ĐẠI THỪA TRUNG QUÁN THÍCH LUẬN
Tác giả: Bồ tát An Tuệ
Hán dịch: Đời Triệu Tống, Sa môn Duy Tịnh
Việt dịch: Cư sĩ Nguyên Huệ
QUYỂN 4
Phẩm thứ 4: QUÁN NĂM UẨN
Thứ lớp nơi phẩm này nay nên dừng bỏ. Việc làm nơi các cõi của mười hai xứ kia, hoặc có Dị tông hiện chỗ an lập. Nghĩa là ở trong thắng nghĩa đế thật có mười hai pháp xứ nội ngoại, vì uẩn thâu giữ nên Luận giả nói là đúng. Đây chẳng phải là không có đạo lý thâu giữ, chỉ vì trong thế tục đế có chỗ thâu giữ của nó, không phải là thắng nghĩa đế, vì các uẩn kia không có thật tánh.
Lại có Dị tông chấp: Tánh có của sắc được tạo có thể đạt được, muốn cho là do các đại chủng tích tập nên thành.
Nay vì đối trừ những chấp kia, nên tụng nói:
Nếu lìa nơi nhân sắc
Sắc tức không thể đạt.
Giải thích: Nhân của sắc là đất, nước, lửa, gió, bốn đại chủng kia do nhân ấy nên có các sắc như sắc xứ v.v… có thể đạt được. Nếu lìa tự tánh tức không thể thủ đắc, nên thế tục giả nêu bày là có. Nếu tánh có của vật thể sai khác, điều này không thể nêu. Vì sao? Tụng nói:
Lìa nhân sắc có sắc
Sắc tức là không nhân
Không nhân không có nghĩa
Pháp nào không nhân lập.
Giải thích: Nếu vật thể có tánh trong nhân của sắc, tức sẽ đối thuyết quả sắc nơi vật thể có chỗ thành. Nếu không nhân có quả, tức không có nghĩa thành tựu. Thế nên không có không nhân có thể thấy, trong đó cũng không có một ít pháp có thể nêu. Lại nữa, tụng nói:
Nếu lại lìa nơi sắc
Có nhân của sắc kia
Tức là nhân không quả
Không quả nhân sao lập.
Giải thích: Nếu vật thể có tánh trong quả sắc, tức sẽ đối nêu vật thể nhân nơi sắc nên có chỗ thành tựu. Nếu có nhân có quả thì vật thể kia có tánh tạo tác, như vậy mới nói pháp nhân có thể chuyển. Đó là nếu lìa nhân của sắc có sắc, lìa sắc có nhân của sắc như vậy, tức vật thể kia không có các tướng cứng (đất), ướt (nước), nóng (lửa), động (gió) lìa tánh, thì vì sao mắt màu xanh v.v… có thể đạt được? Do tướng như sắc, thanh v.v… lìa tánh nên đồng với chỗ thủ đắc các hữu cứng, ướt, nóng, động trong thân kia. Nay vì đối trừ thuyết ấy nên tụng nói:
Nếu như đã có sắc
Nhân của sắc không khởi
Nếu như không có sắc
Cũng không dùng nhân sắc.
Giải thích: Nếu nói có sắc phân biệt nhân của sắc, hoặc cho là không sắc, hoặc cũng có cũng không, nói như vậy đều không hợp đạo lý. Thế nên phải biết chẳng phải có cũng chẳng phải không, duyên nơi nghĩa hòa hợp.
Có người khác nói: Nếu như vậy thì không nhân sẽ có thể đạt được chăng? Tụng bác bỏ:
Không nhân mà có sắc
Việc ấy cũng không đúng.
Giải thích: Thành tựu hết mực trong pháp cũng không nói như vậy.
Người Thắng luận nói: Tôi muốn cho các sắc cực vi như đất v.v… kia là sắc không nhân.
Luận giả nói: Pháp vô tướng kia giống như các sắc của tự loại không có thể tướng. Phân biệt là quả, không phải quả như vậy đều không hợp đạo lý. Ví như chỗ thành tựu của đất tạo nên bình kia, chẳng phải là không có nhân, nhưng là có nhân cực vi, không thật là tánh của nhân vì là không nhân nên như hư không, không phải là một biên. Ở đây nói không phải bản tánh vô thể của tánh nhân kia có thể đạt được. Tuy bình v.v… có nhân, nhưng không phải trong ý cho nhân kia hoàn toàn có thể tánh có thể thành tựu, cũng không phải đồng tánh sinh. Vì nhân cực vi không có quả, nên không phải đồng tánh sinh, tức nhân kia không phải đạo lý. Lại nữa, nếu phân biệt hư không v.v… thường chẳng phải tất cả chỗ hướng đến. Do phân biệt phương phần của hư không v.v…, hoặc nếu có tánh khác biệt có thể lập, nên tụng bác bỏ:
Cho nên ở trong sắc
Lìa phân biệt có, không.
Giải thích: Như sự phân biệt chủ thể tạo tác và đối tượng được tạo tác trong các sắc ấy, hoặc quả hoặc nhân chấp là có Thể, đều là tranh luận. Xứ sở an lập trong chỗ thành tựu của chúng có sự trái nhau. Như Đức Phật nói: Sắc xứ là đối tượng tạo tác của bốn đại, nghĩa của chủ thể tạo ấy, tức là thành tựu nghĩa của nhân, nên biết chỗ nêu bày này không phải là thắng nghĩa đế. Tụng nói:
Quả nếu giống nơi nhân
Thuyết ấy tức không đúng.
Giải thích: Tự tánh của các đại chủng cứng, ướt, nóng, động kia nhưng không thể thấy, không phải là sắc của tự tánh kia có chỗ thủ đắc, thế nên không phải các đại chủng và quả hòa hợp. Có người khác nói: Nếu như vậy tức quả không giống nhân chăng? Vì để ngăn trừ nghĩa này, nên tụng đáp:
Quả nếu không giống nhân
Việc này cũng không đúng.
Giải thích: Nếu tánh không tương tợ tức không quả có thể thành. Vì tánh của quả ấy đình chỉ nên nhiều nghĩa như thọ v.v… cũng đồng thuyết này. Lại nữa, tụng nói:
Tâm thọ tưởng hiện có
Các hành tất cả loại
Cùng hết thảy pháp khác
Đều nói đồng pháp sắc.
Giải thích: Tâm thọ tưởng, hành kia đều đồng pháp sắc, dừng bỏ các tướng như chỗ ngăn trừ, nghĩa này nên biết. Vì sao tâm thọ tưởng, hành như sắc kia? Nghĩa là lìa các nhân tức không thể đạt được. Vì phần vị của các hữu, nhân của sắc, mắt v.v… những nhân và phần vị ấy không thật có tánh, nhân thành tựu. Nếu xa lìa tánh của nhân không thật kia, trong đó cũng không có một ít pháp có thể đạt được. Cũng không phải lìa quả như thọ v.v…, thấy có nhân như nhãn, sắc v.v… Vì không quả nên nhân cũng không có Thể. Nếu lìa nhân của chính nó có quả như thọ v.v… mà có thể thành, tức lìa quả như thọ v.v… nhân kia cũng có tâm. Nếu lìa nhân của tâm, tâm có thể lập thì pháp này không có nhân, tức không có nghĩa ấy. Pháp nào không nhân mà có thể lập chăng? Nếu lại lìa nơi tâm nhưng có nhân của tâm ấy, tức không có nhân của quả. Không có nhân của quả thì vì sao có chỗ nói về các cõi như vậy? Nên biết pháp hữu vi, nếu lìa các uẩn mà có tánh thì đó là chỗ kế chấp về cái khác, ví như bình v.v… Nếu tánh một, tánh khác đều dừng bỏ nghĩa này thì tất cả pháp khác cũng nêu bày như vậy. Tụng nói:
Tất cả các pháp kia
Đều nói đồng pháp sắc
Nếu tranh luận an lập
Tùy chỗ khởi tức không.
Lại nữa, nếu có người ưa thích nói không nên dùng nghĩa không để đáp. Cho nên tụng nói:
Tất cả chẳng lìa không
Tất cả được thành tựu.
Lại hiển bày nghĩa không tự tánh của tất cả pháp kia, thế nên tụng nói:
Nếu thấy tánh một vật
Tất cả pháp cũng thế
Nếu hiểu một pháp không
Tất cả pháp đều không.
Ngôn thuyết có thủ đắc
Các việc làm đều không
Hết thảy không thủ đắc
Tất cả đều thành tựu.
Giải thích: Tuy trong thắng nghĩa đế nói tất cả pháp kia không có tự tánh, nhưng đối tượng tạo tác chỗ thủ đắc cũng chẳng phải là không. Như trước đã nói về điều kia là đều được thành tựu, ở nơi tất cả pháp với nghĩa không thủ đắc nên có chỗ thành tựu. Trong phẩm này, ban đầu nói là thuộc về uẩn v.v… nên biết các uẩn như vậy là không tánh nên không có chỗ thành tựu.
Phẩm thứ 5: QUÁN SÁU GIỚI
Lại nữa, Dị tông chấp: Ở trong thắng nghĩa đế có các giới như địa, thủy, hỏa, phong, thức đã tạo thành sĩ phu, ví như hư không. Họ dẫn chứng: Như Đức Phật nói: Các Bí sô! Nên biết sáu giới của sĩ phu hợp thành thân, ví như hư không. Thuyết này là kiến giải về một bên.
Luận giả nói: Thuyết này là vô tướng, nghĩa là thế tục đế. Các tướng như vậy có chỗ nêu bày là không phải thắng nghĩa đế. Vì thế tụng nói:
Lúc chưa có tướng không
Hư không kia trước không.
Giải thích: Tướng không chướng ngại tức là tướng hư không. Đây là nói về nghĩa thành tựu. Nếu trước có hư không có thể thành tựu, như vậy là cũng đúng. Tướng có có thể lập là nói trước có, nếu có tướng này tức ở trong đó không có nghĩa thành tựu, nhưng tướng như vậy chẳng phải là không có nghĩa thành tựu. Ở đây chỉ là dừng bỏ hẳn tự tướng của các pháp. Thế nên tụng nói:
Vì sao trong vô tướng
Tướng có kia đạt được.
Giải thích: Phần vị như vậy là không có nghĩa thành tựu. Lại nữa, tụng nói:
Tướng không thật, không Thể
Vì sao tướng chuyển biến.
Giải thích: Tiếp theo nên dừng bỏ, vì sao trong vô tướng nhưng tướng chủ thể và tướng đối tượng có thể chuyển đổi. Vì sao cả hai đều nói là tướng có. Điều này lại là thế nào? Nên tụng bác bỏ:
Ở trong pháp vô tướng
Tướng tức không đối tượng.
Giải thích: Ở trong vô tướng, không có vật thể, không có phần vị có thể lập, vì trái nhau với tướng. Lại nữa, tụng nói:
Lìa hữu tướng, vô tướng
Không xứ khác chuyển biến.
Giải thích: Đây là ngăn bỏ sự hiện bày khắp, trong đó cũng không có nghĩa thành tựu. Lại nữa, tụng nói:
Tướng đối tượng không Thể
Tướng chủ thể không lập.
Giải thích: Vì tánh của tướng đối tượng không lìa nhau. Lại nữa, tụng nói:
Tướng chủ thể không có
Tướng đối tượng cũng không.
Giải thích: Vì tánh nơi tướng chủ thể không lìa nhau. Nếu cả hai đều quyết định tức thành lỗi lầm của đối trị. Cũng không phải hai tướng chủ thể và đối tượng có tánh khác nên có thể thành tựu. Nếu có lỗi lầm sinh ra như vậy thì chỗ nêu bày cũng như thế. Vì sao hai pháp có thể thành một, cũng vì sao một pháp lại thành hai? Vì thế tụng bác bỏ:
Nên không tướng chủ thể
Tướng đối tượng cũng không.
Giải thích: Hoặc một, hoặc hai có tánh thành tựu, ở đây đều trừ bỏ. Nên tụng trước nói: Vì không có tướng chủ thể nên không có tướng đối tượng. Nếu tướng đối tượng có thể thành tức tướng chủ thể không có tự thể. Nếu cả hai là tướng chủ thể và tướng đối tượng đều không có Thể thì khác nhau cũng không có thể, cho nên quyết định tướng chủ thể và tướng đối tượng này đều không có Thể.
Có người của Dị tông nói: Không có xứ chướng ngại là tướng hư không. Tướng chủ thể như vậy là tướng của tướng đối tượng kia.
Luận giả nói: Nên biết thuyết này tức là nhân một phần. Vì sao nói không xứ chướng ngại đây, kia là tướng chủ thể, trong đó cũng không có tướng chủ thể như vậy. Điều này không hợp đạo lý.
Người của Dị tông nói: Nếu tướng chủ thể và tướng đối tượng của hư không kia không hợp đạo lý thì vì sao hư không và Tam-bátma-để làm tướng của đối tượng duyên. Lại nữa, đoạn xứ của dục tham làm cảnh giới, như vậy há chẳng phải là hư không có tướng chủ thể và tướng đối tượng kia chăng? Vì tướng ấy có, nên chủ thể và đối tượng này vì sao cũng không có? Tụng bác bỏ:
Lìa sở tướng, năng tướng
Cũng không có tướng riêng.
Giải thích: Người của phái Thí Dụ nói: Xứ ngại không có vật và có ngại không tự thể là hư không. Điều này cũng không đúng. Nếu không có hư không ấy thì thể có của nó vì sao nên có sự không có ấy. Cũng không phải ở trong thắng nghĩa đế có Thể ngăn ngại? Vì hư không kia là không tánh. Thế sao hư không là không tự thể? Hoặc chấp về chỗ có ấy. Đối trị với thể có như vậy, thuyết này trừ bỏ tổng quát các tánh. Cho nên tụng nói:
Nếu khiến không có có V
ì sao nên có, không.
Giải thích: Những hiện có như vậy ở trong thắng nghĩa đế, hoặc tánh không tánh đều lìa thể có. Như lời Đức Phật nói: Này các Bí sô! Chúng Thanh văn của Ta đây, cho đến hoặc có hiểu biết hoặc không có hiểu biết. Chỗ nói như vậy đều là thế tục đế, không phải là thắng nghĩa đế. Ở đây tụng nói:
Có, không đã là không
Ai là người hiểu biết.
Giải thích: Do không tánh có thể thành, không tánh ấy tức lìa tướng. Điều này lại là thế nào? Vì dừng bỏ sự trái nhau giữa có tánh và không tánh, tức tánh có kia ở nơi tất cả xứ đều không thể thủ đắc. Do vậy tụng nói:
Không có Thể, không Thể
Không năng tướng, sở tướng.
Giải thích: Như chỗ nêu bày ấy đồng với pháp hư không, trong đó năm giới được nói đến là thủy, hỏa, địa, phong, thức đều đồng với giới hư không kia. Những giới này đều không có tướng chủ thể và tướng đối tượng, cũng không có có Thể, cũng không có không Thể, chúng đều như hư không ngăn dứt tất cả ngôn thuyết. Ở trong các câu nghĩa, nếu có tranh luận về tà kiến an lập nơi pháp, vọng chấp Lộ-già-đa-dà v.v… Các thuyết như vậy đều chẳng phải là Phật nói. Cần nên lìa bỏ những chỗ nói ấy, vì chúng đều là chẳng phải có. Nghĩa là vì tự tánh của các giới, xứ v.v… trong thắng nghĩa đế là không thể nêu bày. Nhưng ở đây cũng không có không tánh có thể lập, chỉ vì dừng bỏ tánh tạo tác của vật, trong đó không phải không tánh kia có thể đạt được. Điều nêu bày như vậy bác bỏ khắp các tánh.
Như Sư Dị Bộ đã nêu, tụng nói:
Trừ có lời không tánh
Cũng không chấp không tánh
Như nói xanh chẳng xanh
Không muốn trở thành trắng.
Ở đây nên biết, nơi hai loại kiến chấp đều phải trừ bỏ, đều không chỗ thủ đắc. Các giới, xứ v.v… hoặc có thành tựu đều là thuộc thế tục đế. Tất cả mỗi mỗi giới, xứ v.v… kia đều có tự Thể riêng biệt. Pháp thiện, bất thiện đã sinh, chưa sinh, pháp kia thường tại, tuy lại siêng làm nhưng quả lợi là hư huyễn. Giả sử trước có chỗ sinh, về sau tức không tánh, nếu nhận biết như thế thì sự thành tựu như vậy không có lỗi lầm. Do nhân này nên hai thứ tánh và không tánh có chỗ hiện bày sự thật và không chỗ hiện bày sự thật cùng có sự trái nhau. Chấp có tánh có thể sinh, tức không hợp đạo lý, cho nên hai pháp cũng chẳng có tánh, cũng chẳng không tánh có thể thành. Vì sao? Vì từ duyên nên có tức trước có tánh có thể sinh, chỗ sinh tức không tánh, vì tánh không có đối tượng sinh nên có tánh không hợp lý. Đối tượng sinh không thật như vậy, nên ở đây nói có tức là trái nhau. Nếu hoặc tất cả có đối tượng sinh thì hết thảy có sinh không phải là tất cả. Hoặc tất cả sự sinh có năng lực. Vì sao gọi là năng lực? Vì nhân nơi sự sinh có sai biệt. Vì sao có thể sai biệt? Vì quả được sinh những năng lực kia. Điều này lại là thế nào? Là có khác hay không có khác? Vì sao? Vì nếu có khác tức không có phần vị có thể lập, có thể khiến cho quả sinh khởi. Đó là sự phân biệt trái nhau. Nếu không khác tức hết thảy như vậy đều có, trong đó tất cả pháp sinh có thể lập. Nếu lìa tướng, tức tất cả xứ phải không có sai biệt. Vì sao có tánh có thể sinh? Vì nhân quyết định của tánh kia đâu có được hòa hợp, cho nên hoặc tánh một, hoặc tánh khác ở đây là không thể nêu bày. Như vậy cũng đúng, vật thể sai biệt, năng lực hòa hợp, không thể sinh nhân vì có tánh hiện rõ. Nếu ở trong pháp của tự tánh không thật thì các giới, xứ v.v… quyết định có đối tượng thấy như vậy, điều này tức trái nhau. Tất cả pháp thiện, bất thiện hiện có của thế gian, xuất thế gian, việc làm nơi các cõi đã sinh, chưa sinh, nếu muốn quả lợi không hư huyễn thì cần phải đoạn trừ pháp của thế tục đế. Việc đoạn trừ này là hai loại đối tượng được nhận thấy đã quyết định. Trong đó, tụng nói:
Thấy có tánh, không tánh
Là người thiếu trí tuệ
Không chân thật vi diệu
Tuệ nhãn Thánh khai sinh.
Tuy quán nơi các tánh
Nên dừng lặng các kiến
Đây tức thắng nghĩa đế
Xa lìa tất cả kiến.
Giải thích: Nếu đối với các kiến có thể dừng dứt tức nên xa lìa các tánh phiền nhiễu, đối với tất cả pháp đạt được tịch tĩnh.
HẾT – QUYỂN 4