LUẬN TẠP A TỲ ĐÀM TÂM
Tác giả: Tôn giả Pháp Cứu.
Hán dịch: Đời Lưu Tống, Tam tạng Tăng Già Bạt Ma, người Thiên Trúc
Việt dịch: Cư sĩ Nguyên Huệ

 

QUYỂN 3

Phẩm thứ 3: NGHIỆP

Đã nói về các hành lần lượt do sức của nhân duyên sinh ra. Các hành kia đã khởi lên vô số các thứ sinh của sinh nơi sinh có sai biệt, vượt hơn hết chỉ có nghiệp. Nghiệp ấy nay sẽ nói.

Nghiệp hay tô điểm đời

Nẻo nẻo đều xứ xứ

Do đấy nên tư nghiệp

Cầu lìa thế giải thoát.

Nghiệp hay tô điểm đời, Nẻo nẻo đều xứ xứ: Nghĩa là tất cả các thứ chủng tánh của năm nẻo như thế đã sinh khởi vô số thứ nghiệp tô điểm. Do nghiệp làm chủng tử, nên chủng tử kia có mầm sinh. Do nghiệp sai biệt nên sinh cũng sai biệt. Như hạt giống khác nhau nên mầm khác nhau. Do đấy cần nên tư duy về nghiệp, cầu xa lìa thế gian đạt được giải thoát. Đối với thọ sinh, nghiệp là hơn hết, thế nên muốn dứt trừ sinh tử phải khéo quán xét nghiệp.

Hỏi: Nghiệp là gì?

Đáp:

Thân, khẩu, ý tập nghiệp

Ở nơi hữu trong hữu

Nghiệp kia là các hành

Tô điểm vô số thân.

Thân khẩu ý tập nghiệp, Ở nơi hữu trong hữu: Nghĩa là nghiệp thân, nghiệp khẩu, nghiệp ý, ba nghiệp này sinh ra vô số thứ quả. Chúng sinh trụ ở trong bản hữu, tử hữu, trung hữu và sinh hữu tu tập các nghiệp.

Hỏi: Vì sao lập ba nghiệp? Vì tự tánh, vì nương dựa hay vì đẳng khởi? Nếu vì tự tánh thì nên là một nghiệp, nghĩa là ngữ nghiệp. Nếu vì nương dựa thì tất cả đều nương dựa vào thân, cũng nên là một nghiệp, tức thân nghiệp. Nếu vì đẳng khởi thì hết thảy đều từ ý khởi, cũng nên là một nghiệp, tức ý nghiệp?

Đáp: Nghiệp này cũng như vậy tức vì ba sự việc. Vì tự tánh là ngữ nghiệp, do ngữ tức là nghiệp. Vì nương dựa là thân nghiệp, vì nghiệp dựa vào thân, vì thân tạo tác, vì thân tập hợp, vì thân vận động. Vì đẳng khởi là ý nghiệp. Tuy thân, khẩu, ý nghiệp đã khởi nhưng không cùng thọ nhận tên như nhãn thức.

Hỏi: Như đã nói thì nghiệp kia đã hành tác như thế nào?

Đáp: Nghiệp kia là các hành và thọ nhận các thứ thân. Đây là nói về quả tăng thượng của tất cả chúng sinh. Nghĩa là các vật dụng bên ngoài gọi là hành, hoặc là hình tướng, thọ mạng v.v… của chúng sinh, là quả của nghiệp kia.

Hỏi: Nếu vô số thứ tướng của phần trong ngoài kia thì ở đây vì sao nói là vô số thứ tướng của bốn đại? Là vô số thứ tướng của sắc tạo hay là vô số thứ tướng của nghiệp?

Đáp: Cả ba thứ đều có nhân sinh, nhân nương dựa, nhân kiến lập, nhân nuôi dưỡng, nhân tăng trưởng, là vô số thứ tướng của bốn đại. Vì là nhân tự phần nên là vô số thứ tướng của sắc tạo. Vì là nhân báo nên là vô số thứ tướng của nghiệp. Tuy là phần ngoài không có nhân báo, nhưng chúng sinh tạo ra hành thiện nên có được sắc đẹp, xứ sở đẹp. Nếu gây tạo hành xấu ác thì phải nhận lấy sắc xấu ác, xứ sở xấu ác. Do vô số thứ nghiệp nên phần trong ngoài cũng có vô số. Về tướng của nghiệp này nay sẽ lược nói.

Thân nghiệp nên biết hai

Là tác và vô tác

Khẩu nghiệp cũng như vậy

Ý nghiệp nên biết tư.

Thân nghiệp nên biết hai, Là tác và vô tác: Tức thân nghiệp có hai thứ là tánh tác và tánh vô tác. Tác nghĩa là thân động, thân tìm phương tiện, thân tạo tác. Vô tác nghĩa là thân động đã diệt, cùng với các thức khác kết hợp, tánh vô tác kia theo đấy sinh khởi. Như người thọ giới thiện, tâm nhiễm ô, vô ký hiện ở trước, giới thiện theo đấy sinh. Như kẻ thọ giới ác, tâm thiện, vô ký hiện ở trước, giới ác theo đấy sinh.

Khẩu nghiệp cũng như vậy: Nghĩa là khẩu nghiệp có hai thứ là tánh tác và tánh vô tác, như trước đã nói.

Ý nghiệp nên biết tư: Tức ý nghiệp là tự tánh của tư. Có người muốn khiến ý nghiệp là tánh vô tác. Điều này tức không đúng, vì ý không phải là tánh của tạo tác. Vì không phải là sắc và do ba thứ nên vô tác cũng gọi là không ưa thích, cũng gọi là lìa, cũng gọi là xả, cũng gọi là chẳng tác. Vì không có hành tác gọi là vô tác. Nhưng nói không phải là nghiệp thì cũng không đúng. Vì sao? Vì có tạo ra. Như thiện không tạo bất thiện, hoặc bất thiện không tạo thiện, cũng gọi là tạo tác. Như giác chi xả, không do tên xả để xả tu đạo. Vì dừng dứt các sự việc khác nên gọi là xả. Ý nghiệp kia cũng như vậy.

Lại nữa, vì nhân tác, vì quả tác, vì thấy nhân nên nói là quả. Như Đức Thế Tôn nói, vì hình chất nên là sắc, vô tác cũng không phải là sắc. Do tác là sắc, nên vô tác kia cũng gọi là sắc. Nghiệp ấy cũng như vậy.

Đã nói về năm nghiệp. Như nghiệp này có vô số thứ sai biệt nay sẽ nói.

Tác nên biết ba thứ

Thiện, bất thiện, vô ký

Ý nghiệp cũng như thế

Khác không nói vô ký.

Tác nên biết ba thứ, Thiện, bất thiện, vô ký: Nghĩa là thân tác, khẩu tác có ba loại là thiện, bất thiện, vô ký.

Thiện: Là thân, khẩu hành động theo tâm tịnh như thí, giới v.v…

Bất thiện: Là thân, khẩu hành động theo tâm bất thiện như sát sinh v.v…

Vô ký: Là thân, khẩu hành tác theo tâm vô ký.

Ý nghiệp cũng như thế: Tức ý nghiệp cũng có ba thứ: Tương ưng với tâm thiện là thiện. Tương ưng với tâm bất thiện là bất thiện. Tương ưng với tâm vô ký là vô ký.

Khác không nói vô ký: Nghĩa là hai nghiệp còn lại là thân vô tác và khẩu vô tác, hai thứ ấy là thiện, bất thiện, không có vô ký. Vì sao? Vì tâm vô ký yếu kém. Tâm mạnh mẽ mới có thể khởi nghiệp thân, khẩu. Tâm khác đều cùng với hành nối tiếp nhau sinh. Như tay cầm hoa thơm, tuy đã bỏ hoa rồi nhưng hơi thơm còn lại vẫn tiếp tục sinh, không phải như cầm gỗ, đá v.v…

Hỏi: Đã biết năm nghiệp. Tư không phải là tánh của sắc như đã nói trong đại địa. Vậy nghiệp khác có tánh gì?

Đáp:

Tánh sắc, nhiễm, không nhiễm

Không nhiễm ô năm địa

Ẩn mất thuộc cõi sắc

Bất thiện ở cõi dục.

Sắc: Tức tất cả thân nghiệp, khẩu nghiệp là tánh của sắc, vì nhân nơi bốn đại. Thân kia tạo tác có thể thấy, có đối. Khẩu tạo tác không thể thấy, có đối. Vô tác đều cùng không thể thấy, không đối.

Hỏi: Nghiệp thân, khẩu có bao nhiêu thứ?

Đáp: Nhiễm ô, không nhiễm ô. Sắc kia có hai thứ là nhiễm ô, không nhiễm ô.

Nhiễm ô là phiền não đã khởi lên. Phiền não này có hai thứ là vô ký ẩn mất và bất thiện. Vô ký ẩn mất: Là không báo, không tương ưng với không hổ không thẹn, có một quả phiền não cùng khởi. Bất thiện: Là có báo, tương ưng với không hổ không thẹn, có hai quả phiền não cùng khởi.

Không nhiễm ô cũng có hai thứ là thiện và vô ký không ẩn mất. Thiện là được quả yêu thích. Thiện ấy cũng có hai thứ là hữu lậu và vô lậu (Sau phẩm này sẽ nói rộng). Vô ký không ẩn mất là tâm vô ký không ẩn mất cùng khởi, đó là oai nghi, công xảo, không phải báo sinh. Tâm mạnh mẽ có thể khởi thân nghiệp, khẩu nghiệp. Tâm báo sinh thì yếu kém nên không khởi, vì thế nghiệp thân khẩu không phải là tánh của báo. Nếu tâm báo sinh có thể khởi nghiệp thân khẩu, thì nghiệp thân khẩu kia cũng nên là báo này, song vì không như vậy, vì do phương tiện hiện tại sinh. Nếu tâm báo sinh không nên gọi là oai nghi, công xảo, thì nghiệp thân khẩu không phải là báo.

Hỏi: Các nghiệp kia thuộc về những địa nào?

Đáp: Không nhiễm ô thuộc về năm địa là cõi dục và bốn thiền. Đây là nói chung. Nếu tạo tác thiện thì chỉ đến thiền thứ nhất, không phải ở địa trên.

Hỏi: Vì sao thân khẩu hành tác thiện chỉ đến thiền thứ nhất, không phải là địa trên?

Đáp: Vì tâm thô khởi tạo nghiệp thân khẩu. Vì tâm kia vi tế nên tâm hướng về bên ngoài khởi tạo nghiệp. Vì tâm kia hướng về bên trong nên giác quán khởi tạo nghiệp, nơi địa kia không có.

Thiện vô tác thuộc về năm địa là cõi dục và bốn thiền. Có luật nghi của thiền vô tác là luật nghi vô lậu. Thân vô ký không ẩn mất tạo tác cũng thuộc về năm địa như trước đã nói. Có sai biệt: Là ở cõi dục, tạo tác là tâm oai nghi, công xảo cùng khởi. Ở cõi sắc tạo tác là tâm oai nghi cùng khởi. Vì nơi cõi sắc không có tâm công xảo.

Hỏi: Đã nói ở địa trên không khởi tâm tạo tác, vì sao có tạo tác?

Đáp: Vì lực của thiền thứ nhất kia đã khiến tâm khởi tác hiện ở trước nên khởi. Nếu nói là thiện cũng như vậy thì không đúng. Do sinh lên địa trên, tâm thiện của địa dưới không hiện ở trước, vì tâm thiện ấy yếu kém.

Ẩn mất thuộc cõi sắc: Nghĩa là như nghiệp thân khẩu vô ký ẩn mất ở tại cõi sắc là thiền thứ nhất, không phải ở địa trên, vì không khởi tâm tạo tác. Không phải sinh nơi địa trên mà tâm nhiễm ô của địa dưới hiện ở trước, do đã lìa dục. Cũng không phải ở cõi dục, tu đạo đoạn trừ phiền não cùng khởi với nghiệp thân khẩu. Mà nơi cõi dục, tu đạo đoạn trừ phiền não hoàn toàn là bất thiện. Còn kiến đạo thì đoạn trừ tâm không khởi nghiệp thân khẩu (Sau phẩm này sẽ nói).

Bất thiện ở cõi dục: Nghĩa là nếu trong nhiễm ô là bất thiện thì ở cõi dục, không phải nơi cõi sắc. Vì sao? Vì tâm thiện ở cõi sắc kia là dễ được, vì chánh thọ đã nuôi lớn, vì không có không hổ không thẹn và vì không có khổ thọ. Bất thiện là thọ nhận báo quyến thuộc của thọ khổ, ở cõi sắc, vô sắc không có. Không có nghiệp của cõi sắc thọ nhận báo của cõi dục, vì khác cõi, vì nhân quả là đoạn dứt cõi.

Đã nói về tự tánh của nghiệp thân, khẩu. Về chủng loại địa, nghĩa là luật nghi vô tác có sai biệt, nay sẽ nói.

Nếu trụ giới vô tác

Lược nói có ba thứ

Vô lậu và thiền sinh

Dựa giới biệt giải thoát.

Nếu trụ giới vô tác, Lược nói có ba thứ: Nghĩa là giới vô tác, nếu thuộc về luật nghi thì lược nói, nên biết có ba thứ.

Hỏi: Ba thứ đó là gì?

Đáp: Vô lậu và thiền sinh, Dựa giới biệt giải thoát: Giới vô lậu kia cùng với đạo cùng hành một quả đạo, là thiền của học, vô học phát sinh, nghĩa là giới của thiền kia cùng với thiền cùng hành một quả thiền là chánh ngữ, chánh nghiệp và chánh mạng. Chánh mạng nghĩa là kiến lập nghiệp thân khẩu, vì không có thể riêng khác. Nghiệp thân khẩu từ nơi vô tham, vô sân, vô si phát sinh.

Vô sân, vô si phát sinh gọi là chánh ngữ, chánh nghiệp. Vô tham phát sinh gọi là chánh mạng. Tuy trong một tâm nhưng có ba căn thiện, do tăng thượng nên nói như tham v.v… Hành như gió lay động, thuốc như âm của chữ.

Dựa giới biệt giải thoát: Nghĩa là thọ giới Thức-xoa thì Thi-la tùy chuyển, cũng có luật nghi đoạn. (Nơi phẩm Khế kinh sẽ nói rộng).

Hỏi: Nghiệp thân khẩu này những gì là không tùy tâm chuyển? Những gì là tùy tâm chuyển?

Đáp:

Vô tác tại cõi dục

Tác dựa nơi hai hữu

Nên biết không tâm cùng

Là tâm khác cùng nói.

Vô tác của cõi dục không tùy tâm chuyển, nghĩa là thọ giới rồi thì tâm bất thiện, vô ký cũng tùy chuyển, cũng không cùng với tâm thiện, bất thiện, vô ký tùy chuyển, vì tướng khác. Lại nữa, vì che giấu giới ác, lại do tạo tác, do bất định.

Tạo tác thì nơi cõi dục, cõi sắc cũng không tùy tâm chuyển, tức do thân, do không phải một quả của tâm.

Là tâm khác cùng nói: Nghĩa là luật nghi thiền, luật nghi vô lậu gọi là tâm khác. Luật nghi này tùy tâm chuyển, vì là một quả của tâm, là do tâm.

Đã nói về kiến lập nghiệp. Thành tựu giới nay sẽ nói.

Luật nghi giới vô lậu

Được đạo tức thành tựu

Thiền sinh nếu đắc thiền

Giữ giới sinh cõi dục.

Luật nghi giới vô lậu, Được đạo tức thành tựu: Được đạo nghĩa là tất cả Thánh đạo, từ khổ pháp nhẫn cho đến vô sinh trí, đã thành tựu luật nghi vô lậu. Luật nghi vô lậu này ở tại sáu địa là thiền vị lai, thiền trung gian và bốn thiền căn bản. Tu-đà-hoàn, Tư-đà-hàm hướng và quả thành tựu giới vô lậu của một địa. A-na-hàm hướng hoặc thành tựu một địa, hoặc sáu địa. Quả A-na-hàm hoặc thành tựu ba địa cho đến sáu địa. A-la-hán thành tựu sáu địa.

Thiền sinh nếu đắc thiền: Nghĩa là nếu được thiền thì thành tựu luật nghi thiền, tức là được rồi không mất, đây cũng thành tựu sáu địa.

Giữ giới sinh cõi dục: Nghĩa là nếu thọ giới thì thành tựu luật nghi biệt giải thoát. Luật nghi này là dành cho người cõi dục, không phải cõi khác, vì không có phần thọ.

Đã lược nói về giới thành tựu. Phân biệt về đời nay sẽ nói.

Trụ nơi biệt giải thoát

Vô tác ở lúc chuyển

Nên biết luôn thành tựu

Đều không xả quá khứ.

Trụ nơi biệt giải thoát, Vô tác ở lúc chuyển, Nên biết luôn thành tựu: Nghĩa là luật nghi biệt giải thoát, hiện tại là giới vô tác luôn thành tựu, niệm niệm được pháp chưa từng được.

Đều không xả quá khứ: Nghĩa là trụ nơi luật nghi biệt giải thoát vô tác, nếu diệt mà không xả thì thành tựu quá khứ (Về việc xả, sau phẩm này sẽ nói).

Nếu có tác nơi tác

Tức thì lập đời giữa

Đã hết nhưng không xả

Nên biết thành quá khứ.

Nếu có tác nơi tác, Tức thì lập đời giữa: Đời giữa nghĩa là hiện tại, trụ nơi thân khẩu cầu thọ giới, bấy giờ là thành tựu thân khẩu tạo tác ở hiện tại.

Đã hết nhưng không xả, Nên biết thành quá khứ: Nghĩa là nếu tạo tác hết nhưng không xả, bấy giờ là thành tựu tạo tác của quá khứ không phải là hiện tại, do tạo tác không có niệm niệm nối tiếp nhau sinh.

Nếu được thiền vô tác

Thành tựu diệt vị chí

Giữa nếu nhập chánh thọ

Tác cũng như trước nói.

Nếu được thiền vô tác, Thành tựu diệt vị chí: Nghĩa là nếu được thiền thì người kia tức thành tựu luật nghi thiền của quá khứ, vị lai. Nếu lần đầu mới được thiền, thì thiền ấy trong sinh tử từ vô thủy đã diệt nơi quá khứ, nay đều đạt được.

Giữa nếu nhập chánh thọ: Nghĩa là như thiền chánh thọ hiện tại, vô tác của thiền kia cũng như thế, vì tùy tâm phát sinh.

Tác cũng như trước nói: Nghĩa là như biệt giải thoát ở trước, lúc hành tác mong cầu đã thành tựu hiện tại. Nếu diệt rồi không xả, bấy giờ là thành tựu quá khứ không phải là hiện tại. Người trụ thiền tạo tác cũng như vậy.

Hỏi: Nếu sinh nơi cõi sắc thì thế nào là thành tựu tạo tác?

Đáp: Khi Đức Thế Tôn đến cõi sắc, chư thiên nơi cõi sắc đều lễ kính, đi vòng quanh theo phía bên phải, cho đến chưa xong, bấy giờ là đã thành tựu tạo tác quá khứ.

Đều thành tựu nên biết

Được đạo nếu chưa sinh

Trung gian đạo ở tâm

Đều không bỏ đời trước.

Đều thành tựu nên biết, Được đạo nếu chưa sinh: Nghĩa là tất cả Thánh nhân nơi hết thảy thời đều thành tựu luật nghi vô lậu ở vị lai.

Trung gian đạo ở tâm: Nghĩa là nếu đạo ở hiện tại, bấy giờ là thành tựu luật nghi vô lậu vô tác.

Đều không bỏ đời trước: Đời trước là quá khứ. Nếu luật nghi vô tác kia diệt rồi không xả là thành tựu quá khứ.

Nếu tạo nghiệp bất thiện

Lập giới thành tựu hai Đến triền kia trói buộc Hết rồi đều nên biết.

Nếu tạo nghiệp bất thiện, Lập giới thành tựu hai: Nghĩa là trụ nơi thiền biệt giải thoát, sinh khởi luật nghi vô lậu. Nếu do phiền não bất thiện tột bực trói buộc, khởi các bất thiện như hơn cả trói buộc, là tạo tác vô tác, thì đó tức thành tựu hữu tác vô tác. Đây là nói về bất thiện của hành chưa lìa dục.

Hỏi: Vào thời gian nào thì thành tựu?

Đáp: Đến triền kia trói buộc: Tức cho đến triền chưa xả bỏ, trụ nơi phi luật nghi.

Hết rồi đều nên biết: Nghĩa là nếu triền kia đã dứt hết thì hữu tác, vô tác cũng hết.

Nếu trụ bất luật nghi

Trong thành tựu vô tác

Nên thọ quả không ái

Hoặc lại hết không xả.

Nếu trụ bất luật nghi, Trong thành tựu vô tác, Nên thọ quả không ái: Trụ bất luật nghi nghĩa là hàng đồ tể, thái thịt v.v… Bất luật nghi ấy nơi tất cả thời đều tạo thành bất thiện vô tác trong hiện tại. Bất thiện vô tác này nơi niệm niệm sinh khởi.

Hoặc lại hết không xả: Là vô tác kia diệt không xả tức thành tựu quá khứ.

Nếu sát-na trụ tác

Tức thì nói đời giữa

Đã hết nhưng không xả

Thiện nơi trên cùng trái.

Nếu sát-na trụ tác, Tức thì nói đời giữa: Nghĩa là người kia trụ nơi bất luật nghi, lúc thọ nhận bất luật nghi là thành tựu tạo tác của hiện tại.

Đã hết nhưng không xả: Nghĩa là tạo tác của bất luật nghi kia đã diệt nhưng không mất, tức là thành tựu quá khứ, không phải là hiện tại, vì không nối tiếp nhau.

Thiện nơi trên cùng trái: Nghĩa là như trụ nơi luật nghi nói là bất thiện. Trụ nơi bất luật nghi lại nói là thiện.

Nếu đã tạo trong xứ

Đây tức lập đời giữa

Nếu hết nhưng không xả

Hoặc hai cũng lại một.

Nếu đã tạo trong xứ, Đây tức lập đời giữa: Trong xứ tức không phải là luật nghi, không phải là bất luật nghi. Nếu lúc thọ nhận thiện, tâm không thuần tịnh, thì thành tựu tạo tác thiện của hiện tại. Nếu lúc trụ nơi bất thiện, phiền não không tột bực trói buộc, là tạo thành tạo tác bất thiện của hiện tại.

Nếu hết nhưng không xả: Nghĩa là diệt rồi không xả, là thành tựu tạo tác của quá khứ kia, không phải là hiện tại, vì không nối tiếp nhau sinh.

Hoặc hai: Nghĩa là nếu nói tâm thuần tịnh, thì phiền não bất thiện tột bực trói buộc thọ nhận hiện tại, là thành tựu hữu tác và vô tác.

Cũng lại một: Nghĩa là khởi sát-na thứ hai, chỉ có vô tác hiện tại. Như phân biệt quá khứ, hiện tại, nếu phân biệt thiện, bất thiện cũng như vậy.

Ẩn mất, không ẩn mất

Hai tác đều không hết

Cùng với tịnh, bất tịnh

Tất cả nói không sinh.

Ẩn mất, không ẩn mất, Hai tác đều không hết: Nghĩa là nếu vô ký ẩn mất và vô ký không ẩn mất tạo tác không thành tựu thì tâm yếu kém của quá khứ cùng khởi, do uy lực khác không mạnh. Nếu lúc thọ nhận tạo tác của hiện tại thì thành tựu hiện tại, vì thành tựu trong sát-na nên cũng không nói là vô tác, vì vô ký không cùng kết hợp.

Cùng với tịnh, bất tịnh, Tất cả nói không sinh: Nghĩa là nếu thiện, bất thiện, vô ký ẩn mất và vô ký không ẩn mất tạo tác thì đều không thành tựu, vị lai do vô trụ, vì nơi đời vị lai thọ nhận tạo tác.

Hỏi: Những gì là luật nghi, bất luật nghi?

Đáp:

Chảy rót nối tiếp thành

Giới thiện và bất thiện

Nơi tất cả chúng sinh

Luật nghi, bất luật nghi.

Luật nghi biệt giải thoát kia nghĩa là thọ giới đối với tất cả chúng sinh, nơi tất cả thời, giới không đoạn, hoặc mười hai thứ, hoặc hai mươi mốt thứ tùy chuyển.

Bất luật nghi nghĩa là trụ nơi không luật nghi, đối với hết thảy chúng sinh nơi tất cả thời giới ác không đoạn.

Hỏi: Những gì là trụ nơi bất luật nghi?

Đáp: Có mười hai thứ trụ nơi bất luật nghi. Đó là đồ tể dê, nuôi gà, nuôi heo, bắt chim, bắt cá, thợ săn, làm kẻ trộm, chủ hàng làm nem, cai ngục, dùng chú thuật điều khiển rồng rắn, đồ tể chó, rình rập săn bắn.

Đồ tể dê: Là giết hại dê, đem tâm sát hại, hoặc nuôi lớn, hoặc mua bán, hay giết hại, đều gọi là đồ tể dê. Nuôi gà, nuôi heo cũng như vậy.

Bắt chim: Là như giết chim để tự sinh sống. Bắt cá, thợ săn cũng như thế.

Làm kẻ trộm: Là thường hành các việc trộm cướp, sát hại. Chủ hàng làm nem: Là người chủ việc giết mổ súc vật để tự sinh sống. Cai ngục: Là lấy nghề cai ngục làm kế sinh nhai.

Dùng chú thuật điều khiển rồng rắn: Là luyện tập chú thuật điều khiển rồng rắn làm trò vui chơi để tự kiếm sống. Đồ tể chó: Là hàng Chiên-đà-la. Kẻ rình rập săn bắn: Là chủ săn của nhà vua.

Như đồ tể dê tuy không sát hại các loài chúng sinh khác, nhưng đối với tất cả chúng sinh là đã tạo nên bất luật nghi. Vì sao? Vì nếu tất cả chúng sinh là hình tượng dê hiện ở trước, thì đối với hết thảy chúng sinh kia gã đồ tể dê đều khởi tâm sát hại. Do tất cả chúng sinh đã có lý của việc tạo tác làm dê. Nếu lại không có lý ấy thì đối với kẻ kia cũng có tâm giết hại nên đã tạo thành bất luật nghi. Như trụ nơi tâm từ, thì tưởng về lòng nhân hiện bày rộng khắp. Nên biết trụ nơi bất luật nghi khác cũng như vậy. Hoặc là vua, hoặc là quan coi về phép tắc, hoặc là quan nghe kiện tụng mà có tâm hãm hại, cũng đều rơi vào nghĩa bất luật nghi.

Hỏi: Phần hạn được luật nghi là vào thời gian nào?

Đáp:

Là thọ giới luật nghi

Suốt đời hoặc ngày đêm

Bất luật nghi suốt đời

Hai đều không thọ thêm.

Là thọ giới luật nghi, Suốt đời hoặc ngày đêm: Nghĩa là thọ luật nghi biệt giải thoát có hai thứ: Hoặc là suốt đời, tức là bảy chúng. Bảy chúng là Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni, Thức-xoa-ma-na, Sa-di, Sa-dini, Ưu-bà-tắc, Ưu-bà-di. Ngày đêm: Nghĩa là thọ trai giới có hai thứ thời gian là ngày đêm và suốt đời.

Hỏi: Bất luật nghi lại là thế nào?

Đáp: Bất luật nghi suốt đời: Nghĩa là bất luật nghi thì suốt cả đời không phải ngày đêm.

Hỏi: Vì sao luật nghi thì được ngày đêm không phải là bất luật nghi?

Đáp: Vì bất luật nghi kia không có tánh thọ nhận, không có nói “Tôi thọ nhận bất luật nghi trong ngày đêm”. Là do đáng xấu hổ, chán nản. Còn luật nghi thiện thì có tánh thọ nhận, có thể vui mừng.

Hai đều không thọ thêm: Nghĩa là luật nghi, bất luật nghi đều cùng không có thọ thêm, như nửa tháng, một tháng hay sáu tháng. Do mong cầu thiện ác không hoàn toàn xả bỏ. Giới ngày đêm cũng như vậy. Vượt quá là không đúng, vì không có tánh của giới hạn sai biệt. (Hai thứ giới hạn sai biệt trước đã nói). Do nhân duyên kia nên bất luật nghi không có thọ nhận trong ngày đêm. Về nhân duyên này, phần trước đã nêu.

Hỏi: Thế nào là được luật nghi biệt giải thoát?

Đáp:

Thọ giới biệt giải thoát

Nên biết từ người dạy

Tùy tâm hạ, trung, thượng

Được ba phẩm luật nghi.

Thọ giới biệt giải thoát, Nên biết từ người dạy: Nghĩa là luật nghi biệt giải thoát từ nơi người khác dẫn dạy nên được. Hoặc là chúng, hoặc người, hoặc pháp. Chúng nghĩa là bạch tứ yết-ma thọ giới cụ túc. Người nghĩa là thiện lai. Pháp nghĩa là Đức Phật và năm Tỳ-kheo v.v…

Lại hỏi về vui thích. Nghĩa là luật Tu-đà-da Tỳ-bà-sa nói có mười loại thọ cụ túc, là Tự khởi, tức Đức Phật vượt lên trên. Ly sinh tức là năm Tỳ-kheo. Thiện lai nghĩa là các Sư như Da-xá v.v… Thọ nhận đó là Ma ha Ca-diếp

Hỏi: Người vui thích: Nghĩa là Tu-đà-da. Thọ nhận pháp trọng: Tức là bà Ma ha Ba-xà-ba-đề. Sai sứ: Nghĩa là pháp cùng với luật sư v.v… Người thứ năm: Là vùng biên địa. Mười chúng: Là tam quy, tam thuyết của vùng giữa nước .

Hỏi: Những loại người nào được luật nghi?

Đáp: Tùy tâm hạ, trung, thượng, Được ba phẩm luật nghi: Nếu thọ giới biệt giải thoát với tâm phẩm hạ, người kia tức được giới phẩm hạ, vì là quả của tâm thuộc phẩm hạ. Nếu hành thiện theo phương tiện tối thắng, cho đến lìa dục của cõi sắc, cõi vô sắc, gieo trồng chủng tử của ba thừa, chủng loại chúng sinh luôn nối tiếp, người kia cũng vẫn tùy chuyển theo phẩm hạ.

Nếu thọ giới với tâm phẩm trung, tức được luật nghi phẩm trung. Nếu hành thiện theo phương tiện tối thắng, hoặc không xả giới, nhưng tạo ra các hành ác, người kia cũng vẫn tùy chuyển theo phẩm trung.

Nếu thọ giới với tâm tăng thượng, tức được luật nghi phẩm thượng, cho đến chủng loại luôn nối tiếp, người kia cũng vẫn tùy chuyển theo tăng thượng.

Hoặc có Tỳ-kheo trẻ tuổi được luật nghi tăng thượng, tuy lại là A-la-hán, nhưng cũng thành tựu giới tâm phẩm hạ.

Có giới biệt giải thoát từ phẩm hạ đến phẩm trung, từ phẩm trung đến phẩm thượng. Nghĩa là trước đã đem tâm phẩm hạ để thọ luật nghi Ưu-bà-tắc. Thứ đến đem tâm phẩm trung để thọ luật nghi Sa-di. Về sau đem tâm phẩm thượng để thọ luật nghi Tỳ-kheo.

Từ phẩm trung hạ thượng, từ phẩm thượng hạ trung: Nghĩa là trụ nơi luật nghi, có người đối với tất cả chúng sinh phát khởi không phải tất cả chi, không phải tất cả nhân. Có người đối với tất cả chúng sinh khởi tất cả chi, không phải tất cả nhân. Có người đối với tất cả chúng sinh khởi tất cả chi, tất cả nhân. Có người đối với tất cả chúng sinh khởi tất cả nhân, không phải tất cả chi, là không có. Chúng sinh là loài cựa động (Bò bay máy cựa). Chi nghĩa là từ không sát sinh cho đến không nói lời thêu dệt. Nhân nghĩa là tâm phẩm hạ, trung, thượng.

Lại nói về vô tham, vô sân, vô si. Có người đối với tất cả chúng sinh khởi không phải tất cả chi, không phải tất cả nhân: Nghĩa là theo tâm phẩm hạ thọ giới Ưu-bà-tắc, theo tâm phẩm hạ thọ giới Sa-di.

Có người đối với tất cả chúng sinh khởi tất cả chi, không phải tất cả nhân: Nghĩa là theo tâm phẩm hạ thọ ba loại giới, hoặc trung, hoặc thượng, hoặc cả hai. Có người đối với tất cả chúng sinh khởi tất cả chi, tất cả nhân: Nghĩa là theo ba loại tâm thọ nhận ba loại giới. Thế nên, đối với tất cả chúng sinh khởi tất cả nhân, không phải tất cả chi, là không có. Hoặc lần đầu dùng tâm phẩm hạ để thọ giới ngày đêm, thứ đến là dùng tâm phẩm trung thọ giới Ưu-bà-tắc, về sau là đem tâm phẩm thượng thọ giới Sa-di. Có chỗ cho nên nói đối với tất cả chúng sinh khởi tất cả nhân, không phải tất cả chi, thì nghĩa này là không đúng, vì giới kia nên nói là suốt đời.

Hỏi: Trụ nơi những tâm nào để được luật nghi biệt giải thoát?

Đáp: Là đối với tất cả chúng sinh khởi tâm từ. Nếu nói: “Tôi thọ ở đây, không thọ ở kia, nên không được luật nghi”, là đã tùy theo tâm ác. Như nói “Tôi thọ không săn thú”, do phần ít nên là nghiệp thiện, không được luật nghi. Vì giới biệt giải thoát là hiện hữu khắp tất cả, vì có thể được hoặc không thể được luật nghi. Nếu khác với điều này thì luật nghi tức nên có tăng giảm. Do pháp có thể sinh thì không thể ở. Pháp không thể sinh thì có thể ở. Như vậy thì có lỗi gì? Tức không phải lúc xả nên xả luật nghi biệt giải thoát nên tức khắc được xả riêng, tức nên không thọ nhận mà được luật nghi biệt giải thoát.

Đối với ấm giới nhập hiện tại có được xứ sở chứng đắc của chúng sinh, không phải là quá khứ, vị lai, vì rơi vào pháp số. Do đấy nên tạo ra bốn trường hợp:

(1) Có ấm giới nhập được luật nghi biệt giải thoát không phải là luật nghi vô lậu của thiền: Nghĩa là ở nơi hiện tại khởi quyến thuộc trước sau cùng chế tội.

(2) Có ấm giới nhập được luật nghi vô lậu của thiền không phải là luật nghi biệt giải thoát: Nghĩa là ở nơi quá khứ, vị lai khởi nghiệp đạo căn bản.

(3) Có ấm giới nhập được luật nghi biệt giải thoát cũng được luật nghi vô lậu của thiền: Nghĩa là ở nơi hiện tại khởi đạo nghiệp căn bản.

(4) Có ấm giới nhập không được luật nghi biệt giải thoát cũng không được luật nghi vô lậu của thiền: Nghĩa là ở nơi quá khứ, vị lai khởi quyến thuộc trước sau.

Nếu cho ở nơi cỏ tươi v.v… là được và khi cỏ khô là bỏ, thì không đúng. Vì sinh khởi ở nơi cỏ tươi. Nếu cho do có thể không có thể nên nói như thế, thì cũng không đúng. Vì chúng sinh trước sau là đồng tánh. Còn cỏ tươi v.v… thì về sau là không phải tánh.

Ở đây thì luận về A-la-hán bát Niết-bàn đồng với thuyết này, vì về sau không phải là tánh. (Về nghĩa này trong phẩm Trạch sẽ được nói rộng)

Hỏi: Đã nói về luật nghi biệt giải thoát. Làm thế nào đạt được luật nghi thiền?

Đáp:

Được tâm thiện cõi sắc

Được giới luật nghi thiền

Đây xả, kia cũng xả

Vô lậu có sáu tâm.

Được tâm thiện cõi sắc, Được giới luật nghi thiền: Nghĩa là nếu có người được tâm thiện của cõi sắc, người kia tức được luật nghi thiền, vì giới thường tùy theo tâm thiện của cõi sắc, trừ sáu tâm: Tâm nơi ba thức thân của thiền thứ nhất, tâm của văn tuệ, tâm khởi tạo nghiệp, tâm lúc mạng chung do không nhất định, nên tâm định thì giới thường tùy chuyển. Do tâm của ba thức thân khởi hướng bên ngoài, nên khởi tâm tạo nghiệp cũng như vậy. Vì tâm của văn tuệ gọi là xứ khởi, do tâm lúc mạng chung thì yếu kém. Nơi các thiền thứ hai, thứ ba, thứ tư có hai tâm bất định là tâm của văn tuệ và tâm lúc mạng chung.

Hỏi: Vì sao nơi cõi vô sắc không có giới?

Đáp: Vì nơi cõi kia, tánh là vô sắc. Do giới là sắc. Do trong cõi vô sắc là không có sắc, không có tánh của bốn đại. Nếu cõi vô sắc kia có bốn đại thì nên có giới, nhưng cõi vô sắc không có bốn đại. Giới là đối trị giới ác. Chẳng phải đối trị với giới ác là ở cõi vô sắc. Giới ác là ở nơi cõi dục.

Cõi vô sắc có bốn thứ xa nên cách xa: Chỗ dựa xa, hành xa, duyên xa và đối trị xa. Tất cả phẩm tỷ trí của thiền căn bản tuy không phải là đối trị đoạn, nhưng có đối trị duy trì và đối trị phần xa. Như khổ pháp trí, tập pháp trí có đối trị hoại, thuộc về thiền căn bản. Thiền vị lai có đối trị đoạn. Như diệt, đạo pháp trí thuộc về thiền căn bản nên không phải là đối trị hoại vì duyên nơi vô lậu.

Hỏi: Thế nào là xả?

Đáp: Đây xả, kia cũng xả: Tức nếu mất tâm cõi sắc thì luật nghi kia cũng mất, vì do tâm.

Hỏi: Làm thế nào đạt được luật nghi vô lậu?

Đáp: Vô lậu có sáu tâm: Là luật nghi vô lậu ở nơi tâm của sáu địa cùng được. Sáu địa là thiền vị lai cho đến thiền thứ tư do sáu địa có kiến đạo, không phải là địa trên, vì nơi địa trên cảnh giới là không rộng. Nếu dựa vào thiền vị lai vượt lên trên ly sinh thì tu một địa. Còn đẳng biên vô gián của kiến đạo là đẳng trí thì tu hai địa, là thuộc về thiền vị lai và cõi dục. Cho đến dựa vào thiền thứ tư, vượt lên ly sinh, thì tu sáu địa. Còn đẳng biên vô gián của kiến đạo là đẳng trí thì tu bảy địa.

Hỏi: Vì sao cõi vô sắc không có kiến đạo?

Đáp: Vì không có tánh của nhẫn và tánh của pháp trí, vì không có căn thiện của Câu-xá-la (Câu-xá-la nói là hành nghiệp), vì không có giới, vì không duyên nơi cõi dục.

Hỏi: Luật nghi thiền và luật nghi vô lậu có sai biệt gì?

Đáp: Luật nghi thiền có cấu uế. Luật nghi vô lậu thì lìa cấu uế. Lại có chỗ nói: Luật nghi thiền là giới của thiền căn bản. Luật nghi vô lậu là tất cả giới vô lậu.

Ở đây nên nêu ra bốn trường hợp: (1) Hoặc là luật nghi thiền không phải là vô lậu: Nghĩa là giới thế tục của thiền căn bản. (2) Hoặc là luật nghi vô lậu không phải là thiền: Nghĩa là giới vô lậu của thiền vị lai, thiền trung gian. (3) Cũng là luật nghi thiền cũng là vô lậu: Nghĩa là giới vô lậu của thiền căn bản. (4) Không phải luật nghi thiền cũng không phải luật nghi vô lậu: Nghĩa là giới thế tục của thiền trung gian, thiền vị lai. Bốn trường hợp được cũng như vậy.

Hỏi: Thế nào là được bất luật nghi? Đáp:

Nếu tác cùng nhận sự

Mà được bất luật nghi

Tùy tâm hạ, trung, thượng

Sinh ba phẩm giới ác.

Nếu tác cùng nhận sự, Mà được bất luật nghi: Nghĩa là có hai nhân duyên nên thành bất luật nghi là tác và thọ nhận sự. Tác: Là sinh vào nhà bất luật nghi. Cho đến chưa sát sinh thì chưa gọi là bất luật nghi, nếu sát sinh thì người ấy thành bất luật nghi. Thọ nhận sự:Nếu sinh vào gia đình khác, người kia nói như vầy: “Tôi tạo nghiệp này để tự sống, tức người ấy được bất luật nghi”.

Hỏi: Do đâu gọi là trụ nơi bất luật nghi? Là vì đủ hay là không đủ?

Đáp: Có thuyết nói: Không đủ cũng gọi là trụ nơi bất luật nghi. Nghĩa là sinh vào nhà bất luật nghi. Kẻ kia tánh không thể nói nhưng sát sinh nên được tánh của thân nghiệp, không phải là khẩu nghiệp.

Luận Tỳ-bà-sa nói: Như luật nghi không đầy đủ thì không gọi là trụ nơi luật nghi. Bất luật nghi cũng như vậy. Chỉ vì trông mong điều ác đầy đủ nên sinh vào nhà bất luật nghi. Tuy tánh không thể nói nhưng do thân biểu thị ngữ nghĩa nên tùy theo đấy có được bất luật nghi.

Hỏi: Nếu trụ nơi bất luật nghi nhưng thọ pháp của luật nghi ngày đêm, bấy giờ là được luật nghi, xả bất luật nghi. Đến sáng sớm hôm sau, khi minh tướng xuất hiện, người kia lại xả luật nghi trở lại có được bất luật nghi chăng?

Đáp: Có thuyết nói: Được. Vì xả bất luật nghi được luật nghi, xả luật nghi có được bất luật nghi. Có thuyết nói: Không được. Vì nếu chủng loại của một thân không sát sinh, thì cho đến toàn bộ chủng loại thân đều không được bất luật nghi. Vì không tác, không thọ nhận. Xả bất luật nghi được luật nghi, còn xả luật nghi được bất luật nghi thì cũng không phải là bất luật nghi.

Hỏi: Thế nào là có được bất luật nghi?

Đáp: Tùy tâm hạ, trung, thượng, Sinh ba phẩm giới ác: Nếu từ đầu dùng tâm phẩm hạ để giết hại chúng sinh và nếu còn thọ nhận sự thì người kia tức được sát sinh bậc hạ cùng bất luật nghi vô tác và bậc hạ. Nghĩa là đối với tất cả chúng sinh khác là được thuộc về bất luật nghi. Về sau, nếu người kia lại dùng tâm phẩm trung, phẩm thượng để sát sinh, thì có được bất luật nghi vô tác cùng sát sinh bậc trung, thượng. Do trước đã được từ bậc trung thượng khởi nên cũng như vậy.

Có người trụ nơi bất luật nghi, đối với tất cả chúng sinh khởi không phải tất cả chi, không phải tất cả nhân. Có người đối với tất cả chúng sinh khởi tất cả chi, không phải tất cả nhân. Có người đối với tất cả chúng sinh khởi tất cả nhân, không phải tất cả chi. Có người đối với tất cả chúng sinh khởi tất cả chi, tất cả nhân.

Có người đối với tất cả chúng sinh khởi không phải tất cả chi, không phải tất cả nhân: Nghĩa là do triền bậc hạ giết chết chúng sinh, hoặc bậc trung, hoặc bậc thượng nhưng không tạo nghiệp đạo khác.

Có người đối với tất cả chúng sinh khởi tất cả chi, không phải tất cả nhân: Nghĩa là dùng triền bậc hạ giết hại chúng sinh, cho đến nói lời thêu dệt, không phải là bậc trung, thượng.

Có người đối với tất cả chúng sinh khởi tất cả nhân, không phải tất cả chi: Nghĩa là dùng triền bậc hạ, trung, thượng để sát hại chúng sinh, không phải là nghiệp đạo khác.

Có người đối với tất cả chúng sinh khởi tất cả chi, tất cả nhân: Nghĩa là dùng triền bậc hạ, trung, thượng để giết hại chúng sinh, cho đến nói lời thêu dệt, người kia nói là bất luật nghi không đầy đủ nên không gọi là kẻ trụ nơi bất luật nghi, vì người kia nói là đối với tất cả chúng sinh đã khởi cùng tất cả chi nhưng nhân không nhất định.

Hỏi: Các luật nghi được xả vào những thời gian nào?

Đáp:

Biệt giải thoát điều phục

Là xả nơi bốn thời

Nếu xả và mạng chung

Đoạn hai căn thiện sinh.

Biệt giải thoát điều phục, Là xả nơi bốn thời: Nghĩa là biệt giải thoát được điều phục, nên biết là xả trong bốn lúc.

Hỏi: Là những lúc nào?

Đáp: Nếu xả và mạng chung, Đoạn hai căn thiện sinh: Nghĩa là xả chủng loại thân của giới, diệt căn thiện, đoạn hai hình sinh.

Phái Trì Luật nói: Lúc pháp mất hết, tất cả việc thuyết giới, kiết giới, yết ma đều dứt.

Phái A-tỳ-đàm nêu: Lúc pháp mất hết, luật nghi đã thọ nhận trước đây vẫn nối tiếp phát sinh nên không xả. Người chưa từng được luật nghi thì không được, thế nên nói tất cả đều dứt.

Có thuyết cho: Phạm các tội lần đầu, gọi là xả luật nghi, điều này là không đúng. Vì nếu người xả luật nghi là đã phạm tội căn bản, đã hoàn tục, nên được xuất gia lại, vì đã xả luật nghi. Đức Phật nói người này không phải Tỳ-kheo, tức không phải là Tỳ-kheo đệ nhất nghĩa. Thuyết này không có lỗi.

Người phạm các tội lần đầu, đối với luật nghi biệt giải thoát là Tỳ-kheo, nhưng đối với luật nghi vô lậu thì không phải là Tỳkheo. Luật nghi thọ nhận suốt đời có bốn lúc xả. Luật nghi trai giới cho đến lúc mặt trời mọc là xả. Nếu như người trụ nơi luật nghi mà phạm luật nghi, là phạm giới không phải là xả giới. Nên biết người kia trụ nơi trì giới đã phạm giới. Nếu người ấy biết ăn năn, tức là xả phạm giới, trụ nơi trì giới. Như người giàu mắc nợ gọi là người giàu, cũng gọi là người mắc nợ. Nếu trả nợ hết rồi thì chỉ gọi là người giàu. Sự việc xả giới, trì giới kia cũng như vậy.

Là luật nghi thiền sinh

Nên biết xả hai lúc

Nếu khởi phiền não thoái

Sinh địa trên, địa dưới.

Luật nghi thiền xả vào hai lúc.

Hỏi: Tức vào những lúc nào?

Đáp: Nếu khởi phiền não thoái, Sinh địa trên, địa dưới: Nghĩa là lúc thoái chuyển thiền thì xả luật nghi kia, do thiền nên cùng với lúc sinh địa trên, địa dưới thì xả.

Luật nghi giới vô lậu

Là nói xả ba thời

Thoái cùng được Thánh quả

Căn tăng ích nên biết.

Luật nghi vô lậu xả trong ba lúc.

Hỏi: Là những lúc nào?

Đáp: Nên biết là xả vào lúc thoái chuyển, lúc đắc Thánh quả và lúc căn tăng ích.

Thoái chuyển: Là mất công đức thù thắng. Đắc quả: Là được quả Tu-đà-hoàn cho đến quả A-la-hán. Căn tăng ích: Là tín giải thoát được kiến đáo, thời giải thoát đạt được bất động.

Hỏi: Thế nào là xả bất luật nghi?

Đáp:

Bất luật nghi bốn thời

Thọ giới và mạng chung

Đạt được các thiền định

Hai căn sinh cũng vậy.

Bất luật nghi thì xả nơi bốn thời: Lúc thọ giới, lúc bỏ chủng loại thân, lúc được luật nghi thiền và lúc hai căn sinh.

Hỏi: Người trụ nơi bất luật nghi, nếu bỏ dụng cụ sát sinh gọi là xả bất luật nghi chăng?

Đáp: Gọi là đình chỉ nghiệp. Nếu không thọ luật nghi thì không gọi là xả bất luật nghi, vì không phải là đối trị. Như không uống thuốc mà muốn dứt bỏ nhân của bệnh, thì bệnh tức theo đấy sinh.

Hỏi: Đã nhận biết lúc xả luật nghi, bất luật nghi. Người kia cùng lìa bỏ đã tạo giới thiện, giới ác thì lúc xả là thế nào?

Đáp:

Người kia thế hạn quá

Cùng với hy vọng dứt

Cũng xả nơi phương tiện

Là nói xả thiện, ác.

Người kia cùng lìa bỏ: Nghĩa là nếu giới thiện, giới ác tức cùng xả trong ba thời. Nghĩa là vượt quá uy thế giới hạn, hy vọng dứt, xả phương tiện.

Vượt quá uy thế giới hạn: Nghĩa là nếu lúc muốn làm các việc theo giới thiện, giới ác, trước hết phải tạo ra giới hạn, nếu vượt quá giới hạn thì dừng. Như thế mạnh nơi bánh xe quay của thợ đồ gốm, nếu quay hết mức thì dừng.

Hy vọng dứt: Nghĩa là người ấy khởi tâm suy nghĩ: Sau này không còn làm nữa.

Xả phương tiện: Nghĩa là dứt các hành của thân, khẩu. Người ấy cùng lìa: Là tạo hành thiện, ác. Đều là chủng loại của thân, vô tác theo đấy sinh. Nghĩa là nói lên lời thệ: “Không cúng dường Phật thì trọn không ăn trước”. Nếu dùng hương hoa để tán thán, kính lễ và vô số thứ khác, ngày ngày cúng dường, thì đều là chủng loại của thân, vô tác theo đấy sinh.

Có người khởi thệ nguyện: “Không thí cho người khác, cho đến một nắm cơm, thì trọn không ăn trước”. Người kia cũng đều là chủng loại của thân, vô tác tùy sinh.

Nếu làm việc bố thí có kỳ hạn nhất định, hoặc hàng ngày, hoặc tháng, hoặc năm, phát lời thệ: “Tôi thề làm việc bố thí suốt đời”, tức bỏ ra một ít vật dụng, đem cung cấp cho người khác dùng, người ấy cũng đều là chủng loại của thân, vô tác tùy sinh.

Hoặc xây tháp, hoặc làm nhà ở cho tăng bốn phương, hoặc phòng nhà cho tăng, hoặc phòng riêng, hoặc vườn gác, ao tắm, hoặc cầu thuyền. Những sự việc như vậy đều có ba nhân duyên: Vô tác không đoạn, hoặc hy vọng, hoặc thân, hoặc sự.

Giới ác nghĩa là người kia cũng khởi lời thệ: “Tôi sẽ ngày ngày đối với oan gia kia luôn tạo sự việc không lợi ích”. Hoặc một lần đánh, hoặc một lời nói ác, người ấy là cả đời, vô tác bất thiện tùy sinh.

Đã nói về xả bỏ nghiệp của sắc. Vô sắc nay sẽ nói.

Thiện vô sắc lúc xả

Đoạn thoái sinh các địa

Cấu uế chỉ lìa dục

Nên biết là ý nghiệp.

Thiện vô sắc lúc xả, Đoạn thoái sinh các địa: Nghĩa là pháp thiện hữu lậu vô sắc được xả vào ba thời là lúc đoạn căn thiện, lúc thoái chuyển và lúc sinh nơi các địa.

Cấu uế chỉ lìa dục: Nghĩa là lúc lìa dục là xả pháp cấu uế vô sắc. Nếu đối trị phẩm này sinh, tức là xả phẩm này.

Đã nói về tự tánh và sự thành tựu của các nghiệp. Như nghiệp này, Đức Thế Tôn đã có vô số phân biệt, nay sẽ nói.

Nếu nghiệp cho quả khổ

Nên biết là hành ác

Lại có ý hành ác

Tham, sân hận, tà kiến.

Nếu nghiệp cho quả khổ, Nên biết là hành ác: Nghĩa là nếu nghiệp của thân, khẩu và tư sinh quả báo không yêu thích, nên biết đó là hành ác.

Hỏi: Chỉ có hành ác này chăng?

Đáp: Lại có ý hành ác, Tham, sân hận, tà kiến: Tức tư bất thiện là hành ác của ý, như trước đã nói. Lại có tham, sân, tà kiến.

Là trái với hành diệu

Bậc Tối Thắng đã nói

Nếu trong đấy tăng thượng

Gọi là mười nghiệp đạo.

Là trái với hành diệu, Bậc Tối Thắng đã nói: Nghĩa là cùng trái với hành ác đều là hành diệu. Nếu là nghiệp thiện của thân tức đều là hành diệu của thân. Nếu là nghiệp thiện của khẩu tức đều là hành diệu của khẩu. Nếu là nghiệp thiện của ý cùng không tham, không sân, chánh kiến, tức đều là hành diệu của ý. Nghiệp vô ký ẩn mất, không ẩn mất, vì không có báo nên không phải là hành ác, không phải là hành diệu. Nếu vô ký không ẩn mất kia là phương tiện khéo léo, nghĩa là làm như làm, nói như nói, trái với vô ký không ẩn mất này là vô ký ẩn mất, gọi là không có phương tiện khéo léo.

Hỏi: Tất cả hành thiện, hành ác đều thuộc về nghiệp đạo chăng?

Đáp: Nếu trong đấy tăng thượng, Gọi là mười nghiệp đạo: Tức nghiệp tăng thượng vượt hơn trong các hành thiện hành ác này gọi là nghiệp đạo. Hành diệu kia tăng gọi là nghiệp đạo thiện. Hành ác tăng gọi là nghiệp đạo bất thiện. Nếu nói không nhất định thì không đúng, vì nghiệp đạo căn bản phần nhiều tăng thượng, vì rất bức bách, vì quá sợ hãi, vì sự việc rốt ráo, nên nói tăng thượng là nghiệp đạo căn bản.

Hỏi: Những gì là nghiệp đạo?

Đáp: Từ sát sinh cho đến tà kiến. Sát sinh kia nay sẽ nói.

Có tâm muốn sát sinh

Tưởng sát sinh chúng sinh

Đó gọi là sát sinh

Trộm, dâm cũng như thế.

Có tâm muốn sát sinh, Tưởng sát sinh chúng sinh: Nghĩa là muốn giết chúng sinh khác, chúng sinh định, bất định, đều khởi tưởng chúng sinh, giết hại chúng sinh kia, gọi là tác, vô tác, hoặc lại hoàn toàn gọi là vô tác. Thân nghiệp này sát sinh, không phải là nghiệp khác. Không đủ tự tại: Là miệng nói và ý của tiên nhân đã ngờ vực mà giết. Nếu cho là tự tánh của khẩu nghiệp, ý nghiệp là không đúng, vì tự tánh của nghiệp là khác, vì sự việc không rốt ráo.

Nếu cho có tâm, không tâm mà giết chúng sinh kia, thì cùng nên mắc phải tội sát. Như người chạm phải lửa, ăn nhằm chất độc là không đúng, vì không phải là thí dụ. Hoặc tay cầm dao, hoặc tay quăng dao, hoặc có tâm, hoặc không tâm xúc chạm lửa không bị đốt cháy. Hoặc chú thuật độc, hoặc uống thuốc lẫn lộn chất độc, hoặc có tâm hoặc không tâm, nhưng vì sát sinh không chết thì không như vậy. Thế nên không phải là thí dụ.

Nếu lại cho đối với lửa, thuốc độc, được nhân duyên không đốt cháy, không chết mà sát sinh, không được nhân duyên không giết hại thì không đúng, vì được tâm không ác. Như người kia dùng dao, chú thuật, các thứ thuốc v.v… là nhân duyên không đốt cháy, không chết. Tâm không ác là nhân duyên không giết hại cũng như vậy. Do tâm không ác thì sát sinh không phải là sát sinh, như cầm dao chạm với lửa không bị đốt cháy.

Hỏi: Không có tâm hại thì chúng sinh không chết chăng?

Đáp: Là chết. Tuy sát sinh không mắc phải tội sát, vì không có tâm ác. Tuy bức bách người khác nhưng không mắc tội sát, rồi cho sự việc này không phải là người nói thì không đúng. Như không bức bách người khác, không dẫn dắt người khác, nhưng tội phước được nuôi lớn, nghĩa là đoạn căn thiện, được tâm từ, thế nên chẳng phải là chẳng nói.

Trộm cắp: Nghĩa là vật sở hữu của người khác, khởi tưởng là vật của người khác, nhận biết người kia không cho nhưng muốn lấy làm của mình. Do có tưởng được gọi là tác, vô tác, hoặc hoàn toàn gọi là vô tác. Đây là thân nghiệp hành trộm cắp.

Tà dâm: Là đối với người nữ được cha mẹ v.v… bảo hộ, khởi tưởng bảo hộ, hành đúng chỗ, không đúng chỗ. Đối với kẻ không được bảo hộ, không phải xứ, không phải lúc, là điều không nên làm mà làm, gọi là tác, vô tác. Đây là thân nghiệp tà dâm.

Là nói kia tưởng khác

Biệt ly, lời không dịu

Nói vô nghĩa, không thành

Đây là khẩu nghiệp đạo.

Đối với những việc thấy nghe v.v… điên đảo, không điên đảo, khởi tưởng che giấu, gọi là tác, vô tác, hoặc hoàn toàn gọi là vô tác, là khẩu nghiệp nói dối. Hoặc thân động, hoặc im lặng, như nơi sự việc bố tát, đó cũng gọi là nói dối.

Nếu nói đấy là tánh của nghiệp thân ý thì không đúng, vì tánh của nghiệp là khác, vì vướng mắc vào nghiệp thân, khẩu. Ví như vướng mắc nơi thân. Nếu thân cố tạo ra là thân nghiệp. Ví như mắt từng nhìn qua sau đó thân tiếp xúc biết được vật dài ngắn v.v… Ví như lúc thọ nhận giới, miệng hành tác được thân nghiệp. Ví như lúc thọ giới cụ túc, hoặc im lặng, hoặc vô tâm, được thân nghiệp.

Biệt ly: Là hoặc hoại, hoặc không hoại, khởi tưởng sắp hoại. Nếu đã hoại thì không khiến hòa hợp, gọi là tác, vô tác, hoặc hoàn toàn gọi là vô tác, là nói lưỡi đôi chiều của khẩu nghiệp.

Lời không dịu: Là tâm não loạn, hoặc não loạn, không não loạn, gọi là tác vô tác, hoặc hoàn toàn gọi là vô tác, là lời nói thô ác của khẩu nghiệp.

Nói vô nghĩa, không thành: Là tâm bất thiện, phi nghĩa, không phải lúc, là lời nói không thích hợp, tùy nhập vào tất cả hành ác của miệng, như vô minh theo phiền não, như âm thanh tùy theo chữ.

Chúng sinh cùng trái hại

Đó gọi là sân hận

Vật người, tưởng mình: tham

Tà kiến là kiến nào.

Chúng sinh cùng trái hại, Đó gọi là sân hận: Nghĩa là khởi tâm ác đối với chúng sinh khác, muốn giết, muốn đánh đập, cùng trái với từ bi, đó gọi là sân hận.

Vật người, tưởng mình tham: Nghĩa là có tưởng yêu thích vật của người khác, muốn lấy làm của mình, là tham của tất cả cõi dục.

Tà kiến là kiến nào: Nghĩa là đối với việc bố thí v.v… khởi tạo vô kiến (Kiến chấp cho là không có), gọi là tà kiến.

Hỏi: Nghiệp đạo nào là cứu cánh?

Đáp:

Sát sinh và ác khẩu

Cùng sân hận nghiệp đạo

Đều do sân hận thành

Xứ chúng sinh sinh khởi.

Sát sinh và ác khẩu, Cùng sân hận nghiệp đạo, Đều do sân hận thành: Nghĩa là sát sinh, ác khẩu, sân hận nên biết là từ sân hận thành, lúc hoàn tất chính là cùng với sân hận kết hợp.

Hỏi: Từ nơi xứ nào sinh?

Đáp: Xứ chúng sinh sinh khởi: Tức ba nghiệp đạo này nên biết là từ nơi xứ chúng sinh khởi.

Hai nghiệp thân và tham

Cứu cánh của tham dục

Đều do tham dục thành

Xứ đông đủ sinh khởi.

Hai nghiệp thân và tham, Cứu cánh của tham dục, Đều do tham dục thành: Nghĩa là trộm cắp, tà dâm cùng với tham, ba nghiệp đạo này nên biết là cứu cánh của tham.

Hỏi: Đây lại từ xứ nào khởi?

Đáp: Xứ đông đủ sinh khởi: Tức ba nghiệp đạo này nên biết là từ nơi xứ đông đủ khởi.

Tức có khẩu nghiệp khác

Là đều ba chỗ thành

Từ xứ danh sinh khởi

Bậc Minh trí đã nói.

Tức có khẩu nghiệp khác, Là đều ba chỗ thành: Nghĩa là nói dối, nói hai lưỡi, nói lời thêu dệt, nên biết là từ tham dục, sân hận và ngu si mà thành.

Hỏi: Chúng lại từ xứ nào khởi?

Đáp: Từ xứ danh sinh khởi, Bậc Minh trí đã nói: Tức ba nghiệp đạo của miệng này nên biết là từ nơi xứ danh khởi.

Tà kiến danh sắc khởi

Cũng từ ngu si thành

Tất cả các nghiệp đạo

Ba thứ làm phương tiện.

Tà kiến danh sắc khởi, Cũng từ ngu si thành: Nghĩa là tà kiến từ nơi xứ danh sắc khởi.

Hỏi: Gì là cứu cánh của tà kiến ấy?

Đáp: Cũng từ ngu si thành: Tức tà kiến này nên biết là từ ngu si làm cứu cánh.

Hỏi: Phương tiện của tất cả nghiệp đạo, như cứu cánh căn bản hay là có khác chăng?

Đáp: Tất cả các nghiệp đạo, Ba thứ làm phương tiện: Tức hết thảy mười nghiệp đạo bất thiện đều dùng tham dục, sân hận và ngu si làm phương tiện.

Tham sát sinh: Nghĩa là vì da thịt, xương gân v.v… nên giết hại. Là vì mình hoặc vì thân hữu nên sát sinh.

Sân hận sát sinh: Nghĩa là giết hại kẻ oán đối cùng bạn thân của kẻ oán đối khiến chúng càng ưu não.

Ngu si sát sinh: Nghĩa là nói nhân duyên giết hại các loài sâu độc v.v… là không có tội, vì chúng hại người. Nhân duyên giết hại các loài cầm thú v.v… đều không có tội, do chúng là thức ăn của con người. Người nước Ba Tư nói: “Như cha mẹ già, nếu gặp nhân duyên mắc phải bệnh ác thì nên giết, không có tội”.

Tham trộm cắp: Nghĩa là trộm vật cần dùng của người khác làm của mình.

Sân hận trộm cắp: Nghĩa là hoặc trộm lấy vật của kẻ oán đối, hoặc vật thuộc bạn thân của kẻ oán đối, khiến chúng càng sầu não.

Si trộm cắp: Nghĩa là như người Bà-la-môn nói: Tất cả vật từ nơi đất sinh ra đều thí cho Bà-la-môn. Vì Bà-la-môn yếu kém nên Sát-đế-lợi v.v… thọ dụng. Vì thế Bà-la-môn nói lấy vật kia là tự lấy vật của mình nên vô tội. Nhưng lúc họ lấy thì khởi tưởng là vật của người khác nên gọi là trộm cắp.

Tham tà dâm: Nghĩa là đối với chúng sinh tâm đã tham làm phương tiện. Hoặc kẻ khác đã thọ nhận cùng tự mình đã thọ nhận. Nếu của cải, lợi dưỡng không phải là phương tiện tham thì sân hận khởi lên. Nghĩa là đối với kẻ oán đối cùng bạn thân của kẻ oán đối đã thọ nhận.

Si tà dâm: Nghĩa là như nói cầu đường, thuyền bè, ruộng hoang, hoa quả, người nữ đi trên đường, tất cả chúng sinh đều cùng thọ dụng. Như người Bà-la-môn nói: “Bà-la-môn nên có bốn người vợ. Sát-đế-lợi nên có ba. Tỳ xá nên có hai. Thủ đà la chỉ có một”.

Nếu khẩu nghiệp dấy khởi tham, nên biết là từ tham sinh. Nếu dấy khởi sân, nên biết là từ sân sinh. Nếu dấy khởi si, nên biết là từ si sinh. Tham là nếu theo thứ lớp của tham khởi lên tức là từ tham sinh. Nếu sân đã khởi là từ sân hận sinh. Nếu ngu si đã khởi là từ ngu si sinh. Sân hận, tà kiến cũng như vậy.

Hỏi: Nghiệp đạo nhất định là hữu tác, vô tác, hay là không phải?

Đáp:

Nghiệp căn bản vô tác

Hoặc lại nói hữu tác

Phương tiện trọn tức khác

Tham, không tham cùng khởi.

Nghiệp căn bản vô tác, Hoặc lại nói hữu tác: Nghĩa là bảy nghiệp đạo tự tánh là sắc nhất định là vô tác. Hoặc lại tạo tà dâm thì nhất định là hữu tác. Do tự là cứu cánh. Không phải nghiệp đạo còn lại của người khác không nhất định. Nếu tự hành tác tức hữu tác. Nếu khiến người khác hành tác thì hoàn toàn là vô tác.

Hỏi: Từng có không phải thân hành tác nhưng phạm phải sát sinh không?

Đáp: Có. Nghĩa là miệng hành tác.

Hỏi: Từng có không phải miệng hành tác nhưng mắc tội nói dối không?

Đáp: Có. Nghĩa là thân hành tác.

Hỏi: Từng có không phải thân, miệng hành tác nhưng mắc hai tội không?

Đáp: Có. Là trường hợp người tiên khởi tâm ác, là như sự việc bố tát.

Nếu nghiệp đạo thiện thuộc tánh là sắc của cõi dục thì nhất định là hữu tác và vô tác. Luật nghi vô lậu của thiền thì chỉ là vô tác, không phải là hữu tác, vì do tâm.

Phương tiện: Nghĩa là hữu tác. Nếu tâm thuần tịnh cùng với triền rất nhanh nhạy tạo tác thì có vô tác. Nếu tâm không thuần tịnh và triền không nhanh nhạy tạo tác thì chỉ có hữu tác, không có vô tác.

Trọn tức khắc: Nghĩa là nghiệp đạo trọn vẹn thì chỉ có vô tác, vì tạo nghiệp rồi thì dứt.

Hỏi: Những gì là phương tiện của nghiệp đạo? Những gì là chung cuộc?

Đáp: Phương tiện của sát sinh là người đồ tể dê. Hoặc bắt trói, hoặc mua, hoặc lôi kéo đi đến, một lần đánh, hai lần đánh, cho đến mạng sống chưa hết đều gọi là phương tiện. Lúc đoạn dứt mạng sống thì trong khoảnh khắc sát-na hữu tác và vô tác là nghiệp đạo căn bản. Về sau, cho đến ở nơi xứ này, thân bất thiện đã tạo tác và không tạo tác là chung cuộc của sát sinh. Cho đến nói lời thêu dệt cũng như vậy. Đó gọi là chung cuộc.

Tham, sân, tà kiến không có phương tiện hiện tiền, tức là căn bản khởi.

Có thuyết nói: Nghiệp đạo thân khẩu thì tất cả mười nghiệp đều là phương tiện và chung cuộc. Điều này là thế nào? Như muốn giết chúng sinh kia thì giết chúng sinh này làm nhân, sau đấy thì giết chúng sinh kia. Tức sát sinh là để cầu xin sức hỗ trợ để giết chúng sinh kia. Hoặc cướp lấy tài sản của người khác nhằm giúp cho việc giết hại. Hoặc dâm với người nữ của người kia đã yêu, khiến người nữ giết hại người chủ kia. Hoặc đối với người kia đã nhận biết về bạn của kẻ ấy. Lại nói dối, nói lời thô ác, nói lưỡi hai chiều, nói lời thêu dệt, để tách lìa tình thân của người kia. Hoặc tham tài sản của người kia. Hoặc giận dữ kẻ kia. Hoặc dấy khởi tà kiến, nuôi lớn pháp sát hại để về sau giết chết con của người kia. Lại thông dâm với vợ của người kia. Theo thứ lớp cho đến mười nghiệp đạo bất thiện, nên biết là chung cuộc. Như vậy tất cả đều nên biết.

Tham, không tham cùng khởi: Nghĩa là tham, sân, si của nghiệp đạo bất thiện là phương tiện, cũng là chung cuộc.

Nghiệp đạo thiện do không tham, không sân, không si khởi. Bỏ phương tiện của nghiệp đạo bất thiện, tức là phương tiện của nghiệp đạo thiện. Bỏ căn bản bất thiện, tức là căn bản thiện. Bỏ chung cuộc bất thiện, tức là chung cuộc thiện.

Hỏi: Như vậy là thế nào?

Đáp: Như Sa-di thọ giới cụ túc, lần lượt vào giới tràng đi vòng quanh lễ Tăng, cầu Hòa thượng để nhận lấy y bát, tác bạch một lần yếtma, cho đến hai lần yết-ma, đều là phương tiện. Đến tác bạch yết-ma lần thứ ba, trong khoảnh khắc sát-na ấy, hữu tác và vô tác của Sa-di kia là nghiệp đạo căn bản. Tiếp đấy là nói về bốn sự nương dựa. Như vậy cho đến ở nơi xứ ấy thân khẩu đã tác và vô tác, đó gọi là chung cuộc.

Hỏi: Nơi xứ nào có bao nhiêu nghiệp đạo?

Đáp:

Địa ngục năm nghiệp đạo

Uất-đơn-việt bốn sau

Phương khác có đủ mười

Cùng trời, nẻo ác khác.

Địa ngục năm nghiệp đạo: Nghĩa là chúng sinh ở địa ngục có năm nghiệp đạo bất thiện: Miệng nói lời thô ác, lời thêu dệt, tham, sân và tà kiến. Vì không có tướng sát sinh, nên không có nghiệp đạo sát sinh. Vì không có thọ nhận của cải, nên không có trộm cắp. Vì không có chấp thọ người nữ, nên không có tà dâm. Do tưởng khác mà nói, nên gọi là nói dối. Vì người kia không có tưởng khác nên không có nói dối. Vì thường lìa bỏ, nên không có nói lưỡi hai chiều. Vì bị khổ bức bách nên có ác khẩu. Vì nói không hợp thời, nên có nói lời thêu dệt. Tham và tà kiến đều thành nhưng không hành. Sân hận là đều cùng có.

Uất-đơn-việt bốn sau: Nghĩa là châu này có bốn nghiệp đạo bất thiện sau: Vì phần thọ mạng nhất định nên không có sát sinh. Vì không thọ nhận của cải nên không có trộm cắp. Vì không có chấp thọ người nữ nên không có tà dâm. Lúc muốn hành dục thì dẫn người nữ kia đến bên cội cây, cành cây tự động cong xuống che khuất hai người. Sau khi hành dục xong cùng bỏ đi, cành cây trở lại như cũ. Nếu cành cây không tự động cong xuống để che khuất, thì cả hai đều hổ thẹn và chia tay. Vì không khi dể người khác nên không có nói dối. Vì thường hòa hợp nên không có nói lưỡi hai chiều. Vì luôn mềm dịu nên không có nói lời thô ác. Vì có sự khen ngợi nên có lời nói thêu dệt. Nghiệp đạo của ý tuy thành tựu nhưng không hành.

Phương khác có đủ mười: Nghĩa là trừ châu Uất-đơn-việt, ba phương còn lại thì có đủ mười nghiệp đạo, hoặc không thuộc về bất luật nghi, hoặc lìa thuộc về bất luật nghi.

Cùng trời, nẻo ác khác: Nghĩa là hai nẻo súc sinh, ngạ quỷ và trời cõi dục có mười nghiệp đạo. Về nghĩa lìa bất luật nghi, tuy trời không hại trời, nhưng hại nẻo khác.

Lại có thuyết nói: Trời cũng có chuyện chặt đứt cả tay chân rồi sinh trở lại. Nhưng nếu chặt đầu hoặc chặt đứt phần giữa thì chết. Cũng lần lượt cướp đoạt lẫn nhau, cho đến mười nghiệp đạo, tất cả đều có. Trời nơi cõi sắc, vô sắc không có nghiệp đạo bất thiện.

Hỏi: Nơi xứ nào có bao nhiêu nghiệp đạo thiện?

Đáp:

Địa ngục, Uất-đơn-việt

Có ba nghiệp đạo thiện

Cùng hiện ở vô sắc

Thánh kia thành tựu mười.

Địa ngục, Uất-đơn-việt, Có ba nghiệp đạo thiện: Nghĩa là địa ngục có vô tham, vô sân, chánh kiến. Châu Uất-đơn-việt cũng như vậy.

Cùng hiện ở vô sắc: Nghĩa là nơi cõi vô sắc ba nghiệp đạo này luôn hiện hành ở trước.

Thánh kia thành tựu mười: Nghĩa là Thánh nhân ở cõi vô sắc thành tựu mười nghiệp đạo thiện vô lậu.

Như đây cũng lại khác

Tức luật nghi cõi sắc

Súc sinh, ngạ quỷ khác

Còn như vậy cũng khác.

Như đây cũng lại khác, Tức luật nghi cõi sắc: Nghĩa là thuộc về luật nghi thiền của cõi sắc có đủ mười nghiệp đạo thiện, cũng thành tựu, cũng hiện ở trước. Thánh nhân sinh nơi cõi sắc kia là có nghiệp đạo vô lậu.

Súc sinh, ngạ quỷ khác: Nghĩa là hai nẻo súc sinh, ngạ quỷ cũng có mười nghiệp đạo thiện, lìa luật nghi, cũng lìa bất luật nghi.

Còn như vậy cũng khác: Nghĩa là ba châu Diêm-phù-đề, Phấtbà-đề, Cù-đà-ni và các trời cõi dục nói là còn lại. Các nơi ấy có mười nghiệp đạo thiện, là thuộc về luật nghi, hoặc lìa luật nghi. Các trời cõi dục chỉ có luật nghi vô lậu của thiền.

Hỏi: Có bao nhiêu nghiệp đạo bất thiện cùng một lúc chuyển với tư?

Đáp:

Nghiệp đạo bất thiện khởi

Một cùng chuyển với tư

Hai, ba cho đến tám

Nên biết thứ lớp tăng.

Đây là ba nghiệp đạo bất thiện, tự tánh là thân, mỗi mỗi nghiệp đạo ấy cùng chuyển với tư. Đó là sát sinh, trộm cắp, tà dâm. Hai cùng chuyển: Nghĩa là giết hại chúng sinh khác để trộm lấy. Ba cùng chuyển: Nghĩa là sai kẻ khác làm hai việc kia rồi tự hành tà dâm. Do hành này hoàn toàn là của mình, không phải là người khác. Nếu chủng loại kia hòa hợp thì tất cả đều thành.

Nghiệp đạo miệng, một cùng chuyển: Nghĩa là nói lời thêu dệt. Hai cùng chuyển: Nghĩa là gồm nói dối và nói lời thêu dệt không phải lúc. Gồm muốn nói lời ly biệt và nói lời thêu dệt không đúng lúc. Hoặc gồm nói lời thô ác và nói lời thêu dệt không phải lúc. Ba cùng chuyển: Nghĩa là gồm muốn nói lời ly biệt, nói dối và nói lời thêu dệt không phải lúc. Gồm ác khẩu, nói dối, nói lời thêu dệt không phải lúc. Gồm ác khẩu, muốn nói lời biệt ly, nói lời thêu dệt không phải lúc. Bốn cùng chuyển: Gồm muốn nói lời biệt ly, nói dối, ác khẩu, nói lời thêu dệt không phải lúc.

Nghiệp đạo của ý là mỗi mỗi đều cùng chuyển. Do hành riêng nên không phải là hai. Như vậy thì năm, sáy, bảy, tám nghiệp đạo cùng chuyển. Tức sai khiến nơi sáu thứ kia là tự hành tà dâm, không do người khác. Nếu chủng loại ấy hòa hợp thì trong một lúc đều cùng thành trọn và tham hiện ở trước. Như thế tám nghiệp đạo bất thiện cùng với tư cùng chuyển.

Hỏi: Có bao nhiêu nghiệp đạo thiện cùng một lúc cùng với tư chuyển?

Đáp:

Gọi là nghiệp đạo thiện

Hai, ba cùng với bốn

Sáu, bảy, chín với mười

Một lúc cùng tư chuyển.

Năm thức thân thiện của cõi dục hiện ở trước. Ba thức của địa thiền thứ nhất và dựa vào tận trí, vô sinh trí của vô sắc. Hai nghiệp đạo thiện này cùng với tư cùng chuyển, nghĩa là vô tham, vô sân. Ý thức thiện của cõi dục hiện ở trước, cùng với tâm bất định của cõi sắc và cõi vô sắc. Lại, dựa vào chánh kiến vô lậu của vô sắc có ba thứ cùng với tư cùng chuyển, tâm nhiễm ô và tâm vô ký của Ưu-bà-tắc cùng Sa-di thọ luật nghi. Bốn tức năm thức trụ thiện này.

Sáu tức ý thức trụ thiện ấy và tâm vô ký, không phải tâm nhiễm ô của Tỳ-kheo. Bảy là năm thức trụ thiện của Tỳ-kheo, hoặc dựa vào thiền có tận trí, vô sinh trí cùng với tâm. Chín tức ý thức trụ thiện của Tỳ-kheo này và tâm định của cõi sắc, dựa vào thiền có chánh kiến vô lậu hiện ở trước. Mười là mười nghiệp đạo thiện cùng với tư cùng chuyển.

Hỏi: Nghiệp đạo nào có bao nhiêu quả?

Đáp:

Mỗi mỗi quả có ba

Đó gọi là quả báo

Quả y và tăng thượng

Gọi là quả nghiệp đạo.

Mỗi mỗi nghiệp đạo đều có ba quả, là quả báo, quả y và quả tăng thượng.

Nghiệp đạo kia hành tập, hành tập nhiều sinh trong địa ngục là quả báo.

Ra khỏi địa ngục đến sinh trong nẻo người là thọ quả tương tợ. Nghĩa là kẻ sát sinh thì thọ mạng ngắn. Kẻ trộm cắp thì mất của cải. Người tà dâm thì vợ không trinh thuận. Người nói dối thì mang tiếng xấu và bị người cười chê. Kẻ nói lưỡi đôi chiều thì bạn thân đều lìa, chống. Kẻ ác khẩu thì luôn nghe tiếng xấu ác. Người nói lời thêu dệt thì ngôn ngữ không đúng đắn. Kẻ tham thì thêm tham. Người giận thì thêm giận. Kẻ tà kiến thì càng ngu si thêm. Đó là quả y.

Quả tăng thượng của các nghiệp đạo này là những vật dụng thô xấu, không có vẻ sáng tươi, phần nhiều gặp phải sương mù, mưa đá, gió bụi nhiễm đục, xú uế, bất tịnh. Nơi chốn cư trú thì quanh co, gai gốc, hiểm trở. Các thứ quả thu được thì bị khô héo, ít ỏi, nhỏ nhặt, tạo nên khổ não lớn, không có quả tốt.

Hỏi: Thế nào là quả tương tợ?

Đáp:

Khổ nẻo ác người khổ

Hại thọ mạng thọ ngắn

Vật dụng ngoài không tươi

Do hoại vật sáng kia.

Khổ nẻo ác người khổ: Nghĩa là sát sinh tức khiến kẻ kia thọ nhận khổ nơi khổ của nẻo ác, đây là quả tương tợ.

Hỏi: Giết hại những ấm nào? Là sắc ấm hay là năm ấm?

Đáp: Có thuyết nói: Là sắc ấm. Do sắc có thể đoạn dứt, hủy hoại, còn bốn ấm không phải là xúc. Có thuyết cho: Là năm ấm. Bốn ấm tuy không phải là xúc, nhưng chúng đều dựa vào sắc ấm chuyển, nên giết hại sắc ấm cũng là giết hại các ấm ấy. Như bình vỡ thì sữa chảy hết.

Hỏi: Giết hại vô ký hay giết hại cả ba thứ?

Đáp: Có thuyết nói: Là vô ký. Do vô ký nhận lấy đao, gậy. Vì hai thứ kia không phải là xúc. Lại có thuyết cho: Tất cả ba thứ, như trước đã nói.

Hỏi: Giết hại ấm nào? Ấm quá khứ, ấm vị lai, ấm hiện tại chăng? Nếu là quá khứ thì ấm kia đã diệt. Nếu vị lai thì ấm kia là không thể được. Nếu hiện tại thì ấm kia trong khoảnh khắc sát-na đều không dừng.

Đáp: Có thuyết nói: Là đời vị lai, hiện tại thì trụ nơi hoại, vị lai thì hòa hợp.

Có thuyết cho: Là vị lai, hiện tại, vì hiện tại thọ nhận đao gậy, ấm diệt không nối tiếp nhau.

Hại thọ mạng thọ ngắn: Nghĩa là kẻ sát sinh kia vì đoạn dứt thọ mạng người khác nên tuổi thọ ngắn ngủi.

Vật dụng ngoài không tươi, Do hoại vật sáng kia: Nghĩa là kẻ giết hại kia đã hủy hoại những thứ tươi sáng nên phải nhận lấy các thứ vật dụng đều không tươi đẹp. Tất cả nghiệp đạo đều tùy vào chỗ ứng hợp với nhân đã tạo kia cần nên biết. Trộm cắp và tà dâm tuy không khiến cho kẻ kia khổ nhưng vẫn khiến các hy vọng bị hủy hoại. Như không biệt ly cũng gọi là lưỡi đôi chiều. Người kia tuy không xúc não cũng gọi là ác khẩu.

Đã nói về nghiệp đạo. Phần sai biệt nay sẽ nói.

Gọi nghiệp quả hiện pháp

Tiếp thọ nhận quả sinh

Quả sau cũng như thế

Nên biết phần đều định.

Ba nghiệp là hiện thọ, sinh thọ, hậu thọ.

Nghiệp thọ hiện pháp: Nghĩa là nếu nghiệp đã gây tạo ở đời này, tức ở nơi đời này thành thục gọi là hiện thọ. Nếu thành thục ở đời thứ hai gọi là sinh thọ. Nếu thành thục ở sau đời thứ hai gọi là hậu thọ.

Hoặc có người muốn khiến thành bốn nghiệp: Ba nghiệp trước và bất định thọ. Ba nghiệp trước là không chuyển. Bất định thọ là chuyển. Chuyển có sự bảo vệ như trì giới v.v…

Phái Thí dụ nói: Tất cả nghiệp chuyển cho đến vô gián. Thuyết ấy nói, nếu nghiệp vô gián không chuyển thì cũng không có sự vượt qua hữu thứ nhất. Nếu vượt qua hữu thứ nhất nên biết là nghiệp vô gián cũng chuyển. Thuyết ấy còn nói nghiệp hiện pháp không hẳn là hiện báo thành thục. Nếu thành thục là thọ hiện pháp, không phải là pháp khác. Nói như thế nghĩa là nói báo hiện pháp của tám nghiệp, hoặc nhất định, hoặc không nhất định, cho đến nghiệp bất định thọ cũng như vậy. Vì thế thuyết kia nói về phần nhất định thành thục không nhất định nên nêu ra bốn trường hợp: Hoặc phần nhất định thành thục không nhất định. Hoặc thành thục nhất định phần không nhất định. Hoặc phần nhất định thành thục cũng nhất định. Hoặc không phải là phần nhất định cũng không phải là thành thục nhất định.

Hỏi: Bốn nghiệp này có bao nhiêu thứ là chủng loại của một thân?

Đáp: Có ba, trừ hiện pháp thọ. Bốn loại nghiệp chủng của cõi dục, cõi sắc, cõi vô sắc cũng như vậy. Nẻo địa ngục có bốn loại nghiệp chủng bất thiện. Thiện có ba loại, trừ nghiệp hiện thọ. Tức các nẻo còn lại cùng có bốn loại. Phàm phu sinh nơi cõi dục, dục ái chưa dứt hết, thì ở cõi dục có bốn loại. Nếu dục ái đã dứt hết, ái của cõi Phạm thiên chưa dứt hết, hoặc không thoái chuyển pháp chủng tánh, thì nơi cõi dục có ba thứ, trừ sinh thọ. Nơi cõi Phạm thiên cũng có ba loại, trừ hiện thọ. Nếu thoái chuyển pháp chủng tánh, thì nơi Phạm thiên như trước nói. Cõi dục có bốn thứ nghiệp chủng thiện. Như thế tùy theo nghĩa kia là nói phàm phu sinh nơi tất cả địa, Thánh nhân cũng nói như vậy.

Đã nói về hiện thọ v.v… Lạc thọ nay sẽ nói.

Nghiệp thiện trong cõi dục

Cùng ba địa cõi sắc

Nói tên là lạc thọ

Đây cũng định, bất định.

Nghiệp thiện trong cõi dục, Cùng ba địa cõi sắc, Nói tên là lạc thọ: Nghĩa là nghiệp thiện của cõi dục có được lạc thọ và các báo đầy đủ. Cõi sắc cho đến nghiệp của thiền thứ ba đều được lạc báo.

Hỏi: Nghiệp của thiền trung gian được những báo gì?

Đáp: Có thuyết nói là được lạc báo của thiền thứ nhất. Đây không phải là thuyết do A-tỳ-đàm nói.

Hỏi: Hoặc nghiệp được tâm thọ không phải là thân thọ chăng?

Đáp: Có. Là nghiệp thiện không giác. Lại có thuyết nói nghiệp của thiền trung gian không được thọ báo, chỉ có sắc, tâm bất tương ưng hành.

Hỏi: Phần này cũng là nhất định chăng?

Đáp: Đây cũng định, bất định: Tức hoặc nhất định, hoặc không nhất định. Thiện trong bốn địa này đều có lạc báo.

Được không khổ không vui

Đây nói là thiện thượng

Nếu thọ nơi khổ báo

Là nói nghiệp bất thiện.

Được không khổ không vui, Đây nói là thiện thượng: Nghĩa là nghiệp thiện của địa thiền thứ tư và nghiệp thiện của địa vô sắc nói là báo không khổ không vui, là do địa ấy được không khổ không lạc thọ cùng các thứ vật dụng.

Hỏi: Vì sao địa dưới không có báo không khổ không vui?

Đáp: Có thuyết nói: Vì địa dưới là thô, còn địa trên thì thọ nhận vi tế. Do địa dưới không tịch tĩnh, còn địa trên thì thọ nhận tịch tĩnh. Nếu địa dưới tạo nghiệp thiện thì đều là thọ lạc thọ, không có mong cầu không khổ không lạc thọ. Tuy không mong cầu khổ báo, nhưng do mong cầu lạc, nên tạo hành ác. Vì thế tuy không mong cầu nhưng vẫn thọ khổ báo.

Nếu thọ nơi khổ báo, Là nói nghiệp bất thiện: Tức nghiệp bất thiện gọi là khổ báo, vì là quả của khổ thọ không phải là nghiệp riêng thọ báo. Bốn ấm, năm ấm cũng thọ báo, chỉ vì nghiệp là vượt hơn nên nói là nghiệp thọ báo. Nên biết nghiệp này cũng có nhất định và không nhất định.

Hỏi: Có bao nhiêu thứ thọ?

Đáp:

Gọi là thọ tự tánh

Tương ưng cùng thọ báo

Hiện tiền và cảnh giới

Là nói năm thứ thọ.

Năm thứ thọ, đó là thọ tự tánh, thọ tương ưng, thọ báo, thọ hiền tiền và thọ cảnh giới.

Thọ tự tánh nghĩa là thọ. Thọ tương ưng là pháp tương ưng của thọ. Thọ báo là các nghiệp như lạc thọ v.v… Thọ hiền tiền là hiện tại thọ. Như kinh Đại Nhân nói: “Nếu lúc lạc thọ hiện ở trước thì hai thọ kia tức diệt”. Thọ cảnh giới là mắt tiếp xúc sinh nhận biết, thọ nhận sắc là nghĩa duyên dựa. Trong năm loại thọ này nên biết ở đây là nói thọ báo, không phải thọ khác.

Hỏi: Đức Thế Tôn nói bốn nghiệp như hắc báo v.v… chúng được kiến lập như thế nào?

Đáp:

Nghiệp thiện trong cõi sắc

Là bạch có báo bạch

Hắc, bạch trong cõi dục

Cùng hắc nói bất tịnh.

Nghiệp thiện trong cõi sắc, Là bạch có báo bạch: Nghĩa là nghiệp thiện của cõi sắc là hoàn toàn không có sân hận và lìa hắc.

Hỏi: Nghiệp của cõi vô sắc là hơn, không phải là cõi sắc, vì sao không nói?

Đáp: Vì hai báo. Cõi sắc thọ nhận trung ấm và sinh ấm, cõi vô sắc chỉ có sinh ấm. Cõi sắc, cõi vô sắc, về thọ báo: Có thể thấy, không thể thấy, có đối, không đối cũng như vậy. Lại vì cõi sắc có thọ báo của ba nghiệp, năm ấm và mười nghiệp đạo thiện, nên nói.

Hắc, bạch trong cõi dục: Nghĩa là nơi cõi dục nghiệp thiện xen tạp với nghiệp bất thiện, nên nói là hắc, bạch. Lại nữa, trong một thân có thể tạo được hai thứ nghiệp, cũng là hai thứ báo, vì thế nói như vậy. Không phải hắc tức là bạch, vì là tướng khác của hắc.

Cùng hắc nói bất tịnh: Nghĩa là nghiệp bất thiện nói là hắc. Nghiệp ấy có hắc báo và nhân của nghiệp ấy là cấu uế, vì cấu uế nên nói là hắc, và vì thô kém đáng ghét nên nói là hắc báo. Chỉ có hắc của thô kém, không phải là hắc của cấu uế, vì không nhiễm ô.

Nếu có tư hay hoại

Các nghiệp kia trọn đủ

Đây nói đạo vô ngại

Gọi là nghiệp thứ tư.

Nếu đạo có thể diệt ba nghiệp kia, đạo ấy tương ưng với tư, là nghiệp thứ tư. Vì nghiệp này không nhiễm ô, nên không hắc. Vì không thể vui nên không bạch, không rơi vào cõi, nên không có báo.

Hỏi: Là những nghiệp nào? Có bao nhiêu tư đoạn trừ?

Đáp:

Nói có mười hai tư

Dứt trừ nghiệp hắc báo

Bốn tư hay đoạn bạch

Một tư, hai cùng lìa.

Nói có mười hai tư, Dứt trừ nghiệp hắc báo: Nghĩa là nghiệp hắc báo do mười hai tư dứt trừ. Mười hai tư gồm có bốn pháp nhẫn của kiến đạo tương ưng với tư và tám đạo vô ngại của cõi dục đã lìa dục tương ưng với tư.

Bốn tư hay đoạn bạch: Nghĩa là bốn tư dứt trừ nghiệp bạch. Bốn tư: Là đạo vô ngại thứ chín đã lìa dục của thiền thứ nhất tương ưng với tư. Cho đến đạo vô ngại lìa dục của thiền thứ tư cũng vậy, vì đạo vô gián sau cùng dứt trừ pháp hữu lậu thiện.

Một tư, hai cùng lìa: Nghĩa là đạo vô gián thứ chín đã lìa dục của cõi dục tương ưng với tư, đã diệt trừ nghiệp hắc và nghiệp hắc bạch.

Hỏi: Đức Thế Tôn nói về khúc (Cong vạy) uế trược (Ô trược). Sự việc là thế nào?

Đáp:

Khúc từ dua nịnh khởi

Uế từ sân hận sinh

Dục sinh gọi là trược

Lời Thế Tôn đã nói.

Khúc từ dua nịnh khởi: Nghĩa là dua nịnh nói là khúc (cong vạy). Đối với pháp của tướng khúc dấy khởi nghiệp gọi là khúc, là quả của sự cong vạy kia. Dua nịnh là không ngay thẳng, nên gọi là cong vạy. Vì dua nịnh đã ngăn ngại nên khó ra khỏi sinh tử để vào Niết-bàn, ví như khúc gỗ cong.

Uế từ sân hận sinh: Nghĩa là hai thứ cấu uế: Tự thân cấu uế và thân người khác cấu uế. Sân hận gọi là cấu uế. Đối với pháp của tướng cấu uế dấy khởi nghiệp gọi là cấu uế, là quả của pháp ấy.

Dục sinh gọi là trược, Lời Thế Tôn đã nói: Dục là tánh nhiễm ô, nên gọi là trược (ô trược). Nếu nghiệp theo dục dấy khởi gọi là trược, là quả của dục kia. Vì quả giống nhân nên nói như thế.

Hỏi: Có bao nhiêu thứ đẳng khởi?

Đáp:

Đẳng khởi có hai thứ

Nhân và sát-na kia

Như trước đã hồi chuyển

Nhân này cũng chuyển theo.

Đẳng khởi có hai thứ, Nhân và sát-na kia: Tức có hai thứ đẳng khởi. Nhân đẳng khởi: Nghĩa là đối tượng tạo tác của ta nên tạo tác. Sát-na đẳng khởi: Nghĩa là nếu tâm trụ, tức tạo nên nghiệp kia.

Hỏi: Hai đẳng khởi này, những gì là chuyển, những gì là tùy chuyển?

Đáp: Chuyển là đối với nhân đẳng khởi kia trước gọi là chuyển, sau gọi là tùy chuyển, sát-na đẳng khởi nói là tùy chuyển.

Hỏi: Trong sáu thức thân, những gì là chuyển, những gì là tùy chuyển?

Đáp:

Nếu thức tu đạo đoạn

Ở ý có hai thứ

Năm thứ tâm nói một

Ngoài ra nói hữu lậu.

Nếu thức tu đạo đoạn, Ở ý có hai thứ: Nghĩa là tu đạo đoạn trừ ý thức cũng là chuyển, cũng là tùy chuyển, do ý thức kia đều cùng có thể khởi nghiệp. Nghiệp ấy cũng gồm thiện, bất thiện, vô ký. Nghiệp thiện ấy chuyển tức là thiện tùy chuyển. Bất thiện, vô ký cũng như vậy. Vô ký là oai nghi, công xảo. Tâm oai nghi kia chuyển tức công xảo kia cũng tùy chuyển. Tâm thiện, nhiễm ô, hiện ở trước đã trừ bỏ là không đúng, do đã khởi rất nhanh chóng, như quay thành vòng tròn lửa. Tâm công xảo cũng như vậy. Trước đã nói tâm báo sinh không khởi nghiệp của thân khẩu.

Năm thứ tâm nói một: Nghĩa là năm thức thân nói là tùy chuyển thọ nhận tự tạo tác, không phải chuyển, không có tư duy.

Ngoài ra nói hữu lậu: Nghĩa là tâm của kiến đạo đoạn trừ nói là ngoài ra. Tâm ấy là chuyển, vì có thể làm nhân đẳng khởi, nên không phải là tùy chuyển. Không có do tâm của kiến đạo đoạn trừ đẳng khởi nghiệp thân, khẩu, là do vi tế, vì hướng về bên trong. Nếu lại là tâm của kiến đạo đoạn trừ đẳng khởi nghiệp thân khẩu, thì nghiệp ấy là do kiến đạo đoạn trừ, là do tu đạo đoạn trừ, hay là do cả hai đoạn trừ? Nếu nói là do kiến đạo đoạn trừ, thì không có sắc do kiến đạo đoạn trừ, vì minh và vô minh là trái nhau. Nếu nói là do tu đạo đoạn trừ, thì pháp của tu đạo đoạn trừ nhưng tâm của kiến đạo đoạn trừ đẳng khởi, điều này không thích hợp. Nếu nói là cả hai đạo cùng đoạn trừ, thì hữu có thể phân tích, việc này cũng không đúng. Như Khế kinh nói, nghiệp thân khẩu của người tà kiến nói là kiến. Nghiệp ấy cũng được nói là nhân đẳng khởi.

Hỏi: Những gì là tịnh?

Đáp:

Tất cả hành diệu tịnh

Thân khẩu vô học mãn

Gọi là ý viên mãn

Tức là tâm vô học.

Tất cả hành diệu tịnh: Nghĩa là nếu hiện có hành diệu thì tất cả nói là tịnh. Nếu thân hành diệu nói là thân tịnh. Cứ so sánh như vậy.

Hỏi: Pháp hữu lậu có cấu uế, vì sao nói là tịnh?

Đáp: Vì cùng trái với phiền não, vì dẫn dắt đến tịnh của đệ nhất nghĩa, nên nói là tịnh.

Hỏi: Thế nào là mãn?

Đáp: Thân khẩu vô học mãn: Tức hành diệu của thân khẩu vô học nói là mãn.

Gọi là ý viên mãn, Tức là tâm vô học: Tức tâm vô học nói là ý mãn, vì là tướng của Mâu-ni.

Hỏi: Vì sao sắc ấm, thức ấm nói là mãn, không phải là ấm khác?

Đáp: Vì sự thô, tế. Tâm là đệ nhất nghĩa mãn, vì so sánh với nghiệp thân khẩu nên nhận biết về dừng dứt, tăng rộng. Phiền não nóng bức không làm tổn hại, vì ý ngữ không hủy hoại. Thế nên nói là A-la-hán mãn, không phải quả vị khác.

Hỏi: Hành diệu và tịnh mãn có sai biệt gì?

Đáp: Vì đối tượng tạo tác thiện nên nói là hành diệu. Do thanh tịnh nên nói là tịnh. Do Mâu-ni nên nói là viên mãn. Lại nữa, vì quả ái nên nói hành diệu. Do lìa phiền não nên nói là tịnh. Do lìa si nên nói là mãn.

Đã nói nghiệp. Quả của nghiệp nay sẽ nói.

Tương tợ nói quả y

Báo thì không tương tợ

Quả tịnh và bất tịnh

Đây tức nói là báo.

Quả y: Nghĩa là thiện sinh thiện. So sánh như vậy nên biết là nói nhân tự phần. Quả báo: Nghĩa là quả tịnh, bất tịnh như trước đã nói. Nhân báo cùng với quả tương tợ là quả y. Không tương tợ là nhân thiện, bất thiện, quả vô ký.

Gọi là quả giải thoát

Nói lìa dục thấy chân

Do công sức đạt được

Là nói quả công dụng.

Gọi là quả giải thoát, Nói lìa dục thấy chân: Quả giải thoát nghĩa là đoạn trừ.

Do công sức đạt được, Là nói quả công dụng: Nghĩa là nếu quả do công sức chiêu tập cùng đoạn trừ là nói quả công dụng.

Các pháp vô số tướng

Quả kia chỉ một tướng

Là nói quả tăng thượng

Trừ pháp đã khởi trước.

Nếu các pháp có nhiều tướng, giống nhau, không giống nhau, nhưng chỉ có một quả, đó là quả tăng thượng, là nhân sở tác.

Trừ pháp đã khởi trước: Nghĩa là trừ đời trước đối với đời sau, không phải là quả.

Hỏi: Quả tăng thượng với quả công dụng có sai biệt gì?

Đáp: Công việc làm đã thành là quả công dụng. Thọ dụng là quả tăng thượng. Nghĩa là sự gieo trồng có hai quả: Thọ dụng là có quả tăng thượng.

Đã nói chung về quả. Nếu quả kia là nghiệp hữu lậu nay sẽ nói.

Đoạn kiết nghiệp hữu lậu

Năm quả là có quả

Đạo vô lậu dứt kiết

Kia tức có bốn quả.

Đoạn kiết nghiệp hữu lậu, Năm quả là có quả: Nghĩa là đạo thế tục đoạn trừ kiết nơi nghiệp kia có năm quả. Nghiệp ấy về sau tương tợ và tăng thượng là quả y, báo của nghiệp ấy là quả báo. Kiết kia đã đoạn trừ là quả giải thoát. Nghiệp kia đã gây ra và đoạn trừ là quả công dụng. Trừ tự mình, tất cả pháp còn lại là quả tăng thượng.

Đạo vô lậu dứt kiết, Kia tức có bốn quả: Tức đạo vô lậu đoạn trừ kiết nơi nghiệp kia có bốn quả, là trừ quả báo, quả còn lại như trước đã nói.

Nghiệp bất thiện bốn quả

Cũng thiện hữu lậu khác

Vô lậu khác có ba

Nghiệp vô ký cũng vậy.

Nghiệp bất thiện bốn quả, Cũng thiện hữu lậu khác: Nghĩa là nghiệp bất thiện có bốn quả, trừ đạo đoạn trừ kiết. Các nghiệp thiện hữu lậu khác nghĩa là đạo phương tiện, đạo giải thoát, đạo thắng tấn và các tuệ như văn v.v… Các nghiệp này cũng có bốn quả, tức năm quả trừ quả giải thoát.

Vô lậu khác có ba, Nghiệp vô ký cũng vậy: Nghĩa là trừ vô lậu đoạn trừ kiết, các nghiệp vô lậu khác và nghiệp vô ký có ba quả, tức trừ quả báo và quả giải thoát.

Bốn, hai và ba quả

Ba, bốn cũng lại hai

Ba, hai cùng ba tịnh

Đây nói là quả nghiệp.

Nghiệp thiện: Là dùng pháp thiện làm bốn quả, trừ quả báo, dùng bất thiện làm hai quả là quả công dụng và quả tăng thượng, dùng vô ký làm ba quả, tức trừ quả y và quả giải thoát.

Nghiệp bất thiện: Là dùng pháp bất thiện làm ba quả, là trừ quả báo, quả giải thoát, dùng pháp vô ký làm bốn quả, tức trừ quả giải thoát. Nhân tự phần, nhân biến, lấy thân kiến, biên kiến, pháp vô ký của cõi dục làm quả y. Dùng pháp thiện làm hai quả là quả công dụng và quả tăng thượng.

Nghiệp vô ký: Là dùng pháp vô ký làm ba quả, tức quả y, quả công dụng và quả tăng thượng, dùng thiện làm hai quả là quả công dụng và quả tăng thượng, dùng bất thiện làm ba quả, tức trừ quả báo và quả giải thoát.

Quá khứ tất cả bốn

Trung vị lai cũng vậy

Trung nơi trung nói hai

Vị sinh vị sinh ba.

Quá khứ tất cả bốn: Nghĩa là nghiệp quá khứ dùng tất cả pháp của ba đời làm bốn quả, tức trừ quả giải thoát, vì không rơi vào đời.

Trung vị lai cũng vậy: Nghĩa là nghiệp hiện tại dùng pháp vị lai làm bốn quả như trước đã nói.

Trung nơi trung nói hai: Nghĩa là nghiệp hiện tại dùng pháp hiện tại làm hai quả, là quả công dụng và quả tăng thượng.

Vị sinh vị sinh ba: Nghĩa là nghiệp vị lai dùng pháp vị lai làm ba quả, là quả báo, quả công dụng và quả tăng thượng.

Tự địa tự địa bốn

Hoặc dùng tha địa hai

Nếu chánh tư duy địa

Cũng có quả giải thoát.

Tự địa tự địa bốn: Nghĩa là nghiệp của tự địa dùng pháp của tự địa làm bốn quả, là trừ quả giải thoát. Như hệ thuộc cõi dục dùng pháp hệ thuộc cõi dục, cho đến phi tưởng phi phi tưởng cũng như vậy.

Hoặc dùng tha địa hai: Nghĩa là nghiệp của tha địa dùng pháp của tha địa làm hai quả, là quả công dụng và quả tăng thượng. Như nghiệp vô lậu dùng pháp vô lậu của tha dùng địa làm quả y.

Nếu chánh tư duy địa, Cũng có quả giải thoát: Nghĩa là địa định hoặc có quả giải thoát, tức thuộc về đạo vô ngại.

Đều dùng tất cả ba

Ba, hai, một lại năm

Hai, hai nói thứ lớp

Nói là nghiệp như học v.v…

Nghiệp học dùng học làm ba quả, là quả y, quả công dụng, quả tăng thượng. Dùng vô học làm ba quả cũng như vậy. Dùng phi học phi vô học làm ba quả, là quả giải thoát, quả công dụng, quả tăng thượng.

Nghiệp vô học dùng vô học làm ba quả, là quả y, quả công dụng, quả tăng thượng. Dùng phi học phi vô học làm hai quả, là quả công dụng và quả tăng thượng. Dùng học làm một quả, là quả tăng thượng.

Nghiệp phi học phi vô học dùng phi học phi vô học làm năm quả. Dùng học làm hai quả, là quả công dụng và quả tăng thượng. Dùng vô học làm hai quả cũng như vậy.

Là nói ba, bốn, một

Bốn, ba cùng với hai

Bốn lại một cũng hai

Là nói nghiệp như kiến v.v…

Nghiệp do kiến đạo đoạn trừ dùng pháp do kiến đạo đoạn trừ làm ba quả, là quả y, quả công dụng, quả tăng thượng. Dùng pháp do tu đạo đoạn trừ làm bốn quả, tức trừ quả giải thoát. Dùng pháp không đoạn làm một quả là quả tăng thượng.

Nghiệp do tu đạo đoạn trừ dùng pháp do tu đạo đoạn trừ làm bốn quả, tức trừ quả giải thoát. Dùng pháp không đoạn làm ba quả, là quả giải thoát, quả công dụng, quả tăng thượng. Dùng pháp do kiến đạo đoạn trừ làm hai quả, là quả công dụng và quả tăng thượng.

Nghiệp không đoạn trừ dùng pháp không đoạn trừ làm bốn quả, là trừ quả báo. Dùng pháp do kiến đạo đoạn trừ làm một quả, là quả tăng thượng. Dùng pháp do tu đạo đoạn trừ làm hai quả, là quả công dụng và quả tăng thượng.

Đã nói về nghiệp có quả. Nghiệp thân, khẩu do bốn đại tạo nay sẽ nói.

Tự địa nếu có đại

Chỗ dựa nghiệp thân, khẩu

Vô lậu tùy sức đắc

Đây tức là quả kia.

Tự địa nếu có đại, Chỗ dựa nghiệp thân khẩu: Nghĩa là nếu nghiệp thân khẩu của cõi dục, tức là do bốn đại của cõi dục tạo. Nghiệp thân khẩu của địa thiền thứ nhất thuộc cõi sắc, tức do bốn đại của thiền thứ nhất tạo. Cho đến thiền thứ tư cũng như vậy. Do tùy theo cõi, vì phiền não kết hợp.

Vô lậu tùy sức đắc, Đây tức là quả kia: Nghĩa là nghiệp thân khẩu vô lậu, tùy theo sức đã nương dựa nên được, tức là bốn đại của địa kia tạo. Nếu sinh nơi cõi dục, đạt được chánh thọ vô lậu của thiền thứ nhất, cho đến nghiệp thân khẩu kia của thiền thứ tư, tức là bốn đại của cõi dục tạo. Sinh nơi tất cả địa cũng như vậy, vì không rơi vào cõi, vì không phải phiền não kết hợp. Nếu các quả Tu-đà-hoàn, Tư-đà-hàm, A-na-hàm cùng hướng đến phẩm tỷ trí, đạo pháp trí, Bala-mật của Thanh văn, Phật-bích-chi, Phật, dựa vào thân cõi dục hiện ở trước, thì tất cả nghiệp kia đều do bốn đại của cõi dục tạo. Nếu dựa nơi thân của cõi sắc hiện ở trước, thì tất cả nghiệp kia đều do bốn đại của cõi sắc tạo. Hàng hữu học sinh nơi cõi vô sắc, dựa vào năm địa thành tựu giới vị lai. Nếu trước ở nơi địa kia khởi đạo vô lậu, tức dựa vào quá khứ của địa kia. Nếu vị kia được quả A-la-hán, tức vị ấy đã xả giới học, được giới vô học vị lai, dựa vào năm địa.

Hỏi: Đức Thế Tôn nói ba chướng. Ba chướng ấy là thế nào?

Đáp:

Nghiệp vô gián không cứu

Sinh rộng các phiền não

Nẻo ác thọ báo ác

Chướng ngại cần nên biết.

Ba chướng là nghiệp chướng, phiền não chướng và báo chướng. Nghĩa là vì chướng ngại Thánh đạo và phương tiện của Thánh đạo nên nói là chướng. Trừ ba chướng này, pháp khác tuy là chướng, nhưng ba chướng này có năm nhân duyên dễ thấy, dễ biết, đó là xứ, nẻo, sinh, quả, người.

Nghiệp chướng: Nghĩa là năm nghiệp vô gián. Đó là hại cha, hại mẹ, hại A-la-hán, phá hoại Tăng và làm thân Phật chảy máu. Báo của nghiệp vô gián này tất sinh trong địa ngục, cho nên nói là vô gián. Vì có hai nhân duyên nên bị vô gián, là phản bội ân nghĩa và làm hoại ruộng phước. Tội kia hại cha mẹ là bội ân, vô gián còn lại là làm hoại ruộng phước. Tội lớn hơn hết đó là phá hoại Tăng, thứ đến làm thân Phật chảy máu, tiếp đấy là hại A-lahán, thứ đến là hại mẹ hại cha. Về nghĩa này trong phẩm Tạp sẽ nói rộng.

Phiền não chướng: Nghĩa là phiền não công sức và nhanh nhạy. Có chúng sinh có phiền não công sức nhưng không nhanh nhạy, nên nêu ra bốn trường hợp: (1) Nhiều công sức nhưng không nhanh nhạy: Nghĩa là phiền não thường hành thấp. (2) Nhanh nhạy nhưng không nhiều công sức: Nghĩa là phiền não tăng thượng, không thường hành. (3) Nhiều công sức cũng là nhanh nhạy: Nghĩa là phiền não tăng thượng, thường hiện hành. (4) Không nhiều công sức cũng không nhanh nhạy: Nghĩa là phiền não kém không thường hành. Phiền não kia kém không nhanh nhạy.

Đây là nói phiền não chướng, vì dựa vào kiết phẩm hạ liền có kiết phẩm trung, dựa vào kiết phẩm trung liền có gia tăng. Nếu phiền não nhanh nhạy nhưng không nhiều công sức thì không phải là chướng, vì không thường hành. Nếu cùng có, là tất cả ác. Không cùng có, là tất cả vượt hơn. Nên biết căn thiện cũng như vậy. Do phiền não hiện hành nên kiến lập chướng. Không phải là thành tựu, tức do tất cả chúng sinh đều tạo thành phiền não, tùy theo chỗ ứng hợp. Phiền não chướng kia nên biết là hạng huỳnh môn khí hư, Phú-lan-na v.v… Lại nói Nan-đà, Ương-quật-ma, Uất-tỳ-la-cadiếp. So sánh như vậy để nói là do diệu lực nên các vị kia được kiến đế. Xá-lợi-phất v.v… không phải là cảnh giới ấy.

Báo chướng: Nghĩa là xứ đường ác như châu Uất-đơn-việt, trời Vô tưởng.

Hỏi: Vì sao chướng này là ác rất lớn?

Đáp:

Gọi là phiền não chướng

Là nói ác rất lớn

Nghiệp vô gián là trung

Báo chướng tức là nhẹ.

Trong ba chướng, phiền não chướng là điều ác lớn hơn hết, tiếp theo là nghiệp chướng, sau đấy là báo chướng. Do phiền não chướng có thể chuyển thành nghiệp chướng, nghiệp chướng chuyển thành báo chướng. Lại có thuyết nói báo chướng là điều ác rất lớn, vì nơi lúc tất cả nhân thì có thể chuyển, lúc là quả thì không thể chuyển, điều này là không đúng. Vì nhân kia, hoặc có phiền não chướng tạo thành, hoặc nghiệp chướng – báo chướng, hoặc phiền não chướng – nghiệp chướng, hoặc phiền não chướng – báo chướng, không có nghiệp chướng – báo chướng đều cùng tạo thành, vì nhân quả không đều cùng có. Nghiệp chướng kia là ở ba phương, còn phiền não chướng và báo chướng thì ở khắp năm nẻo.

Hỏi: Như đã nói về nghiệp vô gián, tội rất lớn của nghiệp ấy là phá hoại Tăng. Vậy phá hoại Tăng có tánh gì?

Đáp:

Là tánh không hòa hợp

Nên biết là Tăng hoại

Vô ký không ẩn mất

Là hành bất tương ưng.

Tăng hoại: Là tánh không hòa hợp.

Vô ký không ẩn mất, Là hành bất tương ưng: Tức thuộc về ấm. Tội phá hoại Tăng là nói dối.

Hỏi: Những ai thành tựu?

Đáp:

Bị hoại tức là Tăng

Tội là người hoại Tăng

Kia thọ báo một kiếp

Trong địa ngục Vô trạch.

Bị hoại tức là Tăng, Tội là người hoại Tăng: Nghĩa là Tăng đã bị phá hoại, thì người phá hoại Tăng đã tạo thành tội.

Kia thọ báo một kiếp, Trong địa ngục Vô trạch: Nghĩa là tội phá hoại Tăng phải nhận lấy báo là một kiếp đọa trong địa ngục Vô trạch. Nếu gây tạo chủng loại hành ác khác thì thọ nhận báo ở địa ngục khác, địa ngục kia hoặc là Vô trạch. Người ấy về sau không thể phá hoại Tăng. Còn như sau khi phá hoại Tăng lại gây tạo hành ác khác, tất cả tội như thế đều là quả của địa ngục Vô trạch. Nếu là kẻ hành nhiều hành ác thì thân được thọ nhận tuy rộng lớn nhưng mềm yếu phải chịu rất nhiều khổ. Nghiệp vô gián khác, về sau không thể phá hoại Tăng. Vì kẻ phá hoại Tăng chủ yếu là thuộc tộc họ đoan nghiêm, có giữ giới, học rộng, có biện tài. Phải là người như vậy mới có thể phá hoại Tăng, do kẻ ấy tự lập làm Đại sư. Còn người phạm giới không phải là tăng thượng.

Hỏi: Thế nào là phá hoại Tăng?

Đáp:

Đại sư cùng đạo này

Các Tỳ-kheo nhẫn khác

Phá hoại hòa hợp Tăng

Là kiến hành tăng thượng.

Đại sư cùng đạo này, Các Tỳ-kheo nhẫn khác, Phá hoại hòa hợp Tăng: Nghĩa là Tỳ-kheo khởi lên ý tưởng như thế này: “Đề-bàđạt-đa là Đại sư của ta, không phải là Cù-đàm”. Những kẻ kia đặt ra năm pháp là đạo, không phải là tám chánh đạo, nên biết là phá hoại Tăng. Lại có chỗ nói: Thọ nhận thẻ là khác, còn thấy nghe thì cùng với Tăng.

Hỏi: Những người nào phá Tăng?

Đáp: Là kiến hành tăng thượng: Nghĩa là người kiến hành phá hoại Tăng, do có ý tưởng xấu ác, không phải là người ái hành vốn khinh động.

Hỏi: Người tại gia phá hoại Tăng hay là người xuất gia?

Đáp: Tỳ-kheo thọ nhận giới cụ túc là Tỳ-kheo phá hoại Tăng, không phải là kẻ tại gia, không phải là Sa-di, không phải là Tỳ-kheoni. Nếu tâm người ấy trụ nơi phá hoại Tăng, tức tâm ấy là quả có đủ sáu thức thân, mỗi mỗi thức thân đều hiện ở trước. Phá hoại trí giác của Tăng cũng như vậy.

Hỏi: Nơi xứ nào với bao nhiêu người là phá hoại Tăng?

Đáp:

Ba phương ít nhất tám

Đây tức yết-ma hoại

Diêm-phù-đề đến chín

Tức là pháp luân hoại.

Ba phương ít nhất tám, Đây tức yết-ma hoại: Nghĩa là nơi ba châu thiên hạ, có phá hoại yết-ma Tăng.

Ít nhất là tám, tức lấy bốn người gọi là Tăng, không phải là ba người. Nếu ở trong giới nội của một trụ xứ có hai bộ Tăng, mỗi bộ đều hành bố-tát yết-ma riêng, nên biết là phá hoại Tăng (Phá hoại yết-ma Tăng).

Hỏi: Nơi xứ nào gồm bao nhiêu người gọi là phá hoại pháp luân Tăng?

Đáp: Diêm-phù-đề đến chín, Tức là pháp luân hoại: Nghĩa là phá hoại pháp luân Tăng là ở nơi châu Diêm-phù-đề, không phải là xứ khác, vì ở châu này có đạo thì có dị đạo, ở đây có Đại sư thì có Dị sư.

Ít nhất đến chín người, cho đến hai bộ Tăng, mỗi bộ đều riêng khác. Có một người là chỗ đồng của Tăng, là người giáo huấn Tăng khiến Tăng tùy thuận. Kẻ giáo huấn bộ Tăng không hổ, không thẹn là Đề-bà-đạt-đa.

Hỏi: Phá hoại Tăng là Thánh Tăng hay là phàm phu Tăng?

Đáp: Là phàm phu Tăng phá hoại, không phải là Thánh nhân, do ở nơi tụ chánh định, vì tịnh không hoại. Lại có thuyết nói, phàm phu đắc nhẫn cũng không phá hoại Tăng, vì đã quyết định nhập Thánh tăng, vì Đức Thế Tôn không hoại quyến thuộc.

Hỏi: Trụ nơi phần nào thì Tăng không hoại?

Đáp:

Không kiết giới trước sau

Mâu-ni đã Niết-bàn

Lúc dứt thịt chưa khởi

Cùng không hai đệ nhất

Ở trong sáu thời này

Thì không hoại pháp luân.

Có sáu thời Tăng không hoại: Nghĩa là không kiết giới. Về nhân duyên kiết giới, trước đã nói. Cũng không phải trước, cũng không phải sau. Vì trong hai phần này Tăng chỉ có một vị. Cũng không phải sau khi Đại sư nhập Niết-bàn, vì không có Sư khác. Cũng không phải lúc chưa khởi giới ác, kiến ác, dứt bỏ thịt. Cũng không phải là lúc chưa kiến lập đôi thứ nhất, do Tăng bị phá hoại không trải qua một đêm biệt trụ, vì đôi thứ nhất đã trở lại hòa hợp.

Hoặc có người muốn khiến có bảy nhân duyên Tăng không hoại: Nghĩa là Đại sư ở trong chúng, vì chúng ấy không có uy quang. Không phải tất cả chư Phật đều có sự kiện phá hoại Tăng, do hành.

Hỏi: Năm nghiệp vô gián này, những nghiệp nào là ác lớn nhất?

Đáp:

Nói dối phá hoại Tăng

Nơi các nghiệp ác nhất

Tư trong hữu thứ nhất

Là nói quả rất lớn.

Nói dối phá hoại Tăng, Nơi các nghiệp ác nhất: Tức nói dối để phá hoại Tăng đó là rất ác, do là thân chuyển pháp. Pháp là thứ được Đức Phật trân trọng, do pháp kia là phương tiện rộng để chuyển. Phá hoại Tăng là gây não loạn đại chúng. Nếu Tăng bị phá hoại thì người chưa vượt lên ly sinh không thể vượt lên ly sinh, cũng không đắc quả, cũng không ngồi thiền, sự việc học hỏi tư duy cũng không phát sinh, trong đại thiên thế giới không chuyển pháp luân. Nếu Tăng trở lại hòa hợp, thì người chưa vượt lên ly sinh tức vượt lên ly sinh và đắc quả, lìa dục, lậu tận, tọa thiền, sự việc học hỏi tư duy phát sinh, pháp luân lại được chuyển khắp đại thiên thế giới.

Hỏi: Ở đây nêu nói dối là tội rất lớn, còn nơi chỗ khác lại nói ý nghiệp và tà kiến là tội rất lớn, vậy chúng có sai biệt gì?

Đáp: Trong năm tội vô gián thì nói dối là tội rất lớn. Nơi ba nghiệp thì ý nghiệp là nghiệp rất lớn. Trong năm kiến thì tà kiến là kiến chấp rất lớn.

Lại nữa, vì báo rộng nên nói dối là tội rất lớn. Vì não loạn đại chúng nên ý nghiệp là tội rất lớn. Vì đoạn dứt căn thiện nên tà kiến là tội rất lớn.

Hỏi: Những nghiệp nào có quả rất lớn?

Đáp: Tư trong hữu thứ nhất, Là nói quả rất lớn: Vì tư đó ở nơi xứ phi tưởng phi phi tưởng có thọ mạng là tám vạn kiếp, do là quả báo nên nói như thế. Quả giải thoát là tam muội kim cang tương ưng với tư nên là rất lớn, vì tư ấy đã vĩnh viễn dứt trừ tất cả phiền não và đắc quả.

Lại có chỗ nói: Một tư đã gieo trồng nơi tám vạn kiếp, sau đấy nhiều tư hoàn thành viên mãn. Như họa sư trước hết dùng một màu sắc để phác thảo mô hình, sau đấy mới bố trí tô đậm các màu sắc sáng rỡ.

Lại có thuyết cho: Một thời chánh thọ, một hành, một duyên, nên rất nhiều tư được hiện ở trước, trong ấy hoặc có tư nhận lấy thọ mạng mười ngàn kiếp. Có thọ mạng ba mươi ngàn kiếp, bốn mươi ngàn kiếp, đây là nói số kiếp lớn.

HẾT – QUYỂN 3

Pages: 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11