LUẬN TẠP A TỲ ĐÀM TÂM
Tác giả: Tôn giả Pháp Cứu.
Hán dịch: Đời Lưu Tống, Tam tạng Tăng Già Bạt Ma, người Thiên Trúc
Việt dịch: Cư sĩ Nguyên Huệ
QUYỂN 8
Phẩm thứ 8: TU ĐA LA
Đã nói về Định. Tu-đa-la (Kinh) nay sẽ nói.
Nhất thiết trí đã nói
Diệu nghĩa Tu-đa-la
Con nay sẽ nói ít
Tu hành nên khéo nghe.
Vì nhận biết tất cả nên nói là Nhất thiết trí. Tất cả: Nghĩa là mười hai nhập. Đối với tự tướng, cộng tướng của mười hai nhập kia tất cả đều nhận biết.
Đã nói: Nghĩa là bậc Nhất thiết trí đích thân tự diễn nói.
Diệu nghĩa: Tức là nghĩa vi diệu của tánh tướng rất sâu xa. Nghĩa vi diệu này là do nơi Tu-đa-la nêu bày, nên nói là Diệu nghĩa Tu-đa-la.
Nay: Tức là Luận này. Nói ít: Nghĩa là đấng Mâu-ni đã nói vô lượng vô biên, nên ở đây nói là nói ít.
Tu-đa-la gồm có năm nghĩa: (1) Xuất sinh, tức xuất sinh các nghĩa. (2) Tuyền dũng, là nghĩa vị vô tận. (3) Hiển thị, tức chỉ bày rõ các nghĩa. (4) Thằng mặc, là biện biệt về các thứ tà, chánh. (5) Kết man, là quán xuyến các pháp.
Năm nghĩa như thế là nghĩa của Tu-đa-la. Tuy nghĩa không ở nơi lời nói, nhưng nhân nơi ngôn thuyết mới hiển hiện. Nghĩa ngôn thuyết là nhân nơi lời nói mà danh chuyển, nhân nơi danh mà hiển nghĩa.
Khéo nghe: Nghĩa là nên nhất tâm quyết định lắng nghe.
Hỏi: Đức Thế Tôn nói thí, giới, tu. Mỗi mỗi thứ kia có bao nhiêu loại?
Đáp:
Tuệ thí giữ tịnh giới
Là đều có bốn loại
Tu thiền tức có hai
Nói tên là công đức.
Sợ ba thứ sợ, muốn có phương tiện khiến vượt qua ba sợ, nên Đức Thế Tôn lược nói ba thứ công đức này. Người sợ nghèo cùng thì sợ là phương tiện khiến vượt qua, nên nói thí. Kẻ sợ nẻo ác thì sợ là phương tiện khiến vượt qua, nên nói giới. Sợ sinh tử thì sợ là phương tiện khiến vượt qua, nên nói tu.
Hỏi: Những gì là tánh của thí?
Đáp:
Không tham tương ưng tư
Đều khởi đồng một quả
Nơi chốn chúng cụ sinh
Đó tức là tánh thí.
Căn thiện không tham tương ưng với tư, từ xứ thí vật sinh, cùng với nghiệp thân, khẩu tùy chuyển, tự tánh của thí là năm ấm, do nói sắc, hương, vị cùng đầy đủ. Nếu nói tư nguyện v.v… không phải là người thí thì không đúng. Vì sao? Vì đối với vật nói tên thí, Đức Thế Tôn vì mở bày tâm thí chủ, nên khiến tư nguyện vững chắc. Đối với vật nói tên thí, tức là từ xứ thí vật sinh khởi.
Hỏi: Trước đã nói bốn thứ thí. Những gì là thí chủng?
Đáp:
Gọi là tự thâu nhận
Cũng lại thâu nhận khác
Hoặc có hai cùng thâu
Hoặc hai cùng không thâu.
Vì có tự thâu nhận nên thí. Vì có thâu nhận người khác nên thí. Vì có tự thâu nhận và thâu nhận người khác nên thí. Vì có báo ân nên không vì tự thâu nhận, thâu nhận người khác nên thí (Nghĩa là A-lahán cúng dường Phật là báo ân nên không phải vì mình, người khác). Người kia tự gồm thâu.
Nếu người chưa lìa dục
Cúng dường nơi Chi đề
Và phàm phu lìa dục
Đó gọi tự an thí.
Thánh nhân chưa lìa dục và phàm phu lìa dục, cúng dường Chi đề, thì đấy là tự gồm thâu thí. Do thí thọ nhận báo của cõi dục. Nghĩa là người chưa lìa dục, sinh nơi cõi dục. Phàm phu tuy lìa dục, sinh nơi cõi sắc, cõi vô sắc, nhưng về sau trở lại thọ nhận hậu báo và báo bất định của cõi dục. Đó gọi là tự gồm thâu, không gồm thâu người khác. Vì sao? Vì Chi đề không phải là chúng sinh.
Lìa dục phi phàm phu
Trừ quả hiện pháp kia
Thí cho các chúng sinh
Đó gọi gồm thâu khác.
Nếu A-la-hán, hoặc A-na-hàm, trừ khởi quả hiện pháp thí, nếu thí khác vì các chúng sinh, đó gọi là gồm thâu người khác, không phải là tự gồm thâu. Do A-la-hán không có phần sinh. A-na-hàm tuy thọ sinh nơi cõi sắc, cõi vô sắc, nhưng không thọ nhận quả thí. Do nhân quả đoạn nên kiến lập cõi.
Chưa lìa dục cõi dục
Phàm phu đã lìa dục
Thí cho các chúng sinh
Nên biết hai cùng thâu.
Nghĩa là Thánh nhân chưa lìa dục và phàm phu đã lìa dục, thí cho chúng sinh, nên biết đó gọi là thí cùng gồm thâu cả hai.
Lìa dục phi phàm phu
Trừ quả hiện pháp kia
Cúng dường nơi Chi đề
Tức cùng không gồm thâu.
Nếu A-la-hán, hoặc A-na-hàm, trừ khởi quả hiện pháp thí, nhưng cúng dường Chi đề, thì đấy không phải là tự gồm thâu, cũng không phải là gồm thâu người khác, vì A-la-hán thì không sinh. A-nahàm tuy có sinh nhưng ở nơi cõi dục không có phần, nên không tự gồm thâu. Vì Chi đề không phải là chúng sinh, nên không gồm thâu người khác. A-la-hán kia nghĩ nhớ ân xưa, vì để báo ân, nên tuy Phật đã nhập Niết-bàn cũng cúng dường Chi đề.
Lại nữa:
Hoặc có gồm thâu người
Cúng dường nơi Chi đề
Vô lượng chúng thấy nghe
Đều sinh tâm tùy hỷ.
Hoặc cúng dường Chi đề, cũng là gồm thâu người khác. Dùng cờ phướn, lọng hoa, đốt hương, rải hoa, cúng dường Chi đề, khiến cho vô lượng chúng sinh trông thấy tùy hỷ, là nhân sinh lên cõi trời đạt giải thoát. Thế nên nơi Tu-đa-la Đức Thế Tôn nói: Đối với xứ chưa từng lập mà kiến lập Chi đề, tức có thể sinh Phạm phước. Do gồm thâu vô lượng chúng sinh, nên gọi là Phạm phước.
Hỏi: Ngang với mức nào thì nói là Phạm phước?
Đáp: Có thuyết nói: Trừ Bồ-tát gần Phật địa, tất cả các chúng sinh khác, có thể sinh khởi nghiệp của quả tăng thượng như phú quý lớn, uy lực lớn, đó là lượng của Phạm phước.
Lại có thuyết cho: Lúc thế giới thành, tất cả chúng sinh cùng khí thế giới sinh. Nghiệp có thể sinh khởi khí thế giới này, đó gọi là lượng của Phạm phước.
Lại nữa, thí này:
Là những hy vọng kia
Bảy thứ thí không trên
Tâm trang nghiêm thứ tám
Đó gọi thí tối thắng.
Đức Thế Tôn nói tám thứ thí: Là hy vọng thí, bố úy thí, phản báo thí, kỳ báo thí, gia pháp thí, sinh thiên thí, cầu danh thí và vì tâm trang nghiêm, vì tâm điều phục, vì thuận tu hành, vì được nghĩa tối thượng nên thí.
Hy vọng thí: Nghĩa là lựa chọn phước điền nhằm cầu có nhiều quả nên thí cho người đến cầu xin. Thí cho người đến cầu xin thì cựu A-tỳ-đàm nói là hy vọng thí.
Bố úy thí: Nghĩa là vừa ở nơi thí lại quên mất nên thí, do thấy có tướng mất nên thà thí cho để không mất.
Phản báo thí: Nghĩa là từng có được lợi ích kia, sao lại không báo đáp nên thí.
Kỳ báo thí: Nghĩa là nếu thí cho người kia thì mong được họ đền đáp lại.
Gia pháp thí: Nghĩa là có thói quen theo người trước nên thí, không phải tự tin mà thí.
Sinh thiên thí: Nghĩa là vì cầu sinh lên cõi trời nên thí.
Cầu danh thí: Nghĩa là vì muốn được khen ngợi nên thí.
Bảy thứ thí này, do tuệ thấp kém, nên không là trên hết. Không cầu an vui nơi sinh tử mà thí, đó gọi là tâm trang nghiêm thí.
Dùng đạo này làm phương tiện để thí, nên ở trong tài thí là bậc nhất, là hơn hết. Đó gọi là thượng thí.
Đã nói thí. Quả của thí nay sẽ nói.
Thọ, sắc, lực, an lạc
Biện tài là năm thứ
Báo thí những trăm ngàn
Điều thí chủ đạt được.
Bố thí như trên đã nói. Năm thứ báo, như Đức Thế Tôn trong Tu-đa-la đã nói về năm đức của thí. Ăn để sống, không phải là không ăn, thế nên thí thì có được thọ mạng, cho đến biện tài cũng lại như thế. Nhân tương tợ sinh quả tương tợ, tức được báo là trường thọ cho đến biện tài. Như gieo trồng giống bên ngoài, tùy từng loại, nên thu đạt quả. Thí này cũng như thế.
Tuổi thọ là nơi hàng người trời, không phải là nẻo ác. Đây là do nhân giữ gìn nên nói thí có được tuổi thọ. Như nói: Lìa sát sinh, tu tập nhiều thì được trường thọ. Đó là do nhân chiêu cảm dẫn dắt, nên nói. Ví như hai người mẹ: Mẹ đẻ và mẹ nuôi. Người lìa sát sinh như mẹ đẻ. Người thí thức ăn như mẹ nuôi.
Thí cho súc sinh thì nơi năm thứ báo tức được phước gấp trăm lần, đó là do người hòa hợp mà được. Nói rộng như thế. Trong kiến đạo tuy không ăn nhưng có thể thọ thí.
Đã nói thí cùng quả. Về tức thí tức quả nay sẽ nói.
Từ, vô tránh, diệt định
Kiến đạo và vô học
Từ chánh thọ kia khởi
Người thí liền được quả.
Tam muội tâm từ, vô tránh, tam muội diệt tận, kiến đạo nơi quả A-la-hán, từ đấy khởi xong, nếu có người thí tức thì được quả. Vì sao? Vì đối với vô lượng chúng sinh đã dùng tướng an ổn tạo lợi ích là từ, là lấy từ để huân tập thân. Từ đấy phát khởi rồi thì người thí liền được quả.
Tam muội vô tránh, tức khiến cho vô lượng chúng sinh không khởi phiền não, do đã gồm thâu rộng công đức để huân tập thân, nên từ đấy phát khởi xong thì người thí liền được quả.
Tam muội diệt tận, do công đức rộng lớn huân tập thân nên giống với Niết-bàn. Từ đấy khởi rồi thì người thí liền được quả.
Kiến đạo đoạn trừ kiết hết hẳn, dùng Thánh đạo để huân tập thân, nên từ đấy khởi rồi thì người thí liền được quả.
Tu đạo đoạn trừ kiết hết hẳn, tâm được tự tại, trụ nơi quả A-lahán, từ đấy khởi rồi thì người thí tức được quả.
Đã nói tức quả. Về quả lớn nay sẽ nói.
Cha mẹ hoặc người bệnh
Cùng với sư thuyết pháp
Các Bồ-tát gần Phật
Người thí được quả lớn.
Thí cho năm loại người này thì được quả lớn. Vì sao? Vì cha mẹ có ân sinh thân và nuôi lớn, nên thí tức được quả lớn.
Người bệnh không có nơi nương dựa, tâm bi tăng trưởng, nên thí thì được quả lớn.
Sư thuyết giảng pháp, pháp thân tăng trưởng, chỉ bảo cho mọi người nhận biết thiện ác, nên thí tức được quả lớn.
Chư Bồ tát gần với Phật địa, chứa nhóm công đức, gồm thâu rộng chúng sinh, nên thí thì được quả lớn.
Hỏi: Vì tư nguyện là hơn nên khiến thí thanh tịnh hay vì phước điền là hơn? Nếu tư nguyện là hơn, thì vì sao Đức Thế Tôn tán thán phước điền? Nếu phước điền là hơn, thì vì sao thí một phước điền nhưng quả không được như nhau?
Đáp: Vì tư nguyện là hơn, nên thí thanh tịnh. Phước điền là sức của nhân, thế nên trước nói tư nguyện và quyến thuộc, gọi là bố thí phước. Dùng tâm thuần tịnh để lìa những mong cầu về của cải nơi thân, hành theo trí tuệ. Người thí như thế tức đạt được quả lớn. Nếu khác thì người kia cầu được tiếng khen nên thí, tức phước điền là hơn, như vậy không phải là người bố thí lớn. Nếu do sức của của ruộng sinh tội phước, thì không thành sức của phước điền như nhau, đáng lẽ bị nghiệp vô gián nhưng không bị, nên biết là do sức của tư nguyện. Công đức nơi phước điền có thể khởi tư nguyện thù thắng, thế nên Đức Thế Tôn tán thán phước điền.
Hỏi: Đã nhận biết thí nuôi lớn sinh thân. Còn thí nuôi lớn pháp thân thì thế nào?
Đáp:
Khéo nói các kinh pháp
Xa lìa những điên đảo
Không hủy báng Mâu-ni
Đó nói là pháp thí.
Đối với Tu-đa-la, Tỳ-ni, A-tỳ-đàm, biết phân biệt chân thật, không vướng mắc nơi danh lợi, gồm thâu rộng chúng sinh, đó gọi là pháp thí. Người kia tuy không có tưởng tham vướng nhưng ngôn thuyết điên đảo, hủy báng nhân duyên chân thật của Như Lai, khởi tạo tưởng khác, nên biết đấy tức là nhân duyên của tâm loạn. Tuy thuyết giảng không điên đảo, nhưng tâm nhiễm chấp như thương nhân kia, vì thế kệ nói “Không biết Mâu-ni nói. Như dao lửa và độc. Nơi đây khéo phân biệt. Cũng như ăn cam lộ”.
Lại nữa, điên đảo có ba thứ: Pháp điên đảo, người điên đảo, thời điên đảo.
Pháp điên đảo: Nghĩa là như có thuyết nói: Tu tập tưởng tịnh thì đoạn trừ tham dục.
Người điên đảo: Nghĩa là người tham dục nhưng vì người khác nói là tâm từ.
Thời điên đảo: Nghĩa là đối với người căn chưa thành thục, vì họ giảng nói chân đế.
So sánh như thế, cùng trái với đây thì gọi là thuyết pháp không điên đảo.
Đã nói pháp thí. Vô úy thí nay sẽ nói.
Dùng lìa các thọ nói
An ủi những sợ hãi
Gọi là vô úy thí
Phá trừ sợ nghèo cùng.
Nếu thấy chúng sinh đời này, đời sau đều cùng có sợ hãi, dùng giới lìa thọ nhận, đem tâm từ an ủi nói: “Chúng sinh đừng sợ! Tôi sẽ vì ông hành tác giúp, khiến được không sợ hãi. Đó gọi là vô úy thí”. Sự sợ hãi kia như nghèo cùng thí cho họ sự chân thật để đối trị, gọi là vô úy thí.
Đã nói vô úy thí. Về đại thí nay sẽ nói.
Khắp cả loại quần sinh
Cùng thọ giới luật nghi
Công đức truyền thêm rộng
Đây tức là đại thí.
Đức Thế Tôn nói: Năm giới là đại thí, vì gồm thâu vô biên chúng sinh, vì sinh khởi vô biên an lạc. Tài thí thì không thể gồm thâu tất cả chúng sinh, chỉ thọ giới thì mới có thể. Thọ trì năm giới xong, đối với tất cả chúng sinh trong suốt đời, nơi mỗi mỗi niệm tức được mười hai thứ luật nghi chưa từng được (Ba căn thiện, mỗi căn thiện khởi hai nghiệp thân khẩu tác vô tác), giới kia nối tiếp tác dụng không dứt.
Hỏi: Đã biết bốn thứ thí. Bốn thứ giới nói trước thì thế nào?
Đáp:
Cõi dục và thiền sinh
Luật nghi giới, vô lậu
Luật nghi đoạn, từ hai
Là nói luật nghi chủng.
Bốn thứ luật nghi: Là luật nghi biệt giải thoát, luật nghi thiền, luật nghi vô lậu và luật nghi đoạn.
Luật nghi biệt giải thoát: Là giới của bảy chúng đã thọ. Luật nghi thiền: Là giới hữu lậu tùy sinh. Luật nghi vô lậu: Là giới học, giới vô học. Luật nghi đoạn: Là giới do chín đạo vô ngại đã lìa dục nơi cõi dục tùy sinh. Hoặc hữu lậu là giới thiền. Hoặc vô lậu là giới vô lậu. Luật nghi này như nơi phẩm Nghiệp đã nêu rõ.
Đã nói bốn thứ giới. Bốn thứ còn lại nay sẽ nói.
Giới do hy vọng thọ
Giới do sợ hãi giữ
Có thuận chi Bồ-đề
Cùng với giới thanh tịnh.
Có bốn thứ giới: Là giới hy vọng, giới sợ hãi, giới thuận giác chi, giới thanh tịnh.
Giới hy vọng: Là cầu sinh lên cõi trời và những xứ khác nên giữ giới.
Giới sợ hãi: Là do sợ tự trách, sợ người khác trách, sợ bị phạt, sợ nẻo ác, sợ không sống nổi, sợ tiếng xấu nên giữ giới.
Giới thuận giác chi: Là vì tâm trang nghiêm, vì phương tiện gồm đủ, vì cầu nghĩa tối thắng nên giữ giới.
Giới thanh tịnh: Là giới vô lậu, là lìa cấu nhiễm.
Hỏi: Thế nào là giới tịnh trì?
Đáp:
Căn bản quyến thuộc tịnh
Không bị giác hủy hoại
Thâu nhận nơi chánh niệm
Tùy thuận bát Niết-bàn.
Có năm nhân duyên khiến giới thanh tịnh: Đó là căn bản tịnh, quyến thuộc tịnh, không bị giác hủy hoại, thâu nhận chánh niệm và chánh hướng giải thoát.
Căn bản tịnh: Nghĩa là lìa vượt nghiệp đạo căn bản.
Quyến thuộc tịnh: Nghĩa là lìa các phương tiện như sát sinh v.v…
Không bị giác hủy hoại: Nghĩa là lìa ba thứ giác (Tầm) là dục, sân, hại gây não loạn.
Thâu nhận chánh niệm: Nghĩa là thâu nhận ba niệm Phật, Pháp, Tăng, thế nên cũng lìa các tâm vô ký.
Chánh hướng giải thoát: Nghĩa là vì giải thoát nên giữ giới, không vì thân, của cải cùng những việc làm khác, vì thế cũng nói là tùy thuận giác chi.
Năm nhân duyên này khiến giới thanh tịnh, Đức Thế Tôn nói là được quả lớn, vì lìa bỏ tất cả não loạn.
Hỏi: Đã biết giới là chỗ dựa của tất cả chánh hạnh, như bình công đức của trời. Vậy thế nào là hai thứ tu?
Đáp:
Thiền vô sắc vô lượng
Tu đắc và tu tập
Bất tịnh, niệm an ban
Nghĩa hai tu cũng thế.
Công đức của các thiền v.v… này đã huân tập tâm, như xông ướp y phục, như hoa ướp hạt mè, như nung chảy vàng, nên nói như thế này: “Tu như xông ướp y phục. Tu như xông ướp hạt mè. Tu như nung chảy vàng”. Hiện tại là tu tập, vị lai là tu đắc. Hiện tại là dụng, vị lai là khởi. Hiện tại là đang làm, vị lai là sẽ làm. Hiện tại là sinh, vị lai là đắc. Hiện tại là phần hiện tiền, vị lai là phần thành tựu.
Thiền vô sắc vô lượng nơi phẩm Định đã nói rộng. Người quán bất tịnh không có tánh tham, vì đã đối trị tham. Lại, vì đối trị bốn thứ tham, nên lại nói bốn thứ. Nghĩa là nhằm đoạn trừ tham oai nghi, nên tu quán tử thi. Đoạn trừ tham sắc, nên tu quán màu xanh bầm v.v… Đoạn trừ tham xúc nên loại bỏ da thịt, tu quán xương vòng. Đoạn trừ tham về xứ sở, nên tu quán đốt xương lìa nát.
Quán bất tịnh này lại có bốn thứ: Phần thoái, phần trụ, phần thắng, phần quyết định. Phần thoái nghĩa là trụ nơi xứ kia thì thoái chuyển. Phần trụ nghĩa là trụ nơi xứ kia thì không tiến, không thoái. Phần thắng nghĩa là trụ nơi xứ kia tất tiến lên. Phần quyết định nghĩa là trụ nơi xứ kia thì thuận với Thánh đạo.
Cõi: Là cõi dục, cõi sắc. Địa: Là mười địa: Là cõi dục, thiền trung gian, bốn thiền căn bản và bốn quyến thuộc.
Chỗ dựa: Là cõi dục. Hành: Là phi hành. Duyên: Là duyên nơi cõi dục. Niệm xứ: Là thân niệm xứ. Trí: Là đẳng trí.
Không phải là tam muội, vì là thọ sinh. Tương ưng với ba căn, gắn liền với ba đời.
Quá khứ: Là duyên nơi quá khứ. Hiện tại: Là duyên nơi hiện tại. Vị lai: Là nếu pháp sinh thì duyên nơi vị lai, nếu là pháp không sinh thì duyên nơi ba đời. Là thiện, duyên nơi vô ký. Là phi học phi vô học, duyên nơi phi học phi vô học. Là do tu đạo đoạn, duyên nơi tu đạo đoạn. Nên nói về nghĩa của duyên.
Hỏi: Do phương tiện đắc hay là lìa dục đắc?
Đáp: Cũng phương tiện đắc, cũng lìa dục đắc. Nếu lìa dục của cõi dục đắc thiền thứ nhất, cho đến lìa dục của thiền thứ ba đắc thiền thứ tư. Sau đấy thì phương tiện hiện ở trước.
Hỏi: Quán bất tịnh thì phương tiện là thế nào?
Đáp: Người tu quán bất tịnh kia, đến nơi chốn gò mả, phải thật khéo, nhận lấy tướng bất tịnh ấy. Nhận lấy tướng như thế rồi, trở về chỗ ngồi, rửa chân, an tọa, thân tâm hòa dịu, lìa bỏ các cái. Nhận lấy duyên bên ngoài để chỉnh đốn thân mình. Buộc giữ tâm ở nơi xương bàn chân, xương ống quyển, xương bắp vế, xương háng, xương sống, xương hông, xương tay, xương cánh tay, xương chân mày, xương cổ, xương trán, xương răng, xương đầu lâu v.v… Nếu buộc giữ tâm ở giữa chân mày, hoặc là người ưa quán tóm lược, thì trước từ thân niệm xứ vượt qua. Nếu là người ưa quán rộng thì từ nơi giữa chân mày quán đầu lâu, cho đến xương bàn chân. Từ nơi một tòa, một phòng, một nhà, một Tăng-già-lam, một thôn xóm, một nước này, nếu cho chỉ từ tưởng khởi, thì không có điều ấy. Nếu người quán cùng khắp đại địa, đến ánh sáng của mắt, tức có thể quán xứ kia đầy dẫy những xương trắng. Nếu có người lại quán tóm lược, thì theo thứ lớp trở lại đến giữa chân mày, buộc tâm ở nơi ấy. Đó gọi là quán bất tịnh thành tựu.
Hoặc có quán bất tịnh, duyên ít, không phải là tự tại ít, nên nêu ra bốn trường hợp:
(1) Duyên ít không phải tự tại ít: Nghĩa là ở nơi tự thân thường xuyên nhập quán bất tịnh.
(2) Tự tại ít không phải duyên ít: Nghĩa là cùng một lúc quán xét các thứ bất tịnh đầy khắp bốn biển, đại địa, không thể thường xuyên nhập quán bất tịnh.
(3) Duyên ít, tự tại cũng ít: Nghĩa là cùng một lúc quán xét các thứ bất tịnh nơi tự thân không thể thường xuyên nhập quán bất tịnh.
(4) Không phải duyên ít cũng không phải tự tại ít: Nghĩa là các thứ bất tịnh đầy khắp bốn biển, đại địa, nhưng cũng có thể thường xuyên nhập quán bất tịnh.
Lại nữa, quán bất tịnh, duyên vô lượng, không phải là tự tại vô lượng, nên nêu ra bốn trường hợp:
(1) Duyên vô lượng không phải tự tại vô lượng: Nghĩa là các thứ bất tịnh đầy khắp bốn biển, đại địa, nhưng không thể thường xuyên nhập quán bất tịnh.
(2) Tự tại vô lượng không phải duyên vô lượng: Nghĩa là đối với thân mình thường xuyên nhập quán bất tịnh.
(3) Duyên vô lượng, tự tại cũng vô lượng: Nghĩa là các thứ bất tịnh đầy khắp bốn biển, đại địa, nhưng cũng có thể thường xuyên nhập quán bất tịnh.
(4) Không phải duyên vô lượng cũng không phải tự tại vô lượng: Nghĩa là đối với thân mình không thể thường xuyên nhập quán bất tịnh.
Đã nói về quán bất tịnh. Niệm an ban (Quán sổ tức) nay sẽ nói.
An na nghĩa là trì đến. Ban na nghĩa là trì đi, cũng gọi A thấp bà sa bà thấp bà sa. Niệm nghĩa là nhớ nghĩ. Đối với An na ban na xét kỹ, buộc giữ niệm, tâm không hư vọng, tu tập niệm kia, nên nói là tu. Niệm an ban là tánh của tuệ. Vì ở nơi phẩm kia niệm tăng, nên nói là niệm an ban, như niệm xứ, như niệm túc mạng.
Mới khởi nghĩa là từ chỗ rốn trong thai mẹ, đã có nghiệp sinh ra gió khởi, hoặc hướng dưới, hoặc hướng trên. Hướng dưới tạo ra phần thân dưới cùng các lỗ chân lông. Hướng trên tạo nên phần thân trên cùng các lỗ chân lông. Các lỗ chân lông hình thành rồi, thì hơi thở ra là trước nhất. Cho đến khi mạng chung thì hơi thở ra là sau cùng.
Chánh thọ cũng như thế. Nghĩa là thở ra đầu tiên là nhập định, thở vào đầu tiên là xuất định. Do sáu nhân duyên nên được sáu thứ niệm an ban, đó là sổ, tùy, chỉ, quán, hoàn, tịnh.
Sổ: Nghĩa là người tu hành dùng phương tiện khéo léo buộc giữ niệm, đếm hơi thở ra vào. Không có một lần thở ra thở vào nào mà không nhận biết. Nếu người tâm loạn, hoặc có khi đếm giảm, có khi đếm tăng, hoặc có khi đếm lộn xộn.
Đếm giảm là lấy hai làm một. Đếm tăng là lấy một làm hai. Đếm lộn xộn là thở ra thì tưởng là vào, thở vào thì tưởng là ra.
Tâm không loạn gọi là đếm đều: Năm lần thở ra, năm lần thở vào, đó gọi là mười sổ. Nếu người tu hành, lúc đếm đến khoảng giữa mười thì tâm loạn, lại bắt đầu đếm từ một. Nếu đếm đủ mười xong, hoặc loạn, hoặc không loạn, cũng nên đếm lại từ một. Vì sợ tâm phân tán, nên không đếm quá mười. Vì sợ tâm tích tụ, nên đếm không ít hơn mười. Nếu hơn thì không có hoặc chưa từng đếm.
Tùy: Nghĩa là hơi thở ra vào ra đi thì không có chốn hành, chỉ tùy theo hơi thở dài hay ngắn? Là khắp thân hay ở một chỗ? Trở vào là xa hay gần? Tới chỗ nào thì chuyển trở lại?
Chỉ: Nghĩa là tùy theo tâm ưa thích đối với một phần thân, buộc giữ tâm khiến trụ ở đấy để quán xét hơi thở kia đối với thân là tăng, lợi hay là tổn hại, là lạnh hay là ấm, đều đặn như thế.
Quán: Nghĩa là tu tập, tu tập hết mực. Như tự nhớ về tên mình, tùy theo những gì đã mong muốn khiến hiện ở trước.
Hoàn: Nghĩa là nếu dựa vào giác (Tầm) dục thì ít hành, nếu dựa vào giác xuất ly thì siêng hành.
Tịnh: Nghĩa là làm tịnh các thứ cái (Ngăn che).
Người tu hành kia đối với hơi thở ra vào chỉ tạo nên một tưởng. Quán thân như ống sáo trúc. Quán hơi thở như xâu ngọc, hơi thở ra vào không động. Ở nơi thân, không phát khởi thân thức. Đó gọi là niệm an ban thành tựu.
Có thuyết cho là cũng khởi thân thức, chỉ không làm tổn thương nơi thân. Lại nữa, người tu hành đối với hơi thở ra vào dùng cực vi hoại, đó gọi là quán thân. Thọ nhận hơi thở ra vào, đó gọi là quán thọ tức. Thọ kia thì gọi là quán thọ. Nhận biết hơi thở vào ra đó gọi là quán thức tức. Thức kia thì gọi là quán thức. Tưởng về hơi thở ra vào thì gọi là quán tưởng tức. Tưởng kia thì gọi là quán tưởng (Cực vi hoại: Nghĩa là cực vi hoại sắc, sắc hết, diệt hết, sau đó do hỷ và tưởng khởi thức khiến hiện ở trước, nên liền quán ba thứ kia, cho là chủng tử nơi phương tiện của ba niệm xứ). Không phải hơi thở vào chưa diệt mà có hơi thở ra sinh. Không phải hơi thở ra chưa diệt mà có hơi thở vào sinh. Đó gọi là nhân nơi an ban mà lường xét về hành vô thường.
Vì hơi thở vào bức bách nên hơi thở ra diệt, đó gọi là lường xét về hành khổ. Đó gọi là đắc chủng tử của phương tiện nơi môn giải thoát vô nguyện. Hơi thở ra vào có sinh trụ diệt không tự tại, đó gọi là nhân nơi hơi thở ra vào quán lường xét về hành vô ngã. Vì hơi thở ra vào lìa các nhân như thường v.v… nên đấy là lường xét về hành không. Đó gọi là đắc chủng tử của phương tiện nơi môn giải thoát không. Ở nơi hơi thở ra vào sinh tâm nhàm chán, hướng đến Niết-bàn. Đó gọi là đắc chủng tử của phương tiện nơi môn giải thoát vô tướng. Trong tam muội, dựa vào hai phẩm hạ kia, dựa nơi phẩm trung để tăng. Như thế, theo thứ lớp được pháp noãn, cho đến tận trí, vô sinh trí.
Hỏi: Đức Thế Tôn nói về giới (Cõi), cõi này là thế nào?
Đáp:
Hai mươi nói cõi dục
Cõi sắc hoặc mười sáu
Cõi vô sắc có bốn
Xứ sở thứ lớp nói.
Hai mươi nói cõi dục: Đó là tám đại địa ngục, súc sinh, ngạ quỷ, bốn châu thiên hạ và sáu cảnh trời dục. Hai mươi xứ này là cõi dục. Các chúng sinh nơi cõi này lấy dục thọ thân gồm đủ và thứ hai, thế nên nói là cõi dục.
Cõi sắc hoặc mười sáu: Đó là các trời Phạm thân, Phạm phú lâu, Thiểu quang, Vô lượng quang, Quang âm, Thiểu tịnh, Vô lượng tịnh, Biến tịnh, Vô ấm, Phước sinh, Quả thật, Vô phiền, Vô nhiệt, Thiện kiến, Thiện hiện và Sắc cứu cánh. Mười sáu xứ này là cõi sắc.
Có thuyết muốn khiến thành mười bảy: Tức mười sáu như trước và Đại phạm. Chúng sinh nơi cõi ấy thọ thân là sắc không phải là gồm đủ, không phải là thứ hai, thế nên nói là cõi sắc.
Cõi vô sắc có bốn: Đó là không xứ, thức xứ, vô sở hữu xứ, phi tưởng phi phi tưởng xứ. Chúng sinh của xứ này không thọ thân sắc, lìa sắc dục, nên gọi là cõi vô sắc.
Hỏi: Vì sao lập ba cõi? Vì ái đoạn hay là vì xứ sở? Nếu là ái đoạn tức nên có chín. Nghĩa là ái cõi dục đoạn cõi dục. Như thế từ thiền thứ nhất cho đến phi tưởng phi phi tưởng xứ là chín. Nếu vì xứ sở nên lập, tức nên có bốn mươi như trước nói?
Đáp: Vì ái đoạn chung nên nói. Nghĩa là ái cõi dục đoạn cõi dục. Như thế ái cõi sắc đoạn cõi sắc, ái cõi vô sắc đoạn cõi vô sắc. Vì cõi dục không định, nên có một sử. Cõi sắc, cõi vô sắc vì định, nên không có một sử.
Hỏi: Kiến lập giới (Cõi) như thế nào?
Đáp: Xứ sở thứ lớp nói. Có thuyết cho là từ dưới theo thứ lớp lên trên. Dưới cùng là địa ngục Vô trạch. Kế đó là địa ngục Đại nhiệt. Thứ lớp như thế cho đến trời Sắc cứu cánh.
Trên Sắc cứu cánh lại có địa ngục Vô trạch. Thứ lớp cho đến Sắc cứu cánh. Nếu lìa dục của một cõi dục, tức lìa dục của tất cả cõi dục. Nếu được thần túc của thiền thứ nhất, thì có thể đến một cõi dục và một Phạm thế.
Lại có thuyết muốn khiến gồm khắp cả các bên để lập cõi.
Hỏi: Đức Thế Tôn nói bảy thức trụ. Thức trụ này là thế nào?
Đáp:
Nẻo thiện ở cõi dục
Cùng ba địa cõi sắc
Ba vô sắc cũng thế
Đó nói là thức trụ.
Nẻo thiện của cõi dục là hàng trời và người, ba địa trước của cõi sắc, ba địa trước của cõi vô sắc, bảy địa này nói là thức trụ. Chúng sinh có sắc là thành tựu thân sắc. Vô số thứ thân là vô số thứ hình. Vô số thứ tưởng là tưởng khổ, vui, không khổ không vui. Đó gọi là thức trụ thứ nhất.
Lại nữa, vô số thứ thân, như trước nói. Một tưởng là tưởng nhiễm ô. Trời Phạm thân kia, lúc mới sinh suy nghĩ như thế này: “Ta từ trời Đại phạm sinh”. Trời Đại phạm thì suy nghĩ: “Ta có thể sinh ra xứ sở cao thấp hơn kém kia cùng giác quán về thức thân”. Phạm thiên có vô số thứ thân. Đó gọi là thức trụ thứ hai.
Một thân là thân sắc, gồm hình, vị trí, chất lượng v.v… Vô số thứ tưởng là tưởng vui và tưởng không khổ không vui. Hỷ căn vốn chán mệt nơi quyến thuộc thì xả căn hiện ở trước. Xả căn chán mệt thì hỷ căn lại hiện ở trước. Đó gọi là thức trụ thứ ba.
Một thân, một tưởng: Một thân, như trước đã nói. Một tưởng là lạc. Đó gọi là thức trụ thứ tư.
Chúng sinh ở cõi vô sắc, không thành tựu thân sắc, vì đã lìa sắc dục. Vượt qua tất cả tưởng sắc, là hành lìa sắc nên nói, vì tưởng sắc tương ưng với nhãn thức. Nếu lìa dục của thiền thứ nhất thì vượt qua hành dục ái. Lìa dục của thiền thứ tư thì vượt qua hành sắc hành. Do nghĩa này nên nói là diệt tưởng có đối, vì tương ưng với năm thức thân.
Không nhớ nghĩ vô số thứ tưởng, là vô số thứ tưởng kia, phân tán khắp ở địa thiền thứ tư, do duyên nơi vô số thứ nhập. Nếu nhiễm ô là duyên nơi mười nhập, không nhiễm ô thì duyên nơi mười hai nhập, vì đã lìa mọi nhiễu loạn của dục.
Không niệm vô lượng, là hành vô lượng, theo phương tiện tư duy về không nhập. Do chánh thọ không, nên nói là không xứ nhập. Không xứ nhập thành tựu, là được thành tựu bốn ấm của địa kia. Đó gọi là thức trụ thứ năm.
Theo phương tiện tư duy về thức nhập, thức xứ. Đó gọi là thức trụ thứ sáu.
Vì không có phần của hành vô lượng, nên nói là vô sở hữu xứ. Đó gọi là thức trụ thứ bảy.
Hỏi: Vì sao kiến lập bảy thức trụ?
Đáp: Nếu thức ở nơi xứ ấy ưa thích trụ nên nói là thức trụ. Vì ở nẻo ác bị khổ bức bách, nên thức không ưa thích trụ. Vì trời Tịnh cư hướng đến Niết-bàn, nên thức không ưa thích trụ. Vì chúng sinh của trời Vô tưởng không có tâm. Các xứ khác ở thiền thứ tư, hoặc vì cầu vô sắc, hoặc vì cầu Tịnh cư, hoặc vì cầu vô tưởng, nên thức không ưa thích trụ. Vì hữu thứ nhất (Xứ phi tưởng phi phi tưởng) không nhanh nhạy nên thức không ưa thích trụ.
Lại nữa, nếu xứ kia có pháp hoại thức, thì không kiến lập thức trụ. Nẻo ác thì khổ căn hủy hoại. Thiền thứ tư thì tam muội vô tưởng hủy hoại. Nơi hữu thứ nhất thì tam muội diệt tận hủy hoại, nên không lập thức trụ.
Hỏi: Chín nơi chốn cư trú của chúng sinh là thế nào?
Đáp:
Hữu thứ nhất, Vô tưởng
Là nói chúng sinh ở
Gọi bốn ấm hữu lậu
Là nói bốn thức trụ.
Hữu thứ nhất vô tưởng, Là nói chúng sinh ở: Nghĩa là trước đã nói bảy thức trụ. Hữu thứ nhất và trời Vô tưởng là chín nơi chốn cư trú của chúng sinh.
Hỏi: Nẻo ác vì sao không nói là nơi chốn cư trú của chúng sinh?
Đáp: Vì không có phần ưa thích trụ. Vì có nhiều khổ não, nên không ưa thích trụ. Trời Tịnh cư vì nhanh chóng hướng đến Niếtbàn, nên không ưa thích trụ. Các từng trời của thiền thứ tư như trước đã nói.
Hỏi: Bốn thức trụ thì thế nào?
Đáp: Gọi bốn ấm hữu lậu, Là nói bốn thức trụ: Tức trừ thức ấm, bốn ấm hữu lậu còn lại nói là thức trụ.
Có thuyết cho: Ấm của số chúng sinh nói là thức trụ thì không đúng. Vì sao? Vì dựa vào nghĩa của phần hành duyên tương ưng, nên gọi là trụ. (Nương dựa là chỗ dựa của thức. Duyên là chủ thể duyên không phải là đối tượng duyên. Phần tiếng Phạn là Hà bà tha da nghĩa là tuôn chảy, tức phần thọ sinh nơi thai nối tiếp quá khứ. Vị lai tuy không phải là số duyên sinh nhưng cũng có nghĩa này nên được xem là thức trụ). Pháp vô lậu cũng nói thức trụ là không đúng. Vì sao? Vì thức nhiễm ô bị hoại, nên không lập thức trụ. Thức ấm cũng không phải là thức trụ, tức hai thứ ấy không phải là phần, trước sau không cùng hợp, không liên hệ với tự tánh. Do thức của tự phần trụ nơi ấm của tự phần. Nghĩa là cõi dục trụ nơi cõi dục. Nên so sánh như vậy, tức là cõi không khác, địa không khác, thân không khác.
Hỏi: Vì sao ấm của tự phần nói là thức trụ, không phải là không tự phần?
Đáp: Vì ấm của tự phần đã gồm thâu thức.
Hỏi: Ấm của tâm không tự phần và ấm của phi tâm vì sao gọi là thức trụ? (Tâm của cõi khác lúc trụ gọi là ấm của tâm phi tự phần. Pháp không tâm lúc trụ gọi là ấm của phi tâm).
Đáp: Vì có được tướng. Tướng được kia cũng là tướng của thức trụ thành tựu. Nếu thức của tự phần kia phát sinh, thì thức ấy tức tùy chuyển cùng có nghĩa của thức trụ. Do nhân duyên trung gian gây trở ngại nên thức không sinh, không phải là thức trụ không có phần.
Hỏi: Đức Thế Tôn nói duyên khởi. Pháp duyên khởi ấy có tướng gì?
Đáp:
Phiền não cùng nghiệp sự
Theo thứ lớp kia sinh
Nên biết là chi hữu
Chúng sinh tất cả sinh.
Ba phần chi duyên khởi, đó là phiền não, nghiệp và sự. Phiền não, nghiệp và sự này ở nơi các pháp kia theo thứ lớp sinh khởi, gọi là chi duyên khởi. Nên biết chi duyên khởi ấy:
Các phần này kiến lập
Là chúng sinh thọ sinh
Quá hai và chưa sinh
Trung gian nói nơi tám.
Các phần này kiến lập, Là chúng sinh thọ sinh: Tức ở nơi ba phần duyên khởi này nói mười hai chi.
Hỏi: Thế là thế nào?
Đáp: Quá hai và chưa sinh, Trung gian nói nơi tám: Nghĩa là thời gian của đời quá khứ kia, các phần phiền não gọi là Vô minh, nghiệp gọi là Hành. Nơi hiện tại hành nối tiếp, gọi là Thức. Thức kia nối tiếp rồi, phần sáu nhập chưa đầy đủ, gọi là Danh sắc. Phần các căn đầy đủ, gọi là Sáu nhập, chưa thể phân biệt về khổ, vui, không khổ không vui. Căn, trần, thức hợp nhau, gọi là Xúc. Phân biệt được giới hạn sai khác của khổ vui, nhưng chưa thể phân biệt được giới hạn sai khác của phiền não gọi là Thọ, là ưa thích thọ nhận. Đối với cảnh khả ái, không khả ái, hoặc lìa hoặc hợp kết với thọ sinh gọi là Ái. Hiện tại sinh rộng khắp các phiền não gọi là Thủ. Lại sinh khởi hữu sau, nói là Hữu. Hiện tại có gieo trồng để ấm vị lai sinh, gọi là Sinh. Ấm vị lai đã chín muồi nói là Lão. Ấm vị lai xả bỏ gọi là Tử.
Ba chi hữu phiền não
Hai nghiệp, sự tức bảy
Bảy gọi chi hữu trước
Năm tức nói phần sau.
Ba chi hữu phiền não, Hai nghiệp, sự tức bảy: Ba chi hữu là vô minh, ái, thủ, là phiền não. Hai chi hành và hữu là nghiệp. Những chi còn lại là sự.
Bảy gọi chi hữu trước, Năm tức nói phần sau: Nên biết từ vô minh đến thọ là bảy chi, đó gọi là duyên khởi trước. Năm chi còn lại nói là duyên khởi sau.
Chi trước năm nói quả
Còn hai tức là nhân
Chi sau ba nói nhân
Còn hai tức là quả.
Duyên khởi trước, từ thức cho đến thọ là quả. Vô minh, hành là nhân. Duyên khởi sau, ba chi trước nói là nhân, hai chi sau nói là quả.
Hỏi: Các chi hữu trước sau có được lần lượt hợp nhau chăng?
Đáp: Được. Sự việc ấy là thế nào?
Trước si, sau ái thủ
Hành hữu hợp cũng thế
Danh sắc, nhập, xúc, thọ
Là nói đồng lão, tử
Tức mới thọ thân thức
Đấy là đời vị lai.
Hỏi: Đã biết chi hữu, trước sau lần lượt cùng gồm thâu. Các chi hữu ấy sinh khởi thế nào?
Đáp:
Phiền não khởi lắm nghiệp
Nghiệp kia chuyển sinh sự
Sự cũng sinh ra sự
Cũng lại sinh phiền não.
Duyên nơi phiền não sinh phiền não, nghĩa là duyên nơi ái sinh thủ. Duyên nơi phiền não sinh nghiệp, nghĩa là duyên nơi thủ sinh hữu. Duyên nơi nghiệp sinh sự, đó là duyên nơi hữu sinh ra sinh. Duyên nơi sự sinh ra sự, tức là duyên nơi sinh sinh ra lão tử. Duyên nơi sự lại sinh ra phiền não. Nghĩa là như trước đã nói: Danh sắc, sáu nhập, xúc, thọ tức là chi sau nơi lão tử. Do đấy nên nói duyên nơi thọ sinh ái, cũng nói duyên nơi lão tử sinh vô minh. Đó gọi là vô thủy nhưng có xoay vòng.
Hỏi: Có bốn thứ duyên khởi. Bốn thứ ấy là những gì?
Đáp:
Là chúng nối tiếp chuyển
Sát-na cùng hệ thuộc
Và trước là phần đoạn
Đây tức nói duyên khởi.
Nối tiếp chuyển: Là nghĩa vô thủy. Vì nhân quả đều lần lượt hệ thuộc nhau nên nói là duyên khởi xoay vòng. Cũng như mặt trăng tròn đầy khởi đầu là không thể nhận biết. Thế nên nơi Tu-đa-la nói: Bản tế của hữu ái là không thể nhận biết.
Nên nói không, không nên nói là chẳng thể nhận biết. Tự có là có nhưng không thể nhận biết là không đúng. Vì sao? Vì không có nhân của ngôn thuyết, tức ngôn thuyết không có. Nếu có người hỏi: Vì sao không, tức không dung nạp nhân của ngôn thuyết, tức cho lời nói không thể nhận biết. Nếu có người hỏi: Vì sao không thể nhận biết, thì đáp là vì vô thủy. Những gì là như vầng trăng tròn đầy nhưng khởi đầu thì không thể nhận biết. Nhân duyên như vậy nối tiếp nhau là duyên khởi. Như vầng trăng tròn đầy nhưng khởi đầu thì không thể nhận biết. Vì thế nói là không thể nhận biết. Trong khoảng một sát-na, tất cả chi hữu đều hiện ở trước, nên nói là sát-na.
Như Luận Thức Thân nói: Đối với sự trang nghiêm, vì không biết nên khởi tham. Không biết là vô minh. Tham là hành. Ở nơi sự nhận biết là thức. Thức cùng sinh khởi bốn ấm là danh sắc. Danh sắc hình thành các căn, là sáu nhập. Sáu nhập được chấp trước là xúc. Xúc tùy theo giác (tầm) là thọ. Thọ được mừng vui là ái. Ái cùng sinh kết buộc là thủ. Thọ sinh khởi nghiệp vị lai là hữu. Ấm vị lai khởi là sinh. Ấm thành thục là lão. Xả bỏ ấm là tử. Vì lần lượt cùng trói buộc, nên nói là nhân duyên hệ thuộc liên tục. Căn bản lần lượt là nghĩa lâu xa, không phải chỉ mười hai chi nói là duyên khởi. Hoặc là sinh, hoặc là đối tượng được sinh, tất cả pháp hữu vi đều nói là duyên khởi.
Tôn giả Phú Na Da Xá nói: Hoặc duyên khởi không phải là đã duyên khởi:. Nghĩa là pháp vị lai. Đã duyên khởi không phải là duyên khởi: Tức là năm ấm của A-la-hán mạng chung ở quá khứ, hiện tại. Duyên khởi cũng là đã duyên khởi: Nghĩa là trừ năm ấm của A-la-hán mạng chung ở quá khứ, hiện tại, các pháp quá khứ, hiện tại còn lại. Không phải là duyên khởi cũng không phải là đã duyên khởi: Nghĩa là pháp vô vi. Trong phần đoạn có thể đạt được, nên nói là phần đoạn. Phần phiền não của quá khứ kia lúc sinh nói là vô minh. Phần còn lại như trước đã nói.
Hỏi: Đức Thế Tôn nói sinh và nẻo. Thế thì sinh gồm thâu nẻo hay là nẻo gồm thâu sinh?
Đáp:
Sinh gồm thâu các nẻo
Không phải nẻo gồm thâu
Tức trung ấm sinh tăng
Nên biết chẳng phải nẻo.
Sinh gồm thâu nẻo, không phải nẻo gồm thâu sinh.
Hỏi: Vì sao?
Đáp: Tức trung ấm sinh tăng: Tức trung ấm là thuộc về sinh, không phải thuộc về nẻo. Do đến nên nói là nẻo.
Trung ấm là đi, không phải là đến, thế nên không phải là nẻo. Sinh nghĩa là bốn sinh (Bốn loài): Noãn sinh, thai sinh, thấp sinh, hóa sinh. Cõi dục có đủ bốn loài. Cõi sắc, cõi vô sắc tất cả là hóa sinh. Địa ngục là hóa sinh. Súc sinh có bốn loài. Ngạ quỷ thì hóa sinh, cũng có thai sinh. Nẻo người có bốn loài. Trời là hóa sinh. Hóa sinh là rộng nhất, vì hoàn toàn là hai nẻo, phần ít của ba nẻo, nên cũng là hơn hết.
Hỏi: Nếu là hơn hết, thì vì sao Đức Thế Tôn không hóa sinh?
Đáp: Vì thời không cùng hợp. Nếu lúc có hóa sinh thì không có Đức Phật ra đời. Lúc Đức Phật xuất hiện ở thế gian thì không có người hóa sinh.
Lại nữa, vì tất cả là hơn hết. Đức Thế Tôn là tất cả đều hơn hết. Nơi chốn sinh, tộc họ, đối với tất cả chúng sinh là hơn hết. Thuyết giảng pháp khiến tín thọ, cùng đoạn trừ các thứ kiêu mạn của tộc họ.
Nẻo là năm nẻo: Địa ngục, súc sinh, ngạ quỷ, người, trời. Vì không thể an vui, nên nói là địa ngục. Vì thân đi ngang, nên nói là súc sinh. Vì theo người khác mong cầu, nên nói là ngạ quỷ. Vì ý vắng lặng, nên nói là con người. Vì có ánh sáng, nên nói là trời. Do có dục nên khiến A-tu-la và trời đồng một nẻo. Vì vậy nên có lời nói: Ông trước kia là trời.
Hỏi: Nếu như vậy vì sao loài ấy không kiến đế?
Đáp: Là do tánh dua nịnh quanh co đã che lấp. Có thuyết cho: Là ngạ quỷ đại lực nên không nói thuộc nẻo trời.
Hỏi: Nếu vậy vì sao Thiên Đế Thích lại quen gần với?
Đáp: Do tham sắc nên nhờ cậy nhiều.
Cưu-bàn-trà, Lặc-xoa, cũng thuộc về nẻo ngạ quỷ. Khẩn-na-la, Tỳ-xá-già, Hê-lỗ-bà, Ca-xà-la, Phả-cầu-la là thuộc về nẻo súc sinh.
Hỏi: Đức Thế Tôn nói sáu giới. Sáu giới này là thế nào?
Đáp:
Đó là bốn đại chủng
Cùng các thức hữu lậu
Cũng tướng trung gian sắc
Giới này nói gốc sinh.
Đó là bốn đại chủng, Cùng các thức hữu lậu, Cũng tướng trung gian sắc: Tức bốn đại nơi năm thức thân và ý thức hữu lậu, cũng là trung gian của sắc. Nghĩa là đối tượng thọ nhận của mắt là không giới. Đó gọi là sáu giới.
Hỏi: Đã nói mười tám giới, vì sao còn nói riêng sáu giới?
Đáp: Giới này nói gốc sinh: Tức giới này còn gọi là số sĩ phu, vì kiến lập phần căn bản của sinh. Do vậy pháp vô lậu không lập trong sáu giới. Bốn đại như trong phẩm Giới đã nói.
Hỏi: Đế có tướng gì?
Đáp:
Là các hành, tánh quả
Hữu lậu là nói khổ
Tánh nhân tức là tập
Diệt đế các khổ hết.
Là các hành, tánh quả, Hữu lậu là nói khổ: Nghĩa là tất cả hành hữu lậu là có nhân và tánh trói buộc nên nói là khổ.
Tánh nhân tức là tập: Nghĩa là hành hữu lậu này là tánh của nhân, nói là tập đế. Vì vậy khổ, tập là một vật, do nhân quả nên lập hai đế.
Diệt đế các khổ hết: Tức tất cả pháp hữu lậu hoàn toàn tịch diệt, là nói diệt đế.
Nếu các hành vô lậu
Đó nói là đạo đế
Do hai nhân duyên này
Thô, tế thứ lớp hiện.
Nếu các hành vô lậu, Đó nói là đạo đế: Nghĩa là tất cả hành vô lậu, nói là đạo đế, vì trái nhau với hữu.
Hỏi: Vì sao gọi là đế?
Đáp: Do hai nhân duyên này: Tức có hai nhân duyên nên nói là đế. Đó là tự tánh không hư giả và kiến. Tự tánh kia đã được nhận biết rõ, không điên đảo. Hư không phi số duyên diệt tuy tự tánh là không hư giả, nhưng vì vô ký, vì vô lậu, nên không nói là đế. Nếu pháp là khổ, là nhân của khổ, là lìa khổ, là đối trị khổ, thì pháp ấy được lập là đế. Vì pháp kia là vô lậu, không phải là khổ, không phải là nhân của khổ, vì vô ký nên không phải là lìa khổ, vì vô vi nên không phải là đối trị khổ. Thế nên nói bốn đế là bệnh, nhân của bệnh, dứt hết bệnh, thuốc chữa bệnh cũng nói như vậy.
Hỏi: Thánh đế có nghĩa gì?
Đáp: Bậc Thánh đối với các đế này đã khởi những hiểu biết chân thật cùng chỉ rõ cho người khác nhận biết, nên nói là Thánh đế. Tướng bức bách này nói là khổ, tướng sinh gọi là tập, tướng lặng dứt nói là diệt, tướng xuất ly nói là đạo.
Hỏi: Tức nên trước nói nhân sau nói quả. Vì sao Đức Thế Tôn nói quả trước?
Đáp: Thô, tế thứ lớp hiện: Tức tuy là như vậy, nhưng do tùy thuận nơi vô gián đẳng nên nói quả trước, vì khổ là thô nên là vô gián đẳng trước.
Nên so sánh như thế. Diệt tuy là vi tế, không phải là đạo vi tế, nhưng nêu đặt trước để nói là đế để cầu đạt diệt là thô không phải là đạo thô.
Lại nữa, vì nghĩa dễ vượt qua. Nghĩa là theo thứ lớp của thô để lập. Thô là khổ của cõi dục nên khổ ấy là vô gián đẳng trước, khổ của hai cõi sắc, cõi vô sắc là sau. Khổ của cõi sắc tuy thô, nhưng chẳng phải như cõi vô sắc là định, ở đây là bất định. Vì thế cả hai cõi là một vô gián đẳng.
Hỏi: Vô gián đẳng của chân đế là thế nào? Là tự tướng hay là cộng tướng?
Đáp: Theo đế nên là tự tướng. Theo ấm nên là cộng tướng.
Hỏi: Đức Thế Tôn nói bốn quả Sa-môn là có bao nhiêu sự?
Đáp:
Sự quả Thánh có sáu
Tối thắng nơi chín địa
Thứ ba ở sáu địa
Hai thứ dựa vị lai.
Sự quả Thánh có sáu: Nghĩa là có sáu sự nói là quả Sa-môn. Đó là năm ấm vô lậu và số diệt. Thánh đạo nói là quả Sa-môn, Thánh đạo kia là quả này. Về quả Sa-môn nơi phẩm Trạch sẽ nói rộng.
Hỏi: Quả Sa-môn ấy gồm thâu những địa nào?
Đáp: Tối thắng nơi chín địa: Tức quả A-la-hán gồm thâu chín địa, là thiền vị lai, thiền trung gian, bốn thiền căn bản và ba vô sắc.
Thứ ba ở sáu địa: Nghĩa là quả A-na-hàm gồm thâu sáu địa, trừ ba vô sắc.
Hai thứ dựa vị lai: Nghĩa là quả Tu-đà-hoàn, Tư-đà-hàm dựa vào vị lai, vì chưa lìa dục.
Hỏi: Đạo có tướng gì?
Đáp:
Tùy tín hành hành pháp
Tướng lìa phiền não chậm
Tùy pháp hành hành pháp
Tướng lìa phiền não nhanh.
Tùy tín hành hành pháp, Tướng lìa phiền não chậm: Nghĩa là Tùy tín hành đã hành trì pháp vô lậu, là thuộc về loại căn kém, nên biết là chậm. Nếu Tùy tín hành đã thọ nhận nên biết là Tín giải thoát, Thời giải thoát cũng thọ nhận vì đồng một loại căn yếu kém.
Tùy pháp hành hành pháp, Tướng lìa phiền não nhanh: Nghĩa là Tùy pháp hành đã hành trì pháp vô lậu, là thuộc về loại lợi căn, nên biết là đạo nhanh chóng. Nếu Tùy pháp hành đã thọ nhận, nên biết là Kiến đáo, Bất thời giải thoát cũng thọ nhận do đồng với loại lợi căn.
Trong địa thiền căn bản
Nên biết là đạo vui
Vì giảm cùng khó được
Nên biết là nói khổ.
Trong địa thiền căn bản, Nên biết là đạo vui: Nghĩa là nơi địa của bốn thiền căn bản, pháp của căn yếu kém và pháp của căn nhạy bén, được nói là đạo vui, vì chỉ quán cùng hành, là hành của đạo vui nơi địa của bốn thiền căn bản kia.
Vì giảm cũng khó được, Nên biết là nói khổ: Nghĩa là dựa nơi đạo của địa khác thì nói là đạo khổ, do giảm bớt. Tức nơi thiền vị lai, thiền trung gian, thì đạo chỉ giảm, còn ở định vô sắc thì đạo quán giảm. Do phương tiện ấy khó được, nên nói là khổ, không phải Thánh đạo có tánh là khổ thọ, cũng không phải tương ưng với khổ thọ. Tuy là đạo dứt hết khổ, nhưng cũng có vô lượng phân biệt. Vì địa này cùng với căn kiến lập nên nói có bốn. Địa của thiền căn bản kia, nếu là lợi căn thì nói là đạo vui và đạo nhanh. Nếu là độn căn thì nói là đạo vui và không phải đạo nhanh. Đạo của địa còn lại, nếu là lợi căn thì nói là đạo khổ và đạo nhanh. Nếu là độn căn thì nói là đạo khổ và không phải đạo nhanh. Vì chánh thăng tấn nên nói là đạo, vì chánh hướng đến giải thoát nên nói là đạo.
Thế nào là tịnh không hoại?
Phật và pháp Thanh văn
Giải thoát cũng nhân khác
Tín thanh tịnh không cấu
Giới Thánh là quyết định.
Phật và pháp Thanh văn, Giải thoát cũng nhân khác, Tín thanh tịnh không cấu: Nghĩa là nếu ở nơi Đức Phật được pháp vô học, khởi tín vô lậu, đó gọi là tịnh không hoại đối với Phật.
Nếu ở nơi trụ xứ của Tăng hành trì pháp học, vô học, khởi tín vô lậu, đó gọi là tịnh không hoại đối với Tăng.
Nếu đối với Niết-bàn, khởi tín vô lậu, trừ pháp đã nói ở trước, nghĩa là đối với khổ, tập đế còn lại và công đức vô lậu của Bồ-tát, công đức vô lậu của Phật-bích-chi, phát khởi tín vô lậu, đó gọi là tịnh không hoại duyên nơi pháp không hoại (Vì duyên riêng với Pháp bảo, nên nói là duyên không hoại).
Nếu đối với pháp của Phật, pháp của Phật-bích-chi và pháp của Thanh văn, sinh khởi tín vô lậu, đó gọi là tịnh không hoại duyên nơi pháp hoại (Vì duyên nơi Tam bảo có xen tạp, nên nói là duyên hoại).
Giới Thánh: Là giới vô lậu, là bốn đại tịnh (Tín là tâm tịnh. Giới là bốn đại tịnh).
Hỏi: Vì sao vô lậu nói là tịnh không hoại?
Đáp: Là quyết định: Tức trí chân thật đều cùng sinh khởi tín vô lậu. Giới quyết định là tín hữu lậu, bị bất tín làm hoại. Giới hữu lậu thì bị giới ác làm hoại. Còn giới vô lậu, trải qua nhiều đời không hoại. Do quyết định này nên vô lậu được lập là tịnh không hoại. (Về nghĩa này, nơi phẩm Trạch sẽ nói rộng).
Hỏi: Tu định có tướng gì?
Đáp:
Thiền một nếu có thiện
Gọi là hiện pháp lạc
Là được trí sinh tử
Đó gọi là trí kiến.
Thiền một nếu có thiện, Gọi là hiện pháp lạc: Nghĩa là tịnh, vô lậu nơi thiền thứ nhất là trụ nơi an lạc của hiện pháp, đó gọi là tu định được hiện pháp lạc. Nên biết thiền thứ tư cũng như vậy. Thiền thứ nhất cũng nói là trụ nơi an vui của đời sau, nhưng không là tất cả, vì hoặc là thoái chuyển, hoặc sinh lên địa trên, hoặc nhập Niết-bàn. Vì an vui của đời sau không nhất định, nên Đức Thế Tôn nói là trụ nơi an vui của hiện pháp.
Là được trí sinh tử, Đó gọi là trí kiến: Tức sinh tử trí thông, đó gọi là do tu định được. Trí kiến như lực xứ đã nói đều nên biết.
Nên biết tuệ phân biệt
Phương tiện sinh công đức
Kim cang dụ, bốn thiền
Đó gọi là lậu tận.
Nên biết tuệ phân biệt, Phương tiện sinh công đức: Nghĩa là nếu phương tiện phát sinh các công đức, tức từ pháp thiện muốn được văn, tư, tu thiện cùng vô lậu của ba cõi. Tất cả các thứ ấy được gọi là tu định được tuệ phân biệt.
Kim cang dụ, bốn thiền, Đó gọi là lậu tận: Nghĩa là định kim cang dụ được gọi là sự tương ưng của tâm học sau cùng, dựa vào thiền thứ tư, đó gọi là tu định được lậu tận. Đây là Đức Thế Tôn đã tự mình nói về tất cả Bồ-tát của thiền thứ tư đã dứt hết ái của vô sở hữu xứ, dựa vào thiền thứ tư vượt lên ly sinh, cho đến dứt hết các lậu.
Những gì là tự tánh của như ý túc?
Các pháp hữu vi thiện
Đã phát khởi phương tiện
Phật nói như ý túc
Là cũng nói chánh đoạn.
Các pháp hữu vi thiện, Đã phát khởi phương tiện, Phật nói như ý túc: Nghĩa là trước đã nói phương tiện xuất sinh các công đức. Tất cả phương tiện kia là vật chứa đựng như ý, nên nói là như ý túc. Tâm mình tự tại, phát sinh vô số thứ công đức nên nói là như ý túc. Vì công đức kia đầy đủ như ý, nên nói là như ý túc. Vật dụng của chi đầy đủ là cùng đồng một nghĩa.
Hỏi: Sự việc này là thế nào?
Đáp: Đó là tam muội, tam muội kia lại có bốn thứ phân biệt tăng thượng. Nếu dục tăng thượng khởi tam muội, gọi là dục định. Tuệ của tâm tinh tấn tăng thượng khởi tam muội cũng như vậy. Do định kia trước là dục nên là dục tăng thượng. Dục sinh rồi, vì mong cầu được thành tựu nên tinh tấn tăng thượng. Tạo phương tiện tinh tấn rồi, thì tùy thuận mong cầu nên tâm tăng thượng. Đối với dục tinh tấn tâm chánh hướng đến như ý túc cứu cánh nên tuệ tăng thượng. Do vậy, nếu không có tuệ thì mọi thứ khác đều mất.
Hỏi: Những gì là như ý? Những gì là túc?
Đáp: Định là như ý. Dục v.v… là túc. Tuy có các pháp như thọ v.v… sinh, nhưng chỉ giữ lấy định này sinh nên gọi là túc. (Về nghĩa này trong phẩm Tạp sẽ nói rộng).
Là cũng nói chánh đoạn: Tức là các công đức này được nói là chánh đoạn. Do lửa chánh trí thiêu đốt các thứ cỏ phiền não, nên nói là chánh thiêu (Sự thiêu đốt đúng đắn). Đây cũng là đoạn trừ các phiền não, nên nói là chánh đoạn.
Lại nữa, vì diệt trừ phiền não hơn hết, nên nói là chánh thắng. Pháp kia đối với lỗi ác thì lìa bỏ, đối với công đức thì nuôi lớn. Hoặc đề phòng, hoặc gia tăng, đều có thể thực hiện, nên nói là chánh đoạn. Chánh đoạn ấy lại có bốn thứ sự phân biệt. Như trong một sát-na, chiếc đèn đã làm bốn sự việc. Đó là: Đốt cháy tim đèn, dầu cạn dần, bình đựng dầu nóng và bóng tối được xua tan.
Như vậy, trong một sát-na tinh tấn được hiện ở trước, đã làm bốn sự việc: Đối với pháp ác đã sinh v.v…, như nơi Tu-đa-la đã nói rộng: Căn của chủng đạo dứt trừ phiền não, là đoạn trừ phiền não của quá khứ, vị lai. Phiền não đã được đoạn nói là quá khứ đã diệt, vị lai không khởi. Tuy đoạn trừ tất cả hữu lậu, nhưng do pháp ác là cực ác, cùng trái với Thánh đạo, nên chỉ nói đoạn trừ pháp ác sinh khởi. Một quả nên nói là ác sinh. Hai quả nên nói là bất thiện. Vì pháp thiện đã sinh, nối tiếp nhau trụ, nên nói là trụ. Vì phẩm hạ trung thượng tăng trưởng, nên nói là lại tu thêm rộng. A-la-hán tuy không có pháp bất thiện cùng đối trị đoạn, nhưng có đối trị hoại (Chê bai, quở trách là đối trị hoại), đối trị nắm giữ, đối trị phần xa, nên cũng nói là bốn chánh đoạn.
Cõi sắc, cõi vô sắc cũng như vậy.
Đây nói bốn niệm xứ
Bốn Thánh chủng cũng vậy
Như kia tăng thượng sinh
Là đều theo tên nói.
Đây nói bốn niệm xứ: Nghĩa là trước đã nói về công đức, cũng nói niệm xứ. Tức là thân, thọ, tâm, pháp, trong ngoài cùng tự tướng, cộng tướng, đều tùy thuận quán nên nói là niệm xứ, như trong phẩm Hiền Thánh đã nêu bày.
Bốn Thánh chủng cũng vậy: Tức trước đã nói về công đức, cũng nói bốn Thánh chủng. Vì Thánh dùng các pháp ấy làm chủng, nên nói là Thánh chủng. Do Thánh đã từ các pháp ấy sinh, nên nói là Thánh chủng.
Thánh chủng có những tánh gì?
Là tánh của căn thiện không tham. Nếu nói về quyến
thuộc là tánh của năm ấm. Do đối trị bốn thứ ái thủ, nên nói bốn nhân. Y phục sinh nhân của ái. Nhân khất thực, nhân của dụng cụ ngồi nằm thì có hoặc không có sinh ái (Không có ái, là ái đã đoạn. Diệt trừ ba thứ trên và ái này. Ái khác gọi chung là có ái).
Tùy theo thứ lớp kia để đối trị, nên lập bốn Thánh chủng. Vì y phục, khất thực gồm thâu thuốc men, lại không là tất cả, không là tất cả thời, nên thuốc men không lập riêng. Do Thánh chủng là ở nơi cảnh giới hiện tại khởi, nên tri túc (Biết đủ) thì lập Thánh chủng, không phải là thiểu dục (Ít ham muốn). Tri túc là ở nơi xứ hiện tại khởi, còn thiểu dục thì ở nơi xứ vị lai khởi. Hiện tại không lấy một đồng tiền là khó, không phải là Chuyển luân Thánh vương trong vị lai. Thánh chủng đối với người xuất gia có hai thứ hơn hẳn là hy vọng và thọ dụng. Người tại gia chỉ có hy vọng.
Chủng là nghĩa giữ gìn, thế nên luật nghi biệt giải thoát lấy vô tác làm Thánh chủng, không phải là hữu tác. Cõi sắc, cõi vô sắc tuy không có y phục, thức ăn uống, nhưng có Thánh chủng, tức là luật nghi vô lậu.
Hỏi: Vì sao các công đức này nói là như ý túc cho đến Thánh chủng?
Đáp: Như kia tăng thượng sinh, Là đều theo tên nói: Tức nơi các công đức ấy, vì định tăng thượng sinh nên nói là như ý túc. Vì tinh tấn tăng thượng sinh nên nói là chánh đoạn. Vì niệm tăng thượng sinh nên nói là niệm xứ. Vì tri túc tăng thượng sinh nên nói là Thánh chủng.
Hỏi: Đức Thế Tôn nói ba mươi bảy phẩm giác, vậy chúng có bao nhiêu chủng tánh?
Đáp:
Tịnh tín, tinh tấn, niệm
Trí tuệ cùng hỷ, ỷ
Giác phẩm tương ưng xả
Tư, giới, Tam-ma-đề.
Như đã nói về mười sự, phần phẩm Giác khác đều nhập trong ấy. Vậy là thế nào? Tức tín là tín căn, tín lực. Tinh tấn là chánh đoạn, tinh tấn căn, tinh tấn lực, tinh tấn giác chi, chánh phương tiện. Niệm là niệm căn, niệm lực, niệm giác chi, chánh niệm.
Tuệ là niệm xứ, tuệ căn, tuệ lực, trạch pháp giác chi và chánh kiến. Hỷ là hỷ giác chi. Ỷ (Khinh an) là ỷ giác chi.
Xả là xả giác chi. Tư là chánh tư duy. Giới là chánh ngữ, chánh nghiệp, chánh mạng. Tam-ma-đề là như ý túc, định căn, định lực, định giác chi và chánh định.
Luận Tỳ-bà-sa muốn khiến giới có hai thứ là thân nghiệp, khẩu nghiệp không hoại, nên nói có mười một sự.
Hỏi: Vì sao các pháp này được kiến lập nhiều thứ?
Đáp:
Xứ phương tiện tự tại
Hạ cùng lợi cũng thế
Kiến đạo cũng tu đạo
Nên nói ba mươi bảy.
Xứ nghĩa là chánh duyên, theo xứ kiến lập nên nói là niệm xứ. Phương tiện nghĩa là chánh phương tiện, nên nói là chánh đoạn. Tự tại nghĩa là công đức tự tại, nên nói là như ý túc.
Hạ là năm pháp như tín v.v… Hạ là nói về căn. Cùng lợi cũng thế: Các căn này nếu tăng thượng là nói lực. Thế nên nghĩa tăng thượng là nói căn, vì khó điều phục nên nói là lực.
Hỏi: Những gì là căn? Thế nào là thứ lớp?
Đáp: Tín, tinh tấn, niệm, định và tuệ là căn. Thứ lớp nghĩa là tin nhân quả, có thể làm căn bản cho tất cả pháp thiện, nên trước là nói tín. Sau khi tin rồi thì bỏ ác tu thiện, nên tinh tấn là phương tiện. Dùng phương tiện tinh tấn rồi, thì tâm ở nơi cảnh giới liền niệm trụ. Tâm trụ rồi nên đối với duyên không loạn. Không loạn rồi tức có thể quán xét.
Lại nữa, ở nơi pháp quán xét rồi thì tâm định. Tâm định rồi tức theo chánh niệm trụ. An trụ nơi chánh niệm rồi tức có thể quán xét đúng đắn. Có thể quán xét đúng đắn rồi nên tin nghiệp quả. Đó là nói theo thứ lớp nghịch.
Hỏi: Kiến lập năm căn như thế nào?
Đáp: Do địa nên kiến lập căn kia. Địa của nghiệp đầu là tu tín, dẫn dắt tất cả pháp thù thắng. Kiến địa tu tinh tấn, kiến đạo tăng tiến mau chóng. Bạc địa nói là niệm, tức tu niệm trụ, khiến tham sân si trở nên mỏng dần. Địa lìa dục nói là định, vì tu định, tu thiền căn bản. Địa vô học nói là tuệ, do tu tuệ vĩnh viễn lìa vô minh. Nói về lực cũng như vậy.
Kiến đạo: Là kiến đạo nơi chi đạo (Tám chánh đạo), tu kiến đạo tăng tiến nhanh, từ chánh kiến cho đến chánh định.
Kiến đạo kia ở nơi các pháp hiển bày chỉ rõ về tự tướng và cộng tướng, nên nói là chánh kiến. Lường xét về nghĩa chánh, nên nói là chánh tư duy. Lìa tà mạng không gồm thâu bốn hành ác của miệng do số diệt, nên nói là chánh ngữ. Lìa tà mạng không gồm thâu ba nghiệp ác của thân do số diệt, nên nói là chánh nghiệp.
Lìa tà mạng do số diệt, nên nói là chánh mạng. Vì có thể hành theo phương tiện chân chánh, nên nói là chánh phương tiện. Vì duyên nơi niệm đúng đắn không quên, nên nói là chánh niệm. Vì giữ lấy một tâm niệm đúng đắn, nên nói là chánh định.
Theo thứ lớp như Tu-đa-la đã nói. Chánh kiến tức chánh kiến kia là đạo, cũng là chi đạo. Những thứ còn lại là chi đạo, không phải là đạo. Như định là thiền, cũng là chi thiền. Những thứ khác là chi thiền, không phải là thiền. Như nói về định thì tám thứ cũng như vậy.
Tu đạo: Là tu đạo nơi giác chi, do tu đạo đã đoạn trừ chín thứ phẩm phiền não. Vì đoạn trừ nên nhận biết rất rõ. Do nghĩa giác nên nói là giác chi. Trạch pháp giác kia là giác, cũng là chi giác. Những thứ còn lại là chi giác, không phải là giác. Theo thứ lớp như nơi Tuđa-la nói.
Hỏi: Vì sao hỷ, ỷ (khinh an), xả, lập giác chi, không phải là đạo chi? Chánh tư duy, chánh ngữ, chánh nghiệp, chánh mạng, lập đạo chi không phải là giác chi? Còn tín thì đều cùng không lập?
Đáp: Vì tùy thuận nơi giác, cho đến nhận biết duyên, thường sinh hỷ, cho đến sinh hỷ thường sinh giác. Nghĩa là dứt hết tất cả sự và xả thường sinh giác. Vì đối với tinh tấn không tùy thuận, nên không phải là đạo chi. Tinh tấn là đi đến, là nghĩa đạo. Hỷ là không đi, vì vui nơi trụ xứ. Vì ỷ, xả cùng với đi đến là hoàn toàn trái nhau, nên không nói là đạo chi. Giới đối với bánh xe đạo là trục giữa, nên lập đạo luân. Vì không tương ưng với chi nên không phải là giác chi. Chánh tư duy là thúc đẩy chánh kiến, tùy thuận với đi tới, không phải là giác, nên lập đạo chi, không phải là giác chi. Tín là mới quen vượt qua, còn giác, đạo là đã vượt qua, thế nên đều cùng không lập.
Nên nói ba mươi bảy: Nghĩa là mười pháp này đều riêng khác, vì phân biệt về sự, nên Đức Thế Tôn nói có ba mươi bảy. Địa của nghiệp đầu kia nói là niệm xứ, vì ở nơi thân v.v… đã phân biệt tu. Pháp noãn nói là chánh phương tiện, vì sinh lửa của Thánh trí là noãn. Pháp đảnh nói là như ý túc, vì được pháp đảnh là công đức tự tại. Pháp nhẫn nói là căn, vì nhẫn kia ở nơi tinh tấn là tăng thượng. Pháp thế gian đệ nhất nói là lực, vì trụ nơi pháp ấy thì mọi uy thế không thể khuất phục. Kiến đạo nói là đạo chi, vì tăng tiến nhanh chóng. Tu đạo nói là giác chi, vì giác ngộ. Vì thường gia tăng dần, nên trước là giác chi, kế đến là đạo chi, từ bốn cho đến tám, đấy là các phẩm giác.
Hai thiền ba mươi sáu
Vị lai cũng lại vậy
Ba, bốn và trung gian
Là đều ba mươi lăm.
Hai thiền ba mươi sáu: Tức trừ chánh tư duy, vì địa này không có tư duy.
Vị lai cũng như vậy: Nghĩa là thiền vị lai cũng có ba mươi sáu phẩm, trừ hỷ, vì khó khởi hiện (Thiền vị lai khó sinh hỷ).
Ba, bốn và trung gian, Là đều ba mươi lăm: Nghĩa là thiền thứ ba, thiền thứ tư và thiền trung gian có ba mươi lăm phẩm, trừ hỷ và chánh tư duy.
Thiền một nói tất cả
Vô sắc ba mươi hai
Trên hết hai mươi hai
Cõi dục cũng như vậy.
Thiền một nói tất cả: Nghĩa là thiền thứ nhất có đủ ba mươi bảy phẩm.
Vô sắc ba mươi hai: Nghĩa là ba vô sắc có ba mươi hai, trừ hỷ, chánh tư duy, chánh ngữ, chánh nghiệp, chánh mạng.
Trên hết hai mươi hai: Nghĩa là xứ phi tưởng phi phi tưởng không có đạo chi (tám) và giác chi (bảy), nên chỉ có hai mươi hai phẩm. Đạo chi tuy là hữu lậu, nhưng vì nói sau giác chi, nên biết là vô lậu. Do thế Tu-đa-la nói: Ba mươi bảy phẩm giác hoàn toàn là vô lậu. Như Tu-đa-la nói: Tu quán bất tịnh đều cùng có niệm giác chi. Người tu quán kia vì dùng quán bất tịnh để điều phục tâm mình, sau đấy giác chi ới hiện ở trước.
Cõi dục cũng như vậy: Tức cõi dục cũng có hai mươi hai phẩm.
Hỏi: Bốn cách ăn ở địa nào và có tánh gì?
Đáp:
Đoạn thực trong các ăn
Cõi dục nói ba nhập
Thức thực, tư và xúc
Ăn này nói hữu lậu.
Đoạn thực trong các ăn, Cõi dục nói ba nhập: Nghĩa là đoạn thực trong cõi dục là xứ ba nhập, đó là hương, vị, xúc. Về sự tức có mười ba, nghĩa là mười một xúc cùng hương, vị. Tùy theo chỗ thích hợp mà họ hoặc dùng cỏ, cây, rễ, trái, hoặc dùng ngũ cốc, nước ép, hoặc dùng mùi hương, hoặc dùng hơi ấm áp. Nên so sánh như vậy.
Thức thực, tư và xúc, Ăn này nói hữu lậu: Nghĩa là thức, tư, xúc, nếu là hữu lậu tức do giữ lấy sự sống nối tiếp cùng chiêu cảm hữu, thế nên nói là ăn. Xúc vô lậu v.v… tuy thâu giữ bốn đại của các căn, nhưng không chiêu cảm hữu, lại đoạn trừ hữu, nên không phải là ăn.
Hỏi: Vì sao sắc không phải là ăn?
Đáp: Vì sắc thô nên không phải là ăn. Vì hủy hoại sắc nên gọi là ăn. Sắc không thể gồm thâu hết bốn đại của các căn. Nghĩa gồm thâu là nghĩa của ăn. (Về nghĩa này trong phẩm Trạch sẽ nói rộng) Hỏi: Ba tam muội, mỗi mỗi tam muội có bao nhiêu hành chuyển?
Đáp:
Vô nguyện có mười hành
Hai hành là định không
Bốn hành nói vô tướng
Đó gọi là Thánh hành.
Vô nguyện có mười hành: Nghĩa là tam muội vô nguyện có mười hành chuyển. Đó là hành vô thường, hành khổ, bốn hành của tập và bốn hành của đạo.
Hai hành là định không: Tức là tam muội không có hai hành là hành không và hành vô ngã chuyển.
Bốn hành nói vô tướng, Đó gọi là Thánh hành: Nghĩa là tam muội vô tướng có bốn hành của diệt đế chuyển. (Trong phẩm Định đã nói rộng)
Hỏi: Bốn điên đảo dùng những tánh nào để đoạn?
Đáp:
Nói bốn điên đảo kia
Nên biết kiến khổ đoạn
Tự tánh ba kiến tăng
Người thấy thật phân biệt.
Nói bốn điên đảo kia, Nên biết kiến khổ đoạn: Nghĩa là tất cả bốn điên đảo, vì không xa căn bản của tầm, vì sinh khởi ở xứ khổ, nên do kiến khổ đoạn. Phái Tỳ-bà-xà-bà-đề muốn khiến có mười hai thứ điên đảo. Đó là vô thường điên đảo cho là thường, là tưởng điên đảo, kiến điên đảo, tâm điên đảo. Ba thứ còn lại cũng như vậy.
Tám thứ kia do kiến đạo đoạn. Vô thường, vô ngã có sáu (Hai thứ này mỗi thứ đều có tâm, tưởng, kiến là thành sáu). Khổ cho là có vui là kiến điên đảo. Bất tịnh cho là tịnh là kiến điên đảo. Bốn thứ điên đảo là do kiến đạo, tu đạo đoạn cũng đoạn tưởng điên đảo và tâm điên đảo của khổ và bất tịnh.
Nói như vậy thì nghĩa này là không đúng. Vì sao? Vì điên đảo là tánh của kiến, còn tưởng, tâm là đối tượng loạn của kiến. Nói tưởng tâm là thọ nhận điên đảo, tuy là đối tượng loạn động của kiến, nhưng vì không hệ thuộc với thế gian nên không nói.
Nếu hỏi Tu-đà-hoàn, thế nào là nhiễm chấp, là vì không đoạn trừ phiền não. Như Tu-đà-hoàn tại gia đoạn trừ ngã điên đảo, cũng như khởi sự kết buộc về nam nữ, không phải pháp tưởng dấy khởi sự kết buộc ấy. Sự việc kia cũng như vậy.
Tự tánh ba kiến tăng, Người thấy thật phân biệt: Tức bốn thứ điên đảo này là tự tánh của ba kiến, nhưng chỉ nói phần ít. Người thấy chân thật đã kiến lập.
Hỏi: Vì sao như thế?
Đáp: Là do tăng thượng. Như phần tăng thượng của kiến kia đã kiến lập điên đảo. Tức là như trong thân kiến lập ngã kiến là điên đảo, vì không phải là đối tượng nhận biết của ngã. Trong biên kiến lập thường kiến là điên đảo, vì không phải là đoạn kiến. Trong kiến thủ lập kiến lạc tịnh là điên đảo, vì không phải là pháp khác (Chấp xấu cho là tốt, chấp kém cho là hơn, tất cả như vậy không lập điên đảo), đều là kiến thủ, chỉ do nhẹ.
Hỏi: Vì sao các kiến khác không lập là điên đảo?
Đáp: Do ba sự nên nói là điên đảo. Đó là quyết đoán, vọng nêu đặt và hoàn toàn đảo ngược. (Hoàn toàn đảo ngược nghĩa là trái hẳn với sự đúng đắn, như chuyển dưới thành trên). Nghĩa là tà kiến và biên kiến kia gồm thâu đoạn kiến, tuy quyết đoán và hoàn toàn đảo ngược, nhưng không phải là vọng nêu đặt, vì từ sự hủy hoại sinh. Giới thủ tuy quyết đoán và vọng nêu đặt, nhưng không phải là hoàn toàn đảo ngược, nghĩa là có chút ít sự thật, vì từ chỗ một ít thật ấy khởi. A-tỳ-đàm nói: Thân kiến, kiến thủ hoàn toàn là điên đảo, vì từ vô thủy đã tập quen lâu nơi điên đảo. Phiền não đã đoạn, nhưng Tuđà-hoàn, Tư-đà-hàm cũng còn nhiễm chấp nơi cảnh giới.
Hỏi: Đức Thế Tôn nói có nhiều kiến, vậy những kiến nào gồm thâu?
Đáp: Năm kiến gồm thâu.
Hỏi: Sự việc này là thế nào?
Đáp:
Hủy báng nơi chân thật
Kiến này là tà kiến
Không thật mà giả đặt
Là hai kiến cùng trí.
Hủy báng nơi chân thật, Kiến này là tà kiến: Nghĩa là nếu thấy người hủy báng về chân thật, cho là không có. (Không có, nghĩa là hủy báng về thí, giới v.v…), không có khổ v.v… Đó gọi là tà kiến.
Không thật mà giả đặt, Là hai kiến cùng trí: Nghĩa là đối với ấm là không thật, giả đặt về ngã và ngã sở là thân kiến. Giả đặt về lạc, tịnh là kiến thủ. Ở nơi xứ sở không thật khác mà giả đặt về sĩ phu v.v…, tất cả như vậy là tà trí, không phải là kiến.
Không nhân mà thấy nhân
Tức nói là giới thủ
Nếu thâu nhận biên kiến
Dựa đoạn diệt hữu thường.
Không nhân mà thấy nhân, Tức nói là giới thủ: Nghĩa là đối với sự việc kia không nhân mà chấp cho là có nhân là giới thủ. Như vị trời Tự Tại mà đoạn dứt việc ăn uống v.v… để cầu sinh lên cõi trời. Có thể biện giải về tánh cùng sĩ phu cho là được giải thoát. (Tánh là thế tánh, là tánh có thể nhận biết thế gian cùng với sĩ phu có sai biệt, đạt được giải thoát)
Nếu thâu nhận biên kiến, Dựa đoạn diệt hữu thường: Nghĩa là nếu từ sự giống nhau cùng nối tiếp che giấu hành vô thường chấp cho là thường, đó là thường kiến. Không biết phần nhân quả nối tiếp nhau mà chấp là đoạn dứt, đó là đoạn kiến. Trừ năm kiến này, thì không còn kiến nào khác. Thế nên nói tất cả kiến đều do năm kiến gồm thâu.
Hỏi: Các kiến này được đoạn trừ như thế nào?
Đáp:
Hủy báng cùng giả đặt
Nhân kiến và hai biên
Các sự ở đấy chuyển
Hoặc thấy kia tức đoạn.
Hủy báng: Là tà kiến. Nếu hủy báng khổ, nên biết là do kiến khổ đoạn, vì ở nơi xứ khổ phát khởi. Kiến tập v.v… cũng như vậy. Như khi kiến diệt, kiến đạo đoạn trừ, kiến thủ, giới thủ là ở xứ khác sinh kiến nên ở xứ khác đoạn. Do nghĩa này nên phiền não của cõi dục duyên nơi trên cũng nói như vậy. Việc không thật mà giả đặt nói là hai kiến. Thân kiến kia vì ở nơi xứ khổ khởi nên do kiến khổ đoạn trừ.
Kiến thủ là nếu đối với quả không thật mà giả đặt thì do kiến khổ đoạn. Nếu ở nơi nhân dấy khởi thì do kiến tập đoạn. Nếu ở nơi kiến diệt đoạn mà dấy khởi thì do kiến diệt đoạn. Ở nơi kiến đạo đoạn mà dấy khởi cũng như vậy. Không phải là do tu đạo đoạn, vì quyết đoán.
Giới thủ là không phải nhân chấp cho là nhân. Nếu ở nơi xứ hữu lậu khởi thì do kiến khổ đoạn. Nếu ở nơi xứ kiến đạo đoạn dấy khởi là do kiến đạo đoạn. Đoạn kiến, thường kiến vì ở nơi xứ kiến khổ sinh khởi thì do kiến khổ đoạn.
Hỏi: Đức Thế Tôn nói hai mươi hai căn, vậy chúng là thế nào?
Đáp:
Nói bốn căn như mắt v.v…
Thân căn có ba thứ
Ý căn cùng với mạng
Là căn dựa sinh tử.
Nói bốn căn như mắt v.v…: Tức như trong phẩm Giới đã nêu rõ.
Thân căn có ba thứ: Tức thân căn nói ba thứ là thân căn, nam căn, nữ căn.
Ý căn: Là ý căn như trước đã nói, do ý giới tức ý căn. Cùng với mạng: Nghĩa là thọ mạng nói là mạng căn.
Là căn dựa sinh tử: Nghĩa là những căn này dựa vào sinh tử để lập căn.
Hỏi: Căn có nghĩa gì?
Đáp:
Tăng thượng là nghĩa căn
Năm căn nói bốn thứ
Nên biết ngoài bốn căn
Đều có hai tăng thượng.
Tăng thượng là nghĩa căn: Tức nghĩa tăng thượng kia là nghĩa của căn. Nghĩa đoan nghiêm là nghĩa của căn. Nghĩa vượt hơn là nghĩa của căn. Nghĩa ở trên là nghĩa của căn. Nghĩa chủ là nghĩa của căn. Tuy tất cả pháp hữu vi đều có tăng thượng, nhưng hoặc kém, hoặc hơn. Nên biết là hơn thì kiến lập căn, như nhân chủ hay thiên chủ.
Hỏi: Nghĩa tăng thượng có bao nhiêu thứ?
Đáp: Bốn thứ tăng thượng như mắt v.v… Đó là năm căn như mắt v.v… có bốn thứ duyên tăng thượng. Tức là khiến thân đoan nghiêm, dẫn dắt nuôi lớn thân mình, làm nơi dựa để sinh thức, sự việc không chung.
Nhãn căn kia khiến thân đoan nghiêm: Nghĩa là nếu nhãn căn không đủ thì người không ưa thích nhìn, bị nhiều kẻ ghét bỏ, không là tăng thượng. Dẫn dắt nuôi lớn thân mình: Nghĩa là nếu mắt thấy các sự việc an nguy, thì bỏ nguy theo an, khiến thân trụ lâu. Làm nơi dựa để sinh thức: Nghĩa là dựa vào mắt sinh khởi nhãn thức và pháp tương ưng. Sự việc không chung: Nghĩa là chỉ mắt thấy sắc, không phải các căn khác.
Nhĩ căn khiến thân đoan nghiêm, dắt dẫn nuôi lớn thân mình, như trước đã nói. Làm nơi dựa để sinh thức: Nghĩa là dựa vào tai sinh nhĩ thức và pháp tương ưng. Sự việc không chung: Nghĩa là tai chỉ nghe tiếng, không phải căn khác.
Ba căn còn lại khiến thân đoan nghiêm, như trước đã nói. Dẫn dắt nuôi lớn thân mình: Tức là ba căn này đều chung nơi đoạn thực khiến thân trụ lâu. Làm nơi dựa để sinh thức: Nghĩa là ba căn này, mỗi mỗi đều sinh khởi phần thức của mình. Sự việc không chung: Nghĩa là mỗi căn đều hành nơi mỗi cảnh giới.
Nên biết ngoài bốn căn, Đều có hai tăng thượng: Như nam căn, nữ căn có hai sự việc duyên tăng thượng nên là vượt hơn. Đó là tướng riêng của chúng sinh và khởi đầu sự khác biệt. Tức nơi chúng sinh, khi hai căn sinh rồi thì chúng sinh riêng khác và tướng của chúng sinh riêng khác.
Lại nữa, về phiền não và thanh tịnh: Tức hai căn này đầy đủ thì có thể tạo bất luật nghi, cho đến có thể gây nên năm nghiệp vô gián, đoạn dứt căn thiện. Về thanh tịnh: Nghĩa là thọ luật nghi, được quả lìa dục, gieo trồng chủng tử của ba thừa. Nếu không có hình, hoặc hai hình, thì không thể khởi các việc thiện ác như thế.
Mạng căn nghĩa là chủng loại được nối tiếp và gìn giữ. Ý căn là nối tiếp hữu đương lai, tự tại tùy chuyển. Hữu nối tiếp: Nghĩa là như đã nói về hương ấm có hai tâm lần lượt hiện ở trước, hoặc ái, hoặc giận. Tự tại: Nghĩa là như đã nói tâm lôi kéo thế gian. Nói rộng như vậy.
Thọ hoặc phần phiền não
Tín cùng dựa thanh tịnh
Chín căn nếu vô lậu
Ba ấy nương nơi đạo.
Thọ hoặc phần phiền não: Nghĩa là các thứ khổ, lạc, hỷ, ưu, xả, được thọ nhận tùy thuận nơi phần phiền não, làm duyên tăng thượng. Tức thọ nhận huân tập các phiền não, do thọ nhận vướng chấp nơi lạc, nên phiền não cũng vướng chấp nơi lạc.
Lại nữa, thọ là duyên tăng thượng cho phần phiền não và thanh tịnh. Ở phần phiền não: Như đã nói: Lạc thọ là sử tham, khổ thọ là sử sân, xả thọ là sử si. Về phần thanh tịnh: Như đã nói: Lạc là nhân của định nơi tâm mình. Khổ thì hành tập tín, dựa vào sáu pháp xuất ly. Xả thì hành tín v.v…
Tín cùng dựa thanh tịnh: Nghĩa là tùy thuận thanh tịnh, nên năm căn như tín v.v… tu phần thanh tịnh.
Chín căn nếu vô lậu, Ba ấy nương nơi đạo: Nghĩa là năm căn như tín v.v… cùng hỷ, lạc, xả và ý căn, chín căn này là hữu lậu hoặc vô lậu. Nếu là vô lậu, tức nương nơi đạo để lập ba căn. Nếu thuộc về đạo tùy tín hành, tùy pháp hành là vị tri căn. Nếu thuộc về đạo tín giải thoát, kiến đáo là dĩ tri căn. Nếu thuộc về đạo vô học là vô tri căn.
Đã nói về sự nơi các căn. Về nhân duyên khác nơi phẩm Trạch sẽ nói rộng.
Hỏi: Các căn này thuộc về cõi nào?
Đáp:
Cõi dục bốn, thiện tám
Sắc chủng căn có bảy
Tâm pháp thì có mười
Một tâm, ba căn hai.
Cõi dục bốn: Nghĩa là nam căn, nữ căn, khổ căn, ưu căn đều hệ thuộc cõi dục. Các sắc căn còn lại và ý căn như nơi phẩm Giới đã nói. Như ý căn, tín v.v… và xả căn cũng như vậy. Lạc căn, hỷ căn nếu là hữu lậu thì hệ thuộc cõi dục, cõi sắc, nếu là vô lậu thì không hệ thuộc. (Về mạng căn trong phẩm Tạp sẽ nói). Ba căn vô lậu, vì không đoạn, nên không hệ thuộc.
Hỏi: Có bao nhiêu căn là thiện?
Đáp: Thiện tám: Gồm năm căn như tín v.v… và ba căn vô lậu, vì thiện này là quả ái. Mạng căn và các thọ có báo sẽ nói. Ngoài ra, như nơi phẩm Giới đã nêu.
Sắc chủng căn có bảy: Nghĩa là bảy căn như nhãn v.v… là sắc, những thứ còn lại không phải là sắc.
Hỏi: Có bao nhiêu thứ tánh là tâm? Bao nhiêu thứ tánh là tâm pháp? Bao nhiêu thứ tánh không phải là tâm, không phải là tâm pháp?
Đáp: Tâm pháp thì có mười: Tức là năm căn như tín v.v… và năm thọ căn. Các căn này là tâm pháp vì tương ưng với tâm.
Một tâm: Nghĩa là ý căn, là tự tánh của tâm, vì được tướng của tâm. Tám thứ như mạng căn v.v… không phải là tâm, không phải là tâm pháp, vì không có duyên.
Ba căn hai: Nghĩa là ba căn vô lậu có hai thứ là tâm và tâm pháp, vì tánh có nhiều tập hợp.
Hỏi: Có bao nhiêu căn có báo? Bao nhiêu căn không có báo?
Đáp:
Ở trong các căn này
Một và mười có báo
Trong mười hai là báo
Mạng căn chỉ là báo.
Ở trong các căn này, Một và mười có báo: Nghĩa là ưu căn là hoàn toàn có báo, vì là hữu lậu, thiện, bất thiện, vì có phương tiện sinh ở hiện tại. Không phải là báo sinh, không phải là oai nghi, không phải là công xảo, không phải là pháp học tập, cũng không phải vô lậu, vì từ phiền não sinh.
Ý căn nếu là thiện, bất thiện, hữu lậu thì có báo, còn vô lậu, vô ký thì không có báo. Ba thọ cũng như vậy.
Khổ căn nếu là thiện, bất thiện thì có báo, vô ký thì không có báo.
Năm căn như tín v.v… nếu là hữu lậu thì có báo, nếu là vô lậu thì không có báo.
Tám thứ còn lại như mạng căn v.v… là không có báo, vì tánh vô ký. Ba căn vô lậu là không có báo.
Hỏi: Có bao nhiêu căn là báo? Bao nhiêu căn không phải là báo?
Đáp: Trong mười hai là báo: Nghĩa là bảy sắc căn có khi là báo, có khi không phải là báo, như nơi phẩm Giới đã nói. Ý căn và bốn thọ, hoặc là báo, hoặc không phải là báo. Nếu là quả của nghiệp thiện, bất thiện là báo.
Mạng căn chỉ là báo: Nghĩa là mạng căn hoàn toàn là báo. Có thuyết muốn khiến đấy là quả của chánh thọ.
Hỏi: Lúc mới sinh được bao nhiêu căn là báo?
Đáp:
Hai hoặc sáu, bảy, tám
Lúc mới sinh đã được
Nên biết báo cõi dục
Sắc sáu, vô sắc một.
Hai hoặc sáu, bảy, tám, Lúc mới sinh đã được, Nên biết báo cõi dục: Nghĩa là các căn này dần dần sinh, là thai sinh, noãn sinh, thấp sinh. Nơi sát-na của lần sinh đầu kia được hai căn, là thân căn và mạng căn. Ý căn của sát-na kia là cấu uế, không phải là không cấu uế, vì tâm luôn nối tiếp thọ sinh. Xả căn cũng như vậy. Những căn khác cũng được nhưng không nói, vì không phải là báo. Hóa sinh, không hình có sáu, là năm sắc căn và mạng căn. Một hình có bảy, hai hình có tám. Đó là hoàn toàn nói về cõi dục.
Sắc sáu, vô sắc một: Nghĩa là cõi sắc được sáu căn, vì cõi ấy hoàn toàn là hóa sinh, không có nam căn, nữ căn như trước đã nói. Cõi vô sắc chỉ có một là mạng căn.
Hỏi: Lúc mạng chung có bao nhiêu căn được xả bỏ sau cùng?
Đáp:
Bỏ bốn, tám cùng chín
Hoặc lại bỏ nơi mười
Mất dần và mất ngay
Thiện bỏ đều thêm năm.
Bỏ bốn, tám cùng chín, Hoặc lại bỏ nơi mười, Mất dần và mất ngay: Nghĩa là tâm vô ký chết dần thì bỏ bốn căn: Thân, ý, mạng và xả. Nếu không có hình nơi tâm vô ký trong một lúc mạng chung thì bỏ tám căn, là năm căn như mắt v.v… và ý, mạng cùng xả căn. Một hình của tâm vô ký thì có chín căn, hai hình có mười. Tâm bất thiện cũng như vậy.
Hỏi: Tâm thiện bỏ bao nhiêu căn?
Đáp: Thiện bỏ đều thêm năm: Tức nếu tâm thiện mạng chung đều có thêm năm căn như tín v.v… Đây là nói người ở cõi dục mất, trở lại sinh nơi cõi dục. Người ở cõi dục mất, sinh lên cõi trên, ngoại trừ không có hình, hai hình, vì lìa dục đều cùng không có phần. Ở cõi sắc, cõi vô sắc mạng chung, tùy theo căn đã được cũng nói như vậy. Không có mạng chung dần. Đây là nói các căn hiện ở trước xả bỏ không phải thành tựu xả bỏ. Vô ký không ẩn mất nói là đắc xả. Thiện, nghĩa là ở nơi này mạng chung, tức sinh ở nơi này, nói là hành xả. Nếu sinh ở xứ khác thì đắc xả.
Hỏi: Có bao nhiêu căn do kiến đoạn, bao nhiêu căn do tu đoạn và bao nhiêu căn không đoạn?
Đáp:
Hai đoạn, không đoạn bốn
Sáu căn tức hai thứ
Ba vô lậu không đoạn
Căn khác tu đạo đoạn.
Hai đoạn, không đoạn bốn: Nghĩa là ý căn, lạc căn, hỷ căn, xả căn có ba thứ: Hoặc do kiến đoạn, hoặc do tu đoạn, hoặc không đoạn. Nếu do đạo tùy tín hành, tùy pháp hành đoạn thì nói là kiến đoạn. Nếu do đạo tín giải thoát, kiến đáo đoạn thì nói là tu đoạn. Nếu là vô lậu thì nói là không đoạn.
Sáu căn tức hai thứ: Nghĩa là ưu căn do kiến đoạn và tu đoạn. Năm căn như tín v.v… là do tu đoạn và không đoạn, không phải do kiến đoạn, vì không nhiễm ô.
Ba vô lậu không đoạn: Vì chúng hoàn toàn là vô lậu.
Căn khác tu đạo đoạn: Nghĩa là chín căn còn lại là do tu đạo đoạn. Tám căn như mạng căn v.v… vì vô ký không ẩn mất, nên không phải do kiến đoạn. Vì gắn liền với sự sinh, nên không phải là không đoạn. Khổ căn tương ưng với năm thức thân, nên không phải do kiến đoạn. Vì từ phiền não sinh, nên không phải là không đoạn.
Hỏi: Nếu thành tựu căn thì người kia thành tựu bao nhiêu căn?
Đáp:
Hoặc thành tựu ba, bốn
Năm, bảy cùng với tám
Mười một và mười ba
Là nói thành tựu định.
Nếu thành tựu ý căn tất thành tựu ba căn, là ý, mạng, xả. Các căn khác hoặc thành tựu, hoặc không thành tựu.
Các căn mắt, tai, mũi, lưỡi: Nếu sinh nơi cõi sắc tất là thành tựu. Nếu sinh nơi cõi dục, được mà không mất thì thành tựu. Nếu sinh nơi cõi vô sắc và cõi dục, ở trong thai dần dày, các căn chưa đầy đặn cùng được mà mất thì không thành tựu.
Thân căn nếu sinh nơi cõi dục, cõi sắc là tất thành tựu, sinh nơi cõi vô sắc thì không thành tựu. Lạc căn sinh nơi trời Biến tịnh, nếu từ cõi dưới cùng với Thánh nhân sinh lên cõi trên thì tất thành tựu. Phàm phu sinh lên cõi trên thì không thành tựu.
Hỷ căn sinh lên cõi trời Quang Âm tất là thành tựu. Các căn khác đều nói như lạc căn. Khổ căn sinh nơi cõi dục thì tất thành tựu, sinh lên cõi trên thì không thành tựu.
Ưu căn chưa lìa dục thì tất thành tựu, đã lìa dục thì không thành tựu. Năm căn như tín v.v… không đoạn căn thiện thì tất thành tựu, đoạn thì không thành tựu.
Ba căn vô lậu nơi Thánh nhân tùy theo địa tất thành tựu. (Ba địa là kiến địa, tu địa, vô học địa). Phàm phu thì không thành tựu. Như ý căn, mạng căn, xả căn cũng nói như vậy.
Nếu thành tựu thân căn tất thành tựu bốn căn là thân, ý, mạng, xả. Các căn khác, như trước đã nói.
Nếu thành tựu lạc căn thì cũng thành tựu bốn căn, là mạng, ý, lạc, xả. Nếu thành tựu nhãn căn tất thành tựu năm căn, là thân, ý, mạng, xả và nhãn căn. Nhĩ căn, tỷ căn, thiệt căn cũng như vậy.
Nếu thành tựu hỷ căn thì cũng thành tựu năm căn là hỷ, lạc, ý, mạng và xả. Nếu thành tựu khổ căn tất thành tựu bảy căn là thân, ý, mạng căn và bốn thọ, trừ ưu căn.
Nếu thành tựu nam căn tất thành tựu tám căn, là bảy căn trước và một hình. Nữ căn cũng như vậy. Nếu thành tựu ưu căn cũng thành tựu tám căn, là thân, ý, mạng căn và năm thọ.
Nếu thành tựu tín căn cũng thành tựu tám căn, là năm căn như tín v.v… cùng ý, mạng và xả căn. Các căn tinh tấn, niệm, định, tuệ cũng như vậy.
Nếu thành tựu dĩ tri căn tất thành tựu mười một căn, là ý, mạng, hỷ, lạc, xả, năm căn như tín v.v… và dĩ tri căn. Vô tri căn cũng như vậy.
Nếu thành tựu vị tri căn tất thành tựu mười ba căn, là thân, ý, mạng, khổ, lạc, hỷ, xả, năm căn như tín v.v… và vị tri căn.
Hỏi: Có bao nhiêu căn khi được quả Sa-môn?
Đáp:
Chín căn được quả đầu
Hoặc đạt hai Sa-môn
Là do mười một căn
Cứu cánh quả thứ tư.
Chín căn được quả đầu: Nghĩa là chín căn thì được quả Tuđà-hoàn, là ý căn, xả căn, năm căn như tín v.v…, vị tri căn và dĩ tri căn. Vị tri căn là đạo vô ngại, dĩ tri căn là đạo giải thoát, đều cùng có bảy căn.
Hoặc đạt hai Sa-môn: Nghĩa là nếu dứt hết dục gấp bội thì được quả Tư-đà-hàm. Chín căn như trước đã nói. Nếu dục ái dứt hết thì được quả A-na-hàm, cũng chín căn, tám căn như trước đã nói. Ba thọ thì tùy theo dụng để nói. Nếu theo thứ lớp thì được quả Tư-đàhàm, đạo thế tục có bảy, là ý căn, xả căn và năm căn như tín v.v… Đạo vô lậu có tám căn, là bảy căn trước và dĩ tri căn. Theo thứ lớp được quả A-na-hàm cũng như vậy.
Là do mười một căn, Cứu cánh quả thứ tư: Nghĩa là mười một căn thì được quả A-la-hán, là ý căn và ba thọ, năm căn như tín v.v…,, dĩ tri căn cùng vô tri căn. Dĩ tri căn là đạo vô ngại, vô tri căn là đạo giải thoát.
Hỏi: Các đạo này là thế nào? Là phần định hay là dụng định? Nếu là phần định, thì quả A-na-hàm cũng có ba thọ. Nếu là dụng định, thì không có ba dụng này, hãy còn không có hai thọ hiện hành trong cùng một lúc, huống chi là có ba?
Đáp: Dụng định là ở nơi thân, không phải ở nơi sát-na. Nghĩa là do lạc căn mà được quả A-la-hán. Ở nơi định kia thoái rồi, lại từ nơi hỷ căn được. Nếu còn thoái nữa thì lại từ xả căn được, nhưng quả A-na-hàm là do thọ này được. Nếu người kia thoái thì trở lại từ thọ này được, không phải là xứ khác.
Hỏi: Đức Thế Tôn nơi Tu-đa-la đã nói sáu thức thân. Những gì là cảnh giới của các thức này?
Đáp:
Nếu lấy nghĩa các tướng
Cảnh giới năm thứ tâm
Nếu nhận tất cả pháp
Đây tức nói ý thức.
Nếu lấy nghĩa các tướng, Cảnh giới năm thứ tâm: Tức năm cảnh giới như sắc v.v… là đối tượng nhận lấy của năm thức. Nhãn thức nhận lấy sắc, cho đến thân thức nhận lấy xúc, vì thọ nhận tự tướng và vì cảnh giới hiện tại.
Nếu nhận tất cả pháp, Đây tức nói ý thức: Nghĩa là ý thức duyên nơi tất cả pháp, vì cảnh giới của cộng tướng, vì tư duy, vì thường xuyên nhớ nghĩ. Về nghĩa này, nói rộng như trong phẩm Giới.
Đã nói về cảnh giới của thức. Cảnh giới của trí nay sẽ nói.
Các ấm cõi dục, sắc
Vô sắc và vô lậu
Hữu y, vô y, tám
Cùng hai vô vi kia.
Có mười pháp tương ưng, không tương ưng của cõi dục. Cõi sắc, cõi vô sắc cũng như vậy. Tương ưng, không tương ưng của hữu vi vô lậu có hai thứ: Là vô vi thiện và vô ký.
Hỏi: Mười đối tượng nhận biết của pháp trí này, mỗi mỗi trí có bao nhiêu pháp làm cảnh giới?
Đáp:
Năm pháp cần phải biết
Cảnh giới của pháp trí
Tỷ trí bảy làm duyên
Cảnh giới tha tâm ba.
Năm pháp cần phải biết, Cảnh giới của pháp trí: Đó là pháp tương ưng không tương ưng của cõi dục, pháp tương ưng, không tương ưng với vô lậu và thiện vô vi.
Tỷ trí bảy làm duyên: Nghĩa là pháp tương ưng không tương ưng của cõi sắc, cõi vô sắc, pháp tương ưng, không tương ưng với vô lậu cùng thiện vô vi.
Cảnh giới tha tâm ba: Đó là cõi dục, cõi sắc và cảnh giới của tâm, tâm pháp tương ưng với vô lậu.
Hữu lậu nên biết mười
Trí nhân quả có sáu
Giải thoát một, đạo hai
Hai khác cảnh giới chín.
Hữu lậu nên biết mười: Nghĩa là đẳng trí hành nơi tất cả mười pháp, vì cảnh giới rộng.
Trí nhân quả có sáu: Nghĩa là khổ, tập trí nhận biết sáu pháp, đó là cảnh giới hữu lậu tương ưng, không tương ưng của ba cõi, là pháp trí, tỷ trí.
Giải thoát một: Nghĩa là diệt trí, duyên nơi một pháp, đó là cảnh giới số diệt của vô vi thiện. Đạo hai: Nghĩa là đạo trí duyên nơi hai pháp, tức là cảnh giới học, vô học tương ưng, không tương ưng của hữu vi vô lậu.
Hai khác cảnh giới chín: Nghĩa là tận trí, vô sinh trí duyên nơi chín pháp, là cảnh giới của bốn đế, trừ vô ký.
Hỏi: Các sử đã có những sai khiến gì?
Đáp:
Các phiền não tự địa
Định sử nơi địa mình
Tự chủng nhất thiết biến
Tùy sử ở chủng kia.
Các phiền não tự địa, Định sử nơi địa mình: Nghĩa là phiền não của cõi dục kia tức sai khiến pháp của cõi dục, cho đến đệ nhất hữu cũng như vậy. Vì vượt hơn, vì đối trị, nên địa dưới không sai khiến địa trên. Vì thân hành lìa dục, nên địa trên không sai khiến địa dưới.
Tự chủng nhất thiết biến, Tùy sử ở chủng kia: Nghĩa là các pháp của tự chủng, bị sử của tự chủng sai khiến. Là nhất thiết biến (Biến hành), là cũng sai khiến chủng khác. Do có năm thứ cảnh giới.
Nếu định pháp ba cõi
Sử ba cõi sai khiến
Sinh hai cõi nên biết
Một cõi cũng lại thế.
Nếu định pháp ba cõi, Sử ba cõi sai khiến: Nghĩa là năm thứ pháp thuộc về ba cõi bị tất cả sử của ba cõi sai khiến. Như thế, tất cả pháp đều tùy theo chỗ ứng hợp mà nói.
Sinh hai cõi nên biết: Nghĩa là pháp thuộc về hai cõi bị phiền não của hai cõi sai khiến, tùy theo chỗ thích ứng kia, đó là giác quán. Năm thứ của cõi dục, cõi sắc bị tất cả sử của cõi dục, cõi sắc kia sai khiến, nghĩa là ý căn. Năm thứ của ba cõi bị hết thảy sử của ba cõi kia sai khiến. Như vậy, tất cả pháp đều tùy theo chỗ thích ứng.
Một cõi cũng lại thế: Tức nếu định rõ là pháp của một cõi, thì bị sử của một cõi ấy sai khiến, tức là ưu căn. Năm thứ của cõi dục bị tất cả sử của cõi dục kia sai khiến. Như vậy, tất cả pháp đều tùy theo chỗ thích hợp.
Kinh này Mâu-ni nói
Tánh kia đã phân biệt
Thức, trí cùng các sử
Nên biết là ba môn.
Kinh này do Đức Phật giảng nói, tôi đã phân biệt đầy đủ, nên dùng ba môn để thông hợp. Đó là môn Thức, môn Trí và môn Sử. Như đưa ra tánh năm ấm của cõi dục, do tu đạo đoạn, thì bảy trí kia nhận biết, tức trừ tỷ trí, diệt trí, đạo trí. Vì là cõi dục nên trừ tỷ trí. Vì là hữu lậu nên trừ diệt trí, đạo trí.
Ba thức nhận biết là nhãn thức, nhĩ thức và ý thức. Vì bốn nhập gồm thâu. Cõi dục bị sử nhất thiết biến và sử do tu đạo đoạn sai khiến. Về giới là tám trí nhận biết, tức trừ tha tâm trí, diệt trí. Ba thức nhận biết là nhãn thức, nhĩ thức, ý thức. Cõi dục, cõi sắc bị sử nhất thiết biến và sử do tu đạo đoạn sai khiến.
Về tu nghĩa là tánh không phóng dật, chín trí nhận biết, trừ diệt trí. Ý thức nhận biết. Ba cõi bị sử nhất thiết biến và sử do tu đạo đoạn sai khiến. Tất cả Tu-đa-la đều giảng nói như vậy, tùy theo chỗ ứng hợp. Nếu nói chung về nghĩa, muốn nhận biết về sự gồm thâu, nên quán xét về cõi được kiến lập. Muốn nhận biết môn trí nên xem xét về sự kiến lập của đế. Muốn nhận biết về môn thức, nên xem xét về sự kiến lập của nhập. Muốn nhận biết về môn sử, nên xem xét về chủng loại đã được kiến lập. Nói như vậy thì dễ nhận biết.
HẾT – QUYỂN 8