SỐ 1570/1
QUẢNG BÁCH LUẬN BẢN
Tác giả: Bồ tát Thánh Thiên
Hán dịch: Đời Đường, Tam tạng Pháp sư Huyền Tráng
Việt dịch: Cư sĩ Nguyên Huệ

 

Phẩm thứ 1: PHÁ CHẤP THƯỜNG

Tất cả là quả sinh

Do đó tánh vô thường

Nên trừ Phật, không có

Như thật hiệu Như Lai.

Không có thời, phương vật

Có tánh chẳng duyên sinh

Nên không thời phương vật

Có tánh mà thường trụ.

Đều là nhân có tánh

Có nhân tức chẳng thường

Vì không nhân muốn thành

Chân kiến nói chẳng có.

Thấy chỗ tạo vô thường

Là chẳng tạo thường trụ

Đã thấy vô thường có

Nên nói tánh thường không.

Phàm phu vọng phân biệt

Cho không đều là thường

Người trí nương thế gian

Cũng không thấy nghĩa này.

Không chỉ có một phần

Đủ khắp tất cả phần

Nên biết mỗi mỗi phần

Đều riêng có phần có.

Nếu Thể pháp thật có

Hẹp rộng dụng đạt được

Đây định từ tha sinh

Nên thành quả được sinh.

Nếu lìa quả được sinh

Không có nhân năng sinh

Thế nên nhân năng sinh

Đều thành quả được sinh.

Các pháp tất biến dị

Mới tạo nhân sinh khác

Nhân biến dị như vậy

Há được gọi thường trụ?

Nếu xưa không nay có

Tự nhiên thường làm nhân

Đã nhận có tự nhiên

Nhân tức là vọng lập.

Vì sao dựa tánh thường

Mà khởi nơi vô thường

Nhân quả cùng không đồng

Thế gian chưa từng thấy.

Nếu một phần là nhân

Phần khác không phải nhân

Tức nên thành nhiều loại

Nhiều loại nên chẳng thường.

Ở nhân tướng tròn nhỏ

Nơi quả tức chẳng có

Cho nên các cực vi

Thể chẳng hòa hợp khắp.

Ở nơi một cực vi

Đã không nhận trọn vẹn

Vì thế cũng không nên

Cho nhân quả như nhau.

Vì nếu có phương Đông

Tất có phần phương Đông

Cực vi nếu có phần

Vì sao là cực vi?

Nên lấy trước bỏ sau

Mới được nói là hành

Cả hai nếu là không

Hành đó nên không có.

Cực vi không phần đầu

Phần giữa sau cũng không

Thế thì tất cả mắt

Đều không thể thấy được.

Nếu nhân bị quả hoại

Nhân đó tức chẳng thường

Thành ra quả và nhân

Hai Thể không đồng xứ.

Không thấy có các pháp

Thường nhưng là có đối

Nên cực vi là thường

Chư Phật chưa từng nói.

Lìa nhân buộc chỗ buộc

Lại không giải thoát thật

Vì sinh thành thiếu dụng

Nếu có cũng gọi không.

Lúc cứu cánh Niết-bàn

Không uẩn cũng không ngã

Không thấy người Niết-bàn

Nương đâu có Niết-bàn?

Ngã lúc bỏ các đức

Lìa ái có tư gì

Nếu có ngã không tư

Tức đồng không thật có.

Có ngã chủng trọn vẹn

Nhất định thường sinh tư

Chính không ngã không tư

Các có mới không có.

Nếu lìa khổ có ngã

Tức định không Niết-bàn

Vì thế trong Niết-bàn

Ngã đều vĩnh viễn diệt.

Thà cầu nơi thế gian

Chẳng cầu ở thắng nghĩa

Do thế gian ít có

Nơi thắng nghĩa đều không.

 

Phẩm thứ 2: PHÁ CHẤP NGÃ

Nội ngã thật không nam

Không nữ, không cả hai

Chỉ vì do không trí

Cho ngã là trượng phu.

Nếu trong các đại chủng

Không nam nữ không hai

Vì sao các đại chủng

Có nam nữ cùng sinh?

Ông, Tôi còn chẳng ngã

Nên tướng ngã không định

Há không nơi vô thường

Vọng phân biệt làm ngã?

Ngã tức đồng nơi thân

Đời đời có biến đổi

Nên lìa thân có ngã

Lý thường trụ chẳng đúng.

Nếu pháp không xúc đối

Thì không có dao động

Vì thế thân tạo nghiệp

Chẳng phải mạng hay tạo.

Ngã thường chẳng bị hại

Há nhọc tu giữ nhân

Ai sợ nuốt kim cang

Cầm gậy ngăn sâu mọt?

Nếu có niệm đời trước

Liền cho ngã là thường

Đã thấy vết thời xưa

Thân cũng nên thường trụ.

Nếu ngã hợp với tư

Chuyển thành kẻ tư niệm

Tư cũng phải khác tư

Nên ngã chẳng thường trụ.

Ngã cùng với vui hợp

Vô số loại như vui

Vì ngã như các vui

Chẳng một cũng chẳng thường.

Nếu cho ngã tư thường

Duyên giúp thành tà chấp

Như nói lửa thường trụ

Tức không duyên nơi củi.

Như diệt hết vật động

Tác dụng kia không có

Nên có ngã không tư

Lý ấy không thành tựu.

Phương khác khởi cảnh tư

Xứ khác thấy nơi tư

Như thỏi sắt nung chảy

Thể ngã phải biến hoại.

Tư nhỏ như ý lượng

Ngã lớn tợ hư không

Chỉ cần quán tự tướng

Tức không thấy nơi tư.

Đức ngã nếu trọn khắp

Sao người khác không nhận

Năng chướng đã nói thông

Không phải chỉ chướng một.

Nếu đức cùng phi tư

Sao hay tạo tất cả

Kia nên đồng cuồng loạn

Cùng si không chỗ thành.

Nếu đức hay khéo hiểu

Tạo các vật nhà cửa

Nhưng không biết thọ dụng

Phi lý há hợp đây?

Có động tác vô thường

Rỗng thông không động tác

Không dụng đồng không tánh

Sao không vui vô ngã?

Hoặc quán ngã khắp nơi

Hoặc thấy lượng đồng thân

Hoặc chấp như cực vi

Người trí thông chẳng có.

Pháp thường không thể não

Sao bỏ não giải thoát

Vì thế chấp ngã thường

Chứng giải thoát phi lý.

Ngã nếu thật có tánh

Không cần khen lìa ngã

Định biết là chân thật

Hướng giải thoát nên giả.

Trong giải thoát nếu không

Trước cũng nên không có

Chỗ thấy lúc không tạp

Chân tánh kia nên biết.

Nếu vô thường đều đoạn

Cỏ cây sao không thế

Lý này nếu là chân

Vô minh cũng chẳng có.

Hiện thấy hành như sắc

Từ duyên sinh trụ diệt

Nên biết ông chấp ngã

Tuy có nhưng vô dụng.

Như duyên thành mầm cây

Duyên thành loại cùng sinh

Nên các pháp vô thường

Đều khởi từ vô thường.

Do pháp từ duyên sinh

Nên thể lại không đoạn

Vì pháp theo duyên diệt

Nên thể cũng chẳng thường.

 

Phẩm thứ 3: PHÁ CHẤP VỀ THỜI

Bình ở nơi vị lai

Tức không có quá – hiện

Vị lai có quá – hiện

Nên vị lai ấy không.

Vị lai nếu đã hết

Nhưng có thể vị lai

Đây là hằng vị lai

Vì sao thành quá – hiện?

Pháp nếu ở vị lai

Hiện có tướng vị lai

Nên tức là hiện tại

Vì sao gọi vị lai?

Khứ lai như hiện có

Lấy quả dụng sao không

Nếu thể luôn chẳng không

Vì sao vô thường trụ?

Quá khứ nếu qua đi

Làm sao thành quá khứ

Quá khứ không qua đi

Làm sao thành quá khứ?

Vị lai nếu có sinh

Vì sao chẳng hiện tại

Vị lai nếu không sinh

Vì sao chẳng thường trụ?

Nếu vị lai không sinh

Hoại nên chẳng phải thường

Quá khứ đã không hoại

Sao không gọi là thường?

Đời hiện tại vô thường

Không do các quá – hiện

Trừ hai chỗ hướng này

Thì không có thứ ba.

Nếu các hành sinh sau

Trước đã có thể định

Nói người có tánh định

 Là sai, là tà chấp.

Nếu pháp do duyên sinh

Tức trước không có thể

Trước có mà sinh ra

Sinh rồi lại nên sinh.

Nếu thấy khứ – lai có

Vì sao chẳng thấy không

Đã thấy có khứ – lai

Nên không nói là xa.

Pháp chưa tạo nếu có

Tu giới là uổng công

Nếu chỗ tạo có ít

Thì quả chẳng có trước.

Các hành đã vô thường

Thì quả chẳng hằng có

Nếu có đầu có sau

Thế gian đều chẳng thường.

Nên không cầu giải thoát

Giải thoát không khứ – lai

Hoặc cho có khứ – lai

Tham nên lìa bỏ tham.

Nếu chấp quả có trước

Tạo nhà cửa trang nghiêm

Các cột thì chẳng có

Trước không quả cũng thế.

Các pháp có chuyển biến

Bậc tuệ chưa từng biết

Chỉ trừ người không trí

Vọng phân biệt là có.

Vô thường sao có trụ

Trụ không sao có Thể

Trước nếu như có trụ

Sau nên không biến suy.

Ví như không một thức

Hiểu được nơi hai nghĩa

Như vậy không một nghĩa

Hai thức đều nhận biết.

Thời nếu có trụ khác

Trụ tức không thành thời

Thời nếu không trụ khác

Sau diệt nên chẳng có.

Pháp cùng vô thường khác

Pháp tức chẳng vô thường

Pháp cùng vô thường một

Pháp nên không có trụ.

Vô thường đầu đã kém

Trụ lực định nên mạnh

Cả hai lại duyên gì

Sau thấy thành điên đảo?

Nếu thể khắp các pháp

Lực vô thường trước yếu

Nên đều không có trụ

Hoặc tất cả đều thường.

Vô thường nếu luôn có

Tướng trụ nên thường không

Hoặc pháp kia trước thường

Sau nơi chẳng thường trụ.

Nếu pháp đều vô thường

Mà nói có thường trụ

Tướng vô thường tức vọng

Hoặc tướng trụ nên giả.

Không chỗ thấy, thấy không

Xoay tâm duyên cảnh vọng

Cho nên chỉ hư giả

Có ức niệm gọi sinh.

 

Phẩm thứ 4: PHÁ CHẤP KIẾN

Tánh hòa mong thắng tuệ

Là pháp khí nên biết

Khác đây có thầy dạy

Không nhân đạt thắng lợi.

Nói có và có nhân

Phương tiện tịnh cùng tịnh

Thế gian tự không hiểu

Lỗi nào ở Mâu-ni?

Bỏ các có Niết-bàn

Tông tà đều cùng nhận

Phá tất cả chân không

Vì sao họ không vui?

Không biết nhân bỏ chứng

Không do thường bỏ chứng

Cho nên Mâu-ni nói

Trong mát nhất định không.

Nếu nơi lời Phật nói

Sự sâu do sinh nghi

Nên dựa vô tướng không

Sinh tin tưởng quyết định.

Quán hiện còn có vọng

Biết sau định là hư

Kẻ dựa pháp hành kia

Bị cuồng mãi không dứt.

Người trí tự Niết-bàn

Là làm điều khó làm

Phàm ngu gặp thiện dẫn

Nhưng tâm không hướng theo.

Không biết không sợ hãi

Biết khắp cũng lại thế

Nhất định do biết ít

Nên phát sinh sợ hãi.

Pháp sinh tử thuận dòng

Phàm ngu thường hành tập

Không từng tu ngược dòng

Thế nên sinh sợ hãi.

Có nhiều người ngu si

Ngăn che thấy chân thật

Không do sinh nẻo thiện

Làm sao chứng Niết-bàn?

Thà hủy phạm giới luật

Không tổn hoại chánh kiến

Giới luật sinh nẻo thiện

Chánh kiến đạt Niết-bàn.

Thà khởi ngã chấp kia

Đừng chấp không – vô ngã

Sau gồm hướng nẻo ác

Đầu chỉ trái Niết-bàn.

Diệu lý không – vô ngã

Cảnh giới chân chư Phật

Khiến các ác kiến sợ

Niết-bàn chẳng hai môn.

Ngu nghe tên pháp không

Đều sinh sợ hãi lớn

Như thấy người đại lực

Khiếp vía đều chạy trốn.

Chư Phật tuy vô tâm

Nói pháp trừ luận khác

Nhưng luận khác tự hoại

Như lửa lớn đốt củi.

Những người ngộ chánh pháp

Tông tà hẳn không thích

Vì đưa ra môn giả

Hiển bày nghĩa chân không.

Nếu biết lời Phật nói

Lý chân không – vô ngã

Tùy thuận không sinh vui

Chống trái không chán sợ.

Thấy các chúng ngoại đạo

Tạo nhiều nhân vô nghĩa

Hữu tình vui chánh pháp

Ai không hề xót thương?

Bà-la-môn ly hệ

Ba tông của Như Lai

Nhĩ nhãn ý thường biết

Nên pháp Phật sâu diệu

Tông của Bà-la-môn

Nhiều khiến hành dối trá

Pháp ngoại đạo Ly hệ

Phần nhiều thuận ngu si.

Cung kính Bà-la-môn

Vì tụng các minh luận

Thương nghĩ hàng Ly hệ

Do tự hành khổ thân.

Như nghiệp chiêu cảm khổ

Chẳng thật nhân giải thoát

Sinh nghiệp thân hơn hết

Cũng chẳng chứng giải thoát.

Lược nói lời Phật dạy

Đầy đủ hai tông khác

Không hại sinh trời người

Quán không chứng giải thoát.

Người đời đắm tự tông

Như yêu chốn quê mình

Chánh pháp thường diệt trừ

Nhóm tà không sinh vui.

Có trí cầu đức thắng

Nên tin nhận chân tông

Chánh pháp như mặt trời

 Có mắt nên thấy được.

 

Phẩm thứ 5: PHÁ CĂN CẢNH

Ở trong các phần bình

Thấy được chỉ là sắc

Nói thấy toàn thể bình

Làm sao ngộ được chân?

Những người có thắng tuệ

Tùy nghĩa đã nêu trước

Nơi hương, vị và xúc

Tất cả loại nên ngăn.

Nếu chỉ thấy sắc bình

Liền nói là thấy bình

Đã không thấy các hương

Nên gọi không thấy bình.

Có các sắc chướng ngại

Chẳng thấy được toàn thể

Phần kia và trung gian

Do phân này cách trở.

Cực vi phân có không

Nên suy xét tường tận

Dẫn làm chứng không thành

Nghĩa trọn không thể thành.

Tất cả pháp chướng ngại

Đều thành từ nhiều phần

Ngôn thuyết, chữ cũng vậy

Nên căn không giữ lấy.

Tuy hiển sắc có hình

Vì sao giữ hình sắc

Tức hiển giữ hiển sắc

Vì sao không do thân?

Lìa sắc có nhân sắc

Nên không phải mắt thấy

Thể hai pháp đã khác

Vì sao chẳng quán riêng?

Thân nhận biết cứng chắc

Cùng địa, thủy v.v… đặt tên

Nên chỉ ở trong xúc

Nói địa, thủy v.v… sai biệt.

Lúc sinh khởi thấy bình

Không thấy có đức khác

Thể sinh như chỗ thấy

Nên thật tánh đều không

Mắt, tai v.v… đều đại tạo

Sao mắt thấy không khác

Nên nghiệp quả khó nghĩ

Mâu-ni nói chân thật.

Vì trí duyên chưa có

Trí không ở trước thấy

Trí ở sau cũng không

Cùng lúc thấy vô dụng.

Mắt nếu đi đến cảnh

Thấy sắc xa nên chậm

Sao cũng chẳng phân minh

Soi rõ sắc xa gần.

Nếu thấy rồi mới đi

Đi tức là vô dụng

Nếu không thấy mà đến

Định muốn thấy nên không.

Nếu không đến mà quán

Nên thấy tất cả sắc

Mắt đã không hành động

Không xa cũng không ngại.

Thể tướng dụng các pháp

Trước sau định nên đồng

Làm sao nhãn căn này

Không thấy nơi tánh mắt?

Trong mắt không sắc thức

Trong thức không sắc mắt

Hai sắc nội đều không

Sao hay hợp thấy sắc?

Nghe nếu biểu hiện được

Sao không thành phi âm

Nếu thanh không nêu giảng

 Vì sao hiểu duyên sinh?

Thanh nếu đến tai nghe

Làm sao hiểu gốc thanh

Nói lý thanh không gấp

Làm sao biết hết được?

Cho đến không chỗ nghe

Nên chẳng phải tánh thanh

Trước không mà sau có

Lý định chẳng tương ưng.

Tâm nếu lìa các căn

Đi cũng thành vô dụng

Giả như sinh mạng này

Nên thường không có tâm.

Khiến tâm vọng giữ trần

Dựa trước thấy dợn nắng

Vọng lập nghĩa các pháp

 Là tưởng uẩn nên biết.

Các nhãn sắc v.v… làm duyên

Sinh các thức như huyễn

Nếu chấp là thật có

Huyễn dụ không thể thành.

Mọi việc nơi thế gian

Hết thảy đều khó lường

Lý căn cảnh cũng vậy

Người trí sao kinh sợ.

Các pháp như vòng lửa

Sự huyễn mộng biến hóa

Như trăng nước tinh tú

Dợn nắng cùng mây nổi.

 

Phẩm thứ 6: PHÁ BIÊN CHẤP

Các pháp nếu thật có

Nên y tha không thành

Tất đã y tha thành

Biết chắc chẳng thật có.

Chẳng tức sắc có bình

Chẳng lìa sắc có bình

Chẳng dựa bình có sắc

Chẳng có bình nương sắc.

Nếu thấy hai tướng khác

Là lìa bình có đồng

Hai tướng đã có khác

Nên lìa bình có khác.

Nếu một không gọi bình

Bình nên không gọi một

Bình một từng không hợp

Bình nên không gọi một.

Nếu sắc khắp nơi thật

Sắc được gọi là đại

Bối luận nếu chẳng khác

Nên làm rõ nghĩa tông.

Năng tướng như hữu số

Hiển sở tướng không thành

Ngoài ra lại không nhân

Nên các pháp chẳng có.

Lìa biệt tướng không bình

Vì thể bình chẳng một

Mỗi mỗi không phải bình

Thể bình cũng không nhiều.

Thể xúc chẳng có không

Hợp với thể có xúc

Nên các pháp như sắc v.v…

Không thể hợp làm bình.

Sắc là một phần bình

Nên thể sắc khác bình

Phần có đã là không

Phần một làm sao có?

Tánh của tất cả sắc v.v…

Tướng như sắc v.v… không khác

Chỉ một loại là bình

Chẳng có lý nào khác.

Nếu sắc khác vị hương

Không khác đối với bình

Bình nên tức như vị v.v…

Sắc nào phải tức bình.

Bình đã là không nhân

Thể nên không thành quả

Vì nếu khác với sắc v.v…

Bình nhất định là không.

Nhân của bình nếu có

Đáng làm nhân của bình

Nhân của bình đã không

Làm sao sinh ra bình?

Lúc sắc thanh v.v… hòa hợp

Trọn không thành các hương v.v…

Vì hòa hợp một thể

Nên như bình đều không.

Như lìa nơi sắc thanh v.v…

Thể bình thật là không

Thể sắc cũng nên thế

Lìa phong, hỏa v.v… chẳng có.

Nóng tức là tánh lửa

Không nóng làm sao đốt

Vì thể củi là không

Lìa lửa này chẳng có.

Nóng khác xen nên thành

Vì sao không thành lửa

Nếu nóng khác không thành

Do pháp lửa nên không.

Nếu lửa nhỏ không củi

Nên lìa củi có lửa

Lửa nhỏ có củi thêm

Nên không còn lửa nhỏ.

Lúc quán kỹ các pháp

Không một thể thật có

Một thể đã không có

Nhiều thể cũng nên không

Nếu pháp lại không khác

Ông cho là một thể

Các pháp đều ba tánh

Nên một thể là không.

Có chẳng có cùng không

Một chẳng một cùng bặt

Tùy thứ tự phối hợp

Người trí hiểu chẳng chân.

Nơi pháp giả nối tiếp

Ác kiến gọi chân thường

Tích tập trong pháp giả

Tà chấp nói thật có.

Các pháp chúng duyên thành

Tánh yếu không tự tại

Hư giả dựa khác lập

Nên ngã pháp đều không.

Quả chúng duyên hợp thành

Lìa duyên không quả khác

Như vậy hợp với quả

Các Thánh hiểu đều không.

Thức là chủng các hữu

Cảnh là chốn thức hành

Lúc thấy cảnh vô ngã

Chủng các hữu đều diệt.

 

Phẩm thứ 7: PHÁ TƯỚNG HỮU VI

Nếu vốn không mà sinh

Trước không sao chẳng khởi

Vốn có mà sinh ra

Sau có lại nên sinh.

Quả nếu thường trái nhân

Trước không chẳng hợp lý

Quả lập nhân không dụng

Trước có cũng không thành.

Lúc này không có sinh

Lúc kia cũng không sinh

Lúc này kia không sinh

Lúc nào sẽ có sinh?

Như sinh nơi tự tánh

Nghĩa sinh đã là không

Nơi tánh khác cũng vậy

Nghĩa sinh đâu thành có.

Ba vị đầu giữa sau

Trước sinh chắc không thành

Hai hai đã là không

Một một làm sao có?

Không lìa nơi tha tánh

Chỉ từ tự tánh sinh

Không từ khác và cùng

Nên sinh chắc không có.

Trước sau và đồng thời

Hai đều không thể nói

Vì sinh cùng với bình

Chỉ giả có không thật.

Cũ nếu ở trước mới

Sinh trước không hợp lý

Cũ nếu ở sau mới

Sinh sau lý không thành.

Hiện không nhân hiện khởi

Cũng không nhân khứ – lai

Vị lai cũng không nhân

Khứ lai đời nay khởi.

Nếu đủ tức không đến

Đã diệt nên không đi

Thể tướng pháp như vậy

Các dụ huyễn không dối.

Ba tướng sinh trụ diệt

Đồng thời có chẳng thành

Trước sau cũng là không

Vì sao chấp là có?

Nếu các tướng như sinh v.v…

Lại có sinh riêng khác

Nên trụ diệt như sinh

Hoặc sinh trụ như diệt.

Sở tướng khác năng tướng

Vì sao thể chẳng thường

Không khác bốn nên đồng

Hoặc lại toàn chẳng có.

Có chẳng sinh pháp có

Có chẳng sinh pháp không

Không chẳng sinh pháp có

Không chẳng sinh pháp không.

Có chẳng thành pháp có

Có chẳng thành pháp không

Không chẳng thành pháp có

Không chẳng thành pháp không.

Nửa sinh nửa chưa sinh

Lúc sinh thể chẳng một

Hoặc vị đã chưa sinh

Nên cũng là lúc sinh.

Lúc sinh nếu là quả

Thể tức chẳng lúc sinh

Lúc sinh nếu tự nhiên

Nên mất tánh khi sinh.

Đã sinh khác chưa sinh

Riêng có vị trung gian

Lúc sinh khác hai vị

Nên riêng có trung gian.

Nếu cho lúc sinh bỏ

Mới được lúc đã sinh

Thế thì nên có khác

Lúc được có thể thấy.

Nếu đến vị đã sinh

Lý tất không lúc sinh

Đã sinh có lúc sinh

Vì sao từ kia khởi?

Chưa đến vị đã sinh

Nếu lập làm lúc sinh

Sao chẳng gọi không bình

Chưa sinh nên không khác.

Không có dụng lúc sinh

Thường chọn lúc chưa sinh

Cũng trái thể chưa tròn

Khác nơi vị đã sinh.

Vị trước lúc sinh không

Vị sau mới nói có

Cùng thành vị đã sinh

Nên vị này chẳng không.

Lúc có gọi đã sinh

Lúc không gọi chưa khởi

Trừ vị có không ấy

Ai lại gọi lúc sinh?

Nhiều người chấp lìa nhân

Không riêng quả được thành

Chuyển sinh và chuyển diệt

Lý đều không thể thành.

 

Phẩm thứ 8: DẠY KHUYÊN ĐỆ TỬ

Do vì thiếu nhân duyên

Nghi không cho chẳng không

 Dựa theo các phẩm trước

Lý giáo nên nhắc lại.

Năng, sở thuyết nếu có

Lý không tức là không

Các pháp nhờ duyên thành

Nên ba sự chẳng có.

Nếu chỉ nói lỗi không

Nghĩa chẳng không tức thành

Lỗi chẳng không đã rõ

Nghĩa không nên trước lập.

Muốn phá trừ tông khác

Tất nên thành nghĩa mình

Sao thích nói lỗi người

Mà không lập tông mình?

Vì phá trừ các chấp

Giả lập khiến làm tông

Ba chấp khác đã trừ

Tự tông tùy chẳng lập.

Cho bình là hiện thấy

Nhân không chẳng có thể

Tông khác hiện thấy nhân

Tông này chẳng chấp nhận.

Nếu không lý chẳng không

Lý không làm sao thành

Ông đã chẳng lập không

Chẳng không nên không lập.

Nếu cho có tông không

Tông có mới lập được

Tông không nếu chẳng có

Tông có tức không thành.

Nếu các pháp đều không

Vì sao lửa gọi nóng

Đây như trước bỏ đủ

Lửa nóng tục chẳng chân.

Nếu cho pháp thật có

Ngăn kia nói là không

Nên bốn luận đều chân

Thấy lỗi gì mà bỏ?

Nếu các pháp đều không

Sinh tử nên chẳng có

Chư Phật đâu từng nhận

Chấp pháp nhất định không?

Nếu chân lìa có không

Duyên nào nói tục có

Tông gốc ông cũng vậy

Vì sao lại vấn nạn?

Các pháp nếu đều không

Sai biệt nên chẳng có

Chấp các pháp đều có

Sai biệt cũng nên không.

Nếu cho pháp chẳng có

Không thể phá nhân có

Phá nhân có đã rõ

Tông ông sao không lập?

Nói phá nhân dễ đạt

Là hư ngôn thế tục

Duyên gì ông không thể

Ngăn phá nghĩa chân không?

Danh có giảng pháp có

Cho pháp thật chẳng không

Danh không biểu pháp không

Pháp thật nên chẳng có.

Do danh hiểu pháp có

Liền cho pháp chẳng không

Nhờ danh nhận biết pháp không

Nên tin pháp chẳng có.

Các pháp thế gian nói

Đều là giả chẳng chân

Lìa danh ngôn thế tục

Mới là chân chẳng giả.

Hủy báng pháp là không

Tức rơi vào kiến không

Chỉ trừ các vọng chấp

Sao nói đọa nơi không?

Vì có chẳng thật có

Không cũng chẳng thật không

Đã không có thật không

 Sao có nơi thật có?

Nhân có chứng pháp không

Pháp không nên chẳng lập

Vì tông nhân không khác

Thể nhân thật là không.

Cho không dụ riêng có

Nêu các pháp chẳng không

Chỉ có dụ nên thành

Nội ngã đồng quạ đen.

Nếu pháp vốn tánh không

Thấy không có đức gì

Phân biệt hư vọng buộc

Chứng không trừ kiến chấp.

Pháp thành một thành không

Trái chân cũng trái tục

Nên cùng có một, khác

Hai đều không thể nói.

Có, chẳng có, cùng không

Các tông đều vắng lặng

Trong muốn khởi vấn nạn

Rốt cuộc không thể nêu.

Bồ-tát Thánh Thiên tạo luận đã xong, lại nêu bày việc diệt tà, tiếp nói tụng:

Tôi còn vì lửa tông tà cháy

Dùng sữa chánh giáo Như Lai tưới

Lại quạt nhân minh gió rộng lớn

Ai dám như bướm lao vào lửa.

HẾT