ĐẠI THỪA TRUNG QUÁN THÍCH LUẬN
Tác giả: Bồ tát An Tuệ
Hán dịch: Đời Triệu Tống, Sa môn Duy Tịnh
Việt dịch: Cư sĩ Nguyên Huệ
QUYỂN 8
Phẩm thứ 9: QUÁN PHẦN VỊ ĐẦU TIÊN
Trong phẩm trước đã nói: Như người tạo (Tác giả) và việc tạo (Tác nghiệp), hai pháp chủ thể nắm giữ và đối tượng được nắm giữ ấy cũng nêu bày về tánh có, không lìa nhau, vì không phải là thắng nghĩa đế.
Có Dị tông nói tụng này:
Các căn như mắt, tai v.v…
Tâm sở pháp như thọ v.v…
Đối tượng thủ nếu thành
Người có thủ trước trụ.
Giải thích: Có người của một tông nói như vầy: Thuyết kia có nhân. Nên tụng dưới nói:
Nếu không trụ trước kia
Sao có như mắt, tai v.v…
Giải thích: Ý lạc trong đó là trước có thể của vật, ví như người dệt. Nên tụng sau nói:
Do đó nên phải biết
Trước đã có pháp trụ.
Giải thích: Nếu pháp có như kiến v.v… của đối tượng được nắm giữ kia trụ trước thì mới có đối tượng được nắm giữ, như tạo ra đồ vật dùng.
Lại nữa, tụng nói:
Các căn như mắt, tai v.v…
Tâm sở pháp như thọ v.v…
Pháp có trước người trụ
Lấy gì nhận biết rõ?
Giải thích: Ý của tông kia nên biết là có chủ thể nắm giữ của pháp khác ấy, tức có đối tượng được nắm giữ có thể đạt được.
Luận giả nói: Các căn như mắt v.v… là khác nhau, đối tượng được nắm giữ đầu tiên không tự thể. Nghĩa này không thành, pháp trừ bỏ này sai khác. Hoặc nếu nêu bày đối tượng được nắm giữ không có, tức chỗ nêu bày tánh của vật là không tự thể, như không có sợi ngang và dọc đan xen với nhau thì tấm vải không thành. Đây là dứt trừ tự tướng của pháp.
Lại nữa, tụng nói:
Nếu lìa căn như mắt v.v…
Pháp có trước người trụ.
Giải thích: Thấy, nghe và người thọ nhận những pháp ấy hoặc có sự trụ đầu tiên, nên tụng dưới nói:
Nên lìa căn: mắt, tai v.v…
Có kiến cùng không nghi.
Giải thích: Nay đây chẳng có, trong nhãn căn ấy không có pháp thấy có thể đạt được hòa hợp, vì không lìa nhãn căn có pháp thấy. Đã nói như vậy, nghĩa còn lại cũng thế. Lìa căn như mắt v.v… thì có pháp nào? Hoặc lấy, hoặc bỏ, hoặc nhãn căn khác, vì sao có nghe, thấy? Nếu không có đối tượng được nắm giữ, hoặc thấy, hoặc nghe, làm sao có thể nhận biết: Đây là đối tượng nghe, đối tượng thấy. Đây là chủ thể nghe, chủ thể thấy. Cũng không phải là mắt v.v… trước có chủ thể thấy và người thọ nhận có thể thành. Điều này do đâu khác nhau? Vì tánh thấy không có tự thể. Vì sao? Vì nếu lìa pháp có là mắt v.v… trụ đầu tiên thì có thể thành nghe và thấy, đây tức là vô trụ. Nếu không lìa pháp có là mắt v.v… trụ trước thì đây mới là thấy, tức là nghe, cũng không hợp đạo lý. Chẳng phải phần vị của sự thấy diệt, hoặc chủ thể của sự thấy là nhãn căn như thế cùng với tướng của đối tượng thấy không lìa nhau, cho nên lìa căn như mắt v.v… cũng không có đối tượng được nắm giữ, thì sao có chủ thể nắm giữ? Hoặc thấy, hoặc nghe, hoặc lìa đối tượng được nắm giữ, sao lại có chủ thể nắm giữ?
Hoặc có tụng nói:
Tất cả căn như mắt v.v…
Thật không pháp trụ trước.
Giải thích: Vì sao pháp có của mỗi mỗi căn đã trụ trước? Nên tụng dưới nói:
Chỗ thủ căn như mắt v.v…
Tướng khác lại loại khác.
Giải thích: Đây không phải là mắt v.v… nơi mỗi mỗi căn kia trước có pháp trụ. Lại nữa, tụng nói:
Nếu các căn như mắt v.v…
Không pháp trước đã trụ
Các căn như mắt v.v… kia
Nên vì sao có trước?
Giải thích: Nếu mỗi mỗi căn quyết định có pháp trước đã trụ, thì đây mới là trước lại có đầu tiên. Nếu như vậy tức là hay lìa? Nay ở đây như thế cũng không phải trước nhãn căn, đầu tiên lại có các căn khác như tai v.v…, vì những căn ấy chưa thành. Điều này lại là thế nào? Nên tụng dưới nói:
Nếu thấy tức người nghe
Người nghe tức người nhận
Mỗi mỗi có trụ trước
Như vậy không hợp lý.
Giải thích: Không phải lìa trong phần vị của sự thấy thì có người nghe và người nhận được hòa hợp. Cũng không phải trước có tánh thấy của các căn như mắt v.v… có thể đạt được, vì trái với mắt v.v…
Lại nữa, tụng nói:
Nếu thấy, nghe đều khác
Người nhận cũng lại khác
Lúc thấy hoặc hay nghe
Tức thành Thể nhiều ngã.
Giải thích: Nếu mỗi mỗi căn như mắt v.v… trước đều có khác, tức thấy nghe mỗi mỗi đều khác. Người nhận cũng khác. Hoặc thứ lớp như thấy v.v… đã thành. Nếu có thấy như vậy, tức là chủ thể nghe, thì đấy là nhân nơi thấy nên có nghe. Điều này lại là thế nào? Do đều nối tiếp có khác biệt nên thành thể của nhiều ngã. Nếu nói riêng có người nắm giữ thì điều này nên quan sát.
Tông kia dẫn chứng: Như Phật nói: Danh sắc duyên sáu xứ, nhưng sắc kia là do bốn đại tạo thành, tức có chủ thể nắm giữ và đối tượng được nắm giữ, cho nên thật có phần vị của người nắm giữ. Do căn như mắt v.v… thứ lớp hòa hợp với sáu xứ mới có pháp thọ sinh khởi.
Lại nữa, tụng nói:
Các căn như mắt, tai v.v…
Tâm sở pháp như thọ
Đều từ các đại sinh
Đại kia không trụ trước.
Giải thích: Nói rốt ráo về tánh nơi chủ thể nắm giữ kia, vì sao lìa đối tượng được nắm giữ ấy nhưng trước có chỗ thành của đại chủng. Nếu như vậy thì không phải là đối tượng được nắm giữ, vì chủ thể nắm giữ không phải do đối tượng được nắm giữ tạo thành. Nếu đối tượng được nắm giữ quyết định như vậy nên có tánh của đối tượng được nắm giữ, như cái cân bên cao bên thấp, tức là nhân quả sinh diệt lìa pháp của đối tượng được nắm giữ. Tánh đồng thời kia đã quyết định như vậy, chủ thể nắm giữ sai biệt nên có nhiều tánh có thể đạt được, chẳng phải tánh một không sai biệt đồng sinh, vì do lìa đối tượng được nắm giữ mà có thành tựu. Hoặc nếu đối tượng được nắm giữ là đại chủng tùy sinh tức không có pháp trước trụ. Nếu đại chủng kia trước không trụ thì vì sao chỗ thành của đại chủng là các căn như mắt v.v… có đối tượng được nắm giữ của nó. Cũng không phải trong khoảng giữa của chủ thể nắm giữ và đối tượng được nắm giữ quyết định có pháp có thể đạt được.
Lại nữa, tụng nói:
Các căn như mắt, tai v.v…
Tâm sở pháp như thọ
Nếu trước không người trụ
Mắt v.v… cũng nên không có.
Giải thích: Nếu các căn như mắt v.v… không có pháp trụ trước, tức không có pháp là chủ thể nắm giữ và đối tượng được nắm giữ, thì vì sao có chủ thể nắm giữ tướng như mắt v.v… để đợi tánh của nhân?
Có người nói: Nên biết chủ thể nắm giữ là không tánh có thể đạt được. Đấy là do phát sinh chánh kiến, lìa bỏ tà kiến. Như Phật dạy: Nếu pháp có tánh đều như huyễn hóa, thì đấy là chánh kiến.
Nếu pháp không tánh như người huyễn hóa, thì đấy là tà kiến. Ở đây tụng nói:
Mắt v.v… kia trước không có
Nay sau cũng lại không
Do ba thời là không
Có tánh đều ngừng diệt.
Giải thích: Phân biệt của các cõi ở trong thắng nghĩa đế đều không thành tựu. Nếu có phân biệt thì đều là sự nêu đặt về chỗ thủ đắc của thế tục. Trong thắng nghĩa đế tức không có phân biệt, vì đã trừ bỏ có tánh. Trong thế tục đế có các pháp là chỗ thủ đắc đều như huyễn hóa. Như trước đã nói: Trước trụ nơi pháp có tức là nói về tà kiến, điều này không trái nhau.
Phẩm thứ 10: QUÁN CỦI LỬA, phần 1
Lại nữa, về đối tượng tạo tác, như nói tánh có nơi thể của vật là củi và lửa, không phải như người tạo và việc tạo hoàn toàn đối đãi nhau mà thành. Nếu tánh có và tánh không quyết định của hai pháp củi và lửa như người tạo và việc tạo thì ở đây không thành.
Ở đây nên hỏi: Nếu muốn khiến cho tánh có nơi thể của vật là hai pháp củi và lửa ấy, là tánh một hay là tánh nhiều có chỗ đạt được? Nghĩa này là thế nào? Vì vậy tụng nói:
Nếu lửa tức là củi
Tạo, người tạo một tánh.
Giải thích: Có chỗ an lập ở đây là nói rốt ráo. Tức nói củi là nhờ củi nên có thể tạo ra lửa lúc đốt cháy, đó là nghiệp dụng của củi. Củi và lửa không phải là một, nên người tạo và việc tạo không phải một tánh. Như thợ gốm và cái bình. Đây là loại trừ tự tướng của pháp. Củi và lửa nếu là một tánh thì chủ thể đốt cháy và đối tượng bị đốt cháy của hai pháp củi và lửa không được hòa hợp. Đây là trừ bỏ pháp sai khác. Nên tụng dưới nói:
Nếu củi khác với lửa
Lìa củi phải có lửa.
Giải thích: Ý trong đây là nếu hiện việc ngừng dứt của pháp khác, tánh khác thì không có chủ thể đốt cháy và đối tượng bị đốt cháy. Nếu lúc lửa cháy thì củi tức không có, liền không có đối tượng sinh khởi, điều này nên suy nghĩ chọn lựa. Nếu lúc không khởi thì củi kia là không tánh, cũng chẳng phải không củi nhưng có lửa có thể hiện thấy. Nếu khác với củi cũng không thấy có pháp của nhân đối đãi, cho nên không có khác. Như không có đường ngang và dọc đan xen nhau thì không thể thành tấm vải.
Lại nữa, tụng nói:
Khác tức nên thường cháy
Vì lửa không nhờ củi
Củi tức không công dụng
Nghiệp dụng này trái nhau.
Giải thích: Tuy có tha pháp không cùng nhân đối đãi tức không nhân nơi củi kia mà lửa tự cháy.
Lại nữa, tụng nói:
Lửa nếu thường xuyên cháy
Công lửa cháy trái nhau
Điều này như trước nói
Lìa củi riêng có lửa.
Giải thích: Nếu không có củi mà lửa thường xuyên cháy, thì đây là không có nhân. Nếu như vậy thì lìa củi thường cháy mới có thể an lập. Nếu lửa thường cháy có thể phát khởi, tức có đầy đủ các tướng tạo tác của lửa cháy kia, nhưng đều trái nhau. Như vậy thì không có công dụng của tác nghiệp. Có củi cũng không có xứ khởi của nhân đối đãi, tức nghiệp dụng của tướng nơi đối tượng đốt cháy là không tự thể. Nếu cho lúc cháy thì lìa lửa có củi, lúc lửa không tắt thì củi khác là không tự thể. Nếu không có khác điều này há là không lỗi. Vì sao trong lúc cháy lại có củi ấy? Nếu không có củi của đối tượng bị đốt cháy thì có lửa khác, nghĩa là lúc lửa đang cháy, củi cũng có khắp, hoặc lửa có khắp. Như vậy nên biết củi không có tánh khác. Điều này nên xét chọn. Nếu nói lúc cháy không có củi, thế nên củi và lửa đều không có tánh khác. Hoặc cho lúc cháy có củi, điều này không hợp lý.
Lại nữa, tụng nói:
Lửa khác tức không đến.
Giải thích: Vì trái nhau với việc đi đến, nên như thể của vật riêng biệt. Nên tụng dưới nói:
Không đến thì không cháy.
Giải thích: Ví như củi riêng biệt. Nên tụng dưới nói:
Không cháy tức không diệt.
Giải thích: Nếu củi hết tức lửa tắt. Sự cháy kia hoặc lìa củi tức lửa cháy không thành. Tụng tiếp nêu:
Không diệt tức thường trụ.
Giải thích: Nếu tự thể thường cháy là như tích chứa nắm đất. Vì sao lìa lửa lại có củi? Vì do khác, không đến. Nếu nói củi ở trong lửa thì điều này cũng không đúng.
Lại nữa, tụng nói:
Nếu khác củi có lửa
Tức củi thường đến lửa
Như người này đến kia
Người kia đến người này.
Giải thích: Quyết định như vậy là trái với sự đến. Nếu nói dụ như vậy thì không thành, ở đây mới có lời nói về chỗ thủ đắc trái nhau.
Lại nữa, tụng nói:
Nếu khác củi có lửa
Muốn khiến củi đến lửa
Hai kia đều cùng lìa
Củi lửa sao đến được?
Giải thích: Như người kia và người này, chớ cho là dùng tánh một, tánh khác để nắm giữ vật thể ấy. Nếu vật thể kia có tức cùng làm nhân đợi nhau. Hoặc vật thể ấy là không tự thể thì như con của Thạch nữ. Nếu pháp nhân nơi đối đãi mà có, như vậy mới có chủ thể nắm giữ và đối tượng được nắm giữ, nhưng cũng không thể nói là tánh một, tánh khác, do tánh có của vật thể, ở đây tức thành tựu.
Lại nữa, tụng nói:
Nếu nhân củi có lửa
Cũng nhân lửa có củi.
Giải thích: Vì chủ thể đốt cháy và đối tượng bị đốt cháy đều không thể thủ đắc, nên tụng dưới nói:
Trước thành hai pháp nào
Củi lửa nương nhau có.
Giải thích: Ở đây nói rốt ráo, vì hai pháp kia trước và sau đều không có tự thể. Ý này tức là không cùng làm nhân chờ nhau. Nếu hai pháp kia có tánh khác, trước thành tức có củi và lửa làm nhân cho nhau. Nếu hai pháp ấy không có tánh khác thì điều này không hợp lý.
Lại nữa, tụng nói:
Nếu nhân củi có lửa
Lửa tức thành lại thành.
Giải thích: Ở đây nhân nào là có củi, lửa kia, do đạo lý cùng làm nhân, nên tụng sau nói:
Cũng chẳng không có củi
Mà có lửa có được.
Giải thích: Lửa không nhân nơi củi, vì lửa củi kia là không tự thể nên lửa cũng như vậy. Nếu trước có chỗ thành tựu thì lại nhân nơi củi mà có. Điều này là thế nào? Vì hai pháp trước và sau cùng làm nhân, chờ nhau có thể đạt được. Nếu chỗ đạt được này đồng thời phát khởi, cũng không phải là đạo lý cùng làm nhân đối đãi. Điều này lại là thế nào? Nên tụng sau nói:
Nếu pháp có nhân đợi
Pháp này trở thành đợi.
Giải thích: Nếu hai pháp kia cùng làm nhân thì hai tướng củi và lửa cùng trở thành pháp đối đãi. Điều này nên quán xét. Nên tụng dưới nói:
Hai pháp không đợi thành
Đã thành vì sao đợi.
Nghĩa ấy là thế nào?
Lại nữa, tụng nói:
Nếu chưa thành có đợi
Chưa thành nên đợi gì?
Giải thích: Chưa thành tức không có tự thể, vì nhân nơi đợi cũng không tự thể, nên tụng dưới nói:
Nếu nhân đợi có thành
Tự đợi không hợp lý.
Giải thích: Nếu tự thể có thành lại là chỗ thành nào? Củi, lửa kia cùng làm nhân cho nhau, nghĩa này không thành.
Lại nữa, tụng nói:
Hai nhân thành không Thể
Không chẳng nhân lửa củi.
Giải thích: Nếu không nhân nơi củi thì lửa nên thường cháy. Thế nên tụng dưới nói:
Nhân củi, lửa cũng không.
Giải thích: Vì cùng làm nhân trước sau không thành. Nên tụng dưới nói:
Nhân lửa cũng không củi.
Giải thích: Cũng không phải lúc cháy có củi, vì lửa kia không có tự thể.
Lại nữa, Tỳ Thế Sư nói: Có lửa cực vi không thấy được tướng. Có nghiệp và nghiệp dụng là hai pháp sai biệt, trong đó trước có hòa hợp một phần, như vậy mới có một phần củi đến phát khởi tướng lửa. Nên tụng bác bỏ:
Lửa không đến xứ khác.
Luận giả nói: Nay ở đây do nhân gì nên nghiệp dụng hòa hợp, vì do tánh của nhân sai biệt sinh ra. Nếu có phần vị nghiệp dụng sinh khởi thì phần vị ấy nơi mỗi mỗi phương xứ kia đều sai biệt. Ông trước nói hòa hợp một phần, điều này không hợp lý. Do nghiệp không chỗ nương dựa nên cũng không có lúc khởi sinh. Nếu tánh của nhân sai biệt hoặc hợp, hoặc lìa, thì phần vị của nghiệp dụng có sự sinh khởi. Cũng chẳng lìa lúc sinh khởi riêng có tánh đối đãi có thể đạt được. Lúc sinh, tác dụng nơi thể của quả như vậy, trong đó cũng chẳng phải trước không có sai biệt, cũng là nhân sai biệt của phi pháp. Một phần trung gian không có tự thể, cũng chẳng phải một phần trung gian được hòa hợp. Ở trong sai biệt, nếu có một phần hòa hợp thì chỗ tạo tác của phần vị cùng thời trái nhau, cũng không hủy hoại nghiệp dụng của nó, vì đạo lý sinh khởi hoặc có hư hại. Nếu chấp diệt có chỗ thủ đắc thì vật thể kia trở lại rơi vào pháp sai biệt. Do vậy nên biết, lửa không từ xứ khác của củi kia mà đến, cũng không có một phần của đối tượng tạo tác nơi hữu thể tự sai biệt như vậy hòa hợp. Vì sao ở trong sai biệt và không sai biệt kia chấp trước nhiều tánh? Lại ở trong một phần cũng có sự chấp trước. Lại ở trong không có phần vị chấp trước tánh có của lửa. Hai pháp củi và lửa như vậy, ở đây cần xét chọn, như trước đã nói. Tụng sau lần lượt nêu:
Trong củi cũng không lửa.
Giải thích: Lìa lửa cũng không có tánh của nhân sai biệt. Nhân quả của lửa kia, vì lửa không có tánh khác, nên cần phải xét chọn về điều này. Lại nữa, chủ thể nắm giữ phát khởi chỗ thủ đắc, chỗ thủ đắc kia tức không có, cho nên không có tánh khác biệt cho củi từ chỗ khác đến nơi lửa, cũng chẳng phải là không lửa. Thế nên tụng dưới nói:
Pháp khác cũng lại thế
Như phẩm Đi Đến nói.
Giải thích: Nếu không có củi vì sao có được chủ thể đốt cháy và đối tượng bị đốt cháy? Nếu lúc có đối tượng bị đốt cháy thì chẳng phải là không có chủ thể đốt cháy, cũng không có chủ thể đốt cháy phát khởi trong chủ thể đốt cháy. Nếu lúc có chủ thể đốt cháy thì chẳng phải là không có đối tượng bị đốt cháy. Thế nên không có chủ thể đốt cháy và đối tượng bị đốt cháy, cũng không phải cùng lìa.
HẾT – QUYỂN 8