LUẬN TẠP A TỲ ĐÀM TÂM
Tác giả: Tôn giả Pháp Cứu.
Hán dịch: Đời Lưu Tống, Tam tạng Tăng Già Bạt Ma, người Thiên Trúc
Việt dịch: Cư sĩ Nguyên Huệ
QUYỂN 9
Phẩm thứ 9: TẠP
Đã phân biệt các pháp
Mỗi mỗi định nối tiếp
Các nghĩa tạp ở trên
Là nay sẽ lược nói.
Đã phân biệt các pháp, Mỗi mỗi định nối tiếp: Nghĩa là đã nói vô số thứ phẩm loại của các pháp lần lượt nối tiếp nhau. Các nghĩa tạp ở trên, Là nay sẽ lược nói.
Có duyên cũng tương ưng
Có hành và có dựa
Tâm cùng các tâm pháp
Là đồng một nghĩa nói.
Đây là các tâm tâm pháp có tên gọi khác nhau, vì chỗ duyên hợp của chúng, nên nói là có duyên. Vì ở nơi cảnh giới chuyển, cho nên thời gian, chỗ dựa, hành, duyên sự đều cùng chuyển, nên nói là tương ưng.
Có hành là tuệ như nơi phẩm Trí đã nói. Tuệ kia ở nơi duyên tạo hành, nên nói là có hành. Vì dựa vào người khác chuyển, nên nói là có dựa.
Từ duyên sinh cũng nhân
Có nhân cũng hữu vi
Xứ thuyết cùng với đạo
Có quả phải nên biết.
Đây là sự khác nhau về tên gọi của các pháp hữu vi. Vì pháp này duyên nơi pháp kia, rồi hòa hợp cùng sinh, nên nói là từ duyên sinh. Vì sinh ra pháp khác, nên nói là nhân.
Do sức của nhân nên nói là có nhân. Do nhân duyên v.v… tạo tác, nên nói là hữu vi. Vì có thể sinh khởi ngôn thuyết, nên nói là xứ thuyết. Vì thuộc về đạo của quá khứ, vị lai, hiện tại, nên nói là đạo. Vì đạo kia có quả, nên nói là có quả.
Có tội cũng ẩn mất
Cấu uế thấp kém đen
Hữu vi thiện nói tập
Cũng lại gọi là tu.
Có tội cũng ẩn mất, Cấu uế thấp kém đen: Đây là các tên gọi khác nhau của pháp bất thiện và vô ký ẩn mất. Vì cùng với tội đều có, nên nói là có tội, là nghĩa đáng chán ghét. Vì bị phiền não chồng chất, che lấp, nên nói là ẩn mất, là nghĩa bị lậu che lấp. Vì bị phiền não làm cấu uế, nên nói là cấu uế. Vì rất thô bỉ, nên nói là thấp kém. Vì tăm tối, nên nói là đen. Có hai thứ đen: Đen vì cấu uế và đen vì không vừa ý. Ở đây là nói thứ đen vì cấu uế, không nói thứ đen vì không vừa ý. Do thứ đen vì không vừa ý cũng có thứ đen của báo bất thiện.
Hữu vi thiện nói tập, Cũng lại gọi là tu: Đây là các tên gọi khác nhau của pháp hữu vi thiện. Vì thuộc về pháp thiện kia và quả ái, nên nói là thiện. Vì tăng trưởng công đức nên nói là tập và tu. Đây là nói tu đắc và tu tập (Gần gũi là nghĩa của tập. Nghĩa gieo trồng là nghĩa của tu. Hiện tại gọi là tập. Vị lai gọi là tu), nên nói là hữu vi thiện.
Tu đối trị là tu đoạn, tức đối với tất cả pháp hữu lậu cũng nói là tu.
Hỏi: Những gì là tâm bất tương ưng hành?
Đáp:
Vô tưởng hai chánh thọ
Cùng chủng loại chúng sinh
Cú, vị cùng danh thân
Mạng căn và pháp đắc.
Vô tưởng: Nghĩa là chúng sinh của trời Vô tưởng kia thọ sinh thì tâm và tâm pháp diệt. Có thuyết nói: Quả của chánh thọ là vô tưởng. Có thuyết cho: Đó là quả quyến thuộc của thiền thứ tư. Có thuyết nêu: Cho đến có tâm là quả của có tâm, không tâm là quả của không tâm.
Hỏi: Tâm trước nhiều hay tâm sau nhiều?
Đáp: Có thuyết cho: Tâm sau nhiều, tâm trước ít, vì ưa muốn nhanh chóng nhập vô tưởng. Nên nói như vầy: Tâm này không nhất định, hoặc tâm trước nhiều, hoặc tâm sau nhiều. Nếu dùng oai nghi này để nhập chánh thọ vô tưởng, tức dùng oai nghi này nhập vô tưởng trụ. Từ vô tưởng kia khởi rồi hủy báng thừa Niết-bàn, về sau do nghiệp báo nên sinh nơi cõi dục. Nghiệp báo kia hết thì không sinh khởi nghiệp khác.
Hai chánh thọ: Đó là chánh thọ vô tưởng và chánh thọ diệt tận.
Chánh thọ vô tưởng: Nghĩa là ái của cõi Biến tịnh đã hết, ái của cõi trên chưa hết, trước tiên khởi tưởng xuất ly, tư duy về tâm tâm pháp diệt, từ cõi dục khởi, không phải là cõi khác. Đây là hàng lợi căn. Phàm phu khởi, không phải là Thánh nhân, vì không có Thánh nhân ở nơi hữu lại tạo ra tưởng xuất ly. Do phương tiện được, không phải lìa dục được, là không thoái chuyển.
Hỏi: Chánh thọ vô tưởng và vô tưởng có những sai biệt gì?
Đáp: Chánh thọ vô tưởng là nhân, vô tưởng là quả. Nhân chánh thọ là thiện, quả vô tưởng là vô ký. Chánh thọ là có báo, vô tưởng là không báo. Chánh thọ có hành, vô tưởng không có hành.
Chánh thọ diệt tận: Nghĩa là lìa dục của xứ vô sở hữu, trước hết là dứt bỏ tưởng, tư duy về tâm tâm pháp diệt.
Hỏi: Chánh thọ này là thế nào?
Đáp: Tâm tâm pháp đều diệt, trung gian nối tiếp nhau, tâm bất tương ưng hành lưu chuyển theo và trụ nơi các căn của bốn đại. Đây là nói chánh thọ diệt tận. Chánh thọ khác như đã nói trong phẩm Định.
Chủng loại: Nghĩa là sự giống nhau về chi tiết nơi các căn của thân chúng sinh, cùng hành nghiệp, sự ăn uống. Chủng loại kia có sáu thứ, là chủng loại cõi, chủng loại nẻo, chủng loại sinh, chủng loại xứ sở, chủng loại tự thân và chủng loại tánh.
Chủng loại cõi: Nghĩa là chúng sinh nơi cõi dục là chủng loại của chúng sinh nơi cõi dục. Cõi sắc, cõi vô sắc cũng như vậy.
Chủng loại nẻo: Nghĩa là ở nơi một nẻo thì sinh ra theo chủng loại của nẻo ấy.
Chủng loại sinh: Nghĩa là thọ nhận một đời thì có chủng loại của một loài ấy.
Chủng loại xứ sở: Nghĩa là sinh ở địa ngục Vô trạch thì có chủng loại của địa ngục Vô trạch. Cho đến đệ nhất hữu cũng như vậy.
Chủng loại tự thân: Nghĩa là đồng sinh nơi một cõi, một nẻo, một loài (Một loài là một trong bốn loài) nên có vô số thứ tự thân, như các loài chim. Nên so sánh như vậy.
Chủng loại tánh: Nghĩa là tánh bẩm sinh đồng là chủng loại tánh.
Nếu sáu chủng loại tương tợ thì đó gọi là chủng loại.
Cú: Là tập hợp các danh, vị, làm rõ nghĩa cứu cánh.
Vị thân: Là thân của chữ (Vị là chữ. Trong tiếng Phạn có vị thanh là khuôn mẫu của chữ, không phải là chữ của hình sắc như ngày nay).
Danh: Là tên gọi các pháp, dùng tên gọi để làm rõ nghĩa, như gọi là nam, nữ.
Mạng: Là thọ mạng, nghĩa là được ấm, giới, nhập không hoại.
Hỏi: Hành của mạng và hành của thọ mạng có sai biệt gì?
Đáp: Có thuyết cho: Không có khác nhau. Có thuyết cho: Quả của nghiệp đời trước gọi là thọ mạng. Quả của tu gọi là mạng.
Hỏi: Vì sao Đức Thế Tôn xả bỏ thọ mạng của phần thứ năm?
Đáp: Vì Phật sự đã hoàn toàn rốt ráo. Những sự khác là cứu cánh của Thanh văn. Lại nữa, vì trụ nơi bốn Thánh chủng, vì hữu và các vật dụng đều đã hoàn toàn dứt hết.
Đắc: Nghĩa là đắc các pháp và được thành tựu, đều đồng một nghĩa. (Phần sau sẽ nói rộng).
Nói tánh phàm phu kia
Và bốn tướng các pháp
Chẳng sắc, bất tương ưng
Nói là hành hữu vi.
Tánh phàm phu: Nghĩa là không được pháp của Thánh.
Bốn tướng: Là sinh, trụ, lão, vô thường (Đã nói trong phẩm Hành).
Chẳng sắc: Nghĩa là các pháp này không phải là tánh của sắc, vì chúng không phải là phần của bốn chủng và sắc được tạo. Bất tương ưng: Nghĩa là không duyên.
Nói là hành hữu vi: Nghĩa là do cái khác tạo nên và tạo nên cái khác.
Hỏi: Các hành này có bao nhiêu thứ là thiện, bao nhiêu thứ là bất thiện và bao nhiêu thứ là vô ký?
Đáp:
Hai thiện, năm thứ ba
Nên biết bảy vô ký
Hai ở trong cõi sắc
Một ở địa vô sắc.
Hai thiện: Là chánh thọ vô tưởng và chánh thọ diệt tận, vì là tánh của tu thiện.
Năm thứ ba: Nghĩa là đắc, sinh, trụ, lão, vô thường, nếu ở trong thiện là thiện, ở trong bất thiện là bất thiện, ở trong vô ký là vô ký. Vì cùng với pháp như sinh v.v… là một quả.
Đắc: Nghĩa là không phải là không có phần của mình.
Nên biết bảy vô ký: Nghĩa là vô tưởng, chủng loại, cú, vị, danh, mạng căn, tánh phàm phu.
Hỏi: Trong các pháp này, có bao nhiêu pháp hệ thuộc cõi dục, bao nhiêu pháp hệ thuộc cõi sắc, bao nhiêu pháp hệ thuộc cõi vô sắc?
Đáp: Hai ở trong cõi sắc: Đó là trời Vô tưởng và chánh thọ vô tưởng là hệ thuộc cõi sắc. Do trời Vô tưởng là quả của thiền thứ tư. Chánh thọ vô tưởng thì thiền thứ tư gồm thâu.
Một ở địa vô sắc: Nghĩa là chánh thọ diệt tận hệ thuộc cõi vô sắc, thuộc về đệ nhất hữu (Xứ phi tưởng phi phi tưởng).
Hai cõi nói có ba
Ngoài ra ở ba cõi
Hữu lậu, vô lậu năm
Còn lại đều hữu lậu.
Hai cõi nói có ba: Nghĩa là cú, vị, danh thân ở cõi dục, cõi sắc, không phải là cõi vô sắc, vì ở đấy không có phần của ngôn ngữ.
Ngoài ra ở ba cõi: Nghĩa là chủng loại, đắc, mạng căn, tánh phàm phu. Các tướng của đắc ở nơi ba cõi, vì là phổ biến.
Hỏi: Có bao nhiêu thứ là hữu lậu, bao nhiêu thứ là vô lậu?
Đáp: Hữu lậu, vô lậu năm: Nghĩa là bốn tướng hữu vi ở trong pháp vô lậu tức là vô lậu, ở trong pháp hữu lậu tức là hữu lậu, và một quả của pháp.
Đắc: Nghĩa là nếu đắc là hữu vi thì cũng như vậy. Nếu đắc là số diệt thì hoặc là hữu lậu, hoặc là vô lậu, vì cùng với phàm phu. Nếu đắc là phi số diệt thì là hữu lậu, vì vô ký. Tức do nghĩa này nói là hệ thuộc, không hệ thuộc.
Còn lại đều hữu lậu: Tức trời Vô tưởng, chánh thọ vô tưởng, chánh thọ diệt tận, cú, vị, danh, mạng căn, chủng loại của chúng sinh, tánh phàm phu hoàn toàn là hữu lậu, vì gồm thâu hữu.
Hỏi: Lìa pháp Thánh gọi là tánh phàm phu. Vậy làm sao xả? Làm sao đoạn?
Đáp:
Trong tâm vô lậu đầu
Nên biết xả không đắc
Phàm phu trôi các cõi
Khi lìa dục diệt tận.
Trong tâm vô lậu đầu, Nên biết xả không đắc: Nghĩa là Thánh nhân lúc sinh tâm vô lậu đầu tiên là xả tánh phàm phu. Tâm vô lậu đầu tức tương ưng với khổ pháp nhẫn, nên lúc tâm kia sinh là xả tánh phàm phu. Nếu cho là khởi rồi mới xả bỏ, thì khi vị ấy trụ nơi khổ pháp nhẫn, tức nên không phải là Thánh nhân, vì không xả tánh phàm phu, thế nên nói là lúc sinh. Do vậy nên Đức Phật đã nói, lúc hai pháp sinh, thì sự việc ấy là trọn vẹn. Sự việc bên trong là quyến thuộc của khổ pháp nhẫn. Sự việc bên ngoài tức là các thứ ánh sáng.
Phàm phu trôi các cõi: Nghĩa là lúc phàm phu lưu chuyển trong các cõi, nếu mạng chung ở địa này tức là xả bỏ địa này, nếu sinh nơi địa kia tức là được địa kia. Vì là vô ký không ẩn mất, vì không phải là hoàn toàn xả, vì không được pháp Thánh.
Khi lìa dục diệt tận: Nghĩa là nếu lìa dục của địa này, như phàm phu và Thánh nhân, bấy giờ, đoạn dứt tánh phàm phu ở địa này, vì là vô ký không ẩn mất.
Hỏi: Ba vô vi có tướng gì?
Đáp:
Đoạn phiền não lìa buộc
Đó gọi là số diệt
Không có tướng chướng ngại
Đấy nói là hư không.
Đoạn phiền não lìa buộc, Đó gọi là số diệt: Nghĩa là dùng trí tuệ đoạn trừ phiền não như thân kiến v.v… cùng quyến thuộc. Được ở đây là được lìa trói buộc. Những sự lìa trói buộc này gọi là số diệt. (Chủng loại, số lượng của bệnh, thuốc là đối nhau).
Có thuyết cho: Chỉ một sự việc diệt, không có tự phần, nên có rất nhiều thứ được. Nếu ở đây được diệt được chứng, tức ở đấy là Niết-bàn. Thế nên Niết-bàn là không chung.
Tỳ-bà-sa nói: Ở nơi sự trói buộc này, tức đấy là sự lìa trói buộc. Nếu khác là do kiến khổ đoạn trừ, kiết chủng thì phiền não khác cũng nên đoạn vì cùng tác chứng một sự việc. Nếu như vậy, các pháp đối trị sau tức nên vô dụng, chỉ vì chúng chưa được rốt ráo. Do thế sự việc đều riêng biệt, không có nhân của tự phần, nên nói là không có tự phần. Không có nhân của tự phần này, cũng không so với khổ pháp nhẫn và quyến thuộc của người khác. Tuy không có nhân của tự phần, nhưng vẫn dựa vào nhân tự phần của người khác. Do không phải là phần của phẩm kia, nên nói là phi phẩm.
Do phiền não diệt nên nói là Niết-bàn. Vì nói về vô biên nên ngôn thuyết không phải là nêu bày. Vì hơn tất cả pháp nên nói là tối thắng. Vì là quả của trí nên nói là trí. Vì không gieo trồng nên nói là không sinh. Vì ở bên cạnh đạo giải thoát nên nói là biên. Vì ra khỏi tất cả pháp nên nói là xuất. Vì lìa lỗi của vô thường v.v… nên nói là diệu.
Không có tướng chướng ngại, Đấy nói là hư không: Nghĩa là không chướng ngại nơi vô số thứ sắc, do có đến, đi v.v… nên nói là hư không. Phái Thí dụ nói: Hư không không phải là sắc, cũng không phải là phi sắc. Nói hư không là tùy thuận thế gian nên nói.
Có thuyết cho: Không phải là không có hư không, vì đã dung nạp cái có. Nếu không có hư không, thì không nên dung nạp cái có. Đã dung nạp cái có, thế nên có sự việc hư không.
Dựa nơi các pháp duyên
Có dựa và cảnh giới
Không đủ thì không sinh
Đây diệt rõ đúng sai.
Tất cả pháp hữu vi đều dựa nơi sức của duyên và cảnh giới để phát khởi, vì chúng yếu kém. Pháp kia không phải phần thì không sinh. Như nhãn thức dựa vào mắt, sắc, ánh sáng, khoảng không và sự nhớ nghĩ của thức kia hòa hợp nên sinh. Mỗi mỗi thứ không đủ thì không sinh. Lúc thức khác hiện ở trước thì trong khoảnh khắc của niệm niệm, mắt khác diệt, mắt khác sinh. Do các duyên không đủ, nên nhãn thức không sinh được. Nếu nhãn thức nên dựa nơi mắt kia để sinh thì không sinh. Vì chỗ nương dựa v.v… đã diệt, nên cuối cùng không sinh. Do trước không có phương tiện mà diệt, nên nói là phi số diệt. Như nhãn thức, tất cả thức thân cũng như vậy. Lại, vô lậu là đạo Tùy tín hành, do tinh tấn nên được. Đạo Tùy pháp hành là phi số diệt. Tất cả đạo cũng như vậy. Tùy theo nghĩa ấy đều nên nhận biết.
Hỏi: Nếu đạo thắng tấn này đắc thì vì sao không phải quả của đạo gồm thâu?
Đáp: Vì sự việc khác. Vì đoạn trừ phiền não. Do siêng tạo phương tiện không là phi số diệt, thế nên không phải quả của đạo gồm thâu.
Hỏi: Tất cả pháp hữu vi nói nhân nơi gì, làm nhân cho cái gì?
Đáp:
Nhân trước tương tợ tăng
Hoặc đều nương dựa sinh
Hai nhân cùng một duyên
Hoàn toàn nói đã sinh.
Nhân trước tương tợ tăng: Nghĩa là pháp trước làm nhân cho pháp tương tợ sau và nhân tăng không phải là nhân kém. Tức lúc tu pháp, hoặc trụ, hoặc tăng, không phải là giảm.
Hoặc đều nương dựa sinh: Đó là nhân tương ưng và nhân cộng hữu.
Hai nhân cùng một duyên, Hoàn toàn nói đã sinh: Nghĩa là nhân của tự phần nói là đã sinh, không phải là chưa sinh. Trước là nhân cho sau. Chưa sinh thì không có trước sau. Nhân nhất thiết biến cũng như vậy. Duyên thứ đệ cũng nói là đã sinh. Về nghĩa của nhân duyên như trong phẩm Hành đã nói.
Hỏi: Báo nên nói là số chúng sinh hay không phải là số chúng sinh?
Đáp:
Báo là số chúng sinh
Quả giải thoát hữu vi
Có duyên nói cùng hành
Là nơi tướng khác chuyển.
Báo là số chúng sinh: Nghĩa là báo nói là số chúng sinh, vì không chung, vì không do mắt của người khác thấy, cũng không thành tựu. Nghĩa của báo khác cũng như vậy. Các vật dụng như y phục, thức ăn uống v.v…, nên biết là quả công dụng, quả tăng thượng, không phải là số chúng sinh, vì là chung.
Hỏi: Quả là thế nào?
Đáp: Quả giải thoát hữu vi: Nghĩa là tất cả pháp hữu vi, nói là quả có nhân sinh, nên cùng với số duyên diệt. Cũng nói là quả của đạo. Về nghĩa của quả trong phẩm Nghiệp đã nói.
Hỏi: Thế nào là tâm tâm pháp ở nơi duyên chuyển?
Đáp: Có duyên nói cùng hành: Tức nếu là pháp có duyên thì cùng ở trong duyên chuyển để biện giải xong sự việc.
Hỏi: Ở nơi duyên nào chuyển?
Đáp: Là nơi tướng khác chuyển: Tức tâm tâm pháp duyên với pháp khác, không phải với tự tánh. Vì sao? Vì không có hai quyết định, không tự hành, vì cũng không duyên tương ưng với một hành, một duyên, cũng không duyên nơi cộng hữu, vì đồng một quả. Về nghĩa này nơi phẩm Trạch sẽ nói rộng.
Hỏi: Tâm tâm pháp là có phương xứ hay là không có phương xứ?
Đáp:
Nhân khắp không phương xứ
Lúc sinh tâm giải thoát
Phiền não ở tâm đạo
Cho đến lúc diệt, xả.
Nhân khắp không phương xứ: Tức tâm tâm pháp là nhân khắp sinh. Nghĩa là nhân nơi hai mắt phát sinh một thức. Nhĩ, tỷ thức cũng như vậy.
Nếu có phương hướng, xứ sở, tức nên ở trong một mắt chuyển.
Nếu như vậy thì chỉ nên một mắt thấy sắc, không nên đều cùng thấy. Về nghĩa này trong phẩm Giới đã nói.
Nếu nói có hai thức đều cùng sinh là không đúng. Vì sao? Vì không phải là phần của duyên thứ đệ thứ hai.
Một thức trụ ở hai mắt thấy sắc là không đúng, vì không có phần. Nếu một thức trụ trong hai mắt, tức nên có phần sinh. Nếu trụ nơi mắt bên trái thì không phải là mắt bên phải, vì phương xứ riêng khác. Đó là thuyết sai trái, vì không sắc không có phần.
Nếu lại một thức trụ nơi hai mắt, thì trong thân căn giữa hai mắt kia cũng nên sinh. Nếu như vậy thì nhãn thức tức là thân thức. Nếu nơi trung gian không sinh tức nên đoạn tạo thành hai phần, không phải là một như trước đã nói, vì không có hai thức đều cùng sinh.
Hỏi: Tâm giải thoát ở đời nào?
Đáp: Lúc sinh tâm giải thoát: Nghĩa là lúc đạo sinh, là lúc phiền não diệt. Thế nên lúc đạo sinh là tâm giải thoát. Như bờ đê bị rò rỉ, thì nước ở gần đấy chảy ra trước. Tâm giải thoát kia cũng như vậy. Lại có thuyết cho: Hết thảy tâm giải thoát là ở vị lai, không phải là riêng lúc sinh, chỉ do giải thoát đầu, nên nói là lúc sinh.
Hỏi: Lúc đạo phát sinh là có đoạn trừ phiền não hay là không?
Đáp: Phiền não ở tâm đạo, Cho đến lúc diệt, xả: Tức lúc đạo diệt thì sự diệt trừ phiền não ấy cũng đã trọn vẹn. Lúc sinh là vị lai. Làm sao đạo vị lai lại có thể hoàn thành công việc? Thế nên nói lúc đạo vô ngại diệt là đoạn trừ phiền não.
Hỏi: Hữu ái có bao nhiêu thứ?
Đáp:
Hữu ái có năm thứ
Vô hữu chỉ một tướng
Sự ái phiền não khác
Diệt tận là ba cõi.
Hữu ái có năm thứ: Nghĩa là hữu ái tham đối với hữu có năm thứ. Tức là do kiến khổ, tập, diệt, đạo và tu đạo đoạn. Do năm hành gieo trồng tham nơi hữu.
Vô hữu chỉ một tướng: Nghĩa là vô hữu ái là do kiến đạo đoạn. Đã ở nơi tự báo đoạn trừ, sinh vui thích chấp trước là do tu đạo đoạn. Vì sao? Vì kiến tham là do kiến đạo đoạn. Tham này là tùy theo báo. Vô thường khởi báo là do tu đạo đoạn, vì là vô ký không ẩn mất. Báo nơi vô thường cũng như vậy, vì cùng với báo là đồng một quả nên không phải do kiến đạo đoạn. Tham nơi duyên là do tu đạo đoạn, vì không phải là nhất thiết biến. Vô hữu ái này, Tu-đà-hoàn, Tư-đà-hàm không đoạn nhưng cũng không hành, do đã đoạn trừ đối tượng nuôi lớn của kiến. Cũng như đối tượng nuôi lớn của hối, nghi. Tu-đàhoàn, Tư-đà-hàm cũng không hành.
Hỏi: Đức Thế Tôn nói ba cõi: Cõi đoạn, cõi không dục và cõi diệt. Ba cõi này là thế nào?
Đáp: Sự ái phiền não khác, Diệt tận là ba cõi: Tức ái kia đã hết là cõi không dục. Sự việc đã hết là cõi diệt. Phiền não khác đã hết là cõi đoạn. Do nhận lấy gần để đối trị.
Luận giả nói như vầy: Trong Tu-đa-la, Đức Thế Tôn nói: Tất cả hành đều hết gọi là cõi đoạn. Cõi không dục và cõi diệt cũng như vậy.
Hỏi: Trong mười hai pháp: Cõi dục có bốn: Là thiện, bất thiện, vô ký ẩn mất, vô ký không ẩn mất. Cõi sắc có ba, trừ bất thiện. Cõi vô sắc có ba cũng như vậy. Cùng với hai pháp học, vô học. Vậy nơi mười hai pháp này có bao nhiêu thứ được trong tâm cấu uế, bao nhiêu thứ được trong tâm thiện và bao nhiêu thứ được trong tâm vô ký?
Đáp:
Nếu được chín thứ pháp
Nên biết tâm cấu uế
Tâm thiện được sáu thứ
Vô ký tức vô ký.
Nếu được chín thứ pháp, Nên biết tâm cấu uế: Nghĩa là lúc cõi và địa lại thoái chuyển, thì nơi cõi dục, cõi sắc được bảy tâm (Ở nơi cõi trên mất, khi trở lại sinh nơi cõi sắc, được tâm vô ký hóa của cõi dục và ba tâm của cõi sắc) và thiện của cõi dục. Lúc căn thiện nối tiếp thì được. Lúc thoái chuyển thì được tâm cấu uế và tâm học của ba cõi. Ngoài ra không được là pháp thiện, vô ký không ẩn mất của cõi vô sắc và vô học. Tuy pháp thiện của cõi vô sắc có một ít do thoái chuyển được, là phần thoái song ở đây nói đều là không thành tựu mà được. Đây tức là nói chung không phải trong một tâm của một người mà được chín pháp.
Tâm thiện được sáu thứ: Nghĩa là trong tâm thiện được sáu tâm: Vô ký không ẩn mất của cõi dục. Thiện và vô ký không ẩn mất của cõi sắc. Thiện cùng học và vô học của cõi vô sắc. Đây cũng là nói chung, không phải trong cùng một lúc có được.
Vô ký tức vô ký: Nghĩa là vô ký không ẩn mất tức được vô ký, không phải là pháp khác, vì yếu kém.
Hỏi: Trong mười pháp của phẩm đạo, có bao nhiêu thứ là tánh của căn? Bao nhiêu thứ không phải là tánh của căn?
Đáp:
Phẩm đạo có sáu pháp
Nên biết là tánh căn
Các pháp nếu tương ưng
Tức nói là tha tánh.
Phẩm đạo có sáu pháp, Nên biết là tánh căn: Nghĩa là năm căn như tín v.v… và hỷ giác chi, nên biết là tánh của căn, do được tướng của căn. Các thứ khác không phải là tánh của căn.
Hỏi: Pháp tương ưng là tự tánh hay là tha tánh?
Đáp: Các pháp nếu tương ưng, Tức nói là tha tánh: Nghĩa là các pháp tương ưng với tha tánh, không phải với tự tánh. Vì không có một tánh, trong hai sát-na đều cùng khởi. Do trước cùng với sau không hợp. Do tự tánh không tự tương ưng được. Về nghĩa này trong phẩm Hành đã nói rộng.
Hỏi: Giải thoát ở đâu?
Đáp:
Trong duyên được giải thoát
Bậc Đại tiên đã nói
Cũng có đoạn mà buộc
Kiến đạo và tu đạo.
Trong duyên được giải thoát, Bậc Đại tiên đã nói: Tức nên biết là ở trong duyên được giải thoát, không thể ở nơi tương ưng có được giải thoát. Do nơi một sát-na tâm cùng với phiền não đều cùng sinh. Chúng sinh ở trong duyên trở nên ngu tối, vị kia tức khởi giải thoát, không ngu tối đối với phiền não.
Hỏi: Đoạn tức là giải thoát chăng?
Đáp: Hoặc giải thoát tức là đoạn, nhưng Cũng có đoạn mà buộc. Nghĩa là có một ít đoạn không phải là giải thoát. Đó là khổ trí đã sinh, tập trí chưa sinh, đoạn trừ phiền não do kiến khổ đoạn. Còn kiến tập thì đoạn trừ sử phược nhất thiết biến, nhưng duyên kia chưa đoạn. Tu đạo mới đoạn một phẩm, tám phẩm phược còn lại, cho đến tám phẩm được đoạn dứt. Do phẩm phược thứ chín là một sử, nên tám phẩm kia thì trước đoạn sau giải thoát. Phẩm thứ chín thì tức đoạn là tức giải thoát. Tất cả các thứ còn lại cũng như vậy.
Hỏi: Kiến đế như thế nào để được tịnh bất hoại?
Đáp:
Hai giải nơi ba đế
Bốn do thấy chánh đạo
Mà được tịnh không hoại
Tu tập ở hai đời.
Hai giải nơi ba đế, Bốn do thấy chánh đạo, Mà được tịnh không hoại: Nghĩa là khổ, tập, diệt vô gián đẳng đạt được pháp tịnh bất hoại cùng Thánh giới. Đạo vô gián đẳng thì được bốn tịnh bất hoại. Về nghĩa này trong phẩm Trạch sẽ nói rộng.
Hỏi: Tu trong những đời nào?
Đáp: Tu tập ở hai đời: Hiện tại là tu tập, được hiện ở trước. Vị lai là tu đắc, không hiện ở trước, nhưng được nối tiếp theo. Quá khứ không phải là tu, vì không có phần của nhân hiện tại.
Hỏi: Những pháp nào tùy theo tâm đều cùng chuyển?
Đáp:
Tất cả các tâm pháp
Nói cùng tâm cùng chuyển
Cũng các tướng tâm này
Tướng khác và đã tạo.
Tất cả các tâm pháp, Nói cùng tâm cùng chuyển: Nghĩa là tất cả tâm pháp đều cùng với tâm cùng chuyển, vì đồng một quả với tâm.
Cũng các tướng tâm này: Nghĩa là các tướng như sinh v.v… của tâm này, cũng cùng với tâm chuyển biến, vì cũng cùng đồng một quả với tâm.
Tướng khác: Tức tướng của tâm pháp này cũng cùng với tâm cùng chuyển. Và đã tạo: Tạo tác gọi là giới vô tác, vì là do tâm, cũng cùng với tâm đều cùng chuyển, do cũng cùng đồng một quả với tâm.
Hỏi: Thế nào là pháp đoạn?
Đáp:
Pháp đoạn là hữu lậu
Nhận biết cũng không cấu
Vị lai diệt là xa
Ngoài ra tức nói gần.
Pháp đoạn là hữu lậu, vì có lỗi lầm. Như chiếc áo có vết nhơ đã được giặt sạch, không phải là không có vết nhơ. Pháp đoạn kia cũng như vậy.
Hỏi: Thế nào là pháp nhận biết?
Đáp: Nhận biết cũng không cấu: Tức nếu là pháp hữu lậu, vô lậu, tất cả đều nói là nhận biết tùy theo sự việc kia. Vì sao? Vì đã trừ không nhận biết.
Hỏi: Thế nào là pháp xa?
Đáp: Vị lai diệt là xa: Tức pháp của quá khứ, vị lai nói là xa, vì cách xa với thức của hiện tại. Đây là nói xa về thời gian. Bốn nghĩa của xa đã nói trong phẩm Hành.
Ngoài ra tức nói gần: Nghĩa là hiện tại nói là gần, vì đều cùng có với thân thức. Vô vi nói là gần, vì không hệ thuộc nơi phương xứ. Tùy nơi phương nào thì diệt, ở nơi phương nào thì được là do đạo. Không phải là số diệt, vì lìa các thứ dốc sức mong cầu. Về nghĩa của đời trong phẩm Giới đã nói rộng.
Hỏi: Thế nào là pháp định?
Đáp:
Đó là nghiệp vô gián
Và các đạo vô lậu
Tuệ được nói là định
Kiến xứ là hữu lậu.
Đó là nghiệp vô gián, Và các đạo vô lậu, Tuệ được nói là định: Nghĩa là nghiệp vô gián được nói là tà định, vì định này dẫn đến địa ngục. Hành vô lậu được nói là chánh định, vì định này hướng đến quả giải thoát. Các thứ khác không là định.
Hỏi: Đức Thế Tôn ở nơi cội Bồ-đề, đối với tất cả chúng sinh đã kiến lập ba tụ. Vì giới hạn sai biệt của chúng sinh nên kiến lập hay là vì giới hạn sai biệt của pháp nên kiến lập?
Nếu nói là do giới hạn sai biệt của chúng sinh thì vì sao nói không được chúng sinh biên, nhưng chúng sinh là vô biên?
Nếu nói là do giới hạn sai biệt của pháp nên kiến lập thì Thanh văn cũng nên kiến lập, vì sao nói Như Lai là không chung?
Đáp: Có thuyết cho: Giới hạn sai biệt của chúng sinh là tổng tướng, không phải là tự tướng, đó là nói bốn loại sinh. Trừ bốn loại sinh này, thì không còn chúng sinh khác.
Hỏi: Nếu như vậy thì Thanh văn cũng nên kiến lập. Vậy Như Lai và Thanh văn có khác biệt gì?
Đáp: Có khác nhau. Vì Đức Như Lai là tự lực kiến lập, còn Thanh văn là theo Phật để nghe lãnh hội. Đây tức khác nhau. Lại có thuyết cho: Đức Như Lai kiến lập giới hạn sai biệt của chúng sinh. Còn Thanh văn, Duyên giác thì kiến lập giới hạn sai biệt của pháp. Đức Thế Tôn kiến lập ba tụ chúng sinh rồi, đến nay vì đại bi nên vẫn còn luôn tạo nên an lạc cho chúng sinh. Do trong ba thời của ngày đêm đã dùng Phật nhãn quán xét chúng sinh.
Hỏi: Thế nào là kiến xứ?
Đáp: Kiến xứ là hữu lậu. Tất cả pháp hữu lậu đều là kiến xứ, tức chúng đều cùng có với kiến cấu uế. Nếu pháp là kiến cấu uế duyên với sử và tương ưng với sử, thì pháp ấy nói là kiến xứ. Có thuyết cho: Vì duyên với sức của kiến nơi tự giới, nên pháp hữu lậu được gọi là kiến xứ, không phải duyên nơi sử khác, vì không phải là phần. Như vậy thì nói như thuyết thuyết là tốt.
Hỏi: Nếu chúng sinh thành tựu căn thì chúng sinh ấy thành tựu bao nhiêu căn?
Đáp:
Nói có mười chín căn
Là thành tựu nhiều nhất
Ít nhất thành tựu tám
Hiểu rõ căn đã nói.
Nói có mười chín căn, Là thành tựu nhiều nhất: Nghĩa là Thánh nhân thành tựu nhiều nhất là mười chín căn, tức là gồm đủ các căn chưa lìa dục. Nếu trụ nơi kiến đạo, thì trừ dĩ tri căn, vô tri căn và một hình. Nếu trụ nơi tu đạo, thì trừ vị tri căn, vô tri căn và một hình. Phàm phu không đoạn căn thiện, thì có đủ các căn và hai hình, trừ ba căn vô lậu.
Ít nhất thành tựu tám, Hiểu rõ căn đã nói: Tức thành tựu ít nhất là tám căn. Nghĩa là trừ thân căn đã đoạn dần căn thiện, mạng chung sinh vào địa ngục Vô trạch, bị núi lớn đè ép, còn lại chỉ có thân căn, mạng căn, ý căn và năm thọ căn. Nếu phàm phu sinh nơi cõi vô sắc, thì có ý, mạng, xả và năm căn như tín v.v…
Hỏi: Có bao nhiêu thứ xúc?
Đáp:
Tăng ngữ và có đối
Trong xứ minh, vô minh
Gọi là có được quả
Tức là việc hai đạo.
Tăng ngữ (Do có nhiều danh, nên nói là Tăng ngữ) và có đối, Trong xứ minh, vô minh: Tăng ngữ nghĩa là nếu ý thức thân tương ưng với xúc, duyên nơi tất cả pháp thì nói là tăng ngữ. Lại, duyên nơi nhiều danh nên nói là tăng ngữ. Tuy xúc thứ năm cũng duyên nơi nhiều danh, nhưng vì năm thức kia mới được tên nên không có lỗi. Nếu năm thức thân tương ưng với xúc, dựa vào căn có đối, nên nói là có đối.
Vô lậu nói là minh xúc vì tương ưng với minh. Cấu uế nói là vô minh xúc tức do vô minh sinh. Hữu lậu không cấu uế, nói là xúc không phải minh không phải vô minh, vì đều cùng không tương ưng. Năm xúc này do tùy thuận không tùy thuận cùng tương ưng, nương dựa được phân biệt nên nói có mười sáu thứ. Do tùy thuận, không tùy thuận để kiến lập. Tức là xúc tương ưng với ái, sân. Do phân biệt về tương ưng, nên nói xúc khổ, xúc lạc, xúc không khổ không lạc. Do phân biệt về chỗ nương dựa nên nói các xúc của nhãn nhĩ tỷ thiệt thân ý.
Hỏi: Được quả là do đạo vô ngại hay là do đạo giải thoát?
Đáp: Gọi là có được quả, Tức là việc hai đạo: Nghĩa là hai đạo đều cùng được quả, là đạo vô ngại và đạo giải thoát. Đạo vô ngại đoạn trừ phiền não, được đạo giải thoát chứng đắc giải thoát. Lại có thuyết nói: Đạo vô ngại được quả. Đạo giải thoát thì bảo vệ những sự việc do đạo vô ngại đã làm khiến không mất. Nên nói như vậy.
Hỏi: Đức Thế Tôn nói nhàm chán rồi lìa dục. Thế nào là nhàm chán? Thế nào là lìa dục?
Đáp:
Nếu trí ở nhân khổ
Cùng nhẫn nói là chán
Có thể lìa tham dục
Nói bốn là lìa dục.
Nếu trí ở nhân khổ, Cùng nhẫn nói là chán: Nghĩa là duyên nơi khổ tập trí cùng nhẫn nói là nhàm chán. Vì duyên nơi sự việc đáng nhàm chán. Vì khổ, tập đế là đối tượng nương dựa của phiền não và hành ác, nên nói là những sự việc nhàm chán.
Có thể lìa tham dục, Nói bốn là lìa dục: Nghĩa là nếu nhẫn và trí ở nơi bốn đế đều chuyển thì nói là lìa dục, vì đã hủy hoại tham dục. Tuy lìa tất cả phiền não, song tham dục là chân đứng của các phiền não, thế nên nói là lìa dục. Người kia ghét nhưng không thích trừ bỏ ác, đó là chỗ sai biệt của nhàm chán. Lìa dục là diệt, giải thoát là đoạn trừ hết, đó là chỗ sai biệt của lìa dục.
Hỏi: A-la-hán trụ ở tâm nào, lúc nhập Niết-bàn?
Đáp:
La-hán trụ báo sinh
Cùng với tâm oai nghi
Vì tùy thuận tâm diệt
Hướng đến bát Niết-bàn.
A-la-hán trụ nơi báo sinh cùng tâm oai nghi mà nhập Niết-bàn. Vì sao? Vì tùy thuận nơi tâm diệt. Tâm thiện trụ vững chắc, đối với tâm diệt là không tùy thuận. Tâm vô ký yếu kém, vì yếu kém nên đối với tâm diệt thì tùy thuận.
Lại nữa, vì ít lỗi nên tâm thiện gồm đủ môn quả y và môn quả báo. Vô ký chỉ có môn quả y, không có môn quả báo.
Lại nữa, vì dứt bỏ các nẻo. Nếu hướng đến các nẻo, tâm thiện kia tất siêng năng hiện ở trước. Chớ khiến cho ta sinh trong nẻo ác. Thế nên người kia vì dứt bỏ tất cả nẻo, nên trụ nơi tâm tánh thường. Có lúc trong phần thân kia tâm thiện là không, như khi đoạn căn thiện. Tâm bất thiện cũng không, như khi lìa dục của cõi dục.
Lại nữa, do lìa dần sinh tử. Nghĩa là ở nơi cõi dục lìa dục, lìa tâm bất thiện. Ở nơi đệ nhất hữu thì lìa dục, lìa tâm nhiễm ô. Tâm vô ký hiện ở trước, lìa tâm thiện. Tâm mạng chung hiện ở trước, lìa tâm vô ký.
Tôn giả nói (Đây là Đạt-ma-đa-la cho Đạt-ma-đa-la thời xưa là Tôn giả): Sự siêng năng nối tiếp nhau là tâm thiện. Người kia lúc mạng chung thì không chuyển theo.
Có thuyết cho: Vì muốn khiến cho địa dưới có báo không khổ không vui, nên người kia nói là ở cõi dục, cho đến báo sinh của thiền thứ tư và tâm oai nghi mà bát Niết-bàn. Cõi vô sắc chỉ có báo sinh, không phải là oai nghi, vì không có phần sắc.
Có người muốn khiến cho địa dưới không có báo không khổ không vui, nên người ấy nói ở nơi cõi dục, cho đến thiền thứ ba, chỉ trụ nơi tâm oai nghi mà bát Niết-bàn. Ngoài ra như trên đã nói.
Hỏi: Có bao nhiêu thứ hữu?
Đáp:
Sinh hữu và hoại hữu
Bản hữu cũng lại trung
Nên biết hai sát-na
Một nhiễm ba hữu hai.
Sinh hữu và hoại hữu, Bản hữu cũng lại trung: Nghĩa là sinh hữu gọi là phần sinh. Vì năm ấm cùng với sự sinh đều cùng có, nên gọi là sinh hữu, là nghĩa của tâm tương tục cùng sinh.
Hoại hữu: Nghĩa là biên tử, vì năm ấm cùng với sự chết đều cùng có, nên gọi là tử hữu, là nghĩa của tâm chìm mất đều cùng khởi.
Bản hữu: Nghĩa là trừ phần sinh, phần tử nơi năm ấm, là hữu trung gian kia. Do nghiệp trước đã gieo trồng cùng trụ lâu, nên gọi là bản hữu.
Trung hữu: Nghĩa là sau khi chết rồi, cho đến lúc chưa được sinh hữu khác, ở trong khoảng trung gian ấy, là hữu hướng đến sự thọ sinh, năm ấm không bị gồm thâu vào nẻo nào. Vì khởi ở khoảng giữa hai thứ, nên gọi là trung hữu.
Hỏi: Các hữu này có bao nhiêu sát-na? Trụ được bao lâu?
Đáp: Nên biết hai sát-na: Tức tử hữu và sinh hữu chỉ tồn tại trong khoảnh khắc sát-na tức không trụ lâu. Do nghĩa này nên biết bản hữu, trung hữu đều trụ lâu.
Hỏi: Có bao nhiêu thứ nhiễm ô, bao nhiêu thứ không nhiễm ô?
Đáp: Một nhiễm ba hữu hai: Tức sinh hữu hoàn toàn là nhiễm ô. Do tâm nhiễm ô nên sự sinh nối tiếp không phải là không nhiễm ô. Phàm phu ở cõi dục có ba mươi sáu sử, mỗi mỗi sử đều khiến sự sinh nối tiếp nhau. Thánh nhân do tu đạo đoạn trừ bốn sử, mỗi mỗi cũng như vậy. Phàm phu ở cõi sắc có ba mươi mốt sử, mỗi mỗi sử đều khiến sự sinh nối tiếp nhau. Thánh nhân có ba sử. Cõi vô sắc cũng như vậy. Sử khiến cho sự sinh nối tiếp nhau, không phải là triền cấu. Hữu còn lại thì có nhiễm ô, không nhiễm ô.
Hỏi: Người tu hành có bao nhiêu thời gian nhiều nhất bị nghiệp làm chướng ngại?
Đáp:
Nếu lìa dục cõi dục
Vượt qua đệ nhất hữu
Cùng với khởi pháp nhẫn
Bị nghiệp chướng ngại nhất.
Ở nơi ba thời gian này, người tu hành bị nghiệp làm chướng ngại tối đa. Đó là lúc Thánh nhân lìa dục của cõi dục, nghiệp của cõi dục kia tạo ra chướng ngại nhiều nhất. Nghĩa là như nói: Nếu ông lìa dục thì tôi ở nơi xứ nào thọ báo? Do Thánh nhân khi lìa dục của cõi dục, không còn thọ sinh nơi cõi dục, vì đã dứt hết.
Vì không thoái chuyển quả khi mạng chung. Nghĩa là khi chứng quả A-la-hán, vị ấy thọ báo đời sau, nên nghiệp kia tạo ra chướng ngại tối đa. Nghĩa là như nói: Ông đã vượt qua đệ nhất hữu, không còn xứ sinh, tôi ở nơi chốn nào để thọ báo? Đó còn là lúc trụ nơi pháp đảnh, khởi pháp nhẫn, nghiệp kia thọ báo nẻo ác, do đấy nghiệp đã dốc sức tạo chướng ngại. Vì khởi pháp nhẫn là vĩnh viễn lìa nẻo ác. Ngoài ra như trước đã nói.
Hỏi: Sự này có bao nhiêu thứ?
Đáp:
Nên biết có năm thứ
Tự tánh cùng với nhân
Hệ thuộc hoặc thâu nhận
Sự tất cả cảnh giới.
Năm thứ sự, đó là sự tự tánh, sự nhân, sự hệ thuộc, sự thâu nhận và sự cảnh giới.
Sự tự tánh: Nghĩa là nếu pháp là tánh của chính mình, thì dùng tên sự để nói. Như nói: Nếu đắc sự là đã thành tựu sự kia.
Sự nhân: Nghĩa là như nói: Thế nào là pháp có sự? Đáp: Là lời nói có nhân.
Sự hệ thuộc: Nghĩa là như nói: Nếu sự này bị kiết ái trói buộc, tức sự kia bị giận dữ trói buộc chăng? Năm thứ ấy dùng tên sự để nêu (Năm thứ pháp là năm hành).
Sự thâu nhận: Nghĩa là như nói: Sự việc nhà, sự việc ruộng. Nên so sánh như vậy.
Sự cảnh giới: Nghĩa là như nói: Tất cả đối tượng được nhận biết của pháp trí đều tùy thuận vào sự kia. Nếu pháp là duyên của pháp kia thì dùng tên sự để nêu.
Lại có năm thứ sự khác.
Nói ấm tức là sự
Sự giới nhập cũng vậy
Cùng với sát-na đời
Đó gọi năm thứ sự.
Nếu nói ấm tức dùng ấm làm sự, không phải thứ khác. Như vậy cho đến nói sát-na, tức là dùng sát-na làm sự, không phải thứ khác. Như vậy là lược nói. Đồng thật nhưng khác tên, đều nên nhận biết.
Hỏi: Như nơi phẩm Nghiệp đã nói năm thứ quả là thế nào? Chỉ có quả này hay còn có quả khác?
Đáp: Có thuyết muốn khiến lại có bốn quả.
Dục-đa-bà-đề nói
An lập cùng phương tiện
Cũng nói hòa hợp, tu
Đó gọi là bốn quả.
Quả an lập: Nghĩa là như nước trụ nơi phong luân. Thủy luân là quả an lập của phong luân. Tất cả đều như vậy.
Quả phương tiện: Nghĩa là từ phương tiện của quán bất tịnh, cho đến khởi tận trí, vô sinh trí. Tận trí, vô sinh trí kia là quả phương tiện của quán bất tịnh. Tất cả phương tiện là như vậy đều nên biết.
(Đây là dùng nhân để tìm quả, nên hướng đến phương tiện)
Quả hòa hợp: Nghĩa là các thứ mắt, màu sắc, ánh sáng, niệm, hòa hợp sinh nhãn thức. Pháp như vậy là pháp từ hòa hợp sinh, pháp ấy là quả hòa hợp.
Quả tu: Nghĩa là đạo của cõi sắc giáo hóa cõi dục. Giáo hóa cùng tạo ra ngôn ngữ của cõi dục. Sự giáo hóa và ngôn ngữ kia là quả tu đạo của cõi sắc. Tất cả đều như vậy.
Hỏi: Có bao nhiêu thứ thần túc? (Tiếng Phạn là Túc địa, hoặc nói là Thần túc, hoặc nói là Như ý túc, hoặc nói là Tự tại, hoặc nói là Phú mãn v.v… đều là nghĩa dịch thoát, không hoàn toàn đạt được tên gốc).
Đáp:
Vận thân và ý giải
Ý niệm tự tại thông
Ý niệm chỉ Như Lai
Nên biết hai tức chung.
Ba thứ tự tại: Tự tại vận thân, tự tại ý giải và tự tại ý niệm.
Tự tại vận thân: Nghĩa là đưa thân lên hư không như chim bay.
Tự tại ý giải: Nghĩa là xa tạo lý giải gần, chỉ trong khoảnh khắc co duỗi cánh tay là đã đến cõi trời Sắc cứu cánh.
Tự tại ý niệm: Nghĩa là nhãn thức đến với sắc, chỉ nơi khoảnh khắc là tùy ý đến. Tự tại ý niệm này chỉ có Đức Phật, không phải kẻ khác có được, vì đối tượng nhận biết của nhất thiết trí là đến bờ giác.
Nên biết hai tức chung: Nghĩa là tự tại vận thân và tự tại ý giải, thì Như Lai, Duyên giác và Thanh văn đều có, vì đấy là quả của thiền.
Hỏi: Tất cả A-na-hàm đều nhập nơi cõi sắc, cõi vô sắc chăng? Tất cả tín giải thoát đều được kiến đáo chăng? Tất cả pháp thoái đều thoái chuyển chăng?
Đáp:
Nhập cõi sắc, vô sắc
Cũng là căn tăng ích
Cùng với Hiền Thánh thoái
Trung gian sinh định không.
Thánh nhân trở lại thọ sinh, nghĩa là như trước đã nói. Nhân duyên khác nhất định là không. (Trở lại thọ sinh nhất định là không đến hai cõi trên, căn cũng không tăng tiến, cũng lại không thoái chuyển).
Trở lại thọ sinh nghĩa là ở cõi dục đạt được quả, trở lại sinh nơi cõi dục. Nhàm chán ở nơi thai là thấy lỗi của hữu, không vào cõi sắc cõi vô sắc, vì ở đấy có thọ mạng lâu dài. Vì tu lâu nơi Thánh đạo nhưng căn không thể tiến thêm, vì cõi dưới như bạn thân không thể lìa bỏ. Trở lại thọ sinh kia cũng như vậy. Tu tập Thánh đạo, sinh ở trung gian, nên không thoái chuyển.
Hỏi: Đức Phật xuất hiện ở thế gian vào thời kỳ nào? Chuyển luân Thánh vương ra đời vào thời kỳ nào? Phật-bích-chi ra đời vào thời kỳ nào?
Đáp:
Kiếp giảm Phật xuất thế
Thời tăng Chuyển luân vương
Hai thời Phật-bích-chi
Như vậy cần phải biết.
Vào thời kỳ của kiếp giảm, Đức Phật xuất hiện ở thế gian, thuận theo thầy giải thoát, nên Đức Phật là Sư giải thoát, vì đã xả bỏ sinh tử, thuyết giảng pháp xuất thế gian. Vào thời kỳ kiếp tăng, chúng sinh hướng đến sinh tử, kiến giải chuyển theo hướng hoan lạc hơn hết. Nếu bấy giờ Đức Phật xuất thế tức là như không có mặt, vì chúng sinh không thể xả bỏ đường sinh tử, vì đã quá vui thích tham đắm. Thời kỳ kiếp giảm, chúng sinh từ bỏ đường sinh tử, thấy rõ hành ác của phiền não tăng thượng cùng cực, nên có thể lìa bỏ sinh tử. Thế nên cho đến thời kỳ thọ mạng của chúng sinh là trăm tuổi, Đức Phật mới ra đời. Không phải là giảm, vì nếu giảm thì bấy giờ chúng sinh tức sinh khởi tham phi pháp, tham bất chính, nghĩa là đều hành theo tà pháp, ưa thích sinh lên cõi trời, siêng làm lợi cho phiền não, nên không phải là vật dụng của pháp thiện.
Chuyển luân Thánh vương phần nhiều ra đời trong thời kỳ kiếp tăng, có thể dùng mười điều thiện để kiến lập chúng sinh. Do vậy vào thời kỳ kiếp giảm, không xuất hiện, do chúng sinh kia hướng về hành ác. Thế nên vào thời kỳ kiếp tăng, thì dễ giáo hóa, vì là thời thuần hậu. Vào thời kỳ kiếp giảm đầu tiên, Chuyển luân Thánh vương cũng ra đời, vì nơi đời còn thuần hậu.
Phật-bích-chi ra đời trong hai thời kỳ để tự hành hóa pháp của mình.
Hỏi: Đắc là có đắc hay đắc là không đắc? Nếu đắc là có đắc thì đắc này lại nên có đắc khác, vì sao không phải là vô cùng? Nếu đắc là không đắc thì đắc ấy làm sao thành tựu?
Đáp:
Nếu các pháp kia sinh
Hai đắc cùng chung khởi
Hai đắc đều cùng sinh
Nên biết có đắc đắc.
Nếu các pháp sinh tức pháp kia có hai đắc là câu sinh đắc và đắc đắc. Do sức của đắc kia, nên thành tựu pháp cùng đắc đắc. Vì sức của đắc, nên thành tựu đắc do đắc và đắc đắc, tức cùng trong một tâm lần lượt cùng đắc. Vì vậy không phải là vô cùng. Sắc ấm, hành ấm kia là một đắc. Ấm còn lại cũng như vậy.
Hữu vi, vô vi là một đắc. Giới thiện, giới ác của cõi dục, nếu là quá khứ là đắc của ba đời, nếu là hiện tại là đắc của hiện tại, vị lai, nếu là vị lai tức là đắc của vị lai.
Bốn ấm thiện và cấu uế của cõi dục. Năm ấm thiện và bốn ấm cấu uế của cõi sắc. Bốn ấm thiện và cấu uế của cõi vô sắc. Năm ấm vô lậu với tâm biến hóa cùng sinh bốn ấm.
Ba đời là đắc của ba đời, tùy theo loại nên đắc. Bốn ấm oai nghi phần nhiều do đời đoạn và sát-na đoạn nên đắc. Nếu người tu thiện kia là đắc của ba đời. Công xảo cũng như vậy. Bốn ấm sắc vô ký và báo sinh do đời đoạn và sát-na đoạn nên đắc. Quá khứ của quá khứ, vị lai của vị lai và hiện tại của hiện tại.
Hỏi: Khổ pháp nhẫn có bao nhiêu đắc? Cho đến đạo tỷ nhẫn có bao nhiêu đắc?
Đáp:
Các đắc có mười lăm
Đắc nơi khổ pháp nhẫn
Ngoài ra đạo kiến tăng
Nên biết mỗi mỗi giảm.
Các đắc có mười lăm, Đắc nơi khổ pháp nhẫn: Nghĩa là khổ pháp nhẫn có mười lăm đắc, do mười lăm tâm của kiến đạo, nên nơi tất cả tâm kia đắc sinh. Một đắc cùng với nhẫn kia cùng sinh, còn mười bốn đắc là sinh sau.
Ngoài ra đạo kiến tăng, Nên biết mỗi mỗi giảm: Nghĩa là kiến đạo gọi là kiến tăng, là tuệ tăng thượng. Kiến đạo khác thì dần vượt qua, trong mỗi mỗi tâm đắc chuyển giảm.
Khổ pháp trí có mười bốn đắc, một đắc cùng sinh, còn mười ba đắc là sinh sau, không có sinh trước, vì chưa từng được.
Khổ tỷ nhẫn có mười ba đắc, một đắc cùng sinh, còn mười hai đắc là sinh sau.
Khổ tỷ trí có mười hai đắc, một đắc cùng sinh, còn mười một đắc là sinh sau.
Cho đến đạo tỷ nhẫn có một đắc cùng sinh, không có đắc sinh sau, vì kiến đạo là rốt ráo. Cũng không có sinh trước, vì chưa từng được nhẫn (Đã không có sau khởi, lại không có trước sinh, nên chỉ có một).
Hỏi: Giải thoát đắc, địa nào gồm thâu?
Đáp:
Nếu ở trong địa kia
Đoạn cùng hoại đối trị
Tức gồm giải thoát đắc
Phẩm pháp trí, tỷ trí.
Nếu ở trong địa kia, Đoạn cùng hoại đối trị, Tức gồm giải thoát đắc: Có thuyết cho: Nếu địa kia là đối trị đoạn, thì địa ấy là giải thoát đắc, tức địa kia gồm thâu, do đối trị đoạn. Nên nói như vậy: Nghĩa là kiến đạo, tu đạo của cõi dục đoạn, tức giải thoát đắc, thiền vị lai gồm thâu. Địa của thiền thứ nhất và thiền vị lai thì thiền thứ nhất và thiền trung gian gồm thâu. Thiền thứ hai gồm thâu bốn địa, tức là ba địa trước và thiền thứ hai. Thiền thứ ba gồm thâu năm địa, tức là bốn địa trước và thiền thứ ba. Kiến đạo, tu đạo đoạn của thiền thứ tư và kiến đạo đoạn của cõi vô sắc gồm thâu sáu địa, tức năm địa trước và thiền thứ tư. Tu đạo đoạn của không xứ gồm thâu bảy địa, tức sáu địa trước và không xứ. Tu đạo đoạn của thức xứ gồm thâu tám địa, tức bảy địa trước và thức xứ.
Vô sở hữu xứ và phi tưởng phi phi tưởng xứ do tu đạo đoạn, giải thoát đắc gồm thâu chín địa, là thiền vị lai, thiền trung gian, bốn thiền căn bản và ba vô sắc.
Lại có thuyết cho: Nếu địa kia gồm thâu đối trị đoạn và đối trị hoại, thì đó là nói do kiến đạo, tu đạo của cõi dục, cõi sắc đoạn trừ. Do kiến đạo của cõi vô sắc đoạn trừ, nên giải thoát đắc gồm thâu sáu địa. Tu đạo của cõi vô sắc đoạn trừ, như trước đã nói về phẩm pháp trí, tỷ trí.
Lại có thuyết nêu: Nếu là phẩm pháp trí của địa, thì do kiến đạo, tu đạo của cõi dục đoạn trừ nên giải thoát đắc, tức gồm thâu địa kia. Nếu là phẩm tỷ trí của địa, thì do kiến đạo, tu đạo của cõi sắc, vô sắc đoạn trừ, nên giải thoát đắc tức gồm thâu địa kia. Đây là nói giải thoát đắc của cõi dục gồm thâu sáu địa và giải thoát đắc của cõi sắc, cõi vô sắc gồm thâu chín địa.
Hỏi: Nếu đạo đều cùng khởi đắc, thì đắc kia là đều cùng sinh nhân của đạo chăng? (Chỉ trừ nhân sở tác, các nhân còn lại thì hỏi chung).
Đáp:
Cùng đạo đều khởi đắc
Đều khởi không phải nhân
Đạo không phải nhân kia
Khởi sau hoặc có không.
Cùng đạo đều khởi đắc, Đều khởi không phải nhân: (Đạo đều cùng khởi cùng với đắc đã không phải là nhân chung, lại không có nhân khác, nên cũng là không nhân) Nghĩa là đạo đều cùng khởi đắc, đắc kia không phải là nhân của đạo, vì không là một quả. Không là một quả thì không có nghĩa của nhân chung. Đạo cũng không phải là nhân của đắc kia, nghĩa là đắc đều cùng khởi đạo, cũng không phải là nhân của đắc, cũng không là một quả.
Hỏi: Thế nào là đắc khởi sau?
Đáp: Khởi sau hoặc có không: Tức trước đạo khởi, ở sau thì khởi đắc, hoặc có nhân, hoặc không nhân, cùng với sau là tương tợ, tăng đạo đắc, tương tợ tăng, giải thoát đắc, là nhân, không phải là đạo hạ đắc đạo hạ, nên làm nhân của giải thoát đắc. (Đây là nhân tự nhiên, nên không làm nhân của trung, thượng, không phải là nhân của thượng hạ). Nghĩa là khổ pháp nhẫn có một đắc đều cùng sinh, đắc kia không phải là nhân của nhẫn. Nhẫn cũng không phải là nhân của đắc.
Khổ pháp trí có ba đắc đều cùng sinh là đắc của hai đạo và đắc của một giải thoát. Khổ pháp trí không phải là nhân của các đắc kia. Các đắc kia cũng không phải là nhân của khổ pháp trí.
Khổ pháp nhẫn kia là nhân của ba đắc.
Khổ tỷ nhẫn có bốn đắc đều cùng sinh là đắc của ba đạo và đắc của một giải thoát. Khổ tỷ nhẫn không phải là nhân của các đắc kia. Các đắc kia cũng không phải là nhân của khổ tỷ nhẫn.
Khổ pháp trí là nhân của ba đắc, không phải khổ pháp nhẫn là nhân của đắc, do nhẫn yếu kém (Tỷ nhẫn, tỷ trí cùng giải thoát đắc).
Khổ tỷ trí có sáu đắc đều cùng sinh là đắc của bốn đạo và đắc của hai giải thoát. Khổ tỷ trí không phải là nhân của các đắc kia. Các đắc kia cũng không phải là nhân của khổ tỷ trí.
Khổ tỷ nhẫn có ba đắc là nhân, nhẫn không phải là nhân của ba đắc. Nghĩa là đắc trong phẩm pháp trí. Cho đến đạo tỷ nhẫn có hai mươi hai đắc đều cùng sinh là mười lăm đắc của đạo và bảy đắc của giải thoát. Đạo tỷ nhẫn không phải là nhân của các đắc kia. Các đắc kia cũng không phải là nhân của đạo tỷ nhẫn.
Đạo pháp trí là nhân của ba đắc, không phải là nhân khác. (Pháp trí tự ở nơi vị lai đắc, giải thoát đắc và tỷ nhẫn đắc, làm nhân tự nhiên. Các đắc dưới do yếu kém nên không phải là nhân)
Hỏi: Không không là hành gì? Tự tánh là gì? Do địa nào gồm thâu?
Đáp:
Hành không trụ có cấu
Tức nói là không không
Nói cảnh giới vô học
Tại nơi mười một địa.
Hành không sinh rồi, không không khởi sau. Hành không quán năm thạnh ấm không. Không không kia khởi ở nơi không kia tư duy về không. Như người lúc thiêu đốt tử thi, cầm gậy chuyển trở qua trở lại, sau đấy mới đốt bỏ cây gậy. Hành không kia cũng như vậy.
Có cấu: Là nghĩa hữu lậu, do ràng buộc Thánh đạo. Tức không không hệ thuộc Thánh đạo, không do Thánh đạo hệ thuộc Thánh đạo. Là do vô lậu nhàm chán hành, không duyên nơi vô lậu.
Trụ: Là tự tánh của tam muội.
Không không: Nghĩa là ở nơi không hành theo nghĩa không.
Cảnh giới vô học: Là nghĩa dùng vô học làm duyên, tức hành không của vô học là duyên của pháp kia. Lại nói: Duyên nơi hành không đều cùng sinh năm ấm.
Mười một địa: Nghĩa là vì hữu lậu nên cảnh giới rộng khắp đều không. Mười một địa của không không là từ cõi dục cho đến xứ phi tưởng phi phi tưởng.
Hỏi: Thế nào là vô nguyện của vô nguyện?
Đáp:
Hành nơi hành vô thường
Là vô nguyện vô nguyện
Đều ở nơi bất động
Cõi dục, khác như trước.
Hành nơi hành vô thường, Là vô nguyện vô nguyện: Nghĩa là hành vô thường tương ưng với vô nguyện. Quán năm thạnh ấm là vô thường, ở nơi pháp quán kia khởi vô nguyện vô nguyện. Tư duy về vô nguyện là vô thường. Nếu là hành khổ, tức là điên đảo, vì Thánh đạo không phải tánh của khổ, cũng không phải là các hành như nhân v.v… vì cùng với Thánh đạo là trái nhau. (Do vô nguyện – vô nguyện cùng với Thánh đạo là trái nhau, nên không tạo các hành như nhân v.v…). Nếu tạo các hành như nhân v.v… tức nên thuận với Thánh đạo. Nhưng hành kia lại hệ thuộc Thánh đạo, do trái với Thánh đạo nên cũng không tạo các hành như đạo v.v… Do các hành như đạo v.v… thì ưa thích đạo.
Đều ở nơi bất động: Nghĩa là trước đã nói về không không và vô nguyện vô nguyện. Hai thứ này là A-la-hán của pháp bất động, nên có thể khiến tam muội hiện ở trước, do uy lực, do đã lìa phiền não. Kiến đáo tuy là lợi căn, đạt được tam muội tự tại, nhưng chưa lìa phiền não. Thời giải thoát thì tuy lìa phiền não, nhưng không được tam muội tự tại, do là độn căn. Bất thời giải thoát thì được tam muội tự tại, là lợi căn, đã lìa dục của ba cõi, thế nên tam muội có thể hiện ở trước, không phải là loại khác.
Cõi dục: Nghĩa là cõi dục hiện ở trước, phần nhiều nói là từ nơi lực khởi, không phải là thứ khác. Trừ châu Uất-đơn-việt, là ba châu còn lại.
Khác như trước: Nghĩa là những sự việc còn lại như nói về không không.
Là vô tướng vô tướng
Hành kia ở tịch chỉ
Hành nơi vô ký diệt
Khác tức như trước nói.
Là vô tướng vô tướng, Hành kia ở tịch chỉ: Vô tướng nghĩa là ở nơi số diệt quán về tịch chỉ. Ở đấy về sau thì khởi hành vô tướng vô tướng. Nghĩa là như nói: Ông là phi số diệt, cũng là tịch chỉ (dừng lặng).
Hỏi: Hành kia duyên nơi gì?
Đáp: Hành nơi vô ký diệt: Tức phi số diệt, là duyên kia, là vô ký, cũng không khởi phi số diệt. Không khởi thì như trước đã nói. Vì nghĩa này nên không nói là hành diệt, do có hai thứ diệt là phi số diệt và vô thường diệt. Nếu nói là hành diệt thì không biết là những gì diệt. Cũng không phải là hành diệu, xuất, do vô ký không phải là diệu, không phải là xuất, không phải là ba tướng đã được thành lập.
Khác tức như trước nói: Nghĩa là phần còn lại như nói về không không. Lại, nơi tam muội kia hàng lợi căn thì khi tận trí sinh tức được sau tạo phương tiện để hiện ở trước. Đức Phật thì không cần phương tiện, Phật-bích-chi thì tạo phương tiện ít, Thanh văn thì hoặc là trung, hoặc là thượng.
Nơi không không, vô nguyên vô nguyện thì pháp trí, tỷ trí, khổ trí, sau đấy tức hiện ở trước. Còn nơi vô tướng vô tướng thì pháp trí, tỷ trí và diệt trí, sau đấy đều hiện ở trước.
Nếu là tam muội nơi cõi dục thì thuộc về thiền vị lai, Thánh đạo khởi sau. Nếu là địa phi tưởng phi phi tưởng thì Thánh đạo của vô sở hữu xứ khởi sau. Ngoài ra là theo thứ lớp của tự địa.
Hỏi: Vượt khỏi tam muội thì chánh thọ như thế nào?
Đáp:
Vượt khỏi Tam-ma-đề
Trên dưới đến thứ ba
Cùng không niệm tư duy
Nơi duyên vượt cũng vậy.
Vượt khỏi Tam-ma-đề, Trên dưới đến thứ ba: Nghĩa là lúc vượt khỏi tam muội, chánh thọ thì theo thứ lớp của thiền thứ nhất hữu lậu, thiền thứ hai hữu lậu hiện ở trước. Theo thứ lớp như vậy, cho đến phi tưởng phi phi tưởng xứ. Sau đấy theo thứ lớp trở lại cho đến thiền thứ nhất. Ở các địa này khéo tu tập xong, khởi thiền thứ nhất vô lậu, theo thứ lớp cho đến vô sở hữu xứ.
Lại nữa, theo thứ lớp trở lại đến thiền thứ nhất, nơi địa này khéo tu tập xong, lại khởi chánh thọ của thiền thứ nhất hữu lậu. Từ thiền thứ nhất khởi, vượt nhập nơi thiền thứ ba hữu lậu. Thiền thứ ba khởi rồi, nhập nơi không xứ. Không xứ khởi rồi, nhập nơi vô sở hữu xứ. Vượt ngược lại cũng như thế. Nơi địa này khéo tu tập rồi, sau đấy khởi chánh thọ vô lậu để vượt qua. Đó gọi là phương tiện siêu việt. Sau đấy có thể khởi thiền thứ nhất hữu lậu theo thứ lớp, nhập nơi chánh thọ của thiền thứ ba vô lậu. Thiền thứ ba vô lậu theo thứ lớp nhập nơi không xứ hữu lậu. Không xứ hữu lậu theo thứ lớp nhập nơi vô sở hữu xứ vô lậu. Vượt theo nghịch cũng như vậy. Đó gọi là chánh thọ siêu việt thành tựu. Vì cùng cách xa, nên không khởi chánh thọ thứ tư. Ba phương thì bậc Bất thời giải thoát có thể khởi, không phải là thứ khác. Vì sao? Vì đã lìa phiền não, vì uy lực của tam muội tự tại. Như trước đã nói.
Cùng không niệm tư duy, Nơi duyên vượt cũng vậy: Nghĩa là nếu không cấu uế mà đoạn cảnh giới, thì nhân kia không nhớ nghĩ, tư duy. (Cảnh giới có gián cách gọi là đoạn. Hoặc có tâm nhiễm nhưng duyên nơi cảnh giới đoạn, nên nêu là không nhiễm để phân biệt về nhân. Không nhớ nghĩ, tư duy là đột nhiên có thể duyên vượt lên đến ba thiền), cũng đến thiền thứ ba. Nghĩa là thiền thứ nhất duyên nơi cõi dục, theo thứ lớp duyên nơi thiền thứ nhất, thiền thứ hai ở trên để chánh thọ (Ở đây là làm rõ về cảnh giới đã vượt nhưng lời văn chỉ nói theo thứ lớp cùng với trước sau vượt qua như trong tam muội trên, nên đơn cử khởi đầu để làm rõ phần sau cùng). Duyên nơi thiền thứ nhất, lần lượt duyên xuống nơi cõi dục. Lần lượt duyên lên trên là thiền thứ hai, thứ ba. Thiền thứ nhất duyên nơi thiền thứ hai, lần lượt duyên xuống cõi dục rồi đến thiền thứ nhất. Lại duyên lên thiền thứ ba, thứ tư. Như thế nơi tất cả địa đều nên biết. Vô sắc không duyên nơi địa dưới, như trước đã nói. Tuy khổ pháp trí theo thứ lớp sinh khổ tỷ nhẫn, cho đến duyên nơi đệ nhất hữu, vì ở đây là cảnh giới không đoạn. (Vì cùng nối tiếp không đoạn, nên tuy xa, nhưng không phải vượt qua). Bối xả tịnh lần lượt tuy duyên nơi tâm của tự địa khởi, hoặc duyên nơi địa trên, chỉ vì địa kia là nhiễm ô.
Hỏi: Lời Phật nói nên nói là thiện hay là vô ký?
Đáp:
Lời Phật thiện, vô ký
Như tâm đầu kia chuyển
Cứu cánh cũng lại vậy
Vô ký hoặc thanh tịnh.
Lời Phật thiện, vô ký: Nghĩa là nếu ở xứ điều phục phải theo phương tiện để nói là thiện. Như Phật nói: Tất cả hành là vô thường. Tất cả pháp là vô ngã. Niết-bàn là vĩnh viễn diệt. Nên so sánh như vậy. Nếu Đức Phật không theo phương tiện để nói là vô ký. Như Đức Phật hỏi: “Tôn giả A-nan: Vì sao trong vườn có tiếng lớn kêu vang?”. Nên so sánh như vậy.
Như tâm đầu kia chuyển, Cứu cánh cũng lại vậy, Vô ký hoặc thanh tịnh: Nghĩa là Đức Thế Tôn dùng tâm thiện phát ra lời nói, tức là dùng tâm thiện làm cứu cánh. Dùng tâm vô ký phát ra lời nói, thì hoặc dùng tâm vô ký làm cứu cánh, hoặc dùng tâm thiện làm cứu cánh. Không có tâm thiện phát ra lời nói, dùng tâm vô ký làm cứu cánh, vì lúc nói là chuyển tăng không giảm.
Hỏi: Còn Thanh văn thì thế nào?
Đáp:
Thanh văn thì không định
Cứu cánh cùng với chuyển
Lúc nói không thoái giảm
Chỉ là Phật Thế Tôn.
Thanh văn thì không định, Cứu cánh cùng với chuyển: Nghĩa là Thanh văn dùng tâm thiện phát ra lời nói, hoặc dùng tâm thiện làm cứu cánh, hoặc dùng tâm vô ký làm cứu cánh. Dùng tâm vô ký phát ra lời nói, hoặc dùng tâm thiện làm cứu cánh, hoặc dùng tâm vô ký làm cứu cánh.
Hỏi: Vì sao Đức Thế Tôn dùng tâm thiện phát ra lời nói thì dùng tâm thiện làm cứu cánh? Còn Thanh văn dùng tâm thiện phát ra lời nói thì dùng tâm vô ký làm cứu cánh?
Đáp: Vì Lúc nói không thoái giảm, Chỉ là Phật Thế Tôn: Tức chỉ Đức Phật Thế Tôn lúc nói thì không thoái chuyển. Người Thanh văn như Tôn giả Xá-lợi-phất v.v… lúc nói cũng còn thoái chuyển.
Hỏi: Có bao nhiêu nhập có thể đốt được? Bao nhiêu nhập là chủ thể đốt?
Đáp:
Có bốn trong các nhập
Bị đốt chủ thể đốt
Đáng gọi cũng hay gọi
Đoạn, năng đoạn, không lầm.
Có bốn trong các nhập, Bị đốt chủ thể đốt: Nghĩa là sắc, hương, vị, xúc là bị đốt cháy, cũng là chủ thể đốt cháy, vì chúng không lìa nhau. Có thuyết cho: Bốn nhập này là bị đốt cháy, vì không lìa nhau. Lại có một nhập là chủ thể đốt cháy, đó là hỏa đại, vì được tướng đốt cháy.
Đáng gọi cũng hay gọi: Nghĩa là như trước nói bốn nhập là đáng gọi, cũng là chủ thể xưng gọi, vì không lìa nhau. Có thuyết cho: Bốn nhập là chủ thể nêu gọi, một thứ là đáng gọi, vì được tướng trùng lập.
Đoạn, năng đoạn, không lầm: Nghĩa là tức bốn nhập nói ở trước là bị đoạn, cũng là chủ thể đoạn, nên ở đây không có nói lầm lạc.
Hỏi: Địa, địa giới khác nhau như thế nào?
Đáp:
Địa là xứ sắc hình
Địa giới nói tướng cứng
Hai khác cũng hai thứ
Phong tức phong hoặc khác.
Địa là xứ sắc hình: Tức xứ sắc hình là địa, do sắc nhập gồm thâu, nhãn thức nhận biết. Đây là tên gọi theo thế gian.
Địa giới nói tướng cứng: Tức tướng cứng chắc là địa giới, do xúc nhập gồm thâu, thân thức nhận biết. Đây tức là đệ nhất nghĩa.
Hai khác cũng hai thứ: Nghĩa là nước (Thủy) và lửa (Hỏa) cũng là hai thứ: Xứ sắc hình là nước, tướng thấm ướt là thủy giới. Xứ sắc hình là lửa, tướng ấm nóng là hỏa giới. Phần còn lại như trước đã nói.
Phong tức phong hoặc khác: Nghĩa là có thuyết nói: Phong (Gió) tức là phong chủng, do phi thế gian để đặt tên. Có thuyết cho: Đây cũng là theo thế gian đặt tên. Có gió bụi, gió không bụi, nên so sánh vậy.
Hỏi: Căn thiện có bao nhiêu loại?
Đáp:
Phần phước nói một thứ
Cùng với phần giải thoát
Phần quyết định nơi phước
Thứ tư lìa các lậu.
Phần phước nói một thứ: Nghĩa là nếu văn, tư tuệ, thí, giới, thắng tấn ở cõi dục v.v… đều cùng sinh thì được báo là ngôi vị Chuyển luân vương, Đế thích và các thân tự tại có uy lực lớn khác ở cõi dục cùng những căn thiện thắng tấn của cõi sắc, cõi vô sắc, có thể đạt được quả hữu. Đó gọi là phần phước.
Cùng với phần giải thoát: Nghĩa là phần giải thoát cũng là văn, tư, thí, giới v.v… đều cùng sinh nơi cõi dục, từ bỏ các hữu, hướng về giải thoát. Gieo trồng các căn thiện này, thì nơi khoảng giữa tuy đoạn dứt căn thiện cũng được gọi là nghịch lưu. Vì sao? Vì chắc chắn đạt được Niết-bàn. Thế nên có thuyết nói như vầy: Thà làm Điều-đạt, không làm ngoại đạo Uất-đầu-lam-tử. Điều-đạt tuy tạo ba tội nghịch, đoạn dứt các căn thiện, diệt chủng tử thiện, bị đọa vào địa ngục Vô gián (A tỳ chí: A là vô, tỳ chí là trạch, là gián. Do nhân không có chủng tử thiện, nên quả gọi là không có chủng tử. Hai nghĩa khác như cũ).
Tội ở địa ngục hết, ở trong nẻo người có thọ mạng bốn vạn tuổi, được quả Phật-bích-chi, chứng đắc các căn mạnh mẽ, thông lợi, hơn cả Xá-lợi-phất v.v… Uất-đầu-lam-tử, tuy lìa tám địa, sinh lên đệ nhất hữu (Xứ phi tưởng phi phi tưởng), khi báo hết, ở nơi ấy mạng chung, sinh lại trong rừng pháp làm loài chồn bay mang cánh để tàn hại các thứ chúng sinh sống dưới nước và trên đất liền. Thọ mạng này hết tức bị đọa vào địa ngục Vô gián.
Đức Thế Tôn không thọ ký về thời gian được giải thoát. Người gieo trồng chủng tử giải thoát: Là có xứ tướng như thế khi ngồi nghe pháp. Tức như lúc nghe pháp buồn bã, rơi lệ, lông thân dựng ngược, thấy rõ lỗi lầm của sinh tử cùng thiện lợi của Niết-bàn, kính tin chánh pháp và người nói pháp.
Phần quyết định nơi phước: Nghĩa là quán xét căn thiện như noãn v.v… của chân đế, đối với đế có quyết định, đối với đế đạt đầy đủ. Do tùy thuận hướng đến Thánh đạo, nên gọi là phần quyết định, như trong phẩm Hiền Thánh đã nói.
Thứ tư lìa các lậu: Nghĩa là căn thiện vô lậu tức là hàng hữu học, vô học, như trước đã nêu bày.
Hỏi: Vì sao ở nơi nẻo ác đạt được phi số diệt?
Đáp:
Nên biết những bố thí v.v…
Có thể chuyển nẻo ác
Tất định cùng nhẫn hợp
Thí cùng đồng hoặc khác.
Nên biết những bố thí v.v…, Có thể chuyển nẻo ác: Nghĩa là hoặc có bố thí không bị đọa nơi đường ác. Hoặc giới, hoặc văn, hoặc tư, hoặc noãn, hoặc đảnh, nếu thấy rõ lỗi lầm của sinh tử và thiện lợi của Niết-bàn, từ bỏ sinh tử, hướng đến Niết-bàn, hành trì bố thí. Bố thí như vậy là có thể chuyển đổi nẻo ác. Căn thiện khác cũng như vậy. Bố thí có thể chuyển đổi nẻo ác nhưng không phải là đảnh. Nếu cho không phải như vậy là không đúng. Vì sao? Vì đã từ bỏ sinh tử. Hoặc có khi chưa được căn thiện quyết định, nhưng có thể chán ghét tột độ sinh tử, lại không phải là người được căn thiện quyết định.
Lại nữa, bố thí cùng với nghiệp phiền não của nẻo ác là rất trái nhau, không phải là đảnh, thế nên không có lỗi.
Hỏi: Nếu các căn thiện không tất định lìa nẻo ác thì cái gì là tất định?
Đáp: Tất định cùng nhẫn hợp: Tức thì xả bỏ nẻo ác, tất là ở nơi nhẫn. Do nhẫn cùng với tất cả nghiệp phiền não của nẻo ác là trái nhau. Xả nhẫn nghiệp phiền não của nẻo ác hãy còn không khởi hiện, huống chi là không xả bỏ.
Thí cùng đồng hoặc khác: Nghĩa là từ bố thí cho đến đảnh, hoặc có khi lìa nẻo ác, hoặc không lìa, do không phải tất cả bố thí, đều có thể trái với nghiệp phiền não của nẻo ác. Căn thiện khác cũng như vậy.
Đã nói về nhân duyên chuyển nẻo ác. Ý thức không chung nay sẽ nói. (Ý thức có sáu sự việc không cùng với năm thức chung).
Lìa dục và lúc thoái
Thọ sinh cũng mạng chung
Đoạn thiện cùng nối tiếp
Nên biết là ý thức.
Sáu sự việc này nói là trụ nơi ý thức, do tư duy, do duyên khắp. Đức Thế Tôn tuy nói là mắt thấy sắc, tai nghe tiếng, thân nhận biết xúc, nếu thoái chuyển thì chúng cũng do ý thức hiện ở trước lôi kéo, nên thoái chuyển.
Hỏi: Trụ nơi những thọ nào khi mạng chung và thọ sinh?
Đáp:
Là tất cả chúng sinh
Đều trụ nơi xả thọ
Mạng chung và thọ sinh
Vì đều không nhanh chóng.
Là tất cả chúng sinh, Đều trụ nơi xả thọ, Mạng chung và thọ sinh: Nghĩa là hết thảy chúng sinh đều trụ nơi thọ không khổ không vui khi mạng chung và thọ sinh.
Hỏi: Vì sao như vậy?
Đáp: Vì đều không nhanh chóng: Tức trong tất cả phần thì phần sống, phần chết là không sáng rõ, không giác ngộ. Vì ở trong các thọ, thì thọ không khổ không vui là hết sức không nhanh nhẹn, không sáng rõ. Thế nên tất cả chúng sinh đều trụ nơi thọ không khổ không vui khi mạng chung và thọ sinh.
Hỏi: Nếu như vậy thì thọ không khổ không vui tức nên không có Thánh đạo vô lậu nhanh chóng?
Đáp: Không phải là thọ không khổ không vui không có sức của Thánh đạo vô lậu để có thể khiến nhanh nhạy. Như nước ở chất cay thì cay, ở chất đắng thì đắng. Ngọt, chua, mặn, lạt cũng như vậy.
HẾT – QUYỂN 9