KINH BỒ TÁT ĐỊA TRÌ
Hán dịch: Đời Bắc Lương, Đại sư Đàm Vô Sấm
Việt dịch: Cư sĩ Nguyên Huệ
QUYỂN 4
XỨ PHƯƠNG TIỆN THỨ NHẤT
Phẩm thứ 9: THÍ
Lại nữa, Bồ-tát thứ lớp hành trì đầy đủ sáu Ba-la-mật, chứng đắc Chánh đẳng Chánh giác vô thượng, đó là bố thí Ba-la-mật, trì giới Ba-la-mật, nhẫn nhục Ba-la-mật, tinh tấn Ba-la-mật, thiền định Ba-la-mật, và trí tuệ Ba-la-mật.
Thế nào là Bố thí Ba-la-mật của Bồ-tát? Lược nêu có chín thứ: Một là Tự tánh thí. Hai là Nhất thiết thí. Ba là Nan thí. Bốn là Nhất thiết môn thí. Năm là Thiện nhân thí. Sáu là Nhất thiết hành thí. Bảy là Trừ não thí. Tám là Đời này đời khác vui thí. Chín là Thanh tịnh thí.
Tự tánh thí: Nghĩa là Bồ-tát luôn kết hợp tư nguyện cùng không tham, không tiếc của cải và thân mạng, khởi nghiệp thân khẩu, xả bỏ của cải để bố thí, xả bỏ tài sản như pháp, trụ nơi xứ luật nghi, thấy quả đời vị lai, đem nghĩa như vậy thí cho chúng sinh. Đó gọi là tự tánh thí.
Nhất thiết thí: Lược nêu có hai thứ vật bố thí: Một là nội vật. Hai là ngoại vật. Bồ-tát xả bỏ thân mạng, đó gọi là nội thí. Nếu Bồtát có được thức ăn nôn ra cho chúng sinh, ăn rồi nôn ra để bố thí, đó gọi là nội ngoại thí. Trừ những thứ như trên đã nói, các thí còn lại gọi là ngoại thí.
Nội thí của Bồ-tát lại có hai thứ: Một là theo chỗ mong muốn tạo tác, tha lực tự tại, xả thân bố thí. Ví như có người vì sự sống nên lệ thuộc nơi người, làm kẻ giúp việc cho người khác. Bồ-tát như vậy, không vì lợi dưỡng, chỉ vì Bồ-đề vô thượng, vì tạo an lạc cho chúng sinh, vì hành đầy đủ bố thí Ba-la-mật, nên theo chỗ mong muốn tạo tác, tha lực tự tại, xả thân bố thí. Hai là tùy theo chỗ người khác cần, các chi phần như đầu mắt, tay chân, các thứ máu thịt, gân xương, cho đến tủy não, theo sự mong cầu của người xin tất cả đều thí cho.
Ngoại thí của Bồ-tát lại có hai thứ: Một là theo sự cầu xin của kẻ kia khiến thọ dụng an vui đầy đủ, Bồ-tát tức hoan hỷ ban cho. Hai là để phụng sự kẻ cầu xin nên tâm xả tất cả, thí cho tất cả.
Bồ-tát đối với vật nội ngoại đều không có tưởng sai khác, bình đẳng bố thí tất cả, hoặc có khi thí, hoặc có khi không thí. Nếu đối với chúng sinh vui vẻ nhưng không an ổn, không vui và không an, thì không thí. Nếu đối với chúng sinh an ổn nhưng không vui vẻ, cũng an ổn, cũng vui vẻ, thì đều thí. Như thế là lược nói về trường hợp nên thí, không nên thí, tiếp theo sẽ nói rộng. Nếu Bồ-tát bố thí khiến người khác thọ khổ, hoặc dẫn đến bức bách, hoặc bị xâm phạm, khinh khi cùng cầu phi pháp, tự lực tha lực đều không theo chỗ mong muốn. Bồ-tát luôn vì chúng sinh, thà tự xả bỏ trăm ngàn thân mạng, chứ không thuận theo sự mong muốn kia khiến họ phải chịu bức bách, tàn hại, xâm phạm, dối lừa. Bồ-tát tâm tịnh, lúc tu hành bố thí tạo lợi ích cho vô lượng các chúng sinh, nếu có kẻ cầu xin về thân thể, đầu, mắt, các chi phần thì không thí cho. Vì sao? Vì chẳng phải là lúc Bồ-tát hành tịnh thí, khởi niệm: Đây là nên cho, đây là không nên cho, tâm sinh thoái kém, thế nên Bồ-tát dùng tâm thanh tịnh, không xả bỏ hiện tiền, vì lợi ích cho chúng sinh nên xả thân bố thí, tuy không xả thân nhưng cũng không trái tâm tịnh. Nếu Ma thiên kia và những kẻ do ma sai khiến, muốn hành khủng bố nên cầu xin các phần thân, thì không thí cho, vì không muốn họ mắc phải tội lớn. Nếu có chúng sinh, hoặc cuồng hoặc loạn, cầu xin phần thân, Bồ-tát cũng không vì kẻ ấy mà xả thân mạng, vì tâm họ không tự trụ, vì tâm não loạn, do tâm không tự tại. Trái với các thứ trên nếu đến cầu xin, Bồtát nên tùy theo kẻ đó mong muốn, xả bỏ thân mạng để thí. Đó gọi là Bồ-tát đối với nội vật nên thí không nên thí.
Bồ-tát ngoại không thí: Nghĩa là nếu có chúng sinh, cầu xin các thứ như chất độc lửa, đao, rượu, vì muốn tự hại mình, hoặc muốn hại người khác, thì không thí cho. Nếu để tự giữ mình, hoặc để thâu giữ người khác, thì sẽ thí cho. Hoặc là tài sản của người khác, trước không đồng ý, thì không dùng để bố thí cho người. Bồtát không làm môi giới đem đây trao cho kia. Các thức ăn uống có trùng bọ đều không đem cho. Nếu có chúng sinh, vì muốn tạo các sự việc vui đùa vô nghĩa không lợi ích, lại đến cầu xin, thì Bồ-tát không thí cho. Vì sao? Vì nếu thí cho, đối với Bồ-tát tuy có ít hoan hỷ, nhưng người cầu xin lại khởi nhiều hành ác, khi thân hoại mạng chung sẽ rơi vào đường ác. Nếu vật dụng tạo vui thích, không rơi vào nẻo ác, không khởi căn thiện, nhưng khiến cho chúng sinh nhân đấy được thành thục để thâu giữ, như thế thì nên cho. Những gì nên thí cho, những gì không nên thí cho? Đó là tạo các việc săn bắt, sát sinh, tham chấp rất lớn, tạo phương tiện lớn giết hại nhiều chúng sinh, những điều như vậy Bồ-tát không làm, cũng không dạy bảo họ làm. Giết dê tế trời, cũng không thí cho. Người não hại chúng sinh đến cầu xin nơi chốn có nhiều chúng sinh ở dưới nước hay trên đất liền, thảy đều không thí cho. Muốn học làm các vật dụng như lờ đó, lưới giăng lưới cuốn v.v… để não hại chúng sinh ở thế gian, cũng không thí cho. Hoặc mắng, hoặc giết, hoặc trói, hoặc phạt, Bồ-tát cũng không tự làm, cũng không sai khiến người khác làm. Nếu là oán gia, hoặc là con của oán gia, đều không thí cho. Nói tóm lược, tất cả các thứ vật dụng tạo vui thích nhưng khiến chúng sinh bị bức bách đều không thí cho.
Hoặc lại các thứ như voi, ngựa, xe kiệu, y phục trang nghiêm, thức ăn uống ngon đủ, hành tập ca múa với vô số các vật dụng, hương hoa xoa thân, đồ quý trang sức nơi thân, vườn rừng, lầu gác, nhà cửa, nam nữ, các thứ kỹ thuật, xứ nghiệp công xảo, như vậy tất cả các vật dụng tạo sự vui thích, nhưng vì nhân duyên tin ưa nên đến cầu xin, tất cả đều thí cho. Nếu chúng sinh kia không tự biết hạn lượng, hoặc không phải vì bệnh nhưng cầu xin quá nhiều các thức ăn uống thì không thí cho. Nếu đã được ăn uống no đủ, tánh tham muốn được nữa, thì cũng không nên thí. Nếu có chúng sinh không thể chịu đựng được các sự ưu não, muốn tự sát, ăn đồ độc, gieo mình vào núi đá, để làm những việc như vậy nên đến cầu xin, Bồ-tát đều không thí cho. Nếu Bồ-tát làm vua, thống lãnh nhiều nước, không đem vợ con của người khác thí cho, trừ việc thu thuế trong dân chúng nơi các làng xóm thành ấp thuộc về mình, thì lấy ban cho. Bồ-tát thương yêu vợ con, người ăn kẻ ở, nếu khi thí cho người khác, trước phải dùng lời dịu dàng, phương tiện mở bày giải thích, nếu họ không ưa thích thì không thí, nếu ưa thích thì tùy theo chỗ thích hợp để thí cho. Nếu có các loại tri thức ác, người ác, quỷ ác, những hạng như vậy đến cầu xin, Bồ-tát thảy đều không thí cho, cũng không thí cho những kẻ kia khiến làm nô tỳ. Nếu có người ác đến cầu ngôi vua, Bồ-tát tức không ban cho. Hoặc người ác này trước đã làm vua, Bồ-tát có uy lực hãy còn phế bỏ khiến thoái lui huống hồ là nay lại thí cho. Cha mẹ, vợ con, nô tỳ, cùng của cải của họ, không nên đem cho người. Nếu do nơi bố thí khiến cha mẹ lo buồn, vợ con tôi tớ nhân đó khổ não, những sự bố thí như vậy, Bồ-tát không làm. Của cải phi pháp không đem thí cho người, phàm vật bố thí phải thanh tịnh như pháp, không bức ép, mắng trách, lấy của cải nơi người khác để bố thí, không phạm giới Phật dạy để hành bố thí.
Bồ-tát đối với tất cả chúng sinh, đem tâm bình đẳng bố thí, tạo tưởng về ruộng phước, cũng không phân biệt kẻ oán, người thân, kẻ không oán không thân, tạo công đức hay gây tội lỗi, là khổ, là vui, là hạng thượng, trung, hạ.
Bồ-tát không theo chỗ cầu xin, chấp nhận rồi, sau đem thí cho một ít, cũng không trước đã hứa thí cho vật tốt, sau thí cho vật thô xấu. Nếu thí cho vật tốt, tâm vẫn an vui, không hận không loạn. Bồtát thí cho rồi không nên tự khen ngợi là ta đối với ông có ân huệ rộng lớn. Nếu thí cho người thấp kém, không khởi tưởng khinh khi, huống chi mình lại có đức của bậc đáng cung kính. Nếu có chúng sinh trụ nơi các hành ác, trạo cử, hủy giới, mắng nhiếc, sân hận, cũng không sinh tâm bực bội hối hận vì đã thí cho, vì mới ở chỗ kia khởi tâm thương xót. Không đem tà kiến để hành bố thí. Đó là đại hội sát sinh cầu pháp. Không vì hội vui mừng hy hữu mà hành bố thí. Không vì tất cả phần hạnh thanh tịnh để hành bố thí. Cầu lìa dục thế gian, xuất thế gian thanh tịnh, trừ khi vì phương tiện thanh tịnh mà hành bố thí. Không cầu quả báo mà hành bố thí. Tất cả bố thí đều đem hồi hướng về đạo quả Bồ-đề vô thượng. Bồ-tát tự nhận biết, tất cả nhân duyên của các loại thí sẽ sinh tất cả loại quả báo như thật. Không do nơi người khác mà hành bố thí. Đó là thí thức ăn thì được sức lực, thí y phục thì được sắc, thí xe cộ thì được an vui, thí đèn thì được mắt sáng. Tất cả như thế phải nên nói rộng.
Bồ-tát cũng không phải do sợ nghèo khổ nên hành bố thí, chỉ do tâm từ bi nên hành bố thí. Bồ-tát cũng không đem thức ăn không đúng như pháp để bố thí cho người đến cầu xin. Đó là bố thí cho người xuất gia thức ăn uống dư thừa, các thứ thức ăn bị uế tạp v.v… Không nói, không biết về cơm và cơm lúa mạch. Pháp nên lìa bỏ, nghĩa là không ăn hành, những thứ có lẫn lộn hành, hành bị ô uế. Như thế cũng không ăn thịt, không uống rượu, các thứ nước có pha rượu, rượu bị ô uế. Như hành nghiệp như pháp hòa hợp, Bồ-tát đem thí cho người, tất cả những sự việc như vậy, nếu không như pháp bố thí thì không đem thí cho người. Bồ-tát không khiến cho người cầu xin luôn luôn lui tới sinh phiền não vì trở ngại, sau đó mới thí. Bồtát không vì được dua nịnh để hành bố thí. Đó là hoặc vua, đại thần, trưởng giả, cư sĩ, những vị đàn-việt này biết mình đã thí rồi, chắc chắn phải cung kính cúng dường mình. Không đòi hỏi kẻ khác làm người sai khiến mới bố thí. Có ít vật hãy còn bố thí, huống gì là được nhiều của cải. Không do bố thí để khởi tâm tham đắm vật của người khác, vì thế sinh hoạn nạn đến nỗi bị suy bại hoại diệt. Không vì bố thí khiến người xa lìa thành ấp. Tức là dùng bố thí để thâu giữ khiến kẻ kia lệ thuộc mình. Bồ-tát trí tuệ, tinh tấn không dừng, có khả năng thực hiện đầy đủ lời tự thệ nguyện trang nghiêm, trước tự hành bố thí, sau đó dạy người khác, không tự mình biếng trễ mà dạy người hành thí. Đối với tất cả đại hội trì giới, phạm giới, từ trên đến dưới lần lượt bình đẳng bố thí. Bồ-tát được của cải nhiều hay ít tùy theo đó mà xả thí, không đợi dồn chứa sau đó mới hành thí, không vì sợ người nên hành bố thí. Nghĩa là hoặc sân giận, hoặc đánh đập, hoặc trách mắng, hoặc chê bai, hoặc trói giết, đuổi đi, không sợ những thứ như vậy nên hành bố thí. Bồ-tát lúc sắp bố thí tâm ý vui vẻ, khi bố thí thì hoan hỷ, bố thí xong thì không hối hận, không đem những vật hư giả, tương tợ với ma ni, chân châu, kha bối, ngọc thạch, lưu ly, san hô để lừa gạt người.
Bồ-tát đối với tất cả của cải vật dụng mình có được, khi mới có nên phát tâm xả thí cho tất cả chúng sinh, về sau có người đến cầu xin vật thì Bồ-tát bố thí đúng lúc, chẳng phải là không đúng lúc bố thí, mình và người đều tịnh thí, chẳng phải là không thanh tịnh, thí như oai nghi, chẳng phải là không oai nghi, tâm quyết định bố thí, chẳng phải là tâm không quyết định. Thấy người đến xin trọn không cười đùa, cũng không khinh chê, cũng không bực bội, trước nói lời khen ngợi, sau đó thí cho. Khi cầu xin thích hợp không nên gây trở ngại. Nếu kẻ kia không cầu xin thì mở lòng tự cho. Hoặc kẻ kia tự đến thọ nhận thì tùy ý thí theo chỗ họ mong muốn.
Bồ-tát không đem trí xấu ác để hành bố thí, luôn đem trí thiện tu hành nghiệp thí.
Trí tuệ thí: Nghĩa là Bồ-tát tự lượng tài vật nhiều ít, theo chỗ thích hợp của kẻ cầu xin kia để hành tuệ thí. Thấy người đến xin liền khởi niệm: Người đến cầu xin có hai hạng người: Một là người giàu sang không phải người nghèo hèn, cũng không phải là người cô độc không chốn nương dựa. Hai là người nghèo khổ, cô độc thấp kém. Nếu ta nhiều tài sản, thì sẽ giúp cho các kẻ kia đầy đủ, nếu tài sản ít thì trước nên chu cấp cho người nghèo khổ thấp kém không nơi nương dựa. Khởi niệm rồi, như niệm hành thí. Đối với người giàu sang không đầy đủ như ý của họ, phải hết lòng nói lời nhận lỗi, xin nhân giả chớ sinh tâm giận.
Bồ-tát nếu thấy chúng sinh tham lam keo kiệt có tài sản vô lượng, tự rất quý thân nhưng không dám ăn mặc, tức nên đến chỗ ở của kẻ kia cùng làm thân hữu, cùng khiến cho kẻ ấy đồng ý để nói: Ông vì quá tham tiếc nên không thể bố thí. Nhà tôi hiện có vô lượng tài sản, muốn hành trì đầy đủ bố thí Ba-la-mật, nên vì khắp tất cả chúng sinh đến cầu xin để bố thí. Như có chúng sinh đến cầu xin ở ông, ông nên tới nhà tôi lấy của cải sẵn có để bố thí, chớ khiến họ trở về tay không. Nếu ông không tự đến được thì có thể sai người đến, khi tôi bố thí, ông nên tùy hỷ. Người kia nghe rồi tâm thật vui mừng, đối với mình không hao tổn mà người kia nhận được lợi ích. Do cùng với Bồ-tát đồng gần gũi thân ái, người kia nay tuy chưa thể tức thời hành thí, nhưng đã gieo trồng hạt giống xa lìa tham lam keo kiệt nơi đời sau, theo đó lần lượt tu tập, tự nhận biết là gốc. Bồ-tát dùng phương tiện thiện xảo dẫn dạy khiến bố thí một ít, nương vào hạng vô tham bậc hạ chỉ dạy khiến đến bậc trung, nương vào bậc trung chỉ dạy khiến đến bậc thượng.
Lại nữa, Bồ-tát nếu đối với Hòa thượng, A-xà-lê, hoặc đệ tử ở chung, đệ tử cận trụ tịnh tu phạm hạnh, tánh thọ tham lam keo kiệt, hoặc không tham lam keo kiệt, nhưng tài vật không đủ để hỗ trợ cho tâm thí. Bồ-tát đem tài vật của mình hướng đến Phật, Pháp, Tăng, nhằm bố thí tạo phước, xả bỏ, đem cho người kia, khiến họ tạo tác còn tự mình không làm. Bồ-tát như vậy phước đức càng tăng, khiến người tham lam keo kiệt hàng phục được các phiền não. Người ưa thích pháp ấy cũng đầy đủ theo nguyện. Như vậy là đã thâu giữ, thành thục chúng sinh.
Lại nữa, Bồ-tát thấy người kia đi đến, có tướng cầu xin, nhận biết tâm của họ như vậy rồi, không chờ phát lời nhưng tùy theo người kia cần gì, bố thí cho họ được đầy đủ.
Hoặc có khách buôn vì tánh giả trá muốn làm việc lừa dối. Bồtát nhận biết rồi hãy còn che giấu lỗi kia không khiến cho người khác biết, huống là nói thẳng với kẻ ấy. Ý nguyện được đầy đủ khiến kẻ ấy không xấu hổ, vô cùng vui mừng, không còn sợ hãi, hoan hỷ mà đi. (Đoạn này đã theo bản Hán dịch nơi Luận Du Già Sư Địa “trang 508 A” để dịch – ND).
Nếu Bồ-tát bị người buôn bán kia lừa dối, trước không nhận biết nên bị lừa, về sau mới nhận biết, cũng không quở trách kẻ kia, không khiến kẻ kia nhớ nghĩ, vì không muốn khiến kẻ kia phạm tội không cho mà lấy, nên chỉ khởi tâm tùy hỷ. Những loại xả vật bố thí như thế, gọi là Bồ-tát dùng trí tuệ bố thí.
Lại nữa, Bồ-tát khi không có của cải để bố thí, nếu trước đã tạo được các thứ công xảo ở thế gian, hoặc với sự nghiệp hiện tại, dùng ít phương tiện để được nhiều tài lợi, rồi đem bố thí cho chúng sinh. Nếu lại vì người khác thuyết giảng pháp trang nghiêm, thuyết pháp tốt đẹp, thuyết pháp do tâm từ, thì người nghèo khổ nghe pháp còn hoan hỷ cúng dường, huống gì là người giàu có an vui. Người keo kiệt còn không tham tiếc, huống gì là người luôn ưa thích bố thí. Nếu có những trưởng giả, cư sĩ tâm tín, thường tập hành bố thí, của cải nhiều vô lượng, người cầu xin tìm đến thì khiến họ có được lợi ích. Việc hành thí, việc tạo công đức của các vị kia, tự thân Bồ-tát đến giúp đỡ, có thể đảm nhận đầy đủ công việc với tâm tín, nghiệp thân khẩu ý thanh tịnh. Tùy theo sức mình, Bồ-tát có thể giúp các vị ấy hoàn thành sự nghiệp, khiến không gặp trở ngại. Có nhiều người cầu xin, nếu thiếu sự lực, thì việc bố thí khó thành. Nếu tùy theo bè nhóm, hoặc hành phi pháp, mất chánh niệm, những thứ như vậy, nếu Bồ-tát không có tài sản vật dụng, thì dùng trí tuệ dẫn dắt, cho đến chưa được tâm tịnh. Bồ-tát tâm tịnh thì không rơi vào nẻo ác, đời đời được tài vật không cùng tận.
Lại nữa, Bồ-tát biết kẻ tà kiến kia đến cầu xin pháp đoản thì không trao pháp cho kẻ đó, cũng không cho kinh quyển. Nếu người có tánh tham tài, nhằm mua bán kinh sách thì cũng không thí cho. Hoặc được kinh sách ẩn giấu không hiện bày, cũng không thí cho. Nếu người kia không hiểu biết về nghĩa thì không nên thí. Còn như người ấy hiểu nghĩa trong kinh, như Bồ-tát đã tự hiểu nghĩa, tức liền đem kinh tùy theo sở thích của họ để thí. Nếu chưa hiểu nghĩa, tự phải tu học. Nếu biết người kia có kinh như vậy, thì chỉ bày cho rõ nghĩa, hoặc lần lượt cho thêm sách đọc. Nếu không chỉ bày được lại không có sách, Bồ-tát phải tự quán tâm để thấy, hoặc do sự keo kiệt về pháp đã trói buộc tâm nên không thể bố thí. Hoặc còn có điều gì nên không bố thí cho kẻ kia? Tự quán như vậy, nếu còn có chút ít keo kiệt về pháp, nên đem ngay kinh sách thí cho. Vì là pháp thí, ta nên đem pháp bố thí, thà đời này ngu si, câm điếc để trừ phiền não cũng hãy nên bố thí, huống chi đó là phương tiện của trí tuệ cho vị lai. Khi quán như vậy, tức không còn một chút keo kiệt nào về pháp. Bồ-tát phải nên tự học: Ta vì đoạn trừ phiền não nên tu hành pháp thí. Vì nhằm đạt đầy đủ phương tiện của trí tuệ nên tu hành pháp thí. Vì luôn nhớ nghĩ đến chúng sinh nên tu hành pháp thí. Bồ-tát tự thấy bên trong không còn phiền não, thấy kẻ kia không cần bố thí, hiện tại được trí tuệ, ở đời vị lai tăng chuyển vô lượng, chẳng phải do thí cho kẻ kia nên được công đức như vậy. Người thí kinh pháp, ở đời vị lai được ít pháp lợi, không bằng tự học trí tuệ khai tỏ, nay tuy không bố thí tất cũng sẽ tạo an lạc cho tất cả chúng sinh. Bố thí trí tuệ cho họ, nên vì tất cả, nay không thí cho, không vì một người để cho họ kinh quyển. Biết như thật rồi, thì việc không thí cho kẻ kia không có tội lỗi, cũng không hối hận, vì không vượt qua giới cấm của Bồ-tát đã thọ.
Thế nào là Bồ-tát theo phương tiện không bố thí? Không nhẫn lời ngay thẳng, nhất định không cho, cần dùng lời dịu dàng mở bày sự hiểu biết, phát khởi tạo phương tiện là có nhưng không thể bố thí. Bồ-tát từ xưa đến nay đã tích chứa nhiều vật dụng, tất cả của cải, vật dụng ấy đều dùng tâm thanh tịnh đối với chư Phật, Bồ-tát trong mười phương xả bỏ để làm tịnh thí. Ví như Tỳ-kheo đem y vật của mình ở trước Hòa thượng, A-xà-lê, xả làm tịnh thí. Như thế là đã tạo nhân duyên tịnh thí, được tích chứa vô lượng các loại của cải, nên gọi là Bồ-tát trụ trong Thánh chủng, cũng được vô lượng công đức, thường tự nhớ nghĩ công đức như vậy, tức trong tất cả thời, luôn được tùy thuận lớn mạnh. Phàm là vật tịnh thí đã tích chứa, vì chư Phật, Bồ-tát nên nhận gởi, giữ gìn, nay thấy người đến cầu xin, quán sát người ấy có tướng thành tựu, vật xả bỏ làm tịnh thí lúc trước, lấy đem cho họ. Chư Phật, Bồ-tát đối với chúng sinh không vật gì là không xả, nên làm như vậy là biết ý của người cầu xin được thỏa mãn. Nếu quán sát người kia không có tướng thành tựu, thì đem pháp tịnh thí để mở bày giải thích, nói: Này nhân giả! Vật ấy trước đã xả, đã có chỗ thuộc về. Lời nói luôn dịu dàng khiến kẻ kia không đến nỗi oán hận. Hoặc đem vật khác gấp hai ba lần để bố thí, tạo phương tiện như vậy, khiến kẻ kia biết Bồ-tát không vì keo kiệt nên không bố thí, chỉ do hoặc không tự tại nên không bố thí cho mình. Kinh pháp như thế là không thí cho, Bồ-tát hành pháp thí như vậy, gọi là trí tuệ thí.
Lại nữa, Bồ-tát hành Nhất thiết trí, đó là tài thí, pháp thí và vô úy thí. So sánh tướng mạo của từng loại, hoặc danh, hoặc nghĩa, phân biệt nhân quả, biết như thật rồi mới hành bố thí. Đó gọi là trí tuệ bố thí của Bồ-tát. Lại nữa, Bồ-tát đối với người không tạo cho mình có lợi ích, luôn đem tâm từ để bố thí. Đối với người khổ não dùng tâm bi để bố thí. Đối với người có công đức đem tâm hỷ để bố thí. Đối với người đã tạo lợi ích cho mình, các thiện tri thức, người họ hàng thì dùng tâm xả để bố thí. Đó gọi là Bồ-tát dùng trí tuệ bố thí.
Lại nữa, Bồ-tát có chướng ngại nơi thí, đối trị chướng ngại nơi thí đều nhận biết như thật. Chướng ngại nơi thí có bốn thứ: Một là trước không tu tập. Hai là vật dùng để thí ít. Ba là của cải tuy nhiều nhưng tham ái tăng trưởng. Bốn là thấy quả ở đời vị lai có nhiều của cải nên sinh tham chấp.
Trước không tu tập bố thí: Nghĩa là Bồ-tát thấy người chân thật cầu xin, mình có nhiều của cải nhưng không sinh tâm bố thí, nên biết đó là do mình không tu tập bố thí, phải nhanh chóng hành trí tuệ, khởi tư duy: Ta xưa kia chắc chắn là không tu tâm thí, khiến ngày nay tuy có nhiều của cải, thấy người đến cầu xin nhưng tâm bố thí không khởi. Nay nếu không bố thí thì trong đời sau sẽ có chướng ngại nơi bố thí. Nhận biết như vậy rồi, nương vào việc đối trị chướng ngại nơi thí để hành bố thí, tức có thể lìa bỏ chướng ngại nơi thí, không có hành tập theo.
Vật dùng để thí ít: Nghĩa là Bồ-tát thấy người chân thật đến cầu xin, vật thí còn ít nên không muốn bố thí, do đó thành chướng ngại nơi thí. Phải nhanh chóng hành trí tuệ, khởi suy nghĩ: Ta thà an phận với nghèo khổ, tất phải nên bố thí. Suy nghĩ như vậy rồi, đem tâm bi để bố thí. Lại suy nghĩ: Ta từ xưa đến nay do nghiệp của nhiều đời đã tạo lỗi lầm, nên người thì tự tại, còn ta thì đói lạnh khốn khổ, không thể tạo lợi ích cho tất cả chúng sinh. Ta nay thà nhân đó nên mất mạng, đời này chịu khổ, nhưng cần phải hành thí, thâu giữ chúng sinh, không thể khiến cho người thọ nhận tâm không đầy đủ, huống gì là ngày nay ta cũng có rau quả tạm sinh sống, cần phải chịu khổ để hành thí.
Của cải tuy nhiều nhưng tham ái tăng trưởng: Nghĩa là Bồ-tát thấy người chân thật đến cầu xin, do ý tham ái tăng thượng hết mực, nên đối với những vật cần thí không sinh tâm bố thí. Lại nữa, Bồ-tát nhận biết việc chứa giữ là có lỗi, nên chóng hành trí tuệ, khởi suy nghĩ: Ta ở trong khổ nhưng sinh tưởng vui, nơi đời vị lai sẽ thọ nhận khổ lớn. Điên đảo như vậy nên nhận biết, nên đoạn dứt. Khởi suy nghĩ như vậy rồi, tức có thể hành thí.
Thấy quả nơi đời vị lai có nhiều tài sản nên sinh tham chấp: Nghĩa là Bồ-tát đã hành thí rồi, đối với quả của bố thí được nhiều của cải, sinh kiến chấp về phước lợi, không thể chí cầu đạo quả Bồ-đề vô thượng. Bồ-tát nhận biết chấp về quả là lỗi lầm, nên chóng hành trí tuệ, như thật quán xét đúng đắn: Tất cả các hành đều không kiên cố, niệm niệm hoại diệt, thọ dụng quả báo lại cũng như vậy, đều là pháp lìa tan, hủy diệt. Khi quán như thế, thì đoạn được kiến chấp về quả. Tất cả hành thí đều đem hồi hướng về đạo quả Bồ-đề vô thượng.
Đó gọi là Bồ-tát dùng trí tuệ đối trị bốn thứ chướng ngại nơi thí. Nên biết đấy là phân biệt nhẫn khổ, nhận biết gồm thâu điên đảo, quán các hành không bền vững. Trí đối trị ba thứ trước là bố thí chân chánh, trí đối trị một thứ sau là thâu nhận chánh quả. Đó gọi là trí tuệ bố thí của Bồ-tát.
Lại nữa, Bồ-tát bên trong hoàn toàn là tâm tịnh, thuần hậu tín tịnh, tưởng giác thắng diệu, nên có vô lượng vật thí, ý hiểu rõ là nên thí cho tất cả chúng sinh. Bồ-tát này dùng ít phương tiện nhưng sinh vô lượng công đức, nên trí tuệ nơi Bồ-tát là đại trí tuệ thí. Đó gọi là lược nói về pháp của Bồ-tát tùy thuộc có tài vật không tài vật thí.
Như thế: Pháp thí, phân biệt thí, tâm tịnh thí, trí tuệ đối trị chướng ngại nơi thí, bố thí với tâm tịnh, ý giải thí, gọi là bất cộng thí của Bồ-tát. Nên biết đó còn gọi là tất cả vật bố thí nội ngoại của Bồtát. Phân biệt rộng, tất cả thí nêu trên, nên biết là nan thí.
Thế nào là Nan thí của Bồ-tát? Lược nói có ba thứ: Bồ-tát có ít của cải, phải tự nhẫn chịu nghèo khổ để bố thí cho người khác. Đó gọi là Nan thí thứ nhất của Bồ-tát.
Hoặc Bồ-tát thật sự yêu mến vật, tánh ái chấp sâu đối với vật kia, quen ái chấp đã lâu, nên tăng thượng đối với vật thí, do vậy khởi tham đắm tột bậc. Nhưng Bồ-tát có thể tự khai mở nhận biết để thí cho người khác. Đó gọi là Nan thí thứ hai của Bồ-tát.
Hoặc Bồ-tát siêng năng khổ nhọc mới có được của cải để đem thí cho người khác. Đó gọi là Nan thí thứ ba của Bồ-tát.
Thế nào là Nhất thiết môn thí của Bồ-tát? Lược nói có bốn thứ: Bồ-tát hoặc đem vật dụng của mình, hoặc khuyên người khác nên có được của cải, hoặc tự góp lại để bố thí. Nếu cha mẹ, vợ con, nô tỳ, kẻ giúp việc, hoặc thiện hữu, quan lớn, quyến thuộc, họ cần gì thảy đều bố thí. Đó gọi là lược nói về bốn thứ Nhất thiết môn thí của Bồ-tát.
Thế nào là Thiện nhân thí của Bồ-tát? Lược nêu có năm thứ. Một là Bồ-tát với tâm tín bố thí. Hai là cung kính bố thí. Ba là tự tay bố thí. Bốn là theo thời hành thí. Năm là không xâm chiếm của người khác để bố thí. Đó gọi là Thiện nhân thí của Bồ-tát.
Thế nào là Nhất thiết hành thí của Bồ-tát? Lược nói có mười ba loại: Một là không nương dựa để bố thí. Hai là bố thí rộng. Ba là hoan hỷ bố thí. Bốn là thường thí. Năm là ruộng phước bố thí. Sáu là tất cả thí. Bảy là tất cả xứ bố thí. Tám là tất cả thời bố thí. Chín là bố thí vật vô tội. Mười là bố thí tất cả vật. Mười một là bố thí các vật nơi phương cõi. Mười hai là bố thí voi ngựa v.v… Mười ba là bố thí lương thực. Mười ba thứ như thế gọi là Nhất thiết hành thí của Bồ-tát.
Thế nào là Trừ não thí của Bồ-tát? Lược nêu có tám thứ: Một là Bồ-tát thấy người cần thức ăn uống thì thí thức ăn uống. Hai là người cần xe cộ thì cho xe cộ. Ba là người cần y phục thì cho y phục. Bốn là người cần đồ trang sức thì cho đồ trang sức. Năm là người cần vô số các loại đồ dùng tức thảy đều thí cho. Sáu là người cần tràng hoa, hương bột, hương xoa, tùy theo sự mong muốn của họ đều thí cho. Bảy là người cần nhà cửa thì cho nhà cửa. Tám là người cần đèn sáng thì thí đèn sáng. Tám thứ như vậy gọi là Trừ não thí của Bồ-tát.
Thế nào là Đời này đời khác vui thí của Bồ-tát? Lược nói có chín thứ: Nghĩa là tài thí, vô úy thí, pháp thí.
Tài thí: Nghĩa là thanh tịnh thắng diệu, như pháp điều phục mọi cấu uế của sự keo kiệt, cất chứa để tu hành bố thí. Điều phục cấu uế của sự keo kiệt là xả bỏ tâm chấp trước. Điều phục cấu uế của sự cất chứa là xả bỏ chấp trước về thọ dụng.
Vô úy thí: Nghĩa là đối với các thứ tạo sợ hãi như sư tử, cọp, sói, vua, giặc, nước, lửa v.v… Bồ-tát phải cứu giúp, khiến chúng sinh được qua khỏi.
Pháp thí: Nghĩa là thuyết pháp không điên đảo, thuyết pháp đầy đủ, truyền trao cho người những thọ giới cấm.
Như thế là lược nói chín thứ bố thí của Bồ-tát, khiến các chúng sinh đời này đời sau đều được an lạc. Tài thí và vô úy thí phân biệt thì đời này được an lạc. Pháp thí phân biệt thì an lạc cả đời này lẫn đời sau.
Thế nào là Thanh tịnh thí của Bồ-tát? Lược nói có mười thứ. Những gì là mười? Một là không bị trở ngại. Hai là không có kiến giải dị biệt. Ba là không cất chứa. Bốn là không có tâm kiêu mạn. Năm là không nương dựa. Sáu là không thoái chuyển, khiếp nhược. Bảy là không có tâm thấp kém. Tám là không bội diện. Chín là không cầu ân. Mười là không cầu báo.
Bố thí không bị trở ngại: Nghĩa là Bồ-tát đối với người đến cầu xin phải thật nhanh chóng bố thí, không làm cản trở, luôn hành đầy đủ theo sở nguyện, vượt qua sự trông mong của họ.
Bố thí không có kiến giải dị biệt: Nghĩa là Bồ-tát đối với sự bố thí không khởi những nhận thức dị biệt, như nói không có quả báo, không vì tổn hại chúng sinh để bố thí, tức là nói pháp này không bố thí ở đây, phải cầu thế gian, xuất thế gian thanh tịnh.
Bố thí không cất chứa: Nghĩa là Bồ-tát không cất chứa của cải quá lâu, sau đó lại bố thí tức thì. Vì sao? Vì Bồ-tát có được những vật bố thí, thấy người đến cầu xin, đâu có thể không thí cho. Thấy không đúng như pháp, chẳng phải là không thí cho. Thế nào là cất chứa rồi sau mới bố thí? Cũng chẳng phải cất chứa để bố thí cho phước thêm nhiều. Vì vật thí bình đẳng, người cầu xin cũng bình đẳng, thì tiệm thí đốn thí do nhân duyên gì để thấy phước được có sai khác? Lại nữa, Bồ-tát thấy cất chứa để bố thí là có lỗi, không thấy tùy thí có lỗi. Vì sao? Vì nếu cất chứa bố thí, người đến cầu xin trước, có khi đến số trăm nhưng không thí cho, khiến họ oán trách khởi tâm không nhẫn chịu. Người đến xin sau, do sợ vật dồn chứa liền vội đem cho, vì thế Bồ-tát không cất chứa để bố thí.
Bố thí không có tâm kiêu mạn: Nghĩa là Bồ-tát đối với người cầu xin, luôn đem tâm khiêm nhường để bố thí. Không nên thấy người hơn đem tâm cầu cạnh để bố thí. Không vì bố thí để tự khen ta là thí chủ, người khác không thể bằng.
Bố thí không nương dựa: Nghĩa là Bồ-tát không vì tiếng tăm nên hành bố thí, đối với những thứ khen ngợi giả danh coi như hạt bụi.
Bố thí không thoái chuyển, khiếp nhược: Nghĩa là Bồ-tát lúc sắp bố thí tâm vui thích, khi thí thì hoan hỷ, bố thí rồi không hối hận, tài vật thêm nhiều thắng diệu bậc nhất. Bồ-tát nghe người khác bố thí rộng khắp, bố thí thù thắng, tâm không tự khinh, sinh tâm thoái chuyển khiếp sợ.
Bố thí không có tâm thấp kém: Nghĩa là Bồ-tát suy nghĩ nên đem vật tốt đẹp bậc nhất, hơn hết để bố thí.
Bố thí không bội diện: Nghĩa là Bồ-tát tâm bình đẳng, không theo bè nhóm, kẻ oán, người thân, kẻ không oán không thân, dùng tâm từ bi bình đẳng để bố thí.
Bố thí không cầu ân: Nghĩa là Bồ-tát đem tâm thương xót để hành thí. Đối với người thọ nhận không tính kể ân huệ với họ. Thấy chúng sinh ưa thích dục lạc, như bị lửa thiêu đốt, không có uy lực để ra khỏi.
Bố thí không cầu báo: Nghĩa là Bồ-tát bố thí rồi, không hy vọng đời sau có được của cải, thân mạng đầy đủ, quán tất cả hành thảy đều hoại diệt, thấy Bồ-đề vô thượng là phước lợi chân thật.
Mười thứ như vậy, gọi là Thanh tịnh thí của Bồ-tát.
Như thế, Bồ-tát dựa vào chín thứ bố thí để hành đầy đủ Bố thí Ba-la-mật, chứng đắc đạo quả Chánh đẳng Chánh giác vô thượng.
XỨ PHƯƠNG TIỆN THỨ NHẤT
Phẩm thứ 10: GIỚI, phần 1
Thế nào là Giới Ba-la-mật của Bồ-tát? Lược nêu có chin thứ: Một là Tự tánh giới. Hai là Nhất thiết giới. Ba là Nan giới. Bốn là Nhất thiết môn giới. Năm là Thiện nhân giới. Sáu là Nhất thiết hành giới. Bảy là Trừ não giới. Tám là Đời này đời khác vui thích trì giới. Chín là Thanh tịnh giới.
Thế nào là Tự tánh giới của Bồ-tát? Lược nói về bốn đức thành tựu, đó gọi là Tự tánh giới. Những gì là bốn? Một là theo người khác chánh thọ. Hai là khéo thanh tịnh tâm thọ. Ba là phạm rồi liền sám hối. Bốn là chuyên tinh niệm trụ giữ vững không phạm.
Theo người khác chánh thọ: Nghĩa là ở bên ngoài luôn quan tâm đến kẻ khác, đối với tội đã phạm sinh tâm xấu hổ.
Khéo thanh tịnh tâm thọ: Nghĩa là tự nhìn vào bên trong, đối với tội lỗi đã phạm sinh tâm hổ thẹn.
Phạm rồi liền sám hối, chuyên tinh không phạm: Như vậy là không phạm giới. Bồ-tát có hai nhân duyên nên lìa hối. Đó là Bồtát nương nơi sự thọ giới, khởi tâm tịnh giới, khởi tâm hổ thẹn. Do tâm hổ thẹn nên khéo có thể hộ trì giới, do hộ trì giới nên không hối. Hoặc thọ từ người khác, hoặc do tâm tịnh thọ. Đây là hai thứ pháp. Hoặc phạm mà hối, hoặc chuyên tinh không phạm. Đây là hai thứ tùy pháp. Hoặc từ người khác thọ, hoặc do tâm tịnh thọ, hoặc chuyên tinh không phạm, ba pháp này là Bồ-tát không hoại giới. Phạm rồi liền sám hối, nghĩa là hủy phạm rồi trở lại như cũ.
Nếu Bồ-tát thành tựu bốn đức, đó gọi là Tự tánh giới, gọi là chân thật giới, mình và người đều an vui, rất nhiều an ổn, rất nhiều vui vẻ, thương xót thế gian, tạo lợi ích cho hàng trời, người. Thọ giới thuận theo giới, nên biết là thâu nhận vô lượng, Bồ-tát với vô lượng giới tịnh, thâu giữ tất cả chúng sinh an vui, thành tựu quả báo lớn, đạt được phước lợi lớn, mau chóng chứng đắc đạo quả Chánh đẳng Chánh giác vô thượng.
Thế nào là Nhất thiết giới của Bồ-tát? Lược nêu có hai thứ: Một là tại gia. Hai là xuất gia. Đó gọi là Nhất thiết giới.
Nhất thiết giới lại có ba loại: Một là giới luật nghi. Hai là giới gồm thâu pháp thiện. Ba là gồm thâu chúng sinh.
Giới luật nghi: Nghĩa là giới của bảy chúng đã thọ là Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni, Thức-xoa-ma-ni, Sa-di, Sa-di-ni, Ưu-bà-tắc và Ưu-bàdi. Tại gia hay xuất gia là tùy theo chỗ ứng hợp của họ. Đó gọi là giới luật nghi.
Giới gồm thâu pháp thiện: Nghĩa là Bồ-tát đã thọ giới luật nghi, trên tu Đại Bồ-đề, thân khẩu ý hành thiện. Đó gọi là lược nói về tất cả giới gồm thâu pháp thiện. Vì sao như thế? Nghĩa là Bồ-tát nương vào giới, trụ nơi giới, tu văn tuệ, tư tuệ, Xa-ma-tha, Tỳ-bà-xá-na, tu tuệ thường trụ chốn tịch tĩnh thanh vắng, cung kính các bậc Sư trưởng, phụng sự, lễ bái cúng dường. Thấy người bệnh hoạn, khởi tâm thương xót, chăm sóc cung cấp. Nghe người thuyết pháp khen: Lành thay! Đối với người có công đức thật luôn khen ngợi, tán dương. Tất cả chúng sinh tạo được những công đức gì, tâm khẩu đều vui vẻ tùy hỷ. Bị người xâm phạm đều có thể an nhẫn, nghiệp thân khẩu ý nghiệp đã làm đang làm, tất cả đều hồi hướng về đạo quả Bồ-đề vô thượng. Theo thời tu tập các thứ nguyện thù thắng, siêng năng tinh tấn cúng dường Tam bảo. Đối với các pháp thiện tâm không phóng dật, niệm tuệ giữ gìn thân khẩu the giới tịnh, hộ trì căn môn, ăn uống điều độ, đầu đêm cuối đêm chớ tham ngủ nghỉ. Gần gũi người lành, nương nơi thiện tri thức, thường xét kỹ lỗi của mình, nhận biết rồi tức không phạm. Tùy theo chỗ phạm, đến nơi chư Phật, Bồ-tát và đồng hành như pháp sám hối. Những thứ hộ trì tu tập như vậy, nuôi lớn giới pháp thiện. Đó gọi là giới gồm thâu pháp thiện.
Giới gồm thâu chúng sinh: Lược nêu có mười một thứ: Một là chúng sinh làm các việc lợi ích cùng đến làm bạn. Hai là chúng sinh đã khởi, chưa khởi các khổ như bệnh v.v… làm người đến chăm sóc bệnh, để cùng làm bạn. Ba là vì các chúng sinh giảng nói pháp thế gian xuất thế gian, hoặc dùng phương tiện khiến được trí tuệ. Bốn là biết ân, báo ân. Năm là chúng sinh có những thứ lo sợ như đối với sư tử, cọp, sói, đối với vua, quan ác, giặc, nước, lửa, Bồ-tát đều có thể cứu giúp. Thấy chúng sinh có các nạn như quyến thuộc hoặc của cải tan mất, nên vì họ chỉ bày khiến xa lìa đau buồn. Sáu là thấy có chúng sinh nghèo khổ, khốn cùng, thảy đều cấp thí, tùy theo những kẻ kia cần gì. Bảy là đức hạnh đầy đủ, nương dựa chánh thọ, như pháp nuôi chúng. Tám là trước nói lời an ủi, tùy lúc tới lui, cung cấp thức ăn uống, ngôn ngữ tốt đẹp thuận hợp, tiến dừng đúng cách, qua lại tùy vật. Những việc như vậy, khiến chúng sinh an ổn, thảy đều tùy thuận, nếu không an ổn thì nên xa lìa. Chín là đối với người có công đức chân thật, thì vui mừng khen ngợi. Mười là đối với kẻ có lỗi lầm xấu ác, luôn đem tâm từ điều phục, quở trách, phạt đuổi, khiến kẻ kia sám hối sửa đổi. Mười một là dùng sức thần thông thị hiện về đường ác, khiến các chúng sinh kia chán sợ các ác, vâng tu pháp Phật, hoan hỷ tin vui, sinh tâm hy hữu. Đó gọi là giới gồm thâu chúng sinh.
Thế nào là Bồ-tát trụ nơi giới luật nghi, trụ nơi giới gồm thâu pháp thiện, trụ nơi giới gồm thâu chúng sinh, khéo hộ trì giới, khéo gồm thâu giới pháp thiện, tất cả hành theo giới gồm thâu chúng sinh?
Bồ-tát trụ nơi giới luật nghi Ba-la-đề-mộc-xoa, xả bỏ ngôi vị Chuyển luân vương, xuất gia học đạo, không đoái hoài đến ngôi vị tôn quý, xem như cỏ đất, lìa bỏ năm dục như dứt trừ đàm dãi. Nơi đời vị lai, tại thiên cung của Thiên ma hiện có diệu dục, Bồ-tát đều không nguyện thích, trọn không vì những điều đó để hành phạm hạnh. Tâm luôn sợ hãi, thấy có lỗi đúng như thật, xả vui hiện tại như sợ mưa gió dữ. Chánh kiến quán sát không tham đắm vị, tánh ưa yên lặng, điềm tĩnh an vui, hoặc đông đảo hoặc một mình tâm thường an trụ. Trì giới không giới hạn, sinh tưởng biết đủ, nương nơi giới trụ nơi giới tu tập chánh thọ của Bồ-tát, sinh khởi vô lượng công đức. Hoặc gần bốn chúng không nói phi pháp, ở chốn vắng lặng không trụ nơi giác (tầm) ác, nếu như vừa khởi liền tự hối trách, thấy sâu điều lỗi, nhân đấy trở lại được bản tâm. Hoặc nghe tất cả giới pháp của Bồ-tát, nghe Bồ-tát nhập nơi đại địa có vô lượng thứ vi diệu, không thể nghĩ bàn, lâu xa khó hành, tâm không sợ hãi, cũng không biếng nhác thoái chuyển, lại khởi niệm: Chư vị ấy cũng là trượng phu, thân khẩu có thể trì tịnh giới không thể nghĩ bàn của Bồ-tát. Ta cũng là trượng phu, tất nên như chư vị ấy, quyết định không ngại. Trụ nơi giới luật nghi, Bồ-tát thường tự xét lỗi mình, không xét khuyết điểm của người. Nếu thấy kẻ hung bạo, tánh ác, tâm không sân hận nhưng khởi tâm pháp, tâm bi, thương xót, dùng phương tiện khiến được giải thoát. Trụ nơi giới luật nghi, Bồ-tát ở nơi chốn của chúng sinh không sinh tưởng sợ hãi, huống gì lại khởi tâm gia hại. Trụ nơi giới luật nghi, Bồ-tát thành tựu năm thứ hành không phóng dật, cùng hợp với quá khứ, vị lai, hiện tại, đã làm, đang làm. Bồ-tát đối với quá khứ đã phạm liền như pháp sám hối. Đó gọi là hành không phóng dật của quá khứ. Vị lai nếu sẽ phạm nên như pháp sám hối. Đó gọi là hành không phóng dật của vị lai. Hiện tại đang phạm tức như pháp sám hối. Đó gọi là hành không phóng dật của hiện tại. Như chỗ hành, như chỗ trụ, chuyên tâm hộ trì. Đó gọi là đã tạo hành không phóng dật. Nương nơi hành không phóng dật đã tạo, như chỗ hành, như chỗ trụ, không khởi phạm giới. Đó gọi là hành không phóng dật đang làm. Bồ-tát trụ nơi giới luật nghi, công đức thì ẩn giấu, việc ác thì phát lộ, ít dục biết đủ, gắng nhẫn các khổ, không sinh lo buồn, tiến dừng đều an ổn, đúng đắn, oai nghi tự tại, xa lìa các thứ quanh co dua nịnh, tịnh tu chánh mạng. Bồ-tát thành tựu mười pháp như vậy, gọi là trụ nơi giới luật nghi.
Bồ-tát trì giới, nghĩa là đối với năm dục của quá khứ, tâm không luyến tiếc, đối với năm dục nơi vị lai không sinh tưởng vui, đối với năm dục ở hiện tại không nhớ nghĩ tham chấp, vui nơi chốn vắng lặng không sinh tưởng đầy đủ, xa lìa ngôn ác giác ác, tâm không tự khinh, an ổn vui trụ, khéo an nhẫn, oai nghi tịnh mạng không hề phóng dật.
Bồ-tát trụ nơi giới gồm thâu pháp thiện, đối với thân mạng, của cải, nếu khởi chút ít tham chấp, tức thời trừ diệt không khiến tăng trưởng. Hết thảy những việc như nhân duyên phạm giới phiền não cùng khởi, liền nên diệt trừ. Nếu đối với chúng sinh khởi tâm giận dữ, oán hại, cũng liền diệt trừ. Hoặc khởi tâm biếng nhác, cũng lập tức diệt trừ. Hoặc khởi vị tương ưng với thiền, cũng liền diệt bỏ. Nên nhận biết như thật về năm xứ, là quả thiện, nhân thiện, nhân quả thiện, nhân quả điên đảo cùng không điên đảo. Thâu giữ chướng ngại nơi pháp thiện, đều nhận biết như thật. Bồ-tát thấy phước lợi của quả thiện nên cầu nhân thiện. Thâu giữ điên đảo về pháp thiện, luôn nhận biết như thật. Bồ-tát được căn thiện, không khởi nơi vô thường chấp thường, khổ chấp có vui, bất tịnh chấp tịnh, phi ngã chấp ngã. Nên nhận biết như thật, gồm thâu chướng nơi pháp thiện, xa lìa không gồm thâu pháp thiện. Bồ-tát thành tựu mười hành như vậy, gọi là trụ nơi giới gồm thâu pháp thiện, nhanh chóng thâu giữ các pháp thiện và tất cả hành. Đó là nương nơi thí, nương nơi giới, nương nơi nhẫn, nương nơi tinh tấn, nương nơi thiền định, năm hành thành tựu trí tuệ.
Bồ-tát trụ nơi giới gồm thâu chúng sinh có mười một thứ, nơi mỗi mỗi thứ thành tựu tất cả hành.
Một là đối với các chúng sinh đã tạo tác đều cùng đồng sự. Hoặc mới suy nghĩ cùng những chỗ hành tác, đường đi qua lại, phương tiện chánh nghiệp, giữ gìn của cải vật dụng, hòa hợp các việc tranh cãi, hoặc hội an lành nơi thế gian, và các thứ phước nghiệp, đều cùng đồng sự.
Hai là đối với các sự việc khổ đều cùng làm bạn. Nếu thấy người tật bệnh thì chăm sóc cung cấp. Thấy người mù phải dẫn dắt, người mê thì giúp tìm đường, người điếc dùng tay ra dấu khiến họ lãnh hội, người què phải cõng vác, người tham dục có các khổ vây quanh thì chỉ dạy khiến họ xa lìa. Các thứ cái như sân giận, thùy miên, trạo hối, nghi, những thứ khổ như vậy cũng khiến xa lìa. Giác (tầm) dục, giác sân, giác hại, giác thân lý, giác quốc độ, giác bất tử, giác khinh thường, giác tộc họ, đều chỉ dạy khiến xa lìa. Chúng sinh kiện tụng nhau không nhận biết về khổ, có thể vì họ chỉ bày đường đi, mỏi mệt thiếu thốn thì ban cho nơi chốn an ổn.
Ba là vì các chúng sinh thuyết pháp đầy đủ. Chúng sinh tạo ác, nói trừ hành ác, câu thiện, vị thiện, nghĩa thiện, tùy thuận thông đạt khiến tăng trưởng phẩm đạo. Hoặc dùng phương tiện giảng nói, vì chúng sinh ác, nêu giảng nhằm dứt trừ hành ác. Nói pháp trừ tâm keo kiệt, được quả báo hiện tại, ít chánh phương tiện nhưng được nhiều tài vật, được rồi giữ gìn. Người ganh ghét pháp, khiến sinh tin tưởng vui thích, kiến đế thanh tịnh, lìa các nẻo ác, hết hẳn phiền não, diệt tất cả khổ.
Bốn là biết ân báo ân. Đối với người tạo lợi ích cho mình luôn dùng tâm thiện và lời nói dịu dàng để hỏi han an ủi, khuyên dụ, khen ngợi: “Thiện lai!” rồi lập tòa ngồi an ổn, tìm cách đáp đền lại hoặc bằng hoặc hơn, không để thua giảm. Những việc đã làm Bồ-tát thảy đều đồng sự. Chăm sóc kẻ bệnh khổ, tùy thuận thuyết pháp, diệt trừ các thứ gây sợ hãi, giúp họ lìa dứt các điều lo phiền. Nếu có thiếu thốn tức thí cho các vật dụng. Nương dựa như pháp, tùy thuận nơi tâm. Người có thật đức thì khen ngợi, vui mừng. Người có tội lỗi thì dùng tâm từ quở trách, điều phục, phạt đuổi, khiến họ sửa đổi. Nêu rõ lực thần thông, theo chỗ thích hợp để thị hiện.
Năm là đối với các chúng sinh sợ hãi, nên vì họ cứu giúp. Đó là sợ hãi về các thú dữ như sư tử, cọp, sói, về các vua, quan bạo ác, giặc, nước, lửa dữ, nhân, phi nhân v.v… Bồ-tát thảy đều ra sức cứu giúp, khiến họ được an ổn. Hoặc thấy các chúng sinh, các hàng bà con quyến thuộc có những lo buồn do các nạn về tài sản, hoặc trong quyến thuộc, thiện tri thức, các bậc sư trưởng tôn kính có người qua đời, hoặc của cải bị vua quan bạo ác, giặc dữ cướp đoạt, hay bị lửa cháy, nước cuốn, kho báu tiêu tan, sự nghiệp không thành, ép chia của riêng, hoặc quyến thuộc xấu ác làm mất tài sản, tất cả đều vì họ giải bày, khiến xa lìa khổ não.
Sáu là nếu thấy có các chúng sinh tiền của sinh sống không đủ, thì cung cấp cho những thứ cần dùng như thức ăn uống, y phục, thuốc thang, hương hoa, đèn đuốc, các vật dụng trang sức, nhà cửa, tiền bạc, người giúp việc, xe cộ v.v…, những thứ như vậy thảy đều thí cho.
Bảy là như pháp nuôi chúng: Trước là tạo chỗ nương dựa, đem tâm không tham, tâm thương xót, vì họ thuyết pháp, ban cho các vật cần dùng. Nếu tự mình không có, thì từ nơi các cư sĩ, trưởng giả có tâm tín kia cầu xin chu cấp. Theo đúng như pháp có được y phục, thực phẩm, thuốc thang, cho đến phòng nhà, cùng thọ dùng không cất chứa. Đem năm loại pháp tùy thời chỉ dạy, đúng như trong Phẩm Lực Chủng Tánh đã nói.
Tám là tùy thuận nơi tâm người: Trước phải biết tánh và thể tánh của chúng sinh, nên cùng trụ thì cùng đồng ở, theo chỗ thích hợp để cùng làm việc. Lại, tùy thuận tâm là quán xét về nơi chốn hành ấy, nếu đem thân miệng hành tác như thế, khiến kẻ kia lo buồn không được thiện lợi, thì Bồ-tát không làm. Tuy khiến lo buồn nhưng đem lại điều tốt đẹp lợi ích cho người thì Bồ-tát nên làm. Nếu Bồ-tát tự làm, thân miệng hành tác chẳng thuộc về giới, cũng chẳng phải là phương tiện của công đức, trí tuệ, khiến kẻ kia sầu não, không đem lại thiện lợi thì Bồ-tát không làm. Ngược lại với các điều nêu trên tức Bồ-tát nên làm. Như sinh sầu khổ, thì sinh mừng vui cũng lại như vậy, tùy theo chỗ thích ứng nên rộng phân biệt, nêu bày. Lại, tùy theo tâm, nghĩa là nếu thấy chúng sinh có sắc tướng sân hận, hãy còn không khen ngợi về công đức, huống hồ là nói về điều xấu ác của họ, cũng không khiến họ phải xin lỗi. Lại, tùy theo tâm, nghĩa là người không thưa hỏi an ủi mình, mình hãy còn tự đến để an ủi thưa hỏi họ, huống gì là họ đã đến thăm hỏi mà mình không đáp lại, chỉ trừ khi răn dạy. Lại, tùy theo tâm, nghĩa là không não hại người khác, trừ khi dùng tâm từ bi, các căn vắng lặng, quở trách đệ tử khiến được điều phục. Lại, tùy theo tâm còn có nghĩa là không cười cợt, không đùa bỡn quá đáng, khiến kẻ kia hổ thẹn sinh nghi hối. Người ấy tuy không bằng mình, nhưng không nên nói ông nay rơi vào chỗ thua rồi. Thấy người khiêm nhường cũng không tự cao. Lại, tùy theo tâm chẳng phải là không gần gũi quen biết, nhưng không gần gũi quá mức, không gần gũi không đúng. Lại, tùy theo tâm nghĩa là đối với người thân quen khác không nói lỗi của kẻ kia, đối với người oán khác không khen đức của kẻ kia. Người không thân thiện không cùng đồng sự. Không tham muốn cầu nhiều, nếu có chỗ giữ lấy nên biết lượng biết đủ. Nếu có người thỉnh mời không làm trái ý họ. Hoặc có sự hiềm trách thì như pháp tạ lỗi.
Chín là đối với người thật có công đức thì khen ngợi, hoan hỷ. Người có tâm tin đầy đủ thì khen ngợi công đức của tín. Giới, văn, thí, tuệ cũng lại như vậy.
Mười là nên quở trách. Quở trách để điều phục lỗi nhỏ, phạm nhỏ, đem tâm thương xót, dùng lời dịu dàng để quở trách. Lỗi phạm bậc trung dùng lời quở trách vừa phải. Lỗi phạm nặng thì dùng lời thô nặng để quở trách. Như quở trách, thì điều phục, phạt đuổi cũng lại như thế. Người phạm nhẹ và vừa, tùy thời đuổi đi, nếu trở lại thì cho cùng trụ, vì để giáo hóa việc phạm giới và các người khác. Do tâm thương mến, tạo lợi ích cho nên mới đuổi ra khỏi chúng. Người phạm nặng tội lớn, thì không ở chung, không ăn chung, cho đến khi đã cải hối cũng không cho ở chung. Do tâm từ bi nên không khiến kẻ kia ở trong pháp Phật khởi nhiều tội lỗi, cũng là để răn dạy các chúng sinh khác.
Mười một là Bồ-tát vì tạo lợi ích nên hiện bày lực thần thông, hoặc khiến người khác sợ hãi, hoặc khiến người khác hoan hỷ. Kẻ hiện làm việc ác, hiện bày báo ác. Đó là các xứ thuộc nẻo ác như: Địa ngục hàn băng, địa ngục biên v.v… và nói với người kia: Ông nên xem đấy, người ở nhân gian tạo ác phải sinh trong đó nhận vô lượng khổ. Kẻ kia thấy sinh sợ hãi, nhàm chán xa lìa hành ác.
Bồ-tát ở trong đại chúng, thấy người bất tín hỏi việc không trả lời, ngay lúc ấy hóa làm Lực sĩ Kim Cang, cho đến chư thiên, quỷ thần đại lực để tạo sự sợ hãi cho kẻ kia. Vì sợ hãi, nên kẻ kia bỏ tâm kiêu mạn, sinh tin kính, chân thật trả lời. Ngoài ra, đại chúng khi nghe kẻ kia trả lời chân thật, cũng đều được điều phục.
Lại dùng thần lực hiện một thành nhiều, hiện nhiều thành một, vách đá đều vượt qua, thân xuất lửa nước. Hoặc lại thị hiện thần lực cùng Thanh văn, khiến kẻ kia vui vẻ. Người chưa tin sinh tin. Người phạm giới được thanh tịnh. Người hiểu biết ít được hiểu biết nhiều. Người keo kiệt có thể hành thí. Người ngu si được trí tuệ. Như vậy là Bồ-tát thành tựu tất cả hành giới gồm thâu chúng sinh. Đó gọi là ba thứ tụ giới, là vô lượng tụ công đức của Bồ-tát.
HẾT – QUYỂN 4