KINH BỒ TÁT ĐỊA TRÌ
Hán dịch: Đời Bắc Lương, Đại sư Đàm Vô Sấm
Việt dịch: Cư sĩ Nguyên Huệ

 

QUYỂN 10

XỨ PHƯƠNG TIỆN CỨU CÁNH

Phẩm thứ 1: SINH

(Đoạn thứ ba có 5 phẩm)

Về sự thọ sinh của Bồ-tát lược nêu có năm thứ, nơi tất cả trụ, tất cả hành, Bồ-tát đều đem an lạc vô tội cho tất cả chúng sinh. Một là dứt trừ khổ nên sinh. Hai là theo loại nên sinh. Ba là thắng sinh. Bốn là tăng thượng sinh. Năm là tối hậu sinh.

Bồ-tát dùng lực nguyện, lực tự tại, ở trong đời đói kém, thọ thân loài cá lớn, dùng thịt để cứu giúp tất cả chúng sinh. Ở trong đời bệnh dịch, làm đại y vương chữa trị tất cả bệnh. Vào đời đao binh, làm bậc vua có uy lực lớn, khéo dùng phương tiện nói lời thành tín, đem tâm bình đẳng cứu tế nhằm chấm dứt chiến tranh. Đối với các nơi chốn có trói buộc, đánh đập, bức bách, vì muốn dứt trừ khổ não nên sinh vào chốn vương gia, đem chánh pháp giáo hóa. Đối với những chúng sinh theo tà kiến, thờ phụng thiên thần, tạo các hành ác. Do lực nguyện, lực tự tại, sinh nơi xứ trời kia, đoạn trừ tà kiến và các hành ác. Vô lượng những xứ sinh như vậy, Bồ-tát đều sinh đến. Đó gọi là vì nhằm dứt trừ khổ nên sinh.

Bồ-tát dùng lực nguyện và lực tự tại, đối với các loại chúng sinh như trời, rồng, quỷ, thần, A-tu-la v.v… thay nhau não loạn, cùng các ngoại đạo khởi các tà kiến hành ác, bất thiện, đều sinh vào trong đó, vì họ nên làm người đứng đầu dẫn dắt, khiến họ đi vào đường chân chánh. Việc họ đã làm, Bồ-tát không làm, nên họ không tu tập, Bồ-tát phải tu tập, lại đem pháp thiện thuyết giảng rộng cho họ. Như vậy là tùy theo loại thọ sinh, cho đến vô lượng. Đó gọi là theo loại nên sinh.

Bồ-tát dùng tánh thọ sinh hơn hẳn đối với quả báo sống lâu ở thế gian như là sắc lực v.v…, như nơi Phẩm Tự Lợi Tha Lợi đã nói. Thọ sinh như vậy cũng lại vô lượng. Đó gọi là thắng sinh.

Bồ-tát từ trụ tâm tịnh cho đến trụ Bồ-tát tối thượng, đều ở trong ấy thọ sinh, như Phẩm Trụ ở trước đã nói. Nơi châu Diêm-phù-đề tự tại sinh, cho đến trời Đại Tự Tại, chưa vượt qua địa cứu cánh, trong tất cả xứ thọ sinh đều hiện bày những sự kỳ lạ, đặc biệt. Đó gọi là tăng thượng sinh.

Bồ-tát nơi trụ Bồ-tát tối thượng thọ sinh, điều phục nghiệp, các thứ tư lương của Bồ-đề đều tăng thượng đầy đủ, sinh vào nhà Sátđế-lợi, Bà-la-môn, chứng đắc đạo quả Chánh đẳng Chánh giác vô thượng, hành tác tất cả Phật sự. Đó gọi là tối hậu sinh.

Tất cả Bồ-tát trong đời quá khứ, hiện tại, vị lai đều dùng năm thứ thọ sinh này là rốt ráo, không gì hơn. Bồ-tát nhân nơi năm thứ thọ sinh ấy nên mau chứng đắc đạo quả Chánh đẳng Chánh giác vô thượng.

*********

XỨ PHƯƠNG TIỆN CỨU CÁNH

Phẩm thứ 2: GỒM THÂU

Bồ-tát nơi tất cả trụ, tất cả hành đều cùng gồm thâu chúng sinh, lược nêu có sáu thứ: Một là gồm thâu tức thì. Hai là gồm thâu tăng thượng. Ba là gồm thâu giữ lấy. Bốn là gồm thâu lâu xa. Năm là gồm thâu không lâu xa. Sáu là gồm thâu tiếp sau.

Bồ-tát khi mới phát tâm, đối với tất cả chúng sinh khởi tưởng là cha mẹ, tùy theo năng lực có thể dùng tất cả các thứ để tạo lợi ích an lạc. Đó gọi là gồm thâu tức thì.

Bồ-tát làm bậc chủ đối cha mẹ luôn tôn trọng, thường dùng các thứ phương tiện khuyên tu pháp thiện, tùy thời cúng dường, biết ân báo ân, đối với vợ con, quyến thuộc luôn chăm sóc, chỉ dạy, có sai phạm điều gì thì gắng nhẫn, bệnh tật thì lo liệu chữa trị, dạy tu pháp thiện, khiến họ thắng tấn. Đối với hàng nô tỳ, kẻ sai khiến, luôn đem tâm bình đẳng cư xử, không sinh tưởng khinh miệt. Bồ-tát làm vua cai trị muôn dân, như pháp chân chánh giáo hóa, không tăng hình phạt, đem của cải, đem pháp để tạo lợi ích, tự giữ cõi nước mình, không xâm lấn đất người, tùy theo năng lực chỉ dạy các chúng sinh khiến tu pháp thiện. Bồ-tát làm cha, đối với các chúng sinh khác hãy còn không thiên vị, huống chi là quyến thuộc của mình mà không bình đẳng. Ngôn ngữ thường dịu dàng, chân thật, không giả dối. Tất cả các sự khổ não bức thiết như trói buộc sát hại thảy đều xa lìa. Đó gọi là gồm thâu tăng thượng.

Có hai nhân duyên để cùng gồm thâu đồ chúng: Một là xả bỏ tâm tham, đem của cải tạo lợi ích, xa lìa sự nghèo cùng. Hai là dạy tu chánh nghĩa, đem pháp tạo lợi ích, nhổ sạch những tà kiến xấu ác, tâm bình đẳng thâu nhận không thiên vị, không vì pháp mà keo kiệt, không làm vị thầy mỏi mệt, không ở các chốn ấy để cầu được cúng dường. Có người ưa thích tu hành cũng không nên ngăn cản, phải vì họ giúp tăng trưởng những tư lương của phước đức. Người chưa hiểu nghĩa thì khiến hiểu, đã hiểu rồi thì khiến thêm rộng lớn. Người còn nghi khiến quyết đoán. Người hối tức khiến hiểu biết rõ, tùy thời vì họ giảng nói nghĩa chính yếu sâu xa, đồng khổ đồng vui, tâm không tăng giảm. Đối với người phạm tội, tâm bình đẳng răn dạy, có khi quở trách, có khi khen ngợi. Bệnh tật thì lo liệu chữa trị, trừ diệt buồn lo. Đối với người suy nghĩ không thấu đáo, ít tinh tấn, trí tuệ thấp kém, không nên khởi tưởng xem thường, theo chỗ thích hợp vì họ giảng nói về cảnh giới, thâu giữ niệm, tùy thời chỉ dạy về an nhẫn không não hại. Đối với những vị bằng mình hoặc hơn mình, nên hành pháp cúng dường thù thắng, tu tập tâm bi không trạo cử, không lay động, thành tựu giới kiến, oai nghi theo chánh mạng, dung mạo vui vẻ, nhìn thẳng, trước nói lời thăm hỏi, thường tu nghiệp thiện, không được phóng dật. Bồ-tát đem những giáo pháp như vậy dạy bảo đồ chúng và cũng để tự mình hành trì. Bồ-tát không ở trong tất cả thời gian thâu giữ đồ chúng. Cũng không phải là không nắm giữ, cũng không quá thúc bách để nắm giữ. Đó gọi là gồm thâu giữ lấy.

Chúng sinh bậc hạ, phải thành thục rất lâu mới được tịnh. Đó gọi là gồm thâu lâu xa.

Chúng sinh bậc trung, thành thục không lâu thì được tịnh. Đó gọi là gồm thâu không lâu xa.

Chúng sinh bậc thượng, thành thục trong đời này tức có thể được thanh tịnh. Đó gọi là gồm thâu tiếp sau.

Đó gọi là sáu thứ cùng gồm thâu chúng sinh. Bồ-tát quá khứ, hiện tại, vị lai, đã gồm thâu, đang gồm thâu, sẽ gồm thâu đều theo sáu thứ này, rốt ráo không gì hơn.

Bồ-tát cùng gồm thâu chúng sinh như thế có mười hai thứ khó: Một là khó có thể khéo quan sát các chúng sinh phạm giới, hoặc chỉ dạy, hoặc từ bỏ. Hai là khó vì điều phục chúng sinh khổ, dùng phương tiện hành tự ngăn giữ phiền não. Ba là khó vì của cải vật dụng rất ít, nhưng người cầu xin thì nhiều. Bốn là khó vì chỉ có một thân nhưng nhiều người cầu đồng sự. Năm là khó vì do nghiệp thanh tịnh, nơi hàng trời người lại sinh phóng dật, nhưng trong tâm ban đầu không có phóng dật. Sáu là khó vì luôn thương nhớ chúng sinh tạo lợi ích, đồng sự. Bảy là khó vì đối với những người ngu si, dua nịnh quanh co những kẻ tay chân bị tàn tật, hủy hoại, hoặc chỉ dạy, hoặc từ bỏ. Tám là khó vì thấy rõ lỗi lầm của sinh tử nhưng không xả bỏ sinh tử. Chín là khó vì chưa được tâm tịnh, nhưng cho đến khi mạng chung không mất chánh niệm. Mười là khó vì chưa được tâm tịnh, những vật rất quý trọng, chúng sinh đến xin đều đem thí cho. Mười một là khó vì đối với các người có tâm khác kiến giải khác, có đến cầu xin thì hoặc thuận làm hoặc từ bỏ. Mười hai là khó vì hoàn toàn không phóng dật nhưng không đoạn dứt phiền não.

Bồ-tát đối với chúng sinh không xem nhẹ nặng để tạo phương tiện. Hoặc xét nơi người để hành bi. Hoặc theo phương tiện dũng mãnh để tạo nhân duyên. Hoặc tu chánh nguyện, hoặc làm tịnh tâm tín. Hoặc chuyên tâm suy nghĩ, quan sát không mệt mỏi. Hoặc có lúc nhu hòa, có lúc hành xả, có khi tinh tấn, có lúc hành phương tiện thiện xảo. Bồ-tát như vậy là đã dùng phương tiện thiện xảo để đối trị đúng đắn, đối với mười hai việc khó có thể tự mở bày, giải quyết, tâm không thoái mất.

*********

XỨ PHƯƠNG TIỆN CỨU CÁNH

Phẩm thứ 3: ĐỊA

Như trên đã nói về mười hai trụ, theo thứ lớp là bảy địa: Sáu địa là của Bồ-tát, một địa là Bồ-tát và Như Lai cùng chung. Một là địa chủng tánh. Hai là địa giải hành. Ba là địa tâm tịnh. Bốn là địa hành tích. Năm là địa quyết định. Sáu là địa quyết định hành. Bảy là địa tất cánh.

Trụ chủng tánh gọi là Địa chủng tánh. Trụ giải hành gọi là Địa giải hành. Trụ tâm tịnh gọi là Địa tâm tịnh. Trụ giới tăng thượng, trụ ý tăng thượng, ba thứ trụ tuệ tăng thượng, trụ vô tướng có khai phát, gọi là Địa hành tích. Trụ vô tướng không khai phát gọi là Địa quyết định. Trong ba quyết định thì quyết định thứ nhất nơi trụ trí vô ngại gọi là Địa quyết định hành. Trụ Bồ-tát tối thượng, trụ Như Lai gọi là Địa tất cánh. Địa trụ Như Lai nơi Phẩm Kiến Lập ở sau sẽ nói rộng.

Bồ-tát ở địa giải hành nhập địa hoan hỷ, làm sao lìa báo nơi nẻo ác? Bồ-tát ấy ở trong địa giải hành, dựa nơi thiền tịnh thế tục, chứa nhóm các tư lương của Bồ-đề, đối với một trăm mười thứ khổ nơi chúng sinh, tu tâm từ bi, vì các chúng sinh nơi nẻo ác nên trụ lâu trong nẻo ác, coi như nhà cửa của mình, ở đấy tu học Bồ-đề vô thượng, gắng nhẫn, có thể vì tất cả chúng sinh làm nhân trừ khổ. Tất cả chúng sinh tạo nghiệp nơi ba đường ác, Bồ-tát đem tâm thanh tịnh nguyện xin đều chịu thay, tu hành rốt ráo tất cả nghiệp thiện, tu tập chánh nguyện, dùng thiền tịnh thế tục làm nguyện lực chánh, cho nên phiền não nhiễm ô nơi nẻo ác, thân đã thọ nhận không lâu sẽ được đoạn trừ. Bồ-tát chuyển thân nơi đường ác, các nghiệp của đường ác đều không làm. Đó gọi là Bồ-tát lìa các nẻo ác, vượt qua địa giải hành, nhập địa tâm tịnh, như nơi Phẩm Trụ ở trước đã nói. Trụ hoan hỷ tịnh, mười pháp như tín v.v…, ở địa này là tịnh, đối trị nơi đối tượng được đối trị và thứ tự kiến lập. Vì sao phải đối trị? Một là phóng dật, không thọ giới Bồ-tát, tin trái với Bồ-đề, thế nên dùng tín để đối trị. Hai là đối với các chúng sinh có tâm sát hại, trái với đại bi, thế nên dùng tâm bi để đối trị. Ba là đối với các chúng sinh có tâm sân hận, trái với đại từ, vì thế đem tâm từ để đối trị. Bốn là tham tiếc thân mạng, tài sản, trái với huệ thí, vì vậy đem huệ thí để đối trị. Năm là đối với các chúng sinh tham cầu nhiều thứ vật dụng, trái với sự không nắm giữ, thế nên đem sự không nắm giữ để đối trị. Sáu là không có trí phương tiện, trái với luận nhận biết, thế nên đem luận nhận biết để đối trị. Bảy là không khéo tùy thuận, trái với việc tùy thuận người khác, vì thế đem việc nhận biết thế gian để đối trị. Tám là đối với việc tu pháp thiện đã buông thả, biếng nhác, trái với hổ thẹn, thế nên đem sự hổ thẹn để đối trị. Chín là nơi đêm dài sinh tử, thọ khổ không ngừng, tâm lại yếu kém trái với dũng mãnh, vì thế dùng dũng mãnh để đối trị. Mười là đối với chư Phật còn nghi hoặc, trái với tâm cúng dường, vì vậy dùng cúng dường để đối trị.

Đây là mười thứ đối trị nơi đối tượng cần đối trị, lược nói có hai thứ: Một là tâm tịnh. Hai là phương tiện tịnh. Ba thứ trước là tâm tịnh, số còn lại đều là phương tiện tịnh.

Thế nào là thứ lớp? Bồ-tát tin vào Bồ-đề, đối với chúng sinh khổ dấy khởi tâm bi. Khởi tâm bi, nên khi muốn độ chúng sinh lại khởi tâm từ. Khởi tâm từ nên lại hành huệ thí. Hành huệ thí nên tu tập chánh nghĩa không chán mệt. Không chán mệt vì thế nhận biết các kinh luận. Nhận biết kinh luận, vì thế khéo nhận biết thế gian và tùy thuận thế gian. Tùy thuận thế gian nên nếu phiền não khởi thì sinh hổ thẹn. Do hổ thẹn nên không bị cuốn theo phiền não, tức được lực dũng mãnh. Được lực dũng mãnh nên tu chánh phương tiện, pháp thiện tăng trưởng, được nhiều lợi ích thù thắng, cúng dường Như Lai. Như vậy là mười pháp làm tịnh tất cả địa.

**********

XỨ PHƯƠNG TIỆN CỨU CÁNH

Phẩm thứ 4: HÀNH

Bồ-tát từ trụ giải hành cho đến trụ Bồ-tát tối thượng, lược nêu có bốn hành: Một là hành Ba-la-mật. Hai là hành pháp Bồ-đề phần. Ba là hành thần lực. Bốn là hành thành thục chúng sinh.

Như trước đã nói sáu Ba-la-mật, nay thêm Phương tiện thiện xảo Ba-la-mật, Nguyện Ba-la-mật, Lực Ba-la-mật và Trí Ba-la-mật. Đó gọi là hành Ba-la-mật.

Như trước nói mười hai phương tiện thiện xảo, đó gọi là phương tiện thiện xảo Ba-la-mật. Như trước nói năm thứ nguyện, đó gọi là nguyện Ba-la-mật. Mười lực nơi phương tiện thanh tịnh, đó gọi là lực Ba-la-mật. Tất cả phần pháp bộ đều nhận biết, đó gọi là trí Ba-lamật. Nhận biết đệ nhất nghĩa đế nên gọi là Bát-nhã Ba-la-mật. Nhận biết thế đế nên gọi là trí Ba-la-mật.

Lại, có vô lượng trí nên gọi là phương tiện thiện xảo Ba-la-mật. Cầu trí tăng tiến nên gọi là nguyện Ba-la-mật. Tất cả ma đạo không thể phá hoại nên gọi là lực Ba-la-mật. Trí mở bày giác ngộ nên gọi là trí Ba-la-mật.

Như trước nói về ba mươi bảy pháp Bồ-đề phần như Niệm xứ v.v… bốn thứ cầu, bốn thứ đều nhận biết như thật. Đó gọi là hành pháp phần Bồ-đề.

Như trước nói về sáu thần thông. Đó gọi là hành thần lực.

Như trước nói về hai vô lượng là điều phục giới vô lượng, điều phục phương tiện vô lượng. Đó gọi là hành thành thục chúng sinh.

Như vậy, bốn hành gồm thâu tất cả hành của Bồ-tát, tu tập lâu dài trong ba A-tăng-kỳ kiếp. Tự tánh thanh tịnh thù thắng hơn thế gian, Thanh văn, Duyên giác, gồm thâu quả Đại Bồ-đề.

Mười pháp như thí v.v…, thời độ, tự tánh thanh tịnh độ, quả độ, thế nên gọi là Ba-la-mật. Các Ba-la-mật thứ lớp kiến lập có ba thứ: Một là đối trị. Hai là nhân khởi. Ba là quả báo.

Tham lam keo kiệt, nghiệp ác, sân hận, biếng nhác, loạn ý, ngu si, sáu pháp như vậy làm chướng ngại Bồ-đề, dùng sáu độ đối trị, tùy theo chỗ ứng hợp của sáu pháp đó, những Ba-la-mật còn lại thuộc về sáu Ba-la-mật này, đó gọi là kiến lập đối trị.

Bồ-tát này khởi đầu không tham tiếc của cải, xả bỏ để xuất gia, xuất gia rồi thọ giới Bồ-tát, do hộ giới nên tu tập nhẫn nhục, không sợ chúng sinh nên lực nhẫn thanh tịnh. Không sợ chúng sinh nên tu tập không gián đoạn. Pháp thiện là phương tiện để tu tinh tấn, không phóng dật nên khéo đạt nhất tâm, tâm đã khéo hợp nhất thì được trí như thật. Đó gọi là kiến lập nhân khởi.

Bồ-tát này hiện pháp tu tập pháp thiện huệ thí, ở đời vị lai, bên ngoài được nhiều của cải, bên trong được năm thứ quả báo là thọ mạng, sắc, lực, an lạc, biện tài. Người đầy đủ năm thứ Ba-la-mật như giới v.v… tức được sinh trong đường thiện, đối với các chúng sinh, có điều đặc biệt như thọ mạng v.v…, đó gọi là đầy đủ thứ nhất. Người kia cùng sinh phương tiện thiện không có chán mệt, nhẫn nhịn khi bị người khác xâm phạm, không não hại chúng sinh, đó gọi là đầy đủ thứ hai. Người kia cùng sinh tất cả phương tiện kiên cố đều có thể hành tác, đó gọi là đầy đủ thứ ba. Sự đều cùng sinh ấy ít các trần uế, tâm tự gánh vác, nhận biết tất cả nghĩa, đắc các thần thông, đó gọi là đầy đủ thứ tư. Chỗ đều cùng sinh ấy trí tuệ thêm rộng, đó gọi là đầy đủ thứ năm. Như thế gọi là kiến lập quả báo.

Bốn Ba-la-mật kia với các thứ tự tánh, quyến thuộc là vô tận, đó gọi là giới học tăng thượng. Thiền Ba-la-mật gọi là ý học tăng thượng. Bát-nhã Ba-la-mật gọi là tuệ học tăng thượng. Ba học này được Bồ-tát chú trọng, tinh tấn học đạo. Ba học này gồm thâu sáu Ba-la-mật rốt ráo không gì hơn.

Lược nói Bồ-tát có bốn thứ hành gồm thâu tất cả sự việc: Một là trước hết tu tập căn thiện Bồ-đề. Hai là tạo lợi ích cho chúng sinh. Ba là tăng trưởng pháp thiện. Bốn là thành thục chúng sinh. Như vậy, bốn thứ hành theo thứ lớp kiến lập, đó gọi là kiến lập tối thượng.

*********

XỨ PHƯƠNG TIỆN CỨU CÁNH

Phẩm thứ 5: KIẾN LẬP

Trụ Như Lai gọi là Địa cứu cánh. Chư Phật, Thế Tôn có một trăm bốn mươi pháp bất cộng: Đó là ba mươi hai tướng của bậc đại nhân, tám mươi vẻ đẹp theo hình, bốn nhất thiết chủng thanh tịnh, mười lực Như Lai, bốn vô sở úy, ba niệm xứ, ba bất hộ, đại bi, pháp không quên, đoạn trừ các tập, nhất thiết chủng diệu trí.

Thế nào là ba mươi hai tướng của bậc đại nhân? Một là dưới bàn chân bằng phẳng vững chải. Hai là dưới bàn chân có xoáy tròn hình như hình bánh xe có ngàn nan hoa. Ba là ngón tay thon dài. Bốn là gót chân đầy đặn. Năm là trong kẽ tay kẽ chân có da mỏng như giăng lưới. Sáu là tay chân đều dịu mềm. Bảy là bắp chân như tướng lộc vương. Tám là mắt cá chân ẩn kín. Chín là đứng thẳng tay dài quá đầu gối. Mười là nam căn như mã vương. Mười một là thân hình đầy đặn như cây Ni-câu-loại. Mười hai là những lỗ chân lông toát ra màu xanh. Mười ba là những lông trên thân xoay về bên phải. Mười bốn là thân thể sáng chói như vàng ròng. Mười lăm là quanh mình có hào quang chiếu xa một tầm. Mười sáu là da thịt mềm dịu bụi nhơ không dính bám. Mười bảy là hai tay, hai chân, hai vai và cổ đầy đặn. Mười tám là trên thân như sư tử. Mười chín là khuỷu tay đầy đặn. Hai mươi là xương hai vai được đầy đặn. Hai mươi mốt là thân thể ngay ngắn. Hai mươi hai là có bốn mươi cái răng. Hai mươi ba là răng đều, khít. Hai mươi bốn là răng trắng trong. Hai mươi lăm là hai bên má cao đầy đặn như sư tử. Hai mươi sáu là nước bọt như vị cam lồ. Hai mươi bảy là trên đỉnh đầu có cục thịt nổi cao như hình búi tóc (nhục kế). Hai mươi tám là lưỡi dài rộng. Hai mươi chín là giọng nói nghe vang như giọng của Phạm thiên. Ba mươi là mắt xanh biếc. Ba mươi mốt là lông mi như ngưu vương. Ba mươi hai là chùm lông trắng thường chiếu sáng ở giữa hai lông mày.

Tám mươi vẻ đẹp tùy hình: Đó là hai mươi ngón tay, chân, tám chỗ bên ngoài bên trong ngay thẳng đầy đặn, hai gót chân, hai đầu gối, hai xương đùi, hai vai, hai khuỷu tay, hai cổ tay, hai đùi vế, hai hông, tướng ẩn chứa…, hai bên lưng, hai nách, hai vú, eo lưng tim rốn, yết hầu (cổ họng), bụng thảy đều tốt đẹp. Đó gọi là sáu mươi vẻ đẹp từ yết hầu trở xuống. Hai hàm răng trên dưới, hai môi, hai nướu, hai má, hai dái tai, hai mắt, hai tai, hai mi, hai lỗ mũi, hai góc sống mũi. Đó gọi là hai mươi vẻ đẹp từ yết hầu trở lên.

Tướng tốt này Bồ-tát nơi địa tâm tịnh mới bắt đầu đạt được, tất cả địa sau dần dần thanh tịnh thù thắng, đến tòa Bồ-đề mới được vui tịnh. Ngoài ra các pháp bất cộng như bốn nhất thiết chủng thanh tịnh v.v…, khi vui tịnh đầy đủ thì được, loại thấp thì thành tựu trước Địa Bồ-tát.

Từ địa tâm tịnh khởi hết thảy thắng tấn, sinh tất cả tướng tốt của Bồ-tát. Lại có vô số tư lương của Bồ-đề có xa có gần. Xa thì chưa được tướng tốt, gần thì đã được. Tạo đủ các thứ nghiệp, được đủ các thứ báo. Đức Thế Tôn đã dùng sức giáo hóa để giảng nói. Vì sao? Vì chúng sinh hành đủ các thứ nghiệp ác, nên nhận đủ các thứ báo ác, dùng chân thật để đối trị nên nói các thứ nghiệp tướng tốt, khiến được các thứ quả báo tướng tốt, chúng sinh nghe rồi tức ưa tu pháp thiện, lìa các nghiệp ác. Các tướng tốt như trong kinh đã nói, Bồ-tát trì giới, nhẫn nhục, huệ thí nên được tướng dưới bàn chân bằng phẳng vững chải. Cúng dường cha mẹ, chúng sinh khổ não, vì họ cứu giúp, nên được tướng dưới bàn chân có xoáy tròn hình bánh xe ngàn nan hoa. Không hại chúng sinh, không khởi tưởng trộm cắp, đối với bậc tôn kính trước phải thưa hỏi, chấp tay cung kính, đem của cải quý giá, rất yêu mến cúng dường, phá trừ các kiêu mạn, nên được tướng ngón tay thon dài, tức được ba tướng trên là nghiệp được tướng gót chân đầy đặn. Dùng bốn nhiếp sự thâu giữ chúng sinh, nên được tướng trong kẽ tay kẽ chân có da mỏng như giăng lưới. Đã từng tắm rửa thân thể các bậc đáng tôn kính nên được tướng tay chân mềm mại. Tu các pháp thiện chuyển đổi tinh tấn không chán nên được tướng bắp chân như nai chúa. Tự thọ nhận chánh pháp, rộng vì người giảng nói, vì pháp nên làm sứ giả, tức được tướng mắt cá chân không hiện. Lần lượt tu hành ba nghiệp thanh tịnh, chăm sóc bệnh, cho thuốc, lìa các ngã mạn, tu tập biết đủ, nên được tướng đứng thẳng tay dài quá đầu gối. Thấy người chia lìa, đem pháp dạy khiến cho hòa hợp, tu tập hổ thẹn, bố thí y phục cho người nên được tướng nam căn ẩn giấu như mã vương. Tịnh tu ba nghiệp, cũng dạy cho người tu, ăn uống biết lượng, bố thí thuốc cho người bệnh, thâu nhận nghiệp khó, tu tập tài sản khó, bốn đại tăng tổn có thể khiến cho tùy thuận, nên được tướng thân thể đầy đặn. Tức trên được tướng bắp chân như nai chúa là nghiệp, được tướng lông trên thân mềm đẹp. Tự tu pháp thiện, trí tuệ thông đạt, tư duy nghĩa vi tế của các pháp, với những bậc tôn kính ưa tu cúng dường, đối với người đồng tu, dùng tưởng bạn tốt gồm thâu, chỉ dẫn, khiến hội nhập nghĩa, nên được tướng mỗi mỗi lông trên thân đều xoay về bên phải. Đem y phục, xe cộ, thực phẩm, các vật dụng trang sức nơi thân như chuỗi ngọc v.v… thượng diệu, bố thí cho tất cả, không khởi sân hận, nên được hai tướng thân sáng chói như vàng ròng và ánh sáng chiếu xa một tầm, tức trên được tướng mỗi mỗi lông xoay về bên phải là nghiệp, được tướng da thịt mềm dịu. Rộng thí cho chúng sinh, bày biện đại hội, nên được tướng bảy chỗ đầy đặn. Với các chúng sinh đã khởi chưa khởi, vì họ làm người dẫn đầu, xa lìa ngã mạn, tánh tình nhu hòa, trừ bỏ bất thiện dạy cho pháp thiện, nên được tướng thân trên như sư tử. Tức trên được tướng ngón tay thon dài là nghiệp, được ba tướng khuỷu tay, bắp tay và hai vai đầy đặn. Xa lìa lời nói hai lưỡi, phá hoại sự hòa hợp, nên được hai tướng là có bốn mươi răng và răng đều đặn dày kín. Tu tâm từ ở cõi dục, tư duy về pháp nghĩa, nên được tướng răng trắng trong. Tùy theo chỗ chúng sinh cầu xin, hoan hỷ thí cho nên được tướng hai bên má cao đầy đặn. Bố thí pháp vị thù thắng, hoại các vị khác vì làm thanh tịnh vị kia, nên lần lượt được tướng thượng vị. Thọ trì năm giới, chuyển trao cho người, thường hành tâm bi, hồi hướng nơi pháp lớn, nên được hai tướng là tướng lưỡi dài rộng và nhục kế. Tướng nhục kế này không thấy đảnh tướng, tức là một tướng. Thường tu thật ngữ, ái ngữ, thời ngữ, như pháp ngữ, tạo phương tiện thuyết pháp, nên được tướng giọng nói nghe vang như âm thanh của Phạm thiên. Đối với khắp chúng sinh, thực hành tâm từ bình đẳng giống như cha mẹ, nên được hai tướng mắt xanh biếc và lông mi trên dưới mắt như ngưu vương. Thấy người có đức chân thật thì tán dương sự tốt đẹp đó, nên được tướng chùm lông trắng thường chiếu sáng giữa hai lông mày.

Ba mươi hai tướng với nhân không sai biệt đều là do trì giới. Vì sao? Nếu người phạm giới thì không được thân người thấp kém, huống gì là tướng của bậc đại nhân. Như vậy nói rộng, mỗi một tướng có được là tùy theo vô số nghiệp đều kiến lập riêng.

Lại nữa, Bồ-tát tại gia, xuất gia nhờ vào bốn thứ nghiệp khéo tu tập, được tất cả tướng của bậc đại nhân. Quyết định tu nên được tướng dưới bàn chân bằng phẳng vững chải. Do chuyên tâm tu nên được chín tướng: Dưới bàn chân có xoáy tròn hình bánh xe ngàn nan hoa. Bắp chân như nai chúa. Kẽ tay kẽ chân có da mỏng như giăng lưới. Tay chân mềm dịu. Bảy chỗ đầy đặn v.v… Thân cao ngay thẳng. Lưỡi rộng dài v.v… Do thường tu nên được năm tướng: ngón tay thon dài, gót chân đầy đặn, tay thẳng dài quá đầu gối, thân đầy đặn, răng dày khít. Vì tu vô tội nên được các tướng còn lại. Đối với các chúng sinh không giận dữ, nên được hai tướng: tay chân mềm mại, da thịt mềm dịu. Khi tu theo thứ lớp nên được tướng bắp chân như nai chúa. Tâm thiện hành hoan hỷ, theo ánh sáng, âm thanh nên được bốn tướng: hào quang chiếu sáng một tầm, trên thân sáng chói như vàng ròng, răng trắng trong, chùm lông trắng chiếu sáng giữa hai chặng mày. Nghe khen không vui, che giấu công đức, nên được tướng nam căn ẩn kín như mã vương. Căn thiện đã tu hồi hướng Bồđề, nên được bốn tướng: lông trên thân đẹp đẽ, bốn mươi cái răng, lần lượt được thượng vị và nhục kế. Siêng tu tinh tấn nên được hai tướng: thân trên như sư tử, hai má nhô cao đầy đặn. An tâm chúng sinh như đối với con một, nên được ba tướng: răng dày khít, mắt xanh biếc, lông mi giống ngưu vương. Tu tập pháp thiện không chán nên được các tướng còn lại. Đó gọi là bốn thứ nghiệp khéo tu tập nên được ba mươi hai tướng của bậc đại nhân.

Bồ-tát nơi địa chủng tánh là xứ chủng tử của tướng tốt. Bồ-tát nơi địa giải hành là tu tập phương tiện. Bồ-tát nơi địa tâm tịnh thì đạt được. Bồ-tát nơi các địa khác thì dần dần đạt thanh tịnh thù thắng. Địa Như Lai tất cánh là vui tịnh vô thượng. Đây là lược nêu về các tướng, vì các chúng sinh bậc thượng, trung, hạ, ngoài ra tất cả pháp Phật đều là tướng của bậc đại nhân. Những tướng đó cùng với một trăm bốn mươi tướng còn lại nơi thân tốt đẹp, nên nói là vẻ đẹp tùy hình. Lược nêu, tất cả phước đức của chúng sinh chứa nhóm bằng tướng một sợi lông. Phước đức chứa nhóm của tất cả tướng một sợi lông bằng một tùy hình hảo. Phước đức chứa nhóm của tất cả tùy hình hảo tăng đến trăm lần mới được một tướng, trừ bạch hào và nhục kế, công đức của tất cả tướng khác phải tăng đến ngàn lần, mới được tướng bạch hào. Công đức của tướng bạch hào tăng đến trăm ngàn lần, mới được tướng nhục kế vô kiến đảnh. Công đức của tướng bạch hào tăng đến ức trăm ngàn lần, mới được phần nhỏ tướng pháp âm của Như Lai. Như Lai tùy ý phát ra âm thanh thanh tịnh, phạm âm ấy lan xa cho đến vô lượng thế giới trong mười phương. Như vậy, Như Lai có vô lượng công đức chứa nhóm không thể nghĩ bàn.

Lại nữa, nghiệp thiện của tướng tốt có ba thứ vô lượng. Ba A-tăng-kỳ kiếp tu tập, gọi là kiếp vô lượng. Tạo an lạc cho tất cả chúng sinh, gọi là tâm vô lượng. Đủ vô số các thứ nghiệp thiện, gọi là hành vô lượng. Vô lượng phước đức này là hành trang tu tập sinh khởi tướng tốt của Như Lai.

Bốn nhất thiết chủng thanh tịnh: Một là thân tịnh. Hai là cảnh giới tịnh. Ba là tâm tịnh. Bốn là trí tịnh.

Thân phiền não tập, lìa bỏ trọn vẹn, được thân tối thượng, sinh diệt tự tại, đó gọi là thân tịnh.

Vô số sự hiện hóa cùng các điều ngôn thuyết nơi tất cả cảnh giới đều tự tại không chướng ngại, đó gọi là cảnh giới tịnh.

Phiền não đều lìa, căn thiện thành thục, đó gọi là tâm tịnh.

Lìa bỏ tất cả vô minh cấu uế, tất cả mọi hiểu biết đều tự tại vô ngại, đó gọi là trí tịnh.

Mười lực của Như Lai: Một là trí lực của xứ phi xứ. Hai là trí lực của tự nghiệp. Ba là trí lực của thiền giải thoát, Tam-muội chánh thọ. Bốn là trí lực nơi các căn lợi độn. Năm là trí lực của vô số lý giải. Sáu là trí lực của vô số cảnh giới. Bảy là trí lực của chí xứ đạo. Tám là trí lực của túc mạng. Chín là trí lực về sinh tử. Mười là trí lực của lậu tận.

Mười lực này như trong kinh phần Mười lực đã nói rộng. Ngôn ngữ đã giảng nói không trái với như, vì thế nên gọi là Như Lai. Quả tịnh và bất tinh, dựa vào nhân sai khác, đó gọi là xứ. Quả tịnh bất tịnh do nhân sai khác nên trái nhau, đó gọi là phi xứ. Trí lìa tăng thượng mạn, đó gọi là trí như thật, như phẩm Bồ-đề vô thượng ở trước đã nói: Trí nhất thiết, trí vô ngại, trí thanh tịnh, đó gọi là trí lìa tăng thượng mạn. Có khả năng tạo tất cả thứ lợi ích cho chúng sinh, tất cả ma oán đều lìa bỏ, được thù thắng, đó gọi là lực. Tu tập thâu nhận tùy theo ý muốn được tự tại, đó gọi là thành tựu. Niết-bàn vô thượng, đó gọi là thắng diệu. Đắc tám Thánh đạo, xa lìa tất cả não loạn sợ hãi, đó gọi là an ổn. Tự biết chỗ đã đắc gọi là tự nhận biết.

Từ nơi pháp chứng đắc, đem tâm thương xót, vì người giảng nói rộng, đó gọi là Chuyển phạm luân. Vì sao? Vì Như Lai đối với các thứ não loạn này đều thanh tịnh, tịch diệt, trong mát, chân thật, khi bắt đầu chuyển khiến tất cả chúng sinh đều được thanh tịnh, đó gọi là Phạm luân. Được giáo pháp tối thượng, gồm thâu lời bậc Đại sư vô thượng nói, tự chỗ chứng đắc phá trừ đạo khác, đối với các Luận khác không sinh yếu kém, đối với tất cả các Luận đều là thắng diệu vô thượng, vì bốn chúng giảng nói, đó gọi là sư tử gầm rống. Lược nói về mình an, người an, mình người đều an, khai mở, hiển bày, dạy trao, tuyên thuyết. Lại lược nêu về đắc nghĩa, đắc phương tiện. Hoặc trời, hoặc người, có cầu việc gì đều ở nơi ta đạt được, đó gọi là đắc phương tiện. Như bệnh được lành, trừ phiền não nên an ổn, lại vì người nên đối trị, đó gọi là chuyển pháp luân. Có khả năng khiến tất cả sư tà hư vọng được các đối trị, các bệnh được lành, đó gọi là sư tử gầm vang. Nếu chỗ tạo nghiệp thành tựu đã diệt, đó gọi là quá khứ. Nếu chưa làm chưa diệt, mà là sẽ làm, đó gọi là vị lai. Nếu chỗ tạo nghiệp, không phải tạo đã diệt, mà là đang làm, đó gọi là hiện tại. Do hành phân biệt lại có ba thứ, đó là nghiệp thân khẩu ý. Do thọ pháp phân biệt lại có bốn thứ. Có thọ pháp hiện đời được báo vui, đời khác báo khổ, nói rộng như trong Phẩm Tự Lợi Lợi Tha ở trước. Hiện pháp, đời sau, hoặc an hoặc không an, tùy theo chỗ ứng hợp để giảng nói pháp lợi ích, đó gọi là xứ phương tiện. Nếu số chúng sinh dùng số phi chúng sinh làm cảnh giới, có sự tạo tác, đó gọi là chúng sinh. Căn thiện đã tạo, đó gọi là nhân. Ái cùng với không ái, thành quả phước họa, đó gọi là báo. Lược nêu tất cả thời, tất cả hành, tất cả xứ phương tiện, tất cả chúng sinh, tất cả cảnh giới, tất cả nhân, tất cả họa, tất cả phước, tất cả như vậy, Như Lai đều nhận biết rốt ráo, không gì hơn.

Bốn thiền tám giải thoát: Đối với thiền giải thoát tâm được tự tại, các thứ sắc tượng kia, tùy ý đều thành, đó gọi là thiền giải thoát, Tam-muội chánh thọ, như nói Tam-muội chánh thọ của Đức Thế Tôn. Như chánh thọ đó, ánh sáng soi chiếu đến cõi Phạm thiên, âm thanh thuyết pháp vi diệu, chỉ nghe tiếng không thấy hình tướng, do nghĩa này nên Như Lai nhập Tam-muội tượng loại chung với thế gian, không chung với thế gian, có thể chóng thành tựu trọn vẹn. Đối với thiền giải thoát, tâm được tự tại, tùy ý đều thành, vì thế nên gọi là thiền giải thoát, Tam-muội chánh thọ.

Lại nữa, đối với các thiền v.v… cùng có hai thứ phiền não: Một là chưa tu phương tiện, phiền não gây chướng ngại khiến không được tu. Hai là đã đắc tự địa, phiền não nơi các triền sai khiến, trái với đạo thắng tấn. Đức Như Lai dùng vô số các loại ngôn giáo thế tục, tùy theo hình sắc, theo chỗ ứng hợp, khiến được thiền v.v…, tu tuệ đầy đủ, lìa phiền não đạt thanh tịnh. Hoặc đắc hoặc chưa đắc, hoặc kém hoặc hơn, đều nhận biết như thật, vì thế gọi là thiền giải thoát, Tam-muội chánh thọ. Nhận biết như thật, hướng thành thục nơi năm căn như tín v.v… có các hạng hạ trung thượng, đó gọi là các căn lợi độn. Từ người khác sinh tín và tự tư duy, làm phương tiện khởi mong muốn hạ trung thượng, đó gọi là vô số lý giải, kiến lập vô số chủng tánh, đó là chủng tánh của ba thừa, tánh của chúng sinh tham dục v.v… cho đến tám vạn bốn ngàn hành, như thế gọi là vô số cảnh giới.

Nhận biết các môn độ, tùy thuận đối trị. Tham dục thì quán bất tịnh, nói rộng như trong địa Thanh văn, đó gọi là tất cả chí xứ đạo. Lại, các nhóm loại đều trái nhau, khởi sự hiểu biết khác, thường muốn cùng tranh luận, giống như Sa-môn ngoại đạo, Bà-la-môn. Tất cả các thứ đều hướng đến đời này đời khác, cũng gọi là trí lực của chí xứ đạo, như phần Thời trong kinh đã nói rộng.

Biết rõ số tục của chúng sinh trong bốn phương, kiến lập đủ các thứ danh tự. Nghĩa là tám thứ việc của quá khứ, sáu thứ đồng hành, vô số các thứ như vậy đều có thể hiểu rõ. Tám thứ việc của quá khứ là: Tên gọi như thế, sinh như thế, chủng tánh như thế, ăn uống như thế, khổ vui như thế, sống lâu như thế, trụ mãi như thế, giới hạn của thọ mạng như thế. Sáu thứ đồng hành là: Tục số danh tự về sắc như sát-lợi, cha mẹ, ăn uống, thiện ác, thọ mạng. Tám thứ sự, sáu thứ đồng hành với thân mình và người khác, nói như thế này: Đây là tên ta. Ta là Sát-lợi, Bà-la-môn, Tỳ-xá, Thủ-đà. Đây là cha mẹ ta. Ta ăn uống như vậy. Ta làm việc thiện ác như vậy, hoặc tuổi nhỏ, hoặc trung niên, hoặc lớn tuổi. Sáu việc đồng hành như thế, dùng trí túc mạng đều nhận biết như thật.

Tất cả thiền gọi là Thiên trụ. dựa nơi thiền được nhãn (mắt) nên gọi là thiên nhãn tịnh. Quả đầy đủ nên gọi là vui tịnh. Trong loài người không có điều đó nên gọi là vượt hơn người. Tuy nơi các trời cõi dục có quả báo về thiên nhãn, nhưng trong loài người cũng không phải là không có. Chúng sinh sắp chết gọi là lúc chết. Tối tăm có hai thứ: Hình tượng giống như vậy, dựa nơi trung ấm sinh, như đêm đen, ánh sáng nơi lông dê đen càng tối, nên gọi là sắc xấu. Bạch tịnh có hai thứ: Hình tượng giống như vậy, dựa nơi trung ấm sinh, như áo dệt ở Ba-la-nại nơi ánh sáng của trăng sáng, nên gọi là sắc đẹp. Dấy khởi giới ác đó gọi là giới ác. Thân khẩu ý hành ác gồm đủ các thứ tà kiến, hành ác thành hình, phỉ báng Hiền Thánh, đó gọi là phỉ báng do ác kiến. Chấp trước theo kiến tà, nhân tà, quả tà, duyên như vậy tạo ra tất cả nghiệp tà. Tạo nghiệp tà rồi, đời hiện tại thọ vui, đời vị lai thọ khổ báo, thành khổ của đời hiện tại, khổ báo của vị lai, đó gọi là thọ nhận nhân của pháp tà tạo thành. Vô số các thứ pháp ác sinh trong đường ác, đó gọi là nhân. Danh sắc kia phân ly, gọi là thân hoại. Sinh lực đều hết, gọi là mạng chung. Hành ác phi pháp đó gọi làm ác. Thọ khổ xúc tột bực nơi đêm dài sinh tử không ngừng, đó gọi là nẻo ác. Rơi vào xứ rất thấp trái với tâm đại bi v.v… đó gọi là đọa. Tăng thượng đáng chán, đó gọi là Nê-lê. Cùng với trên trái nhau, đó gọi là phần tịnh. Nhân nơi hành thiện sinh, đó gọi là nẻo thiện. Sự thọ nhận tự nhiên, đó gọi là thiên (trời). Tất cả lậu hoàn toàn không còn, đoạn tất cả sử, tâm vô lậu đối trị, trí vô lậu, đệ nhất ý tăng thượng, tuệ tăng thượng, hữu lậu dứt hết, đó gọi là tâm giải thoát, tuệ giải thoát. Nương vào kiến đạo, tu đạo, tâm được giải thoát, tuệ được giải thoát, đó gọi là hữu sau. Chứng đắc sáu thần thông, tự nhận biết như thật, có thể vì người khác giảng nói, vì thế nói tự nhận biết, tác chứng:

Nẻo sinh tử của Ta đã hết, phạm hạnh đã lập, nói rộng như thế.

Mười lực của Như Lai có bảy loại: Một là tự tánh. Hai là phân biệt. Ba là không chung. Bốn là như nhau. Năm là tạo nghiệp. Sáu là thứ lớp. Bảy là sai biệt.

Tự tánh: Có chỗ nói là tự tánh của năm căn, có nơi nói là tự tánh của trí tuệ. Tự tánh của trí tuệ, nghĩa là nói trí lực của xứ phi xứ, không nói lực xứ phi xứ như tín v.v… Như trí lực của xứ phi xứ, các lực khác cũng như vậy.

Về phân biệt: Lược nêu có ba thứ: Một là phân biệt thời: Quá khứ, vị lai, hiện tại nhập nơi nhất thiết trí. Hai là phân biệt chủng: Tất cả pháp hữu vi nơi tự tướng, cộng tướng, nhập nơi tất cả chủng loại. Ba là phân biệt chúng sinh: Tất cả giới chúng sinh nhập nơi tất cả lợi ích. Ba thứ phân biệt như thế, nói rộng thì có vô lượng.

Không chung: Nghĩa là mười lực của Đức Như Lai không chung với hàng Thanh văn, Phật-bích-chi.

Như nhau: Nghĩa là mười lực của hết thảy Như Lai là bình đẳng, không có hạ trung thượng.

Tạo nghiệp: Nghĩa là trí lực của xứ phi xứ, nhân quả chân thật đều nhận biết như thật. Hàng phục sự tranh luận về nhân quả nơi các Sa-môn, Bà-la-môn theo trí lực của tự nghiệp, tự tạo ra nghiệp, nghiệp này thọ quả, đều nhận biết như thật. Hàng phục sự tranh luận về thí phước nơi các Sa-môn, Bà-la-môn, theo trí lực của thiền giải thoát, Tam-muội chánh thọ, ba thứ thị hiện điều phục dạy trao, hàng phục, đối trị. Tranh luận trái nhau nơi các Sa-môn, Bà-la-môn, theo trí lực của các căn độn lợi, đối với các chúng sinh căn tánh hạ trung thượng đều nhận biết như thật, theo chỗ ứng hợp tùy theo phương tiện để vì họ thuyết pháp. Trí lực của vô số lý giải, đối với các chúng sinh có sự hiểu biết hạ trung thượng, lý giải tịnh, bất tịnh đều nhận biết như thật, dạy tu lý giải tịnh, lìa lý giải bất tịnh. Trí lực của các thứ giới, đối với các chúng sinh thuộc cảnh giới hạ trung thượng đều nhận biết như thật. Như nơi tâm kia, căn kia, ý muốn kia, sự sai khiến kia, các môn độ kia đều chỉ dạy truyền trao lợi ích. Trí lực của chí xứ đạo, Đức Như Lai vì các chúng sinh, dùng đủ các môn độ, đủ các cách dạy bảo, trao truyền như nơi địa Thanh văn thứ lớp khai mở, hiển bày, dạy trao, tuyên thuyết.

Thế nào là Như Lai dạy trao về nghiệp ban đầu nơi Tam-muội của Bồ-tát đủ các thứ thâu nhận trụ tâm? Như Lai vì những người không dua nịnh quanh co dạy dỗ khiến họ tu học, nói như thế này: Thiện nam! Ông nên một mình ở chỗ vắng lặng, vui thích hết mực về tịch tĩnh, suy nghĩ về những danh tự mà cha mẹ, sư trưởng đã tạo ra. Như danh tự này, sáu nhập trong ngoài, hai bên và chính giữa, tất cả đều không, tự tánh cũng không, chỉ là danh tưởng được thiết lập. Suy nghĩ như vậy, về pháp không thể thủ đắc, không ở vị lai khởi tưởng sẽ đến. Thiện nam! Trong hiện tại, nhãn tạo tác về nhãn gọi là nhãn tưởng, nên nhãn được thiết lập, phải tự quan sát. Nhãn của ta hãy còn không thể thủ đắc, huống gì là danh tưởng được thiết lập nói là nhãn. Như vậy, những danh tưởng được thiết lập, tất cả đều không, danh tưởng được thiết lập thảy đều không chân thật, tự tánh của nhãn kia cũng không. Vì sao? Vì không phải nhãn kia gọi là nhãn tưởng, nhãn được thiết lập sinh nhãn nhận biết. Đó chỉ là danh tự ngôn thuyết sinh nhãn nhận biết. Không phải tánh của nhãn kia có thể nghe biết, nhưng chính là ở nơi danh ở nơi sự sinh ra nhãn nhận biết. Vì thế nên suy nghĩ: Về nhãn danh, nhãn tưởng, nhãn được thiết lập từ xưa nay, các pháp vị lai đều không thể thủ đắc. Như nhãn, thì nhĩ, tỷ, thiệt, thân, cho đến thấy nghe hiểu biết, hoặc cầu, hoặc đắc, hoặc giác (tầm), hoặc quán (tứ) đều cũng như vậy. Tất cả pháp tưởng cho đến tưởng vị lai đều như vậy. Hoại ngã tưởng, đạo phương tiện thâu nhận, cho đến hoại tất cả pháp tưởng, đạo phương tiện thâu nhận đều như vậy. Tất cả đối tượng nhận biết đều khéo quan sát. Tất cả pháp tưởng, tưởng vị lai, tất cả hư giả, tưởng không, không tư duy, không tướng, đối với tất cả nghĩa đều không chỗ thâu nhận, thì sẽ chứng đắc chủng tánh Tam-muội trí tuệ thanh tịnh của Như Lai. Các Bồ-tát kia đắc quán bất tịnh, hành nơi tâm từ, quan sát duyên khởi, phân biệt các cảnh giới, niệm hơi thở ra vào, đạt được sơ thiền, cho đến phi tưởng phi phi tưởng xứ. Bồ-tát tư duy về vô lượng Tam-muội chánh thọ, dần dần cho đến khi đắc Chánh đẳng Chánh giác vô thượng. Đó gọi là chí xứ đạo của Bồ-tát. Như Lai ở quá khứ, vì Bồ-tát mới tu tập đã chỉ dạy trao truyền như vậy. Chư Phật vị lai cũng sẽ chỉ dạy như vậy. Chư Phật hiện tại cũng đang chỉ dạy như vậy. Thừa Thanh văn tư duy như thế chóng đắc thần thông, trí vô ngại, hết thảy trí lực của chí xứ đạo, ra khỏi tất cả đường khổ, đều nhận biết như thật, lìa đạo không xuất ly, đạo xuất sinh lợi ích. Trí lực túc mạng, quan sát thọ mạng đời trước, đối với thiện, đối với ác, hoặc tâm nhàm chán, hoặc tâm thanh tịnh, điều phục thuyết pháp, điều phục Thường luận nơi Sa-môn, Bà-la-môn. Dùng trí lực về sinh tử nói về nơi chốn sinh đến của chúng sinh trong sinh tử, điều phục đoạn trừ Diệt luận nơi Sa-môn, Bà-la-môn. Dùng trí lực của lậu tận điều phục nghi hoặc về giải thoát nơi Sa-môn, Bà-la-môn.

Thứ lớp: Nghĩa là Như Lai chứng đắc Chánh đẳng Chánh giác vô thượng thì liền đạt được mười lực. Về sau theo thứ lớp nơi nhân quả của phần pháp bộ A duy tam Phật hiện ra trước, dùng trí lực của xứ phi xứ, quan sát phần bộ nhân quả, quả của cõi dục có sai khác. Dùng trí lực của tự nghiệp quan sát tự nghiệp để vì chúng sinh thuyết pháp, giúp lìa nghiệp ác, tu hành nghiệp thiện, khiến cho đạo thế tục được lìa dục. Đem trí lực của thiền giải thoát Tam-muội chánh thọ, chỉ dạy các chúng sinh. Lại vì lìa dục xuất thế, nên đem trí lực của thiền giải thoát Tam-muội chánh thọ, trước tiên dạy cho chúng sinh, để đạo thế tục lìa dục, sau được đạo xuất thế gian lìa dục, nhằm khiến chúng sinh được lìa dục xuất thế gian. Dùng trí lực của các căn lợi độn quan sát các căn, nhận biết các căn rồi, muốn nhận biết hy vọng, dùng trí lực của vô số thứ lý giải để quán xét hy vọng kia. Quán hy vọng rồi dùng trí lực của vô số thứ cảnh giới, quan sát căn sử, tùy theo phương tiện cảnh giới nơi môn độ kia để độ thoát. Dùng trí lực của tất cả chí xứ đạo, đối với cảnh giới, phương tiện, môn độ tâm trụ thâu nhận tâm trụ. Hành thanh tịnh rồi, xa lìa các kiến chấp như thân kiến, thường kiến, đoạn kiến, để nói trung đạo. Lìa tất cả phiền não nên nhập vào trí lực túc mạng và trí lực sinh tử. Vì nhằm dứt trừ sự trói buộc do không đoạn phiền não, khởi tăng thượng mạn, nên dạy khiến xa lìa, vì thế nhập trí lực của lậu tận.

Lại, thứ lớp nghĩa là pháp A duy tam Phật, chứng đắc Chánh đẳng Chánh giác vô thượng rồi, trước tiên dùng trí lực của xứ phi xứ, quan sát pháp duyên khởi trụ nơi đệ nhất nghĩa. Trí nương vào pháp trụ nơi đệ nhất nghĩa rồi, dùng trí lực của tự nghiệp quán các thứ nghiệp của phần tại gia. Quán các thứ nghiệp của phần tại gia xong, dùng trí lực của thiền giải thoát Tam-muội chánh thọ, quán phần xuất gia. Làm sao khiến cho phần xuất gia này đối với giải thoát khổ nên vì đó giảng nói đạo. Khởi tâm đại bi, Phật nhãn quan sát, đem trí lực của các căn lợi độn quan sát các căn hạ trung thượng vì đó giảng nói pháp. Ngoài ra, trí lực của vô số lý giải thứ lớp như trước nói.

Lại, thứ lớp nghĩa là pháp A duy tam Phật, dùng trí lực của xứ phi xứ, quan sát pháp giới duyên khởi, đem trí lực của tự nghiệp quan sát cảnh giới của chúng sinh, thấy những chúng sinh này tạo nghiệp như vậy, thọ quả như vậy. Quán pháp giới và cảnh giới chúng sinh rồi, đem trí lực của thiền giải thoát Tam-muội chánh thọ, vì chúng sinh khổ, thị hiện ba thứ để dạy bảo, trao truyền. Trí lực của những căn lợi độn khác dùng đạo độ thoát cho tất cả chúng sinh, khiến thoát các khổ.

Sai biệt: Nghĩa là nhận biết nghiệp thiện, bất thiện, được quả ái, không ái, đó gọi là trí lực của xứ phi xứ. Nhận biết nghiệp thiện, bất thiện, đắc quả ái, không ái, không tạo, không nhận, cho đến thiền giải thoát, nghiệp này không phải là nghiệp kia, đó gọi là trí lực của tự nghiệp. Nhận biết thiền giải thoát v.v… thị hiện ba thứ dạy trao, cho đến biết tâm tịnh cùng câu sinh tương ưng, đó gọi là trí lực của thiền giải thoát Tam-muội chánh thọ. Nhận biết căn hạ trung thượng, đó gọi là trí lực của các căn lợi độn. Cho đến nhận biết các căn nơi phương tiện sinh hy vọng kia, cũng gọi là trí lực của các căn lợi độn. Nhận biết đủ các thứ hy vọng, đó gọi là trí lực của vô số lý giải.

Giải (hiểu rõ) có sáu thứ: Một là giải bất xuất: Nghĩa là hy vọng hiểu biết về Ma-hê-thủ-la, Na-la-diên, Phạm thế v.v… Hai là giải xuất: Nghĩa là hy vọng hiểu biết về ba thừa. Ba là giải viễn tịnh: Nghĩa là hy vọng hiểu biết về sự thành thục hàng hạ, trung. Bốn là giải cận tịnh: Nghĩa là hy vọng hiểu biết về sự thành thục bậc thượng. Năm là giải hiện pháp đắc Niết-bàn: Nghĩa là hy vọng hiểu biết về thừa Thanh văn đắc Niết-bàn. Sáu là giải vị lai đắc Niết-bàn: Nghĩa là hy vọng hiểu biết về Đại thừa đắc Niết-bàn. Cho đến hiểu biết về chỗ khởi chủng tử làm dụ, cũng gọi là trí lực của vô số lý giải.

Giới phân biệt có bốn thứ: Như chủng tử tánh, đó gọi là trí lực của vô số lý giải. Nhận biết vô số chủng tử phân biệt, đó gọi là trí lực của vô số cảnh giới, cho đến nhận biết pháp Niết-bàn và thuận giới đạo tích, cũng gọi là trí lực của vô số cảnh giới. Nhận biết tất cả các thứ đạo tích, với vô số phiền não, vô số thanh tịnh, đó gọi là trí lực của chí xứ đạo. Cho đến nhận biết túc mạng nơi nhân của tất cả nẻo, cũng gọi là trí lực của chí xứ đạo. Nhận biết sáu thứ ngôn thuyết của quá khứ, đó gọi là trí lực của túc mạng, cho đến nhận biết chúng sinh quá khứ sinh tử, cũng gọi là trí lực của túc mạng. Nhận biết sinh tử vị lai đó gọi là trí lực về sinh tử, cho đến nhận biết tự nghĩa nơi chúng sinh vị lai sinh tử chưa rốt ráo, cũng gọi là trí lực về sinh tử. Nhận biết rốt ráo tự nghĩa nơi hiện pháp đắc Niết-bàn, đó gọi là trí lực của lậu tận. Mười thứ trí lực như vậy, mỗi thứ đều có sai biệt.

Bốn vô úy: Như nơi kinh nói. Như Lai do bốn sự việc này, ở trong đại chúng tự chứng đắc không có chỗ sợ hãi (vô sở úy):

Chướng trí giải thoát, tất cả pháp bình đẳng giác ngộ, không cùng với Thanh văn là vô úy thứ nhất. Chướng phiền não giải thoát chung với Thanh văn là vô úy thứ hai. Ra khỏi đường khổ là vô úy thứ ba. Chướng đạo pháp là vô úy thứ tư. (Câu này là không đúng. Đối chiếu nơi Luận Du Già quyển thứ 50 sẽ thấy rõ. ND)

Như Lai đối với bốn nghĩa này tự nhận biết như thật. Nếu có người phỉ báng nói là không nhận biết thì không có điều đó. Do không hề có điều ấy nên đắc vô sở úy, không khiếp nhược, không nghi hoặc, tự nhận biết quyết định, có thể làm bậc Đại sư tự an mình và an người. Hai xứ trước đầy đủ, là con đường tự an. Hai xứ sau đầy đủ là con đường an cho người khác. Hiểu biết tất cả pháp bình đẳng là hướng đến các Bồ-tát Đại thừa. Giải thoát chướng phiền não là hướng đến thừa Thanh văn, Duyên giác. Đạo ra khỏi khổ và pháp chướng ngại đạo là cả hai đều cùng làm. Như Lai vì các Bồ-tát, Thanh văn, Duyên giác hành đạo ra khỏi khổ, nên giảng nói Tu-đala (Kinh). Kết tập kinh tạng, nghĩa là nói về hành Bồ-tát để lập tạng Bồ-tát, nói về hành Thanh văn để lập tạng Thanh văn.

Ba niệm xứ: Như nơi kinh đã nói. Như Lai nơi đêm dài sinh tử luôn khởi suy nghĩ: Ta khéo hành trì pháp luật, làm đại pháp chủ, đối với việc thọ, không thọ, không khởi tâm buồn phiền. Lược nêu về ba hạng chúng: Một là hướng đến nẻo chánh. Hai là hướng đến nẻo tà. Ba là không phải chánh không phải tà. Đối với ba chúng này dùng tâm chánh niệm không tăng, giảm.

Ba bất hộ: Như nơi kinh đã nói. Lược nêu tất cả việc làm che giấu đều đoạn, thế nên Như Lai hiện bày ba bất hộ. A-la-hán còn có Đột-kiết-la vô ký, hoặc có khi quên lầm, chỉ có Như Lai, tất cả đều không, tất cả đều chân thật. A-la-hán hoặc khi luận nghị, sợ rơi vào xứ thua kém, hoặc có khi không vui, hoặc có khi tánh vội gấp, thế nên tự hộ (giữ gìn), không khiến tập khí khởi nghiệp thân, khẩu, ý bất tịnh. Như vậy hết thảy Như Lai đều không hộ.

Đại bi: Như nơi Phẩm Cúng Dường Tập Cận Vô Lượng ở trước đã nói.

Pháp không quên: Nghĩa là Như Lai đã làm việc gì, thường thuận theo nhớ nghĩ, tất cả việc làm, tất cả lời nói, tất cả phương tiện thiện xảo, tất cả thời, đối với các việc ấy, luôn nhớ không quên.

Đoạn trừ các tập: Nghĩa là Như Lai cử động, dừng nghỉ, xem xét, nói năng, đi đứng, đều lìa các tập khí còn lại tương tợ của phiền não đã khởi. Các A-la-hán cử động, dừng nghỉ, xem xét, nói năng, đi đứng, có các tập khí còn lại tương tợ của phiền não đã khởi. Như Lai thì đoạn hẳn, vì thế gọi là đoạn trừ các tập.

Nhất thiết chủng diệu trí: Nghĩa là Như Lai nhận biết ba thứ pháp: Nghĩa tạo lợi ích, không phải nghĩa tạo lợi ích, không phải nghĩa không phải phi nghĩa tạo lợi ích.

Biết không phải nghĩa tạo lợi ích, không phải nghĩa không phải phi nghĩa tạo lợi ích nơi tất cả pháp trí, đó gọi là nhất thiết chủng trí. Biết nghĩa tạo lợi ích nơi tất cả pháp trí, đó gọi là diệu trí. Nhất thiết chủng trí và diệu trí, gọi chung là Nhất thiết chủng diệu trí.

Đấy gọi là lược nói về một trăm bốn mươi pháp bất cộng, tất cả tướng hảo, Bồ-tát với thân sau cùng đắc pháp Bồ-đề phần vui tịnh, nơi cội Bồ-đề mới đạt được đầy đủ thân tối hậu của Bồ-tát. Tu ba mươi bảy pháp Bồ-đề phần, được các tướng, Tam-muội lìa chướng, thuộc về Tam-muội kim cang, lần lượt nhất tâm, liền chứng đắc mười lực, cho đến nhất thiết chủng diệu trí, vui tịnh vô thượng. Tất cả đối tượng nhận biết đều không ngại, không chướng. Vui tịnh lìa cấu uế bình đẳng mở bày tỏ ngộ, vượt qua tất cả hành Bồ-tát, hành hạnh Như Lai, được thân vô thượng nơi địa cứu cánh.

Trí Bồ-tát, trí Như Lai có gì sai khác? Trí Bồ-tát của địa cứu cánh giống như nhìn qua vải thưa, trí Như Lai như bỏ vải thưa. Trí Bồ-tát như ở xa thấy sắc, trí Như Lai như ở gần thấy sắc. Trí Bồ-tát như mắt có màn nhỏ khi nhìn xem, trí Như Lai như mắt tịnh nhìn thấy. Trí Bồ-tát như ở trong thai nhìn xem, trí Như Lai như khi sinh ra nhìn thấy. Trí Bồ-tát như trong mộng nhìn xem, trí Như Lai như khi tỉnh dậy nhìn thấy. Đây là sự sai biệt về trí tuệ của Bồ-tát nơi địa cứu cánh và Như Lai.

Chư Phật Như Lai trong mười phương thế giới, hành trì Phật sự, tạo lợi ích cho chúng sinh, lược nêu có chín thứ. Những gì là chín? Một là nhằm khiến cho chúng sinh tâm tín thanh tịnh, thọ thân trượng phu, sinh khởi các tướng tốt. Hai là nhằm tạo lợi ích cho tất cả chúng sinh, đoạn trừ mọi thứ nghi, vì thế khởi mười lực của Như Lai. Ba là đem mười lực của Đức Phật, khởi tất cả nghĩa, khai phát tất cả tri kiến của Như Lai, trả lời tất cả các câu hỏi, hàng phục tất cả các luận tà, kiến lập luận chánh, nên khởi bốn vô sở úy của Như Lai. Bốn là trí tuệ của Như Lai, hoặc trụ hoặc không trụ, theo đó để điều phục, lìa các phiền não, nên khởi ba niệm xứ. Năm là như trước đã nói, hành tác như vậy, nên khởi ba bất hộ. Sáu là thường dùng Phật nhãn, ngày đêm quan sát tất cả thế gian, nên khởi tâm đại bi. Bảy là đối với tất cả chúng sinh, hết thảy những việc nên làm đều đã làm, vì thế khởi pháp không quên. Tám là Như Lai hành hóa đều tùy thuận nơi như hoàn toàn rốt ráo, nên khởi đoạn trừ các tập. Chín là pháp không phải nghĩa tạo lợi ích, không phải nghĩa không phải phi nghĩa tạo lợi ích, tất cả đều xa lìa, pháp nghĩa tạo lợi ích thì phân biệt hiển bày, nên khởi nhất thiết chủng diệu trí.

Như Lai đối với một trăm bốn mươi pháp bất cộng này tạo ra chín thứ Phật sự, nói rộng tức có vô lượng. Đó gọi là Như Lai trụ, đó gọi là kiến lập. Vì sao? Vì sự tu học của Bồ-tát dựa vào đó để kiến lập hết thảy những sự lợi ích cho chúng sinh, thế nên gọi là kiến lập. Tự lợi lợi tha, không như Thanh văn, Duyên giác, nên gọi là không chung. Tất cả pháp Phật như đại bi, không quên, đoạn trừ các tập, nhất thiết chủng diệu trí, hàng Thanh văn, Duyên giác đều không thể đạt được, ngoài ra tất cả loại khác cũng không đầy đủ, vì thế gọi là không chung. Ở đây chỉ bày đầy đủ việc Bồ-tát học đạo và quả của học đạo. Hết thảy Bồ-tát học đạo cùng quả của học đạo, hết thảy các loại xứ thuyết chân thật, thế nên gọi là địa Bồ-tát, gọi là Ma-đắc-lặcgià của tạng Bồ-tát, gọi là Đại thừa gồm thâu, gọi là hiển thị không hoại, gọi là trí căn bản thanh tịnh không chướng ngại.

Nếu có hàng trời, người, A-tu-la, phi nhân, Sa-môn, Bà-la-môn, đối với địa Bồ-tát khởi tin hiểu kiên cố, nghe nhận, tu tập, vì người giảng nói rộng, biên chép kinh quyển, cúng dường vô số thứ, thì công đức đạt được, cùng với Đức Thế Tôn đối với Tạng Bồ-tát, vì Bồ-tát mới tu tập khai mở, chỉ bày, dạy bảo, tuyên thuyết, công đức có được là như nhau, không sai khác. Vì sao? Vì tạng Bồ-tát của địa Bồ-tát này chỉ bày pháp luật của Bồ-tát, khiến nhiều chúng sinh thọ trì, suy nghĩ, kiến lập pháp tiếp pháp hướng, dần dần chuyển thêm rộng lớn, không khởi tướng tượng pháp, tướng pháp diệt tận, có thể khiến cho nghĩa thật của tượng pháp sáng rõ, có thể khiến cho chánh pháp vĩnh viễn không diệt tận. Vì thế, nên đối với địa Bồ-tát khởi tin hiểu kiên cố, nghe nhận, tu tập, vì người giảng nói rộng, biên chép, cúng dường, công đức có được là vô lượng vô biên.

(Như nơi đầu quyển 1 đã ghi nhận, ở đây xin nhắc lại: Đoạn cuối của quyển 10 chẳng hạn, từ đoạn giải thích về mười lực của Như Lai trở đi, đối chiếu với phần tương đương nơi Luận Du Già (quyển 50) để thấy bản Hán dịch ở đây là hoàn toàn không đạt. Người đọc nên có sự nhận biết như thế – ND)

HẾT – QUYỂN 10

Pages: 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10