KINH BỒ TÁT ĐỊA TRÌ
Hán dịch: Đời Bắc Lương, Đại sư Đàm Vô Sấm
Việt dịch: Cư sĩ Nguyên Huệ

 

QUYỂN 6

XỨ PHƯƠNG TIỆN THỨ NHẤT

Phẩm thứ 11: NHẪN

Thế nào là Nhẫn nhục Ba-la-mật của Bồ-tát? Lược nêu có chín thứ: Một là Tự tánh nhẫn. Hai là Nhất thiết nhẫn. Ba là Nan nhẫn. Bốn là Nhất thiết môn nhẫn. Năm là Thiện nhân nhẫn. Sáu là Nhất thiết hành nhẫn. Bảy là Trừ não nhẫn. Tám là Đời này đời khác vui nhẫn. Chín là Thanh tịnh nhẫn.

Thế nào là Tự tánh nhẫn của Bồ-tát? Bồ-tát dựa vào sức của tư duy, hoặc như sức của tánh có thể nhẫn đối với việc làm không lợi ích của người khác. Tất cả các nhẫn đều dựa nơi tâm không tham, tâm bi thuần nhất. Đó gọi là lược nói về Tự tánh nhẫn.

Thế nào là Nhất thiết nhẫn của Bồ-tát? Lược nêu có hai loại: Một là dựa nơi tại gia. Hai là dựa nơi xuất gia. Hai loại này mỗi loại đều có ba thứ: Một là nhẫn đối với người khác không tạo lợi ích. Hai là nhẫn an khổ. Ba là nhẫn tư duy hiểu rõ.

Nhẫn đối với người khác không tạo lợi ích: Nghĩa là từ lâu xa đến nay, khổ lớn không gián đoạn, vì người khác không tạo lợi ích, hiện tiền lại bức bách, Bồ-tát khởi tư duy: Tự nghiệp của ta quá xấu ác, vốn xưa đã tạo tội nên ngày nay phải chịu khổ. Nay nếu không nhẫn thì trở lại làm nhân duyên của khổ lớn nơi đời sau. Ta nay nếu không nhẫn là tự tạo khổ lần nữa, không do người khác. Lại, thân ta và người kia đều là hành khổ của hết thảy pháp hữu vi. Kẻ kia không hiểu biết nên tăng thêm khổ cho ta. Ta nay có trí vì sao lại muốn tăng thêm khổ cho kẻ ấy? Lại nữa, hàng Thanh văn tự lợi hãy còn không đem khổ tăng thêm cho người khác, huống gì là Bồ-tát luôn tạo lợi ích rộng lớn cho chúng sinh. Tư duy như vậy rồi, tu tập năm thứ tưởng, đối với kẻ oán người thân, người không oán không thân, thuộc phẩm hạ trung thượng, hoặc khổ hoặc vui, có đức, không đức, các chúng sinh như vậy, tất cả đều có thể nhẫn. Những gì là năm thứ tưởng? Một là tưởng vốn là thân thuộc. Hai là tưởng pháp số. Ba là tưởng vô thường. Bốn là tưởng khổ. Năm là tưởng thâu giữ.

Tưởng vốn là thân thuộc: Là Bồ-tát khởi tư duy: Chúng sinh từ lâu xa đến nay hầu hết đều là thân thuộc. Hoặc là cha, hoặc là mẹ, anh em chị em, Hòa thượng, A-xà-lê, hoặc là thầy, hoặc là những bậc thầy đáng tôn kính. Khi chánh tư duy như vậy, tức xả bỏ tưởng oán ghét không tạo lợi ích, khởi tưởng vốn thân thuộc, dựa nơi tưởng vốn thân thuộc rồi, đối với người khác không tạo lợi ích đều có thể gắng nhẫn.

Tưởng pháp số: Là Bồ-tát khởi tư duy: Nhân duyên nơi hành số, pháp số là không có ngã, chúng sinh, thọ mạng, không có kẻ sinh, kẻ mắng, kẻ đánh, kẻ tranh chấp. Khi chánh tư duy như thế, tức xa lìa tưởng chúng sinh, trụ nơi tưởng pháp số, dựa vào tưởng pháp số rồi, đối với người khác không tạo lợi ích đều có thể gắng nhẫn.

Tưởng vô thường: Là Bồ-tát khởi tư duy: Tất cả nơi chốn sinh khởi của chúng sinh, hết thảy đều là pháp vô thường hoại diệt, ở trên lại có việc không tạo lợi ích, muốn đoạn thọ mạng. Như vậy tánh vô thường nơi chúng sinh là pháp chết. Người trí không khởi tâm không thanh tịnh, huống gì lại dùng tay, đá, đao, gậy, nhằm đoạn thân mạng kia. Khi chánh tư duy như vậy, tức lìa tưởng thường, kiên cố, trụ nơi tưởng vô thường, không kiên cố, dựa nơi tưởng vô thường rồi, đối với người khác không tạo lợi ích thảy đều có thể gắng nhẫn.

Tưởng khổ: Là Bồ-tát quán xét: Người đủ lực lớn hãy còn không lìa ba khổ, đó là hành khổ, biến dịch khổ và khổ khổ, huống gì là người không đủ lực lớn. Bồ-tát khi quán như vậy, đối với chúng sinh thường khổ muốn khiến họ lìa khổ. Vì sao thêm báo để lại tăng thêm khổ cho kẻ kia? Khi chánh tư duy như vậy, tức lìa tưởng lạc, trụ nơi tưởng khổ, dựa nơi tưởng nhẫn khổ rồi, đối với người khác không tạo lợi ích đều có thể gắng nhẫn.

Tưởng thâu giữ: Là Bồ-tát tư duy: Ta vì tất cả chúng sinh nên phát tâm Bồ-đề, đối với tất cả chúng sinh nên tạo tưởng thân thuộc: Ta nên thâu giữ khắp khiến đều được an vui. Không nên đối với các chúng sinh thân thuộc là xứ cần tạo lợi ích, lại gia thêm việc không tạo lợi ích. Khi chánh tư duy như vậy, tức diệt trừ tưởng khác, trụ nơi tưởng thâu giữ, dựa vào tưởng thâu giữ rồi, đối với người khác không tạo lợi ích đều có thể an nhẫn.

Thế nào là nhẫn? Nếu không sân, không báo, tâm không ôm hận. Đó gọi là nhẫn.

Nhẫn an khổ: Nghĩa là Bồ-tát tư duy: Ta từ xưa đến nay, vì luôn cầu các sự việc dục nên tạo những nhân khổ, sinh vô lượng khổ lớn. Đó là các sự việc kinh doanh, buôn bán ở đời để sống, trồng trọt, phụng sự nhà vua v.v… Các khổ như vậy, đều trải qua đầy đủ, đều là do ngu tối nên không biết lỗi lẫm. Nay phải tu tập nhân vui, đầy đủ pháp thiện, thì vô lượng các khổ thảy đều an nhẫn, huống gì là khổ nhỏ. Khi chánh tư duy như vậy, tuệ nhận biết đầy đủ, tất cả sự khổ đều có thể an nhẫn. Tất cả các sự khổ lược nêu có tám thứ: Một là xứ nương dựa. Hai là xứ pháp thế gian. Ba là xứ oai nghi. Bốn là xứ gồm thâu pháp. Năm là xứ Tỳ-kheo tùy giới. Sáu là xứ phương tiện. Bảy là xứ lợi chúng sinh. Tám là xứ các chỗ tạo tác.

Xứ nương dựa: Là bốn pháp nương dựa. Nương nơi chánh pháp xuất gia, đắc phần Tỳ-kheo. Bồ-tát bị các thứ thô tạp xấu ác khiến không cung kính cùng gây trở ngại không đúng lúc, tâm không ưu não. Bồ-tát đối với các thứ khổ kia, không bỏ tinh tấn. Như thế gọi là an nhẫn dựa nơi khổ.

Xứ pháp thế gian: Là có chín loại: Một là không lợi. Hai là không khen. Ba là chê bai. Bốn là khổ. Năm là pháp hoại hủy hoại. Sáu là pháp tận diệt tận. Bảy là pháp lão suy lão. Tám là pháp bệnh hiện bệnh. Chín là pháp tử hiện tử. Các pháp thế gian này, hoặc lìa hoặc hợp đều có thể sinh các khổ. Đó gọi là xứ pháp thế gian. Bồ-tát đối với các thứ khổ kia không bỏ tinh tấn. Như thế gọi là an nhẫn nơi pháp thế gian khổ.

Xứ oai nghi: Có bốn oai nghi là đi đứng ngồi nằm. Bồ-tát này hoặc đi, hoặc ngồi, ngày đêm hai thời, trừ bỏ ấm chướng, tâm được thanh tịnh, không nằm phi thời. Giường nằm nệm ngồi trải bằng cỏ lá, nhân mệt nhọc ấy sinh khởi các khổ, thảy đều có thể nhẫn. Bồ-tát đối với các thứ khổ kia không bỏ tinh tấn. Như thế gọi là an nhẫn nơi oai nghi khổ.

Xứ gồm thâu pháp: Có bảy thứ: Một là cúng dường vật báu. Hai là cúng dường đức. Ba là thưa hỏi thọ nhận chánh pháp. Bốn là rộng vì người giảng nói. Năm là dùng âm thanh vi diệu để tán thán. Sáu là một mình yên tĩnh tư duy, quán sát lượng xét, nhớ nghĩ thâu nhận. Bảy là tu tập chỉ quán. Nếu Bồ-tát thâu giữ bảy pháp này làm phương tiện tu tập, thì các khổ dấy khởi đều có thể an nhẫn, trọn không nhân đấy để bỏ chánh phương tiện.

Xứ Tỳ-kheo tùy giới: Có bảy thứ: Một là hủy hình đẹp, bỏ râu tóc, xả tướng thế tục. Hai là đắp y hoại sắc. Ba là trừ bỏ những việc làm của thế tục không như pháp, tâm chánh niệm trụ. Bốn là nương dựa vào người khác để sống, bỏ sự nghiệp thuộc về thế gian. Năm là suốt đời theo người khác xin y, không cất chứa. Sáu là suốt đời ngăn cản năm dục của người, thâu giữ các căn môn, lìa phi phạm hạnh. Bảy là suốt đời xả bỏ các thứ vui chơi như ca múa, xướng hát. Các thứ như vậy đã tạo ra những khó khăn, hành giới Tỳ-kheo do vậy sinh khổ. Bồ-tát an nhẫn không bỏ tinh tấn. Tinh tấn, siêng năng, nghĩa là Bồ-tát tinh tấn cúng dường Tam bảo, thọ trì đọc tụng kinh Tạng Bồ-tát, biên chép, giải nói, suy nghĩ về các nghĩa ấy, tăng thêm chuyên cần tinh tấn để tu tập Thánh đạo, do đấy sinh khổ, Bồ-tát an nhẫn, không do đấy khiến bỏ tinh tấn.

(Thiếu phần nói về Xứ phương tiện).

Xứ lợi chúng sinh: Lược nêu có mười một việc, như trước đã nêu, nhân đấy sinh khổ. Bồ-tát an nhẫn, không nhân đấy khiến bỏ tinh tấn.

Xứ các chỗ tạo tác: Tức hành sự nghiệp của người xuất gia là y bát v.v…, hành nghiệp của người tại gia là tạo tác để sinh sống, do đấy sinh khổ. Bồ-tát luôn an nhẫn, không nhân đấy khiến bỏ tinh tấn.

Bồ-tát tuy thọ các khổ, nhưng chính là phải an nhẫn tu tập đạo quả Bồ-đề vô thượng, không thể không tu tập. Tu tập rồi trọn không chuyển, tâm thường hoan hỷ, không sinh nhiễm ô. Đó gọi là pháp nhẫn an khổ.

Nhẫn tư duy hiểu rõ: Nghĩa là Bồ-tát đối với pháp phải lựa chọn đúng đắn, khéo quán sát mở bày tỏ ngộ, đối với tám thứ xứ giải buộc giữ niệm để hội nhập sâu. Đó là công đức của Tam bảo. Là nghĩa chân thật. Là lực đại thần thông của chư Phật, Bồ-tát. Hoặc nhân hoặc quả được nghĩa thích hợp. Đắc nghĩa phương tiện. Nhận biết về hành xứ. Lại nữa, hiểu rõ có hai nhân duyên: Một là tu tập lâu xa. Hai là được trí vui tịnh.

Đó gọi là nhất thiết nhẫn của Bồ-tát. Nương vào ba thứ phân biệt, nói rộng là Nan nhẫn.

Thế nào là Nan nhẫn của Bồ-tát? Lược nêu có ba thứ: Nếu Bồtát đối với chúng sinh thấp kém, không tạo lợi ích cho mình, đều có thể an nhẫn. Đó gọi là nan nhẫn thứ nhất. Nếu đối với người giúp việc, kẻ sai khiến, đều tự có thể gắng nhẫn. Đó gọi là nan nhẫn thứ hai. Người thuộc tộc họ thấp kém, khởi lỗi lầm tăng thượng nhưng Bồ-tát có thể an nhẫn. Đó gọi là nan nhẫn thứ ba.

Thế nào là Nhất thiết môn nhẫn của Bồ-tát? Lược nêu có bốn thứ: Một là an nhẫn đối với những người thân thuộc không tạo lợi ích cho mình. Hai là an nhẫn đối với các oán gia không tạo lợi ích. Ba là an nhẫn đối với những người không thân không oán không tạo lợi ích. Bốn là an nhẫn đối với những việc không tạo lợi ích thuộc thượng, trung, hạ.

Thế nào là Thiện nhân nhẫn của Bồ-tát? Lược nêu có năm thứ. Bồ-tát này trước thấy người hành nhẫn có nhiều phước lợi. Nghĩa là người tu hành nhẫn, ở đời vị lai không có nhiều kết hận, không nhiều trái lìa, tâm nhiều hỷ lạc, khi chết không hối, thân hoại mạng chung sinh vào nẻo thiện, sinh lên cõi trời. Thấy những công đức phước lợi như thế, nên có thể tự an nhẫn và chỉ dạy người khác hành nhẫn. Luôn tán thán công đức hành nhẫn của người khác. Thấy người hành nhẫn sinh tâm tùy hỷ.

Thế nào là Nhất thiết hành nhẫn của Bồ-tát? Nghĩa là sáu thứ, bảy thứ, lược nêu là mười ba thứ. Bồ-tát thấy người không nhẫn nhục, bị khổ báo lớn, lo sợ nên nhẫn. Vì luôn có tâm từ, tâm bi, tâm gần gũi sâu xa, tâm thương yêu đối với tất cả chúng sinh nên nhẫn. Ân cần nguyện cầu đạt đạo quả Bồ-đề vô thượng, muốn hành đầy đủ nhẫn nhục Ba-la-mật làm nhân nên nhẫn. Do sức của nhẫn nên xuất gia.

Như Đức Thế Tôn nói: Thường nên đầy đủ những giới thọ trì, là xuất gia nhẫn. Đó gọi là thọ pháp nhẫn. Chủng tánh đầy đủ và trước là tu tập trụ nơi hiện tại. Đó gọi là tánh nhẫn. Biết tất cả pháp không có chúng sinh, nhận thức đều lìa ngôn thuyết, pháp số. Đó gọi là chánh niệm pháp nhẫn. Hết thảy nhẫn đối với kẻ không tạo lợi ích, tất cả nhẫn, tất cả xứ nhẫn, đó là một người và đại chúng hội. Tất cả thời nhẫn, nghĩa là sáng sớm, giữa trưa, chiều tối, ngày đêm, quá khứ, vị lai, hiện tại, hoặc bệnh, không bệnh, hoặc nằm, hoặc đứng dậy. Thân luôn hành nhẫn, không xúc não kẻ khác. Miệng thường hành nhẫn, xa lìa lời nói không thân ái. Ý luôn hành nhẫn không khởi giận dữ cũng lại không khởi những mong cầu bất tịnh.

Thế nào là Trừ não nhẫn của Bồ-tát? Lược nêu có tám thứ: Một là Bồ-tát đối với người khổ cầu, an nhẫn không não hại. Hai là đối với người ác tăng thượng hung bạo, dựa nơi tâm đại bi nên an nhẫn không não hại. Ba là đối với người xuất gia phạm giới, dựa nơi tâm đại bi nên an nhẫn không não hại. Và năm thứ tinh tấn an nhẫn không não hại. Chúng sinh khổ não, vì muốn dứt trừ khổ nên cầu pháp và pháp tiếp pháp hướng pháp (pháp tùy pháp hành). Pháp như vậy nên vì họ giảng nói rộng. Nếu chúng sinh hành tác sự việc, Bồ-tát thảy đều lo liệu giúp đỡ, tinh tấn hành trì. Đó gọi là tám thứ Trừ não nhẫn của Bồ-tát. Chúng sinh gặp phải hoạn nạn thì an nhẫn để dứt trừ. Những nơi chốn thiếu thốn thì an nhẫn để tạo lợi ích.

Thế nào là Đời này đời sau vui thích nhẫn của Bồ-tát? Lược nêu có chín thứ: Bồ-tát này trụ trong pháp thiện không phóng dật, có thể an nhẫn đối với các trường hợp lạnh, nóng, đói, khát, bị ruồi muỗi đốt chích. Tiếp xúc với những thứ độc hại của gió nắng, tất cả đều an nhẫn, thân tâm khổ nhọc đều có thể an nhẫn. Các chúng sinh khổ luôn ở trong biển sinh tử, chịu sinh, già, bệnh, chết, tâm thương xót của Bồ-tát luôn hiện tiền. Các thứ nhẫn nhục như vậy, Bồ-tát ở trong hiện pháp tự trụ nơi an lạc, tất cả các thứ ác thảy đều xa lìa, lại làm nhân duyên an vui cho đời sau. Cũng lại khiến cho người khác hướng đến đời nay đời sau được an ổn vui vẻ. Thế nên gọi là đời này đời sau vui thích nhẫn.

Thế nào là Thanh tịnh nhẫn của Bồ-tát? Lược nêu có mười thứ: Một là người khác không tạo lợi ích, Bồ-tát không có tâm báo trả. Hai là không khởi sân hận. Ba là không có tưởng oán ghét. Bốn là thường tạo lợi ích như bản tâm, sau cũng như vậy, luôn làm việc lợi ích, bỏ việc không lợi ích. Năm là đối với người không tạo lợi ích cho mình, dùng lời dịu dàng từ tạ. Sáu là nếu kẻ kia hối lỗi, nên nhanh chóng thọ nhận. Bảy là thấy kẻ kia không nhẫn, dùng tâm bi để giúp họ. Tám là thấy kẻ kia tu nhẫn, thì tôn kính Phật thêm gấp bội. Chín là đối với các chúng sinh sợ hãi Bồ-tát khởi tâm bi sâu xa. Mười là đoạn trừ tất cả những lỗi lầm không nhẫn, lìa dục đạt thanh tịnh. Mười thứ đó gọi là Thanh tịnh nhẫn của Bồ-tát.

Như vậy, từ Tự tánh nhẫn cho đến Thanh tịnh nhẫn, là quả Đại Bồ-đề rộng lớn vô lượng, nhân dựa nơi nhẫn này nên tất chứng đắc Chánh đẳng Chánh giác vô thượng.

********

XỨ PHƯƠNG TIỆN THỨ NHẤT

Phẩm thứ 12: TINH TẤN

Thế nào là Tinh tấn Ba-la-mật của Bồ-tát? Lược nêu có chín thứ: Một là Tự tánh tinh tấn. Hai là Nhất thiết tinh tấn. Ba là Nan tinh tấn. Bốn là Nhất thiết môn tinh tấn. Năm là Thiện nhân tinh tấn. Sáu là Nhất thiết hành tinh tấn. Bảy là Trừ não tinh tấn. Tám là Đời này đời khác vui thích tinh tấn. Chín là Thanh tịnh tinh tấn.

Thế nào là Tự tánh tinh tấn của Bồ-tát? Là Bồ-tát này, tâm có thể thâu nhận vô lượng pháp thiện, tạo lợi ích an lạc cho hết thảy chúng sinh, chỗ phát khởi hành nghiệp thân khẩu ý, luôn sáng rõ không gián đoạn cũng không điên đảo. Đó gọi là Tự tánh tinh tấn của Bồ-tát.

Thế nào là Nhất thiết tinh tấn của Bồ-tát? Lược nêu có hai thứ: Một là dựa nơi tại gia. Hai là dựa theo xuất gia. Hai thứ này mỗi thứ có ba loại: Một là tinh tấn hoằng thệ. Hai là thâu giữ các pháp thiện.

Ba là tạo lợi ích cho chúng sinh.

Tinh tấn hoằng thệ: Nghĩa là Bồ-tát trước hết khởi phương tiện tinh tấn, tâm thường gắng sức, mặc áo giáp hoằng thệ, khởi niệm như vầy: Ta làm nhân duyên thoát khổ cho tất cả chúng sinh, đem trăm ngàn đại kiếp làm một ngày một đêm. Như vậy, số ức trăm ngàn đại kiếp ở trong địa ngục, cho đến khi thành Phật, thề không thoái chuyển, không chứng đắc Bồ-đề vô thượng, trọn không xả bỏ tinh tấn, huống gì là chỉ trong thời gian ngắn thọ nhận một ít khổ. Đó gọi là Tinh tấn hoằng thệ của Bồ-tát. Như vậy, giống với Bồ-tát hành tinh tấn hoằng thệ, khởi hiểu biết một ít, tin tưởng một ít tức có thể nuôi lớn vô lượng tánh siêng năng nơi phương tiện mở bày giác ngộ, huống gì là lại thành tựu tinh tấn hoằng thệ như vậy. Bồ-tát vì đạo quả Bồ-đề vô thượng nên tạo lợi ích cho chúng sinh, không do vì khó khăn khiến sinh tưởng thoái mất.

Tinh tấn thâu giữ các pháp thiện: Nghĩa là Bồ-tát lấy tinh tấn làm phương tiện để thành tựu bố thí Ba-la-mật, lấy tinh tấn làm phương tiện để thành tựu giới, nhẫn, thiền định, trí tuệ Ba-la-mật cũng như vậy. Tinh tấn này lược nêu có bảy thứ: Một là bất động. Tất cả các thứ phiền não vọng tưởng, dị luận, vô lượng các khổ đều không thể làm cho nghiêng động. Hai là kiên cố, chỉnh đốn phương tiện. Ba là đạt được vô lượng minh xứ, an trụ nơi chánh niệm. Bốn là phương tiện đầy đủ, đã đắc được nghĩa nơi đạo không điên đảo, tùy thuận đạt được. Năm là nghĩa chánh tinh tấn tạo lợi ích, chỗ sẽ được nghĩa, thành tựu nguyện. Sáu là sáng rõ, thường chuyên cần hành phương tiện. Bảy là lìa bỏ kiêu mạn, tinh tấn theo phương tiện, tâm không tự đề cao. Bồ-tát tu bảy thứ này, thâu giữ các pháp thiện, phương tiện tinh tấn, chóng hành đầy đủ các Ba-la-mật, đắc quả Chánh đẳng Chánh giác vô thượng. Tất cả Bồ-tát hành pháp thiện, đều từ tinh tấn này mà thành tựu, vì thế tinh tấn này là nhân tối thượng, tối thắng, không còn gì hơn. Do vậy trong kinh, Đức Thế Tôn đã dùng nhiều cách tán thán tinh tấn là nhân để đạt đạo quả Chánh đẳng Chánh giác vô thượng.

Bồ-tát hành tinh tấn, đem lại lợi ích cho chúng sinh có mười một thứ, như trong phẩm giới đã nói, ở đó nói giới, ở đây nói tinh tấn.

Thế nào là Nan tinh tấn của Bồ-tát? Lược nêu có ba thứ: Bồ-tát tinh tấn không gián đoạn, không có tưởng về y phục, thức ăn uống, tưởng về giường nằm, tọa cụ, tưởng thân mình, thường tu pháp thiện. Đó gọi là nan tinh tấn thứ nhất. Bồ-tát tinh tấn như vậy, cho đến xả thân thọ thân, luôn tu pháp thiện, không bỏ tinh tấn. Đó gọi là nan tinh tấn thứ hai. Bồ-tát này phân biệt bình đẳng, công đức đầy đủ, không nhanh không chậm, tâm không điên đảo, lấy nghĩa thành tựu tinh tấn tạo lợi ích. Đó gọi là nan tinh tấn thứ ba.

Lại nữa, lực của các tinh tấn khó hành nơi Bồ-tát này, nên biết đó là nhân thâu giữ đại bi và trí tuệ.

Thế nào là Nhất thiết môn tinh tấn của Bồ-tát? Lược nêu có bốn thứ: Một là lìa bỏ pháp nhiễm ô. Hai là sinh khởi pháp bạch tịnh. Ba là trừ sạch ba nghiệp. Bốn là trí tuệ tăng ích.

Lìa bỏ pháp nhiễm ô: Nghĩa là Bồ-tát tinh tấn lìa các phiền não, chưa khởi thì không cho khởi, khởi rồi thì khiến diệt.

Sinh khởi pháp bạch tịnh: Nghĩa là pháp thiện chưa sinh nên tạo phương tiện khiến sinh, pháp thiện sinh rồi tạo phương tiện khiến thêm rộng lớn.

Trừ sạch ba nghiệp: Nghĩa là Bồ-tát tinh tấn thì ba nghiệp thanh tịnh, đều có thể khéo thâu giữ nghiệp thân khẩu ý.

Trí tuệ tăng ích: Nghĩa là Bồ-tát tinh tấn được văn tuệ, tư tuệ, tu tuệ, tăng trưởng đầy đủ.

Thế nào là Thiện nhân tinh tấn của Bồ-tát? Lược nêu có năm thứ: Một là không có, không tạo tất cả phương tiện dục, không dừng nghỉ. Hai là không thuận theo bậc thấp. Chỗ đã khởi là bậc trung hoặc bậc thượng nên nuôi lớn tinh tấn. Ba là không biếng nhác, dũng mãnh luôn sáng tỏ, lâu dài không gián đoạn, theo phương tiện tinh tấn tâm không thoái mất, không dứt, không hoại. Bốn là tạo lợi ích không theo nghĩa điên đảo, khởi phương tiện thâu giữ. Năm là ân cần với phương tiện tinh tấn, nhanh chóng đạt đến đạo quả Bồ-đề vô thượng.

Thế nào là Nhất thiết hành tinh tấn của Bồ-tát? Nghĩa là sáu thứ, bảy thứ, hợp nói có mười ba thứ.

Sáu thứ là: Thường tinh tấn: Là thường tạo phương tiện. Tinh tấn tức thì: Là đạt đến phương tiện tột cùng. Dựa vào tinh tấn: Là nhân nơi sức của tinh tấn gốc. Phương tiện tinh tấn: Là suy nghĩ tìm cầu phương tiện thiện xảo. Bất động tinh tấn: Là gặp tất cả khổ đều không nghiêng động, cũng không hướng theo nghĩa khác. Tinh tấn không biết đủ: Là thắng tấn có hạn lượng thì không hoan hỷ. Bồ-tát thành tựu sáu thứ như vậy là nhất thiết hành tinh tấn, nghĩa là ân cần tinh tấn, có thể thực hiện kiên cố, đối với các pháp thiện không thể hủy hoại.

Lại có bảy thứ: Một là cùng với dục đều tinh tấn, ân cần mong muốn phát nguyện nuôi lớn Bồ-đề vô thượng. Hai là cùng đầy đủ tinh tấn. Tâm an trụ nơi đối với các phiền não nhiễm ô khác. Nơi các pháp thiện thì tâm cùng trụ. Ba là tinh tấn thắng tấn. Tâm an trụ đối với các phiền não khác, phiền não như trên, nên đoạn trừ các phiền não kia như cứu lửa cháy đầu. Bốn là cầu tinh tấn, là cầu đạt hết thảy minh xứ. Năm là học tinh tấn. Các pháp như thế, tùy theo chỗ ứng hợp ấy để khởi pháp tiếp pháp hướng (pháp tùy pháp hành). Sáu là tinh tấn tạo lợi ích cho chúng sinh, có mười một thứ, như trước đã nói. Bảy là tinh tấn tự tạo chánh phương tiện để bảo vệ, giữ gìn, nếu có thiếu sót thì như pháp sám hối. Đó gọi là bảy thứ. Mười ba thứ như thế, gọi là Nhất thiết hành tinh tấn của Bồ-tát.

Hai thứ tinh tấn là Trừ não tinh tấn và Đời này đời khác vui thích tinh tấn của Bồ-tát: Giống như trong Phẩm Nhẫn đã nói.

Thế nào là Thanh tịnh tinh tấn của Bồ-tát? Lược nêu có mười thứ: Một là tùy thuận. Hai là tu tập. Ba là chuyên chú. Bốn là khéo thâu giữ. Năm là thời đầy đủ. Sáu là phân biệt tướng đầy đủ. Bảy là không thoái chuyển. Tám là bất hoại. Chín là bình đẳng. Mười là chánh hồi hướng nơi đại Bồ-đề.

Bồ-tát này vì dứt trừ phiền não nên tùy chỗ ứng hợp, tu tập để đối trị. Như tham ái trói buộc thì tu quán bất tịnh, sân thì tu quán tâm từ, si thì quán duyên khởi. Giác quán (Tầm tứ) đảo loạn thì tu niệm an ban (Quán sổ tức), kiêu mạn thì tu quán phương tiện theo phân biệt giới. Những thứ như thế gọi là tinh tấn tùy thuận của Bồ-tát.

Bồ-tát này không phải thành tựu tinh tấn nơi nghiệp ban đầu. Nghĩa là tâm đã trụ nơi sự dạy bảo trao khuyên bảo tu tập phương tiện, theo phương tiện điều phục. Đó gọi là tinh tấn tu tập của Bồ-tát.

Bồ-tát này không hành tập tinh tấn theo sự dạy trao khuyên bảo, nhưng phương tiện trụ tâm là hành nghiệp đầu tiên. Bồ-tát này đối với phương tiện ấy, chuyên tinh nơi phương tiện, thường hành phương tiện, phương tiện nhanh chóng. Đó gọi là tinh tấn chuyên chú của Bồ-tát.

Bồ-tát này nhân nơi các thứ được tôn trọng, hoặc do sức của đa văn nên không thọ nhận điên đảo, tâm kia được an trụ trong phương tiện tinh tấn. Đó gọi là tinh tấn khéo thâu giữ.

Bồ-tát này không thọ nhận điên đảo như thế, khi dừng nghỉ thì tu chỉ, khi khởi động thì tu động, khi xả thì tu xả. Đó gọi là tinh tấn thời đầy đủ của Bồ-tát.

Bồ-tát này đối với tướng chỉ, cử, xả, trụ nơi Tam-muội khởi tướng, thường khéo quán sát, không phân biệt sai lầm. Đó gọi là tinh tấn phân biệt tướng đầy đủ của Bồ-tát.

Bồ-tát này nghe nói về đệ nhất thắng diệu, đệ nhất thâm diệu, nghe nói về vô lượng phương tiện tinh tấn không thể nghĩ bàn của Bồ-tát, tâm không tự khinh, cũng không khiếp nhược, không chỉ có được ít thắng tấn liền sinh tưởng biết đủ, nhưng luôn cầu tiến lên. Đó gọi là tinh tấn không thoái chuyển của Bồ-tát.

Bồ-tát này thường giữ gìn căn môn, ăn uống biết lượng, đầu đêm cuối đêm không ham ngủ nghỉ, theo phương tiện tinh tấn, tâm trụ chánh trí. Như vậy, những Tam-ma-bạt-đề đầy đủ tinh cần, thành tựu nghĩa tạo lợi ích chân chánh. Đó gọi là tinh tấn bất hoại của Bồ-tát.

Bồ-tát này tạo phương tiện tinh tấn, không nhanh không chậm, bình đẳng tu tập, tất cả phương tiện luôn bình đẳng đốn tu. Đó gọi là tinh tấn bình đẳng của Bồ-tát.

Bồ-tát này, tất cả phương tiện tinh tấn đã tạo đều hồi hướng về Bồ-đề vô thượng. Đó gọi là tinh tấn chánh hồi hướng của Bồ-tát.

Như vậy, từ Tự tánh tinh tấn cho đến Thanh tịnh tinh tấn, là quả Đại Bồ-đề sẽ chứng đắc, tức Bồ-tát nương vào tinh tấn ấy, hành đầy đủ Tinh tấn Ba-la-mật, chứng đắc đạo quả Chánh đẳng Chánh giác vô thượng.

********

XỨ PHƯƠNG TIỆN THỨ NHẤT

Phẩm thứ 13: THIỀN

Thế nào gọi là Thiền Ba-la-mật của Bồ-tát? Lược nêu có chín thứ: Một là Tự tánh thiền. Hai là Nhất thiết thiền. Ba là Nan thiền. Bốn là Nhất thiết môn thiền. Năm là Thiện nhân thiền. Sáu là Nhất thiết hành thiền. Bảy là Trừ não thiền. Tám là Đời này đời khác vui thích thiền. Chín là Thanh tịnh thiền.

Thế nào là Tự tánh thiền của Bồ-tát? Đối với Tạng Bồ-tát, nghe, suy nghĩ, trước là hành thiện thế gian xuất thế gian, nhất tâm an trụ.

Hoặc phần chỉ, hoặc phần quán, hoặc hai loại đồng như nhau, hoặc cùng kết hợp. Đó gọi là Tự tánh thiền.

Thế nào là nhất thiết thiền của Bồ-tát? Lược nêu có hai thứ: Một là thế gian. Hai là xuất thế gian. Tùy chỗ thích hợp, mỗi thứ đều có ba loại: Một là thiền hiện pháp lạc trụ. Hai là thiền xuất sinh công đức của Tam-muội. Ba là thiền tạo lợi ích cho chúng sinh.

Bồ-tát hành thiền định xa lìa tất cả vọng tưởng, thân tâm dừng nghỉ, tịch diệt bậc nhất, tự khởi tâm dứt, lìa bỏ tham đắm nơi vị và tất cả tướng. Đó gọi là thiền hiện pháp lạc trụ.

Bồ-tát hành thiền định, xuất sinh vô lượng vô biên các thứ Tammuội không thể nghĩ bàn đều thuộc về chủng tánh của mười lực. Các Tam-muội kia, hết thảy hàng Thanh văn, Phật-bích-chi đều không biết đến tên gọi, huống gì là có thể khởi và phát sinh. Các Tam-muội ấy có thể xuất sinh các công đức thắng diệu như nhị thừa giải thoát, trừ nhập, nhất thiết nhập, tuệ vô ngại, nguyện trí vô tránh. Đó gọi là thiền xuất sinh công đức Tam-muội của Bồ-tát.

Thiền tạo lợi ích cho chúng sinh có mười một thứ, như trước đã nói.

Bồ-tát nương vào thiền, đối với mọi việc làm của chúng sinh đều đem nghĩa lợi ích, đều cùng đồng sự để trừ các khổ. Như chỗ nên nói, biết ân báo ân, hộ trì các sự lo sợ, các nạn ưu não, đều có thể vì các chúng sinh để chỉ bày. Vật dụng sinh sống không đủ thì cung cấp những thứ cần dùng, như pháp cất chứa các điều thiện có thể tùy thuận, thấy công đức thật, hoan hỷ tán thán. Thấy người có lỗi, đem tâm từ điều phục. Dùng thần lực tạo sợ hãi, hoặc khiến cho hoan hỷ. Đó gọi là lược nói về nhất thiết thiền, hoàn toàn không gì hơn.

Thế nào là Nan thiền của Bồ-tát? Lược nêu có ba thứ. Bồ-tát từ lâu xa tu tập thiền định thắng diệu, đối với các Tam-muội tâm được tự tại. Do thương xót chúng sinh muốn khiến họ được thành tựu, nên bỏ thiền lạc bậc nhất, sinh nơi cõi dục. Đó gọi là Nan thiền thứ nhất của Bồ-tát. Bồ-tát nương vào thiền, sinh ra vô lượng các Tam-muội sâu xa không thể nghĩ bàn, vượt hơn tất cả hàng Thanh văn, Phậtbích-chi. Đó gọi là Nan thiền thứ hai của Bồ-tát. Bồ-tát nương dựa nơi thiền, chứng đắc đạo quả Bồ-đề vô thượng. Đó gọi là Nan thiền thứ ba của Bồ-tát.

Thế nào là Nhất thiết môn thiền của Bồ-tát? Lược nêu có bốn thứ: Một là thiền có giác có quán (có tầm có tứ). Hai là thiền kết hợp với hỷ. Ba là thiền kết hợp với lạc. Bốn là thiền kết hợp với xả.

Thế nào là Thiện nhân thiền của Bồ-tát? Lược nêu có năm thứ: Một là không tham đắm vị. Hai là cùng hành với tâm từ. Ba là cùng hành với tâm bi. Bốn là cùng hành với tâm hỷ. Năm là cùng hành với tâm xả.

Thế nào là Nhất thiết hành thiền của Bồ-tát? Đó là sáu thứ, bảy thứ, hợp nêu có mười ba thứ: Thiền thiện. Thiền vô ký hóa hóa. Thiền phần chỉ phần quán. Thiền tự lợi tha lợi. Thiền chánh niệm. Thiền xuất sinh lực thần thông công đức. Thiền duyên danh. Thiền duyên nghĩa. Thiền duyên tướng chỉ. Thiền duyên tướng cử. Thiền duyên tướng xả. Thiền hiện pháp lạc trụ. Thiền đệ nhất nghĩa. Đó gọi là mười ba thứ Nhất thiết hành thiền của Bồ-tát.

Thế nào là Trừ não thiền của Bồ-tát? Lược nêu có tám thứ: Một là Bồ-tát nhập định, trừ các khổ hoạn, các độc hại, như mưa đá, sương muối, bệnh nóng, bệnh quỷ, đó gọi là thiền dựa nơi chú thuật. Hai là Bồ-tát nhập định, có thể trừ các bệnh từ bốn đại dấy khởi, đó gọi là thiền trừ khổ não. Ba là Bồ-tát nhập định có thể phát khởi mưa cam lồ, có thể tiêu trừ tai nạn, cứu giúp đói khát, đó gọi là thiền tạo mây mưa. Bốn là Bồ-tát nhập định, cứu giúp các nạn sợ hãi, khiến tất cả hàng nhân, phi nhân ở dưới nước, trên đất đều lo sợ, đó gọi là thiền cùng độ. Năm là Bồ-tát nhập định, có thể đem các thức ăn uống tạo lợi ích cho chúng sinh đói khát ở chốn đồng trống vắng, đó gọi là thiền tạo lợi ích. Sáu là Bồ-tát nhập định, có thể đem của cải vật dụng điều phục chúng sinh, đó gọi là thiền điều phục. Bảy là Bồ-tát nhập định, biết rõ các thứ say mê nơi mười phương, nhằm mở bày tạo giác ngộ, đó gọi là thiền khai giác. Tám là Bồ-tát nhập định, chúng sinh tạo tác đều khiến thành tựu, đó gọi là thiền cùng tạo.

Thế nào là Đời này đời khác vui thích thiền của Bồ-tát? Lược nêu có chín thứ: Một là thiền thị hiện thần túc điều phục chúng sinh. Hai là thiền thị hiện tùy thuận thuyết giảng điều phục chúng sinh. Ba là thiền biến hiện những điều răn dạy điều phục chúng sinh. Bốn là thiền vì chúng sinh ác thị hiện nẻo ác. Năm là thiền vì chúng sinh mất biện tài, dùng biện tài tạo lợi ích. Sáu là thiền vì các chúng sinh mất suy niệm, dùng suy niệm tạo lợi ích. Bảy là thiền tạo luận không điên đảo, vi diệu, tán thán Ma-đắc-lặc-già, khiến chánh pháp trụ lâu ở đời. Tám là thiền đối với các thứ kỹ thuật của thế gian có nghĩa tạo lợi ích thâu giữ chúng sinh, đó là thư số, toán tính, các phương pháp mưu sinh v.v…. Chín là thiền phóng hào quang tạm dứt các khổ nơi nẻo ác.

Thế nào là Thanh tịnh thiền của Bồ-tát? Lược nêu có mười thứ: Một là thiền tịnh không đắm vị không nhiễm ô của thế gian thanh tịnh. Hai là thiền tịnh xuất thế gian thanh tịnh. Ba là thiền tịnh của phương tiện thanh tịnh. Bốn là thiền tịnh đạt được căn bản thanh tịnh. Năm là thiền tịnh đạt được căn bản thanh tịnh thắng tấn hơn hết. Sáu là thiền tịnh đạt lực nhập trụ khởi thanh tịnh. Bảy là thiền tịnh đạt lực xả rồi lại nhập thanh tịnh. Tám là thiền tịnh đạt lực thần thông tạo tác thanh tịnh. Chín là thiền tịnh lìa tất cả kiến chấp, đạt thanh tịnh. Mười là thiền tịnh đoạn trừ chướng phiền não, chướng trí đạt thanh tịnh. Bồ-tát hành vô lượng thiền như vậy nên đạt được quả đại Bồ-đề. Bồ-tát dựa vào đấy để chứng đắc đạo quả Chánh đẳng Chánh giác vô thượng.

*********

XỨ PHƯƠNG TIỆN THỨ NHẤT

Phẩm thứ 14: TUỆ

Thế nào là Trí tuệ Ba-la-mật của Bồ-tát? Lược nêu có chín thứ: Một là Tự tánh tuệ. Hai là Nhất thiết tuệ. Ba là Nan tuệ. Bốn là Nhất thiết môn tuệ. Năm là Thiện nhân tuệ. Sáu là Nhất thiết hành tuệ. Bảy là Trừ não tuệ. Tám là Đời này đời khác vui thích tuệ. Chín là Thanh tịnh tuệ.

Thế nào là Tự tánh tuệ của Bồ-tát? Nhập nơi tất cả cảnh giới của đối tượng nhận biết, tùy theo cảnh giới nhập rồi, chọn lựa như pháp, quán duyên năm minh xứ, là nội minh, nhân minh, thanh minh, y phương minh, thế công xảo minh. Đó gọi là Tự tánh tuệ.

Thế nào là Nhất thiết tuệ của Bồ-tát? Lược nêu có hai thứ: Một là thế gian. Hai là xuất thế gian. Thế gian, xuất thế gian mỗi thứ đều có ba loại: Một là đối tượng nhận biết chân thật, tùy theo sự hiểu biết để phân biệt. Hai là khéo thâu giữ năm minh xứ và ba tụ pháp. Ba là những việc làm tạo lợi ích cho chúng sinh.

Bồ-tát dùng vô ngôn nói pháp vô ngã để hiểu rõ về chân đế. Hiểu rồi, đối với xứ tịch diệt bậc nhất của trí tuệ trên hết, buộc niệm an trụ, lìa các vọng tưởng, trừ bỏ hư giả, nhập quán bình đẳng nơi tổng tướng lớn, kiến lập và hủy báng hai thứ ấy đều xa lìa hội nhập trung đạo. Đó gọi là tuệ tùy theo sự hiểu biết để phân biệt.

Khéo thâu giữ năm minh xứ như trong Phẩm Lực Chủng Tánh đã nói rộng. Ba tụ pháp là tụ pháp có nghĩa tạo lợi ích. tụ pháp không phải có nghĩa tạo lợi ích. Tụ pháp không phải có nghĩa tạo lợi ích, không phải không có nghĩa tạo lợi ích. Tám xứ như vậy, trí tuệ khéo thâu giữ, các thứ đại tuệ vô thượng đầy đủ, chứng đắc đạo quả Chánh đẳng Chánh giác vô thượng.

Những việc làm tạo lợi ích cho chúng sinh có mười một loại, như trước đã nói. Đối với mỗi mỗi xứ kia, trí tuệ tạo phương tiện điều phục chúng sinh.

Thế nào là Nan tuệ của Bồ-tát? Lược nêu có ba thứ: Nhận biết về pháp vô ngã thâm diệu, đó gọi là Nan tuệ thứ nhất. Tạo phương tiện để điều phục chúng sinh, đó gọi là Nan tuệ thứ hai. Tất cả đối tượng nhận biết đều không có chướng ngại, đó gọi là nan tuệ thứ ba.

Thế nào là Nhất thiết môn tuệ của Bồ-tát? Lược nêu có bốn thứ: Một là tuệ học tạng Thanh văn. Hai là tuệ học tạng Bồ-tát. Ba là văn tuệ. Bốn là tư tuệ. Bồ-tát suy nghĩ về việc làm tùy thuận, lìa các chướng ngại, là tuệ thuộc về lực tư duy. Vô lượng tuệ nơi địa chánh định là thuộc về lực tu tập.

Thế nào là Thiện nhân tuệ của Bồ-tát? Lược nêu có năm thứ: Một là tuệ được nghe chánh pháp. Hai là tuệ kết hợp nội chánh tư duy. Ba là tuệ kết hợp phương tiện tự lợi lợi tha. Bốn là tuệ đối với pháp tướng của các pháp quyết định trụ nơi không điên đảo. Năm là tuệ lìa phiền não.

Lại có năm thứ: Một là vi tế, như nhập nơi cảnh giới của tánh. Hai là rộng khắp, như nhập nơi cảnh giới của tánh. Ba là các thứ trí tuệ vốn được cùng sinh. Bốn là chư Phật, Như Lai và Bồ-tát đại địa đã thuyết giảng về pháp nghĩa, đều có thể thọ trì. Năm là tuệ đạt được địa tâm tịnh cho đến tuệ thọ nhận thuộc về địa cứu cánh.

Thế nào là Nhất thiết hành tuệ của Bồ-tát? Đó là sáu thứ, bảy thứ, hợp nêu có mười ba thứ. Đối với bốn chân đế đạt được. Khổ trí, tập trí, diệt trí, đạo trí, cứu cánh tận trí, vô sinh trí, đó gọi là sáu thứ. Bảy thứ là: Pháp trí, tỷ trí, đẳng trí, thần thông trí, tướng trí, mười lực phương tiện trí, bốn sự cụ túc trí.

Thế nào là Trừ não tuệ của Bồ-tát? Lược nêu có tám thứ: Một là nhận biết về kinh pháp nên gọi là pháp vô ngại. Hai là nhận biết về pháp tướng nên gọi là nghĩa vô ngại. Ba là nhận biết về tên các pháp nên gọi là từ vô ngại. Bốn là nhận biết về các pháp với đủ loại cú nghĩa, nên gọi là lạc thuyết vô ngại. Năm là trí hàng phục tất cả dị luận. Sáu là trí kiến lập tất cả chánh luận. Bảy là trí có thể tạo dựng sản nghiệp, tăng trưởng tiền tài. Tám là trí khéo hiểu biết về vương pháp, quyết đoán về việc đời.

Thế nào là Đời này đời khác đều vui thích tuệ của Bồ-tát? Lược nêu có chín thứ: Trí đối với nội minh xứ, khéo kiến lập thanh tịnh. Trí đối với nhân minh, thanh minh, y phương minh, thế công xảo minh, đều khéo kiến lập thanh tịnh. Như vậy Bồ-tát khéo dựa nơi năm minh thanh tịnh để điều phục chúng sinh ngu si, phóng dật, biếng nhác, khiến họ thuận nơi nẻo chánh. Theo thứ lớp hiển bày việc dạy trao soi sáng khiến hoan hỷ.

Thế nào là Thanh tịnh tuệ của Bồ-tát? Lược nêu có mười thứ: Nghĩa chân thật có hai thứ, cho đến nghĩa chân thật của tánh như tánh. Nghĩa thâu nhận lưu chuyển có hai thứ, là chánh nhân và quả. Nghĩa thâu nhận giữ lấy có hai thứ, là điên đảo, không điên đảo, đều nhận biết như thật. Nghĩa phương tiện có hai thứ, là tất cả nên làm không nên làm, đều nhận biết như thật. Nghĩa cứu cánh có hai thứ là cấu uế và thanh tịnh, đều nhận biết như thật. Như thế là năm loại gồm mười thứ, tuệ tịnh phân biệt, nên biết là thanh tịnh bậc nhất. Tuệ vô thượng của Bồ-tát như vậy là khéo quyết định, tức đắc quả Đại Bồ-đề. Bồ-tát nương vào đấy, hành đầy đủ trí tuệ Ba-la-mật, chứng đắc Chánh đẳng Chánh giác vô thượng.

Sáu thứ Ba-la-mật này, rất nhiều nơi trong các kinh Đức Thế Tôn đã phân biệt giảng nói. Tôi nay lược nêu, nên tạo sự nhận biết này: Trong kinh Đức Như Lai đã nói Bố thí Ba-la-mật cho đến Trí tuệ Ba-la-mật, phân biệt từ Tự tánh bố thí Ba-la-mật cho đến Thanh tịnh bố thí Ba-la-mật gồm thâu, tùy theo chỗ ứng hợp với pháp kia. Như vậy, Giới Ba-la-mật cho đến Trí tuệ Ba-la-mật gồm thâu, tùy theo chỗ ứng hợp với pháp kia, nên biết cũng như vậy. Khi Đức Như Lai còn làm Bồ-tát, ở trong vô lượng đời luôn tương ưng khổ hạnh, tất cả bố thí Ba-la-mật đều tương ưng, nên biết cho đến trí tuệ Bala-mật cũng tương ưng. Hoặc là gồm thâu một, hoặc gồm thâu hai, hoặc gồm thâu ba, bốn, năm, hoặc gồm thâu cả sáu Ba-la-mật, nên biết sáu Ba-la-mật này đã phát khởi đạo quả Chánh đẳng Chánh giác vô thượng. Bồ-tát đạt pháp đại thanh tịnh như biển lớn thanh tịnh, là nhân của hết thảy chủng loại chánh pháp, hết thảy chúng sinh, là châu báu vô cùng quý giá. Như vậy, do vô lượng các thứ công đức trí tuệ đầy đủ, nên chứng đắc đạo quả Chánh đẳng Chánh giác vô thượng, rốt ráo không gì hơn.

HẾT – QUYỂN 6

Trang: 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10