SỐ 1552/11
LUẬN TẠP A TỲ ĐÀM TÂM
Tác giả: Tôn giả Pháp Cứu.
Hán dịch: Đời Lưu Tống, Tam tạng Tăng Già Bạt Ma, người Thiên Trúc
Việt dịch: Cư sĩ Nguyên Huệ

 

QUYỂN 1

Phẩm MỞ ĐẦU

Thuở xưa các Đại sư

Nơi các pháp sâu xa

Đa văn kiến Thánh tích

Đã nói tất cả nghĩa.

Tinh tấn phương tiện cầu

Chưa từng được phần khác

Luận A Tỳ Đàm Tâm

Bậc Đa văn đã nói.

Hoặc có rất tổng lược

Hoặc lại rộng vô lượng

Vô số thuyết như vậy

Không thuận Tu-đa-la.

Sáng rõ khéo tùy thuận

Chỉ luận này là hơn

Không dựa Hư không luận

Người trí còn không rõ.

Rất lược khó hiểu biết

Quá rộng khiến trí thoái

Tôi nay ở giữa nêu

Nói rộng nghĩa trang nghiêm.

Nói rộng tiếng Phạn là Tỳ-bà-sa. Do trong Tỳ Bà Sa (Luận A Tỳ Đạt Ma Đại Tỳ Bà Sa) nghĩa trang nghiêm đã được nêu rõ ở trong ấy. Các Sư giải thích như Pháp Thắng nơi Luận A Tỳ Đàm Tâm, thì nghĩa rộng lược không đồng. Tức Sư Pháp Thắng đã giải thích rất là tóm tắt. Sư Ưu Bà Phiến Đa đã đem tám ngàn kệ để giải thích. Lại có một Sư đã dùng đến một vạn hai ngàn kệ để giải thích hai bộ luận này, được gọi là rộng. Sư Hòa Tu Bàn Đầu dùng sáu ngàn kệ để giải thích. Về pháp vi mật sâu rộng huyền diệu, không vướng chấp nơi ba Tạng là vì không dựa vào Hư không luận.

Kỉnh lễ Pháp Thắng tôn

Đã nói tôi kính nhận

Đạt Ma Đa La, Tôi

Nói điều chưa từng nói.

Đệ tử đều khuyến thỉnh

Tỳ-đàm Tỳ-bà-sa

Chuyên tinh tư duy nghĩa

Chúng Hiền đều nên học

Chánh yếu dễ hiểu rõ

Lìa não độ quần sinh.

Lại nữa, vì hiển hiện pháp thanh tịnh, đối trị phiền não, vì dựa vào A-tỳ-đàm Tỳ-bà-sa là việc rất thích hợp, nên Đại đức Pháp Thắng và Tôi là Đạt Ma Đa La đã cùng trang nghiêm bộ Tạp A Tỳ Đàm Tâm, lìa các thứ rộng lược để nêu bày về nghĩa chân thật.

Hỏi: Hãy tạm gác lại nghĩa chân thật, xin hỏi thế nào gọi là A-tỳ-đàm? Thế nào gọi là Tỳ-bà-sa?

Đáp: Đấng Mâu-ni đã thuyết giảng về nghĩa vị thâm diệu của các đế, như đệ nhất nghĩa đế, tuyên dương làm rõ về nghĩa của tánh chân thật, gọi là A-tỳ-đàm. Lại có thể hiển hiện về nghĩa của Tu-đala, như đèn chiếu sáng là tánh của tuệ căn. Nếu nhận lấy tự tướng tức là hiểu biết pháp. A-tỳ-đàm này nếu nhận lấy các vật dụng là tánh của năm ấm, thì gọi là tối thắng trong các luận. Do hướng đến giải thoát, đó gọi là A-tỳ-đàm.

Lại nữa, Tỳ-bà-sa là như đấng Mâu-ni đã giảng nói về nghĩa của tánh chân thật. Sự phân biệt hỏi đáp nhằm nghiên cứu thông suốt chỗ chân yếu, tùy thuận nơi Khế kinh, khai mở an vui cho muôn người. Đó gọi là tánh, tướng, danh tự, địa, nương dựa, hành, duyên, niệm, trí, căn, định, thế thiện cùng nghĩa giới học, kiến đế đoạn trừ, duyên nơi phương tiện đắc, cũng là lìa dục đắc. Sinh khởi đầu tiên ở xứ nào, gồm thâu nhân tương ưng, duyên với quả, có quả v.v… Vô lượng các thứ nghĩa của các pháp sinh, thuyết có vô số loại, vô số thuyết. Đó gọi là Luận Tỳ-bà-sa.

Như Đức Phật Thế Tôn đã lược nói về hai trí là pháp trí và tỷ trí, Tỳ-bà-sa thì luận về vô lượng phân biệt. Nghĩa là pháp trí kia là tánh của tuệ vô lậu, là tướng của trí, gọi là đầu tiên nhận biết pháp, nên gọi là pháp trí. Ở nơi sáu địa, dựa vào mười sáu hành nơi cõi dục làm cảnh giới, cùng bốn đế, bốn niệm xứ, trí ấn, trí tướng, ba căn, ba tam muội tương ưng (Ba căn: Là hỷ, lạc, xả. Ba tam muội: Là có giác có quán, không giác có quán, không giác không quán) gắn liền với ba đời, duyên nơi ba đời và lìa ba đời. Là khéo duyên nơi ba thứ (Thiện, bất thiện, vô ký) là không hệ thuộc, duyên nơi cõi dục và không hệ thuộc. Là học, vô học, duyên nơi ba thứ (Học, vô học, phi học phi vô học), là bất đoạn duyên nơi ba loại (Kiến đế đoạn, tu đạo đoạn và không đoạn).

Duyên danh và duyên nghĩa, phương tiện đắc, lìa dục đắc, từ cõi dục khởi pháp của pháp giới, nhập, thuộc về hành ấm, ý giới, pháp giới, ý thức giới tương ưng.

Tự tánh của ba nhân, ba nhân đã sinh ra bốn duyên. Tự tánh nơi bốn duyên đã sinh là bắt đầu sinh quả y vô lậu và quả công dụng.

Câu sinh là chỉ có quả công dụng. Có quả nghĩa là ba quả, tức hai quả trước và quả giải thoát, không nói quả tăng thượng. Tất cả pháp như thế cần nên biết.

Hỏi: Đã nhận biết căn bản của duyên khởi lâu xa, A-tỳ-đàm Tỳbà-sa đều nói đến sự đối trị của duyên khởi kia, vì sao nói là nghĩa chân thật?

Đáp: Vì nhận biết nghĩa chân thật. Nếu không phân biệt các luận, thì khó có thể hiểu biết rõ. Do không nhận biết nên thật trí không sinh. Vì thật trí không sinh nên không nhận biết chân thật. Vì không nhận biết chân thật nên không thấy lỗi ác của các hành phiền não. Do không nhận thấy lỗi lầm nên phải rơi vào nẻo ác. Trái với các thứ trên là sinh vào cõi giải thoát.

Hỏi: Đã nói về lý do nêu bày sự chân thật, tức cũng nên nói về nghĩa chân thật?

Đáp: Luận này ở trong các luận là hết sức thù thắng, vì đã hiển bày chỉ rõ đầy đủ về tất cả cảnh giới, khiến đối với Luận A-tỳ-đàm, trí tuệ thêm rộng. Lúc đời có năm thứ ô trược tăng chính là lúc thọ mạng, trí tuệ và niệm đều tổn giảm. Quán xét những sự việc như vậy, nên nơi luận rộng lớn mọi thứ nghe nhận đều phải biết.

Vì tạo lợi ích cho mình và người, nên tôi trong ba thời đã cố gắng lược nói về điều chân thật. Vì thương xót ngoại đạo, các sư của tà luận, từ xa vẫn ngưỡng mộ bậc Pháp chủ của chánh luận vượt hơn hẳn trước cùng các Thánh chúng khắp trong đây, luôn sinh khởi nhiều tin kính lớn. Vì nhằm khai phát khiến chúng sinh nhớ nghĩ đến Phật, Pháp, Tăng, đồng thời hiển thị công đức chân thật của Tam bảo, vì thế mới tạo phần mở đầu của luận, nói kệ ấy.

 

Phẩm thứ 1: GIỚI

Trước đảnh lễ Tối Thắng

Lìa não an giáo tôn

Thuyết giảng đều đầy đủ

La-hán kiến chân đế.

Đảnh lễ: Là khởi tâm thiện, chuyển quả ái, cất thân kính lễ. Tiền là trước hết. Vì sao gọi là trước hết? Vì là tối thắng, vì chỉ rõ xứ cúng dường. Tối thắng có nghĩa gì? Là hàng phục các phiền não, nên gọi là Tối thắng. Như kệ đã nói: “Ưu-ba-già nên biết! Như chư Phật của chúng ta đều đã lìa các lậu”, thế nên gọi là Tối thắng.

Lìa não: Là các triền của phiền não thiêu đốt thân tâm của chúng sinh. Đức Thế Tôn trong vô số kiếp đều đem lại an lạc cho chúng sinh. Vì sự thiêu đốt của phiền não đã dứt hẳn nên gọi là lìa não. Nói an lạc tức nên biết là lìa não, do đấy tiếp theo là nói an giáoAnnghĩa là an ổn. Giáo là ngôn thuyết. Vì giáo có đối tượng được an ổn nên gọi là an giáo. Lược nói là tự an và an cho người khác. Lìa não là tự an. An giáo là an cho người khác.

Vì không điên đảo nên nhận biết an giáo, thế nên thứ đến là nói những điều đã thuyết giảng đều đầy đủ. Thuyết là ngôn thuyết tức là an giáo. Đầy đủ là biện giải đúng đắn về chỗ thâm diệu, hiển hiện và quyết đoán. Nói không điên đảo là đạt đến nghĩa chân thật, vì không trái với hai đế nên nói là đầy đủ. Do vậy lễ pháp ấy gọi là cúng dường pháp.

A-la-hán là đạt đến xứ cứu cánh, pháp tướng đầy đủ, nên tiếp theo là nói về A-la-hán. Phước điền chân thật, xứng đáng thọ nhận mọi sự cúng dường, nên nói là A-la-hán. Đây là hoàn toàn nói về bậc vô học.

Nói vô học xong, kế đến nói học kiến chân thật. Chân thật là đối với bốn Thánh đế không điên đảo. Nghĩa là đã học tám nhẫn, tám trí, thấy rõ chân đế kia nên gọi là kiến chân thật. Tuy trụ nơi kiến đạo, chưa quán khắp bốn đế, tất cần phải thấy rõ, nên cũng gọi là kiến chân thật.

Hỏi: Vì sao phải kính lễ?

Đáp:

Mâu-ni Tôn đều biết

Hai thứ tướng pháp tụ

Cũng vì người hiện rõ

Tôi nay nói phần ít.

Mâu-ni: Nghĩa là thân, miệng, ý đều viên mãn, nên gọi là Mâuni. Đều nghĩa là bậc Nhất thiết trí đã nói Tu-đa-la, Tỳ ni và A-tỳ-đàm truyền bá rộng khắp đến nay. Biết là nghĩa thấy biết hiểu rõ.

Pháp là nắm giữ, vì nắm giữ tự tánh nên gọi là pháp. Vì pháp có chứa nhóm nên gọi là pháp tụ. Pháp thiện kia là pháp thiện tụ. Pháp bất thiện, vô ký cũng như thế. Hai là danh số. Tướng là tướng mạo.

Hỏi: Thế nào là hai tướng?

Đáp: Là tự tướng và cộng tướng. Tự tướng là không chung, tức thứ này không phải là thứ khác, như tướng ngăn ngại là sắc. Như vậy nên so sánh. Cộng tướng là chung, tức thứ này và thứ khác, như sắc là vô thường. Như vậy nên so sánh.

Hỏi: Nếu tướng ngăn ngại là tự tướng của sắc thì đấy cũng là cộng tướng. Vì quán bốn ấm nên là tự tướng, quán mười thứ sắc nên là cộng tướng. Như thế, quán tự tướng tức là quán cộng tướng, nên có hai thứ tự tướng, cộng tướng là không thành?

Đáp: Một là vì tự, nên ngăn ngại là tướng của sắc, vì thế gọi là tự tướng của sắc. Các sắc có sai biệt nên nói có mười thứ. Ông nói quán nên tự tướng và cộng tướng không thành thì không đúng. Vì sao? Vì không hoại. Như cha con, như quả và hạt giống, như khổ tập đế, như cho phép, ngăn cấm.

Nếu quán về tự tướng thì không phải là cộng tướng. Nếu quán về cộng tướng thì không phải là tự tướng. Như một người cũng gọi là cha, cũng gọi là con. Do có cha nên gọi là con, do có con nên gọi là cha. Nếu quán cha thì không quán con. Nếu quán con thì không quán cha. Vậy nếu nói không thành thì không đúng. Vì sao? Vì đã thành. Đây là nghĩa cha con đã thành. Nếu là thiện hoặc ác, chánh kiến, tà kiến, trong ấy nói rộng là khởi nghiệp vô gián. Nếu không có nghĩa cha, thì cũng không có không cha là tà kiến và có cha là chánh kiến.

Nếu sự việc này không có thì tịnh uế cũng không có. Tịnh uế đã không có thì giải thoát cũng không có. Nếu không có nghiệp vô gián thì cũng không có nhân quả. Nhân quả không có thì tất cả pháp cũng không có. Chớ nên nói điều sai trái có lỗi. Thế nên nghĩa cha con đã thành tức không thể đã thành lại thành nữa. Nếu đã thành lại thành nữa thì tức là vô cùng. Vì vậy nghĩa tự tướng và cộng tướng được thành.

Hỏi: Những pháp là đối tượng nhận biết của Đức Phật, tất cả đều nên nói chăng?

Đáp: Không phải.

Hỏi: Vậy nên nói những gì?

Đáp: Cũng vì người khác hiển hiện, Tôi nay nói phần ít. Hiển hiện là nghĩa khai thị. Người khác là người thọ nhận sự giáo hóa. Hoặc nghĩa tạo lợi ích, tùy thuận phạm hạnh. Như Khế kinh Thân Thứ Lâm nói: Ở trong pháp của Đức Phật đã vì người khác giảng nói. Ta nay chỉ nói phần ít. Đối tượng nhận biết của Đức Như Lai là sâu rộng vô lượng. Như Tôn giả Xá-lợi-phất hãy còn không thể nói hết, huống chi là người khác.

Hỏi: Vậy Đức Thế Tôn đã nói pháp gì?

Đáp: Hữu lậu, vô lậu, tất cả như thế.

Tất cả hành hữu lậu

Lìa ngã lạc thường tịnh

Vì không thấy hữu lậu

Chấp ngã cùng vọng nhận.

Các hành hữu lậu này, vì không tự tại nên lìa ngã. Vì ba khổ đã thành nên lìa lạc. Do sức của duyên nên lìa thường. Vì là xứ phiền não nên lìa tịnh.

Hỏi: Những gì là hành hữu lậu?

Đáp: Là các phiền não đã sinh năm ấm.

Hỏi: Nếu hành hữu lậu đã lìa ngã, lạc, thường, tịnh, thì vì sao chúng sinh ở trong đó lại thọ nhận?

Đáp: Vì không thấy hữu lậu, Chấp ngã cùng vọng nhận. Do chúng sinh đối với hành hữu lậu không nhận biết tướng hữu lậu rồi liền thọ nhận là ngã, lạc, thường, tịnh. Vì nghiệp tạo đã che lấp nên không nhận biết phi ngã (Vô ngã). Vì oai nghi đã che lấp nên không nhận biết là khổ. Vì sự nối tiếp tương tợ đã che lấp nên không nhận biết về phi thường (Vô thường). Vì lớp da mỏng che phủ nên không nhận biết là bất tịnh. Vì không nhận biết như vậy nên thọ nhận ngã, lạc, thường, tịnh.

Hỏi: Tướng nào là hành hữu lậu?

Đáp:

Nếu các phiền não tăng

Là Thánh nói hữu lậu

Do vì tên lậu kia

Bậc tuệ nói phiền não.

Hoặc nương dựa, hoặc duyên làm tăng trưởng các phiền não như thân kiến v.v…, như nơi phẩm Sử nói. Vì các hành kia từ lậu sinh, nên sinh ra lậu, vì là xứ của lậu, nên nói là hữu lậu. Duyên nơi vô lậu không tăng trưởng. Hạ trung thượng thì không như vậy. Vì tăng nương dựa, không phải là không tăng, tăng nương dựa, không tăng duyên.

Hỏi: Vì sao như thế?

Đáp:

Do vì tên lậu kia

Bậc tuệ nói phiền não.

Phiền não nói là lậu. Vì tất cả nhập, xứ thường xuyên rỉ chảy (Lậu), vì tâm lậu liên tục rơi xuống. Thế nên các hành phiền não tăng tức biết là hữu lậu.

Hỏi: Hữu lậu kia còn có tên gì nữa? Đáp:

Cũng gọi là phiền não

Thọ ấm và tranh chấp

Phiền não nhận tranh khởi

Là các Hiền Thánh nói.

Tức hành hữu lậu này còn gọi là phiền nãothọ ấmtranh chấp. Vì sao? Vì Phiền não nhận tranh khởi, Là các Hiền Thánh nói. Tức các phiền não như thân kiến v.v…, vì não hại chúng sinh nên gọi là phiền não. Vì tự thân thọ nhận nên gọi là thọ. Vì tâm bị nhiễu loạn nên gọi là tranh chấp. Tranh chấp có ba thứ: Phiền não tranh chấp, ấm tranh chấp và đấu địch tranh chấp.

Phiền não tranh chấp là một trăm lẻ tám phiền não. Ấm tranh chấp nghĩa là mạng chung. Đấu địch tranh chấp là mỗi mỗi thứ đều trái nhau. Nên biết trong đây là nói phiền não tranh chấp, tức các phiền não như thân kiến v.v… sinh khởi các hành hữu lậu. Vì từ phiền não sinh khởi nên nói là phiền não. Vì từ thọ sinh ra nên nói là thọ ấm. Do từ tranh chấp sinh khởi nên nói là tranh chấp.

Đã nói về tướng của thọ ấm, tướng của ấm nay sẽ nói.

Nếu hành lìa phiền não

Cũng giải thoát các lậu

Đây cùng thọ ấm trước

Ấm này Thánh đã nói.

Nếu hành lìa các phiền não như thân kiến v.v… cùng các lậu, nên biết đó là hành vô lậu. Các hành vô lậu này cùng với thọ ấm đã nói ở trước, đó gọi là tướng của ấm.

Thọ ấm và ấm có sai biệt. Nghĩa là chuyển và không chuyển. Hợp là ấm, chuyển là thọ ấm.

Hỏi: Sự việc này là thế nào?

Đáp:

Gọi là sắc, thọ ấm

Tưởng hành cùng với thức

Là thứ lớp năm ấm

Thô tế tùy thuận nói.

Năm ấm này là sắc, thọ, tưởng, hành, thức ấm.

Hỏi: Thế nào là sắc ấm?

Đáp: Tất cả các sắc quá khứ, vị lai, hiện tại, nói rộng như thế. Các sắc ấm này đã khởi rồi diệt là nói quá khứ. Chưa khởi, chưa diệt là nói vị lai. Đã khởi, chưa diệt là nói hiện tại. Ở nơi tự thân gọi là trong. Ở nơi thân người khác và phi số chúng sinh gọi là ngoài.

Lại nữa, nơi nghĩa trong ngoài như nói về nhập, xứ. Thô gọi là có đối. Tế gọi là không đối. Nếu nói không thành thì không đúng.

Nói quán nếu nói quán không thành là không đúng. Nếu quán thô thì không phải tế. Nhiễm ô gọi là sắc xấu, không nhiễm ô gọi là sắc tốt. Quá khứ, vị lai gọi là xa. Hiện tại gọi là gần. Nghĩa xa có bốn thứ, như nơi phẩm Hành nói. Tất cả những thứ ấy hoàn toàn là nói tóm lược. Về sắc ấm, đây là danh tóm lược không phải là sự tóm lược. Như sắc ấm, thì các ấm thọ, tưởng, hành, thức cũng như vậy.

Trong ấy có sai biệt: Nghĩa là tự thân thọ nhận gọi là trong, thân người khác thọ nhận gọi là ngoài. Nội duyên, ngoại duyên, lực của phương tiện khởi, lực của cảnh giới khởi. Thô là năm thức thân, tế là ý địa. Giới địa nhiễm ô, không nhiễm ô cũng như thế, cho đến thức ấm cũng như vậy. Hành là hành ấm. Bên ngoài là số chúng sinh, phi số chúng sinh, nên biết.

Hỏi: Sắc cho đến thức có tướng gì?

Đáp: Tướng ngăn ngại là tướng của sắc. Theo đấy nhận biết rõ là tướng của thọ. Thuận với nhận biết là tướng của tưởng. Tạo tác là tướng của hành. Phân biệt là tướng của thức. Sắc quá khứ kia tuy không ngăn ngại nhưng đã từng ngăn ngại. Sắc vị lai tuy chưa ngăn ngại nhưng sẽ ngăn ngại. Mỗi mỗi cực vi tuy không ngăn ngại, nhưng rất nhiều cực vi tụ tập thì ngăn ngại. Sắc vô tác tuy không ngăn ngại, nhưng do sắc tạo tác là ngăn ngại, nên sắc kia cũng ngăn ngại. Như cây lay động thì bóng cây cũng lay động. Như sắc ấm quá khứ vị lai, bốn ấm còn lại cũng như vậy.

Hỏi: Vì sao trước nói sắc ấm, cho đến thức ấm?

Đáp: Là thứ lớp năm ấm, Thô tế tùy thuận nói: Trong năm ấm kia thì sắc ấm là rất thô, vì năm thức nương dựa nơi sắc ấm, vì là cảnh giới của sáu thức, nên nói trước hết. Thọ ấm tuy không phải là sắc, nhưng vì hành thô nên như nói về sắc. Cũng như đầu chân v.v… của ta, thọ theo đấy chuyển. Như vậy cho đến thức ấm là rất vi tế nên nói sau.

Lại nữa, từ lúc không thể nhận biết về bản tế đến nay, nam là sắc của nữ, nữ là sắc của nam, vì là xứ nhiễm đắm nên nói trước. Vì vui thích thọ nhận tham nên khởi sắc dục. Vì tưởng điên đảo nên khởi tham lạc thọ. Vì phiền não nên dấy khởi tưởng điên đảo. Vì dựa vào ý nên khởi phiền não.

Lại nữa, vì quán hai thứ sắc nên nhập vào pháp Phật là cửa cam lộ. Nghĩa là quán bất tịnh và niệm an ban (Quán sổ tức). Quán bất tịnh là quán sắc được tạo. Niệm an ban là quán bốn đại, vì vậy nên trước là quán về sắc ấm. Quán sắc rồi thì thấy lỗi lầm của thọ. Thấy lỗi lầm của thọ thì tưởng không điên đảo. Tưởng không điên đảo rồi thì phiền não không hiện hành. Phiền não đã không hiện hành thì tâm có thể nhẫn. Đây là nói thuận về năm ấm. Nay sẽ nói về nghịch.

Vì sinh khởi tịnh uế đều do tâm làm gốc nên trước là quán thức ấm. Quán thức ấm xong thì phiền não mỏng dần. Phiền não đã mỏng thì dấy khởi tưởng về pháp. Đã khởi tưởng về pháp thì tham thọ không sinh. Tham thọ không sinh nên quán về sắc. Do đấy trước nói sắc ấm cho đến thức ấm.

Hỏi: Thế nào là phân biệt nói về sắc ấm?

Đáp:

Mười thứ là sắc nhập

Cùng vô tác giả sắc

Là phân biệt sắc ấm

Đấng Mâu-ni đã nói.

Mười thứ là sắc nhập: Nghĩa là sắc – mắt, âm thanh – tai, hương – mũi, vị – lưỡi, xúc chạm – thân.

Cùng vô tác giả sắc: Như nơi phẩm Nghiệp nói. Các sắc này mỗi mỗi thứ nói là sắc ấm.

Đã gọi là thức ấm

Đây tức là ý nhập

Ở trong mười tám giới

Cũng lại nói bảy thứ.

Nói thức ấm tức là ý nhập, là nói bảy tâm giới trong mười tám giới.

Ngoài ra có ba ấm

Vô tác, ba vô vi

Tức là nói pháp nhập

Cũng lại nói pháp giới.

Ngoài ra có ba ấm: Là thọ ấm, tưởng ấm và hành ấm.

Vô tác, ba vô vi: Là hư không, số diệt, phi số diệt. Bảy pháp này nói là pháp nhập, cũng nói là pháp giới.

Hỏi: Vì sao thọ, tưởng được lập riêng làm ấm? Còn tâm pháp khác chỉ lập một hành ấm?

Đáp:

Luân chuyển nơi sinh tử

Nên biết hai căn tranh

Thế nên thọ, tưởng riêng

Kiến lập hai thứ ấm.

Vì hai sự việc nên chúng sinh luân chuyển trong sinh tử, đó là tham lạc thọ và tưởng điên đảo. Vì tham lạc thọ nên hành ái, vì tưởng điên đảo chấp trước nên hành kiến.

Hai căn tranh: Nghĩa là tập dục ái, tham dục buộc từ thọ sinh, kiến dục buộc từ tưởng sinh. Thọ tu các thiền, tưởng tu vô sắc. Lại nữa, tâm pháp hoặc là căn, hoặc là phi căn. Căn pháp là thọ, phi căn pháp là tưởng. Thế nên tùy theo nghĩa mà nói.

Hỏi: Tất cả năm ấm đều là hành, vì sao nói một hành ấm?

Đáp:

Năm ấm tuy là hành

Nhưng tên một thọ hành

Vì pháp hữu vi nhiều

Nói hành ấm là đủ.

Do trong hành ấm có nhiều hành hữu vi tương ưng, không tương ưng. Tương ưng nghĩa là tư nguyện v.v… Không tương ưng nghĩa là đắc v.v…

Hỏi: Tất cả đều là hành ấm, vì sao Khế kinh nói một tư là hành ấm, không phải là thứ khác?

Đáp: Vì vượt hơn, vì tăng thượng, vì trước hết. Do tạo tưởng là tướng của hành, còn tư kia là tánh tạo tác. Nếu có ấm khác thì đều nhập trong năm ấm. Nay sẽ nói như thật.

Nói rộng các pháp ấm

Số ấy có tám vạn Giới cùng với ấm khác Đều thuộc về năm ấm.

Tám vạn pháp ấm đều thuộc về sắc ấm, là lời Đức Phật nói về tánh. Có thuyết cho: Gọi là tánh là thuộc về hành ấm. Giới khác cùng năm ấm. Giới ấm kia là thuộc về sắc ấm. Ấm định, tuệ, giải thoát, giải thoát tri kiến đều thuộc về hành ấm. Nếu có tên ấm khác đều nhập trong năm ấm.

Hỏi: Ngang đến đâu tức nên nói là số pháp ấm?

Đáp:

Pháp ấm là kinh luận

Mỗi mỗi nói như vậy

Cùng các hành đối trị

Đều gọi số pháp ấm.

Có thuyết nói: Mỗi mỗi kinh luận gọi là pháp ấm, số lượng của kinh luận như vậy có đến sáu ngàn.

Lại có thuyết nói: Mỗi mỗi xứ ấm là xứ pháp ấm. Lại nói xứ ấm, xứ giới v.v… đều là số pháp ấm. Nói như vậy nghĩa là chúng sinh có tám vạn hành. Thế nên Đức Thế Tôn tùy theo đối tượng hành kia, vì chúng sinh giảng nói pháp đối trị, đều là số pháp ấm.

Hỏi: Trước đã nói về mười thứ gọi là sắc nhập, cũng là vô tác giả sắc, đó gọi là sắc ấm. Vậy những gì là nhập?

Đáp:

Gọi là nhãn, nhĩ, tỷ

Thiệt, thân cùng với ý

Sắc, thanh, hương, vị, xúc

Ngoài ra nói pháp nhập.

Nhãn nhập là chỗ dựa của nhãn thức, là sắc tịnh do bốn đại tạo ra, không thể thấy, có đối.

Nhĩ, tỷ, thiệt, thân cũng như vậy.

Có sai biệt: Là tùy theo chỗ dựa của thức. Ý nhập là tâm, ý, thức. Theo danh, nghĩa, nghiệp, đời, nêu đặt để phân biệt. Những danh v.v… kia đã tạo nên sự sai biệt, cần nên biết.

Về danh: Gọi là tâm, gọi là ý, gọi là thức. Về nghĩa: Tập khởi là nghĩa của tâm. Lường xét là nghĩa của ý. Phân biệt nhận biết là nghĩa của thức.

Về nghiệp: Nhận biết xa là tâm. Nhận biết trước là ý. Nối tiếp sinh khởi là thức. Về đời: Đời quá khứ là ý. Đời vị lai là tâm. Đời hiện tại là thức.

Về nêu đặt: Nêu đặt giới là tâm. Nêu đặt nhập là ý. Nêu đặt ấm là thức.

Lại nữa, phân biệt theo tham, sân, si v.v… tức có vô lượng cảnh giới. Tâm định gọi là không tán loạn. Tâm nhiễm ô trái với tâm định này gọi là tán loạn. Tâm tương ưng với lười biếng gọi là dưới, thấp. Tâm tương ưng với tinh tấn gọi là trên, cao. Tâm ít hành tập tịnh và tâm nhiễm ô gọi là ít. Tâm hành tập nhiều tịnh gọi là nhiều.

Ít căn dễ được vì ít đối trị, ít tùy chuyển. Các tâm nhiễm ô gọi là nhỏ. Tâm thiện trái với tâm nhiễm ô này gọi là lớn. Ở nơi tâm kia nếu tu đắc, tu tập là không tu tập. Tâm nhiễm ô như vậy gọi là không tu. Tâm thiện trái với tâm này gọi là tu.

Tự tánh giải thoát và tại giải thoát, ở nơi tâm nhiễm ô kia gọi là không giải thoát. Tâm thiện trái với tâm này gọi là giải thoát. Hoặc có tâm là tự tánh giải thoát không phải là tại giải thoát. Hoặc có tâm là tại giải thoát không phải là tự tánh giải thoát. Hoặc có tâm là tự tánh giải thoát cũng là tại giải thoát. Hoặc có tâm không phải là tự tánh giải thoát cũng không phải là tại giải thoát.

Tự tánh giải thoát không phải là tại giải thoát: Là tâm hữu học vô lậu. Tại giải thoát không phải là tự tánh giải thoát: Là tâm vô học vô lậu. Không phải là tự tánh giải thoát cũng không phải là tại giải thoát: Là tâm hữu học hữu lậu và tâm phàm phu.

Sắc nhập có ba thứ: Là sắc, xứ và đều cùng có. Sắc: Là các sắc xanh, vàng, đỏ, trắng, nói rộng như vậy. Xứ: Là thân sắc tạo. Đều cùng có: Là như tạo ra bức họa v.v…

Thanh nhập có ba thứ: Là nhân thọ nhận tiếng của bốn đại, nhân không thọ nhận tiếng của bốn đại, nhân cùng có với tiếng. Nhân thọ nhận bốn đại: Là nhân duyên của yết hầu, môi, lưỡi, phát ra tiếng. Nhân không thọ nhận bốn đại: Là nhân duyên của gió, chuông, cây v.v…, phát ra tiếng. Nhân cùng có với tiếng: Là nhân duyên đánh trống, thổi tù và v.v…, phát ra tiếng. Mỗi mỗi tiếng đó đều có hai thứ là vừa ý, không vừa ý.

Hương nhập có ba thứ: Là hương tốt, hương xấu và hương không phải tốt xấu.

Vị nhập có sáu thứ: Là cay, chua, ngọt, đắng, mặn, lạt.

Hỏi: Nếu lúc nếm vị, vị riêng là thiệt thức, vậy vị giác nhận biết trước tiên là thân thức chăng?

Đáp: Nếu nhận biết về nóng lạnh trước là thân thức trước, thiệt thức sau. Nếu phân biệt về vị cay v.v… riêng thì thiệt thức trước, thân thức sau.

Xúc nhập có mười một thứ: Là bốn đại và bảy thứ sắc tạo. Bảy thứ sắc tạo là nhám, trơn, nhẹ, nặng, lạnh, đói, khát. Nhám là thô cứng. Trơn là mềm nhỏ, nhuyễn. Nhẹ là không thể cân. Nặng là thuần dày. Lạnh là tìm kiếm ấm nóng. Đói là muốn ăn. Khát là muốn uống.

Hỏi: Đại nào đã tăng nên có nhám, trơn, cho đến đói khát?

Đáp: Hoặc có thuyết cho: Không tăng thêm riêng. Do nghiệp báo của người kia nên trước được quả bốn đại cùng nhám cho đến đói khát.

Lại có thuyết nói: Vì nước, lửa tăng nên trơn. Vì đất, gió tăng nên nhám. Do đất, nước tăng nên nặng. Do gió, lửa tăng nên nhẹ. Vì nước, gió tăng nên lạnh. Do gió tăng nên đói. Do lửa tăng nên khát.

Hỏi: Có bao nhiêu xúc để có thể sinh khởi thân thức?

Đáp: Có thuyết nêu: Từ nhám cho đến khát, mỗi mỗi thứ đều có thể sinh khởi.

Lại có thuyết nói: Năm xúc có thể khởi bốn đại cùng với nhám.

Như vậy cho đến đói khát.

Lại có thuyết cho: Có mười một thứ xúc dấy khởi thân thức v.v…, vì là cảnh giới của thân thức nên không có lỗi.

Có hai thứ tự tướng: Là sự tự tướng và xứ nhập tự tướng. Sự tự tướng là đồng cảnh giới. Xứ nhập tự tướng là cảnh giới của tự tướng. Trong mười một thứ này, có hai thứ thuộc về cõi dục, tức đói và khát, không phải thuộc cõi sắc. Chín thứ còn lại là thuộc cõi dục, cõi sắc.

Y phục của cõi sắc tuy không thể cân, nhưng các thứ khác thì cũng có thể cân, cũng có thể tích tụ, tuy không có tai hại của lạnh nóng, nhưng vẫn có nuôi lớn, điều hòa, thích hợp.

Đói khát: Hoặc nói dựa vào quả, do thức uống ăn có thể đoạn. Phái A-tỳ-đàm nói: “Sắc báo không thể đoạn, vì đoạn rồi lại nối tiếp”. Phái Kế Tân nói: “Đói khát là chướng của báo thiện, bất thiện, nên không thể nhận biết. Thức ăn đã tiêu hóa rồi lại còn có thể nhận biết. Thế nên người giàu có bị đói khát là báo thiện, còn kẻ nghèo bị đói khát là báo bất thiện”.

Pháp nhập có bốn thứ sắc vô tác, như nơi phẩm Nghiệp nói. Tâm pháp như nơi phẩm Hành nói. Tâm bất tương ưng hành như nơi phẩm Tạp nói. Về vô vi thì phần sau của phẩm này sẽ nói. Trong nội nhập, do cảnh giới của nhãn nhập là thô nên nói trước. Trong ngoại nhập, vì tự tánh của sắc nhập là thô nên nói trước. Vì là cửa vào của khổ vui, nên nói là xứ nhập. Lại nữa, nghĩa sát hại là nghĩa của xứ nhập, tâm tâm pháp ở trong xứ nhập này bị diệt.

Hỏi: Xứ nhập và xứ xúc nhập có sai biệt gì?

Đáp: Xứ xúc nhập tức là xứ nhập. Hoặc xứ nhập không phải là xứ xúc nhập. Đó là ngoại nhập. Nếu nội xứ nhập không phải là phần thì xứ nhập này không phải là xứ xúc nhập. (Duyên khác không khởi xúc gọi là không phải phần). Do là chỗ trụ của xúc nên gọi là xứ xúc nhập.

Xúc không: Tức chỉ là xứ nhập. Vì là cửa vào của xúc, nên như cửa sổ. Vì là chỗ trụ của xúc nên như Thánh trụ. Cũng nên nói là thọ xứ nhập. Vì xúc đã nuôi lớn tâm, tâm pháp, vì xúc đã đem đến, xúc đã chuyển biến, do sức của xúc nên các pháp kia hiện ở trước, vì thế gọi là xứ xúc nhập. (Thánh trụ, Trung Quốc gọi là Thánh ở biên địa, gọi là chỗ ở của Di-ly-xa).

Hỏi: Thế nào là một thân có đủ mười hai nhập?

Đáp:

Tuy ở trong một thân

Việc đã làm đều khác

Tự tánh dựa nơi duyên

Mười hai thứ phân biệt.

Ở trong một thân có đủ mười hai nhập, song mỗi sự đều khác. Nếu sự là nhãn nhập, thì sự này cho đến không phải là pháp nhập. Nếu sự là pháp nhập, thì sự này cho đến không phải là nhãn nhập.

Hỏi: Những gì là sự nhãn nhập cho đến sự pháp nhập?

Đáp: Mắt do thấy sắc là sự. Sắc do mắt làm đối tượng hành là sự. Như thế cho đến pháp nhập. Ví như một nhà có mười hai người ở, nhưng việc làm đều khác. Pháp kia cũng như vậy. Lại, vì chỗ dựa và duyên có sai biệt nên nói là mười hai. Nghĩa là sáu thức thân có sáu chỗ dựa, sáu duyên. Lại vì tự tánh phân biệt nên nói là mười hai. Như tự tánh của nhãn cho đến không phải tự tánh của pháp. Hoặc tự tánh của pháp cho đến không phải tự tánh của nhãn.

Hỏi: Mười hai xứ nhập và phần ít của pháp nhập là sắc, vì sao nói riêng một xứ nhập là sắc nhập?

Đáp:

Tuy có rất nhiều sắc

Chỉ nói một sắc nhập

Nên biết một sắc nhập

Là cảnh giới ba mắt.

Ở trong nhập kia cảnh giới của ba mắt gọi là sắc nhập: Tức nhục nhãn, thiên nhãn, Thánh tuệ nhãn. Do sắc thô nên nói có hai mươi loại. Đó là xanh, vàng, đỏ, trắng, dài, ngắn, ngay, không ngay, vuông, tròn, cao, thấp, mây, khói, bụi, sương mù, quang, ảnh, sáng, tối. Nơi tám loại như dài v.v… kia có ba loại (Thiện, bất thiện, vô ký) phân biệt, ngoài ra đều vô ký.

Hỏi: Tất cả mười hai nhập đều là tánh của pháp, vì sao chỉ nói một pháp nhập?

Đáp:

Tất cả các pháp kia

Tuy đều là pháp nhập

Do trong pháp rất nhiều

Một pháp nhập không khác.

Tất cả pháp kia tuy đều là pháp nhập, nhưng chỉ trong một nhập đã có rất nhiều pháp. Đó là pháp sắc, pháp vô sắc, pháp tương ưng, pháp không tương ưng, pháp hữu vi, pháp vô vi. Thế nên chỉ nói một pháp nhập.

Lại nữa, ba tướng hữu vi và tướng của pháp ấy không trái nhau, vì tướng ấy nhập trong pháp nhập, nên chỉ nói một pháp nhập. Lại, tất cả các pháp đều dùng danh để hiển bày. Danh của pháp ấy đã nhập trong pháp nhập. Pháp là tướng chân thật, nghĩa là môn giải thoát không. Do pháp trước là pháp giác, là không đã nhập trong pháp nhập. Thân kiến có thể tự nhận biết là không đúng, vì chuyển theo điên đảo. Pháp là đệ nhất nghĩa, nghĩa là Niết-bàn vắng lặng, là pháp nhập trong pháp nhập.

Hỏi: Đức Thế Tôn trong Khế kinh nói vô lượng nhập, vì sao chỉ nói mười hai nhập?

Đáp:

Mười tất cả nhập kia

Tám nhập, hai, bốn nhập

Và năm giải thoát nhập

Thảy đều thuộc mười hai.

Mười trong tất cả nhập, tám nhập trước và tám thắng xứ tánh là căn thiện không tham, đều nhập trong pháp nhập. Nếu nhận lấy quyến thuộc tức tánh là năm ấm đều nhập trong ý nhập, pháp nhập. Mười trong tất cả nhập, hai nhập sau và bốn vô sắc nhập tánh là bốn ấm, đều nhập trong ý nhập, pháp nhập.

Hai nhập là nhập của chúng sinh vô tưởng và nhập của chúng sinh phi tưởng. Nhập của chúng sinh vô tưởng tánh là mười nhập, trừ hương, vị nhập. Nói bốn vô sắc tức đã nói nhập của phi tưởng. Nói nhập của năm giải thoát tánh là tuệ, quyến thuộc tánh là năm ấm, đều nhập trong ba nhập là thanh nhập, ý nhập, pháp nhập. Năm giải thoát nhập: (1) Phật nói tức được giải thoát. (2) Nghe xong tư duy được. (3) Nhân tự tụng kinh được. (4) Nhân vì người khác nói pháp được.

(5) Do quán nhân duyên được.

Hỏi: Đã nói mười tám giới, là chủng loại có mười tám hay là danh có mười tám?

Đáp:

Chủng giới nói mười bảy

Hoặc nói là mười hai Cảnh giới nương dựa nương Phân biệt mười tám thứ.

Mười tám giới: Hoặc mười bảy thứ (Chủng), hoặc mười hai thứ. Nếu lấy ý giới thì mất sáu thức, nếu lấy sáu thức thì mất ý giới. Ví như lấy riêng từng cây thì mất rừng, nếu lấy rừng thì mất cây. Các dụ về ngón tay, nắm tay v.v… cũng như vậy. Nếu lấy ý giới thì mất sáu thức, nếu lấy sáu thức thì mất ý giới.

Hỏi: Nếu như vậy thì vì sao nói mười tám giới?

Đáp:

Cảnh giới nương dựa nương

Phân biệt mười tám giới.

Vì ba sự nên nói mười tám giới: Tức là nương dựa, người nương dựa và cảnh giới. Nương dựa nghĩa là sáu nương dựa: Nhãn giới cho đến ý giới. Người nương dựa nghĩa là sáu thức giới: Từ nhãn thức giới cho đến ý thức giới. Cảnh giới nghĩa là sáu ngoại giới. Nếu nói tâm sau cùng của A-la-hán không sinh thức sau, không phải là ý giới, điều này là không đúng, vì duyên khác, nên thức sau không nối tiếp, như đất không có hạt giống.

Lại nữa, vì nhân nơi xúc nên lập mười tám giới. Nhãn xúc có ba nhân duyên sinh là nhãn, sắc, thức. Như vậy cho đến ý, vì vật chứa đựng, vì thức ăn, vì người ăn. Vật chứa đựng là nhãn giới. Thức ăn là sắc giới. Người ăn là nhãn thức giới.

Hỏi: Nên nói hai mươi mốt giới: Tức hai nhãn, hai nhĩ, hai tỷ là sáu, thiệt giới, thân giới, bảy tâm giới, sáu ngoại giới?

Đáp:

Hai nhãn nói một giới

Vì hai chỉ là tự

Nhĩ, tỷ cũng như vậy

Hai nói chung một giới

Vì khiến thân đoan nghiêm

Kia đều không một một.

Tuy có hai nhãn nhưng nói một giới, do một tự, vì cùng một bốn đại tạo, vì có một tự thấy, không phải một tự có hai căn, vì là chỗ dựa của một thức. Hai nhãn một thức nương dựa cũng không nên là hai căn, vì một thức dựa vào một xứ nhập. Cảnh giới của một nhập cũng cùng thọ nhận cảnh giới của một nhập. Hai nhãn cùng nhận lấy một sắc, do một mắt thấy sắc thì không sáng rõ, hai mắt thấy sắc thì sáng rõ. Hai tai, hai mũi thành một giới cũng nói như mắt. Vì trang nghiêm thân nên sinh hai mắt, hai tai, hai mũi. Do vì kẻ một mắt, người ta không yêu kính, thế nên mắt v.v… sinh hai. Thân, lưỡi sinh có một. Như Đức Phật Thế Tôn tuy nói vô số thứ giới đều nhập trong mười tám giới. Nay sẽ theo thứ lớp nói.

Nếu có các giới khác

Khế kinh Thế Tôn nói

Đều tùy tự tánh kia

Thảy nhập mười tám giới.

Nếu Đức Thế Tôn nói giới khác tức đều nhập trong mười tám giới. Vì ba sự: Nương dựa, người nương dựa và duyên. Như Đức Thế Tôn nói: “Này Kiều-thi-ca! Thế gian có vô số giới. Nghĩa là các kiến dùng tên giới để nói. Các kiến ấy đều nhập trong pháp giới. Nếu các kiến kia được nói là sáu mươi hai giới, như nơi kinh Đa Giới và Khế kinh khác nói, là đã dùng tên giới để nói, là đều tùy theo nghĩa của kiến kia, đều nhập trong mười tám giới”.

Hỏi: Giới, nhập, ấm có sai biệt gì?

Đáp:

Giới nói tất cả pháp

Pháp tức mười hai nhập

Trừ ba pháp vô vi

Còn lại nói năm ấm.

Tất cả pháp nói là mười tám giới, vì không lìa chỗ dựa, vì người dựa và duyên. Tất cả pháp kia tức nói mười hai nhập. Bảy tâm giới là ý nhập, đây tức là nghĩa sai biệt. Trừ ba pháp vô vi, pháp còn lại nói là năm ấm, vì năng lực tích tụ.

Hỏi: Nếu tất cả pháp nói là giới, giới tức là nhập, trừ ba pháp vô vi nói là ấm, vì sao Đức Thế Tôn nói có ba loại?

Đáp:

Mâu-ni quán chúng sinh

Dục, giải, căn không đồng

Tánh hành ngu khác nhau

Nên nói ấm, giới, nhập.

Ba loại mong muốn (Dục), hiểu biết (Giải) của chúng sinh là rộng, lược, vừa. Rộng là nói về giới. Vừa là nói về nhập. Lược là nói về ấm. Căn hạ, trung, thượng cũng như vậy.

Đối với kẻ dựa vào tánh nên kiêu mạn, vì họ nói giới, do nghĩa của tánh là nghĩa của giới. Người cậy nơi của cải để kiêu mạn, vì họ nói nhập, vì nghĩa của cửa thâu nạp là nghĩa của nhập. Kẻ dựa vào thân mạng để kiêu mạn, thì vì họ nói về ấm, do ấm là pháp tử.

Đối với người mới hành, vì họ nói giới. Đối với kẻ hành một ít, vì họ nói nhập. Đối với người đã hành, vì họ nói ấm.

Đối với kẻ ngu về sắc tâm thì vì họ nói giới. Ngu về sắc vì họ nói nhập. Ngu về tâm pháp vì họ nói ấm.

Hỏi: Ấm, nhập, giới có nghĩa gì? Đáp:

Tích tụ là nghĩa ấm

Nghĩa cửa thâu nạp nhập

Nghĩa chủng tánh nói giới

Ba thứ này sai biệt.

Mười một thứ vô lượng sắc v.v… nói chung là sắc ấm, như kho tàng, như đoàn quân. Ví như bốn thứ quân binh, mỗi loại như thế đều mang tên khác biệt, gọi là quân chúng. Sắc cũng như vậy, tuy có mười một thứ nhưng đồng một sắc tướng, gọi là sắc ấm. Như A-tỳđàm nói: Người khéo quán sắc ấm, là một cực vi gồm thâu phần ít của một giới, một nhập, một ấm. Người không khéo quán thì nói một cực vi gồm thâu một giới, một nhập, một ấm. Như sắc ấm, thì thọ, tưởng, hành, thức ấm cũng như vậy.

Nghĩa cửa thâu nạp là nói về nhập, vì chung cho cả khổ vui. Nghĩa chủng tánh là nói về giới, như trong một ngọn núi có nhiều tánh: tánh vàng, tánh bạc v.v… Như vậy trong một thân có các thứ tánh, mỗi mỗi đều khác biệt, nên nói là mười tám giới.

Hỏi: Vì sao nói mười tám giới, mười hai nhập và năm ấm, không tăng, không giảm?

Đáp:

Cảnh giới người dựa, dựa

Ứng hợp pháp lường xét

Thế nên giới, nhập, ấm

Không tăng cũng không giảm.

Chỗ ứng hợp lường xét của giới là sáu chỗ dựa, sáu người dựa và sáu duyên. Chỗ dựa kia nếu tăng thì không phải là chỗ dựa, vì không có người dựa. Nếu giảm thì người dựa không có chỗ dựa. Tất cả nhập như vậy cũng đều dùng chỗ dựa và duyên để lường xét. Về ấm vì sao nhiễm đắm sắc? Vì nhiễm chấp lạc thọ. Vì sao nhiễm chấp lạc thọ? Vì tưởng điên đảo. Vì sao tưởng điên đảo? Vì tương ưng với phiền não, phiền não dựa nơi ý, ý tức dựa vào ý, như đã nói ý duyên nơi pháp sinh ý thức. Lìa chỗ dựa này thì không có chỗ dựa khác.

Đã nói tự tánh và nhân duyên của giới, nhập, ấm. Nay sẽ nói rộng về giới.

Trong giới một có thấy

Lại nói tất cả giới

Vô ký có tám thứ

Còn lại thiện bất thiện.

Trong giới một có thấy: Nghĩa là trong mười tám giới sắc giới là có thể thấy, có thể nhìn ngắm ở chỗ này, nơi khác, nên là có thể thấy.

Lại nữa, chỉ rõ về tâm hành của con người nên nói là có thể thấy.

Lại nữa, vì tự hiện, nghĩa là đối tượng hành của mắt. Nên biết mười bảy thứ kia là không thể thấy, vì không có hành tướng.

Lại nói tất cả giới đều có thể thấy, vì là cảnh giới của mắt tuệ, như kệ đã nói:

Tất cả các pháp kia

Bậc tuệ thấy vô ngã.

Như A-tỳ-đàm nói: “Hàng học kiến tích, thấy tích của bốn chân đế”. Thế nên tất cả mười tám giới đều có thể thấy.

Vô ký có tám thứ: Nghĩa là tám giới là vô ký, tức năm tình (Căn) và hương, vị, xúc. Vì không có quả ái, chẳng ái có thể ghi nhận nên nói là vô ký. Mười giới còn lại tức có thể ghi nhận là thiện và bất thiện. Nghĩa là sắc, thanh, pháp giới và bảy tâm giới.

Thân thiện khởi động là sắc thiện, thân bất thiện khởi động là sắc bất thiện, sắc còn lại là vô ký. Như vậy âm thanh nơi miệng động tịnh, tâm nơi bảy thức giới là thiện. Tâm tương ưng với không hổ không thẹn là bất thiện, ngoài ra là vô ký. Pháp giới nếu tương ưng với tâm thì nói như tâm. Nếu không tương ưng thì như nơi phẩm Tạp nói.

Thiện có bốn thứ: Tự tánh, tương ưng, cộng khởi và đệ nhất nghĩa. Tự tánh thiện là hổ thẹn và ba căn thiện. Tương ưng tức tâm tâm pháp tương ưng với thiện kia. Cộng khởi tức là thiện kia đã khởi nghiệp thân khẩu và tâm bất tương ưng hành. Đệ nhất nghĩa là Niếtbàn. Đây là bốn thứ thiện.

Tự tánh bất thiện nghĩa là không hổ, không thẹn và ba căn bất thiện. Tương ưng tức là tâm tâm pháp tương ưng với điều bất thiện kia. Cộng khởi tức là điều bất thiện kia đã khởi nghiệp thân, khẩu và tâm bất tương ưng hành. Đệ nhất nghĩa là luân chuyển trong những nẻo đầy nguy hiểm. Đều cùng trái với hai thứ kia là vô ký.

Hỏi: Tất cả pháp là mười hai nhập, tức là do Đức Thế Tôn đã ghi nhận, vì sao nói là vô ký?

Đáp: Không do hoàn toàn không nói, nên gọi là vô ký. Thiện thì ghi nhận là thiện. Bất thiện thì ghi nhận là bất thiện. Vì không ghi nhận thiện, bất thiện nên nói là vô ký. Nếu là thời của nhân quả thì ghi nhận nhân quả, lúc khác thì vô ký. Hoặc có trường hợp không nói gọi là vô ký, như Khế kinh Ký Luận nói:

Tất cả đều sẽ chết

Luận này hoàn toàn ghi

Tất cả chết lại sinh

Đây gọi Luận phân biệt.

Nếu hỏi sinh thù thắng

Đấy gọi Luận cật vấn

Năm ấm chúng sinh khác

Đây gọi Luận chỉ ký.

Luận hoàn toàn ghi: Nếu có người hỏi: Tất cả chúng sinh đều sẽ chết chăng? Nên đáp toàn bộ: Tất cả chúng sinh thảy đều phải chết.

Luận phân biệt: Nếu có người hỏi: Tất cả đều sẽ chết, chết rồi lại sinh chăng? Nên phân biệt đáp: Người có phiền não thì chết rồi lại sinh. Người không có phiền não thì chết rồi không sinh.

Luận cật vấn: Nếu có người hỏi: Người sinh là thù thắng chăng? Tức nên hỏi ngược lại: Ông từ đâu đến? Nếu nói vừa từ cõi trời đến thì nên đáp là thấp kém. Nếu nói vừa đến từ nẻo ác đến thì nên đáp là vượt hơn.

Luận chỉ ký: Nếu có người hỏi ấm cùng với chúng sinh là khác hay là đồng, thì cần phải dừng lại. Vì sao? Vì không ứng hợp. Ví như có người hỏi con của thạch nữ có cung kính không? Vì thạch nữ không có con thì đâu được đáp là con của thạch nữ có cung kính hay không cung kính. Như vậy có ấm nhưng không chúng sinh, làm sao có được là đồng, khác? Vì không ứng hợp nên không đáp.

Phái A-tỳ-đàm nói: Luận hoàn toàn ghi: Nghĩa là nếu có người hỏi: Như Lai Vô Sở Trước Đẳng Chánh Giác khéo nói giáo pháp chăng? Đệ tử của Đức Thế Tôn luôn khéo hướng đến chăng? Sắc là vô thường, thọ, tưởng, hành, thức đều là vô thường chăng? Là khéo phân biệt về khổ, tập, diệt, đạo chăng? Tức nên hoàn toàn đáp vì nghĩa lợi ích.

Luận phân biệt: Nếu có người nói: Nên vì tôi giảng nói pháp. Tức nên hỏi: Pháp có rất nhiều, hoặc quá khứ, hoặc vi lai, hoặc hiện tại, ông muốn tôi nói pháp nào? Nếu nói hãy vì tôi giảng nói pháp trong quá khứ. Tức nên hỏi: Pháp quá khứ cũng nhiều: Hoặc sắc ấm, hoặc thọ, tưởng, hành, thức ấm, tôi sẽ vì ông giảng nói pháp nào? Nếu nói sắc ấm, tức nên hỏi: Sắc ấm cũng nhiều: Hoặc thiện, hoặc bất thiện, hoặc vô ký, tôi sẽ vì ông giảng nói pháp nào? Nếu nói sắc thiện tức nên hỏi: Sắc thiện có bảy thứ từ không sát sinh cho đến không nói lời thêu dệt, tôi sẽ vì ông giảng nói pháp nào? Nếu nói không sát sinh tức nên hỏi: Không giết hại có ba thứ là do không tham, không sân, không si, tôi sẽ vì ông giảng nói pháp nào? Nếu nói xin giảng nói pháp không tham tức nên hỏi: Không tham có hai thứ là tạo tác và không tạo tác, vậy tôi sẽ vì ông giảng nói pháp nào? Các thứ lý luận như vậy gọi là Luận phân biệt ký.

Luận cật vấn: Nếu có người hỏi pháp thì nên cật vấn ngược lại: Pháp có rất nhiều, ông hỏi về pháp nào? Không vì phân biệt hoặc quá khứ, vị lai, hiện tại cho đến tạo tác, không tạo tác. Nếu người này có tâm dịu dàng thì nên vì họ phân biệt nói. Nếu là kẻ dua nịnh, không ngay thẳng, thì nên hỏi ngược lại, khiến họ tự đáp. Đó gọi là Luận cật vấn.

Luận chỉ ký: Nếu có người hỏi thế gian là hữu biên chăng? Thế gian là vô biên chăng? Những câu hỏi như vậy, như tràng hoa nơi hư không, không thể ghi nhận là thơm cùng không thơm. Đó gọi là Luận chỉ ký.

Đã nói về ký, vô ký. Mười hai thứ có đối nay sẽ nói.

Mười hai giới có đối

Một giới nói phần ít

Mười giới, bảy có đối

Một phần ít cũng vậy

Nói cảnh giới có đối

Chướng ngại cùng với duyên.

Các giới của nhãn nhĩ tỷ thiệt thân và bảy tâm giới, mười hai giới này nói là có đối. Phần ít trong pháp giới cũng nói là có đối, nghĩa là tâm pháp. Lại, mười sắc giới nói là có đối, bảy tâm giới và phần ít của pháp giới cũng nói là có đối.

Hỏi: Ở đây nói những gì là có đối?

Đáp:

Nói cảnh giới có đối

Chướng ngại cùng với duyên.

Ba thứ có đối: Là cảnh giới có đối, chướng ngại có đối và duyên có đối.

Cảnh giới có đối: Như Kinh Thi Thiết (Tức Luận A Tỳ Đạt Ma Thi Thiết Túc) đã nói: Mắt cùng với sắc đối cho đến ý cùng với pháp đối. Đã nói ý giới nên biết là đã nói bảy tâm giới và phần ít pháp giới, vì vậy nên biết mười hai giới và phần ít một giới, là có đối. Năm ngoại giới và phần ít pháp giới là không đối. Như các kinh kia nói, nếu quán đất liền thì không quán nước, nói rộng như vậy.

Chướng ngại có đối: Nghĩa là mỗi mỗi đều cùng đối, mỗi mỗi xứ đều chướng ngại. Nếu chướng ngại kia có một thì không có trụ thứ hai, vì cực vi tụ tập, vì chướng ngại, vì có thể phân biệt, nên căn cứ vào xứ sở tức nhận biết. Tám thứ không đối trong đây nên nói rộng.

Duyên có đối: Nghĩa là tâm tâm pháp ở nơi cảnh giới chuyển, nên nói như thế này: Nếu cảnh giới của pháp có đối thì pháp ấy tức chướng ngại có đối chăng? Nên tạo ra bốn trường hợp:

(1) Hoặc cảnh giới có đối không phải là chướng ngại có đối: Nghĩa là bảy tâm giới và pháp giới tương ưng với tâm.

(2) Hoặc chướng ngại có đối không phải là cảnh giới có đối: Nghĩa là năm ngoại giới.

(3) Hoặc cảnh giới có đối cũng là chướng ngại có đối: Nghĩa là năm nội giới.

(4) Hoặc không phải là cảnh giới có đối cũng không phải là chướng ngại có đối: Nghĩa là sắc vô vi, tâm bất tương ưng hành thuộc về pháp nhập.

Nếu cảnh giới của pháp có đối thì duyên kia là có đối chăng? Nghĩa là duyên có đối là cảnh giới có đối. Hoặc cảnh giới có đối không phải là duyên có đối, nghĩa là năm nội giới.

Hữu lậu có mười lăm

Khác hai, ba ba hữu

Trong cõi dục có bốn

Mười một ở hai hữu.

Hữu lậu có mười lăm: Nghĩa là mười lăm giới hoàn toàn là hữu lậu, tức là năm nội giới, năm ngoại giới và năm thức giới. Vì là chỗ sinh của lậu, nên sinh ra lậu, vì là xứ lậu, tức lậu ở trong ấy khởi nên nói là hữu lậu. Như trước có sợ hãi, vì cùng có với lậu nên nói là hữu lậu. Như thức ăn trộn lẫn với chất độc.

Khác hai: Là ý giới, pháp giới, ý thức giới. Ba giới này có hai thứ: Hoặc là hữu lậu, hoặc là vô lậu. Nếu lậu đã sinh là hữu lậu, trái lại là vô lậu.

Ba ba hữu: Là ý giới, pháp giới và ý thức giới, trong ba hữu có thể đạt được là dục hữu, sắc hữu, vô sắc hữu. Vô lậu là không bị trói buộc, tuy trong thân của ba cõi đạt được, nhưng không phải là tự tánh đạt được.

Trong cõi dục có bốn: Là hương giới, vị giới và thức của cảnh giới này. Không phải là cõi sắc, cõi vô sắc, vì đã lìa đoạn thực nơi cõi dục. Ba nhập là tánh của đoạn thực. Cõi sắc, vô sắc kia tức cũng nên không có xúc. Điều này thì không đúng. Tánh của xúc nhập có hai thứ: Hoặc là tánh đoạn thực, hoặc không phải là đoạn thực, vì ở cõi sắc không có tánh của đoạn thực, do thân vi diệu. Hương, vị hoàn toàn là tánh của đoạn thực, thế nên nơi cõi kia không có. Vì cảnh giới không có, nên thức nơi cõi kia cũng không có.

Hỏi: Cõi sắc kia không có hương vị, cũng không có thức của hương vị ấy, thì tỷ giới, thiệt giới cũng nên không có chăng?

Đáp: Vì đủ các căn, nên các căn lần lượt cùng nắm giữ.

Mười một ở hai hữu: Nghĩa là dục hữu, sắc hữu có năm nội giới, sắc, thanh, xúc giới và thức của cảnh giới nơi này. Mười một giới ấy không phải ở cõi vô sắc, vì lìa tánh sắc.

Có giác có quán năm

Ba hành ba, khác không

Có duyên nên biết bảy

Pháp nhập nói phần ít.

Có giác có quán năm: Nghĩa là năm thức giới có giác có quán, vì thô, cho đến cõi Phạm thế, không phải địa trên.

Ba hành ba: Nghĩa là ba giới có ba thứ: Ý giới, ý thức giới và tâm tương ưng với pháp giới. Cõi dục và thiền thứ nhất có giác có quán. Thiền trung gian không giác có quán. Địa trên và tất cả pháp giới không tương ưng thì không giác không quán.

Hỏi: Pháp của địa có giác có quán có bốn thứ: Hoặc có giác có quán. Hoặc không giác có quán. Hoặc không giác không quán. Hoặc không phải có giác có quán, không phải không giác có quán, không phải không giác không quán.

Hỏi: Thế nào là có giác có quán?

Đáp: Cõi dục và thiền thứ nhất, trừ giác quán, còn lại là các tâm tâm pháp khác.

Hỏi: Thế nào là không giác có quán?

Đáp: Là giác.

Hỏi: Thế nào là không giác không quán?

Đáp: Là sắc, tâm bất tương ưng hành.

Hỏi: Thế nào là không phải có giác có quán, không phải không giác có quán, không phải không giác không quán?

Đáp: Là quán.

Khác không: Nghĩa là phần còn lại không phải là có giác, không phải là có quán, vì không có duyên.

Có duyên nên biết bảy, Pháp nhập nói phần ít: Nghĩa là bảy tâm giới nói là có duyên. Vì có duyên này nên nói là có duyên. Như người có con nói người ấy là có con.

Phần ít của pháp giới có duyên: Nghĩa là phần ít của tâm pháp không có duyên không phải là tâm pháp, tức là nhãn thức và pháp tương ưng duyên với sắc cho đến thân thức và pháp tương ưng. Xúc duyên với ý thức cùng pháp tương ưng duyên với tất cả pháp.

Chín không thọ, khác hai

Vì vô vi chung một

Hoàn toàn là hữu vi

Nên biết mười bảy giới.

Chín không thọ: Nghĩa là chín giới không nhận lấy tên thọ. Nếu căn số của sắc hiện tại và không lìa căn, nếu căn này bị đoạn hoại, phá vỡ, bức bách, thì tâm tâm pháp thọ dừng trụ ở nơi kia. Nếu khác thì không thọ, nghĩa là chín giới không thọ, là bảy tâm giới cùng thanh giới, pháp giới vì không đoạn hoại.

Khác hai: Nghĩa là năm nội giới ở hiện tại là thọ, vì khởi đoạn cùng nhận biết. Quá khứ, vị lai là không thọ, vì tâm tâm pháp không trụ. Sắc, hương, vị, xúc nếu ở hiện tại và không lìa căn là thọ. Như tâm tâm pháp dừng trụ trong căn, các giới kia cũng như vậy, vì không lìa căn.

Vì vô vi chung một: Tức một pháp giới là hữu vi, vô vi. Ở đây, có ba thứ: Vì là thường nên là vô vi. Vì pháp khác là vô thường nên là hữu vi. Thế nên hữu vi, vô vi chung một.

Hoàn toàn là hữu vi, Nên biết mười bảy giới: Nghĩa là mười bảy giới là vô thường, nên hoàn toàn là hữu vi sinh diệt. Vì ba tướng hữu vi đã thành, vì có nhân, vì rơi vào ấm, vì gắn liền với đời, vì hạ trung thượng. Cùng với các thứ trên trái nhau là vô vi.

Có tội cùng có báo

Nhiễm ô và ẩn mất

Tu tập tức có mười

Trong một giới có kiến

Cũng nói có tâm pháp

Một giới là tánh kiến.

Bảy tâm giới, sắc, thanh, pháp giới có hai thứ: Hoặc có tội, hoặc không tội. Nhiễm ô là có tội, không nhiễm ô là không tội. Như có tội, như không tội, như thế thì nhiễm ô, ẩn mất cũng vậy. Năm thức giới, sắc giới, thanh giới nếu là thiện, bất thiện là có báo, nếu vô ký là không báo. Ý giới, ý thức giới, pháp giới, nếu bất thiện, thiện hữu lậu là có báo, nếu vô ký, vô lậu thì không báo.

Hỏi: Vì sao bất thiện, thiện hữu lậu là có báo, còn vô ký, vô lậu thì không báo?

Đáp: Ví như hạt giống bên ngoài do ba sự hòa hợp mới sinh mầm. Tức có hạt giống chắc, dùng nước tưới đủ, do đất cỏ phủ lấp, sức của tự tánh cùng các vật dụng, nên mầm lá được sinh. Tuy có hạt giống cứng chắc, nhưng không dùng nước để tưới, không dùng cỏ đất phủ lấp, tức các duyên không đủ nên hạt giống không sinh mầm, lá. Có hạt giống không chắc, tuy có tưới nước, dùng cỏ đất phủ lấp, nhưng vì tự tánh của hạt giống không chắc thật nên mầm chồi không sinh.

Như hạt giống bên ngoài có ba sự sai biệt như vậy, duyên khởi bên trong cũng có ba sự sai biệt. Như chủng tử ban đầu, pháp hữu lậu thiện, bất thiện kiên cố như thế, dùng nước ái tưới thấm, dùng các kiết khác để che phủ, do sức nơi các duyên của tự tánh nên mầm hữu được sinh. Như chủng tử thứ hai là pháp vô lậu bền chắc như vậy, nhưng không có nước ái tưới thấm và kiết khác che phủ, tức nhân duyên không đủ nên mầm không sinh khởi. Như chủng tử thứ ba là pháp vô ký như vậy, tuy có dùng nước ái để tưới thấm, dùng kiết khác để che phủ, nhưng vì tự tánh không thật nên mầm hữu không sinh.

Tu tập tức có mười: Nghĩa là bảy tâm giới, sắc giới, thanh giới, thiện là tu. Bất thiện, vô ký là không tu. Pháp giới thiện, hữu vi là tu. Bất thiện, vô ký cùng số diệt là không tu.

Hỏi: Vì sao bất thiện, vô ký cùng số diệt là không tu?

Đáp: Vì quả ái nên tu. Do bất thiện, vô ký không có quả ái nên không tu. Tánh của số diệt là quả không nối tiếp sinh khởi nên không tu. Nên biết tám giới không tội, không báo, không nhiễm ô, không ẩn mất, nên là không tu.

Trong một giới có kiến: Nghĩa là trong pháp giới có tám thứ kiến là năm kiến như thân kiến v.v…, đẳng kiến của thế tục, học kiến, vô học kiến. Kiến nghĩa là quán xem, là quyết định, là thọ nhận vững chắc, là duyên vào sâu. Như đêm tối phủ khắp, thấy sắc cấu uế, tuệ thấy pháp cũng như vậy. Như đêm tạnh thấy sắc, đẳng kiến của thế tục cũng như thế. Như ban ngày râm mát thấy sắc, học kiến cũng như vậy. Như ban ngày tạnh ráo thấy sắc, vô học kiến cũng như thế.

Cũng nói có tâm pháp: Tức pháp giới này có tâm pháp, là thọ, tưởng v.v…, vì có tâm pháp ấy nên nói là có tâm pháp. Nên biết mười bảy giới và phần ít của một giới không phải là tâm pháp.

Một giới là tánh kiến: Nghĩa là nhãn giới vì có thể ngắm nhìn. Nên biết mười sáu giới và phần ít của một giới không phải là kiến.

Hỏi: Thế nào là thấy? Là mắt thấy hay là nhãn thức thấy? Là nhãn thức tương ưng với tuệ nên thấy hay là do hòa hợp nên thấy? Tất cả những chỗ nghi gì là có lỗi. Vì nếu nói mắt thấy thì vì sao thức khác trong cùng một lúc sinh khởi lại không thấy? Vì sao không cùng có được tất cả cảnh giới? Nếu nói nhãn thức thấy, thì tướng của thức không phải là tướng của kiến, và người không có mắt cũng nên thấy. Nếu nói vì nhãn thức tương ưng với tuệ nên thấy, thì lại do nhĩ thức tương ưng với tuệ nên nghe chăng? Nếu nói do hòa hợp nên thấy thì điều này không nhất định, vì hoặc có khi nhãn thức có hai mươi hai pháp, hoặc hai mươi mốt pháp, hoặc mười hai pháp?

Đáp:

Tự phần mắt thấy sắc

Không phải nhãn thức thấy

Không phải tuệ hòa hợp

Không thấy sắc ngăn ngại.

Vì Tự phần mắt thấy sắc, thế nên thức khác cùng lúc tức không thấy. Vì thức khác đều cùng với không mắt hiện ở trước, không phải là tự phần. Do nhân này nên không cùng có được tất cả cảnh giới. Vì tự phần nơi các căn không đều cùng với thức trụ nơi căn, nên gọi là tự phần. Không có hai thức đều cùng hành, không có duyên thứ đệ thứ hai.

Hỏi: Nếu mắt lìa thức không thấy sắc, tức là thức thấy không phải là mắt thấy, vậy đâu cần dùng đến mắt?

Đáp: Thức thành mắt kia thì mắt kia thành, vì không phải là phần, tức nhân nơi không phải là phần. Như thọ không lìa tưởng, tưởng không lìa thọ. Mắt kia cũng như vậy.

Nếu nhãn thức thấy thì cái gì lại nhận thức? Nếu tuệ thấy thì cái gì lại hiểu biết? Nếu do hòa hợp nên thấy thì sự việc hòa hợp của các pháp này đều khác biệt. Nghĩa kia đã có gián đoạn thì không có hòa hợp. Nếu do hòa hợp nên thấy thì tức nên có hai quyết định nơi tự pháp. Nghĩa này là không đúng.

Nếu nhãn thức thấy thì nên thấy sắc chướng ngại, do không đối. Tuệ cùng hòa hợp cũng lại như vậy. Do nhãn thức không đối nên không nhận thức được sắc ngăn ngại, lại cho là không thấy thì không đúng, tức nên phân biệt. Phân biệt nghĩa là nên nói vì sao nhãn thức không nhận biết sắc ngăn ngại? Nên nói vì một cảnh giới của mắt chuyển, cho nên nhãn thức không nhận biết được sắc ngăn ngại. Do mắt có đối, vì có đối tức không thấy sắc ngăn ngại, thế nên nhãn thức không nhận biết. Vậy thức phải có hai tự tánh hoặc biết hoặc thấy. Thứ khác cũng như vậy.

Lại nữa, nếu nhãn thức thấy thì vì sao không nhận biết? Đã biết nhãn thức không nhận biết sắc ngăn ngại, lại nên biết, vì một cảnh giới của mắt chuyển, tức lại phải nói là chướng ngại, vì có đối nương dựa, nên không nhận biết được sắc ngăn ngại, nói như thế là không đúng. Do có đối, không đối và nương dựa, tức nhãn thức có hai thứ nương dựa là mắt và thứ lớp diệt ý. Nếu vì có đối nương dựa nên không thấy sắc ngăn ngại, thì không đối không nương dựa, tức phải thấy sắc ngăn ngại. Nói khác là có lỗi. Vì mắt là không cùng nương dựa, còn ý là cùng nương dựa nếu không thấy sắc ngăn ngại thì không đúng. Nương dựa là ở nơi tướng như sắc v.v… không phải là phần. Cũng không phải mắt là sắc, nên nhãn thức là sắc, cũng không phải mắt không duyên, không duyên cũng không phải mắt không tương ưng. Những thứ không tương ưng như vậy v.v… đều có lỗi.

Lại nữa, ý cũng nhận biết là không cùng nương dựa. Nếu nương dựa vào ý, nhãn thức sinh, thì chưa từng nương dựa vào ý kia khiến thức khác sinh, vì tâm mỗi mỗi nối tiếp chuyển biến, thế nên ý cũng là không cùng nương dựa, nên kiến và thức không gián cách, thức tức là kiến thì không đúng. Vì có bốn thứ không hoại, nên Đức Thế Tôn đã nói bốn thứ kiến, văn, giác, thức đều không hoại. Nếu thức tức là kiến, thì chỉ có ba thứ: văn, giác và thức, vì kiến tức là thức tức nên không như vậy. Do thế nên biết là mắt thấy và thức dùng phân biệt để kiến lập thành bốn loại thì không đúng. Vì không thấy sắc ngăn ngại là lỗi trước đã nói, do thức và kiến có gián đoạn nên danh nghĩa đều khác. Nhãn quang chiếu soi gọi là kiến. Tâm theo đấy phân biệt gọi là thức.

Nếu lại nói mắt thấy thì sắc kia tức nên cân xứng với nhãn lượng, là phạm lỗi tự sinh, vì thức không có hạn lượng. Thức không có hạn lượng như Đức Thế Tôn đã nói. Như Đức Thế Tôn nói mắt có thấy nhưng cho là thức thấy tức không đúng. Như nói pháp của ý thức, lại có pháp trong ấy có thức chăng? Nếu nói tức là pháp của ý thức, nên biết mắt cũng như vậy. Như Đức Thế Tôn đã nói: “Này Phạm chí! Mắt là cửa ngõ, vì trông thấy sắc, đây là dị danh của thấy. Ông đã hiểu sai về lời Ta đã nói, vì tâm tâm pháp đều không có phương hướng, nơi chốn, lại nói có ra vào là không đúng”. Tức Khế kinh kia nói ý là cửa ngõ, là pháp của thức, lại không có pháp khác ở trong pháp của thức. Thế nên trong mắt tức là thấy. (Từ câu: Nhãn thức không phải là thấy, đến đây gồm có bảy chương: Chương một là gạn hỏi biện biệt về chỗ không phải. Sáu chương còn lại là biện luận, phân tích, giải thích về thức không phải là thấy, vì vật khác người khác, nên dẫn chỗ chấp của kẻ kia. Sau cùng là kiểm nghiệm sự thật, nhằm bác bỏ sự sai trái để thành lập nghĩa của mình).

Số cực vi có mười

Chín giới bốn đại tạo

Hai giới nói phần ít

Nội giới nói mười hai

Đây là tánh của căn

Trong một giới có căn.

Số cực vi có mười: Nghĩa là mười sắc giới là tụ của cực vi, vì có phần, vì ngăn che, vì trở ngại lớn, vì căn cứ nơi xứ sở, nên biết tám giới không phải là tụ của cực vi.

Chín giới bốn đại tạo: Nghĩa là trừ xúc giới, chín sắc giới còn lại là do bốn đại tạo, vì chúng do bốn đại sinh ra, nên bốn đại là nhân. Bốn đại cùng với các giới này làm năm nhân sinh khởi: Là nhân sinh, nhân nương dựa, nhân kiến lập, nhân nuôi dưỡng, nhân tăng trưởng.

Hai giới nói phần ít: Nghĩa là hai giới nên phân biệt là xúc giới và pháp giới. Hoặc do bốn đại tạo, hoặc không phải do bốn đại tạo. Trong xúc giới là tánh của bốn đại không phải do bốn đại tạo, như bảy thứ sắc được tạo là do bốn đại tạo. Trong pháp giới thì nghiệp thân, nghiệp miệng là do bốn đại tạo. Pháp giới khác thì không phải do bốn đại tạo. Như bảy tâm giới không phải do bốn đại tạo. Mười một thứ là bốn đại tức chỗ dựa của nhãn nhập cho đến chỗ dựa của pháp nhập, không phải là ý nhập. Sắc được tạo cũng có mười một thứ, là từ nhãn nhập cho đến pháp nhập, không phải là ý nhập.

Hoặc có thuyết nói: Chỗ dựa của nhãn nhập là bốn đại sinh nhãn nhập, số còn lại cũng như vậy.

Có thuyết cho: Chỗ dựa của nhãn nhập là bốn đại sinh ba nhập, là nhãn nhập, thân nhập và xúc nhập. Như vậy cho đến chỗ dựa của thiệt nhập.

Ở đây, có sai biệt: Tự căn nơi chỗ dựa của thân nhập sinh hai nhập là thân nhập và xúc nhập. Chỗ dựa của sắc, thanh, hương, vị nhập cũng như vậy. Chỗ dựa của xúc nhập chỉ sinh ra xúc nhập.

Lại có thuyết nêu: Tất cả bốn đại sinh ra sắc, thanh. Tất cả sắc của cõi dục đều không lìa hương, vị. Chỗ dựa của pháp nhập cũng như vậy. Chỗ dựa của nhãn nhập sinh bảy nhập là nhãn nhập, thân nhập và năm cảnh giới. Như vậy cho đến chỗ dựa của thiệt nhập, chỗ dựa của thân nhập sinh sáu nhập, trừ bốn căn như nhãn v.v… Chỗ dựa của pháp nhập cũng như thế. Chỗ dựa của sắc nhập sinh năm nhập, cho đến chỗ dựa của xúc nhập cũng như thế.

Lại có thuyết nói: Chỗ dựa của nhãn nhập sinh mười một nhập, cho đến chỗ dựa của pháp nhập cũng như vậy. Đối với nhân duyên của bốn đại này, phân biệt bốn đại của tướng khác, khởi sắc tạo của tướng khác, nên tạo ra bốn trường hợp:

(1)  Có bốn đại của tướng đồng khởi sắc tạo của tướng khác.

(2)  Có bốn đại của tướng khác khởi sắc tạo của tướng đồng.

(3)  Có bốn đại của tướng khác khởi sắc tạo của tướng khác.

(4)  Có bốn đại của tướng đồng khởi sắc tạo của tướng đồng.

Thế nào là bốn đại của tướng đồng khởi sắc tạo của tướng khác? Nghĩa là bốn đại của tướng xúc sinh khởi mười một thứ sắc tạo.

Thế nào là bốn đại của tướng khác khởi sắc tạo của tướng đồng? Nghĩa là bốn đại của tướng cứng chắc, ẩm ướt, ấm áp, lay động khởi sắc tạo của tướng xúc.

Thế nào là bốn đại của tướng khác khởi sắc tạo của tướng khác? Nghĩa là bốn đại của tướng cứng chắc, ẩm ướt, ấm áp, lay động khởi mười một thứ sắc tạo.

Thế nào là bốn đại của tướng đồng khởi sắc tạo của tướng đồng? Nghĩa là bốn đại của tướng xúc khởi sắc tạo của tướng xúc.

Hỏi: Bốn đại và sắc tạo có sai biệt gì?

Đáp: Bốn đại là nhân, sắc tạo là quả. Tướng cứng chắc, ẩm ướt, ấm áp, lay động là bốn đại. Nếu sắc nhân nơi bốn đại sinh nhưng không có tướng của bốn đại, thì sắc ấy là sắc tạo.

Lại nữa, không thể thấy là bốn đại, có thể thấy, không thể thấy là sắc tạo. Các thuyết là như vậy v.v…

Nội giới nói mười hai: Nghĩa là năm sắc giới trong và bảy tâm giới. Mười hai giới này là nội giới, nên biết sáu giới là ngoại giới.

Hỏi: Vì pháp nên nói là nội hay là vì người nên nói là nội? Nếu vì pháp nên nói là nội, thì tất cả pháp không có tự nó. Nếu vì người nên nói là nội thì pháp không có người?

Đáp: Vì pháp nên nói là nội, song không phải là tất cả pháp, vì là đối tượng nương dựa của tâm tâm pháp nên nói là nội, ngoại. Ý giới cũng là chỗ nương dựa, cũng là người nương dựa, còn năm sắc giới kia là chỗ nương dựa, không phải là người nương dựa. Tâm pháp tuy là người nương dựa nhưng không phải là chỗ nương dựa. Ngoài ra, không phải là chỗ nương dựa cũng không phải là người nương dựa.

Đây là tánh của căn: Tức mười hai thứ này nói là căn.

Trong một giới có căn: Nghĩa là trong pháp giới mười một pháp là căn, số còn lại không phải là căn, tức nên biết năm ngoại giới và phần ít của một giới không phải là căn.

Phần khác phân mười bảy

Một giới nói có phần

Mười bảy giới gắn đời

Một phần ít ba nghiệp.

Phần khác phân mười bảy: Nghĩa là trừ pháp giới, giới còn lại nói là có phần và có phần khác. Nhãn giới kia có phần: Nghĩa là phân biệt ba loại đời: Quá khứ đã thấy sắc, hiện tại nay thấy sắc và vị lai sẽ thấy sắc.

Có phần khác: Nghĩa là bốn loại: Quá khứ không thấy sắc đã diệt. Hiện tại không thấy sắc đang diệt. Đời vị lai có hai thứ: Pháp không sinh và pháp sinh. Pháp sinh nghĩa là không thấy sắc sẽ diệt. Sắc giới khác cũng thế. Bảy tâm giới, nếu pháp vị lai không sinh, thì chúng là có phần khác. Ngoài ra là có phần.

Một giới nói có phần: Nghĩa là pháp giới hoàn toàn là có phần, không phải có phần khác, vì tất cả pháp giới đều là cảnh giới của ý thức. Nếu nói giới khác tức cũng nên không phải là có phần khác, sự việc này là không đúng, vì giới kia không do ý thức, nên lập có phần và có phần khác. Nghĩa là mắt thấy sắc là có phần, không thấy sắc là có phần khác. Sắc do mắt đã trông thấy là có phần, chỗ sắc không trông thấy là có phần khác.

Về sai biệt: Nghĩa là nếu mắt là một có phần thì tất cả căn khác cũng là có phần. Nếu một căn là có phần khác thì tất cả căn khác cũng là có phần khác. Sắc nếu trông thấy là có phần, không phải là thứ khác. Tai, mũi, lưỡi, thân, tiếng, hương, vị, xúc cũng như vậy. Đệ nhất nghĩa như nói về mắt. Số tục như nói về sắc.

Hỏi: Từng có pháp cùng có, hoặc là có phần, hoặc là có phần khác chăng?

Đáp: Có. Mười sắc nhập hoặc là có phần, hoặc là có phần khác. Tướng như sinh v.v… của sắc kia là có phần, vì thuộc về pháp giới. Nếu pháp ý không sinh là có phần khác. Pháp cùng có tương ưng với ý kia là có phần, vì thuộc về pháp giới.

Hỏi: Có phần và có phần khác có nghĩa gì?

Đáp: Lúc có phần nói là có phần. Nhãn giới có hai thứ: Phần có nghiệp và phần không nghiệp. Mắt kia là phần có nghiệp hay là phần không nghiệp? Do là đối tượng của phần nên nói là có phần. Phần không nghiệp của mắt kia cũng là phần có nghiệp. Vì là đối tượng của phần nên cũng nói là có phần. Hai phần đều cùng được tướng có phần.

Hỏi: Vậy những số phần nào được gọi là phần?

Đáp: Phần không nghiệp là phần có nghiệp, vì là đối tượng của phần nên nói có phần khác. Vì sao? Vì được sức của phần có nghiệp. Như người có con, nghiệp kia cũng như vậy.

Mười bảy giới gắn đời: Nghĩa là mười bảy giới gắn liền nơi sự việc của ba đời nên nói là ba đời, hoặc quá khứ, hoặc vị lai, hoặc hiện tại. Nếu sinh khởi rồi diệt là quá khứ. Nếu chưa sinh khởi là vị lai. Đã sinh khởi chưa diệt là hiện tại.

Lại nữa, nếu chưa tạo tác nói là vị lai. Nếu đang tạo tác nói là hiện tại. Nếu tạo tác rồi diệt mất nói là quá khứ.

Một giới nên phân biệt: Là pháp giới, nếu hữu vi thì rơi vào ba đời, nếu vô vi thì không rơi vào ba đời.

Nghiệp là ba giới có nghiệp, tức sắc, thanh và pháp giới. Nơi sắc giới thân tạo tác là nghiệp, sắc giới khác không phải là nghiệp. Về thanh giới miệng tạo tác là nghiệp. Thanh giới khác không phải là nghiệp. Thân, khẩu nghiệp và tư của pháp giới là nghiệp, pháp giới khác không phải là nghiệp. Tướng của nghiệp nơi phẩm Nghiệp sẽ nói rộng.

Phi học phi vô học

Nên biết mười lăm giới

Kia đều tu đạo đoạn

Giới khác cùng ba thứ

Ở trong ba giới ấy

Nói trì giới, phạm giới.

Phi học phi vô học, Nên biết mười lăm giới: Nghĩa là mười sắc giới, năm thức giới là phi học phi vô học. Vì hữu lậu nên tức các giới này do tu đạo đoạn trừ vì trí đối trị.

Giới khác cùng ba thứ: Tức ba giới khác là ý giới, pháp giới, ý thức giới đều cùng có ba thứ: Hoặc là học, hoặc là vô học, hoặc là phi học phi vô học. Hoặc do kiến đạo đoạn trừ, hoặc do tu đạo đoạn trừ, hoặc không đoạn trừ. Ý tương ưng với học là học. Nghĩa là ý tương ưng với khổ pháp nhẫn cho đến tương ưng với tam muội kim cang là học. Ý tương ưng với vô học là vô học. Nghĩa là ý tương ưng với tận trí, vô sinh trí và đẳng kiến vô học là vô học. Ý tương ưng với phi học phi vô học là phi học phi vô học. Nghĩa là thiện, nhiễm ô, vô ký. Thiện có ba thứ là phương tiện đắc, lìa dục đắc và sinh đắc. Nhiễm ô có hai thứ là bất thiện và vô ký ẩn mất. Vô ký có bốn thứ là oai nghi, công xảo, sinh báo và biến hóa.

Như ý giới, ý thức giới cũng vậy.

Pháp giới hoặc là học, hoặc là vô học, hoặc là phi học phi vô học. Nghĩa là của nghiệp thân khẩu của hàng hữu học cùng thọ, tưởng, hành ấm là học. Đây cũng tức là vô học. Pháp giới gồm thâu nghiệp thân khẩu hữu lậu cùng thọ, tưởng, hành ấm và vô vi là phi học phi vô học. (Về nghĩa học, vô học nơi phẩm Nghiệp sẽ nói rộng).

Ba giới này do nhẫn đối trị, tức là kiến đạo đoạn trừ. Trí đối trị là tu đạo đoạn trừ. Vô lậu là không đoạn trừ. (Về nghĩa do kiến đạo đoạn trừ, tu đạo đoạn trừ, trong phẩm Sử sẽ nói rõ).

Ở trong ba giới ấy, Nói trì giới, phạm giới: Tức nơi sắc giới, thân tạo tác thiện là trì giới, thân tạo tác bất thiện là phạm giới. Thanh giới là do miệng tạo tác. Pháp giới chỉ là vô tác. (Về tướng của trì giới, phạm giới, trong phẩm Nghiệp sẽ nói rộng).

Mười bảy nói có trên

Một giới nói hai thứ

Quả có quả mười bảy

Một ba giác đã nói.

Mười bảy nói có trên: Nghĩa là trừ pháp giới, mười bảy giới kia là có trên, vì hữu vi.

Một giới nói hai thứ: Là pháp giới, hoặc là có trên, hoặc là không trên (Vô thượng). Pháp giới hữu vi và hư không phi số diệt là có trên. Số diệt là thiện, là thường, nên nói là không trên.

Quả có quả mười bảy: Nghĩa là trừ pháp giới, mười bảy giới còn lại là quả là có quả. Vì pháp hữu vi tánh yếu kém, nên lần lượt cùng làm nhân mới sinh khởi.

Một ba giác đã nói: Là pháp giới có ba thứ: Hoặc là quả không phải là có quả. Hoặc là quả là có quả. Hoặc không phải là quả không phải là có quả. Quả không phải là có quả: Nghĩa là số diệt. Quả là có quả: Nghĩa là pháp giới hữu vi. Không phải là quả không phải là có quả: Nghĩa là hư không phi số diệt.

Ba giới ba thứ duyên

Một dựa cũng như vậy

Năm một, hoặc phân biệt

Duyên khác chỉ nói một.

Ba giới ba thứ duyên: Nghĩa là nhãn, nhĩ và ý thức giới có ba thứ duyên là thiện, bất thiện và vô ký.

Một dựa cũng như vậy: Tức chỗ dựa của ý thức giới cũng có ba thứ là thiện, bất thiện, vô ký.

Năm một: Nghĩa là năm thức dựa vào một thứ. Hoặc phân biệt: Nghĩa là đều cùng khởi năm căn và thứ lớp diệt ý. Nếu nhận lấy cùng sinh khởi và nương dựa tức là một vô ký, do năm căn chỉ là vô ký.

Nếu nhận lấy thứ lớp diệt ý thì có ba thứ, do ý giới là thiện, bất thiện, vô ký.

Lại nữa, phần nương dựa và phần duyên thứ đệ của nhãn thức nên phân làm bốn trường hợp: (1) Hoặc là phần nương dựa không phải là phần duyên thứ đệ. (2) Hoặc là phần duyên thứ đệ không phải là phần nương dựa. (3) Hoặc là phần nương dựa cũng là phần duyên thứ đệ. (4) Hoặc không phải là phần nương dựa cũng không phải là phần duyên thứ đệ.

Phần nương dựa không phải là phần duyên thứ đệ: Nghĩa là nhãn thức cùng sinh khởi với nhãn căn.

Phần duyên thứ đệ không phải là phần nương dựa: Nghĩa là tâm pháp của thứ lớp diệt kia.

Phần nương dựa cũng là phần duyên thứ đệ: Nghĩa là thứ lớp diệt ý.

Không phải là phần nương dựa cũng không phải là phần duyên thứ đệ: Nghĩa là trừ ba trường hợp trên.

Cho đến thân thức nương dựa cũng như vậy.

Hỏi: Ý thức nương dựa là duyên thứ đệ chăng?

Đáp: Đúng vậy. Ý thức nương dựa là duyên thứ đệ.

Hỏi: Từng có duyên thứ đệ không phải là ý thức nương dựa chăng?

Đáp: Ý thức nương dựa tương ưng với tâm pháp.

Hỏi: Nếu nhãn thức lấy ý giới làm sự nương dựa, thì vì sao gọi là nhãn thức mà không gọi là ý thức?

Đáp: Vì mắt là không cùng nương dựa. Như mầm của hạt giống, như tiếng trống. Mắt là không cùng nương dựa với nhãn thức, còn ý là cùng nương dựa, vì sáu thức thân lần lượt theo duyên thứ đệ sinh.

Duyên khác chỉ nói một: Nghĩa là tỷ thức, thiệt thức, thân thức giới, ba giới này chỉ duyên nơi vô ký, do hương, vị, xúc hoàn toàn là vô ký. Ý giới tức sáu thức thân, vì lìa chúng thì không có giới nào khác, nên không nói là pháp giới. Nếu tương ưng với tâm thì nói như tâm.

Nếu mắt tùy sinh thấy

Nhĩ giới tùy sinh nghe

Ba giới tùy sinh giác

Ý giới tùy sinh thức.

Nếu mắt tùy sinh, gọi là thấy. Tai tùy sinh gọi là nghe. Ba việc tùy sinh gọi là giác. Ý tùy sinh gọi là thức. Ba giới kia do phương tiện đắc, do lìa dục đắc, do tu đắc tánh thần thông, là quả của định bốn chi, năm chi. Thế nên mắt và tai kia tùy sinh đều kiến lập riêng biệt. Ba căn còn lại tùy sinh, nhưng vì chúng không có tướng phần nên cùng kiến lập một.

Hỏi: Giác có nghĩa gì?

Đáp:

Cảnh giới chỉ vô ký

Tâm giác ở trong chuyển

Tùy sinh ba thứ thức

Đấy tức gọi là giác.

Hương, vị, xúc hoàn toàn là vô ký, vì vô ký nên nói là giác. Vì thế tùy sinh ba thức gọi là giác.

Hai cảnh không thọ gần

Cảnh giới xa gần một

Khác hoàn toàn thọ gần

Chỗ dựa và cảnh giới.

Hai cảnh không thọ gần: Nghĩa là cảnh giới của nhãn thức, nhĩ thức là không thọ gần. Như áp sát mắt vào sắc tức không thấy. Tai cũng như thế, đặt gần sát thì không nghe. Tuy ở sâu bên trong nhưng vẫn nghe âm thanh xa từ bên ngoài.

Cảnh giới xa gần một: Nếu nói xa cũng không thấy nghe, thì đây tức là ý thức, bất luận cảnh giới xa hay gần cũng đều thọ nhận, trừ chính mình và những pháp tương ưng, cùng có, tất cả pháp khác đều thọ nhận.

Khác hoàn toàn thọ gần: Nghĩa là cảnh giới của tỷ, thiệt, thân thức là thọ nhận gần, vì dựa vào duyên vô gián.

Chỗ dựa và cảnh giới: Nghĩa là tỷ thức, thiệt thức, thân thức, ba thức này là cùng dựa, nhận lấy cảnh giới. Tỷ căn tiếp xúc với mùi hương vi tế, đồng đều mới sinh thức. Thiệt căn, thân căn đối với vị xúc vi tế cũng như vậy. (Nghĩa là ở xứ căn trần hòa hợp mới sinh thức).

Hai giới nói bất định

Cảnh một giới cũng vậy

Năm giới dựa hoặc cùng

Một giới dựa nói xa.

Hai giới nói bất định: Là nhãn thức, nhĩ thức, chỗ dựa, duyên cùng bất định. Nhãn thức giới hoặc chỗ dựa lớn mà duyên nhỏ, như trông thấy đầu sợi lông. Hoặc chỗ dựa nhỏ mà duyên lớn, như trông thấy ngọn núi. Hoặc chỗ dựa và duyên đồng nhau, như trông thấy quả bồ đào. Nhĩ thức cũng như thế.

Cảnh một giới cũng vậy: Tức cảnh giới của ý thức là cảnh giới bất định, hoặc lớn hoặc nhỏ. Vì là cảnh giới của tất cả pháp, vì dựa nơi vô hình, vì lớn nhỏ đều không thể nói, vì lìa ý giới, thì sáu thức không có thể riêng nên không nói. Tâm pháp thì như nói về tâm.

Năm giới dựa hoặc cùng: Nghĩa là năm thức thân, hoặc cùng với chỗ dựa kết hợp. Kết hợp nghĩa là năm căn. Cách xa là thứ lớp diệt ý.

Một giới dựa nói xa: Tức ý thức giới, chỗ dựa được nói là xa, nghĩa là thứ lớp diệt ý của giới kia.

Mười một giới có hai

Sáu ba, một bốn thứ

Sự và báo nuôi lớn

Sát-na cùng dựa chủng.

Mười một giới có hai: Nghĩa là năm nội giới, thanh giới và năm thức giới có hai thứ.

Sáu ba: Là sắc, hương, vị, xúc, ý giới, ý thức giới. Sáu giới này có ba thứ. Một bốn thứ: Là pháp giới có bốn thứ.

Hỏi: Vì sao chủng loại nói là hai, ba, bốn?

Đáp: Sự và báo nuôi lớn, Sát-na cùng dựa chủng: Tức nhãn giới kia có hai thứ là báo và nuôi lớn. Báo sinh kia là quả báo của nghiệp thiện, bất thiện. Ba đường ác là quả của nghiệp bất thiện, người trời là quả của nghiệp thiện. Mắt và các vật dụng, phạm hạnh, chánh thọ đã nuôi lớn. Vì sự nuôi lớn này không có tánh nương dựa riêng, nên không nói đến. Sự nương dựa vào sát-na cũng như vậy.

Như nhãn giới, thì nhĩ, tỷ, thiệt, thân giới cũng như thế.

Thanh giới cũng có hai thứ là nuôi lớn và nương dựa.

Hỏi: Vì sao âm thanh không phải là báo?

Đáp: Vì do phương tiện trong hiện tại sinh. Âm thanh là phương tiện của hiện tại sinh. Báo nghĩa là nghiệp của đời trước đã khởi. Âm thanh nghĩa là tùy theo dục sinh, còn báo không phải tùy theo dục sinh.

Lại nữa, âm thanh đối với âm thanh là có gián đoạn. Báo đối với báo không có gián đoạn. Nếu âm thanh là báo, tức nên như sắc, nơi tất cả thời không đứt đoạn, nhưng âm thanh thì có đứt đoạn, thế nên không phải là báo.

Năm thức giới có hai thứ là báo và chỗ dựa. Sắc, hương, vị, xúc giới có ba thứ là báo, chỗ dựa và nuôi lớn.

Ý giới có ba thứ là báo, chỗ dựa và sát-na. Sát-na là khổ pháp nhẫn cùng sinh với ý giới. Ý thức giới cũng như vậy.

Pháp giới có bốn thứ là sát-na, báo, chỗ dựa và sự. Báo kia là quả báo của nghiệp thiện, bất thiện. Sát-na là quyến thuộc của khổ pháp nhẫn. Chỗ dựa là trừ quyến thuộc của khổ pháp nhẫn, còn lại là pháp giới hữu viv. Trừ báo, còn lại là pháp giới hữu vi vô ký không ẩn mất, pháp giới nhiễm ô. Pháp giới vô vi chỉ có sự.

Sinh thân nhãn sắc giới

Tự địa và tha địa

Nếu nhãn thức kia sinh

Tự tha địa cũng vậy.

Sinh cõi dục, thân cõi dục, mắt cõi dục, sắc cõi dục, nhãn thức cõi dục sinh. Như vậy sinh ở địa thiền thứ nhất, thân của địa thiền thứ nhất, mắt của địa thiền thứ nhất, sắc của địa thiền thứ nhất, nhãn thức của địa thiền thứ nhất sinh. Đó gọi là tự địa.

Tha địa là sinh cõi dục, mắt của địa thiền thứ nhất thấy sắc cõi dục. Thân cõi dục kia, mắt của địa thiền thứ nhất, sắc cõi dục, nhãn thức của địa thiền thứ nhất sinh.

Thấy thiền thứ nhất: Nghĩa là thân cõi dục kia, mắt, sắc của địa thiền thứ nhất, nhãn thức của địa thiền thứ nhất sinh. Sinh cõi dục, mắt của địa thiền thứ hai thấy sắc cõi dục. Thân cõi dục kia, mắt của địa thiền thứ hai, sắc cõi dục, nhãn thức của địa thiền thứ nhất sinh.

Thấy địa thiền thứ nhất: Nghĩa là thân cõi dục kia, mắt của địa thiền thứ hai, sắc của địa thiền thứ nhất, nhãn thức của địa thiền thứ nhất sinh.

Thấy thiền thứ hai: Nghĩa là thân cõi dục kia, mắt, sắc của địa thiền thứ hai, nhãn thức của địa thiền thứ nhất sinh. Sinh cõi dục, mắt của địa thiền thứ ba thấy sắc cõi dục. Thân cõi dục kia, mắt của địa thiền thứ ba thấy sắc cõi dục, nhãn thức của địa thiền thứ nhất sinh.

Thấy thiền thứ nhất: Nghĩa là thân cõi dục kia, mắt của địa thiền thứ ba, sắc của địa thiền thứ nhất, nhãn thức của địa thiền thứ nhất sinh.

Thấy thiền thứ hai: Nghĩa là thân cõi dục kia, mắt của địa thiền thứ ba, sắc của địa thiền thứ hai, nhãn thức của địa thiền thứ nhất sinh.

Thấy thiền thứ ba: Nghĩa là thân cõi dục kia, mắt, sắc của địa thiền thứ ba, nhãn thức của địa thiền thứ nhất sinh.

Sinh cõi dục, mắt của địa thiền thứ tư thấy sắc cõi dục. Thân cõi dục kia, mắt của địa thiền thứ tư thấy sắc cõi dục, nhãn thức của địa thiền thứ nhất sinh.

Thấy thiền thứ nhất: Nghĩa là thân cõi dục kia, mắt của địa thiền thứ tư, sắc của địa thiền thứ nhất, nhãn thức của địa thiền thứ nhất sinh.

Thấy thiền thứ hai: Nghĩa là thân cõi dục kia, mắt của địa thiền thứ tư, sắc của địa thiền thứ hai, nhãn thức của địa thiền thứ nhất sinh.

Thấy thiền thứ ba: Nghĩa là thân cõi dục kia, mắt của địa thiền thứ tư, sắc của địa thiền thứ ba, nhãn thức của địa thiền thứ nhất sinh.

Thấy thiền thứ tư: Nghĩa là thân cõi dục kia, mắt sắc của địa thiền thứ tư, nhãn thức của địa thiền thứ nhất sinh.

Như nói sinh cõi dục, cho đến sinh nơi thiền thứ tư cũng như vậy.

Có sai biệt: Nghĩa là mắt của địa dưới không thấy sắc của địa trên. Sinh địa trên, mắt của địa dưới không hiện ở trước.

Nhĩ giới như trước nói

Tỷ, thiệt giới tự địa

Thân xúc tức địa nói

Ý thức thì rất nhiều.

Nhĩ giới như trước nói: Nghĩa là như trước đã nói về nhãn thức, nhĩ thức cũng như vậy.

Tỷ, thiệt giới tự địa: Nghĩa là sinh cõi dục, thân cõi dục, mũi cõi dục, hương cõi dục sinh, tỷ thức của cõi dục sinh. Thiệt giới cũng như vậy.

Thân xúc tức địa nói: Nghĩa là thân thức có khác biệt: sinh cõi dục, thân cõi dục, xúc cõi dục, thân thức của cõi dục sinh. Thiền thứ nhất cũng như vậy. Sinh thiền thứ hai: Thân, xúc của thiền thứ hai, thân thức của địa thiền thứ nhất sinh. Do biết xúc của tự địa nên không phải là tha địa sinh. Thiền thứ ba, thứ tư cũng như thế.

Ý thức thì rất nhiều: Hoặc là ý của tự địa, pháp của tự địa, ý thức của tự địa sinh, hoặc tha địa. Tự địa kia nghĩa là sinh cõi dục, ý của cõi dục, pháp của cõi dục, ý thức của cõi dục sinh. Cho đến sinh nơi xứ hữu tưởng vô tưởng cũng như thế. Tha địa nghĩa là sinh cõi dục, lúc chánh thọ, tâm thiện của cõi dục kia theo thứ lớp đạt chánh thọ của thiền thứ nhất, khởi ý của cõi dục kia, ý thức của địa thiền thứ nhất sinh pháp, hoặc hệ thuộc ba cõi, hoặc không hệ thuộc. Tâm thiện cõi dục theo thứ lớp của thiền thứ nhất được hiện ở trước. Ý của thiền thứ nhất kia, ý thức của cõi dục sinh pháp, hoặc hệ thuộc ba cõi, hoặc không hệ thuộc. Theo thứ lớp của thiền thứ nhất, hành chánh thọ của thiền thứ hai. Ý của thiền thứ nhất kia, ý thức của thiền thứ hai sinh pháp, hoặc hệ thuộc ba cõi, hoặc không hệ thuộc.

Như vậy, thiền thứ hai nơi thiền thứ nhất, thiền thứ nhất nơi thiền thứ hai, thiền thứ nhất nơi thiền thứ ba, thiền thứ ba nơi thiền thứ nhất, cho đến xứ hữu tưởng vô tưởng theo thứ lớp nghịch thuận siêu vượt nên nói rộng.

Có sai biệt: Nghĩa là chánh thọ này là ý giới, chánh thọ kia là ý thức. Nếu thiền là ý thức, là pháp thì hoặc hệ thuộc ba cõi, hoặc không hệ thuộc. Nếu vô sắc là ý thức, thì pháp kia ở nơi tự địa, địa trên và không hệ thuộc.

Lại nữa, chánh thọ tịnh nơi thiền thứ nhất theo thứ lớp là quả của cõi dục và thiền thứ nhất, nên tâm biến hóa được hiện ở trước. Ý của thiền thứ nhất kia sinh ý thức của cõi dục.

Pháp nghĩa là cõi dục biến hóa, tức là quả của cõi dục và thiền thứ nhất kia, theo thứ lớp khiến tịnh nơi thiền thứ nhất hiện ở trước. Ý của cõi dục kia khiến ý thức của thiền thứ nhất sinh pháp, hoặc hệ thuộc ba cõi, hoặc không hệ thuộc. Cho đến thiền thứ tư cũng như vậy.

Sinh nghĩa là mất ở cõi dục kia, sinh lên địa thiền thứ nhất, ý của cõi dục kia khiến ý thức của địa thiền thứ nhất sinh pháp, hoặc hệ thuộc cõi sắc, cõi vô sắc, hoặc không hệ thuộc. Mất ở địa thiền thứ nhất, sinh vào cõi dục, ý của địa thiền thứ nhất kia khiến ý thức của cõi dục sinh pháp, hoặc hệ thuộc ba cõi, hoặc không hệ thuộc. Cho đến xứ hữu tưởng vô tưởng cũng như thế.

Mất là ý thọ. Sinh là ý thức, chỉ vì pháp của ý thức kia ở nơi tự địa, địa trên cùng không hệ thuộc.

Như kia đắc nhãn giới

Hoặc kia nương dựa thức

Hai cùng đắc, không đắc

Cũng sắc cùng với xả.

Như kia đắc nhãn giới: Tức hoặc nhãn giới không thành tựu thì được thành tựu, không phải là nhãn thức giới. Nghĩa là mất ở cõi vô sắc, sinh nơi các thiền thứ hai, thứ ba, thứ tư, hoặc sinh vào cõi dục, dần được nhãn căn.

Hoặc kia nương dựa thức: Tức hoặc là nhãn thức giới không thành tựu thì được thành tựu, không phải là nhãn giới, nghĩa là mất ở địa của ba thiền trên, sinh nơi cõi dục và thiền thứ nhất. Nếu trụ ngay thì nhãn thức kia hiện ở trước.

Hai cùng đắc: Nghĩa là hoặc nhãn và nhãn thức giới cùng đắc.

Tức mất ở cõi vô sắc, sinh nơi cõi dục và thiền thứ nhất.

Cùng không đắc: Nghĩa là không phải nhãn giới không thành tựu thì được thành tựu, cũng không phải là nhãn thức giới không thành tựu thì được thành tựu. Nghĩa là sinh nơi cõi dục không mất nhãn căn và ở trên cõi Phạm thiên, hoặc mạng chung sinh nơi Phạm thiên và cõi dục. Ở nơi các thiền thứ hai, thứ ba, thứ tư mạng chung sinh trở lại nơi các thiền ấy. Hoặc mất ở vô sắc, sinh lại nơi cõi vô sắc.

Cũng sắc: Nghĩa là nếu sắc giới không thành tựu thì được thành tựu, thì đấy tức là nhãn giới không thành tựu, được thành tựu.

Hoặc nhãn giới không phải là sắc giới. Nghĩa là sinh nơi cõi dục dần được nhãn căn, nếu sắc giới không thành tựu thì được thành tựu, là nhãn thức giới kia chăng? Nên nêu ra bốn trường hợp:

(1) Sắc giới không thành tựu được thành tựu không phải là nhãn thức giới: Nghĩa là mất ở cõi vô sắc sinh trong ba thiền trên.

(2) Nhãn thức giới không thành tựu được thành tựu không phải là sắc giới: Nghĩa là tức mất ở ba thiền kia, sinh nơi cõi dục và thiền thứ nhất. Nếu trụ ngay nơi thiền ấy thì nhãn thức hiện tiền.

(3) Sắc giới không thành tựu được thành tựu cũng là nhãn thức giới: Nghĩa là mất ở cõi vô sắc, sinh nơi cõi dục và thiền thứ nhất.

(4) Không phải là sắc giới cũng không phải là nhãn thức giới: Nghĩa là trừ từng ấy sự việc trên.

Cùng với xả: Nghĩa là như nói về đắc, xả cũng nói rộng như thế.

Hai thức, thức sắc giới

Cho đến xúc cũng vậy

Nơi mười ba giới khác

Hoàn toàn ý thức duyên.

Hai thức, thức sắc giới: Nghĩa là sắc giới có hai thức nhận thức là nhãn thức và ý thức. Tự tướng của nhãn thức giới, tự tướng của ý thức giới và cộng tướng.

Cho đến xúc cũng vậy: Tức thanh giới có hai thức nhận thức là nhĩ thức và ý thức. Tự tướng của nhĩ thức giới, tự tướng của ý thức giới và cộng tướng. Cho đến xúc giới có hai thức nhận thức là thân thức và ý thức, là tự tướng của thân thức, tự tướng của ý thức và cộng tướng. Do là cảnh giới nơi tự tướng của năm thức thân, vì không tư duy, vì cảnh giới hiện tại, vì nhất niệm.

Nơi mười ba giới khác, Hoàn toàn ý thức duyên: Nghĩa là năm sắc căn, bảy tâm giới và pháp giới. Mười ba giới này hoàn toàn là ý thức, là tự tướng và cộng tướng của thức. Ý thức này có hai thứ là duyên hoại và duyên không hoại. Duyên không hoại tức là duyên của mười ba giới này. Duyên hoại nghĩa là mười ba giới với năm cảnh giới, mỗi mỗi đều duyên hợp, cho đến duyên chung nơi mười tám giới.

Thức tư duy ba thứ

Là ý trong dục hữu

Sắc, vô sắc phân biệt

Một chủng là giới khác.

Thức tư duy ba thứ, Là ý trong dục hữu: Nghĩa là ý thức của cõi dục có ba thứ tư duy: Tư duy tự tánh, tư duy tùy ức và tư duy phân biệt. Tư duy tự tánh: Là giác. Tư duy tùy ức: Là niệm của ý địa. Tư duy phân biệt: Là tuệ bất định của ý địa. Ba tư duy này là tư duy của ý thức nơi cõi dục.

Sắc, vô sắc phân biệt: Nghĩa là ý thức của cõi sắc, cõi vô sắc hoặc có ba thứ: Địa thiền thứ nhất bất định. Nhập định có hai. Bất định có ba. Ý thức của ba thiền trên bất định có hai, trừ tư duy tự tánh. Nếu định là một, là tư duy tùy ức.

Có thuyết nói: Cõi vô sắc không có bất định. Nghĩa là cõi ấy chỉ có một thứ là tư duy tùy ức. Nếu nói có bất định thì định có một, bất định có hai.

Một chủng là giới khác: Tức năm thức thân nói là giới khác, chỉ có tư duy tự tánh, vì bất lợi.

Hỏi: Như vậy là đã phân biệt về pháp tướng. Thế nào là gồm thâu pháp, là tự tánh hay là tha tánh?

Đáp: Là tự tánh. Vì sao?

Các pháp lìa tha tánh

Đều tự trụ tánh mình

Nên nói tất cả pháp

Đều thuộc về tự tánh.

Các pháp lìa tha tánh: Nghĩa là nhãn giới lìa mười bảy giới, vì tánh khác. Giới còn lại cũng như vậy. Không nên nói, nếu lìa tánh là gồm thâu, vì tướng khác. Nên nói là thuộc về tự tánh, không phải là tha tánh.

Đều tự trụ tánh mình: Nghĩa là tất cả tánh đều trụ nơi tự tướng, vì tánh này không phải là tướng khác. Nên nói nếu trụ là gồm thâu, không phải là thứ khác.

Nói nghĩa gồm thâu là thuộc về tự tánh của tất cả pháp. Tức tự tánh của tự tánh là chẳng không, không phải thứ khác, như sắc của sắc là chẳng không.

Lại nữa, nói nghĩa cùng nắm giữ là gồm thâu. Như Khế kinh nói: “Như ở giữa lầu quán, các cây gỗ đã nương dựa để làm cho lầu quán thêm nổi bật”. Như đã nói: Như chỉ tơ giữ lấy áo. Như then cửa giữ lấy cánh cửa. Như búa giữ lấy củi.

Hoặc nói về phương tiện gồm thâu, như đã nói: Trong năm căn này, tuệ là hàng đầu, nghĩa là gồm thâu. Hoặc nói hòa hợp gồm thâu: Nghĩa là bốn nhiếp sự có thể gồm thâu các chúng sinh.

Hoặc nói tùy thuận gồm thâu. Như đã nói: Đẳng kiến, đẳng chí, đẳng phương tiện đều là thân của tuệ. Hoặc nói vì thâu nhận nên gọi là gồm thâu, nghĩa là hòa với trên, do thuộc tài pháp.

Những lời ấy là ngôn thuyết của thế tục, không phải là gồm thâu rốt ráo. Tự tánh gồm thâu tự tánh là đệ nhất nghĩa rốt ráo. Có ba đoạn gồm thâu. Ở đây nói là tự tánh gồm thâu. Tự tánh gồm thâu như vậy là không bỏ đệ nhất nghĩa. Đã nói tự tánh gồm thâu. Như nhãn giới gồm thâu một giới, một nhập, một ấm, không gồm thâu mười bảy giới, mười một nhập, năm ấm.

Lại nữa, mắt bên phải gồm thâu mắt bên phải. Mắt bên trái gồm thâu mắt bên trái. Mắt có hai thứ là nuôi lớn và báo. Nuôi lớn gồm thâu nuôi lớn. Báo gồm thâu báo.

Báo lại có hai thứ là báo của nghiệp thiện và báo của nghiệp bất thiện. Báo của nghiệp thiện gồm thâu báo của nghiệp thiện. Báo của nghiệp bất thiện gồm thâu báo của nghiệp bất thiện.

Báo của nghiệp bất thiện có ba thứ là ba nẻo ác: Súc sinh gồm thâu súc sinh. Ngạ quỷ, địa ngục cũng như vậy.

Báo của nghiệp thiện có hai thứ là người, trời. Người gồm thâu người, trời gồm thâu trời. Quá khứ gồm thâu quá khứ, vị lai, hiện tại cho đến sát-na gồm thâu sát-na.

Trong giới nói một giới

Ấm nhập cũng như vậy

Như thế ấm nhập giới

Gồm thâu tất cả pháp.

Một giới là pháp giới. Một nhập là ý nhập. Một ấm là sắc ấm.

HẾT – QUYỂN 1

Pages: 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11