LUẬN TẠP A TỲ ĐÀM TÂM
Tác giả: Tôn giả Pháp Cứu.
Hán dịch: Đời Lưu Tống, Tam tạng Tăng Già Bạt Ma, người Thiên Trúc
Việt dịch: Cư sĩ Nguyên Huệ
QUYỂN 5
Phẩm thứ 5: HIỀN THÁNH
Đã nói các phiền não. Về tu hành nay sẽ nói.
Đầu tức gọi thủy nghiệp
Kế tức đã tập hành
Tư duy là đã độ
Nên biết loại thứ ba.
Ba loại tu hành là thủy nghiệp, đã tập hành và tư duy đã độ. Thủy nghiệp: Là bất tịnh chuyển, chưa từng được cảnh giới ý giải nơi phần tư duy. Đã tập hành: Là thọ nhận tự tướng niệm xứ chuyển, chưa từng được căn thiện của phần quyết định. Trên đây nên biết là Tư duy đã độ, do đạo nhất thừa nêu trên.
Lại nữa, quán bất tịnh cũng có ba loại tu hành. Nghĩa là khởi sự từ ngón chân cho đến đỉnh đầu, trừ bỏ ý giải tư duy về da, máu, thịt. Đó gọi là Thủy nghiệp. Đối với vòng xương này, khởi tưởng không tạo tác, sinh hiện bày cùng khắp đại địa. Lại quán vòng xương, khởi tưởng không tạo tác, vòng xương kia lần lượt đối nhau nơi trận gió lớn thổi đập tiêu tan thành đống tuyết. Đó gọi là Đã tập hành. Lược quán về vòng xương trở lại đến tự thân. Nơi đối tượng duyên này là thanh tịnh vắng lặng, chỉ quán về một sắc. Đó gọi là Tư duy đã độ.
Như vậy cho đến tóm lược cảnh giới, nên biết là căn thiện dần tăng, nên biết là hết thảy căn thiện của phương tiện khác cũng như thế.
Đã nói về tu hành. Pháp khác nay sẽ nói.
Hoặc sợ phiền não này
Xa lìa các Hiền Thánh
Đầy đủ đúng như thật
Phương tiện nên khéo nghe.
Hoặc: Nghĩa là hoặc chủng loại, hoặc phương tiện, hoặc phân biệt. Này: Nghĩa là thứ lớp nêu bày chỉ rõ về phiền não. Phiền não: Nghĩa là nhiệt não. Cũng lìa tất cả hữu lậu, song phiền não là vượt hơn như cơm độc, thế nên nói lìa phiền não. Gốc của các sợ hãi: Là khởi các thứ nghiệp, các thứ sinh.
Xa lìa: Là số diệt diệt. Hiền Thánh: Nghĩa là tụ chánh định, tức bảy người và phàm phu chân thật.
Đầy đủ đúng như thật: Nghĩa là trụ nơi đạo chân thật.
Phương tiện nên khéo nghe: Nghĩa là đạo phương tiện kia nên nhất tâm lắng nghe. Phương tiện: Là tất cả phương tiện của pháp thiện, hướng đến giải thoát, phát khởi hành thí v.v… không phải chỉ có đạo. Ba khổ đã bức bách, thế gian không thể nhận biết rõ, nên muốn khiến tu định.
Đầu nơi phần tự thân
Buộc giữ tâm khiến định
Muốn buộc nơi chân thức
Là hết trí tuệ oán.
Đầu: Nghĩa là trước hết. Phần tự thân: Nghĩa là một xứ trong tự thân. Hoặc giữa khoảng chân mày, hoặc đầu sống mũi cùng ngón chân.
Buộc giữ: Là an lập trong duyên, khiến không tán loạn. An lập nơi chốn nào? Nghĩa là do lực định của tự tâm nên khởi trí tuệ.
Hỏi: Vì sao buộc giữ như thế?
Đáp: Vì Muốn buộc nơi chân thức: Do tâm lưu chuyển không dừng trụ, nên phải buộc giữ trong một duyên. Vì nhất tâm nên nhận biết chân thật, không loạn.
Hỏi: Vì sao buộc giữ trong một duyên?
Đáp: Vì Là hết trí tuệ oán. Trí tuệ oán là các phiền não, chúng cần được đoạn trừ. Tuy quán thân người khác như quán tử thi, như Khế kinh nói. Do kia là nhân xa, ở đây nói là quán nhân gần. Lại, vì tùy thuận nơi tất cả môn độ. Nghĩa là quán phần thân xương trắng là tùy thuận ba môn độ. Quán tử thi chỉ tùy thuận một môn độ bất tịnh. Ba môn độ là quán bất tịnh, niệm an ban (Quán sổ tức) và quán phương tiện giới.
Người tham dục thì dùng quán bất tịnh độ. Người giác quán thì dùng niệm an ban độ. Người kiến hành tức dùng quán phương tiện giới độ. Như nơi thầy đã truyền trao, theo đấy vui thích tu hành. Quán bất tịnh, niệm an ban trong phẩm Khế kinh sẽ nói rộng. Quán phương tiện giới nay sẽ nói.
Do người ngu này không chánh tư duy, nên đã che lấp tuệ nhãn, không quán chân thật về pháp duyên khởi. Nơi túc nghiệp đã gieo trồng vô lượng pháp phiền não, chứa nhóm nơi năm ấm, khởi tưởng chứa nhóm, do ngu tối lầm lạc nên ở trong phần duyên khởi đã tạo phát những tà kiến trói buộc như chấp ngã tạo tác v.v… Hoặc lúc tu hành gần gũi bậc thiện tri thức, được nghe chánh pháp, khởi chánh tư duy xong, có thể đối với tự thân quán phương tiện giới, tức nơi thân này có các thứ tự tánh, vô số các thứ nghiệp, vô số các thứ tướng, nghĩa là sáu giới như địa v.v…
Địa giới kia được thủy giới làm thấm nhuần nên không lìa nhau. Thủy giới vì được địa giới nắm giữ nên không chảy tan. Hỏa giới vì đã thành thục nên không ứ đọng, hư hoại. Phong giới vì lay động nên được tăng trưởng. Không giới vì rỗng không nên thức ăn v.v… vào ra. Thức giới vì hòa hợp nên có đối tượng tạo tác.
Lại quán thân này từ chân đến đỉnh đầu có vô số các thứ bất tịnh đầy dẫy uế ác. Quán sát sắc này cũng như trận gió dữ thổi tan đống cát. Đối với pháp vô sắc, quan sát chúng trước sau nối tiếp nhau là phần khác. Người quán như thế tức được chủng tử của môn giải thoát không. Ở nơi sinh tử kia chán lìa không ưa thích là được chủng tử của môn giải thoát vô nguyện. Đối với sinh tử đã không ưa thích rồi thì hướng thẳng về Niết-bàn, tức được chủng tử của môn giải thoát vô tướng.
Nếu ở đây nhận biết được tưởng không tạo tác rồi, thì quán tất cả pháp hữu vi thảy đều là tan hoại. Đó gọi là quán phương tiện giới viên mãn.
Hỏi: Quán như vậy rồi lại còn thế nào nữa?
Đáp:
Phương tiện này ở thân
Tướng chân thật quyết định
Các thọ cùng tự tâm
Pháp cũng quán như thế.
Người tu hành kia quán bất tịnh, niệm an ban, quán phương tiện giới, mỗi mỗi đều an trụ xong thì thân, thọ, tâm, pháp đều quán chân thật. Chân thật nghĩa là không điên đảo. Tướng có hai thứ: Là tự tướng và cộng tướng. Sắc tướng là tự tướng của thân. Bốn chủng và tướng tùy giác đã được tạo là tự tướng của thọ. Thức tướng là tự tướng của tâm. Pháp niệm xứ có vô số thứ pháp, vô số thứ đều là dị tướng. Theo đấy nhận biết là tướng của tưởng. Được tạo tác là tướng của tư. Nên so sánh như thế. Về cộng tướng sẽ nói sau.
Hỏi: Niệm xứ này, như kiến lập đại địa nên nói là một. Phân biệt về hữu lậu, vô lậu nên nói là hai. Phân biệt về hạ trung thượng nên nói là ba. Tức phân biệt nơi hữu lậu, vô lậu này nên nói là sáu. Phân biệt về hữu lậu vô lậu như thân v.v… nên nói là tám. Phân biệt về chín phẩm nên nói là chín. Phân biệt về hoặc trong, hoặc ngoài, hoặc trong ngoài nơi thân v.v… nên nói là mười hai. Phân biệt về chín phẩm hữu lậu, vô lậu nên nói là mười tám. Phân biệt về hữu lậu, vô lậu theo ba phẩm hạ, trung, thượng nơi bốn thứ thân thọ tâm pháp nên nói là hai mươi bốn. Phân biệt về bốn thứ thân thọ tâm pháp hoặc trong, hoặc ngoài, hoặc trong ngoài, hoặc chán lìa, hoặc không ưa thích, hoặc quán xét, nên nói là ba mươi sáu. Phân biệt về chín phẩm hữu lậu, vô lậu của thân v.v… nên nói là bảy mươi hai. Nếu niệm niệm phân biệt, nên nói là vô lượng, vì sao chỉ nói bốn niệm xứ?
Đáp: Bốn đảo, bốn thực, bốn thức trụ và ấm. Do bốn thứ tu đối trị, nên nói bốn thứ pháp tùy tu. Pháp tu đối trị là bất tịnh, do điên đảo tưởng là tịnh, nên nói là Thân niệm xứ. Pháp tu đối trị là khổ, do điên đảo tưởng là lạc, nên nói là Thọ niệm xứ. Pháp tu đối trị là vô thường, do điên đảo tưởng là thường, nên nói là Tâm niệm xứ. Pháp tu đối trị là vô ngã, do điên đảo tưởng là ngã, nên nói là Pháp niệm xứ. Như thế, các loại pháp khác tùy chỗ ứng hợp nên nói.
Hỏi: Niệm xứ này làm thế nào để đầy đủ?
Đáp: Dùng hai nhân duyên để đầy đủ là cảnh giới hoại và căn thiện tăng. Cảnh giới hoại nghĩa là dùng sát-na cực vi để hoại bỏ cảnh giới tùy theo nghĩa ấy. Căn thiện tăng nghĩa là dựa vào căn thiện phẩm hạ để có phẩm trung, dựa nơi trung để được tăng trưởng. Đó gọi là đầy đủ.
Hỏi: Vì sao trước nói thân niệm xứ cho đến sau cùng mới nói pháp niệm xứ?
Đáp: Vì tùy thuận nơi sự phát khởi. Đức Thế Tôn nói có ba loại tùy thuận: Tùy thuận khởi, tùy thuận thuyết và tùy thuận vô gián đẳng.
Tùy thuận khởi là niệm xứ và thiền. Người tu hành vô sắc, trước là khởi thân niệm xứ, cho đến sau cùng là khởi pháp niệm xứ. Vì thế, Đức Thế Tôn trước nói thân niệm xứ, cho đến pháp niệm xứ. Nên biết thiền vô sắc cũng như thế.
Tùy thuận thuyết là chánh đoạn, như ý túc, căn, lực, giác đạo chi. Nhân nơi một sát-na khởi tinh tấn là gồm đủ bốn chánh đoạn nên nói dễ. Pháp ác bất thiện đã sinh, tạo phương tiện khiến đoạn trừ, cho đến pháp thiện đã sinh, tạo phương tiện khiến trụ, nói rộng như thế. Chánh đoạn như vậy, do đối tượng tạo tác nên nói là bốn chánh đoạn, vì không phải là tự tánh.
Tùy thuận vô gián đẳng là nói về người tu hành chân đế, trước tức nhập nơi khổ vô gián đẳng, cho nên nói trước. Nói rộng như thế.
Hỏi: Vì sao người tu hành trước khởi thân niệm xứ cho đến pháp niệm xứ?
Đáp: Vì thô. Nơi năm ấm thứ gì là thô? Đó là bốn chủng (Bốn đại) và sắc được tạo, cho nên quán thân trước hết. Thọ tuy không phải là sắc nhưng vì hành thô nên nói tiếp theo. Nghĩa là tay, chân v.v… thọ nhận tức tùy chuyển. Tuy tưởng ấm, hành ấm là thô, không phải là thức, nhưng cùng với Niết-bàn là hợp để nêu đặt pháp niệm xứ, nên pháp ấy rất vi tế, do vậy trước quán tâm, sau quán pháp. Tuy tất cả đều là pháp, nhưng đối với pháp này tưởng đã đầy đủ nên kiến lập. Thế nên nói một pháp niệm xứ, không phải là pháp khác. Như trong phẩm Giới nói pháp nhập, ở đây cũng vậy. (Tưởng đầy đủ: Tức đối với âm thanh là tưởng, đối với nghĩa là danh, gọi là đầy đủ) Hỏi: Có bao nhiêu thứ niệm xứ? Đáp:
Ba thứ nói niệm xứ
Tự tánh cùng với cộng
Cũng nói tên là duyên
Tuệ như văn v.v… cũng thế.
Ba thứ nói niệm xứ, Tự tánh cùng với cộng, Cũng nói tên là duyên: Nghĩa là có ba thứ niệm xứ: Tự tánh niệm xứ, Cộng niệm xứ, Duyên niệm xứ.
Tự tánh niệm xứ: Nghĩa là nói về tuệ không điên đảo. Vì sao? Vì như nói thuận với thân quán thân. Quán nghĩa là tuệ. Niệm nghĩa là sự việc đã làm vì đã trao duyên nên không quên. Do trừ lỗi của tự tánh, nên nói là niệm xứ.
Cộng niệm xứ: Nghĩa là cùng với chánh tuệ là pháp của một quả. Như Đức Thế Tôn nói: Tỳ-kheo nên chứa nhóm pháp thiện, nghĩa là bốn niệm xứ. Đấy là chánh thuyết.
Duyên niệm xứ: Nghĩa là tất cả pháp, như đã nói: Tỳ-kheo! Tất cả pháp nói là bốn niệm xứ. Đấy là chánh thuyết. Vì thâu nhận đầy đủ và vì tóm lược duyên.
Cộng niệm xứ đoạn trừ phiền não, không phải là pháp khác. Tự tánh niệm xứ tuy có tóm lược cảnh giới, vì vật dụng của cảnh giới ấy không đủ nên đã thâu nhận đầy đủ đạo để đoạn trừ phiền não. Duyên niệm xứ tuy gồm thâu các thứ vật dụng, nhưng vì cảnh giới tản mát khắp, nên tóm lược cảnh giới theo đạo để đoạn trừ phiền não.
Hỏi: Chỉ có ba loại niệm xứ này, pháp khác cũng như vậy chăng?
Đáp: Tuệ như văn v.v… cũng thế: Tức pháp khác cũng có ba loại, nghĩa là văn, tư, tu. Văn nghĩa là thường ở nơi xứ danh khởi, theo thầy thọ nhận Khế kinh, Luật, A-tỳ-đàm. Tư nghĩa là hoặc ở nơi xứ tư khởi, hoặc lìa tư. Tu nghĩa là hoàn toàn lìa danh khởi. Như ba người học bơi lội: Mới học, học nửa chừng, học thành thạo. Người mới học chỉ bơi gần bờ. Người học nửa chừng, hoặc bơi gần, hoặc lìa bờ. Người học thành thạo thì bơi xa bờ. Người thứ nhất ví như văn tuệ. Người thứ hai ví như tư tuệ. Người thứ ba ví như tu tuệ. Tu tuệ có thể đoạn trừ phiền não, vì vĩnh viễn lìa danh và vì chánh định. Nếu cho hai thứ vô nghĩa là không đúng. Vì sao? Vì chúng đều hướng đến tu tuệ. Tu tuệ có đủ bốn niệm xứ: Thân, thọ, tâm, pháp. Pháp niệm xứ kia đoạn trừ phiền não, không phải là pháp khác, vì cảnh giới chung, vì là cảnh giới của sự, vì khởi pháp niệm xứ nên cũng không phải là vô nghĩa. Pháp niệm xứ có hai thứ: duyên hoại, duyên không hoại. Nếu tuệ duyên nơi sắc là thân niệm xứ. Nếu duyên nơi thọ là thọ niệm xứ. Nếu duyên nơi tâm là tâm niệm xứ. Nếu duyên nơi tưởng, hành và vô vi là duyên không hoại. Pháp niệm xứ còn lại nay sẽ nói.
Trong pháp nhập quán chung
Được tướng pháp chân thật
Bốn này là vô thường
Không, vô ngã, phi lạc.
Trong pháp nhập quán chung, Được tướng pháp chân thật: Nghĩa là người tu hành nhập pháp niệm xứ duyên không hoại. Tu mỗi mỗi niệm xứ, quán khắp tự tướng, cộng tướng của tất cả pháp xong, nhập pháp niệm xứ duyên hoại. Sắc duyên nơi thọ niệm xứ. Sắc duyên nơi tưởng. Sắc duyên nơi hành. Sắc duyên nơi thức. Duyên nơi ba, bốn, năm ấm như thế là pháp niệm xứ thành tất cả thân, thọ, tâm, pháp niệm xứ. Một giác quán chung về độ, đây là thế nào? Bốn này là vô thường, Không, vô ngã, phi lạc: Do hành như vô thường v.v… quán chung về tất cả pháp hữu lậu. Vì pháp kia mỗi mỗi niệm diệt, nên là vô thường. Vì lìa thường v.v… nên là không. Do không tự tại nên là vô ngã. Do thật sự bức bách nên là khổ.
Từ đấy gọi là noãn
Nơi pháp giác mà sinh
Mười sáu hành cùng khởi
Quán xét bốn Thánh đế.
Từ đấy gọi là noãn, Nơi pháp giác mà sinh: Nghĩa là người tu hành kia, đối với pháp niệm xứ duyên hoại theo thứ lớp sinh căn thiện, gọi là noãn.
Hỏi: Nơi cảnh giới nào có bao nhiêu hành?
Đáp: Mười sáu hành cùng khởi, Quán xét bốn Thánh đế: Tức hành của pháp noãn ấy là mười sáu hành như khổ đế v.v… Khổ Thánh đế có bốn hành, cho đến đạo Thánh đế có bốn hành. (Về nghĩa của hành, nơi phẩm Trí sẽ nói rộng).
Pháp noãn kia sinh. Pháp niệm xứ duyên nơi ba đế, tu hiện tại, vị lai có bốn. Một hành tu hiện tại, vị lai có bốn. Là tự phần, không phải là không tự phần. Pháp niệm xứ duyên nơi diệt đế, tu hiện tại tức vị lai này tu, không phải đầu tiên lìa ấm, quán đạo tu đắc duyên nơi ấm. Một hành tu hiện tại, vị lai có bốn. Bốn niệm xứ duyên nơi ba đế tăng tiến. Mỗi mỗi niệm xứ tu hiện tại, vị lai có bốn. Một hành tu hiện tại, vị lai có mười sáu.
Pháp niệm xứ duyên nơi diệt đế tăng tiến, tu hiện tại, vị lai có bốn. Một hành tu hiện tại, vị lai có mười sáu. Tu căn thiện chưa tăng, tu hành của tự phần, căn thiện tăng, tu hiện tại, tu tự phần, không hành tự phần. Pháp noãn là tánh của tuệ nơi pháp tùy chuyển, là tánh của năm ấm. Noãn nghĩa là sinh ra lửa của Thánh trí, vì noãn là chủng tử nên nói pháp noãn.
Pháp này tăng trưởng rồi
Sinh đảnh cùng với nhẫn
Được pháp thế đệ nhất
Dựa nơi một sát-na.
Pháp này tăng trưởng rồi, Sinh đảnh cùng với nhẫn: Nghĩa là người tu hành theo chánh phương tiện, nhớ nghĩ chân chánh tăng trưởng, vì được tùy thuận nơi các vật dụng của nghiệp thiện, nên pháp noãn được tăng trưởng, thứ đến sinh căn thiện gọi là đảnh.
Đảnh duyên nơi bốn Thánh đế hành mười sáu hành. Pháp đảnh kia duyên nơi bốn đế, duyên nơi diệt đế tăng tiến pháp niệm xứ, tu hiện tại, vị lai có bốn. Một hành tu hiện tại, vị lai có mười sáu. Bốn niệm xứ duyên nơi ba đế tăng tiến, mỗi mỗi tu hiện tại, vị lai có bốn. Một hành tu hiện tại, vị lai có mười sáu. Căn thiện này cũng là tánh của tuệ nơi pháp tùy chuyển là tánh của năm ấm. Pháp đảnh nghĩa là ở trên noãn, nên nói là đảnh, vì kém so với nhẫn gọi là dưới. Hoặc có khi Đức Thế Tôn nói là tín, như vì Ba-la-diên nói. Hoặc nói là tuệ, như vì các Tỳ-kheo trẻ tuổi nói về việc thọ nhận. Ở nơi đảnh này thoái chuyển gọi là đảnh đọa. Noãn cũng nên có đọa, song không nói.
Đảnh đọa nghĩa là do nhiều ưu não. Có ba xứ khởi nhiều ưu não, như mất vật báu lớn. Nghĩa là xứ phi tưởng phi phi tưởng đã lìa dục, thoái chuyển lìa dục của cõi dục, cùng ở nơi pháp đảnh thoái chuyển. Thoái chuyển gọi là tánh không thành tựu. Người tu hành kia, ở nơi chánh phương tiện này, thành tựu căn thiện đảnh, tăng tiến sinh đế thuận nhẫn, duyên nơi bốn đế hành mười sáu hành. Nhẫn thứ nhất cùng pháp niệm xứ tăng tiến tu hiện tại, vị lai có bốn. Một hành tu hiện tại, vị lai có mười sáu.
Nhẫn nghĩa là đối với bốn Thánh đế có thể gắng nhẫn để mong muốn vui thích. Nếu cho noãn, đảnh cũng gắng nhẫn thì không đúng, vì nhẫn không thoái chuyển, vì trái với nẻo ác, vì gần với Thánh đạo, cho nên nói là đế thuận nhẫn, không phải là noãn, đảnh.
Hỏi: Nhẫn tăng trưởng sinh ra căn thiện nào?
Đáp: Được pháp thế đệ nhất, Dựa nơi một sát-na: Nghĩa là nhẫn tăng thượng theo thứ lớp duyên sinh. Do phàm phu đã đạt được căn thiện tối thắng, nên gọi là pháp đệ nhất thế gian. Pháp này cũng là tánh của năm ấm. Vì pháp ấy là hữu lậu nên gọi là thế gian. Vì vượt hơn noãn v.v… nên nói là đệ nhất. Pháp này cũng là nơi chốn tu công đức tối thắng của phàm phu. Vì một sát-na không dừng trụ, vì giống với kiến đạo, vì là sự nối tiếp của noãn, đảnh, nhẫn.
Có thuyết nói: Pháp kia là tuệ, tu pháp niệm xứ quán chung về tất cả, theo thứ lớp sinh phần quyết định là căn thiện của hành thế gian. Căn thiện ấy kiến lập chín phẩm: Phẩm hạ hạ, hạ trung, hạ thượng, gọi là pháp noãn. Phẩm trung hạ, trung trung, gọi là pháp đảnh. Phẩm trung thượng, thượng hạ, thượng trung, gọi là pháp nhẫn. Phẩm thượng thượng gọi là pháp thế gian đệ nhất.
Nếu quán ấm là vô thường v.v… thì căn thiện ấy gọi là pháp noãn. Quán công đức của Tam bảo gọi là pháp đảnh. Quán sát Thánh đế gọi pháp nhẫn. Quán khổ Thánh đế theo thứ lớp nơi Thánh đạo, gọi là pháp thế gian đệ nhất. Người tu hành kia được pháp noãn xong, hoặc thoái chuyển nên xả bỏ, hoặc mạng chung nên xả bỏ, hoặc vượt qua cõi địa nên xả bỏ, cũng khởi nghiệp vô gián đoạn trừ căn thiện, tức sinh trong nẻo ác. Nếu duyên nơi phước này nên tức được Niết-bàn.
Pháp đảnh thoái chuyển cũng như thế, chỉ trừ đoạn dứt căn thiện. Nhẫn thì không thoái chuyển. Có trường hợp mạng chung nên xả và vượt qua cõi địa nên xả, không tạo nghiệp vô gián, không đoạn dứt căn thiện, không rơi vào nẻo ác, do sức lớn của nhẫn. Như vua sư tử, thì các loài thú đều tránh xa. Sức của nhẫn như thế, tất cả tâm ác đều là phi số diệt. Cũng như trụ xứ của đại vương, tâm hành ác của người, trời đều trở nên mềm dịu.
Hỏi: Pháp thế gian đệ nhất duyên nơi gì? Có bao nhiêu hành?
Đáp:
Khổ dưới có bốn hành
Nói thâu dựa sáu địa
Pháp nhẫn cũng như thế
Là khác hoặc dựa bảy.
Khổ dưới có bốn hành: Nghĩa là khổ của cõi dục nói là khổ dưới, khổ ấy là đối tượng duyên của pháp đệ nhất thế gian. Các hành vô thường, khổ, không, vô ngã, chuyển không phải là pháp khác, vì giống như kiến đạo. Có hai thứ tu hành là ái hành và kiến hành. Ái hành có hai thứ là hành ngã mạn và tăng giải đãi. Kiến hành cũng có hai thứ là chấp trước ngã và chấp trước ngã sở. Hành ngã mạn: Là tu hành vô thường nơi pháp đệ nhất thế gian. Tăng giải đãi: Là tu hành khổ. Chấp trước ngã: Là tu hành vô ngã. Chấp trước ngã sở: Là tu hành không.
Hỏi: Pháp kia thuộc về bao nhiêu địa?
Đáp: Nói thâu dựa sáu địa: Là thiền vị lai, trung gian và bốn thiền căn bản. Không phải là cõi dục, vì cõi ấy là không định. Không phải là cõi vô sắc, vì cõi ấy không có kiến đạo.
Hỏi: Căn thiện của phần quyết định khác thuộc về bao nhiêu địa?
Đáp: Pháp nhẫn cũng như thế: Nghĩa là nhẫn thuộc về sáu địa, như pháp thế gian đệ nhất.
Là khác hoặc dựa bảy: Tức noãn, đảnh cũng thuộc về sáu địa. Tôn giả Cù-sa thì muốn khiến cõi dục cũng có, tức là bảy địa.
Hỏi: Đã nói phần quyết định theo thứ lớp khởi. Còn Thánh đạo theo thứ lớp khởi thì thế nào?
Đáp:
Pháp thế gian đệ nhất
Tiếp sinh khổ pháp nhẫn
Nhẫn kế sinh nơi trí
Đều quán ở khổ dưới.
Pháp thế gian đệ nhất, Tiếp sinh khổ pháp nhẫn: Nghĩa là pháp thế gian đệ nhất theo thứ lớp sinh khởi khổ pháp nhẫn. Nơi cõi dục kiến khổ đoạn trừ, đối trị mười sử. Đây là đạo vô ngại vô lậu thứ nhất.
Lại nữa, pháp thế gian đệ nhất theo thứ lớp không tạo tác, không hướng tới, không hành, xả bỏ nghiệp tà, nẻo tà, kiến tà. Nghiệp tà là nghiệp năm vô gián. Nẻo tà là nẻo ác. Kiến tà nghĩa là năm kiến.
Lại nữa, pháp thế gian đệ nhất phân ra khổ pháp nhẫn, tạo nên năm thứ định là định địa, định hành, định duyên, định sát-na và định duyên thứ đệ. Định địa: Là nếu pháp thế gian đệ nhất của địa này, tức là khổ pháp nhẫn của địa ấy. Định hành: Là nếu pháp thế gian đệ nhất của hành này cũng tức là khổ pháp nhẫn của hành ấy. Định duyên: Là chắc chắn đồng với duyên. Định sát-na: Là nếu trái với sát-na này tức sát-na này sinh. Định duyên thứ đệ: Là pháp thế gian đệ nhất lần lượt tất sinh khổ pháp nhẫn. Tăng thượng nhẫn phân làm ba thứ định, trừ sát-na và duyên thứ đệ. Vì vậy nên duyên nơi khổ nhẫn, về sau được vượt lên ly sinh.
Người tu hành kia, tư duy về khổ nơi cõi dục và khổ của cõi sắc, vô sắc, cho đến đối trị hành của cõi sắc, vô sắc. Đây gọi là hạ nhẫn. Người kia lại tư duy về khổ của cõi dục, cho đến đối trị hành của cõi dục, xả đối trị hành của cõi sắc, vô sắc. Đây gọi là trung nhẫn. Người kia quán sát mỗi mỗi đế, xả trở lại, cho đến nối tiếp tu khổ của cõi dục, sau đấy lại xả, nối tiếp cho đến tư duy một sát-na về khổ của cõi dục, là tăng thượng nhẫn, sau đấy là sinh pháp thế gian đệ nhất.
Nhẫn kế sinh nơi trí: Nghĩa là khổ pháp nhẫn theo thứ lớp sinh khổ pháp trí, là tự tánh của đạo giải thoát.
Hỏi: Nhẫn trí này duyên nơi gì?
Đáp: Đều quán ở khổ dưới: Tức đều duyên nơi khổ dưới. Khổ dưới là khổ của cõi dục. Trí kia đều cùng quán.
Là khổ sắc vô sắc
Tập, diệt, đạo cũng thế
Pháp này vô gián đẳng
Là nói mười sáu tâm.
Là khổ sắc vô sắc: Nghĩa là khổ của cõi sắc, vô sắc cũng như thế, tức khổ tỷ nhẫn là đạo vô ngại, khổ tỷ trí là đạo giải thoát.
Tập, diệt, đạo cũng thế: Nghĩa là tập, diệt, đạo đế cũng dùng hai nhẫn làm đạo vô ngại, hai trí làm đạo giải thoát.
Pháp này vô gián đẳng, Là nói mười sáu tâm: Nghĩa là mười sáu tâm khoảnh này là pháp vô gián đẳng. Vô gián đẳng là nghĩa của kiến. Mười lăm tâm khoảnh này là kiến đạo, một tâm sau cùng là tu đạo.
Hỏi: Vì sao nhẫn và trí của ba đế thuộc về kiến đạo? Tâm sau cùng của đạo đế là thuộc về tu đạo?
Đáp: Vì tu mười sáu hành là đạo. Đạo tỷ trí tương ưng với tu mười sáu hành, không phải kiến đạo tu mười sáu hành, vì đạo tỷ trí nối tiếp nhau, nên thuộc về đạo quả. Nếu cho là không ứng hợp thì không đúng. Như tận trí thành thì đạo quả này thành. Nếu đạo quả này không phần thì đạo vô học cũng không phần. Lược nói về ba địa là địa kiến, địa tu, địa vô học. Ở nơi các địa này kiến lập con người. Nghĩa như thế nay sẽ nói.
Tùy pháp hành lợi căn
Đây ở mười lăm ý
Tùy tín hành độn kiến
Nên biết cũng ở trong.
Tùy pháp hành lợi căn, Đây ở mười lăm ý: Nghĩa là người có mười lăm tâm của kiến đạo, nếu là lợi căn thì nói là Tùy pháp hành. Vì tùy theo pháp để hành nên nói Tùy pháp hành, vì không theo người khác để tin.
Tùy tín hành độn kiến, Nên biết cũng ở trong: Nghĩa là người có mười lăm tâm này, nếu là độn căn thì nói là Tùy tín hành, vì tin nơi người khác nên được độ. Người Tùy tín hành thì ít quán xét. Người Tùy pháp hành thì quán xét nhiều.
Tùy tín, Tùy pháp hành
Hoặc đủ phiền não buộc
Cho đến năm thứ đoạn
Nên biết hướng quả đầu.
Người Tùy tín hành, Tùy pháp hành này, hoặc có đủ phiền não trói buộc, nếu đoạn trừ được một, hai, ba, bốn, năm thứ thì gọi là hướng quả Tu-đà-hoàn. Vì phiền não được phân biệt như loại thượng thượng v.v… nên lập ra chín phẩm. Người kia nếu lúc là phàm phu, chưa từng đoạn trừ một phẩm thì gọi là cụ phược. Nếu đoạn trừ một phẩm gọi là không cụ phược. Nếu đoạn trừ năm phẩm thì vượt lên ly sinh, kiến khổ đoạn trừ năm phẩm nơi cõi dục là khổ pháp trí đoạn chứng đắc giải thoát. Cho đến kiến đạo đoạn trừ năm phẩm là đạo pháp trí đoạn chứng đắc giải thoát. Tu đạo đoạn trừ năm phẩm nơi cõi dục là quả Tư-đà-hàm đoạn chứng đắc giải thoát.
Sáu đoạn cho đến tám
Là hướng quả thứ hai
Lìa dục đến tám địa
Đấy là hướng thứ ba.
Sáu đoạn cho đến tám, Là hướng quả thứ hai: Nghĩa là người Tùy tín hành, Tùy pháp hành ấy, nếu đã đoạn trừ sáu, bảy, tám phẩm phiền não, thì đây nói là hướng quả Tư-đà-hàm.
Lìa dục đến tám địa, Đấy là hướng thứ ba: Nghĩa là người Tùy tín hành, Tùy pháp hành này, nếu lìa dục cho đến xứ vô sở hữu hết, thì đều cùng là hướng quả A-na-hàm.
Nếu đến mười sáu tâm
Gọi là trụ nơi quả
Kiến yếu Tín giải thoát
Kiến lợi gọi Kiến đáo.
Nếu đến mười sáu tâm, Gọi là trụ nơi quả: Nghĩa là đến tâm thứ mười sáu gọi là đạo tỷ trí, tương ưng với đạo kia khởi, đều cùng nói là trụ nơi quả, hoặc Tu-đà-hoàn, hoặc Tư-đà-hàm, hoặc A-na-hàm.
Kiến yếu Tín giải thoát: Nghĩa là nếu người kiến yếu kém nhập kiến đạo, gọi là Tùy tín hành. Lúc người ấy trụ nơi ba quả gọi là Tín giải thoát.
Kiến lợi gọi Kiến đáo: Nghĩa là nếu người lợi căn nhập kiến đạo gọi là Tùy pháp hành. Lúc người ấy lúc trụ nơi ba quả gọi là Kiến đáo. Tín căn của kiến đáo vượt hơn tín giải thoát, do tuệ đã huân tập, nên nói là kiến đáo.
Phi sự các phiền não
Tức tất cả kia hết
Cho đến chưa tấn hành
Gọi là Tu-đà-hoàn.
Nếu kiến đạo đoạn trừ hết tám mươi tám kiết là quả Tu-đàhoàn. Cho đến chưa tấn hành, đó gọi là trụ nơi quả Tu-đà-hoàn. Nếu theo phương tiện đoạn trừ chủng loại thượng thượng, đó gọi là hướng quả Tư-đà-hàm, tức từ chủng loại này cho đến đoạn năm phẩm, vượt lên ly sinh, đạo tỷ trí khởi, gọi là Tu-đà-hoàn. Không phải hướng Tư-đà-hàm, vì hướng đến đạo quả kia nhưng chưa một niệm hiện ở trước.
Hỏi: Đoạn trừ rất nhiều phiền não vì sao Đức Thế Tôn nói là ba kiết hết?
Đáp: Mười sử là căn bản, tức năm kiến cùng nghi, ái, sân, mạn, vô minh. Kiến đạo kia đoạn trừ sáu (Năm kiến và nghi). Kiến đạo kia đoạn trừ sáu sử vĩnh viễn hết, sáu sử ấy có ba chuyển và ba tùy chuyển. Thân kiến là chuyển, biên kiến là tùy chuyển. Giới thủ là chuyển, kiến thủ là tùy chuyển. Nghi là chuyển, tà kiến là tùy chuyển.
Đã nói chuyển nên biết là đã nói tùy chuyển. Cho nên Đức Thế Tôn nói ba kiết hết là Tu-đà-hoàn. Lại nữa, các phiền não này, hoặc một thứ, hai thứ, bốn thứ. Đã nói thân kiến nên biết là đã nói một thứ. Đã nói giới thủ nên biết là đã nói hai thứ. Đã nói nghi nên biết là đã nói bốn thứ. Nhất thiết biến, không nhất thiết biến, duyên nơi hữu lậu, duyên nơi vô lậu đều nên biết như thế. Kiết này đã hết, đã nhận biết, cho đến A-la-hán cũng còn có tùy chuyển tương tợ.
Chưa hết chủng tu đạo
Thọ sinh sinh tử bảy
Nên biết kia đã nói
Tu-đà-hoàn cực mãn.
Chủng tu đạo của Tu-đà-hoàn kia chưa hết. Cực mãn ấy nên biết là bảy hữu, tức bảy lần sinh vào trung ấm, sinh ấm ở nhân gian cùng trời cõi dục. Đây là nói chung về bảy hữu, là không quá bảy, như bảy lá cây.
Hỏi: Vì sao nói bảy hữu, không thêm không bớt?
Đáp: Như nơi bảy bước thì bị rắn cắn. Vì sức của bốn đại nên bước đến bảy bước, vì sức của nọc độc nên không đến tám. Vì sức của nghiệp như thế nên bảy lần sinh, vì sức của đạo nên không đến tám. Tu-đà-hoàn kia lúc trụ nơi tăng thượng nhẫn, trừ bảy lần sinh cõi dục, tất cả sinh còn lại được phi số diệt, hoàn toàn không hiện ở trước. Nếu nhân gian vượt lên ly sinh thì nhân gian đủ bảy, sinh trên cõi trời trở lại đủ bảy lần nơi ấy. Thánh đạo trung gian tuy hiện ở trước, nhưng do sức của nghiệp gìn giữ, nên không nhập Niết-bàn.
Hỏi: Nếu đủ bảy lần sinh rồi nhưng Đức Phật không ra đời, thì vị kia làm sao chứng được quả A-la-hán?
Đáp: Có thuyết nói: Tại gia được quả A-la-hán, được quả rồi không trú nơi nhà. Lại nói thuyết nói: Chính người kia tự xuất gia, thành tựu tịnh bất hoại, vì hy vọng gồm đủ, vì nhận thấy lỗi nơi hành ác, thế nên pháp Tu-đà-hoàn không đọa vào nẻo ác. Lại, vì sinh trong chủng tánh Phật, vì lửa trí sáng sạch, vì thấy rõ lỗi của cảnh giới, vì chỉ quán đầy đủ, vì được huân tập do thuốc của Thánh đạo, như thái tử của vua, như người được tăng thêm nội lực, như loài cá luôn khéo léo. Vì thế Tu-đà-hoàn không đọa nơi nẻo ác. Phàm phu tuy không đọa nơi nẻo ác, nhưng vì ít và bất định, nên không nói. Vì trụ nơi tụ chánh định, nên nói là định, tất được Niếtbàn nên nói hướng đến chánh giác. Bảy hữu như trước đã nói. Trụ là trung ấm, sinh là sinh ấm, nên nói là trụ sinh. Lại không thọ sinh khác, nên gọi là trụ nơi khổ biên, không hẳn là hết thảy Tu-đà-hoàn đều đủ bảy hữu.
Nếu đoạn ba, bốn thứ
Thành tựu đối trị kia
Hai sinh ba sinh khác
Đây gọi là Gia gia.
Do ba nhân duyên nên kiến lập Gia gia: Là phiền não đoạn trừ, thành tựu căn và thọ sinh.
Phiền não đoạn trừ: Nghĩa là nơi cõi dục, do tu đạo đoạn trừ phiền não. Đoạn trừ ba phẩm, bốn phẩm, không có đoạn trừ năm phẩm gọi là Gia gia. Nếu có thể đoạn trừ năm phẩm, vì nhờ uy lực, tất đoạn trừ sáu phẩm, thành Tư-đà-hàm, không phải do sức của phẩm thứ sáu có thể ngăn trở, khiến không đến quả.
Thành tựu căn: Nghĩa là được các căn vô lậu đối trị phiền não kia.
Thọ sinh: Là hoặc còn thọ sinh nơi cõi dục, hai đời ba đời khác.
Nếu trong ba nhân duyên, mỗi mỗi duyên không đủ thì không phải là Gia gia. Có hai thứ Gia gia: Hoặc trời, hoặc người. Thiên gia gia: Nghĩa là trời cõi dục. Hoặc thọ hai đời, ba đời, hoặc thọ một chủng loại thân ở thiên xứ, hoặc hai, hoặc ba lần sinh. Nhân gia gia: Nghĩa là thân ở nhân gian, hoặc sinh nơi một thiên hạ, hoặc hai, hoặc ba. Hoặc một nhà, hoặc hai hoặc ba.
Hỏi: Gia gia có nghĩa gì?
Đáp: Từ nhà đến nhà mà nhập Niết-bàn nên nói là Gia gia. Vì vượt hơn Tu-đà-hoàn nên gọi là Gia gia.
Sáu phẩm phiền não đoạn
Kiến đạo đoạn tất cả
Là nói Tư-đà-hàm
Là kia chưa tấn hành.
Nếu nơi cõi dục tu đạo đoạn ba phẩm thượng, ba phẩm trung và kiến đạo đoạn trừ tất cả đều trụ nơi quả chưa tấn hành, gọi là Tưđà-hàm.
Hỏi: Tư-đà-hàm có nghĩa gì?
Đáp: Ở đây mạng chung, sinh nơi trời cõi dục, một lần đến nhân gian rồi nhập Niết-bàn, gọi là Nhất lai.
Nếu bảy, tám phẩm đoạn
Thành tựu căn đối trị
Khác tức thọ một đời
Là gọi một chủng tử.
Nếu ở nơi cõi dục do tu đạo đoạn trừ bảy phẩm, tám phẩm và kiến đạo đoạn trừ tất cả hết, được căn vô lậu đối trị phiền não kia, một đời còn lại ở cõi dục, gọi là Một chủng tử. Ba nhân duyên, mỗi mỗi nhân duyên không đủ, không phải là Một chủng tử. Nếu một chủng tử trời thọ một thân trời mà nhập Niết-bàn. Nhân gian cũng như thế. Vì chủng tử của một đời còn lại nên nói là Một chủng tử.
Hỏi: Vì sao đoạn trừ tám phẩm gọi là Một chủng tử. Còn đoạn trừ năm phẩm không gọi là Gia gia?
Đáp: Chính là đoạn trừ sáu phẩm sử là Gia gia, là còn sinh nơi cõi dục, nên nghiệp phiền não của cõi dục không bị chướng ngại. Một chủng tử là chín phẩm đoạn hết sinh nơi cõi sắc, nên nghiệp phiền não của cõi dục tạo nhiều chướng ngại. Vì thế nói nghiệp của chúng sinh ở ba xứ gây rất nhiều não loạn. (Ba xứ sau sẽ nói). Một chủng tử là trên Tư-đà-hàm.
Chín phẩm hết: Bất hoàn
Nên biết có nhiều thứ
Hoặc năm cùng bảy, tám
Hoặc lại nói rất nhiều.
Chín phẩm hết: Bất hoàn: Nghĩa là kiến đạo đoạn trừ tất cả và tu đạo nơi cõi dục đoạn trừ chín phẩm kiết hết, nên biết là A-na-hàm.
Hỏi: Có từng ấy phiền não được đoạn trừ, vì sao Đức Thế Tôn nói năm kiết phần dưới hết là A-na-hàm?
Đáp: Một, hai, bốn, năm thứ. Như thế tất cả đều thuộc về năm kiết phần dưới. Đáng ghét đồng nghĩa với thấp kém ở dưới. Lại nữa, có hai thứ dưới: Cõi dưới và chúng sinh dưới. Cõi dưới là cõi dục. Chúng sinh dưới là phàm phu, vì bị tham, sân trói buộc. Cõi dưới là vì khó hóa độ, vì bị thân kiến, giới thủ, nghi trói buộc. Chúng sinh dưới như lính giữ cửa canh phòng. Thánh nhân hoặc trước đoạn trừ hai kiết, hoặc ba kiết, vì tập hợp đoạn trừ nên nói là năm. Không trở lại cõi dục gọi là A-na-hàm. Ở đây cũng có nhiều thứ.
Hoặc năm cùng bảy, tám, Hoặc lại nói rất nhiều: Nghĩa là nói A-na-hàm. Năm thứ: Là Trung bát Niết-bàn, Sinh bát Niết-bàn, Hành bát Niết-bàn, Vô hành bát Niết-bàn và Thượng lưu bát Niết-bàn.
Bảy thứ: Là Trung bát Niết-bàn có ba thứ, như Khế kinh nói. (Trung bát Niết-bàn có ba thứ: Một là như tấm bình phong nhỏ trước ngọn lửa to. Hai là như một ít tấm phên nhỏ đặt cạnh tấm sắt nóng.
Ba là như tấm bình phong bị viên sắt nóng đốt cháy. Đây tức là nghĩa Khế kinh nói).
Bốn thứ như trước nói. Tám thứ: Tức năm thứ như trước nói cùng ba thứ Trung bát Niết-bàn. Lại, hiện pháp bát Niết-bàn là A-na-hàm ở cõi vô sắc và bất định. Lại, nếu theo năm thứ căn của cõi sắc để kiến lập thì có mười lăm: Trung bát Niết-bàn có căn thượng, trung, hạ. Cho đến Thượng lưu bát Niết-bàn cũng như thế.
Nếu theo địa để kiến lập thì có hai mươi: Thiền thứ nhất có năm, cho đến thiền thứ tư cũng năm.
Nếu kiến lập theo chủng tánh thì có ba mươi: Trung bát Niếtbàn có sáu loại: Là chủng tánh của pháp thoái, pháp tư, pháp hộ, pháp trụ, pháp thắng tấn và pháp bất động. Như thế cho đến Thượng lưu cũng vậy.
Nếu theo xứ sở kiến lập thì có tám mươi: Trời Phạm thân có năm, như thế cho đến trời A-ca-nị-trá. Nếu dựa nơi chủng tánh căn để kiến lập thì có chín mươi. Theo chủng tánh địa để kiến lập thì có một trăm hai mươi. Kiến lập theo chủng tánh căn của địa thì có ba trăm sáu mươi. Kiến lập theo xứ chủng tánh tức có bốn trăm tám mươi. Kiến lập theo căn của xứ chủng tánh thì có một ngàn bốn trăm bốn mươi. Ký viết:
Mười lăm có hai mươi
Ba mươi cùng tám mươi
Chín mươi, trăm hai mươi
Và ba trăm sáu mươi
Bốn trăm tám mươi thứ
Ngàn bốn trăm bốn mươi
Nói rộng lược như thế
Thâu nhận A-na-hàm
Căn, địa và chủng tánh
Xứ sở kiến lập rộng
Tùy đoạn phiền não kia
Nay lần lượt sẽ nói.
Lại nữa, một A-na-hàm nghĩa là Trung bát Niết-bàn. Kiến lập theo căn có ba. Địa bốn. Chủng tánh sáu. Xứ sở mười sáu. Chủng tánh căn mười tám. Địa chủng tánh hai mươi bốn. Địa lìa dục ba mươi sáu. Chủng tánh căn của địa có bảy mươi hai. Xứ chủng tánh có chín mươi sáu. Địa chủng tánh lìa dục có hai trăm mười sáu. Chủng tánh căn của xứ có hai trăm tám mươi tám. Chủng tánh căn của địa lìa dục có sáu trăm bốn mươi tám. Xứ chủng tánh lìa dục có tám trăm sáu mươi bốn. Chủng tánh căn của xứ lìa dục có hai ngàn năm trăm chín mươi hai. Nên biết là số của Trung bát Niết-bàn, cho đến Thượng lưu cũng như vậy. Tất cả gồm nhận một vạn hai ngàn chín trăm sáu mươi. Ký nêu:
Một, ba, bốn và sáu
Mười sáu cùng tám mươi
Là nói hai mươi bốn
Lại nói ba mươi sáu.
Bảy mươi có hai thứ
Chín mươi có sáu loại
Hai trăm mười sáu loại
Hai trăm tám mươi tám.
Sáu trăm bốn mươi tám
Tám trăm sáu mươi bốn
Cùng lại nói hai ngàn
Năm trăm chín mươi hai.
Như vậy A-na-hàm, số ấy gấp năm lần (Tức ở trên có hai ngàn năm trăm chín mươi hai, gấp năm là một vạn hai ngàn chín trăm sáu mươi).
Đã nói về tất cả A-na-hàm. Tướng của năm A-na-hàm nay sẽ nói.
Phiền não hạ lợi căn
Trụ nơi một loại nghiệp
Là Trung bát Niết-bàn
Phân biệt sáu thứ tánh.
Phiền não hạ lợi căn, Trụ nơi một loại nghiệp, Là Trung bát Niết-bàn: Tức người này là lợi căn và phiền não loại hạ, tạo nghiệp trung ấm tăng trưởng, không tạo nghiệp sinh ấm, người ấy mất ở cõi dục, trụ nơi trung ấm của cõi sắc, đắc đạo vô lậu, dùng đạo này để xả bỏ các kiết khác mà bát Niết-bàn, đó gọi là Trung bát Niếtbàn. Vì vượt qua cõi dục là khó nên không phải ở nơi trung ấm của cõi dục bát Niết-bàn. Nếu muốn khiến bát Niết-bàn, người ấy cần đoạn hai thứ kiết là bất thiện và vô ký, đắc hoặc hai, hoặc ba quả Sa-môn, vượt qua ba cõi, nhưng trung ấm của cõi dục đối với điều ấy là không thể. Nếu mạng chung ở cõi sắc là thuộc về phẩm Thượng lưu.
Hỏi: Người này có bao nhiêu chủng tánh?
Đáp: Phân biệt sáu chủng tánh, nên biết Trung bát Niết-bàn có sáu chủng tánh: Pháp thoái cho đến bất động. Nếu cho lợi căn không nên thoái chủng tánh là không đúng, vì người ấy cũng kiến lập chín phẩm căn.
Phương tiện gắng tinh tấn
Tu tập mau tấn đạo
Là Sinh bát Niết-bàn
Kia cũng có hai thuyết.
Phương tiện gắng tinh tấn, Tu tập mau tấn đạo, Là Sinh bát Niết-bàn: Nghĩa là người Sinh bát Niết-bàn tạo nghiệp trung ấm, sinh ấm, sau khi mạng chung thọ nhận trung ấm và sinh ấm nơi trời cõi sắc. Người ấy lúc mới sinh khởi đạo hữu hành, là phương tiện siêng năng cùng đạo chóng tấn, đoạn trừ nhanh các kiết khác. Lúc mới sinh liền bát Niết-bàn, nên nói là Sinh bát Niết-bàn.
Kia cũng có hai thuyết: Có thuyết nói: Nếu mới sinh liền đoạn trừ phiền não rồi bát Niết-bàn là không đúng. Có thuyết nói: Vì không xả bỏ phần hành thọ. Không có xả bỏ hành thọ: Nghĩa là trụ cho đến khi thọ mạng hết. Nghĩa này có lý hơn.
Phương tiện gắng thứ ba
Lìa nơi mau tấn đạo
Không siêng cầu thứ tư
Ba cùng nói sáu loại.
Phương tiện gắng thứ ba, Lìa nơi mau tấn đạo: Nghĩa là người kia hành bát Niết-bàn có sai biệt, tức không hành mau chóng tấn đạo, ngoài ra như trước đã nói. Danh là khởi đạo hữu hành đoạn trừ phiền não còn lại mà bát Niết-bàn là Hữu hành bát Niết-bàn. Lại nữa, dựa vào tam muội duyên nơi hữu vi đoạn trừ phiền não mà bát Niết-bàn, cũng là Hữu hành bát Niết-bàn.
Không siêng cầu thứ tư: Nghĩa là không hành bát Niết-bàn này, cũng không siêng cầu, cũng không hành mau chóng tấn đạo, ngoài ra như trước đã nói. Danh là khởi đạo vô hành đoạn trừ phiền não còn lại mà bát Niết-bàn là Vô hành bát Niết-bàn. Lại nữa, dựa vào tam muội duyên nơi vô vi đoạn trừ phiền não mà bát Niết-bàn, cũng là Vô hành bát Niết-bàn.
Ba cùng nói sáu loại: Nghĩa là Hữu hành cùng Vô hành và Sinh bát Niết-bàn, nên biết là cùng nói sáu chủng tánh. Ba loại này tuy đều là Sinh bát Niết-bàn, vì nghĩa có sai biệt nên nói ba không lỗi.
Vượt, vượt nửa xứ xứ
Đó gọi là Thượng lưu
Đây cũng sáu chủng tánh
Nên biết tấn chẳng tấn.
Vượt, vượt nửa xứ xứ, Đó gọi là Thượng lưu: Tức Thượng lưu có hai loại: Hoặc trước được huân thiền, hoặc không được.
Trước được: Nghĩa là trước đã huân tu ba thiền nhưng sau lại thoái lui trụ nơi thiền thứ nhất. Mạng chung ở vị tương ưng của thiền thứ nhất sinh trong trời Phạm thiên: Trường hợp này cũng có ba loại là vượt, vượt nửa và tất cả xứ mạng chung.
Vượt: Là sinh ở thiền thứ nhất cho đến lìa thiền thứ ba, muốn huân tu đầy đủ, nên vượt thiền thứ tư, ở đó mạng chung, sinh nơi trời A-ca-nị-trá.
Vượt nửa: Là từ nơi Phạm thiên mất, hoặc sinh nơi một, hai, ba xứ, sau đó sinh lên cõi trời A-ca-nị-trá.
Tất cả xứ mạng chung: Là sinh nơi mỗi mỗi xứ cho đến trời A-ca-nị-trá.
Trước không được huân tập: Nghĩa là không sinh nơi trời Tịnh cư mà sinh ở cõi vô sắc. Ngoài ra như trước đã nói.
Hỏi: Nghĩa này có bao nhiêu chủng tánh?
Đáp: Đây cũng sáu chủng tánh: Tức Thượng lưu cũng có sáu chủng tánh: Từ pháp thoái cho đến bất động. Đây không phải là chủng tánh căn mới trụ nơi bất động. Nghĩa là chủng tánh của pháp thoái ở nơi huân tu thiền thoái chuyển, sau thì được kiến đáo.
Nên biết tấn chẳng tấn: Tức nơi Thượng lưu nên biết là có tấn chẳng tấn. Nên nêu ra bốn trường hợp: (1) Nên tấn tu không phải là chẳng tấn: Nghĩa là trụ nơi cõi dục, trời Phạm thiên. (2) Chẳng tấn không phải là nên tấn: Nghĩa là trụ nơi trời A-ca-nị-trá. (3) Cũng tấn cũng chẳng tấn: Nghĩa là trụ nơi cõi trời khác. (4) Không phải tấn cũng không phải chẳng tấn: Nghĩa là không có. Nếu hướng đến cõi vô sắc là không phải huân tu, cho nên nói sinh nơi vô sắc giới.
Hỏi: Đức Thế Tôn nói có bảy nơi chốn sĩ phu. Thế nào là kiến lập bảy nơi chốn sĩ phu?
Đáp:
Tức sinh căn phiền não
Là nói có ba loại
Chẳng sinh cũng như vậy
Cùng hai Thượng lưu một.
Một A-na-hàm có bốn nhân duyên nên có bảy loại kiến lập là kiến lập căn, kiến lập phiền não, kiến lập sinh chẳng sinh và kiến lập thượng tấn. Sinh, tức: Thứ nhất là lợi căn phiền não hạ. Thứ hai là trung căn phiền não trung. Thứ ba là hạ căn phiền não thượng. Như sinh có ba, chẳng sinh cũng có ba. Thượng lưu là nói về thượng tấn. Vì phàm phu chuyển hoàn nên chẳng phải là thượng lưu. Thượng lưu của cõi vô sắc có năm sự việc là hơn: Cõi hơn, địa hơn, chánh thọ hơn, ấm giảm hơn và đoạn trừ phiền não hơn. Tuy có năm sự việc vượt hơn nhưng không được huân tu nên không kiến lập nơi chốn sĩ phu.
Chín phiền não như vậy
Ở tại tám địa trên
Là hai đạo kia diệt
Đức Thế Tôn đã nói.
Chín phiền não như vậy, Ở tại tám địa trên: Nghĩa là như tu đạo đoạn trừ phiền não của cõi dục có chín phẩm từ hạ hạ cho đến thượng thượng, tám địa trên cũng như vậy, đó là bốn thiền và bốn vô sắc. Kiến đạo khởi ban đầu dùng một thứ đạo đoạn trừ chín loại phiền não.
Hỏi: Nếu phiền não nơi cõi sắc, vô sắc cũng có chín loại, vì sao nơi hai cõi ấy không kiến lập người lìa dục?
Đáp: Do trong một xứ có hai sinh không phải là phần. Cõi dục có các trời như vậy, phương tiện như vậy, nhà như vậy, là Thánh nhân hai sinh, không phải ở nơi cõi sắc, vô sắc có Thánh nhân hai sinh. Hai sinh là vô sinh bát Niết-bàn cho đến thượng lưu.
Là hai đạo kia diệt, Đức Thế Tôn đã nói: Nghĩa là phiền não của ba cõi này nên biết là do đạo vô ngại, giải thoát diệt trừ. Đạo vô ngại có thể đoạn trừ phiền não, đạo giải thoát chứng đắc giải thoát. Đạo vô ngại đoạn trừ phiền não, đạo giải thoát vì không mất đối tượng tạo tác nên nói là hai đạo diệt trừ. Nếu nói đạo giải thoát đoạn trừ phiền não, thì thế nào là khởi, là chưa khởi? Nếu khởi, thì lúc tận trí mới sinh là nên có phiền não, điều này tức chẳng rốt ráo. Nếu chưa khởi, thì không cần đạo vị lai đoạn trừ phiền não chăng?
Hỏi: Dùng đạo nào để đoạn trừ phiền não?
Đáp:
Đạo hữu cấu, vô cấu
Có thể lìa tám địa
Trụ kia nói Thân chứng
Là đắc diệt chánh thọ.
Đạo hữu cấu, vô cấu, Có thể lìa tám địa: Hữu cấu là đạo thế tục, vô cấu là Thánh đạo. Trừ hữu thứ nhất, các địa còn lại lúc lìa dục, nên biết là đạo hữu lậu vô lậu. Lìa hữu thứ nhất chỉ có vô lậu, vì hữu lậu ở nơi không phải là phần kia, vì đạo thế tục duyên dựa nơi địa trên. Lìa phiền não của địa dưới như trừ bỏ loài trùng ở lầu gác. Phi tưởng phi phi tưởng xứ (Hữu thứ nhất) không có địa trên để có thể duyên dựa nên có thể lìa kiết ở đấy. Tự địa bị trói buộc nên không thể lìa kiết của tự địa. Như người bị trói thì không thể tự mở. Đạo vô ngại của thế tục kia có ba hành: Hoặc thô, hoặc khổ, hoặc thô chướng. Vì đã hiện ra nên nói là thô. Do ba khổ thành lập nên nói là khổ. Do dễ quán nên nói là thô chướng. Đạo giải thoát cũng có ba hành là chỉ, diệu, xuất. Mỗi mỗi hành nơi đạo vô ngại là duyên dưới, đạo giải thoát là duyên trên. Thánh hành nơi phần sau sẽ nói.
Trụ kia nói Thân chứng, Là đắc diệt chánh thọ: Nghĩa là trụ nơi tám địa do kiến đạo, tu đạo đoạn, một địa do kiến đạo đoạn trụ ở trong ấy được diệt chánh thọ gọi là Thân chứng. Thế nên người học ở nơi hữu thứ nhất, trong mỗi mỗi lìa dục đều khởi diệt chánh thọ. Người ấy, hoặc có đủ kiết trói buộc đã đắc diệt chánh thọ, hoặc tám phẩm đã dứt hết đắc diệt chánh thọ. Đức Thế Tôn độ các chánh thọ nên nói là độ tất cả. Phi tưởng phi phi tưởng xứ nhận biết diệt thân tác chứng, trụ đầy đủ nơi pháp. Do Niết-bàn cùng với thân hòa hợp nên nói là Thân chứng. Diệt chánh thọ nơi phẩm định sẽ nói rộng.
Định kim cang dụ tiếp
Tất sinh nơi tận trí
Sinh ý ngã sinh tận
Ứng cúng lìa các lậu.
Định kim cang dụ tiếp, Tất sinh nơi tận trí: Nghĩa là đạo vô ngại thứ chín lìa dục của địa phi tưởng phi phi tưởng xứ, gọi là Tamma-đề kim cang. Không một vật gì là không bị hủy hoại nên gọi là kim cang. Nghĩa này trong phẩm Trạch sẽ nói rộng.
Định kim cang theo thứ lớp tất sinh tận trí, hai trí đầu tiên này hoặc là khổ tỷ trí, hoặc là tập tỷ trí. Nghĩa là tận trí kia đã khởi, khởi hành của chính mình.
Sinh ý ngã sinh tận: Tức nơi xứ phi tưởng phi phi tưởng kia bốn ấm duyên nơi căn bản hữu.
Ứng cúng lìa các lậu: Là khi tận trí kia sinh thì tất cả hữu lậu đều dứt hết, gọi là Ứng cúng. Vì ứng hợp với tất cả sự cúng dường. Vì đã trừ bỏ tất cả phiền não. Vì lại không ở nơi ruộng hữu gieo trồng chủng tử thức nữa. Tận trí của A-la-hán bất động theo thứ lớp khởi vô sinh trí. Tận trí kia hiện bày trong một sát-na. Vô sinh trí hoặc cũng một sát-na, hoặc theo thứ lớp cùng thấy hiện ở trước trong một sát-na. Hoặc vô sinh trí hiện ở trước thì nối tiếp với thời ý giải thoát.
Tận trí hoặc nơi một sát-na, hoặc theo thứ lớp cùng thấy hiện ở trước trong một sát-na. Hoặc tận trí lại hiện ở trước tức nối tiếp nhau.
Hỏi: A-la-hán có bao nhiêu loại?
Đáp:
A-la-hán sáu loại
Tùy tín hành sinh năm
Vị kia được hai trí
Nên biết thời giải thoát.
A-la-hán sáu loại: Nghĩa là pháp thoái, pháp tư, pháp hộ, pháp trụ, pháp tất thăng tấn và pháp bất động. Nếu ở nơi địa mới học, theo phương tiện bất thường, dùng phương tiện không nhanh chóng, đó gọi là pháp thoái. Pháp tư cũng như thế, tức có thể nghĩ đến thệ nguyện. Pháp hộ là theo phương tiện thường, phương tiện không nhanh chóng, để tùy thuận giữ gìn nên không thoái lui. Pháp trụ là theo phương tiện nhanh chóng, phương tiện bất thường, không thoái cũng không tiến. Pháp tất thăng tấn là theo phương tiện thường, phương tiện nhanh chóng, là hàng độn căn có thể đạt được bất động. Pháp bất động là theo phương tiện thường, tức khắc, là hàng lợi căn.
Có thuyết nói: Nếu là pháp thoái tất thoái chuyển, cho đến đạt được thăng tấn tức tất thăng tấn.
Thuyết kia nói sáu loại là A-la-hán cõi dục. Cõi sắc, vô sắc có hai loại là pháp trụ và pháp bất động. Có thuyết cho: Pháp thoái không hẳn là thoái. Nếu người thoái lui thì chỉ có nơi chủng tánh này, không phải chủng tánh khác. Thuyết kia nói ba cõi đều có sáu loại A-la-hán.
Tùy tín hành sinh năm: Nghĩa là trong sáu loại A-la-hán ấy năm loại trước là chủng tánh tín. Vị kia thành tựu hai trí là tận trí và đẳng kiến vô học. Vị kia hoặc vì có lúc thoái chuyển nên không nói vô sinh trí. Đức Thế Tôn do không còn thọ sinh nữa, nên tất cả Khế kinh đều nói không còn thọ thân sau, vì đã nhận biết như thật.
Nên biết thời giải thoát: Nghĩa là nên biết là thời giải thoát này phải thuận theo, nhờ vào thức ăn, y phục, giường nằm, vật dụng, xứ sở thuyết pháp và con người, thì căn thiện mới tăng tấn, không thể ở nơi tất cả thời theo chỗ mong muốn để tăng tấn, nên nói là Thời giải thoát.
Pháp bất động lợi căn
Là bất thời giải thoát
Vị kia được ba trí
Tự giải thoát thành tựu.
Pháp bất động lợi căn: Tức nếu là A-la-hán pháp bất động hoàn toàn lợi căn, tức có thể ở nơi tất cả thời, tùy theo chỗ mong muốn tấn tu nghiệp thiện, không chờ đợi các thứ vật dụng kia.
Là bất thời giải thoát, Vị kia được ba trí: Nghĩa là vị kia thành tựu ba trí là tận trí, vô sinh trí và đẳng kiến vô học, là pháp bất thoái.
Tự giải thoát thành tựu: Nghĩa là nên biết người kia tự mình đã có sự tương tợ, gọi là giải thoát thành tựu. Thời ý giải thoát: Nghĩa là vì chờ đợi thời gian nên thời ý giải thoát mới thành tựu. Pháp bất động: Bất động là vì không bị phiền não làm nghiêng động nên nói là bất động, là nghĩa bất thoái.
Hỏi: Vì sao thời ý giải thoát gọi là ái, không phải là bất động?
Đáp: Vì thời ý giải thoát kia là hết sức tự giữ gìn, cũng như người chỉ có một mắt nên không tự tại. Vì sợ thoái lui. Như mượn vật của người khác, vật ấy cùng hệ thuộc với căn thiện, không phải phân ly. Bất động giải thoát thì có căn thiện cùng liên hệ, nghĩa là giải thoát kia có Tam-ma-đề khác, thế nên không gọi là ái. Nghĩa là không – không, vô nguyện – vô nguyện, vô tác – vô tác, dùng định để xả định, gọi là cùng liên hệ.
Tuệ giải thoát nên biết
Không được định diệt tận
Nếu được định diệt tận
Nên biết Câu giải thoát.
Tuệ giải thoát nên biết, Không được định diệt tận: Nghĩa là sáu loại A-la-hán này nếu không đạt được định diệt tận, nói là tuệ giải thoát, tức do tuệ lực khiến giải thoát chướng phiền não nên gọi Tuệ giải thoát.
Nếu được định diệt tận, Nên biết Câu giải thoát: Nghĩa là sáu loại A-la-hán này nếu đạt được định diệt tận thì gọi là Câu giải thoát. Do tuệ lực của họ nên lìa chướng phiền não, tâm được giải thoát. Do lực của diệt chánh thọ lìa chướng giải thoát được giải thoát, thế nên gọi là Câu giải thoát. Nếu lại là pháp thoái và tất cả câu giải thoát tức nên nêu ra bốn trường hợp: (1) Pháp thoái không phải là câu giải thoát: Nghĩa là pháp thoái không được định diệt tận. (2) Câu giải thoát không phải là pháp thoái: Nghĩa là năm loại A-la-hán được định diệt tận. (3) Cũng là pháp thoái cũng là câu giải thoát: Nghĩa là pháp thoái được định diệt tận. (4) Không phải là pháp thoái cũng không phải là câu giải thoát: Nghĩa là năm loại A-la-hán không được định diệt tận. Cho đến bất động giải thoát cũng như thế.
Các căn nói chín thứ
Cũng nói chín loại người
Bảy loại các Thanh văn
Duyên giác và Như Lai.
Đây nói chín thứ căn, nghĩa là từ hạ hạ cho đến thượng thượng. Người A-la-hán cũng có chín loại, nghĩa là năm loại trước và hai bất động giải thoát: Hoặc nhân nơi thời giải thoát được bất động. Hoặc mới được bất động. Bảy loại này là Thanh văn cùng với Duyên giác, Như Lai, đó gọi là chín loại người.
Đã nói căn kiến lập người. Nếu người thành tựu căn nay sẽ nói.
Căn hạ trung, tối hạ
Là loại người thứ nhất
Cho đến tăng thượng thượng
Người thứ chín nên biết.
Pháp thoái kia thành tựu căn hạ hạ. Pháp tư thuộc hạ trung. Pháp hộ là hạ thượng. Pháp trụ thuộc trung hạ. Pháp thắng tấn thuộc trung trung. Chủng tánh nhân nơi thời giải thoát thuộc pháp bất động trung thượng. Bất động giải thoát đầu là thượng hạ. Duyên giác là thượng trung. Như Lai là thượng thượng.
Là do chủng tánh học
Được quả vô học kia
Hoặc tức chủng tánh ấy
Hoặc tiến không thoái chuyển.
Sáu loại A-la-hán, hoặc do địa học, với chủng tánh như thế, được A-la-hán. Tức chủng tánh A-la-hán kia, hoặc do căn tăng ích được bất thoái chuyển, vì chủng tánh kia đã tu tập căn. Pháp thoái kia có ba sự việc sẽ nói sau. Pháp bất động chỉ có một sự việc, tức trụ bát Niết-bàn. A-la-hán còn lại có hai sự việc.
Đã nói chủng tánh căn bản nơi A-la-hán. Căn tăng tấn nay sẽ nói.
Gọi là ba, bốn, năm
Sáu, bảy lần lượt tăng
Là các pháp thoái chuyển v.v…
Nói năm sự La-hán.
Pháp thoái kia có ba sự: Là thoái chuyển trụ nơi học. Pháp thoái nơi căn. Hoặc trụ nơi bát Niết bàn kia. Hoặc là căn thượng tăng tấn.
Pháp tư có bốn sự: Là thoái chuyển trụ nơi học. Căn thoái chuyển tức trụ nơi căn của pháp thoái. Nếu khác tức nên tiến không thoái. Do trước đã nói chủng tánh kia là bất thoái. Trụ nơi căn của pháp thoái, tức là trụ nơi căn thượng tăng tấn của bát Niết-bàn.
Pháp hộ có năm sự: Là pháp hộ thoái chuyển, căn trụ nơi học. Căn trụ nơi pháp thoái. Căn trụ nơi pháp tư. Tức trụ nơi căn thượng tăng tiến của bát Niết-bàn.
Pháp trụ có sáu sự. Pháp tất thắng tấn có bảy sự, theo nghĩa ấy để nêu bày.
Đã nói kiến lập tướng của người Hiền Thánh. Kiến lập pháp nay sẽ nói.
Là pháp Tùy tín hành
Hoặc pháp Tùy pháp hành
Cùng với Đạo kiến đế
Đều là đồng một tướng.
Pháp Tùy tín hành, pháp Tùy pháp hành và Đạo kiến đế, ba loại pháp này đều đồng một tướng. Có sai biệt: Tức người Tùy tín hành là độn căn, người Tùy pháp hành là lợi căn.
Ở trong pháp các căn
Gọi là vị tri căn
Là pháp hữu học khác
Phật nói dĩ tri căn.
Ở trong pháp các căn, Gọi là vị tri căn: Nghĩa là căn thuộc về đạo kiến đế kia số lượng có chín pháp: Ý căn, lạc căn, hỷ căn, xả căn và năm căn như tín v.v… Đó gọi là vị tri căn. Các căn này là do Tùy tín hành, Tùy pháp hành nên thành tựu. Về tên gọi, do chưa nhận biết sẽ nhận biết, nên nói là vị tri căn.
Hỏi: Khổ pháp nhẫn sinh quán năm ấm của cõi dục. Về sau khổ pháp trí sinh không phải ở nơi năm ấm là đã nhận biết hay sẽ nhận biết? Nếu nói chưa nhận biết, sẽ nhận biết, thì điều này là không đúng.
Đáp: Vì nhẫn không phải là tánh của trí nên không có lỗi. Vì nhẫn là kiến, nên không phải là tánh của trí. Do trí nhận biết nên không phải là không đúng. Tức Là pháp hữu học khác, Phật nói dĩ tri căn, tức trừ pháp học của kiến đạo, còn lại là pháp học khác, tức số lượng chín pháp của căn này được nói là dĩ tri căn. Căn này là do Tín giải thoát, Kiến đáo, Thân chứng nên thành tựu. Tuy đạo tỷ trí sinh quán đạo tỷ nhẫn là chưa nhận biết, sẽ nhận biết, nhưng vì ít nên không nói. Như một giọt nước của biển cả, một hạt bụi của núi Tu-di, một nơi ruồi muỗi đậu trong hư không.
Nên biết pháp vô học
Là nói vô tri căn
Được quả bỏ đạo trước
Trí vô ngại đã nói.
Nên biết pháp vô học, Là nói vô tri căn: Nghĩa là nên biết pháp vô học tức căn này về số lượng có chín pháp, nói là vô tri căn. Căn này là do Tuệ giải thoát và Câu giải thoát nên thành tựu. Sáu địa của kiến đạo kia là bốn thiền căn bản và thiền vị lai, thiền trung gian. Không phải là căn thiện phương tiện của địa trên, vì không phải phần cùng không phải cảnh giới rộng. Pháp học của tu đạo gồm chín địa, tức sáu địa này và ba định vô sắc, tánh là bốn ấm, năm ấm.
Được quả bỏ đạo trước, Trí vô ngại đã nói: Nghĩa là khi đắc quả, nên biết là xả bỏ đạo vô lậu trước để được quả Tu-đà-hoàn. Xả bỏ kiến đạo được quả Tư-đà-hàm. Nếu phần lìa dục gấp bội ở trước đã hết, cũng xả bỏ kiến đạo. Nếu theo thứ lớp thì xả bỏ quả Tu-đà-hoàn và Tu-đà-hoàn tiến hướng đạo được quả A-nahàm. Nếu dục ái ở trước đã hết, cũng xả bỏ kiến đạo. Nếu theo thứ lớp là xả bỏ quả Tư-đà-hàm và Tư-đà-hàm tiến hướng đạo, được quả A-la-hán hoặc xả bỏ quả A-na-hàm và A-na-hàm tiến hướng đạo.
Hỏi: Đức Thế Tôn nói bảy người như Tùy tín hành v.v… Số người ấy được kiến lập như thế nào?
Đáp:
Phương tiện và các căn
Chánh thọ giải thoát hợp
Nên biết Hiền Thánh bảy
Sự tức nói có sáu.
Phương tiện và các căn, Chánh thọ giải thoát hợp, Nên biết Hiền Thánh bảy: Nghĩa là do năm nhân duyên nên nói bảy người, danh là bảy, không phải là sự có bảy. Năm nhân duyên là phương tiện, căn, chánh thọ, giải thoát và chánh thọ giải thoát.
Phương tiện: Là Tùy tín hành, Tùy pháp hành. Tùy tín hành là vì tín nhiều, nên nói Tùy tín hành, trước do đã gieo trồng các nghiệp tin nơi người khác nên làm. Về sau được đạo rồi, lấy tên gốc để gọi. Tùy pháp hành là trước đã tự mình tư duy để khởi tạo các nghiệp. Về sau được đạo rồi thì cũng dùng tên gốc để gọi.
Căn: Là Tín giải thoát, Kiến đáo. Độn căn nói là Tín giải thoát. Lợi căn nói là Kiến đáo.
Chánh thọ: Là Thân chứng. Giải thoát: Là Tuệ giải thoát. Chánh thọ giải thoát: Là Câu giải thoát.
Sự tức nói có sáu: Nghĩa là các Thánh nhân này có sáu: Kiến đạo có hai là Tùy tín hành và Tùy pháp hành. Tu đạo có hai là Tín giải thoát và Kiến đạo. Đạo vô học có hai là Thời giải thoát và Bất thời giải thoát. Người Tùy tín hành nên nói là một. Nghĩa là căn của bảy người nên nói là ba, tức vì chủng tánh của hạ, trung, thượng. Nên nói là năm, tức pháp thoái cho đến đạo tất thắng tấn. Nên nói là mười lăm, tức từ trụ khổ pháp nhẫn cho đến đạo tỷ nhẫn. Theo lìa dục nên nói là bảy mươi ba: Lìa dục của cõi dục có mười, là từ cụ phược cho đến chín phẩm đều hết. Thiền thứ nhất có chín, cho đến vô sở hữu xứ.
Lại nữa, đạo của chủng tánh căn dựa vào để kiến lập tăng lên cũng nên nói rộng. Như thế người Tùy tín hành có mười bốn vạn bảy nghìn tám trăm hai mươi lăm, do đạo kia thâu nhận.
Một, ba, năm, mười lăm
Cùng với bảy mươi ba
Là đạo chủng tánh căn
Lìa phiền não nên biết.
Gấp ba, kế gấp năm
Mười lăm và gấp chín
Rất nhiều loại như thế
Chỉ nói Tùy tín hành.
Nên biết Thánh nhân còn lại, tùy theo nghĩa ấy cũng nên nói như thế.
Hỏi: Như Khế kinh nói có tám người như hướng Tu-đà-hoàn
v.v… Chư vị ấy là thế nào?
Đáp:
Do vì có năm sự
Nói có tên tám người
Sự trước sau đều một
Khoảng giữa tức có ba.
Bốn hướng, bốn quả này nói là tám người, gọi là sự có năm. Hướng Tu-đà-hoàn và A-la-hán, đây gọi là một sự. Cũng một Tu-đàhoàn và hướng Tư-đà-hàm, đây gọi hai sự. Một Tư-đà-hàm và hướng A-na-hàm, A-na-hàm và hướng A-la-hán cũng như thế.
Bốn người trước ấy là thành tựu Thánh đạo của một địa, tức đây cũng nói Gia gia và Một chủng tử. Hướng A-na-hàm hoặc một địa cho đến sáu địa. Quả A-na-hàm hoặc ba địa cho đến sáu địa. Hướng A-la-hán hoặc ba địa cho đến chín địa. A-la-hán thành tựu chín địa. Đạo của quả Sa-môn kia hoại thì địa hoại, nên nêu ra bốn trường hợp:
(1) Đạo hoại không phải là địa hoại: Nghĩa là quả Tư-đà-hàm. (2) Địa hoại không phải là đạo hoại: Nghĩa là quả A-la-hán. (3) Đạo hoại cũng là địa hoại: Nghĩa là quả A-na-hàm. (4) Không phải là đạo hoại cũng không phải là địa hoại: Nghĩa là quả Tu-đà-hoàn (Xen tạp hữu lậu, vô lậu gọi là đạo hoại. Xen tạp dựa vào các thiền gọi địa hoại).
Đã hết là giải thoát
Được dựa nơi một quả
Thứ chín không nhiễm ô
Diệt tận nên sẽ nói.
Đã hết là giải thoát, Được dựa nơi một quả: Nghĩa là các đạo giải thoát trong hướng, đạo đắc quả giải thoát. Lúc được quả, phẩm pháp trí đã đoạn hết phiền não, được một giải thoát. Được phẩm tỷ trí đã đoạn hết phiền não được hai giải thoát. Vì được đạo không hoại nên nói là lúc được một quả. Nói do năm nhân duyên nên được đạo chưa từng được, xả đạo đã từng được, đắc tức thì tám trí. Một lúc tu mười sáu hành được quả giải thoát của một vị.
Hỏi: Đoạn trừ nhiễm ô, trước đã nói không nhiễm ô, làm sao đoạn trừ?
Đáp: Thứ chín không nhiễm ô, Diệt tận nên sẽ nói: Tức trước đã nói đoạn chín phẩm phiền não quyến thuộc. Không nhiễm ô: Là trụ nơi đạo vô ngại thứ chín, đoạn trừ tức thì, không phải dần dần. Không nhiễm ô: Là thiện và vô ký không ẩn mất (Vô phú vô ký) theo thế tục. Sắc của năm ấm nhiễm ô cũng do đạo vô ngại thứ chín đoạn trừ, vì ít nên không nói.
Hỏi: Vì sao đoạn trừ chín phẩm phiền não, còn không nhiễm ô thì do đạo vô ngại thứ chín đoạn trừ?
Đáp: Vì phiền não và Thánh đạo là trái nhau. Thánh đạo cùng với phiền não là trái nhau, còn không nhiễm ô thì không trái nhau, cho nên sự việc kia là như thế.
Như thế đạo khởi, tùy theo chỗ cần đoạn trừ thì phiền não được đoạn trừ. Đạo hạ hạ khởi đoạn trừ phiền não thượng thượng. Cho đến đạo thượng thượng khởi đoạn trừ phiền não hạ hạ. Như ánh sáng nhỏ diệt trừ bóng tối lớn, ánh sáng lớn diệt trừ bóng tối nhỏ. Pháp kia cũng như thế. Người do nhiễm ô thì tự tánh đoạn trừ khiến không thành tựu. Người không nhiễm ô thì xả bỏ lỗi của phiền não như nạn độc.
Vô trước tên giống nhau
Có thể được bất động
Chủng tánh Tín giải thoát
Thăng tấn cũng tăng đạo.
Vô trước tên giống nhau, Có thể được bất động: Nghĩa là không phải tất cả A-la-hán kia đều có thể đạt được bất động, chỉ có công đức gọi là tương tợ là đạt được. Đó là pháp tất thắng tấn, ở trong năm loại A-la-hán kia, căn tăng tấn là đạt được. Nghĩa là pháp thoái tiến đến pháp tư, theo thứ lớp như thế đều nên biết.
Lại nữa, đạt được bất động có chín đạo vô ngại và chín đạo giải thoát như được A-la-hán. Chín đạo vô ngại, tám đạo giải thoát là thuộc về Thời giải thoát. Đạo giải thoát thứ chín thì thuộc về Bất thời giải thoát. Tất cả quả của đạo kia thuộc về đạo. Đạo phương tiện kia nếu là vô lậu thì thuộc về quả đạo, nếu là hữu lậu thì không gồm thâu.
Chủng tánh Tín giải thoát, Thăng tấn cũng tăng đạo: Nghĩa là Tín giải thoát kia, nếu là chủng tánh tất thăng tấn thì có thể đạt được kiến đáo, không phải là tánh khác. Cho nên năm loại học địa cũng là căn tăng tấn.
Đạo tăng tấn: Nghĩa là căn phát khởi sáng tỏ. Căn tăng tấn: Nghĩa là tăng thêm trong nẻo người, không phải là nẻo khác. Thánh đạo tăng, không phải là đạo thế tục tăng. Học là nương nơi thiền. Vô học là nương nơi thiền và vô sắc. Tu-đà-hoàn, Tư-đà-hàm thì nương vào thiền vị lai để căn tăng tấn, tức chư vị ấy xả một địa, được một địa. A-na-hàm nếu trước nương vào thiền thứ nhất và quyến thuộc vượt lên ly sinh và theo thứ lớp chưa đắc thiền thứ hai, vị kia khiến căn tăng tấn, xả quả của ba địa, được quả của ba địa. Nếu đắc thiền thứ hai không phải thiền thứ ba, về sau nương vào thiền thứ nhất khiến căn tăng tấn, vị kia xả quả của ba địa và đạo quả vượt hơn của bốn địa, tức được quả của ba địa. Như thế cho đến đắc vô sở hữu xứ vô lậu, xả quả của ba địa và xả đạo quả vượt hơn của chín địa, đắc quả của ba địa. Nếu cho xả nhiều đạo được ít đạo nên là thoái chuyển thì không đúng. Vì sao? Vì đắc đạo vượt hơn, vì người ấy được ý giải.
Hỏi: Xả đạo cũng xả đoạn trừ chăng?
Đáp: Đạo thế tục đoạn trừ là không xả.
Nếu phiền não của xứ phi tưởng phi phi tưởng được đoạn trừ theo mỗi mỗi thứ thì lúc được kiến đáo tức nơi xứ phi tưởng phi phi tưởng kia do tu đạo đoạn trừ, xả bỏ đoạn và đối trị nhưng không tạo thành phiền não có được, như lúc phàm phu sinh nơi địa trên.
Lại nữa, nếu trước nương vào thiền thứ nhất, vượt lên ly sinh, về sau nương vào thiền thứ hai để căn tăng tấn thì người kia đã xả quả của ba địa và đạo quả vượt hơn của bốn địa, được quả của bốn địa. Như thế, tất cả địa nên nói rộng.
Nếu trụ nơi quả mà căn tăng tấn thì đạo phương tiện, đạo vô ngại và đạo giải thoát kia là thuộc về quả. Nếu trụ nơi đạo quả vượt hơn mà căn tăng tấn, thì hoặc đạo phương tiện, đạo vô ngại kia thuộc về đạo quả vượt hơn, hoặc đạo giải thoát thuộc về quả. Do một đạo phương tiện, một đạo vô ngại cũng là một đạo giải thoát. Như thế kiến đạo cũng có sáu chủng tánh nhưng không có căn tăng tấn, do là đạo nhanh chóng.
Căn thiện của phần quyết định như thế cũng có sáu chủng tánh. Người tu hành theo thứ lớp khiến căn tăng tấn, chỉ có pháp thế gian đệ nhất là không có căn tăng tấn, do chỉ là một niệm.
Đã nói về các căn đủ. Học đủ không đủ nay sẽ nói.
Hoặc quả hữu học đủ
Hoặc căn, hoặc chánh thọ
Hoặc lại ba cùng đủ
Vô học hai cũng thế.
Học kia có ba sự đủ: Hoặc quả đủ, hoặc căn đủ, hoặc chánh thọ đủ.
Nếu tín giải thoát là A-na-hàm không được định diệt tận thì chỉ có quả đủ, không phải căn đủ, vì căn bậc hạ, không phải chánh thọ đủ, vì không được định diệt tận.
Kiến đáo là Tu-đà-hoàn, Tư-đà-hàm chỉ có căn đủ, không phải quả đủ, không phải chánh thọ đủ.
Tín giải thoát là A-na-hàm được định diệt tận thì quả đủ và chánh thọ đủ, không phải là căn đủ.
Kiến đáo là A-na-hàm không được định diệt tận thì quả đủ và căn đủ, không phải là chánh thọ đủ.
Kiến đáo được định diệt tận, ba sự đều đủ.
Vô học hai cũng thế: Nghĩa là tất cả bậc vô học đều có quả đủ, vì tánh không có hai quả. Tuệ giải thoát căn kém thì có quả đủ, không phải là căn đủ. Giải thoát lợi căn thì quả đủ và căn đủ, cùng không phải là chánh thọ đủ. Câu giải thoát căn kém thì có quả đủ và chánh thọ đủ, không phải là căn đủ. Câu giải thoát lợi căn thì ba sự đều đủ.
Hỏi: Ba thứ đủ nghĩa là khéo quán đế. Vậy quán đế như thế nào? Là mau chóng hay dần dần?
Đáp:
Kiến lập công đức ác
Dần dần thấy chân đế
Sức đạo vô ngại được
Quả hữu vi, vô vi.
Kiến lập công đức ác, Dần dần thấy chân đế: Nghĩa là vì ở nơi chân đế này thấy rõ lỗi ác, nên lập khổ đế, tập đế. Vì thấy rõ công đức nên lập diệt đế, đạo đế. Thế nên, không phải lúc thấy lỗi ác thì cùng thấy công đức. Cũng không phải lúc thấy công đức thì cùng thấy lỗi ác, vì thể khác nhau. Cũng không phải là không kiến đế như thật, gọi là đế vô gián đẳng. Cũng không phải do một trí quán chung về đế, vì đế có rất nhiều tánh. Vì vậy nên dần dần thấy chân đế.
Có thuyết nói hành vô ngã tức thì được vô gián đẳng. Thuyết kia nói hành vô ngã như thế là duyên nơi tất cả pháp, nên tức thì là vô gián đẳng là không đúng. Vì sao? Vì có rất nhiều điên đảo. Vì tự tánh tương ưng với pháp cùng có không phải là cảnh giới. Vì đế khác với tướng.
Vô ngã cùng ở nơi đế này có rất nhiều môn, nên điên đảo không phải là một. Vì vô ngã sinh khởi đoạn trừ rất nhiều tự tánh Hoặc, nên không phải là một. Vô gián đẳng là dần dần. (Vô gián đẳng sẽ nói rộng trong phẩm Trạch).
Hỏi: Đế vô gián đẳng được quả Sa-môn. Quả đắc ấy là quả hữu vi hay là quả vô vi?
Đáp: Sức đạo vô ngại được, Quả hữu vi, vô vi. Do phiền não là số diệt và đạo giải thoát đều cùng có sức của đạo vô ngại đạt được, thế nên đều cùng nói là quả Sa-môn. Phiền não diệt là quả giải thoát và quả công dụng. Đạo giải thoát là quả công dụng và quả y.
Hỏi: Vô gián đẳng này có bao nhiêu loại?
Đáp:
Là ba vô gián đẳng
Duyên sự kiến vô gián
Nên biết có ba loại
Hoặc hai cũng lại một.
Ba loại vô gián đẳng là duyên vô gián đẳng, sự vô gián đẳng và kiến vô gián đẳng. Ba loại vô gián đẳng kia là tuệ.
Duyên vô gián đẳng là hữu duyên. Sự vô gián đẳng là có thể thành sự. Kiến vô gián đẳng là kiến tánh.
Pháp tương ưng của tuệ có hai loại vô gián đẳng là duyên vô gián đẳng và sự vô gián đẳng, còn pháp cùng có kia chỉ có một là sự vô gián đẳng.
Khổ nhẫn, khổ trí kia ở nơi khổ đế có ba loại vô gián đẳng, ở nơi diệt đế, đạo đế chỉ có sự vô gián đẳng. Nên biết tập nhẫn, tập trí đối với tập đế cũng như vậy.
Diệt nhẫn, diệt trí đối với diệt đế có ba loại vô gián đẳng, đối với khổ, tập, đạo đế chỉ có sự vô gián đẳng.
Đạo nhẫn, đạo trí đối với đạo đế có ba vô gián đẳng, đối với khổ, tập, diệt đế chỉ có sự vô gián đẳng.
Tu đạo tùy theo nghĩa ấy, nên biết như vậy. Kiến đế vô gián đẳng do nhân duyên này nên biết là lần lượt vô gián đẳng.
HẾT – QUYỂN 5