pháp thứ pháp hướng (Pháp tùy pháp hành) tùy thuận pháp Phật, không do văn tự, âm thanh thanh tịnh. Khởi niệm như vậy rồi, nhân nghe pháp tướng của chánh duyên, lìa pháp dục ác bất thiện, được bốn thiền thế gian, bốn định vô sắc, bốn vô lượng, năm thần thông, xả các thiền, chánh thọ Tam-muội. Do nguyện lực nên lại sinh ở cõi dục, quán chúng sinh kia có thể đạt đủ pháp phần Bồ-đề, nên sinh vào xứ đó, lìa dục nên đoạn bỏ mọi trói buộc của dục. Do chánh thọ các thiền nên có trói buộc liền đoạn trừ, như trước nơi trụ giải hành, pháp như vậy thấy rõ giải thoát nên đoạn dứt trói buộc. Tham sân si rốt ráo không hành, thấy Phật, căn thiện thanh tịnh như trước đã nói. Ví như vàng ròng được luyện trị, lìa cấu uế thành sáng sạch, căn thiện của Bồ-tát chuyển tăng thanh tịnh cũng lại như vậy. Nếu lại thọ sinh thì được thân Đế thích, dùng pháp thiện lìa dục để điều phục chúng sinh, thần lực hơn các trụ trước trăm ngàn vạn lần. Đó gọi là lược nói về Trụ ý tăng thượng. Nghĩa là thành tựu mười thứ tư duy, nhập tất cả hành Đại Bồ-đề nơi cảnh giới chúng sinh, phân biệt đúng về khổ chân thật. Phương tiện giải thoát chánh cầu, hết sức cung kính cầu pháp, pháp tiếp pháp hướng, phương tiện thiện xảo xuất sinh các thiền Tam-muội, chánh thọ thần thông, xả bỏ các thiền, do nguyện lực nên tùy theo chỗ mong muốn thọ sinh, thấy Phật, căn thiện thanh tịnh, thần lực thọ sinh, nói rộng như nơi Địa Minh trong Kinh Thập Địa đã nói. Nghe pháp hành, do hành pháp chiếu sáng, Tam-muội chiếu sáng, nên nói là Địa Minh. Nội tâm thanh tịnh nên gọi là Trụ ý tăng thượng. Địa Minh kia tức là Trụ ý tăng thượng.

Thế nào là hành tướng của Bồ-tát nơi trụ tuệ tăng thượng tương ưng với pháp phần Bồ-đề? Bồ-tát này ở Trụ ý tăng thượng, đạt đầy đủ mười pháp minh tăng thượng rồi, nhập Trụ tuệ tăng thượng thứ nhất. Mười pháp minh như nơi kinh đã nói. Đó là đệ nhất nghĩa bình đẳng, hoặc phiền não não hại, hoặc thanh tịnh tịnh hóa, phiền não trói buộc não hại, thanh tịnh vô thượng tịnh hóa. Đó gọi là lược nói về nghĩa pháp minh.

Người trụ nơi trụ này, thành thục mười trí tịnh không hoại làm đầu, như trong kinh nói: Mười trí thành thục, sinh vào nhà Như Lai, đạt được mười trí quán sát tự tại, làm tăng thượng xong, tu ba mươi bảy pháp Bồ-đề phần như Niệm xứ v.v… Như trong kinh nói: Tu tập pháp kia, nên lìa các thứ ấm, giới, nhập như thân kiến v.v…, các ái nhiễm vi tế rốt ráo không sinh. Đức Như Lai không khen ngợi về sự tạo nghiệp, nên tất cả không làm. Những thứ được khen ngợi thì tất cả đều tùy thuận. Như như chân thật, tâm càng thêm thuận hòa. Tu các thứ hành, tâm kia vui tịnh, biết ân báo ân, thuận theo công đức, các thứ pháp tịnh thảy đều thành tựu, tu nghiệp của địa trên được tinh tấn lớn. Nhân nơi tinh tấn ấy, nên tâm thanh tịnh tâm sâu xa tin hiểu đầy đủ. Nhờ nơi chánh pháp nên ngoại đạo, ma oán đều không thể khuynh động, được thấy Phật, căn thiện thanh tịnh như trước đã nói. Ví như vàng ròng làm các vật trang sức, các kim loại khác đều không sánh kịp, căn thiện của Bồ-tát cũng lại như vậy, hơn hẳn công đức của các Bồ-tát nơi địa dưới. Như lưu giữ nhiều ma-ni ánh sáng thanh tịnh, các thứ ngọc báu khác không bằng, tất cả mưa gió đều không thể hoại diệt. Bồ-tát như vậy thì ánh sáng trí tuệ của các Bồ-tát nơi địa dưới, các hàng Thanh văn, Duyên giác đều không thể sánh kịp, ma oán phiền não cũng không thể hủy diệt. Nếu lại thọ sinh thì làm Thiên vương Diệm ma, đem các pháp thiện giáo hóa chúng sinh, dùng lực thần thông trừ diệt thân kiến v.v…, đối với trụ trước hơn gấp trăm ngàn vạn lần. Đó là lược nói về Trụ tuệ tăng thượng tương ưng với pháp phần Bồ-đề. Nghĩa là thành tựu mười pháp minh, nhập mười trí thành thục, tu pháp phần Bồ-đề, tất cả các thứ chấp trước như thân kiến v.v… đều đoạn, nghiệp làm ra, nghiệp thuận theo, hoặc xa lìa, hoặc tu tập, nhân đấy tâm chuyển nhu hòa, tùy thuận công đức thảy đều thành tựu. Tu nghiệp của địa trên được tinh tấn lớn, nhờ tinh tấn đó tâm tịnh tâm sâu xa tin hiểu thanh tịnh. Nhân nơi chánh pháp ấy nên ma oán không thể khuấy động, thấy Phật, căn thiện thanh tịnh, thần lực thọ sinh, nói rộng như nơi Địa Diệm trong Kinh Thập Địa đã nói. Địa kia là mầm ánh sáng trí tuệ của pháp phần Bồ-đề, chính là nói pháp trí chiếu sáng thế gian, thế nên địa ấy gọi là Diệm. Địa Diệm kia tức đây là Trụ tuệ tăng thượng tương ưng với pháp phần Bồ-đề.

Thế nào là hành tướng của Bồ-tát nơi Trụ tuệ tăng thượng tương ưng với đế? Bồ-tát này trước đã ở nơi Trụ tuệ tăng thượng thứ nhất đạt được mười thứ tâm tịnh bình đẳng, tăng thượng đầy đủ thì nhập Trụ tuệ tăng thượng thứ hai. Mười tâm tịnh bình đẳng, như nơi kinh đã nói. Đó là đẳng giác vô đẳng, vượt khỏi chúng sinh khác, nơi pháp như bình đẳng. Đó gọi là lược nói về nghĩa của tâm tịnh bình đẳng.

Người trụ nơi trụ này, trí tuệ tăng tiến, đối với bốn Thánh đế có mười thứ nhận biết như thật, như trong kinh nói. Hoặc duyên nơi người khác, hoặc tự nhận biết, hoặc đều cùng nhận biết, như nơi Tuđa-la, Tỳ-ni, Ma-đắc-lặc-già nói. Hiện tại khổ, nhân khổ, nhân khổ diệt, đạo phương tiện diệt nhân khổ. Đó gọi là lược nói về mười thứ nhận biết như thật nơi bốn Thánh đế. Phương tiện nhận biết đế ấy là phá trừ tất cả hành hữu vi, đối với các chúng sinh đại bi tăng trưởng. Biên vực trước, sau nơi bốn chân đế, ngu mê, hướng tà, đều khiến nhập nơi các thứ trí tuệ công đức giải thoát, tu hành chánh nguyện, chánh niệm thành thục, vô số các công đức chân thật như chánh trí, chánh thuyết v.v… đều tăng trưởng rốt ráo. Tất cả các thứ tư duy, phương tiện thành thục, thành tựu đầy đủ cho chúng sinh. Để thâu giữ chúng sinh nên tu tập tất cả sách luận thế tục, như trong kinh đã nói. Do tất cả nghiệp công xảo xuất sinh tâm bi, dẫn dụ chúng sinh tiến lên an lập Bồ-đề, tùy thuận thế gian theo phương tiện huệ thí. Bốn đại lầm loạn, bị phi nhân bức não, đều khiến được dừng dứt. Vui thích vô tôi, vật dụng tạo lợi ích, nhân nơi lợi ích này dẫn dắt khiến vui thích pháp, dùng các vật dụng trụ chỉ để tạo lợi ích. Các nạn xâm hại như vua quan ác, giặc dữ v.v… đều vượt khỏi khiến đạt an ổn, phương tiện xứ phi xứ, hoặc nghe, hoặc tạo ra việc tốt, không tốt, huệ thí đều thành tựu. Hiện pháp lần lượt thanh tịnh, tạo lợi ích, các người điên đảo sẽ vì họ giảng nói chánh đạo. Đó gọi là nghĩa thâu giữ chúng sinh nơi công xảo bình đẳng của thế gian. Thấy Phật, căn thiện thanh tịnh, như trước đã nói. Ví như vàng ròng gắn thêm các thứ báu bên cạnh thì ánh sáng càng thanh tịnh, hơn hẳn các loại vàng khác. Bồ-tát như vậy là trí tuệ phương tiện hơn hẳn Bồ-tát khác cùng hàng Thanh văn, Duyên giác. Cũng như cung điện của mặt trời, mặt trăng, tất cả phong luân không thể khiến mất. Bồ-tát như vậy, trí tuệ phương tiện không hề bị pháp thế gian hủy hoại. Nếu lại thọ sinh, thì làm vua cõi trời Đâu suất, đem các pháp thiện phá trừ tất cả pháp tà của ngoại đạo, diệu lực thần thông hơn hẳn trụ trước trăm ức lần. Đó gọi là lược nói về Trụ tuệ tăng thượng tương ưng với đế. Nghĩa là thành tựu tâm tịnh bình đẳng, nhập đế quán tăng trưởng, phá trừ các hành, đối với các chúng sinh, tâm đại bi thêm lớn, các thứ công đức trí tuệ đều thành thục, các công đức như chánh nguyện, chánh niệm, chánh trí, chánh thuyết v.v… cùng tăng trưởng rốt ráo. Tư duy tất cả các thứ đều thành thục phương tiện, thành tựu chúng sinh xuất sinh công xảo. Thấy Phật, căn thiện thanh tịnh, thần lực thọ sinh, nói rộng như nơi Địa Nan Thắng trong Kinh Thập Địa đã nói. Trí tuệ quyết định khó có thể hơn nên địa ấy gọi là Nan Thắng. Địa Nan thắng kia tức ở đấy là Trụ tuệ tăng thượng tương ưng với đế.

Thế nào là hành tướng của Bồ-tát nơi Trụ tuệ tăng thượng tương ưng với duyên khởi? Bồ-tát này ở nơi Trụ tuệ tăng thượng tương ưng với đế đạt được mười pháp bình đẳng, tăng thượng đầy đủ rồi, nhập vào trụ thứ sáu. Mười pháp bình đẳng, đó là: Một là tự tánh bình đẳng nơi đệ nhất nghĩa của tất cả pháp. Hai là bình đẳng vô tướng của hành vô ngôn thuyết. Ba là bình đẳng không sinh. Bốn là bình đẳng của nhân duyên không khởi. Năm là bình đẳng của tịch diệt rốt ráo. Sáu là bình đẳng lìa các hư giả. Bảy là bình đẳng của hết thảy hành không lấy không bỏ. Tám là bình đẳng lìa tất cả pháp. Chín là bình đẳng của cảnh giới vọng tưởng như huyễn như hóa. Mười là bình đẳng của cảnh giới vọng tưởng có không không hai. Đó gọi là lược nói về mười pháp bình đẳng.

Người trụ nơi trụ này, đối với các chúng sinh tâm đại bi tăng trưởng, chuyên vui thích Bồ-đề, nhận biết các thế gian hợp tan, sinh diệt, hiểu rõ về duyên khởi các chánh hành, nương nơi duyên xuất sinh trí tuệ và ba môn giải thoát là không, vô nguyện, vô tướng. Dựa nơi ba Tam-muội lìa ngã, ngã sở, tướng có tánh, không tánh của người nhận biết, người tạo tác. Phương tiện của đệ nhất nghĩa như thế, tư duy về chúng sinh có những phiền não trói buộc, nhân duyên hòa hợp nên hữu vi yếu kém. Chấp trước nơi ngã, ngã sở nên sinh ra các lỗi lầm xấu ác. Phải lìa dứt nhân duyên của phiền não trói buộc, hòa hợp tự gìn giữ, do gồm thâu chúng sinh nên không diệt hết thảy hữu vi. Từ bi trí tuệ như vậy, tùy thuận trụ nơi Bát-nhã Ba-la-mật giải thoát không chướng ngại. Trụ nơi trí vô ngại giải thoát rồi, đối với hết thảy hành của thế gian đều đạt vô ngại. Người trụ như vậy, gọi là Bồ-tát của địa thứ bảy, tùy thuận phương tiện hành nhẫn, thuộc về nhẫn. Trụ nơi Bát-nhã Ba-la-mật giải thoát không chướng ngại, nhân duyên tu tập Bồ-đề không thoái chuyển, hữu vi thế tục hết thảy đều không trụ, cũng không trụ nơi tịch diệt dừng dứt kia. Tùy thuận phương tiện trí tuệ như vậy, nhập môn Tam-muội không, khiến trăm vạn môn Tam-muội không hiện tiền. Như môn Tam-muội Không, thì môn Tam-muội Vô tướng, Tam-muội Vô nguyện cũng như vậy. Các môn Tam-muội này hiện tiền rồi, đạt được tâm bất hoại, tất cả chủng loại pháp Phật chuyển tăng thù thắng, ngoại đạo, ma oán đều không thể hủy hoại, ngoài ra như trước đã nói. Ví như vàng ròng được gắn thêm các thứ báu bên cạnh thì hơn hẳn các thứ vàng khác. Bồ-tát như thế thì căn thiện thanh tịnh hơn hẳn tất cả. Ví như ánh sáng của mặt trăng dứt trừ sự bức não nơi chúng sinh, tất cả phong luân không thể che lấp. Ánh sáng trí tuệ của Bồ-tát cũng lại như vậy, vì các chúng sinh dứt bỏ lửa phiền não, tất cả ma oán đều không thể làm cho đoạn tuyệt. Nếu lại thọ sinh thì làm Thiên vương Thiện Hóa Tự Tại, thường dùng pháp thiện diệt trừ hết thảy kiêu mạn của chúng sinh, lực thần thông hơn trước ức trăm ngàn lần. Đó gọi là lược nói về Trụ tuệ tăng thượng tương ưng với duyên khởi. Nghĩa là pháp bình đẳng thành tựu, hội nhập nhận biết các duyên khởi, sinh môn giải thoát, lìa các tưởng tà vạy, theo phương tiện thâu nhận, trụ nơi Bát-nhã Bala-mật giải thoát không chướng ngại, đạt vô lượng Tam-muội, được tâm bất hoại, pháp Phật thù thắng, thấy Phật, căn thiện thanh tịnh, thần lực thọ sinh, nói rộng như nơi Địa Hiện Tiền trong Kinh Thập Địa đã nói. Trí vô ngại hiện tiền thế nên địa ấy gọi là Hiện Tiền. Địa Hiện Tiền kia tức ở đấy được gọi là Trụ tuệ tăng thượng tương ưng với duyên khởi.

Thế nào là hành tướng của Bồ-tát nơi Trụ vô tướng có hành có khai phát? Bồ-tát này ở nơi Trụ tuệ tăng thượng tương ưng với duyên khởi, đạt đầy đủ mười tuệ phương tiện, lần lượt xuất sinh đạo thắng tấn chung, không chung với thế gian. Tăng thượng đầy đủ rồi, nhập trụ thứ bảy, mười tuệ phương tiện kia, như trong kinh đã nói. Nghĩa là xuất sinh pháp thiện thế gian, thâu nhận phước đức, tạo an lạc cho các chúng sinh. Các thứ tư lương của phước đức và pháp Bồ-đề phần đều được tăng trưởng, không chung với hàng Thanh văn, Duyên giác. Nhận biết về pháp giới, chúng sinh giới, thế giới, về thân khẩu ý của Như Lai. Đó là lược nói về tuệ phương tiện xuất sinh đạo. Công đức như thế thứ lớp thắng tấn, nhập nơi vô số vô lượng cảnh giới của Như Lai đã khởi xứ tưởng vô tướng không khai phát. Thấy được vô lượng cảnh giới của Phật đã khởi xứ, tu tập không gián đoạn hết thảy oai nghi đi đứng, suy nghĩ không lìa tất cả xứ đạo. Ở trong mỗi mỗi niệm có đầy đủ mười Ba-la-mật và tất cả pháp Bồ-đề phần, không phải như các trụ khác. Trụ thứ nhất hoan hỷ tu tập chánh nguyện. Trụ thứ hai là lìa cấu uế của giới ác. Trụ thứ ba là nguyện chuyển tăng trưởng, được ánh sáng của pháp. Trụ thứ tư là nhập đạo. Trụ thứ năm là nhập vào nẻo tạo tác của thế gian. Trụ thứ sáu là nhập pháp môn sâu xa. Trụ thứ bảy này là khởi tất cả pháp Phật, đầy đủ pháp trợ Bồđề phần. Bồ-tát ở đây hành trì phương tiện thâu nhận đầy đủ, trụ trí thần thông, hành thanh tịnh. Bồ-tát ở nơi trụ này thứ lớp nhập trụ thứ tám thanh tịnh. Người trụ nơi trụ thứ tám hoàn toàn thanh tịnh. Ở trụ thứ bảy còn phương tiện tạp tịnh, nhập nẻo không nhiễm ô, gọi là hành không nhiễm ô. Trụ thứ bảy này đoạn trừ tất cả phiền não như tham v.v… nên không gọi là có phiền não, chưa được trí tuệ Phật với tâm thanh tịnh như thật, vì thế không gọi là lìa phiền não. Trụ thứ bảy này thành tựu vô lượng nghiệp thân khẩu ý, Đức Phật khen ngợi về nghiệp ấy, như trước đã nói về năm trụ. Chỗ đạt được trí công nghiệp ở thế gian tự nhiên đầy đủ, làm bậc Đại sư trong ba ngàn đại thiên thế giới, chỉ trừ Bồ-tát của địa trên và Đức Như Lai, ngoài ra đều không sánh bằng. Tất cả thiền định, pháp Bồ-đề phần đều hiện tiền tu tập nhưng không thọ báo.

Bồ-tát ở trụ này, tư duy theo phương tiện nhập Tam-muội thiện phục, sinh khởi trăm vạn Tam-muội, vượt qua cảnh giới Tam-muội của tất cả hàng Thanh văn, Duyên giác, xa lìa phiền não, các hành vọng tưởng, tùy thuận nghiệp thân khẩu ý sâu xa, không bỏ phương tiện nơi đạo thắng tấn. Bồ-đề đầy đủ, nhớ nghĩ đến chúng sinh, lìa tất cả tướng nơi vô lượng nghiệp thân khẩu ý, sinh tịnh tu pháp nhẫn vô sinh. Ở trong trụ này, vượt qua cảnh giới tự giác, sáu trụ khác đều duyên dựa nơi pháp Phật. Nơi trụ thứ sáu, Bồ-tát có thể nhập tịch diệt, nay trụ nơi địa này, niệm niệm vắng lặng nhưng không chứng tịch diệt, được nghiệp thân khẩu ý chưa từng có và thật tế không thể nghĩ bàn, nhưng cũng không chứng thật tế. Như vậy là trí phương tiện sinh, làm tăng thượng xong, cùng hành với hành của chúng sinh, chiếu sáng thế gian, ngoài ra đều như trong kinh đã nói.

Nói tóm lại, vì sự việc công đức, do tưởng thân thuộc thâu nhận, tu tập thắng tấn, trụ nơi ba giải thoát. Người cầu nơi thừa thấp dùng phương tiện để điều phục. Người thọ năm dục, khiến cầu sự mong muốn thù thắng, chuyển các tà kiến khiến tùy thuận chánh niệm, nơi các đại hội thảy đều tùy thuận. Ngoài ra như trước đã nói. Ví như vàng ròng có gắn thêm ngọc báu ma ni và các thứ báu bên cạnh, thì hơn hẳn vàng Diêm-phù-đàn. Căn thiện thanh tịnh của Bồtát hơn hẳn tất cả hàng Thanh văn, Duyên giác và các Bồ-tát lìa cấu khác. Cũng như ánh sáng của mặt trời chiếu xuống châu Diêm-phùđề, thì tất cả những chốn ẩm thấp cấu uế đều khiến khô diệt, hơn hẳn các thứ ánh sáng khác. Ánh sáng trí tuệ của Bồ-tát này có thể khiến cho phiền não của chúng sinh khô dứt, hơn hẳn ánh sáng trí tuệ của tất cả hàng Thanh văn, Duyên giác và các Bồ-tát khác. Nếu lại thọ sinh, thì làm Thiên vương Tha hóa tự tại, dùng trí tuệ tạo lợi ích, tất cả thần lực vượt hơn trụ trước ức trăm ngàn lần. Đó gọi là lược nói về Trụ vô tướng có hành có khai phát. Nghĩa là tuệ phương tiện thành tựu đạo thắng tấn, khiến nhập nơi xứ đã khởi thuộc cảnh giới của Như Lai, phương tiện không gián đoạn, ở trong mỗi mỗi niệm gồm đủ pháp Bồ-đề phần, nhiễm ô hay không nhiễm ô đều kiến lập phương tiện hành, thâu nhận đầy đủ làm thanh tịnh nghiệp thân khẩu ý. Tất cả nghiệp công xảo của thế gian đều viên mãn, được vô lượng Tam-muội, không chung với tất cả hàng Thanh văn, Duyên giác, niệm niệm hành tịch diệt, cùng hành với hết thảy hành của thế gian. Thấy Phật, căn thiện thanh tịnh, thần lực thọ sinh, nói rộng như nơi Địa Viễn Hành trong Kinh Thập Địa đã nói. Hành phương tiện đầy đủ, thế nên địa ấy gọi là Viễn Hành. Địa Viễn Hành kia tức ở đây gọi là Trụ vô tướng có hành có khai phát.

Thế nào là hành tướng của Bồ-tát nơi Trụ vô tướng không hành không khai phát? Bồ-tát này ở trụ vô tướng đầu tiên được mười thứ trí, nhập vào đệ nhất nghĩa của tất cả pháp, như trong kinh đã nói. Nghĩa là pháp ba đời như chỗ ứng hợp là không sinh, không khởi, không tướng, không thành. Tự tánh của đệ nhất nghĩa lìa ngôn thuyết, không nhận biết ngôn thuyết. Hành tự tánh cũng sinh tà kiến không trí chấp trước đều nhận biết lìa các việc ngôn thuyết. Tất cả thời đầu giữa cuối, phiền não bình đẳng, nhập lìa vọng tưởng bình đẳng, tất cả phiền não thảy đều xa lìa. Đó gọi là lược nói về trí nhập đệ nhất nghĩa. Mười thứ trí này tăng thượng đầy đủ rồi, nhập trụ thứ tám thanh tịnh. Đấy gọi là Bồ-tát đạt được pháp nhẫn vô sinh vui tịnh thứ nhất. Lại có bốn thứ cầu, cầu tất cả pháp, bốn thứ đều nhận biết như thật, biết tất cả pháp, do cầu biết nên lìa tất cả vọng tưởng, chấp trước. Nơi hiện pháp, tất cả phiền não không khởi, ở đời vị lai, tất cả vọng tưởng chấp trước đều rốt ráo không sinh. Bốn thứ cầu, bốn thứ đều nhận biết như thật, như trong Phẩm Chân Thật ở trước đã nói. Từ trụ giải hành cho đến trụ vô tướng có hành có khai phát chưa đắc vui tịnh, ở trụ này mới được vui tịnh. Vì thế gọi là pháp nhẫn vô sinh thứ nhất. Được pháp nhẫn vô sinh rồi, đắc hành sâu xa, lìa bốn thứ não loạn của trụ vô tướng thứ nhất: Một là có hành có khai phát. Hai là phương tiện chuyên cần của địa tịnh. Ba là tất cả lợi ích của chúng sinh có thể hành trì phương tiện chuyên cần. Bốn là hành tưởng của vi tế. Do vậy trụ này gọi là vui tịnh. Đối với pháp môn thâm diệu, trong dòng chảy của pháp, Đức Như Lai khuyến phát xuất sinh vô lượng môn trí tuệ thần thông, các nghiệp tạo lợi ích. Do khuyến phát nên sinh ra vô lượng tôn thân trí tuệ, đạt được mười thứ tự tại, như trong kinh đã nói. Được tự tại, nên muốn trụ gần, trụ lâu, tùy ý đều có thể đạt được. Các thiền giải thoát đều tùy ý mong muốn. Các thứ vật dụng sinh sống, nghiệp công xảo của thế gian thảy đều thuận theo ý, tất cả xứ sinh, tất cả sự thọ sinh tùy ý vãng sinh. Hết thảy thần lực, hết thảy thệ nguyện theo ý đều có thể đạt. Biến tất cả vật trở thành vàng báu tùy ý cũng được thành. Muốn biết pháp giới, danh thân, cú thân, vị thân, ở trong tất cả pháp kiến lập phương tiện thiện xảo, liền có thể nhận biết. Quả báo, phước lợi của lực tự tại như thế, như trong kinh đã nói. Nơi mỗi một niệm thường cùng thấy Phật, căn thiện thanh tịnh, thần lực thọ sinh, dụ như ánh sáng của vàng, như trong kinh đã nêu. Đó gọi là lược nói về Trụ vô tướng không hành không khai phát. Nghĩa là thành tựu trí đệ nhất nghĩa, được nhập pháp nhẫn vô sinh, não loạn đều lìa, đắc pháp môn sâu xa của trụ vui tịnh. Chư Phật khuyến phát xuất sinh vô lượng trí tuệ, thần thông, các nghiệp tạo lợi ích, xuất sinh vô lượng tôn thân, trí tuệ, được đại uy lực, được lực tự tại lớn, phước lợi quả báo, căn thiện thanh tịnh, thần lực thọ sinh, nói rộng như nơi Địa Bất Động trong Kinh Thập Địa đã nói. Lìa có hành có khai phát, nhân nơi đạo thắng tấn bất động, nên địa đó gọi là Bất Động. Địa Bất Động kia tức ở đây gọi là Trụ vô tướng không hành không khai phát.

Thế nào là hành tướng của Bồ-tát nơi Trụ nơi vô ngại? Bồ-tát này vui thích sự giải thoát sâu xa, với trí thắng tấn hơn hết, nhận biết tạng pháp của Phật, cùng các thứ hành của Bồ-tát, vì người giảng nói rộng, theo chỗ ứng hợp để nói pháp, thảy đều nhận biết như thật. Chỗ nên thuyết pháp, phiền não thanh tịnh, gì là phiền não, gì là thanh tịnh, thảy đều nhận biết như thật. Khéo thuyết giảng pháp như vậy gọi là Đại Pháp sư, đắc vô lượng Đà-la-ni, các âm thanh, biện tài đều khéo léo, thâu nhận vô tận pháp Đà-la-ni đều có thể thành tựu, cho đến xuất sinh trí vô ngại của Bồ-tát. An tọa ở pháp tòa là chỗ nên thuyết pháp cho chúng sinh ưa thọ nhận đều có khả năng thành thục, như trong kinh đã nêu rõ. Căn thiện thanh tịnh, thần lực thọ sinh cũng như thế. Đó gọi là lược nói về trụ Vô ngại của Bồ-tát. Nghĩa là bậc Đại Pháp sư ưa thích giải thoát sâu xa, thuyết pháp, hành trí không thể nghĩ bàn, căn thiện thanh tịnh, thần lực thọ sinh, nói rộng như nơi Địa Thiện Tuệ trong Kinh Thập Địa đã nói. Tạo an lạc cho tất cả chúng sinh, Bồ-tát tịnh tu vô ngại, nói rộng pháp lớn, thế nên địa ấy gọi là Thiện Tuệ. Địa Thiện Tuệ kia tức ở đây gọi là Trụ vô ngại.

Thế nào là hành tướng của Bồ-tát nơi Trụ Bồ-tát tối thượng? Bồ-tát này nơi trụ vô ngại, tịnh tu tất cả các thứ pháp quán đảnh ứng hợp với bậc Pháp vương, đắc vô lượng Tam-muội như Ly cấu v.v… làm những việc nên làm, sau cùng làm tăng tất cả trí quán đảnh, Tammuội hiện tiền, được thân đồng tọa với tất cả Phật, hoa sen quyến thuộc tỏa ánh sáng soi chiếu khắp, được nhất thiết chủng nhất thiết trí quán đảnh, hết thảy sự cứng chắc đều điều phục, được trí phương tiện giải thoát nơi trụ xứ Phật, được vô lượng thần thông giải thoát, tổng trì, được trí niệm lớn, ngôn từ gấp bội, cùng thần thông lớn, căn thiện thanh tịnh, thần lực thọ sinh thắng tấn. Đó gọi là lược nói về Trụ Bồtát tối thượng, nói rộng như nơi Địa Pháp Vân trong Kinh Thập Địa đã nói. Bồ-tát của Địa Pháp Vân đã hành trì đầy đủ đạo Bồ-tát, đầy đủ các thứ tư lương của Bồ-đề, đắc thắng tuệ của Bồ-tát, dấy khởi mây pháp lớn, đem chánh giác tự giác làm mưa cho các chúng sinh, phiền não cấu uế đều khiến dứt trừ, vô số căn thiện tăng trưởng, thành thục. Vì vậy địa đó gọi là Pháp Vân, tức ở đây gọi là Trụ Bồ-tát tối thượng.

Như trên đã nói, công đức lần lượt chuyển hơn so với địa trước. Nơi mỗi mỗi trụ kia nếu là người trung căn thượng căn, thì đều trải qua ức trăm ngàn đại kiếp, phần nhiều có thành tựu. Người hạ căn không ở trong số đó. Hết thảy trụ kia cần phải trải qua ba A-tăng-kỳ đại kiếp: A-tăng-kỳ đại kiếp thứ nhất là trụ giải hành, vượt qua là đạt được trụ hoan hỷ có năm hành thắng tấn. Ở A-tăng-kỳ đại kiếp thứ hai là trụ hoan hỷ, cho đến trụ vô tướng có hành có khai phát, vượt qua tức đạt được trụ vô tướng không khai phát. Đây tức là quyết định, Bồ-tát tâm tịnh quyết định thắng tấn. Nơi A-tăng-kỳ đại kiếp thứ ba là trụ vô tướng không khai phát và trụ trí vô ngại, vượt qua tức đạt được trụ Bồ-tát tối thượng.

Kiếp có hai loại: Một là số ngày tháng, ngày đêm, thời tiết năm là vô lượng nên gọi là A-tăng-kỳ. Hai là vô lượng đại kiếp nên gọi là A-tăng-kỳ. Số năm nơi A-tăng-kỳ kiếp kia, thì ba A-tăng-kỳ trước Bồ-tát đã vượt qua, sau ba A-tăng-kỳ đại kiếp, không có sự vượt qua. Nếu Bồ-tát đạt tinh tấn tăng thượng, tức có thể chuyển trung kiếp, không thể chuyển đại kiếp.

Như vậy, Bồ-tát của mười hai trụ, cứ ba A-tăng-kỳ đại kiếp, phần phiền não chướng nhiễm ô, phần trí chướng nhiễm ô, đoạn trừ phần phiền não chướng nhiễm ô của ba trụ kia. Đoạn phần phiền não của nẻo ác nơi trụ hoan hỷ, phần phiền não trong tăng thượng, tất cả không hành. Trụ vô tướng không khai phát, pháp nhẫn vô sinh thanh tịnh nối tiếp, phần phiền não nhiễm ô tất cả không hành. Nơi trụ Bồtát tối thượng, tất cả phiền não tập kia, sử chướng đều đoạn, nhập trụ Như Lai. Phần nhiễm ô của trí chướng có ba thứ: Một là da. Hai là thịt. Ba là xương. Trụ hoan hỷ đoạn chướng ngoài da, trụ vô tướng không khai phát đoạn chướng trong thịt, trụ Như Lai đoạn chướng nơi xương, tất cả chướng đều thanh tịnh. Đối với ba trụ này đoạn trí chướng, các trụ khác tùy theo thứ lớp tạo sự trang nghiêm chân thật. Như vậy, mười ba trụ có mười một thứ tịnh. Một là chủng tánh tịnh. Hai là giải hành tịnh. Ba là tâm tịnh tịnh. Bốn là giới tịnh. Năm là ý tịnh. Sáu, bảy, tám là chánh kiến tịnh. Chín là phương tiện hành đầy đủ tịnh. Mười là trí chân thật thần thông xuất sinh tịnh. Mười một là nói chánh nghĩa vô tận, vô ngại tịnh. Mười hai là tùy thuận tất cả chủng, tất cả trí của đối tượng nhận biết đều tịnh. Mười ba là trụ Như Lai, tất cả tập khí, sử của phiền não chướng, tập khí sử của trí chướng đều tịnh, như trong Phẩm Công Đức của Bồ-tát ở trước đã nói, tám pháp gồm thâu tất cả Đại thừa, thuộc về tạng Bồ-tát. Mười ba trụ này gồm thâu trụ thứ nhất và trụ thứ hai, tín tâm sinh trụ giải hành. Đối với tạng Bồ-tát đạt được văn tuệ, tư tuệ. Trụ thứ ba được tâm tịnh và hành tu tuệ đầu tiên. Trụ thứ tư cho đến trụ thứ chín, thì nơi trụ vô tướng có hành có khai phát là tu tuệ rộng lớn. Trụ thứ mười, mười một, mười hai là quả của tu tuệ thuộc về hành tu tuệ thanh tịnh thành tựu Trụ Như Lai, xuất ly rốt ráo.

Pháp của trụ Thanh văn cũng có mười hai, Bồ-tát theo thứ lớp nên nhận biết: Một là trụ tự chủng tánh của Thanh văn Hai là trụ nhập chánh vị vượt thứ lớp theo phương tiện thủ chứng. Ba là trụ vượt thứ lớp thủ chứng. Bốn là trụ đạt được tịnh bất hoại, chưa được Thánh giới chuyển tăng khiến lậu tận. Năm là trụ dựa nơi giới tăng thượng xuất sinh học tăng thượng. Sáu, bảy, tám là trụ đạt được trí chân đế nơi tuệ học tăng thượng. Chín là trụ đạt phương tiện Tam-muội quán xét sinh tử vô tướng. Mười là trụ vô tướng cứu cánh. Mười một là trụ xứ giác giải thoát. Mười hai là trụ nhất thiết chủng A-la-hán.

HẾT – QUYỂN 9

Pages: 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10