LUẬN TẠP A TỲ ĐÀM TÂM
Tác giả: Tôn giả Pháp Cứu.
Hán dịch: Đời Lưu Tống, Tam tạng Tăng Già Bạt Ma, người Thiên Trúc
Việt dịch: Cư sĩ Nguyên Huệ

 

QUYỂN 10

Phẩm thứ 10: TRẠCH, phần 1

Tuy đã nói nhiều pháp

Quyết định các nghĩa tạp

Ở vô lượng xứ kia

Cần chọn phần cốt yếu.

Mâu-ni nói kiến đạo

Nhanh nên gọi pháp luân

Hoặc nói tám chi học

Chuyển đến nơi tâm khác.

Mâu-ni nói kiến đạo, Nhanh nên gọi pháp luân: Nghĩa là vì diệt trừ hai thứ si, nên nói là Mâu-ni. Vì vắng lặng đầy đủ, nên nói là Mâu-ni.

Nói nghĩa là hiển bày chỉ rõ. Vì sự thấy biết kia gia tăng, nên nói là kiến đạo. Do tuệ tăng trưởng, do cầu đạt cảnh giới, do dẫn đến phi phẩm nên nói là đạo.

Nhanh nghĩa là mau chóng tiến tới. Kiến đạo là đạo nhanh chóng, vì không khởi định. Một phẩm đạo tức khắc dứt trừ chín phẩm kiết.

Vì là pháp nên nói là pháp, do lìa chúng sinh. Vì bỏ đây đến kia nên nói là luân. Nghĩa là bỏ khổ đến tập, cho đến bỏ diệt đến đạo.

Lại nữa, giống như bánh xe nên nói là luân. Như bánh xe xoay từ dưới lên trên, hay từ trên xuống dưới, bánh xe kiến đạo cũng như thế: Chuyển nhẫn ở dưới đến trí ở trên, rồi lại chuyển tới nhẫn.

Lại nữa, vì có nghĩa lên xuống trên dưới, nên nói là luân, như bánh xe từ dưới lên trên, từ trên xuống dưới. Như vậy luân của kiến đạo duyên nơi cõi dục xong, duyên lên đệ nhất hữu. Duyên nơi đệ nhất hữu xong, duyên xuống cõi dục.

Lại nữa, vì hàng phục nơi chốn của đế vương nên nói là luân, như Thánh vương luân.

Hoặc nói tám chi học, Chuyển đến nơi tâm khác: Nghĩa là Tôn giả Cù Sa nói: Tám chi học được chuyển đến tâm người khác, gọi là chuyển pháp luân. Thế nên nói: Đức Như Lai chuyển pháp luân nơi trụ xứ của Tiên nhân thuộc thành Ba-la-nại. Do nghĩa này nên Đức Như Lai khác với hai thừa là Thanh văn, Phật-bích-chi, vì tự lực chuyển pháp luân. Tuy Tôn giả Câu Lân v.v… tự chuyển pháp luân, tự tu đạo, không phải người khác, nhưng do nhân duyên khai ngộ, nên nói Đức Thế Tôn chuyển pháp luân. Tuy khổ pháp nhẫn khởi rồi chuyển, nhưng chỉ khi đạo tỷ trí khởi mới gọi là chuyển, do nơi xứ kia gồm đủ năm nhân duyên. Gọi là bỏ đạo đã từng có, được đạo chưa từng có. Kiết dứt hết là được nhất vị, tức khắc được tám trí, cùng lúc tu mười sáu hành. Năm người như Câu Lân v.v… và tám vạn bốn ngàn chư thiên kiến đế. Do Câu Lân (A Nhã Kiều Trần Như) kiến đế trước nên dùng Câu Lân làm nhân duyên. Đức Thế Tôn và Tôn giả Câu Lân khởi tâm thế tục, địa thần nhận biết được, nên ở nơi Tôn Thiên đại lực nghe được, hết sức hoan hỷ, vì vốn thường bảo vệ. Địa thần ở gần cất tiếng xướng lớn, địa thần ở xa lần lượt tuyên cáo, không phải là tự lực của thấy biết, là tâm thường thắng, không phải là cảnh giới của tâm yếu kém. Như vậy là trong khoảnh khắc, thiên thần ở hư không lần lượt xướng tiếng, cho đến cõi Phạm thiên. Không đến địa trên, vì tự địa ấy không có phần nhĩ thức.

Có thuyết cho: Do Phạn danh gọi là âm thanh của trời A-ca-nịtrá, nên tuy niệm niệm diệt nhưng vẫn nối tiếp nhau khởi, nên nói là âm thanh đến cõi Phạm thiên. Chuyển luân vương ra đời, dùng mười nghiệp đạo thiện giáo hóa dẫn dắt chúng sinh. Do mười nghiệp đạo thiện nên thọ báo nơi cõi dục. Vì thế âm thanh của Chuyển luân vương ra đời thấu đến trời Tha hóa tự tại. Vì chưa lìa dục, nên không đến nơi địa lìa dục.

Vì Phạm thiên khuyến thỉnh Đức Thế Tôn chuyển pháp luân, nên âm thanh vang đến Phạm thiên. Vì trời Tịnh cư khuyến phát thành tựu đạo vô thượng nên âm thanh vang tới trời Tịnh cư. Vì thành xứng nghiệp nên âm thanh có giới hạn.

Hỏi: Thế nào là Phạm luân?

Đáp:

Phật nói đạo đầy đủ

Rộng lớn gọi Phạm luân

Đầy đủ Tề, Bức, Võng

Đối trị phi phạm hạnh.

Tất cả tám Thánh đạo, vì cùng nương dựa nơi sự rộng lớn nên gọi là Phạm luân.

Vì chánh ngữ, chánh nghiệp, chánh mạng kia không hoại, nên gọi là Tề (Tề là trục bánh xe).

Vì chánh kiến, chánh tư duy, chánh phương tiện đều dựa vào giới để lập và duyên rộng, nên gọi là Bức (Nan hoa).

Vì chánh niệm, chánh định gồm thâu những nan hoa là chánh kiến, chánh tư duy, chánh phương tiện, nên gọi là Võng (Vành bánh xe).

Phiền não gọi là phi phạm, vì là quả không yêu thích. Đạo là đối trị phiền não phi phạm, nên gọi là Phạm luân.

Đã nói Phạm luân. Tám chi Hiền Thánh thành tựu về trai giới (Âm gốc là Ưu ba bà tố, như phần tiếp sau giải thích) nay sẽ nói.

Gọi Ưu ba bà tố

Lúc thọ khác hai thuyết

Đầy đủ một ngày đêm

Oai nghi lìa trang sức.

Ưu ba: Là cận (Gần). Bà tố: Là trụ (Ở). Vì ở gần suốt đời nơi Tam-bà-la nên nói là cận trụ (Ở gần). Tam là đẳng (Cùng). Bà la là hộ (Giữ gìn), nghĩa là cùng gìn giữ hết thảy chúng sinh (Trong tất cả Kinh Lụân, nói luật nghi, đều nên nói là cùng gìn giữ – Đẳng hộ). Thế nên nói là tùy theo tất cả chúng sinh, trụ nơi tâm từ, được luật nghi. Người kia nếu khởi suy nghĩ: Ở nơi đây thọ không ở nơi kia thọ thì không được luật nghi, do tâm bất tịnh nên thọ riêng là không được luật nghi, vì luật nghi lìa tăng giảm.

Thọ: Nghĩa là thọ nhận lấy, do tạo tác, nên không phải phát tâm mà được.

Thời (Lúc): Là nói lúc mặt trời xuất hiện mới thọ.

Khác: Là thọ nhận từ người khác. Từ nơi chúng sinh, tức không từ nơi số phi chúng sinh. Vì không ngôn thuyết, không phải trẻ con, không phải ngủ say, không phải si ám, không phải cuồng loạn, không hiểu trai pháp. Vì đây kia hòa hợp nên được thọ. Nếu bị phạm giới và phiền não khởi, người có thể nhận thấy lỗi, thì từ người ấy thọ nhận.

Hai cùng nói: Nghĩa là người trao và người nhận, cả hai đều nói. Người trao nói trước, người nhận theo đấy mà nói. Nếu người trao không nói, thì không thành sự truyền trao. Truyền trao không thành nên thọ nhận cũng không thành. Nếu người nhận không nói thì không thành thọ nhận. Vì không có nói là thọ nhận, không phải không nói mà tác nghiệp sinh. Tác nghiệp không sinh thì vô tác cũng không sinh. Vô tác không sinh thì không có công đức của thức khác cùng sinh. Nếu cả hai người nơi một lúc cùng nói thì cũng không thành thọ nhận, vì không có truyền trao.

Đầy đủ: Nghĩa là tám chi Thánh thành tựu. Như Tỳ-kheo không đầy đủ luật nghi thì không phải là Tỳ-kheo. Ở đây cũng như vậy.

Một ngày, một đêm: Nghĩa là trai giới của phần thứ ba không có, nên có hai phần trai, như trước đã nói. Luật nghi trai thì được phần trai một ngày đêm. Luật nghi khác thì được phần trai suốt đời.

Oai nghi lìa trang sức: Nghĩa là các thứ chuỗi ngọc, y phục là đồ trang sức đeo mang đều nên bỏ. Tuy lìa trụ nơi oai nghi thọ, nhưng do trang sức là chân đứng của phóng dật, nên trụ nơi điều phục thì không phóng dật. Phóng dật là điều không nên làm mà làm. Phá bỏ oai nghi là không cung kính nên không được luật nghi. Lúc là huỳnh môn, thì huỳnh môn không hình, hai hình đều không sinh luật nghi. Vì sao? Vì tham dục tăng, vì không hổ thẹn tăng. Ở nơi nẻo người thì dựa vào ba phương, không phải phương khác. Do hiểu biết nhanh nhẹn. Về năm thứ nhân duyên thanh tịnh nơi phẩm Tu-đa-la đã nói.

Hỏi: Có bao nhiêu trai là chi thi la? Bao nhiêu là chi không phóng dật? Bao nhiêu là chi trì?

Đáp:

Chi thi la có bốn

Chi không phóng dật một

Còn tức là chi trì

Chi trai tuệ đã nói.

Bốn trai trước là chi thi la (Thi la Trung Hoa dịch là tu tập, cũng nói là chánh thuận nơi tam muội, cũng nói là mát mẻ, là ngủ yên), xả tánh tội vì là giới của tự tánh. Không uống rượu là chi không phóng dật. Uống rượu là chân đứng của phóng dật, khiến cho tâm thất niệm.

Thế nên xa lìa những thứ kia gọi là chi không phóng dật.

Còn tức là chi trì: Nghĩa là giới tùy thuận. Có thuyết cho: Lìa bỏ ăn phi thời là trai, ngoài ra là chi trai.

Lại có thuyết nói: Lìa bỏ ăn phi thời là trai, cũng là chi trai, ngoài ra là chi. Như đẳng kiến là đạo, cũng là chi đạo. Trạch pháp giác là giác, cũng là giác chi. Trai kia cũng như vậy. Nếu nói chín chi thì không đúng. Vì sao? Vì lìa bỏ giường cao rộng, cùng dùng hương hoa thoa nơi thân được lập chung một chi, vì đều cùng từ xứ trang sức khởi. Như già chết được lập chung một chi hữu, vì đều cùng chín muồi. Những thứ kia cũng như thế.

Hỏi: Lìa bỏ nói lưỡi hai chiều, nói lời thô ác, nói lời thêu dệt

v.v… là lìa tánh tội, vì sao không lập luật nghi về trai?

Đáp: Vì khó giữ gìn, vì thường quen gần. Đối với người xuất gia hãy còn khó giữ, do thường hành, huống chi là người tại gia. Như vậy điều khó giữ là các oai nghi, trừ không uống rượu, những già tội khác cũng không lập chi trai.

Hỏi: Đã nhận biết là giới ác thiêu đốt, luật nghi về trai là phấn thoa chiên đàn, nay sẽ nói. Vì sao đã có đầy đủ luật nghi Ưu-bà-tắc rồi lại còn hoài nghi là cùng nhận thấy lỗi lầm đó. Nếu có người không đầy đủ luật nghi Ưu-bà-tắc, thì người Ưu-bà-tắc làm sao có đầy đủ luật nghi Sa-di để làm Sa-di? Nếu không vì sao lại nói Ưu-bà-tắc như một hành v.v…, đâu được nói là không phải không có nghĩa?

Đáp:

Đủ luật Ưu-bà-tắc

Luật nghi Tỳ-kheo một

Do nghĩa thiếu giảm kia

Mâu-ni nói phần ít.

Đủ luật Ưu-bà-tắc, Luật nghi Tỳ-kheo một: Nghĩa là có hai thuyết cho: Nói đầy đủ luật nghi Ưu-bà-tắc, gọi là Ưu-bà-tắc, chẳng phải là không đầy đủ. Sa-di, Tỳ-kheo cũng như vậy. Như nói: Con tên là… quy y Phật Lưỡng Túc tôn, quy y Pháp Ly Dục tôn, quy y Tăng Chư Chúng tôn. Con là Ưu-bà-tắc nên chứng biết trọn đời xả bỏ nghiệp chúng sinh, thọ quy y với tâm thanh tịnh. Tác bạch như vậy đến ba lần là được luật nghi Ưu-bà-tắc.

Hỏi: Việc trên đây chỉ mới là miệng tác bạch lìa sát sinh làm sao được những luật nghi khác?

Đáp: Nên biết: Vì trừ v.v… nên nói con suốt đời xả bỏ nghiệp của chúng sinh v.v… như nhận lấy giới v.v…, vì trừ bỏ v.v… nên gọi là giới được giữ lấy. Những thứ khác cũng như vậy.

Lại nữa, xả bỏ nghiệp của chúng sinh nghĩa là xả bỏ chúng sinh của chính mình. Từ nay cho đến xả bỏ chúng sinh của chính mình để được thọ giới, trọn không hủy phạm.

Lại nữa, luật nghi Ba-la-đề-mộc-xoa từ nơi xứ của chúng sinh có được. Người ấy nói như vầy: Kể từ hôm nay, con không giết hại chúng sinh, không trộm cắp, không tà dâm, không nói dối. Để vâng giữ giới đó, nên không uống rượu. Vì thế trong tất cả già tội, việc lìa bỏ uống rượu được kiến lập cho luật nghi Ưu-bà-tắc, do uống rượu là có đủ tất cả sự phóng dật, khiến mình rất khó giữ những giới điều đã thọ. Nên biết lìa sự dâm người khác, nói hai lưỡi, nói lời thô ác, nói lời thêu dệt, cũng nói như vậy.

Vì Thánh nhân kia đã từng trải nơi sự sống, vẫn còn cố nhận biết mà không nói vi phạm. Nếu nói, người Ưu-bà-tắc như không có một hành v.v… là không đúng. Thật ra, Ưu-bà-tắc có một hành v.v… được kiến lập.

Việc này là thế nào? Do nghĩa thiếu giảm kia, Mâu-ni nói phần ít: Đức Phật lấy người giữ giới thiếu để nói là phần ít nơi Ưu-bà-tắc. Ưu-bà-tắc giữ giới đủ kia, nếu giữ một, không giữ bốn, gọi là một hành. Nếu giữ hai, không giữ ba, gọi là phần ít. Các giới kia cũng như vậy. Nghĩa là giới đã được phải khiến cho biết, vì người khác nói không phải là không có nghĩa.

Hỏi: Nếu người nào thọ luật nghi Ưu-bà-tắc hồi chín, mười tuổi. Về sau cưới vợ, lấy người con gái kia làm vợ, trước đó đã quan hệ với người nữ ấy thì có được luật nghi không? Nếu được thì sao không phạm giới? Nếu không được thì đâu được là không phải phần ít?

Đáp: Được chi, không phải là được đầy đủ. Không là xứ dâm người khác, không được lìa xứ phi phạm hạnh, là ngoài phận sự làm vợ rồi, không khởi sự dâm với người khác. Những gì không nên làm cũng như vậy.

Ưu-bà-tắc thọ nhận giới Sa-di, không xả giới Ưu-bà-tắc vẫn được giới Sa-di, vì lấy giới hơn để gọi tên, nên không gọi là Ưu-bàtắc nữa. Nếu lúc Sa-di kia hoàn tục, nói tôi làm Ưu-bà-tắc, tức nên chứng biết là Ưu-bà-tắc. Nếu khác thì nên thọ lại luật nghi Ưu-bàtắc. Tỳ-kheo cũng như vậy.

Đã nói luật nghi. So sánh các loại luật nghi nay sẽ nói.

Hai luật nghi hành diệu

Nghiệp đạo giải thoát đầu

Nói nghiệp và thi la

Bảy thứ tên như vậy.

Khi hành luật nghi Ba-la-đề-mộc-xoa, tức sát-na đó là vô tác, gồm có bảy thứ tên: Là luật nghi. Là luật nghi Ba-la-đề-mộc-xoa. Là hành diệu. Là nghiệp đạo. Là Ba-la-đề-mộc-xoa. Là nghiệp. Là thi la.

Do tất cả đều nhằm đối trị giới ác, nên gọi là Luật nghi. Vì đề phòng, ngăn giữ giới ác nhập vào bảy chúng, nên gọi là Luật nghi Ba-la-đề-mộc-xoa.

Đối với tất cả chúng sinh nhờ đấy mà được làm các điều thiện, nên gọi là Hành diệu, do được quả đáng yêu thích. Vì tư duy, mong muốn về đạo, nên gọi là Nghiệp đạo, do tư duy, mong muốn đều từ đạo kia chuyển.

Vì tùy thuận giải thoát của nghiệp đạo ban đầu, nên gọi là Bala-đề-mộc-xoa, do tùy thuận tâm từ của tất cả chúng sinh mà được. Nghiệp là làm, vì đã khởi hành tác. Nói là tư duy thì không đúng, nên nói là Ba-la-đề-mộc-xoa. Do đấy nên biết cũng không phải là ba nghiệp đạo sau. Thi la là nghĩa thuần thiện, vì khởi tâm không hại. Về sau các thứ vô tác có năm loại tên, trừ Ba-la-đề-mộc-xoa và nghiệp đạo. Trừ Ba-la-đề-mộc-xoa là vì không phải trước. Trừ nghiệp đạo là vì khởi ở nghiệp, sau khi suy nghĩ, mong muốn.

Đã nói so sánh tên loại của luật nghi. Là thân, nghiệp của thân, thành tựu, không thành tựu, nay sẽ nói.

Thành tựu thân phi nghiệp

Hoặc nói nghiệp phi thân

Hoặc có thân, nghiệp hợp

Hoặc cũng nói không hợp.

Thành tựu thân phi nghiệp: Nghĩa là hoặc có người phàm phu ở trong thai, noãn, dưới dạng Ca-la-la, màng bao bọc khối thịt bào thai chắc dày. Thân trước tạo xong, việc xả thân này chưa thành tựu, nên chưa khởi hành tác, không có tâm thô hiện ở trước. Tâm thô hiện ở trước thì có thể khởi thân nghiệp, nhưng tâm vi tế kia hiện ở trước. Như vậy, hướng trong hướng ngoài, việc trong việc ngoài đều nên biết.

Lại nữa, vì khổ gây bức bách trong phần kia, nên không thể chuyển động, làm sao có thể khởi hành tác. Nếu sinh nơi cõi dục, không trụ nơi luật nghi, cũng không phải ở xứ không luật nghi, thì thân không tạo tác. Hoặc ngủ, hoặc điên cuồng, hoặc say, không cầu, không có phương tiện xả để tạo nhân duyên (Đã nói trong phẩm Nghiệp).

Hoặc nói nghiệp phi thân: Nghĩa là Thánh nhân sinh nơi cõi vô sắc, Thánh nhân đó thành tựu đạo cùng thân nghiệp, không phải là thân, vì sắc kia không có phần.

Hoặc có thân, nghiệp hơn: Nghĩa là Thánh nhân ở dạng Ca-lala, khối thịt có màng bao bọc dày chắc trong thai mẹ. Nếu sinh nơi cõi dục, ở luật nghi Ba-la-đề-mộc-xoa, thiền vô lậu. Trụ nơi không luật nghi, không trụ luật nghi, cũng không phải thân không luật nghi mà có tạo tác. Có tạo tác thì không mất. Nếu sinh nơi cõi sắc thì các thân sắc này là ở chỗ chúng sinh. Về thân nghiệp, hoặc có thuyết cho là luật nghi, hoặc nói là không luật nghi, hoặc không xả tạo tác.

Hoặc cũng nói không hợp: Nghĩa là phàm phu ở cõi vô sắc không phải là thân, vì không có sắc, không phải là thân nghiệp phàm phu. Khẩu nghiệp cũng như vậy.

Hỏi: Đức Thế Tôn nói bốn thứ nhập thai. Bốn thứ ấy là thế nào?

Đáp:

Là nhập không chánh tri

Và trụ cùng xuất thai

Cho đến nhập chánh tri

Trụ xuất cũng lại thế.

Chúng sinh ít phước kia, vào thai mẹ, từ tưởng điên đảo, chuyển sang hiểu biết điên đảo. Đó gọi là gió thổi, mưa rơi, lạnh lẽo, cực kỳ tăm tối, có nhiều thứ âm thanh nhiễu loạn. Vào đám hoa, trong rừng hay trong hang cỏ, hang hoa, dưới cây, giữa tường. Ở trong thai mẹ cũng có tưởng điên loạn và cũng hiểu biết điên đảo, chỗ nhận thấy như trước đã nói. Lúc ra khỏi thai, cũng có tưởng và hiểu biết điên đảo về những gì đã trông thấy như trước.

Chúng sinh có nhiều phước, lúc vào thai, tức được trông thấy vườn rừng, ao tắm, cung điện, nhà cửa, lầu gác, đang ngồi kiết già đoan nghiêm. Ngoài ra, như trước đã nói. Đây gọi là nhập thai thứ nhất.

Nhập thai thứ hai là tự nhận biết mình nhập thai, không có tưởng điên đảo, không hiểu biết điên đảo, khi trụ và ra khỏi thai thì điên đảo như trước đã nói.

Nhập thai thứ ba nghĩa là tự nhận biết ta đã vào thai như vậy, ở trong thai như vậy, nhưng lúc ra khỏi thai thì điên đảo, như trước đã nói.

Nhập thai thứ tư nghĩa là tự nhận biết ta đã nhập thai như vậy, lúc trụ nơi thai, tự nhận biết ta ở trong thai như vậy, lúc xuất thai, cũng tự nhận biết ta đã ra khỏi thai như vậy.

Hỏi: Các cách nhập thai ấy là nói ở những người nào?

Đáp:

Người đầu nghiệp bất tịnh

Cũng lại không cầu trí

Trong hai đều thành một

Thứ tư đều thành tựu.

Người thứ nhất kia là người có nghiệp thiện không thanh tịnh, cũng không cầu trí. Người thứ hai có nghiệp thanh tịnh nhưng không cầu trí. Người thứ ba cầu trí nhưng nghiệp không thanh tịnh. Người thứ tư đều cùng được thành tựu.

Lại nói: Người thứ nhất nhập thai là tất cả chúng sinh. Người thứ hai là Chuyển luân vương. Người thứ ba là Phật-bích-chi. Người thứ tư là Đức Như Lai.

Hỏi: Tu-đà-hoàn có nghiệp bất thiện chăng? Nếu có vì sao không bị đọa nơi nẻo ác? Nếu không thì tức nên lìa dục, người lìa dục thì không có điều ấy?

Đáp:

Người trụ ở quả đầu

Một thứ nghiệp bất tịnh

Nhưng không đọa nẻo ác

Vì nghiệp không đầy đủ.

Tu-đà-hoàn chỉ có tu đạo đoạn trừ nghiệp bất tịnh, không có kiến đạo đoạn trừ nghiệp, vì không có sự đối nên không bị đọa nơi nẻo ác, tức gồm đủ không gồm đủ. Ví như chiếc xe có đủ hai bánh mới có thể chuyển vận. Một bánh hư hoại thì không thể kham nổi. Tu-đàhoàn kia cũng như vậy. Ví như chim bay cũng thế. Người ngu bị đọa nẻo ác không phải là người trí. Phàm phu bị đọa nẻo ác không phải là Thánh nhân. Kẻ phạm giới bị đọa nẻo ác không phải là người giữ giới. Kẻ có tâm xấu ác bị đọa nẻo ác không phải là người có tâm thiện, như nơi phẩm Tu-đa-la đã nói. Về thức ăn nơi phẩm Trạch sẽ nói.

Bốn cách ăn cõi dục

Bốn nẻo sinh cũng vậy

Ba cách, hai cõi trên

Đoạn thực kia không có.

Bốn cách ăn cõi dục: Nghĩa là ở cõi dục có bốn cách ăn.

Bốn nẻo sinh cũng vậy: Tức nơi năm nẻo với bốn loài sinh cũng có bốn cách ăn. Trong địa ngục: Nước đồng sôi với những viên sắt nóng, tuy còn thêm là các khổ hư hoại, nhưng vì đói khát nên gọi là ăn. Và như gió lạnh buốt chạm vào thân cũng gọi là ăn.

Ba cách, hai cõi trên, Đoạn thực kia không có: Tức là cõi sắc, cõi vô sắc không có đoạn thực, vì thân rất nhẹ nhàng, vì không có sắc.

Hỏi: Trong các nẻo, mỗi mỗi nẻo có những cách ăn nào tăng?

Đáp:

Ở nẻo ngạ quỷ kia

Tăng cách ăn ý tư

Và loài sinh từ trứng

Ba vô sắc cũng vậy.

Ở nẻo ngạ quỷ kia, Tăng cách ăn ý tư: Nghĩa là nơi nẻo ngạ quỷ, ý tư thực tăng vì nơi ấy ý hành là tối đa.

Và loài sinh từ trứng: Nghĩa là nơi loài đó cũng tăng cách ăn bằng ý tư thực, vì loài sinh từ trứng luôn nhớ nghĩ đến mẹ, nên không bị thối rữa.

Ba vô sắc cũng vậy: Nghĩa là trừ xứ phi tưởng phi phi tưởng, ba xứ vô sắc còn lại cũng tăng ý tư thực, vì ý hành là nhiều.

Thai sinh tăng đoạn thực

Là nói trong nẻo người

Địa ngục tăng thức thực

Đệ nhất hữu cũng vậy.

Thai sinh tăng đoạn thực, Là nói trong nẻo người: Nghĩa là ở nơi nẻo người, sinh bằng thai thì tăng cách ăn là đoạn thực, vì cách ăn này tăng nhiều, vì đoạn thực (Cách ăn phân ra từng phần) là để gìn giữ thân.

Địa ngục tăng thức thực, Đệ nhất hữu cũng vậy: Nghĩa là địa ngục tăng thức thực, vì thức giữ lấy danh sắc. Nơi xứ phi tưởng phi phi tưởng cũng tăng thức thực, do thức giữ lấy danh.

Trời dục như nẻo người

Cõi sắc tăng xúc thực

Cùng với nẻo súc sinh

Thấp sinh cũng như vậy.

Trời dục như nẻo người: Nghĩa là các trời thuộc cõi dục thì đoạn thực tăng.

Cõi sắc tăng xúc thực: Nghĩa là các trời thuộc cõi sắc thì xúc thực tăng, do thọ nhận tu thiền.

Cùng với nẻo súc sinh, Thấp sinh cũng như vậy: Nghĩa là trong nẻo súc sinh, thấp sinh thì xúc thực tăng. Nghĩa gìn giữ là nghĩa ăn. Như giữ cho chiếc bình được đứng vững không bị hoại. Như vậy dùng thức ăn để giữ gìn thân, thân không bị hoại, lôi kéo đến hữu, nên nói là ăn.

Hỏi: Nếu như vậy thì hết thảy pháp hữu lậu đều là ăn, vì lôi kéo dẫn đến hữu?

Đáp: Vì tăng thượng nên nói là lực, vì có thể lôi kéo đến hữu nên nói là ăn. Do có hai sự nên gọi là ăn: Trước là phương tiện dẫn dắt. Dẫn dắt xong lại nuôi lớn.

Hỏi: Vì sao chỉ nói bốn cách ăn?

Đáp: Về việc này không nên hỏi, vì tất cả là khó khởi phát, chỉ tùy ở số lượng có sự thích hợp nên nói là bốn. Như cách đoạn thực kia, vì nuôi lớn bốn đại của các căn nên nói là ăn. Tiếp xúc để nuôi lớn tâm tâm pháp nên cũng nói là ăn. Ý tư để nuôi lớn hữu của vị lai nên nói là ăn. Thức vì nuôi lớn danh sắc nên nói là ăn. Thế nên nói có bốn cách ăn.

Hỏi: Nếu người quy y Phật, Pháp, Tăng (Tam bảo tiếng Phạn là Phú hộ – tức che chở, cứu giúp. Quy y nghĩa là hướng về, nên nói là quy hướng Phật, tức được Phú hộ. Pháp, Tăng cũng như vậy) là quy hướng ở đâu? Mỗi Tam bảo đều có hai thứ. Phật có hai thứ thân: Sinh thân và Pháp thân. Pháp cũng có hai thứ: Pháp đệ nhất nghĩa Niết-bàn và tất cả pháp vô ngã. Tăng cũng có hai hạng: Đệ nhất nghĩa Tăng và Đẳng Tăng. Vậy quy y những ai?

Đáp:

Quy y chư Phật kia

Chỗ được pháp vô học

Niết-bàn, pháp vô thượng

Tăng pháp học, vô học.

Chư Phật đã thành tựu pháp vô học, gọi là Phật. Quy nghĩa là trở về với pháp vô học do Phật đã đạt được, gọi là quy y Phật. Không trở về với Phật, đã thành tựu các pháp hữu lậu như vô tránh v.v…, vì tự tánh không giải thoát. Do đấy nên biết là cũng loại trừ sinh thân.

Nếu nói: Đối với Đức Như Lai, khởi tâm ác, đả thương chân Phật khiến chảy máu mà không mắc tội vô gián là không đúng. Vì sao? Vì khởi tâm ác nghĩa là đối với Phật đã đạt được pháp vô học lại khởi tâm ác, gây thương tích nơi chân tức nên mắc phải tội vô gián.

Lại nữa, làm hư hoại công đức vô học mà Phật đã đạt được, là làm hư hoại chỗ nương dựa. Chỗ nương dựa đã hoại thì người nương dựa cũng hoại. Như chiếc bình bể, thì sữa cũng chảy cạn.

Quy y nơi ái tận gọi là quy Pháp, vì là thiện, vì là thường còn. Nên biết trừ các pháp khác, vì các pháp khác không phải là thiện và không thường còn.

Quy y Tăng là quy y những người đã được pháp học, vô học, gọi là quy Tăng. Không quy y Tăng đã thành tựu pháp phi học phi vô học và sinh thân, do là hữu lậu. Cũng không phải là Đẳng Tăng, vì có thể hư hoại.

Hỏi: Quy y dùng gì làm tự tánh?

Đáp: Có thuyết cho: Dùng khẩu nghiệp làm tự tánh, vì lời nói đã kết hợp. Có thuyết cho: Cũng dùng thân nghiệp, khẩu nghiệp làm tự tánh. Là tự tánh của giới.

Hỏi: Quy y có nghĩa gì?

Đáp: Nghĩa che chở cứu giúp là nghĩa của quy y. Nghĩa an ủi là nghĩa của quy y. Do nhân duyên này nên nói là quy y. Thọ nhận môn luật nghi ấy, phẩm Tu-đa-la nói có bốn lời nói tịnh không hoại. Phẩm Trạch nên nói rộng, nay sẽ nói.

Đạo Duyên giác, Bồ-tát

Cùng với ba chân đế

Nơi đó tin không cấu

Là pháp tịnh không hoại.

Phật-bích-chi đã được ba căn và quyến thuộc. Đạo của tất cả Bồ-tát đã tu hành cùng khổ, tập, diệt đế, duyên nơi các pháp này, khởi tín vô lậu, đó gọi là pháp duyên không hoại. Tịnh không hoại và duyên hoại sẽ nói ở sau.

Theo giới thanh tịnh sinh

Phật, Tăng như nói quy

Sự này có hai thứ

Nói có bốn thứ danh.

Theo giới thanh tịnh sinh: Nghĩa là vô lậu tùy theo nghiệp thân, miệng sinh, là giới được bậc Hiền Thánh tôn trọng, đó gọi là giới tịnh không hoại.

Phật, Tăng như nói quy: Nghĩa là Phật và Tăng, nên biết là như trước đã nói về quy y. Người kia duyên Pháp Phật theo tín vô lậu, là duyên nơi tịnh không hoại ở Phật, tín vô lậu nơi pháp của Tăng, là tịnh không hoại ở Tăng. Nếu duyên nơi pháp vô lậu của Phật đã được và pháp học của Bồ-tát đã đạt được, đó gọi là tịnh không hoại của pháp duyên hoại. Như vậy, duyên nơi pháp của Phật, Phật-bích-chi, pháp Thanh văn, cho đến tất cả pháp học, vô học, đó cũng gọi là tịnh không hoại của pháp duyên hoại.

Hỏi: Tịnh không hoại có bao nhiêu sự?

Đáp: Sự này có hai thứ: Nghĩa là tín và giới. Tín là tâm tịnh. Giới là bốn đại tịnh.

Nói có bốn thứ danh: Nghĩa là vì duyên sự kiến lập nên có bốn. Do tín duyên riêng là ba thứ. Biết tịnh nghĩa là hoặc biết, hoặc được, hoặc gìn giữ thanh tịnh.

Hỏi: Nhận biết về những gì?

Đáp: Là bốn chân đế. Lại có thuyết cho là tịnh không hoại, như trưởng giả Thủ La. Lại nữa, vì dũng mãnh nên không đoạn. Có người cho là tịnh không hoại, như trưởng giả Y. (Hai vị trưởng giả này đều được đạo đầu tiên, ma không thể phá hoại, không thể dứt trừ, đều dựa vào mình, tự nói là danh)

Hỏi: Thế nào là thứ lớp?

Đáp: Phật nhận biết tịnh ở trước. Phật là căn bản vì thế nên nói.

Hỏi: Phật có khả năng gì?

Đáp: Giác ngộ về pháp.

Hỏi: Ai gìn giữ pháp?

Đáp: Tăng.

Hỏi: Tăng kia thế nào là được một vị?

Đáp: Thánh giới.

Lại nữa, người có thể thuyết giảng là Phật. Thuyết giảng những gì? Tức là Pháp. Vì ai mà nói? Là Tăng. Ai giữ gìn pháp? Là giới.

Lại nữa, vị lương y là Phật, thuốc chữa bệnh là Pháp, người xem bệnh là Tăng, thuốc là Thánh giới. Đó gọi là nói theo thứ lớp.

Người kia đối với khổ, tập đế và căn phẩm hạ, ở nơi đạo đế có một nhân duyên được tịnh không hoại, tức là tín. (Ba căn đối với khổ, tập đều sinh khởi tin, chán lìa, đó là căn phẩm hạ, đối với đạo chưa có thể yêu thích, chỉ có tin)

Người kia đối với diệt đế và căn phẩm trung, thượng, ở nơi đạo đế có hai nhân duyên được tịnh không hoại, là tín và ưa muốn. (Ba căn đối với diệt thảy đều ưa muốn căn trung thượng, đối với đạo mới có thể có đủ ưa muốn và tín).

Phẩm Tu-đa-la nói về quả Sa-môn, phẩm Trạch nên nói rộng nay sẽ nói.

Gọi là quả Sa-môn

Vô vi cũng hữu vi

Quả học hữu vi ba

Quả vô học thứ tư.

Hai thứ quả Sa-môn: Hữu vi và vô vi. Quả học hữu vi có ba, quả vô học hữu vi là thứ tư. Tất cả vô vi đều là phi học phi vô học.

Thánh nhân tám mươi chín

Quả Sa-môn vô vi

Cũng nói nơi hữu vi

Tất cả đạo Sa-môn.

Tám nhẫn của kiến đạo kia, là tám trí của Sa-môn, là quả hữu vi của Sa-môn. Tám thứ phiền não được đoạn là quả vô vi của Sa-môn. Tu đạo lìa dục của cõi dục nơi chín đạo vô ngại là chín đạo giải thoát của Sa-môn, là quả hữu vi của Sa-môn. Đoạn chín thứ phiền não là quả vô vi của Sa-môn. Như vậy cho đến xứ phi tưởng phi phi tưởng lìa dục đều nên biết. Vì hiện bày chỉ rõ, nên Đức Thế Tôn nói bốn. Do nơi xứ này có đủ năm nhân duyên, đó là: Bỏ đạo đã từng được, được đạo chưa từng được, kiết đã hết, được một vị giải thoát, được tức thì tám trí, một lúc tu mười sáu hành. Do nơi xứ này mà đạo được quyết định và quyết định rốt ráo. Nếu đoạn là đoạn những gì đã làm và những gì đã làm rốt ráo.

Hỏi: Từng có trong khoảng một niệm, một trí nhận biết tất cả pháp chăng?

Đáp: Không. Vì sao?

Tuy biết tất cả không

Nhưng chẳng biết tất cả

Trừ chỗ cùng tương ưng

Tự tánh cũng như thế.

Nếu trí này sinh nhận biết tất cả pháp không và vô ngã nhưng không nhận biết tự tánh của chính mình, không tự quay nhìn lại, như đầu ngón tay không tự tiếp xúc. Trí này cũng như vậy. Lại, không có hai quyết định, không có một trí có hai quyết định. Tự nhận biết, nhận biết người khác, cũng không nhận biết được cái chung của pháp tương ưng. Vì một hành, một duyên, nên tất cả pháp của phẩm tương ưng đều đồng hành, đồng duyên, không nhận biết pháp cộng hữu, một quả, nên đồng quyết định chuyển. Văn tuệ, tư tuệ của trí này không phải là tu tuệ. Vì sao? Vì tu tuệ là duyên của phần đoạn, thế nên nói là cõi dục, cõi sắc, do cõi vô sắc không có phần văn, tư.

Hỏi: Có bao nhiêu thứ đối trị?

Đáp:

Gọi là đoạn đối trị

Hoại trì cùng viễn phần

Bốn thứ này nên biết

Gọi là loại đối trị.

Có bốn thứ đối trị: Đoạn đối trị, hoại đối trị, trì đối trị và viễn phần đối trị.

Đoạn đối trị: Nghĩa là đạo vô ngại đoạn trừ phiền não mà được.

Hoại đối trị: Nghĩa là ở trong duyên tạo nên hành vượt hơn, tức là vô thường, khổ, không, phi ngã v.v… So sánh như vậy.

Trì đối trị: Nghĩa là cùng đoạn trừ phiền não nên được hợp. Tức là đạo giải thoát và về sau, các đạo khác cũng cùng với phiền não được đoạn nên được hợp.

Viễn phần đối trị: Nghĩa là đạo giải thoát đứng đầu, được khổ pháp nhẫn là do kiến khổ đoạn trừ phiền não. Dùng đoạn đối trị và hoại đối trị, đối với các pháp hệ thuộc cõi dục kia thì dùng hoại đối trị. Nếu ái của cõi dục hết, vượt lên ly sinh khổ pháp nhẫn, cũng là viễn phần đối trị.

Như vậy, tất cả đạo tùy theo nghĩa đó đều nên biết.

Phẩm Tu-đa-la nói về nghĩa tu, phẩm Trạch nên nói rộng, nay sẽ nói.

Đầu đắc hoặc tập hành

Đối trị cùng tu đoạn

Nên biết bốn thứ này

Được gọi là nghĩa tu.

Bốn thứ tu: Tu đắc, tu tập, tu đối trị, tu đoạn.

Tu đắc: Nghĩa là mới được pháp chưa từng được là công đức hữu vi. Tu tập: Nghĩa là từng được pháp thiện và nối tiếp sinh. Tu đối trị: Nghĩa là tu bốn thứ đối trị, gọi là tu đối trị, là đạo đối trị chống lại pháp hữu lậu. Tu đoạn: Nghĩa là đoạn trừ phiền não. Tu đạo là nghĩa đoạn trừ phiền não đạt được. (Trên là lấy chủ thể đối trị và chủ thể đoạn làm tu. Nay lấy đối tượng đối trị và đối tượng đoạn làm tu, dựa vào bốn trường hợp sau, có thể nhận biết).

Có pháp tu đắc và tu tập, không phải là tu đối trị, tu đoạn, nên nêu ra bốn trường hợp: (1) Pháp hữu vi vô lậu. (2) Pháp bất thiện, pháp hữu vi vô ký. (3) Pháp hữu lậu thiện. (4) Pháp vô vi.

Có thuyết cho: Có sáu thứ tu: Gồm bốn thứ tu trước và tu phân biệt, tu phòng hộ. Tu phân biệt: Nghĩa là như Tu-đa-la nói: Nên phân biệt những thứ như tóc, lông, móng tay, răng trên thân này, so sánh như vậy. Tu phòng hộ: Nghĩa là căn, như đã nói nên khéo điều phục sáu căn, nói rộng như vậy. Như thế là tốt đẹp, nghĩa là bốn thứ tu như trước đã nói. Hai thứ tu sau này thuộc về tu đoạn, tu đối trị.

Đã nói về tướng quyết định của kiến đạo, tu đạo. Về nghĩa sai biệt của kiến đạo, tu đạo, nay sẽ nói.

Phiền não thông ba cõi

Nếu kiến đoạn hai thứ

Hai đoạn tức ba thứ

Cùng kiến đạo hành trước.

Nếu phiền não hệ thuộc ba cõi, do kiến đạo đoạn, đó là năm kiến và nghi. Kiến đạo này với hai thứ hành trước. (Năm kiến, nghi, nhất định do kiến đạo đoạn trước, so với việc dứt trừ ái mạn, vô minh và kiến đều cùng diệt. Thật ra, tuy chưa hết phiền não, nhưng gọi là đều gồm thâu theo kiến mang tên, gọi là hành trước. Tu đạo là sau, vì không đợi kiến đạo, nên tu đạo hành trước). Hoặc do kiến đạo đoạn, hoặc do kiến đạo, tu đạo đoạn.

Thế nào là kiến đạo đoạn? Nếu kiết hệ thuộc nơi xứ phi tưởng phi phi tưởng, thì tùy tín hành, tùy pháp hành dùng vô gián nhẫn đoạn trừ. Sự hệ thuộc nơi xứ phi tưởng phi phi tưởng kia, đó là lấy định của địa để nói. Tùy tín hành, tùy pháp hành, đó là lấy định của người để nói. Vô gián nhẫn, đó là lấy định đối trị để nói. Đoạn trừ là lấy định của đối tượng tạo tác để nói.

Thế nào là kiến đạo, tu đạo đoạn? Đó là nói về tám địa. Nếu phàm phu đoạn là do tu đạo đoạn. Nếu Thánh nhân đoạn là do kiến đạo đoạn.

Hỏi: Vì sao phàm phu đoạn trừ phiền não hoàn toàn là tu đạo?

Đáp: Vì phàm phu không thể từng bộ phận xả bỏ phiền não, như kiến đạo đoạn như vậy, tu đạo đoạn như vậy. Lại nữa, phàm phu không thể dùng một thứ đạo đoạn trừ chín thứ phiền não. Nếu năm thứ của ba cõi nghĩa là ái, mạn, vô minh, thì kiến đạo này đã hành ba thứ trước, hoặc do kiến đạo đoạn, hoặc do tu đạo đoạn, hoặc do kiến đạo, tu đạo cùng đoạn. Nếu phiền não kia hệ thuộc xứ phi tưởng phi phi tưởng, thì tùy tín hành, tùy pháp hành dùng vô gián nhẫn đoạn là kiến đạo đoạn trừ. Nếu học kiến tích của chín địa dùng tu đạo đoạn thì do tu đạo đoạn. Trong tám địa còn lại, nếu phàm phu đoạn là do tu đạo đoạn. Nếu Thánh nhân đoạn là do kiến đạo đoạn.

Nếu phiền não cõi dục

Năm hành có hai thứ

Vì giới hạn tu kia

Nói tu đạo hành trước.

Nếu năm hành của cõi dục thì tu đạo kia hành trước hai thứ, hoặc do tu đạo đoạn, hoặc do kiến đạo, tu đạo đoạn. Nếu học kiến tích tu dùng đạo đoạn thì do tu đạo đoạn. Ngoài ra, nếu phàm phu đoạn thì do tu đạo đoạn. Nếu Thánh nhân đoạn thì do kiến đạo đoạn. Do Thánh nhân kia quyết định đoạn trước, thế nên nói là hành trước. Hỏi: Trước đây nói duyên, các duyên này hành tác vào lúc nào?

Đáp:

Duyên thứ đệ tạo tác

Nói pháp kia lúc sinh

Duyên duyên đã tạo nghiệp

Pháp ấy nói khi diệt.

Duyên thứ đệ tạo tác, Nói pháp kia lúc sinh: Nghĩa là lúc sinh là vị lai, vì đều cùng có chuyển. Cũng nên nói lúc chuyển là lúc pháp kia sinh. Duyên thứ đệ là tạo nghiệp cùng với nghĩa xứ nên gọi là duyên thứ đệ. Pháp kia sinh nghĩa là được xứ. Nếu nói sắc và tất cả tâm bất tương ưng hành cũng được xứ tức sinh, nên nói duyên thứ đệ là không đúng, như nơi phẩm sự hành kia đã nói.

Duyên duyên đã tạo nghiệp, Pháp ấy nói khi diệt: Nghĩa là khi pháp diệt, duyên duyên là tạo nghiệp, vì lúc pháp diệt là hiện tại, có thể thâu nhận cảnh giới, không phải là vị lai, vì chưa sinh khởi, cũng không phải là quá khứ, vì đã diệt.

Ba nhân đã tạo nghiệp

Là lúc pháp kia sinh

Hai nhân đã tạo tác

Nên biết nói lúc diệt.

Ba nhân đã tạo nghiệp, Là lúc pháp kia sinh: Nghĩa là lúc pháp sinh, có ba nhân tạo nghiệp. Đó là nhân tự phần, nhân nhất thiết biến và nhân báo. Vì sức của nhân tự phần, nên pháp sinh trông giống như đang nối tiếp nhau, thế nên lúc pháp sinh, nhân tự phần tạo nghiệp. Nhân nhất thiết biến, nhân báo đều tùy thuận để kiến lập pháp sinh, nên lúc pháp kia sinh là tạo nghiệp. Vì nói chung, nên nói lúc pháp sinh, ba nhân tạo nghiệp, trừ pháp vô lậu đầu tiên, ngoài ra là thiện, trừ báo, còn lại là vô ký không ẩn mất. Nhân tự phần tạo nghiệp nhiễm ô, nghĩa là nhân tự phần, nhân nhất thiết biến tạo nghiệp. Báo, nghĩa là nhân tự phần và nhân báo tạo nghiệp.

Hai nhân đã tạo tác, Nên biết nói lúc diệt: Nghĩa là lúc có duyên khi pháp diệt. Nhân tương ưng, nhân cộng hữu tạo nghiệp, do nghiệp đồng, vì một quả, pháp bất tương ưng nơi nhân cộng hữu thì không duyên. Duyên tăng thượng nghĩa là nơi tất cả thời đều trụ không chướng ngại, thế nên không nói, vì không đợi nói. Nhân sở tác cũng như vậy.

Hỏi: Thế nào là nơi tất cả chúng sinh tâm bình đẳng khởi, tâm bình đẳng trụ, tâm bình đẳng diệt, là không đồng nhau chăng? Sở dĩ hỏi như vậy vì chúng sinh có thân hoặc lớn, hoặc nhỏ, do thân lớn tức tâm lớn, thân nhỏ thì tâm nhỏ, hay tất cả đều ngang đồng?

Lại, chúng sinh đi đứng chậm nhanh, không đồng, vì đi chậm mà tâm chậm, đi nhanh nên tâm nhanh hay đều bằng nhau?

Lại nữa, chúng sinh hoặc có người yên tĩnh, tri giác như núi. Hoặc có kẻ không đứng yên mà lay động như bụi bay. Người tĩnh lặng nên tâm chậm, người động nên tâm nhanh, hay là đều như nhau?

Đáp:

Tất cả loài chúng sinh

Tâm khởi, trụ, diệt đồng

Tương ưng cùng tham dục

Không tương ưng cũng vậy.

Tất cả loài chúng sinh, Tâm khởi, trụ, diệt đồng: Nghĩa là tâm của tất cả chúng sinh đều bình đẳng trong lúc khởi, lúc trụ, lúc diệt, không nhiều ít. Vì sao? Vì sát-na cũng không có lớn nhỏ. Vì không phải là sắc. Vì sự khác nhau của bốn đại đã khởi, nên thân có lớn nhỏ. Thân nhẹ nhàng thì nhanh chóng, thân nặng nhọc thì chậm chạp. Vì tâm chuyển với nhiều duyên, nên tức biết là lay động. Tâm dừng lại nơi một duyên thì sự nhớ nghĩ được yên tĩnh.

Tương ưng cùng tham dục, Không tương ưng cũng vậy: Nếu tâm có tham, không tham, tất cả tâm kia đều cùng khởi, đều cùng trụ và đều cùng diệt. Vì sát-na tâm tham không tạo nghiệp nên hiện ra nặng. Tâm không tham tạo nghiệp nên hiện ra nhẹ, cho đến có giải thoát, không giải thoát đều nên biết. Có tham, không tham, như nơi phẩm Giới đã nói.

Hỏi: Đã nói phần có tâm. Tất cả tâm của chúng sinh đều cùng khởi, đều cùng trụ, đều cùng diệt. Còn phần không tâm thì thế nào? Nghĩa là người nhập chánh thọ vô tưởng, diệt tận, tâm này diệt, tâm của chúng sinh khác khởi, trở lại từ định biết tâm này sinh, tâm của chúng sinh khác diệt. Như thế là thế nào?

Đáp: Nên biết ở đây nói có tâm là đúng, vì người không tâm cũng đồng. Nghĩa là người nhập chánh thọ của vô tưởng, diệt tận, tâm của chúng sinh khác kia khởi, chánh thọ ban đầu này cũng khởi trong sát-na. Lúc nhận biết từ định, tâm của chúng sinh khác diệt, từ đấy về sau chánh thọ cũng diệt. Nếu lúc trụ nơi định, tâm của chúng sinh khác cũng khởi, cũng diệt, tức chánh thọ này cũng khởi, cũng diệt.

Lại có thuyết nói: Tất cả tâm khởi, bất tất đồng, hoặc có tâm khởi không diệt, nên nêu ra bốn trường hợp: (1) Từ chánh thọ vô tưởng, diệt tận khởi. (2) Lúc nhập chánh thọ. (3) Người có tâm. (4) Lúc trụ nơi chánh thọ. Ở đây không có nhỏ, lớn, vì không có hình.

Đã nói các tâm khởi, diệt. Về nghĩa tâm rộng nay sẽ nói.

Trong cõi dục có bốn

Sắc, vô sắc đều ba

Cùng tâm học, vô học

Nói đây sinh thứ lớp.

Trong cõi dục có bốn, Sắc, vô sắc đều ba, Cùng tâm học, vô học: Nghĩa là có mười hai tâm, đó là: Tâm thiện, tâm bất thiện, tâm vô ký ẩn mất, tâm vô ký không ẩn mất thuộc cõi dục. Tâm thiện, tâm vô ký ẩn mất, tâm vô ký không ẩn mất thuộc cõi sắc. Cõi vô sắc cũng như vậy. Cùng tâm học, tâm vô học.

Hỏi: Mười hai tâm này được kiến lập như thế nào?

Đáp: Kiến lập theo sự hệ thuộc hay không hệ thuộc về cõi, chủng loại. Hệ thuộc và không hệ thuộc kiến lập hai tâm. Hệ thuộc nghĩa là cõi, chủng loại phân biệt lập mười tâm. Không hệ thuộc nghĩa là chủng loại phân biệt lập hai tâm. Thế nên nói là mười hai tâm.

Nói đây sinh thứ lớp: Nghĩa là các tâm này, mỗi mỗi tâm đều theo thứ lớp sinh. Các tâm ấy nay sẽ nói.

Cõi dục thiện sinh chín

Cũng lại từ tám khởi

Hai cấu uế sinh bốn

Cũng từ mười tâm sinh.

Cõi dục thiện sinh chín: Nghĩa là tâm thiện của cõi dục theo thứ lớp sinh chín tâm. Vì cõi dục có bốn tự địa. Tâm thiện của cõi sắc, tức là phương tiện ban đầu khi nhập chánh thọ, tùy thuận tâm thiện kia. Đây là nói chung, không phải cõi sắc mà là tất cả.

Có thuyết cho: Thiền vị lai gồm thâu không phải thiền khác. Lại nói: Vị lai và thiền thứ nhất. Lại còn nói là thiền trung gian. Tôn giả Cù Sa nói: Cho đến thiền thứ hai, như vượt qua khỏi chánh thọ, từ thiền thứ nhất khởi, vượt lên thiền thứ hai và quyến thuộc, thiền thứ ba hiện ở trước. Ở đây cũng như vậy. Tâm cấu uế của cõi sắc, nghĩa là lúc thọ sinh, tâm thiện này mạng chung, tâm cấu uế kia nối tiếp nhau sinh. Tâm cấu uế của cõi vô sắc cũng như vậy. Và tâm học, vô học, tâm ấy cũng tùy thuận. Tâm vô ký không ẩn mất của cõi sắc, cõi vô sắc không theo thứ lớp hiện ở trước, vì tâm bị ràng buộc nơi địa của nó. Tâm thiện của cõi vô sắc cũng không hiện ở trước, vì rất xa nhau.

Tâm thiện này, Cũng lại từ tám khởi: Nghĩa là tâm thiện của cõi dục cũng từ tám tâm theo thứ lớp sinh. Vì cõi dục có bốn tự địa. Thiện và cấu uế của cõi sắc, thì tâm thiện như trước đã nói, còn cấu uế đó là phiền não của địa thiền thứ nhất đã gây bức não, tức phải dựa vào tâm thiện của cõi dục để phòng giữ, nên từ tâm học, vô học khởi, tâm thiện của cõi dục mới hiện ở trước.

Hai cấu uế sinh bốn: Nghĩa là tâm bất thiện của cõi dục và tâm vô ký ẩn mất theo thứ lớp sinh bốn tâm ở cõi mình, không phải địa trên, vì cùng trái nhau.

Cũng từ mười tâm sinh: Nghĩa là hai thứ tâm nhiễm ô của cõi dục kia theo thứ lớp của mười tâm sinh, bốn sắc của cõi mình. Cõi vô sắc có sáu, tức là lúc thọ sinh.

Vô ký tiếp sinh bảy

Cũng lại từ năm khởi

Thiện cõi sắc mười một

Cũng từ chín tâm sinh.

Vô ký tiếp sinh bảy: Nghĩa là tâm vô ký không ẩn mất của cõi dục theo thứ lớp sinh bảy tâm. Tự cõi bốn, thiện cõi sắc, đó là tâm biến hóa, theo thứ lớp sinh tâm vô ký ẩn mất, nghĩa là lúc thọ sinh. Cõi vô sắc cũng có tâm vô ký ẩn mất.

Cũng lại từ năm khởi: Tức tâm vô ký không ẩn mất của cõi dục từ năm tâm theo thứ lớp sinh. Tự cõi bốn, thiện cõi sắc, theo thứ lớp sinh, nghĩa là tâm biến hóa.

Thiện cõi sắc mười một: Nghĩa là tâm thiện của cõi sắc theo thứ lớp sinh mười một tâm, trừ tâm vô ký không ẩn mất của cõi vô sắc.

Cũng từ chín tâm sinh: Nghĩa là tâm thiện của cõi sắc từ chín tâm theo thứ lớp sinh, tức trừ hai tâm cấu uế của cõi dục và tâm vô ký không ẩn mất của cõi vô sắc.

Cấu uế cõi sắc sáu

Cũng từ tám tâm khởi

Vô ký tiếp sinh sáu

Từ ba thứ lớp sinh.

Cấu uế cõi sắc sáu: Nghĩa là tâm vô ký ẩn mất của cõi sắc theo thứ lớp sinh sáu tâm: Tự cõi ba, cõi dục ba, trừ tâm vô ký không ẩn mất của cõi dục.

Cũng từ tám tâm khởi: Nghĩa là tâm vô ký ẩn mất của cõi sắc, từ tám tâm theo thứ lớp sinh, trừ hai tâm cấu uế của cõi dục và hai tâm vô lậu.

Vô ký tiếp sinh sáu: Nghĩa là tâm vô ký không ẩn mất của cõi sắc theo thứ lớp sinh sáu tâm: Tự cõi có ba, cõi dục có hai tâm cấu uế và tâm cấu uế cõi vô sắc.

Từ ba thứ lớp sinh: Nghĩa là từ ba tâm của tự cõi theo thứ lớp sinh.

Thiện vô sắc sinh chín

Cũng từ sáu tâm khởi

Tâm cấu uế sinh bảy

Kia cũng từ bảy sinh.

Thiện vô sắc sinh chín: Nghĩa là tâm thiện của cõi vô sắc theo thứ lớp sinh chín tâm, trừ tâm thiện, tâm vô ký không ẩn mất của cõi dục và tâm vô ký không ẩn mất của cõi sắc.

Cũng từ sáu tâm khởi: Nghĩa là tâm thiện của cõi vô sắc cũng từ sáu tâm theo thứ lớp sinh: Tự cõi ba, cõi sắc có tâm thiện và hai tâm vô lậu.

Tâm cấu uế sinh bảy: Nghĩa là tâm cấu uế của cõi vô sắc theo thứ lớp sinh bảy tâm: Tự cõi ba, tâm thiện của cõi sắc cùng hai tâm cấu uế của cõi dục.

Kia cũng từ bảy sinh: Nghĩa là tâm vô ký ẩn mất của cõi vô sắc cũng từ bảy tâm theo thứ lớp sinh: Tự cõi ba, tâm thiện và tâm vô ký không ẩn mất của cõi dục và cõi sắc.

Tâm vô ký sinh sáu

Cũng lại từ ba khởi

Tâm học sinh nơi năm

Cũng từ bốn tâm sinh.

Tâm vô ký sinh sáu: Nghĩa là tâm vô ký không ẩn mất của cõi vô sắc theo thứ lớp sinh sáu tâm: Tự cõi ba, tâm cấu uế nơi cõi dưới ba.

Cũng lại từ ba khởi: Nghĩa là tâm vô ký không ẩn mất của cõi vô sắc từ ba tâm của tự cõi theo thứ lớp sinh, không phải tâm khác, vì là số của báo.

Tâm học sinh nơi năm: Nghĩa là tâm học theo thứ lớp sinh ra năm tâm: Hai tâm vô lậu và tâm thiện của ba cõi, không phải là cấu uế, vì tánh cùng trái nhau, không phải vô ký không ẩn mất, vì tánh không nhanh nhẹn.

Cũng từ bốn tâm sinh: Nghĩa là tâm học cũng từ bốn tâm theo thứ lớp sinh. Tức tâm học và tâm thiện của ba cõi, không phải là vô học, vì là nhân cũng không phải nhân khác, như trước đã nói.

Tâm vô học sinh bốn

Cũng từ năm tâm sinh

Đã nói mười hai tâm

Hai mươi tức nên nói.

Tâm vô học sinh bốn: Nghĩa là tâm vô học theo thứ lớp sinh bốn tâm, tức là tâm vô học và tâm thiện của ba cõi, không phải là học vì là quả, không phải là quả khác, như trước đã nói.

Cũng từ năm tâm sinh: Nghĩa là tâm vô học từ năm tâm theo thứ lớp sinh, gồm hai tâm vô lậu và tâm thiện của ba cõi.

Đã nói mười hai tâm, Hai mươi tức nên nói: Đã nói mười hai tâm theo thứ lớp sinh. Như mười hai tâm này phân biệt làm hai mươi, nay sẽ nói.

Hai thiện, hai cấu uế

Báo sinh và oai nghi

Công xảo, quả các thiền

Tám tâm trong cõi dục.

Tám tâm của cõi dục: Đó là tâm thiện phương tiện sinh, tâm bất thiện phương tiện sinh và thiện, bất thiện sinh đắc cùng vô ký ẩn mất vô ký không ẩn mất. Vô ký có bốn thứ: Báo sinh, oai nghi, công xảo và tâm biến hóa.

Trừ bất thiện công xảo

Còn lại ở cõi sắc

Lìa thiền quả oai nghi

Bốn khác tại vô sắc.

Trừ bất thiện công xảo, Còn lại ở cõi sắc: Nghĩa là cõi sắc có sáu tâm, trừ bất thiện và công xảo, ngoài ra, như trước đã nói.

Lìa thiền quả oai nghi, Bốn khác tại vô sắc: Nghĩa là cõi vô sắc có bốn tâm, trừ oai nghi và tâm biến hóa. Cõi sắc, cõi vô sắc trừ công xảo, vì không có sự nghiệp, trừ bất thiện, vì đã lìa không hổ không thẹn. Cõi vô sắc trừ oai nghi, vì không có tới lui, trừ tâm biến hóa, vì không có phần thuộc về chi thiền.

Tâm học cùng vô học

Đấy tức là hai mươi

Tâm kia thứ lớp sinh

Đều tùy nghĩa kia nói.

Tâm học cùng vô học, Đấy tức là hai mươi: Nghĩa là tâm học cùng vô học và mười tám tâm trước là thành hai mươi tâm. Nên phân biệt về sự hệ thuộc, không hệ thuộc nơi cõi và chủng loại. Sự sai biệt này, trước đây đã nói tổng quát. Thiện và vô ký không ẩn mất (vô phú vô ký) nay cũng phân biệt về chủng loại.

Tâm kia thứ lớp sinh, Đều tùy nghĩa kia nói: Nghĩa là tâm này lần lượt theo thứ lớp sinh, nay sẽ nói.

Dục phương tiện sinh mười

Cũng từ tám tâm khởi

Sinh đắc tiếp sinh chín

Cũng từ mười một sinh.

Dục phương tiện sinh mười: Nghĩa là tâm thiện phương tiện của cõi dục theo thứ lớp sinh mười: Tự cõi bảy, trừ tâm biến hóa, vì thiền tịnh kia theo thứ lớp sinh. Tâm thiện phương tiện của cõi sắc và tâm học, vô học.

Cũng từ tám tâm khởi: Nghĩa là tâm thiện phương tiện của cõi dục kia từ tám tâm theo thứ lớp sinh. Tự cõi hai, tâm thiện và hai tâm cấu uế. Tâm thiện phương tiện cùng tâm cấu uế cõi sắc và tâm học, vô học.

Sinh đắc tiếp sinh chín: Nghĩa là tâm thiện sinh đắc của cõi dục theo thứ lớp sinh chín tâm: Tự cõi có bảy tâm, trừ tâm biến hóa, tâm cấu uế của cõi sắc và cõi vô sắc.

Cũng từ mười một sinh: Nghĩa là tâm thiện sinh đắc của cõi dục từ mười một tâm theo thứ lớp sinh: Tự cõi có bảy tâm, như trước đã nói. Tâm thiện, tâm cấu uế phương tiện của cõi sắc cùng tâm học, vô học.

Hai cấu uế sinh bảy

Cũng từ mười bốn khởi

Báo sinh oai nghi tám

Là cũng từ bảy sinh.

Hai cấu uế sinh bảy: Nghĩa là bất thiện và vô ký ẩn mất của cõi dục theo thứ lớp sinh bảy tâm của tự cõi, trừ tâm biến hóa.

Cũng từ mười bốn khởi: Nghĩa là hai cấu uế này từ mười bốn tâm theo thứ lớp sinh, tự cõi bảy, trừ tâm biến hóa. Cõi sắc có bốn thứ, trừ tâm thiện phương tiện và tâm biến hóa. Cõi vô sắc có ba, trừ tâm thiện phương tiện.

Báo sinh oai nghi tám: Nghĩa là báo sinh và oai nghi của cõi dục theo thứ lớp sinh tám tâm: Tự cõi sáu, trừ tâm thiện phương tiện và tâm biến hóa, tâm cấu uế của cõi sắc, cõi vô sắc.

Là cũng từ bảy sinh: Nghĩa là báo sinh và tâm oai nghi của cõi dục này cũng từ bảy tâm của tự cõi theo thứ lớp sinh, trừ tâm biến hóa.

Tâm công xảo sinh sáu

Cũng lại từ bảy sinh

Tâm biến hóa sinh hai

Cũng tức từ hai sinh.

Tâm công xảo sinh sáu: Nghĩa là tâm công xảo của cõi dục, theo thứ lớp sinh sáu tâm của tự cõi, trừ tâm thiện phương tiện và tâm biến hóa.

Cũng lại từ bảy sinh: Nghĩa là tâm kia cũng từ bảy tâm của tự cõi theo thứ lớp sinh, trừ tâm biến hóa.

Tâm biến hóa sinh hai: Nghĩa là tâm biến hóa của cõi dục theo thứ lớp sinh hai tâm: Tâm biến hóa cõi dục và tâm thiện phương tiện của cõi sắc.

Cũng tức từ hai sinh: Nghĩa là cũng tức từ hai tâm này theo thứ lớp sinh ra.

Phương tiện sắc mười hai

Là cũng từ mười khởi

Sinh đắc tiếp sinh tám

Cũng từ năm tâm sinh.

Phương tiện sắc mười hai: Nghĩa là tâm thiện phương tiện của cõi sắc theo thứ lớp sinh mười hai tâm: Tự cõi sáu, cõi dục ba, tâm thiện phương tiện, tâm thiện sinh đắc và tâm biến hóa. Tâm thiện phương tiện của cõi vô sắc và tâm học, vô học.

Là cũng từ mười khởi: Nghĩa là tâm thiện phương tiện của cõi sắc từ mười tâm theo thứ lớp sinh. Tự cõi bốn, trừ oai nghi và báo sinh. Cõi dục hai: Là tâm thiện phương tiện và tâm biến hóa. Cõi vô sắc hai: Là tâm thiện phương tiện, tâm cấu uế cùng với tâm học, vô học.

Sinh đắc tiếp sinh tám: Nghĩa là tâm thiện sinh đắc của cõi sắc theo thứ lớp sinh tám tâm: Tự cõi năm, trừ tâm biến hóa, hai tâm cấu uế cõi dục và tâm cấu uế của cõi vô sắc.

Cũng từ năm tâm sinh: Nghĩa là tâm thiện sinh đắc của cõi sắc từ năm tâm của tự cõi giới theo thứ lớp sinh, trừ tâm biến hóa.

Cấu uế sắc sinh chín

Cũng từ mười một khởi

Tâm oai nghi sinh bảy

Từ năm thứ lớp sinh.

Cấu uế sắc sinh chín: Nghĩa là tâm cấu uế của cõi sắc theo thứ lớp sinh chín tâm: Tự cõi năm, trừ tâm biến hóa. Cõi dục bốn: Hai tâm thiện, hai tâm cấu uế.

Cũng từ mười một khởi: Nghĩa là tâm cấu uế của cõi sắc từ mười một tâm theo thứ lớp sinh: Tự cõi năm, trừ tâm biến hóa. Cõi dục ba là thiện sinh đắc, oai nghi và báo sinh. Cõi vô sắc ba, trừ tâm thiện phương tiện.

Tâm oai nghi sinh bảy: Nghĩa là tâm oai nghi của cõi sắc theo thứ lớp sinh bảy tâm: Tự cõi bốn, trừ tâm thiện phương tiện và tâm biến hóa. Hai cấu uế là quả của cõi dục và cấu uế của cõi vô sắc.

Từ năm thứ lớp sinh: Nghĩa là tâm oai nghi của cõi sắc từ năm tâm của tự cõi theo thứ lớp sinh, trừ tâm biến hóa.

Nên biết sắc báo sinh

Cũng như nói oai nghi

Là các quả thiền kia

Nên biết như cõi dục.

Nên biết sắc báo sinh, Cũng như nói oai nghi: Nghĩa là tâm báo sinh của cõi sắc theo thứ lớp sinh bảy tâm. Cũng từ năm tâm sinh, như nói về oai nghi.

Là các quả thiền kia, Nên biết như cõi dục: Nghĩa là tâm biến hóa của cõi sắc theo thứ lớp sinh hai tâm, là tâm thiện phương tiện và tâm biến hóa của cõi sắc. Cũng tức từ hai tâm này theo thứ lớp sinh.

Vô sắc đầu sinh bảy

Là cũng từ sáu sinh

Sinh đắc cũng sinh bảy

Nên biết từ bốn khởi.

Vô sắc đầu sinh bảy: Nghĩa là tâm thiện phương tiện của cõi vô sắc theo thứ lớp sinh bảy tâm: Tự cõi bốn, tâm thiện phương tiện của cõi sắc và tâm học, tâm vô học.

Là cũng từ sáu sinh: Nghĩa là tâm thiện phương tiện của cõi vô sắc từ sáu tâm theo thứ lớp sinh: Tự cõi ba, trừ báo sinh, tâm thiện phương tiện của cõi sắc cùng tâm học, vô học.

Sinh đắc cũng sinh bảy: Nghĩa là thiện sinh đắc của cõi vô sắc cũng theo thứ lớp sinh bảy tâm: Tự cõi bốn và ba tâm cấu uế của cõi dưới.

Nên biết từ bốn khởi: Nghĩa là từ bốn tâm của tự cõi kia theo thứ lớp sinh.

Cấu uế sinh tám tâm

Là từ mười tâm khởi

Tâm báo sinh ở sáu

Là cũng từ bốn sinh.

Cấu uế sinh tám tâm: Nghĩa là tâm cấu uế của cõi vô sắc theo thứ lớp sinh tám tâm: Tự cõi bốn, cõi dục có hai tâm cấu uế, cùng tâm thiện phương tiện và tâm cấu uế của cõi sắc.

Là từ mười tâm khởi: Nghĩa là tâm cấu uế của cõi vô sắc từ mười tâm theo thứ lớp sinh: Tự cõi bốn, cõi dục ba: Thiện sinh đắc, oai nghi và báo sinh. Cõi sắc cũng như vậy.

Tâm báo sinh ở sáu: Nghĩa là tâm báo sinh của cõi vô sắc theo thứ lớp sinh sáu tâm: Tự cõi ba, trừ tâm thiện phương tiện, địa dưới có ba tâm cấu uế.

Là cũng từ bốn sinh: Nghĩa là tâm báo sinh kia từ bốn tâm của tự cõi theo thứ lớp sinh.

Tâm học tiếp sinh sáu

Từ bốn thứ lớp khởi

Tâm vô học sinh năm

Là cũng từ năm sinh.

Tâm học tiếp sinh sáu: Nghĩa là tâm học theo thứ lớp sinh sáu tâm: Tâm thiện phương tiện của ba cõi, thiện sinh đắc của cõi dục (Thiện sinh đắc của cõi dục vừa mạnh vừa nhạy bén, hai cõi kia thì yếu và chậm) cùng tâm học, vô học.

Từ bốn thứ lớp khởi: Nghĩa là tâm học từ bốn tâm theo thứ lớp sinh: Gồm tâm thiện phương tiện của ba cõi và tâm học.

Tâm vô học sinh năm: Nghĩa là tâm vô học theo thứ lớp sinh năm tâm, gồm tâm thiện phương tiện của ba cõi, thiện sinh đắc của cõi dục và tâm vô học.

Là cũng từ năm sinh: Nghĩa là tâm thiện phương tiện của ba cõi cùng tâm học, tâm vô học.

Hỏi: Vì sao tâm thiện phương tiện theo thứ lớp sinh các tâm oai nghi, công xảo và báo sinh? Còn các tâm này vì sao không theo thứ lớp sinh tâm thiện phương tiện?

Đáp: Vì oai nghi, công xảo là tự ưa thích những gì mình đã làm, còn tâm báo sinh thì yếu kém, không có tạo tác. Nghĩa là tâm oai nghi thì ưa hành tập oai nghi, thế nên theo thứ lớp không sinh khởi tâm thiện phương tiện. Vì tâm xuất ly không siêng năng tạo phương tiện, nên tâm thiện phương tiện theo thứ lớp sinh. Tâm oai nghi, tâm công xảo cũng như vậy. Tâm báo sinh thì yếu kém, không có hành tác, nghiệp gốc đã được gieo trồng, thế nên người nhập tâm đó là tâm không thể xuất ly, không siêng năng tạo phương tiện, nên phải theo tâm thiện phương tiện thứ lớp sinh. Nếu nói vì tâm cấu uế ưa thích tham chấp nơi cảnh giới, cùng yếu kém, nên không thể từ cảnh giới của tâm cấu uế theo thứ lớp sinh tâm thiện phương tiện, thì không đúng. Vì sao? Vì cảnh giới không khác, vì thấy rõ lỗi lầm, vì không yếu kém, nên ở nơi cảnh giới kia đã chuyển đổi lỗi lầm xấu ác, tức ở nơi đó khởi công đức. Cho nên cảnh giới kia không khác đối với hành kia, vì phiền não khiến mỏi mệt, nhàm chán. Tức ở nơi cảnh giới kia quan sát sinh nơi đêm dài sinh tử đã hành tập phiền não. Do tâm cấu uế không yếu kém, thế nên tâm kia theo thứ lớp sinh tâm thiện phương tiện.

Tâm sinh đắc thiện của cõi dục tuy nhanh chóng nhưng không phải là phương tiện. Do nhanh chóng nên từ tâm thiện phương tiện của cõi sắc kia cùng tâm học, vô học theo thứ lớp sinh. Do không phải là phương tiện, nên không thể theo thứ lớp sinh các tâm kia. Tâm thiện sinh đắc ở cõi sắc không nhanh nhẹn, cũng không phải là phương tiện. Vì không nhanh nhẹn nên không từ tâm học, vô học cùng tâm thiện phương tiện của cõi vô sắc theo thứ lớp sinh. Vì không phải là phương tiện, nên không theo thứ lớp sinh các tâm đó. Nơi cõi vô sắc cũng như vậy. Tâm cấu uế của cõi sắc theo thứ lớp sinh. Tâm thiện sinh đắc ở cõi dục thì nhanh chóng. Tâm cấu uế của cõi vô sắc không theo thứ lớp sinh. Tâm thiện sinh đắc của cõi sắc thì không nhanh chóng.

Hỏi: Thế nào là chánh pháp?

Đáp:

Kinh, Luật, A-tỳ-đàm

Đó gọi chánh pháp tục

Ba mươi bảy phẩm giác

Là nói đệ nhất nghĩa.

Kinh, Luật, A-tỳ-đàm, Đó gọi chánh pháp tục: Nghĩa là Tu-đala, Luật, A-tỳ-đàm là chánh pháp ngôn thuyết, vì căn cứ vào danh, xứ khởi, như trước đã nói. Ngôn ngữ của Phật là tự tánh của ngôn ngữ. Ngôn ngữ tức dựa vào danh chuyển, do chuyển nơi xứ khác nên gọi là số tục. Vì hiển bày đệ nhất nghĩa, nên gọi là chánh pháp, là dùng danh để làm sáng tỏ nghĩa. Ba mươi bảy phẩm giác là nói về đệ nhất nghĩa. Ba mươi bảy phẩm giác là chánh pháp của đệ nhất nghĩa, vì lìa danh khởi. Tu tuệ hữu lậu, tuy lìa danh chuyển, nhưng vì có cấu uế, nên không nói là chánh pháp của đệ nhất nghĩa. Như chánh pháp có hai thứ, người hành pháp cũng có hai thứ: Tu pháp và tu. Tu pháp là tụng tập. Tu là tu thiền, đó là số thế tục. Chánh pháp là tu. Pháp là nghĩa trì. Chánh pháp của đệ nhất nghĩa là tu. Vì vậy nên nói là tu. Người hành pháp trụ thì chánh pháp còn. Người tu hành diệt thì chánh pháp diệt. Đức Thế Tôn luôn khuyến phát người tu hành, nên không nói đến giới hạn sai biệt, như trước nói. Tam muội kim cang nơi phẩm Trạch nên nói rộng, nay sẽ nói.

Năm mươi hai cùng khác

Cũng lại nói tám mươi

Hoặc có thuyết mười ba

Là tam muội kim cang.

Có thuyết cho: Năm mươi hai tam muội kim cang thuộc về

thiền vị lai. Nếu dựa vào khổ tỷ trí của thiền vị lai thì được quả A-lahán. Đối với bốn ấm của xứ phi tưởng phi phi tưởng, suy nghĩ đó là vô thường, khổ, không và phi ngã. Nếu tập tỷ trí đạt được, là tư duy về mỗi mỗi hành trong bốn hành của tập đế. Nếu diệt pháp trí thì hành hệ thuộc cõi dục diệt, là tư duy về bốn hành của diệt đế. Nếu đạo pháp trí đoạn đạo hành hệ thuộc cõi dục, là tư duy bốn hành của đạo đế. Nếu diệt tỷ trí, hoặc tư duy về hành diệt hệ thuộc địa nơi thiền thứ nhất, hoặc cho đến tư duy về hành diệt hệ thuộc phi tưởng phi phi tưởng xứ. Nếu đạo tỷ trí, đối với chín địa kia, thì đạo phẩm tỷ trí tư duy về bốn hành, được quả A-la-hán.

Trí hành như vậy, duyên nơi phân biệt là năm mươi hai. (Vì khổ khác nên diệt khác, vì tính cách trở nên quán riêng biệt. Đây là lý do tám địa diệt, có ba mươi hai đạo hành là giống như vậy, thông suốt với địa khác, đồng tánh tình vô ngại, nên quán thông suốt. Quán thông suốt chín địa, chỉ có bốn hành kết hợp với mười sáu hành của bốn đế trước là thành năm mươi hai). Như thiền vị lai, cho đến thiền thứ tư cũng như vậy. Không xứ có hai mươi tám hành (Khổ, tập của tự địa là tám hành. Diệt đế của bốn không là mười sáu hành. Đạo của chín địa có bốn hành. Vì diệt ở địa trên ít dần, nên tùy chỗ diệt có bốn). Thức xứ có hai mươi bốn hành. Vô sở hữu xứ có hai mươi. Do cõi vô sắc không có pháp trí. Pháp trí duyên nơi cõi dục, không phải cõi vô sắc, duyên nơi hành diệt của địa dưới, khổ của địa dưới không phải là cảnh giới, nên đối trị của địa dưới, lần lượt duyên nơi nhân.

Có thuyết cho: Thiền vị lai có tám mươi tam muội kim cang. Sự sai biệt trong đấy là nói về đạo tỷ trí. Cũng mỗi mỗi địa duyên nơi đối trị, được quả A-la-hán. (Quán đạo của bảy địa, địa tỷ trí, mỗi địa đều có bốn hành, là có hai mươi tám, cộng với năm mươi hai hành trước, thành tám mươi hành). Như thiền vị lai, cho đến thiền thứ tư cũng như vậy. Không xứ có bốn mươi hành, thức xứ có ba mươi hai, vô sở hữu xứ có hai mươi bốn.

Tôn giả Cù Sa nói: Tam muội kim cang thuộc về thiền vị lai. Mười ba kiến đạo, bốn tỷ nhẫn tương ưng với bốn tam muội. Tu đạo lìa dục nơi xứ phi tưởng phi phi tưởng, có chín đạo vô ngại tương ưng chín tam muội. Tất cả những thứ ấy là nhằm đối trị với đệ nhất hữu kia. Đạo thế tục nơi tam muội kim cang không phải là cảnh giới, cho đến thiền thứ tư cũng như vậy. Không xứ có chín, cho đến vô sở hữu xứ cũng như thế.

Đây là nói chung. Nếu nói về nhẫn trí nơi hành chủng duyên phân biệt là thuộc về thiền vị lai, tức có một ngàn bốn trăm chín mươi hai tam muội kim cang, cho đến thiền thứ tư cũng như vậy. Không xứ có bốn trăm sáu mươi tám, thức xứ có ba trăm hai mươi bốn, vô sở hữu xứ có hai trăm mười sáu.

Hỏi: Phẩm Trí kia đã nói đến thần thông. Vậy thần thông kia là tất cả thiện hay là không phải?

Đáp:

Ba thông tức nói thiện

Hai khác là vô ký

Nên biết dựa dục, sắc

Thế Tôn nói tánh tuệ.

Ba thông tức nói thiện: Nghĩa là thần thị trí, tha tâm trí, túc mạng trí, ba thông này nói là thiện. Vì sao? Vì là quả đáng yêu thích, vì phương tiện tột bậc đã khởi, vì điều phục người khác. Người không tin ưa khiến họ tin ưa. Ba thông này khiến người khác được điều phục hết mực nên hoan hỷ. Tâm hoan hỷ tương ưng với tuệ là thiện, vì tương ưng với tâm tín.

Hai khác là vô ký: Tức là thiên nhãn, thiên nhĩ. Hai thần thông này là vô ký, vì không có quả đáng yêu thích và phương tiện tột bậc. Lại, vì thọ nhận sắc, thanh để khởi, nên là vô ký.

Hỏi: Ở nơi xứ nào hiện ra trước cũng hiện những tánh gì?

Đáp: Nên biết dựa dục sắc, Thế Tôn nói tánh tuệ: Tức thần thông này hiện ở trước nơi cõi dục, cõi sắc, không phải ở cõi khác. Vì dựa vào sắc, thần thông kia khởi hiện trước ở cõi dục, sau mới có thể hiện trước nơi cõi sắc. Thần thông ấy không phải do nghiệp ban đầu gắng nhận, có thể không có phần. Là tánh của trí tuệ từ sự phân biệt khởi, chỗ dựa thành người dựa. (Đây là giải thích thần thông có tên là mắt, do mắt sinh khởi). Như Luận Thi Thiết nói: Bấy giờ, bốn đại của cõi sắc tạo tác khiến nhãn xứ được tròn đầy, nên thiên nhãn thanh tịnh, như nơi phẩm Tu-đa-la đã nói. Sự việc của các căn được nói rộng trong phẩm Trạch, nay sẽ nói.

Nên biết các căn kia

Người tuệ khéo phân biệt

Danh có hai mươi hai

Sự tức nói mười bảy.

Đức Phật nói các căn: Về danh có hai mươi hai. Về sự có mười bảy, do căn nam, nữ và ba căn vô lậu, không có sự riêng nên không lập sự, là thuộc về căn khác. Căn nam nữ lìa thân căn thì không có phần nên nói như vậy. Thế nào là nam căn? Là phần ít của thân căn.

Nữ căn cũng như thế.

Lại, vì chỉ một thức nương dựa. Nếu thức dựa vào thân căn khởi tức là dựa vào căn nam nữ, cùng sinh căn, không có tướng khác. Vì một thức, ba căn vô lậu, chín căn hợp thành.

Chín căn: Là ý căn, lạc căn, hỷ căn, xả căn và năm căn như tín v.v… Trong chín căn này, vì phân biệt về đạo và người, nên lập ba căn.

Phân biệt về đạo: Nghĩa là kiến đạo nói là vị tri căn. Tu đạo nói là dĩ tri căn. Đạo vô học nói là vô tri căn.

Phân biệt về người: Nghĩa là Tùy tín hành, Tùy pháp hành nói là vị tri căn. Tín giải thoát, Kiến đáo, Thân chứng nói là dĩ tri căn. Tuệ giải thoát, Câu giải thoát nói là vô tri căn.

Hỏi: Đẳng và đệ nhất nghĩa có tướng gì?

Đáp:

Nếu lúc phân biệt sự

Bỏ danh thì nói đẳng

Phân biệt không chỗ bỏ

Tức là đệ nhất nghĩa.

Nếu lúc phân biệt sự, Bỏ danh thì nói đẳng: Nghĩa là nếu lúc phân biệt về sự, xả bỏ danh, thì đó tức là Đẳng sự (Đẳng sự, tiếng Phạn nói Tam tỷ túc đề, Hán dịch là Đẳng tập, cũng nói là Đẳng tích tụ. Phàm hợp có ba, không có gọi là Đẳng tập), không phải đệ nhất nghĩa quyết định sự việc, vì không thể được. Như lúc phân biệt chiếc bình với sắc, hương, vị, xúc, là bỏ tên bình, không phải là bỏ sắc, hương, vị, xúc mà có tên bình riêng, nên gọi là Đẳng sự. Như vậy, tất cả phân biệt, không còn có đối tượng bỏ, tức là đệ nhất nghĩa. Như lúc phân biệt sự, không bỏ danh, đó là đệ nhất nghĩa. Như năm ấm hưng thạnh, gọi là khổ đế. Nếu lúc phân biệt năm ấm, cũng không bỏ tên khổ, vì sắc là khổ, cho đến thức cũng như vậy. Sắc kia lại có mười một thứ, mỗi mỗi nhập đều là khổ, cho đến sát-na và lúc phân biệt cực vi cũng không bỏ tên khổ, vì sự phân biệt kia đã được tướng. Như vậy, tất cả như nơi phẩm Tạp đã nói. Về trung ấm phẩm Trạch sẽ nói rộng.

Hỏi: Là nhất định hay không nhất định?

Đáp:

Giới, nẻo, địa tất định

Trung ấm năm, vô ngại

Nói tên là Hương thực

Cầu hữu thừa ý hành.

Giới, nẻo, địa tất định: Nghĩa là cõi, nẻo (Thú), địa của trung ấm không chuyển đổi, vì trung ấm của cõi dục tất sinh nơi cõi dục, cõi sắc sinh nơi cõi sắc. Như vậy nẻo địa ngục sinh nơi địa ngục, cho đến nẻo người sinh nơi loài người. Bốn Thiên vương sinh nơi Bốn Thiên vương, cho đến trời A-ca-nị-trá cũng như vậy.

Trung ấm năm: Nghĩa là tánh năm ấm của trung ấm, vì có đi lại, không phải lìa sắc mà có đi lại. Thế nên ở cõi dục, cõi sắc có trung ấm, không phải là cõi vô sắc, vì nơi cõi ấy không có sắc.

Vô ngại: Vì rất nhỏ nhặt, nên tất cả hình tướng che lấp đều không thể ngăn ngại, do sức của nghiệp nên trụ trong thai mẹ. Nếu khác thì không thể trụ nơi thai.

Nói tên là Hương thực, Cầu hữu thừa ý hành: Nghĩa là vì dùng hương làm thức ăn, nên nói là Hương thực. Nếu người có phước mỏng thì ăn các hương uế tạp. Nếu là người đại lực thì ăn các hương tịnh. Vì cầu nơi sinh hữu nên nói là Cầu hữu. Vì từ nơi ý sinh nên nói là Thừa ý hành. Các chúng sinh này hoặc do nghiệp sinh, là nơi địa ngục, như đã nói, các chúng sinh kia bị nghiệp trói buộc. Hoặc phiền não sinh, là nói người và trời thuộc cõi dục. Hoặc báo sinh, là nói về chim bay. Hoặc từ ý sinh, là trời của cõi sắc, vô sắc và con người của kiếp đầu tiên. Biến hóa và trung ấm ở giữa hai hữu, khởi nẻo xen tạp, nên nói là trung ấm.

Hỏi: Trung ấm trụ trong thời gian bao lâu?

Đáp:

Bảy ngày hoặc bảy bảy

Cho đến khi hòa hợp

Hoặc lõa hình ăn hương

Các căn đều đầy đủ.

Bảy ngày: Có thuyết cho là trung ấm trụ trong bảy ngày, vì thân yếu kém.

Hỏi: Nếu hòa hợp thì nên như vậy. Còn nếu cha mẹ của người kia đều ở xứ khác, người này mạng chung thì phải làm sao?

Đáp: Nên quán nghiệp của chúng sinh này có chuyển hay không chuyển? Nếu đối với mẹ có thể chuyển, đối với cha không thể chuyển, thì người cha kia tức theo người nữ khác, khiến trung ấm được gặp, duyên ở nơi người cha có thể chuyển cũng như vậy. Nếu cả hai người đều không thể chuyển, thì người này chưa chết nhưng người kia trước đó đã hòa hợp, thì đó là nói kẻ thường hành dục. Nếu hành dục theo thời tiết, nghĩa là vì nhân duyên, vì nghiệp của chúng sinh kia, khiến họ phi thời cũng hành dục.

Có thuyết cho: Hoặc ở nơi xứ tương tợ sinh. Nghĩa là nếu lúc sinh thích ứng với xứ hành mà trung ấm không đến đúng lúc thì sinh ở xứ thường hành dục tương tợ, tùy theo từng loại của trung ấm mà nói.

Về bảy bảy: Có thuyết cho: Thân trung ấm trụ trong bốn mươi chín ngày cho đến lúc nam nữ kia hòa hợp. Có thuyết lại nói: Thân trung ấm không nhất định, cho đến thường ở trong khoảng thời gian chưa hòa hợp.

Hỏi: Thân trung ấm có y phục hay không?

Đáp: Hoặc lõa hình. Trung ấm của cõi sắc có y phục, vì nơi cõi sắc thì sự hổ thẹn tăng. Như pháp thân kia không lõa hình, thì sinh thân cũng như vậy. Trung ấm của Bồ-tát nơi cõi dục và trung ấm của Tỳ-kheo-ni Bạch Tịnh thì có y phục, còn chúng sinh khác thì không có y phục, vì không có sự hổ thẹn tăng thêm.

Hỏi: Trung ấm ăn gì?

Đáp: Ăn hương. Trung ấm của cõi dục lấy hương làm thức ăn, như trước đã nói. Cõi sắc lìa đoạn thực, vì tham nơi thân rất nhỏ, nên chỉ có ba cách ăn.

Hỏi: Thân trung ấm có đủ các căn không?

Đáp: Các căn đều đầy đủ, tức trung ấm đủ các căn. Vì sao? Vì báo của trung ấm đã thuần hợp. Lại, vì chúng sinh kia luôn cầu hữu, nên đối với môn sáu nhập thường cầu hữu.

Hỏi: Hình hài của thân trung ấm như thế nào?

Đáp:

Tùy hành lượng không định

Hoặc có thấy, không thấy

Vào thì từ môn sinh

Hoặc sinh tưởng điên đảo.

Tùy hành: Nghĩa là đi đến nẻo nào thì đều giống như nẻo đó. Trung ấm của địa ngục như hình của địa ngục, cho đến người trời thì như hình của người trời.

Hỏi: Trung ấm đi đứng như thế nào, thân lượng ra sao?

Đáp: Đi đứng và lượng không nhất định. Trung ấm đi đứng và thân lượng không nhất định. Trung ấm của địa ngục khi đi thì chân đưa lên trên, đầu cúi xuống dưới. Trung ấm của trời thì hướng lên trên như mũi tên bắn vào khoảng không. Trung ấm khác thì thân nghiêng, đi ngang, như vẽ hình người đang bay.

Về lượng: Trung ấm của cõi sắc thì lượng như vốn có. Trung ấm của Bồ-tát nơi cõi dục cũng như vốn có, đủ ba mươi hai tướng trang nghiêm nơi thân. Thế nên trung ấm của Bồ-tát có hào quang sáng rỡ, soi thấu trăm ức thiên hạ. Nói thân voi trắng đi vào thai mẹ là không đúng, vì Bồ-tát đã lìa súc sinh. Bồ tát từ nơi chín mươi mốt kiếp trở lại đã luôn lìa súc sinh. Vì thuận theo tướng sách vở, nên khiến mẹ của Bồ-tát nằm mộng thấy như vậy. Thân lượng trung ấm của chúng sinh khác, trong cõi dục như hình trẻ con đã có nhận biết, vì các căn mạnh nhanh, do tưởng điên đảo lúc vào thai.

Hỏi: Trung ấm với trung ấm có trông thấy nhau không?

Đáp: Hoặc có thấy, không thấy. Hoặc trung ấm lấy trung ấm làm cảnh giới, nhưng không nhất thiết.

Có thuyết cho: Trung ấm của địa ngục trông thấy trung ấm của địa ngục, tất cả đều như vậy.

Lại có thuyết nói: Trung ấm của địa ngục trông thấy trung ấm của địa ngục. Súc sinh thấy hai nẻo. Ngạ quỷ thấy ba nẻo. Người trông thấy bốn nẻo. Trời thấy năm nẻo. Mắt của sinh ấm thì không trông thấy. Mắt trời nếu rất thanh tịnh thì có thể trông thấy.

Hỏi: Từ nơi xứ nào nhập thai?

Đáp: Vào thì từ môn sinh. Trung ấm kia nhập thai từ môn sinh. Thế nên, trẻ con sinh đôi, đứa sinh sau là lớn.

Hỏi: Do tưởng gì lúc nhập thai?

Đáp: Hoặc sinh tưởng điên đảo. Không phải tất cả chúng sinh đều có tưởng điên đảo lúc nhập thai mẹ, trừ Bồ-tát gần Phật địa. Bồ-tát gần Phật địa kia đối với mẹ có tưởng là mẹ, đối với cha có tưởng là cha. Còn chúng sinh khác đều mang tưởng điên đảo lúc nhập thai. Nếu là trung ấm nam, thì có tưởng nhiễm đối với mẹ và tưởng tức giận đối với cha. Trung ấm kia khởi niệm như vầy: Nếu không có người nam kia thì ta sẽ cùng với người nữ này giao hợp. Tưởng như thấy người nam kia đi rồi, giao hợp với người nữ nọ. Lúc trông thấy tinh của người nam kia xuất, cho là của mình, liền sinh hoan hỷ. Vì sinh khởi hoan hỷ, nên ấm dần dần dày thêm. Ấm dần dày thêm rồi quay lưng, dựa vào phía hông phải của mẹ mà ngồi. Nếu là trung ấm nữ, thì nói ngược lại. Về nhân duyên của trung ấm, sau sẽ nói.

HẾT – QUYỂN 10

Pages: 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11