LUẬN TẠP A TỲ ĐÀM TÂM
Tác giả: Tôn giả Pháp Cứu.
Hán dịch: Đời Lưu Tống, Tam tạng Tăng Già Bạt Ma, người Thiên Trúc
Việt dịch: Cư sĩ Nguyên Huệ

 

QUYỂN 11

Phẩm thứ 10: TRẠCH, phần 2

Hỏi: Biết pháp, nhận thức pháp, làm sáng tỏ pháp, những sự việc này là thế nào?

Đáp:

Biết là biết các pháp

Thức tỏ cũng như vậy

Trí và ý thức sáng

Kia đều theo sự nói.

Khổ trí kia biết khổ, cho đến đạo trí biết đạo, trí vô lậu duyên phần đoạn. Đẳng trí thiện cũng biết khổ, cho đến số hư không phi số diệt duyên khắp tất cả pháp. Thức cũng nhận thức về tất cả pháp. Nhãn thức kia nhận thức sắc, cho đến thân thức nhận thức xúc, vì thâu nhận tự tướng. Ý thức nhận thức mắt, sắc và nhãn thức, vì đều duyên khắp tất cả như vậy. Minh: Là cũng làm sáng tỏ tất cả pháp tùy vào các sự việc ấy. Khổ nhẫn, khổ trí kia làm sáng tỏ khổ, cho đến đạo nhẫn, đạo trí làm sáng tỏ đạo, vì duyên nơi phần đoạn. Tuệ hữu lậu thiện cũng làm sáng tỏ khổ cho đến hư không phi số diệt.

Hỏi: Thế nào là kiếp có lỗi?

Đáp:

Đao binh, bệnh, đói khát

Là lỗi của trung kiếp

Trừ địa, ba thứ khác

Là lỗi của đại kiếp.

Đao binh, bệnh, đói khát, Là lỗi của trung kiếp: Nghĩa là ba thứ lỗi ở trung kiếp, đó là đao binh, bệnh dịch, đói khát.

Kiếp đao binh: Nghĩa là đến lúc thọ mạng của con người giảm xuống chỉ còn mười tuổi, là cảnh giới của tham, thô, ác, hành các pháp tà, đều trụ nơi tâm hại, tay cầm cỏ cây đều thành gươm đao, sát hại nhau. Như vậy là trải qua bảy ngày. Đó là lỗi về đao binh nơi trung kiếp.

Kiếp bệnh dịch: Cũng xảy ra vào thời thọ mạng của con người chỉ có mười tuổi với nhiều bệnh tật, không có lương y, thuốc men cùng chẩn đoán bệnh. Bấy giờ con người vì phước đức quá mỏng, nên gặp phải bệnh là chết ngay. Như vậy là trải qua bảy tháng, bảy ngày. Đó là lỗi về bệnh dịch của trung kiếp.

Kiếp đói khát: Cũng vào thời thọ mạng của con người chỉ còn mười tuổi, đói khát càng tăng lên, cơ thể càng yếu kém. Hạn hán kéo dài khắp thiên hạ, mọi sự việc gieo trồng không thu hoạch đủ số lượng gạo để ăn, phải hầm nấu xương người để lấy nước húp. Như vậy là trải qua đến bảy năm, bảy tháng, bảy ngày. Đó là lỗi về đói khát của trung kiếp.

Nói chung là như vậy. Nếu vào đời hiện nay, người nào vâng giữ giới không sát sinh, trong một ngày một đêm, thì trọn không sinh trong kiếp đao binh. Nếu dùng một quả Ha-lê-lặc cúng cho phước điền Tăng, thì trọn không sinh trong kiếp bệnh dịch. Nếu bố thí phước điền Tăng một bữa ăn, thì trọn không sinh trong kiếp đói khát.

Trên đây là kiếp ác của châu Diêm-phù-đề cùng sinh khởi. Ở phương khác thì có một ít phần tương tợ. Như sinh trong kiếp đao binh, người kia chỉ có tức giận tăng thêm. Như sinh trong kiếp bệnh dịch, người kia chỉ có phần ít sức vì yếu kém. Như sinh trong kiếp đói khát, người kia chỉ tăng thêm đói khát.

Hỏi: Thế nào là lỗi của đại kiếp?

Đáp: Trừ địa, ba thứ khác, Là lỗi của đại kiếp: Ba đại chủng nói là lỗi của đại kiếp, đó là lửa, nước, gió, không phải là địa chủng. Vì sao? Vì bất lợi. Lợi là hủy hoại đại kiếp.

Lại nữa, kiếp hoại của địa chủng: Nghĩa là kiếp hoại tức nên đến cõi thiền thứ tư nhưng chưa từng đến cõi thiền thứ tư.

Hỏi: Vì sao kiếp hoại không đến thiền thứ tư?

Đáp: Vì trời Tịnh cư. Trời ấy không có sinh nơi địa trên, tức ở nơi ấy nhập Niết-bàn. Cũng không sinh xuống địa dưới, vì địa dưới là phi số diệt. Nếu cho kiếp trụ kia trải qua kiếp hoại là cũng không đúng, vì sức của phước tăng thượng nên sinh vào xứ kia, vì sự nhiễu loạn bên trong là không có. Nếu bên trong địa kia có sự loạn động, thì bên ngoài sẽ có tai họa. Trong cõi thiền thứ nhất kia, vì có lửa giác quán nhiễu loạn, nên bên ngoài bị hỏa tai thiêu đốt. Trong cõi thiền thứ hai có nước hỷ nhiễu loạn, nên bên ngoài bị thủy tai cuốn trôi. Trong cõi thiền thứ ba có hơi thở ra vào là gió nhiễu loạn, nên bên ngoài bị phong tai làm cho tan hoại.

Hỏi: Cõi thiền thứ tư chưa từng có nhiễu loạn, sao được chẳng thường còn?

Đáp: Vì bị sát-na vô thường hủy hoại. Nói như vậy nghĩa là địa của thiền thứ tư không nhất định nối tiếp nhau, tùy theo vị trời kia sinh thì cung điện cùng khởi. Nếu vị trời mạng chung, thì cung điện cũng đều mất.

Hỏi: Những kiếp nào hết trước nhất?

Đáp:

Bảy lửa thứ lớp khởi

Sau đấy một thủy tai

Bảy bảy lửa, bảy nước

Sau bảy lửa lại gió.

Bảy lửa thứ lớp khởi: Nghĩa là kiếp lửa khởi lên trước nhất. Nên nói như thế này: Nếu kiếp lửa sắp khởi, bấy giờ tuổi thọ của con người là tám vạn tuổi. Người nơi địa ngục chết, không còn sống trở lại nữa, nên biết là kiếp hết, cho đến ở địa ngục cũng không có một chúng sinh nào cư trú. Đó gọi là kiếp của địa ngục hết. Như kiếp của địa ngục hết, thì súc sinh, ngạ quỷ cũng như vậy. Nếu súc sinh đối với con người là hữu dụng, thì cùng tận diệt với con người.

Lúc ấy, ở châu Diêm-phù-đề chỉ có mỗi một người, không có người giáo hóa, có thể nhập thiền thứ nhất. Từ thiền thứ nhất khởi, rồi cất tiếng xướng: Ly sinh hỷ lạc, thật là an lạc! Âm thanh như vậy lần lượt báo cho biết khắp châu Diêm-phù-đề. Các chúng sinh khác cũng không có thầy giáo hóa, cũng đều nhập thiền thứ nhất, cho đến cả châu Diêm-phù-đề, không có một chúng sinh nào ở. Đó gọi là kiếp của Diêm-phù-đề hết, chỉ trừ châu Uất-đơn-việt. Tất cả các nẻo thiện của cõi dục cũng lại như vậy. Châu Uất-đơn-việt mạng chung, không người nào được thiền, vì không có sự lìa dục.

Lại nữa, vào lúc đó, một chúng sinh ở thiền thứ nhất, không có người giáo hóa mà nhập thiền thứ hai. Sau khi xuất thiền, cất tiếng xướng: Định sinh hỷ lạc, thật là an lạc! Âm thanh như vậy vang khắp đến Phạm thiên. Các chúng sinh khác cũng lại như thế. Cho đến nơi thiền thứ nhất, không có một chúng sinh nào cư ngụ. Đó gọi là kiếp của đời chúng sinh hết. Thế giới lúc này là trống rỗng lâu xa, cho đến khi bảy mặt trời xuất hiện.

Hỏi: Mặt trời xuất hiện từ xứ nào?

Đáp: Có thuyết cho: Lúc kiếp thành, do sau núi Càn-đà có bảy vầng mặt trời trụ nơi ấy, tức sẽ từ xứ ấy xuất hiện.

Có thuyết nêu: Một mặt trời phân làm bảy phần.

Lại có thuyết nói: Một mặt trời có sức nóng gấp bảy lần.

Lại có thuyết bảo: Lửa từ địa ngục Vô gián tỏa ra.

Nên nói như vầy: Vì nghiệp lực của chúng sinh làm quả tăng thượng, khiến khí thế giới khởi. Nghiệp kia hết, như vậy là sự nhiễu loạn sinh, cho đến đốt cháy cả cõi Phạm thiên. Bảy hỏa tai như vậy thứ lớp đi qua.

Sau đấy một thủy tai: Nghĩa là bảy hỏa tai xảy ra rồi, sau đấy mới là một thủy tai, cho đến làm tan hoại cõi thiền thứ hai.

Hỏi: Nước dâng lên từ xứ nào?

Đáp: Có thuyết cho: Từ biên vực của thiền thứ ba nơi nước mưa bị đun nóng.

Có thuyết lại nói: Từ thủy luân nước tuôn ra theo sự nhiễu loạn khởi, như trước đã nói.

Bảy bảy lửa, bảy nước: Nghĩa là bảy hỏa tai theo thứ lớp xảy ra, sau đấy là một thủy tai. Như vậy bảy bảy hỏa tai và một bảy thủy tai.

Sau bảy lửa lại gió: Nghĩa là về sau, khi hỏa tai đi qua, sau đấy là một phong tai. Thủy tai, phong tai từ hỏa tai theo thứ lớp khởi. Đây tức là nói về thiện. Tịnh cư thiên thọ mạng đến sáu mươi bốn kiếp mới bị thủy tai làm trôi dạt. Cho đến thiền thứ hai bị phong tai làm tan hoại. Cho đến thiền thứ ba, cùng trăm ức bốn thiên hạ, đều trong một lúc cùng tan hoại.

Mười chín trung kiếp không của thế gian, một trung kiếp nơi khí thế giới tan hoại. Một trung kiếp nơi khí thế giới hình thành, mười chín trung kiếp theo thứ lớp dần trụ. Nếu ở nơi kiếp không trước nhất, là ở nơi kiếp trụ sau cùng. Nếu ở nơi kiếp không sau cùng, là ở tại kiếp trụ trước nhất.

Hỏi: Thế nào là tâm loạn?

Đáp:

Lẫn lộn, nghiệp báo gốc

Sợ hãi cùng thương hại

Nếu giải chi tiết kia

Thánh nói nước, lửa, gió.

Lẫn lộn nghiệp báo gốc, Sợ hãi cùng thương hại: Nghĩa là bốn nhân duyên làm cho tâm loạn, đó là bốn đại lẫn lộn, nghiệp báo gốc, sợ hãi và gây tổn hại thân.

Bốn đại lẫn lộn: Nghĩa là ăn uống không thích hợp, nên bốn đại lẫn lộn. Vì bốn đại tạp loạn nên khiến tâm người kia loạn.

Nghiệp báo gốc: Nghĩa là gốc tạo ra tâm tán loạn là nghiệp báo đã chín muồi.

Hỏi: Sự việc này là thế nào?

Đáp: Ưa loan truyền những tai họa suy giảm, làm cho người khác buồn rầu, khổ sở. Hoặc lại mắng nhiếc: Ông là người ngu si, điên rồ, tâm tán loạn. Hoặc đã xua đuổi, bức bách chúng sinh, khiến họ rơi vào chốn nguy hiểm. Đốt núi, đầm, bắt ép người khác uống rượu. Hoặc dùng vọng tưởng, nói ngược lời Phật nói. Những nghiệp như thế dẫn tới quả là tâm loạn.

Sợ hãi: Nghĩa là kinh sợ khi thấy hình phi nhân đến. Vì sợ hãi nên tâm người kia hoảng loạn.

Gây tổn hại thân: Tức bị phi nhân đánh. Vì người kia đã dùng vật bất tịnh làm cấu uế nơi chốn đại chúng hội họp và tháp của Phật, Tăng, khiến phi nhân ở nơi chốn ấy giận dữ nên đánh và tâm người kia tán loạn.

Đó là nói về hàng phàm phu. Thánh nhân không có hành báo của nghiệp gốc làm tâm loạn. Nếu người trước kia đã gieo trồng nghiệp báo nhất định, thì trước hết thọ báo, sau đấy mới vượt lên ly sinh. Nếu như người gieo trồng nghiệp báo không nhất định, nếu vượt lên ly sinh, thì nghiệp của họ sẽ diệt mất.

Tâm loạn là ở cõi dục. Địa ngục kia không có tâm loạn, vì là thường loạn. Súc sinh, ngạ quỷ và người thì tâm loạn, trừ châu Uấtđơn-việt. Trời thuộc cõi dục cũng có tâm loạn.

Hỏi: Những Thánh nhân nào có tâm loạn?

Đáp: Tu-đà-hoàn, Tư-đà-hàm, A-na-hàm, A-la-hán, Phật-bíchchi. Chỉ có Phật là tâm không loạn. Tiếng nói không hư hoại, tóc không bạc, da mặt không nhăn, không dần dần bát Niết-bàn.

Đức Thế Tôn từ lâu đã diệt trừ hết nghiệp nhiễu loạn, vì Phật hành theo hành diệu. Sự rối loạn là ở ý thức, không phải là ở năm thức tâm, vì không phân biệt. Tâm hữu lậu loạn, không phải là vô lậu, vì hành chân thật. Vì thế nếu nói tâm điên loạn là tán loạn chăng? Nên nêu ra bốn trường hợp:

Trường hợp thứ nhất: Nói người điên là tâm hữu lậu thiện, tâm vô ký không ẩn mất.

Trường hợp thứ hai: Nói tự tướng trụ là tâm cấu uế.

Trường hợp thứ ba: Nói người điên là tâm cấu uế.

Trường hợp thứ tư: Nói tự tướng trụ là tâm thiện và tâm vô ký không ẩn mất.

Hỏi: Những đại nào có thể giải chi tiết?

Đáp: Nếu giải chi tiết kia, Thánh nói nước, lửa, gió: Nghĩa là ba đại nước, lửa và gió là có thể tách lìa chi tiết, không phải địa đại vì bất lợi.

Hỏa đại tách lìa chi tiết: Nghĩa là lúc mạng chung, hỏa đại tăng, đốt cháy khắp gân, đốt gân xong, tách lìa từng lóng đốt. Tách lìa lóng đốt xong, không lâu sẽ chết.

Thủy đại tách lìa chi tiết: Nghĩa là lúc từng lóng đốt rời ra, trước hết làm cho gân thối rữa, gân thối rữa rồi, chi tiết khác như trước đã nói.

Phong đại tách lìa chi tiết: Nghĩa là làm cho gân nát vụn, gân nát vụn rồi, chi tiết còn lại như trước đã nói.

Chi tiết đã tách lìa rồi, thì không quá ngày đêm là mạng chung, vì bốn đại đã tán loạn. Địa ngục không có sự việc tách lìa chi tiết, vì các chi tiết luôn bị tách lìa, nhưng do nghiệp báo, nên không chết. Súc sinh, ngạ quỷ và ba châu đều có sự việc tách lìa chi tiết, trừ châu Uất-đơn-việt, vì không có nghiệp tội. Các cõi trời cũng như vậy. Phàm phu, Thánh nhân đều có tách lìa chi tiết, chỉ trừ Phật. Tội báo là tách lìa chi tiết. Đức Phật thì không có tội báo.

Đã nói tách lìa chi tiết. Sự thoái chuyển nay sẽ nói.

Pháp thoái có ba thứ

Đắc, chưa đắc, tập hành

Hoặc một người, một thoái

Chưa đắc thoái nói hai

Là tập hành kia thoái

Ba Thánh đều cũng vậy.

Pháp thoái có ba thứ: Đắc thoái, chưa đắc thoái và tập hành thoái.

Đắc thoái: Nghĩa là công đức đã được, nhưng gặp phải nhân duyên thoái chuyển, là thoái chuyển.

Chưa đắc thoái: Nghĩa là công đức đáng lẽ đạt được, nhưng vì phóng dật nên không được.

Tập hành thoái: Nghĩa là công đức đã đạt được, vì có nhân duyên nên không được tập hành.

Hỏi: Những người nào thoái chuyển và thoái chuyển việc gì?

Đáp: Hoặc một người, một thoái: Nếu người đắc thoái là Thanh văn, thuộc hàng độn căn, không phải là hàng lợi căn. Hàng lợi căn là sức của tam muội, nên nói như vậy.

Hỏi: Làm sao nhận biết có đắc thoái?

Đáp: Do nói có hai hạng A-la-hán. Đó là pháp thoái và pháp không thoái. Nếu nói đạo thoái mà quả không thoái là không đúng. Vì sao? Vì đoạn và chứng đắc cùng hợp với đạo. Sự chứng đắc là thuộc đạo đế, thế nên đạo thoái chuyển cho là không phải đoạn thì không đúng. Nếu nói lìa chủng tử của phiền não làm sao phát sinh, nên nói như tâm vô lậu ban đầu, không có nhân trước mà sinh, đạo thoái kia cũng như vậy.

Lại nữa, vì có phần tự phần nhân, nên từ nơi sinh tử không biên vực, phần tự phần nhân của phiền não sinh khởi. Nói phiền não ở nơi ba xứ dấy khởi là không đúng. Vì sao? Vì phiền não khởi là có đầy đủ, nên nói là chúng sinh khởi phiền não phải có đủ ba nhân duyên là sức của nhân, sức của cảnh giới và sức của phương tiện. Sử của dục ái kia chưa đoạn, chưa nhận biết là sức của nhân (Đoạn là vô ngại, nhận biết là giải thoát). Triền dục ái buộc vướng nơi pháp là sức của cảnh giới. Tư duy không đúng là sức của phương tiện, là ý của thuyết kia. Nếu theo thuyết kia thì do tư duy không đúng, nghĩa là trước kia không có tư duy không đúng không phân biệt nên không khởi. Nếu tư duy không đúng trước kia là có tức là không cùng.

Lại nữa, tâm thiện, tâm vô ký đã đến chỗ hoàn toàn không sinh. (Nếu tư duy không đúng nối tiếp không cùng thì những niệm khác không thể sinh). Nếu không sinh thì sự giải thoát cũng không có phần. Đã thiêu đốt các phiền não, tức không nên sinh trở lại, như lửa đốt gỗ thành tro, đến cuối cùng thì tro không còn là gỗ nữa. Như vậy A-la-hán dùng lửa trí để thiêu đốt củi phiền não, không nên lại bị phiền não. Chỗ không ứng hợp kia là như vậy. Vì sao? Vì thí dụ không hợp. Thế nào là như đốt củi có tro? Nếu như vậy, phiền não của A-la-hán chưa trọn vẹn là như tro kia chăng? Nếu chưa trọn vẹn tức không phải là A-la-hán, vì còn có phiền não. Nếu không thì chẳng như thí dụ trên. Nhưng không phải Thánh đạo kia như lửa thiêu đốt củi. Thánh đạo chỉ dốc khởi sự đoạn trừ phiền não, là được giải thoát, được tác chứng. Nếu vị kia lìa Thánh đạo thì cũng xả bỏ giải thoát, bị trói buộc đâu còn khởi trở lại. Như các thứ thoái chuyển là trái với kinh đã nói. Nên biết nói là bất thời giải thoát.

Chưa đắc thoái nói hai: Nghĩa là nếu vị kia là chưa đắc thoái thì đó là Thanh văn, Phật-bích-chi, không phải là Đức Phật, vì Phật đã an trụ nơi tất cả căn tối thắng. Người Thanh văn không được căn tối thắng của Phật-bích-chi, của Phật. Phật-bích-chi không được căn tối thắng của Phật. Thế nên mới có loại chưa đắc thoái. Nói tóm tắt, tất cả chúng sinh nếu tu hành đều nên được tuệ nhãn của Thánh. Nếu người không tu hành mà nhập nơi danh sắc thì đấy là chưa đắc thoái.

Hỏi: Làm sao nhận biết có chưa đắc thoái?

Đáp: Vì tin nơi lời Phật nói. Như Đức Thế Tôn nói: Chư thiên và người đời thoái chuyển về trí tuệ, là nhiễm chấp nơi danh sắc, không nhận thấy Thánh đế, tức Là tập hành kia thoái, Ba Thánh đều cũng vậy: Nghĩa là nếu người tập hành thoái, thì đó là Thanh văn, Phậtbích-chi và Như Lai, ba Thánh đều có, do các nhân duyên ở khoảng giữa nên các công đức đạt được, không thể thường hiện ở trước.

Hỏi: Làm sao nhận biết có tập hành thoái?

Đáp: Vì nói tâm tâm pháp thoái chuyển. Như Đức Thế Tôn nói: Bốn thứ tâm tâm pháp này là được trụ nơi hiện pháp lạc. Ta nói vị kia, mỗi mỗi thoái chuyển, như Tu-đa-la nói rõ.

Lại có ý nói: Ý không động, thân giải thoát, tác chứng, thành tựu diệu dụng, những thứ đó là không thoái chuyển. Do đấy nên biết Đức Thế Tôn cũng có tập hành thoái. Vì vậy nói: Đức Thế Tôn phần nhiều là hành diệu dụng vị chí, không phải là địa căn bản. Vì sao? Vì gần với cõi dục. Tuy ý không động, đạt giải thoát, có tập hành thoái, nhưng vì đã thành tựu tu đắc nên tất cả những thứ kia khi ở hiện tại đều luôn được tùy chuyển. Tâm tâm pháp kia là hiện tại tu, nghĩa là những gì không hiện ở trước đều gọi là thoái chuyển. Tập hành thoái nhiều nhất là Đức Thế Tôn. Vì sao? Vì công đức vô biên. Như Chuyển luân Thánh vương thọ nhận cảnh giới rộng lớn.

Lại nói: Vì thâu nhận người khác, nên gọi là không động, vì tự thâu nhận nên gọi là tâm tâm pháp. Đức Thế Tôn phần nhiều thâu nhận người khác, ít tự thâu nhận. Như vậy, Đức Thế Tôn là bậc Đại bi, Đại xả.

Hỏi: Nơi xứ nào không thoái?

Đáp:

Chư thiên thì không thoái

Quả thoái trọn không chết

Cũng không tạo nghiệp kia

Trụ nơi quả không làm.

Chư thiên thì không thoái: Nghĩa là chư thiên không thoái, vì trời là lợi căn, vì trời là được quả. Người lợi căn thì không thoái. Nếu người độn căn đạt được quả, sau đó sinh lên cõi trời cũng không thoái. Vì không sinh, Thánh nhân không sinh nên không thoái. Sự việc này trước đã nói. Vì vật dụng thoái đều không có phần. Đức Thế Tôn nói năm thứ thoái gồm đủ vật dụng do có nhiều hành nghiệp. Vì năm pháp thoái, chư thiên kia không có nên không thoái. Do trời không thoái, nên biết pháp thoái tất là trong loài người, do vật dụng thoái có thể đạt được.

Quả thoái trọn không chết: Nghĩa là người có quả thoái trọn không chết, phải trở lại đắc quả. Vì sao? Vì sinh ở địa dưới là phi số diệt. Pháp phi số diệt trọn không còn hiện ở trước, vì là pháp không sinh, vì đạo quyết định và quyết định rốt ráo đều thuộc về quả. Vì nơi chốn chết đi sống lại của đạo quả, nên người kia được chết rồi sống. Lại, vì quả nơi xứ thiện được tự giữ gìn, vì xứ sở của quả đủ ba nhân duyên và năm nhân duyên như trước đã nói.

Ba quả kia thoái, không phải là quả Tu-đà-hoàn, vì kiến đạo đoạn trừ phiền não không phải là sự đối trị. Kiến đạo đoạn trừ phiền não dựa vào xứ ngã chuyển nhưng không có ngã. Tu đạo đoạn trừ phiền não là sự đối trị. Tu đạo đoạn trừ phiền não là xứ tịnh chuyển. Vị kia có tưởng tịnh và tướng bất tịnh. Vị kia tư duy các hành bất tịnh, do tư duy tịnh nên được lìa dục. Đối với việc thấy bất tịnh thì thoái, tư duy không có pháp của ngã, ngã sở. Ở nơi phi ngã thì thấy thoái chuyển.

Lại nữa, quả Tu-đà-hoàn có phương tiện rộng, trước đã tu như thí, giới v.v… để hướng đến giải thoát, nên so sánh như vậy. Lại, quả Tu-đà-hoàn do kiến đạo đạt được, nên không có kiến đạo thoái chuyển, vì là đạo nhanh chóng, nhạy bén, vì đối trị xứ phi tưởng phi phi tưởng. Nếu quả A-la-hán thoái đến quả Tu-đà-hoàn, nên biết là thoái ba quả, do sự đối trị phiền não kia được thành tựu.

Cũng không tạo nghiệp kia, Trụ nơi quả không làm: Nghĩa là nếu người được quả không làm, thì người của quả thoái kia cũng không làm. Vì sao? Vì được luật nghi không tạo tác, vì Thánh đạo đã diệt hành ác, như đã từng uống thuốc. Lại nữa, vì hy vọng đầy đủ, vị kia hy vọng ở quả diệt, vì đối trị hành ác.

Hỏi: Đến mức nào nên nói là Bồ-tát?

Đáp:

Nếu tu các tướng tốt

Phương tiện khởi nghiệp kia

Từ đấy chuyển tăng tiến

Được gọi là Bồ-tát.

Nếu có chúng sinh, dùng một bữa ăn bố thí, khởi tâm quyết định, phát lời nói vô úy: “Ta sẽ làm Phật”, tức có thể khởi tướng báo, làm tăng trưởng nghiệp kia. Ngang bằng như vậy gọi là Bồ-tát, vì có thể từ đấy tạo nghiệp nối tiếp, tương tợ. Nếu không như vậy là chỉ có danh hiệu suông. Bồ-tát tuy có khởi tâm không thoái chuyển ngay từ lúc đầu, nhưng đấy là Bồ-đề quyết định, không phải là sự hướng tới quyết định. Nghĩa là tạo tướng nghiệp báo rồi tức đều cùng có quyết định. Thế nên được mang danh hiệu ngang đồng với nghiệp báo của tướng Phật, vì tướng của Phật lìa bốn nhân duyên, là lìa nẻo ác, lìa phi nam, lìa dòng họ thấp kém và lìa căn không đủ. Được một nhân duyên là sinh tánh nhận biết túc mạng. Do sinh ra nhận biết túc mạng, nên vừa nghe tức thì thọ trì, quyến thuộc tin nhận, lìa lỗi của chúng sinh, vượt qua ba A-tăng-kỳ kiếp, gieo trồng tướng nghiệp báo trong trăm kiếp, trừ Phật Thích Ca Mâu Ni, vì Thích Ca Mâu Ni là Bồ-tát tinh tấn, trừ chín kiếp, còn lại chín mươi mốt kiếp.

Có thuyết cho: Hai, ba A-tăng-kỳ, không phải là kiếp A-tăngkỳ, tức là kiếp A-tăng-kỳ là sinh A-tăng-kỳ và khéo hành A-tăng-kỳ.

Hỏi: Tướng nghiệp báo là những tánh nào?

Đáp: Thân nghiệp, khẩu nghiệp và ý nghiệp tăng thượng. Lại nữa, tánh của tư tuệ này không phải là văn tuệ, vì yếu kém. Cũng không phải là tu tuệ, vì cõi dục không nhất định. Là chủng loại của châu Diêm-phù-đề, không phải là phương khác, là người nam, không phải là người nữ. Đức Phật ra đời, không phải là không ra đời, thấy Phật không phải là không thấy Phật, là duyên tạo nghiệp, không phải duyên khác.

Có thuyết cho: Một tư nguyện, gieo trồng nghiệp của ba mươi hai tướng. Về sau vô số các thứ nghiệp viên mãn. Lại có thuyết nói:

Một tâm định, một hành, một duyên, phần nhiều là tư nguyện hiện ở trước, có nguyện dưới bàn chân được quả an bình trụ. Có nguyện cho đến nhục kế, mỗi mỗi tướng kia là quyến thuộc của trăm phước. Về lượng phước, có thuyết nói: Phước của một Chuyển luân Thánh vương đó gọi là lượng của một phước.

Lại nói: Phước của một Đế thích. Có thuyết lại cho: Lúc kiếp thành, nghiệp của tất cả chúng sinh tăng thượng, khí thế giới sinh khởi, đó gọi là lượng của phước. Có thuyết nêu: Trừ Bồ-tát gần với Phật địa, còn lại là các phước lạc tự tại nơi nghiệp của chúng sinh. Đó gọi là lượng của một phước. Pháp vô học của Phật là Bồ-đề, gọi là tận trí, vô sinh trí. Tát đỏa cầu trí này, nên gọi là Bồ-đề. Tát đỏa được Bồ-đề này là giác ngộ tất cả pháp, nên gọi là Phật. Tuy có tướng nghiệp báo, về sau được Chuyển Luân Thánh Vương, nhưng tướng của Thánh vương nên biết là nghiệp báo khác.

Hỏi: Có bao nhiêu thứ Tát-bà-đa?

Đáp:

Một thứ phân biệt khác

Hoặc có nói tướng khác

Hoặc nói phần phần khác

Hoặc lại nói khác khác.

Đây là bốn thứ Tát-bà-đa: Một thứ phân biệt khác: Nghĩa là thuyết kia nói lúc các pháp tùy theo thế gian chuyển, là phần khác, không phải sự khác. Như sữa biến thành lạc, là bỏ sức tạo lợi ích của vị không bỏ màu sắc. Như vật dụng bằng vàng bạc, hư rồi làm lại thứ khác, là bỏ hình dáng, không bỏ màu sắc. Pháp từ vị lai đến hiện tại cũng như thế. Nên biết, đây là Tát-bà-đa chuyển biến.

Tướng khác: Nghĩa là pháp quá khứ kết hợp với tướng quá khứ, không lìa tướng của vị lai, hiện tại. Như người đã vướng mắc một sắc, không phải là không vướng mắc sắc khác. Pháp kia cũng như vậy. Thuyết này có lỗi. Vì nếu các pháp của quá khứ không lìa tướng vị lai, hiện tại thì rốt cuộc chúng thành gì? Cũng thành nghĩa hợp. Nếu như vậy thì đời rối loạn. Như người vướng mắc một sắc, chỉ yêu thích gắn bó nơi một sắc đó nhưng cũng hành cũng thành tựu nơi sắc khác, thành tựu nhưng không hành. Thế nên thuyết kia chỉ khiến đời rối loạn, thí dụ cũng trái nhau.

Phần phần khác: Nghĩa là lúc các pháp tùy theo thế gian chuyển thì phần phần khác, không phải sự khác. Đây là kiến lập đời không rối loạn. Vì sao? Vì nghiệp riêng khác. Nghĩa là pháp chưa tạo nghiệp nói là vị lai, pháp đang tạo nghiệp nói là hiện tại, tạo nghiệp rồi nói là quá khứ.

Nói khác khác: Nghĩa là các pháp được nói kia, lúc tùy theo thế gian chuyển, trước sau đối đãi nhau, không phải sự khác, cũng không phải phần khác. Như một người nữ, cũng gọi là nữ, cũng gọi là mẹ. Vì thời gian trước sau đối đãi nhau, nghĩa là xem người nữ tức biết là mẹ, nhìn người mẹ thì biết là nữ. Đó là cách kiến lập đời rất là rối loạn, vì một sát-na của đời quá khứ có ba đời, nói là: Quán tướng khởi trước gọi là vị lai, quán tướng khởi sau gọi là hiện tại.

Hỏi: Các Sư nói về đế đẳng vô gián, mỗi mỗi đều khác. Bộ Tátbà-đa và bộ Bà-sa nói về đế đẳng vô gián theo thứ lớp. Đàm Vô Đắc thì nói một đẳng vô gián. Vậy đâu là thật?

Đáp: Nay nên dùng năm chi để nói như thật. Năm chi là tông, nhân, dụ, hợp, kết. Và nghĩa như nơi kệ sau:

Thứ lớp đẳng vô gián

Trí đế nơi tướng khác

Thấy bình không thấy áo

Thế nên kia cũng vậy.

Người tu hành trước là tu khổ đẳng vô gián, sau mới đến đạo.

Hỏi: Vì sao như vậy?

Đáp: Vì Trí đế nơi tướng khác. Trí của khổ, tập, diệt, đạo, mỗi trí đều có tướng khác, vì hành riêng biệt. Nếu hành là khổ trí, thì hành này không phải là trí khác. Nếu không như thế tức không có bốn trí được kiến lập, đế cũng có tướng khác. Sự bức bách kia là tướng khổ. Sự sinh khởi là tướng tập. Sự vắng lặng là tướng diệt. Sự xuất ly là tướng đạo. Không phải trí không khác, tướng khác, là một đẳng vô gián của đế.

Ví như lúc thấy bình thì không thấy áo, vì tướng của bình và áo khác nhau. Vì tướng khác nhau, nên thấy bình thì không thấy áo, thấy áo thì không thấy bình. Sự việc kia cũng như vậy. Đối với tướng khác của đế, lúc thấy khổ thì không thấy tướng khác, tất cả đều như vậy. Thế nên thứ lớp đẳng vô gián nói là một đẳng vô gián. Nghĩa là thuyết kia nói: Một đẳng vô gián đối với đế. Vì sao? Vì tin ở Thánh Hiền. Như Đức Thế Tôn nói: Tỳ-kheo đối với khổ không nghi, tập cũng không nghi, diệt, đạo cũng như thế. Như chiếc đèn, bốn sự việc cùng có tác động: Bình đựng dầu nóng lên, tim cháy, dầu cạn, phá tan bóng tối. Như vậy, một trí nhận biết khổ, cho đến tu đạo. Do vậy là một đẳng vô gián.

Thuyết kia nói: Trí đế nơi tướng khác là không đúng, vì một tướng, tất cả tuệ, một trí tướng đối với cảnh giới của tất cả pháp, làm nên hành vô ngã. Như Đức Thế Tôn nói: Tất cả pháp là vô ngã, người trí tuệ có thể thấy. Người trí tuệ kia, lúc nhàm chán khổ, đấy tức là đạo thanh tịnh, về tướng của đế cũng nói như vậy.

Thí dụ bình, áo có tướng khác, điều này cũng không đúng. Vì sao? Vì đẳng vô gián không có phần của tự tướng và cảnh giới của cộng tướng. Đẳng vô gián không phải là tự tướng, đó là tướng hư hoại của năm ấm như sắc v.v… (Tướng hư hoại tức là tướng vô thường). Cảnh giới chung là trí nơi một đẳng vô gián. Nếu khác là tự sinh khởi lỗi lầm. Nói thứ lớp vô gián, nghĩa là ông nói là lời của Hiền Thánh, đấy là mật ngữ. Thuyết này có nghĩa khác. Như Đức Thế Tôn nói: Nếu đối với khổ không nghi thì đối với tất cả đều không nghi, vì hành nghi kia nên mới nói. Nếu khổ kia là đẳng vô gián sinh, thì nghi kia rốt ráo không hành, vì là phi số diệt. Vì trừ có thuyết khác, nên Đức Thế Tôn nói trong Kinh Cấp Cô Độc như thế này: “Trưởng giả, đối với bốn Thánh đế theo thứ lớp là đẳng vô gián. Nói rộng như vậy”.

Đã nói như chiếc đèn, nghĩa là chiếc đèn có nhiều tánh, nhiều nghiệp dụng nên có lỗi. Tôi không chấp nhận sự việc của chiếc đèn. Vì nếu lúc phân biệt thì chiếc đèn đã bỏ tên của mình, như trước đã nói. Ánh sáng của đèn kia là thuộc sắc nhập, là sức có thể phá tan bóng tối. Sức nóng của đèn kia thuộc về xúc nhập, có thể làm nên sự việc khác. Nếu không như vậy là phá bỏ nghĩa quyết định. Tuệ thì không như vậy. Nếu nói là đồng thì có lỗi. Nếu nói một tướng thì điều này cũng không đúng, vì hành riêng lẻ. Hành vô thường nhưng trí khác. Khổ, không, vô ngã v.v… nơi hành trí cũng đều khác, theo như vậy để so sánh. Nếu không như thế thì không có môn giải thoát. Hành không hoại là môn giải thoát (Lìa quán gọi là hoại. Ba giải thoát vì quán khác nên không hoại).

Như ông nói, duyên nơi tất cả pháp làm nên hành vô ngã, vì quán tức khắc tất cả pháp. Đó là tư duy không định và tư duy phần định, hành đều duyên riêng nơi đế. Do vậy không nên nói, người tu hành kia lúc nhàm chán khổ tức là đạo thanh tịnh. Do không thể đem hành nhàm chán để duyên nơi diệt, đạo, vì diệt, đạo là sự việc đáng ưa thích. Tất cả duyên nghĩa là không chung nơi tất cả, vì trái nhau, do hành vô ngã chẳng tức là hành. Vì hành vô ngã này, nên tự tánh không tự quán xét, cũng không có hai tánh quyết định, cũng không quán tương ưng, vì cùng một hành, một duyên. Cũng không quán chung có chung, vì một quả, một quyết định.

Lại nói: Tất cả hành vô thường, nghĩa là cũng chẳng phải là hành vô thường, vì tạo diệt đẳng vô gián. Diệt nghĩa là thường còn, nên biết hành kia cách xa do hướng đến chân đế. Như đã nói, quán chúng sinh này nơi đêm dài sinh tử, đã tạo thành những hành ác của thân, miệng, ý, nói chúng sinh này tức là địa ngục và nẻo ác khác. Thật ra không phải người này tức là địa ngục, vì hướng đến địa ngục, nên nói người kia cũng như vậy.

Lại nữa, là không đẳng vô gián tức không phải là vô nguyện, vô tướng, vì cảnh giới của tất cả pháp kia không có, nên chớ nói là có lỗi. Vì thế hành vô ngã của tất cả pháp là tư duy không nhất định. Tư duy nhất định là duyên nơi hữu lậu. Nếu không như vậy thì môn giải thoát giảm. Nếu nói tự tướng đẳng vô gián là không phần thì không đúng. Vì sao? Là do quán. Tự tướng, cộng tướng này gọi là tướng bức bách, là tướng khổ. Vì quán ba đế là tự tướng, nên quán ấm là cộng tướng. Như vậy, tất cả nên biết, đều do quán nên nói tự tướng, cộng tướng. Nói không như vậy là không đúng. Vì sao? Vì quán không hoại như trước đã nói. Trung ấm ở trước đã nói, sau sẽ nói, nay nói.

Hỏi: Có trung ấm hay là không có?

Đáp:

Nên biết có trung ấm

Đức Thế Tôn đã nói

Ví như đường trong thôn

Kia tức có cùng qua.

Đây nói có trung ấm. Vì sao? Vì Đức Thế Tôn đã nói. Như Đức Thế Tôn nói: Bảy sĩ phu hướng đến có trung bát Niết-bàn. Nếu không có trung ấm thì không có trung bát Niết-bàn. Nếu nói có người chết yểu từ kia bát Niết-bàn là không đúng, vì trong cõi trời không nói đến. Đức Thế Tôn nơi Tu-đa-la nói: Trời Bốn Thiên vương cho đến xứ phi tưởng phi phi tưởng, đều không nói có kẻ chết yểu giữa chừng. Ngoài ra cũng có lỗi vì nếu nói sinh bát Niết-bàn thì còn có tên là sinh thiên chăng? Như vậy, tất cả A-na-hàm cũng nên có lỗi là nói như vậy. Thế nên thuyết kia là thuyết vọng tưởng. Nếu nói thọ mạng trung gian là bát Niết-bàn thì không đúng, vì trừ châu Uất-đơnviệt và Bồ-tát ở biên sau, đa số chúng sinh không hết thọ mạng mà chết, đấy đều là trung bát Niết-bàn chăng? Thế nên các thuyết này đều có lỗi.

Hỏi: Sự việc này là thế nào?

Đáp: Ví như đường trong thôn. Như từ một thôn đến một thôn. Như vậy, tử ấm, sinh ấm, thì từ tử ấm hướng đến sinh ấm cũng như thế. Như kinh A Thấp Ba La Diên nói: Như từ mỗi mỗi xứ kia đến. Nói rộng như thế.

Nếu không có trung ấm, thì không có việc đến đi. Do vậy nên có trung ấm. Nếu nói vì trừ Tu-đa-la nêu bày chưa trọn vẹn, Đức Thế Tôn nói Tu-đa-la và kệ: “Năm tội vô gián tạo rồi, tức theo thứ lớp sinh trong địa ngục Vô gián”.

Lại nữa, vì Phạm chí nên nói kệ: ”Trẻ vì già, bệnh, trôi dạt đến chốn Diêm vương”. Phạm chí không có trụ xứ, cũng không có của cải, lương thực, thế nên không có trung ấm, điều ấy là không đúng. Vì sao? Vì nghiệp hướng đến vô gián, nên nói Tu-đa-la và kệ. Tức nói: Tạo nghiệp vô gián rồi, tất trước thọ nhận báo vô gián, sau đấy là thọ nhận nghiệp báo khác, cũng tất sinh trong nẻo địa ngục, không phải nẻo khác.

Như ông đã giải thích, Đức Thế Tôn nói Tu-đa-la: Năm nghiệp vô gián tạo rồi, theo thứ lớp sinh trong địa ngục, là phải đủ năm nghiệp vô gián mới sinh trong địa ngục hay là chỉ hai, ba, bốn nghiệp? Hay còn tội khác, sinh trong địa ngục? Nên biết kinh này và ý của kệ. Nếu nói như ảnh: Nghĩa là mặt trăng rất xa, ảnh của mặt trăng hiện trong nước, không phải là mặt trăng kia đi đến trong nước. Như vậy, tử ấm, sinh ấm cũng như ảnh, chúng sinh sinh sống đâu cần gì đến trung ấm.

Điều này cũng không đúng. Vì sao? Vì những điều kia đều cùng có lỗi. Mặt trăng và nước đều cùng có. Tử ấm, sinh ấm không cùng có, thế nên có lỗi. Thí dụ dưới chân nhãn thức là thân thức cũng như vậy. Nếu trước đã nhận lấy sinh ấm mà bỏ tử ấm như loài trùng Chiết lâu là không đúng. Vì sao? Vì nẻo không riêng lẻ và hai thức kết hợp là có lỗi. Vì vậy nên nói có trung ấm, như đã nói ở bốn thứ Tát-bà-đa.

Hỏi: Tất cả hữu vi là có hay là không có?

Đáp:

Nên biết tất cả hữu

Chẳng có tất cả tướng

Tất cả không, tất cả

Không có pháp tướng khác.

Hữu này là Tát-bà-đa đã lập. Tất cả nghĩa là mười hai nhập. Các nhập kia đều có tự tướng, không phải là thứ khác. Tất cả tướng đã tạo đều riêng lẻ, tạo nên nghiệp riêng lẻ, như trước đã nói.

Tất cả không, tất cả: Nghĩa là trong pháp có pháp học, không có pháp vô học. Trong pháp vô học thì có pháp vô học, cũng không có pháp học. Như trong khoảng không cũng không có dấu vết. Nên so sánh như vậy.

Hỏi: Ở đây nói là có, còn thế nào là không có?

Đáp: Không có pháp tướng khác. Như tướng của mắt là nhãn nhập, không có tướng nhập khác, vì tướng riêng lẻ. Do đấy nên nói tất cả pháp không xen tạp.

Tất cả đời đều có

Không trái chỗ ứng hợp

Lời Mâu-ni đã nói

Tăng Thanh văn không Phật.

Có ba đời Tát-bà-đa. Đây là do Tát-bà-đa đã lập.

Hỏi: Vì sao nơi đời hiện tại là quán quá khứ, vị lai để đặt ra?

Đáp: Nếu không có quá khứ, vị lai tức không có đời hiện tại. Đời hiện tại không có, thì cũng không có pháp hữu vi, thế nên có ba đời. Đừng nói là có lỗi. Nếu nói thời gian lâu xa là quá khứ, sẽ có là vị lai, không phải là có, chỉ có hiện tại, điều này không đúng. Vì sao? Vì có nghiệp báo. Đức Thế Tôn nói có nghiệp, có báo, không phải nghiệp báo này, cùng có trong hiện tại. Nếu gây nghiệp ở hiện tại, nên biết báo ở nơi vị lai. Nếu chịu báo ở hiện tại, nên biết là nghiệp đã tạo trong quá khứ. Nếu nói theo tục số để nói, tức cũng nói có tác giả là không thể được. Nếu cho là theo tục số để nói là có nghiệp, có báo, điều này cũng không đúng. Đức Thế Tôn cũng nói có tác giả là không thể được. Thế đây cũng là theo tục số để nói chăng? Do miệng thần đã nói Tu-đa-la đệ nhất nghĩa không, nhưng ông vọng tưởng nói là đây có nên kia có. Nên so sánh như vậy.

Nên biết, như ông nói: Thời gian lâu xa là quá khứ, sẽ có là vị lai, tức không phải là có, chỉ hiện tại là có. Chớ nên nói như thế, tôi cũng có thể nói về hiện tại: Đối với sự việc đã qua là vị lai, đối với sự việc sẽ có là quá khứ. Điều này không phải là người trí nói.

Như đã nói, nếu không có năm căn như tín v.v… ta nói là chúng phàm phu. Nếu người học còn bị phiền não ràng buộc, nên năm căn như tín v.v… không hiện ở trước, vì đạo với phiền não không cùng hợp. Do vậy nên biết là có quá khứ, vị lai. Nếu nói khác thì Thánh nhân tức nên là phàm phu. Nếu nói chứng đắc là tùy nơi sinh, điều này cũng không đúng, do không có pháp chứng đắc, vì không có nơi chốn nương dựa.

Tăng Thanh văn không Phật: Nghĩa là Tăng Thanh văn không gồm thâu Phật. Vì sao? Vì ba ngôi báu không giảm. Nếu Đức Thế Tôn thuộc về Thanh văn, tức nên có hai ngôi báu, không phải là ba, vì Phật không có thể riêng. Quy y và tịnh không hoại, niệm v.v… cũng như vậy. Chớ nói là có lỗi, thế nên Tăng Thanh văn không gồm thâu Phật. Như Đức Thế Tôn đã nói trong Tu-đa-la: “Kiều-đàm-di! Bố thí cho Tăng cũng là cúng dường Ta”. Nên biết Tăng được Đức Phật nói ở đây là Tăng Tỳ-kheo, Thánh Tăng, Tăng phước điền, Đức Thế Tôn là thuộc về ba Tăng đó, vì đã phá trừ phiền não, vì là Thánh, vì là phước điền đệ nhất nghĩa, không phải là Tăng Thanh văn tự giác.

Như khiến chương cú rộng

Quần sinh rất sợ hãi

Tướng sâu không gì hơn

Tôi nay chỉ lược nói.

Nếu nói rộng, chúng sinh tất sợ hãi. Thế nên tôi nay không nói rộng. Vì câu chương sâu xa, A-tỳ-đàm sáng tịnh, trí tuệ đã lãnh hội. Đối với nghĩa vi diệu nơi âm thanh của các luận, ở đây xin lược nói.

Các Đại sư xa xưa

Diễn nói vô lượng nghĩa

Nay tôi theo chỗ hiểu

Phân biệt nói phần ít.

Đối với các pháp do Tôn giả Pháp Thắng thuyết giảng, tôi nay xin đem chút ít trí tuệ để suy nghĩ lường xét soạn tập, nhằm tạo lập chương cú, nêu thuật lại để giúp tuyên dương giáo pháp của Phật, không phải vì kiêu mạn, cầu được tiếng khen. Như Tôn giả Pháp Thắng đã nói: Nếu sinh các phiền não là Thánh nói, thì đạo hữu lậu diệt, cũng sinh phiền não, nhưng không phải hữu lậu tăng, vì phiền não không có. Vô lậu duyên nơi phiền não, chỉ có giảm, không tăng, như trước đã nói. Thế nên tôi nói là tăng. Vô lậu duyên nơi hạ trung thượng nói không tăng là không đúng, vì chỗ dựa tăng.

Quyết định biết luận này

Chương câu nghĩa vi diệu

Nơi chúng trí tuệ kia

Dũng mãnh không sợ hãi.

Đối với vị nghĩa nơi chương câu của luận này, người trí có thể quyết định khéo phân biệt để nêu bày. Nghĩa là không có tâm khiếp sợ ở trong các chúng trí tuệ, vì khéo hiểu rõ về pháp tướng.

Tôi nay luận tăng ích

Tâm này không chút tham

Vì khiến người trí thích

Chóng được vui Niết-bàn.

Nghĩa của Bản kinh nói rất tóm tắt nhưng sâu rộng, khó có thể thọ trì, như luận về hư không khó có thể nhận biết rõ, như trước đã nói. Thế nên Bản luận tăng ích tùy thuận nghĩa của Tu-đa-la, khiến dễ lãnh hội. Vì nhận biết nghĩa thì phiền não đoạn dứt.

 

Phẩm thứ 11: LUẬN

Đã nói xong phẩm Trạch, nay sẽ lược nói về các luận, khiến người trí vui thích.

Lìa luật, không luật nghi

Nhưng được nơi luật nghi

Không nhân kia hơn hẳn

Người quyết định nên nói.

Đáp: Có. Là lúc từ cõi vô sắc mất, sinh nơi cõi sắc. Phàm phu ở cõi vô sắc, gọi là phi luật nghi phi bất luật nghi, vì luật nghi thiện ác không có ở cõi vô sắc. Lúc từ cõi vô sắc kia mạng chung, sinh nơi cõi sắc thì được luật nghi thiện, vì luật nghi của cõi sắc đều cùng có với tâm, không phải thắng tấn, vì cõi vô sắc là cõi thù thắng.

Từng được quả Sa-môn

Hiền Thánh lìa các lỗi

Được pháp thiện hữu vi

Không gọi là tu tập.

Đáp: Có. Tức là Thánh đạo thuộc về quả. Diệt rồi về sau mới thoái chuyển. Căn không tiến thêm nhưng trở lại đạt được. Căn đó trước kia thuộc về quả của quá khứ, vì đạo diệt trước nên không phải tu, vì nhân của hiện tại không có.

Lìa các lỗi: Nghĩa là không phải thế tục.

Hữu vi: Nghĩa là không phải vô vi.

Thiện: Nghĩa là không phải bất thiện, vô ký.

Lúc đạo chưa hưng khởi

Xa lìa các lỗi lầm

Lúc giải thoát lìa ác

Người quyết định nên nói.

Đáp: Có. Nghĩa là người tu hành trụ nơi tam muội kim cang, trừ tận trí đầu tiên và các pháp vô học khác, là lúc chưa khởi, vì không hướng đến.

Lúc giải thoát: Nghĩa là khi tất cả đạo vô học giải thoát tức thì, tận trí đầu tiên sinh, lúc sinh này là lúc giải thoát.

Lìa các lỗi ác: Nghĩa là không phải hữu lậu.

Từng Quang Âm triền khởi

Là tương ưng định kia

Thiền một thanh tịnh thoái

Nhưng được nơi pháp thoái.

Đáp: Có. Đó là lúc A-la-hán ở nơi triền của thiền thứ hai thoái chuyển, tận trí đã được, nơi thiền thứ nhất thoái chuyển cùng với tận trí kết hợp. Có thoái chuyển nơi sự huân tu, vì thiền thứ nhất cùng với thiền thứ tư kết hợp. A-na-hàm cũng vậy. Nói tịnh là làm sáng tỏ chỗ thoái chuyển vì không phải vô học.

Từng nơi đạo kiến đế

Được các pháp thiện kia

Pháp ấy là có duyên

Thánh trí không thấy duyên.

Đáp: Có. Là đẳng trí của cõi dục cùng với khổ tỷ trí kết hợp và khổ đẳng vô gián biên tu, cũng không thấy trí kia duyên, vì trí ấy duyên nơi cõi dục, nhưng khổ tỷ trí thì không duyên nơi cõi dục. Tập, diệt đẳng vô gián biên cũng như vậy. Đạo tỷ nhẫn được duyên với trí của ba đế nhưng không quán đế ấy do trụ nơi cảnh giới khác. Như trụ nơi pháp học được pháp vô học, được pháp vô học không phải là pháp học. Như thế từ phẩm Pháp trí đến phẩm Tỷ trí, phẩm Tỷ trí lại đến phẩm Pháp trí.

Từng quả tuệ hữu lậu

Do tuệ vô lậu đoạn

Quả kia nơi nhân khởi

Là tuệ không lìa dục.

Đáp: Có. Là Thánh nhân lìa dục của cõi dục, chưa lìa dục của thiền thứ nhất. Tâm biến hóa của quả thiền thứ nhất cùng cõi dục đã lìa dục, vì ái của cõi dục đã hết. Tuệ của thiền thứ nhất chưa lìa dục, vì ái của thiền đó chưa hết. Tất cả tâm biến hóa cũng như vậy, theo nghĩa đó, trừ quả của địa mình.

Từng trụ đạo vô ngại

Nhưng được nơi các diệt

Phiền não cùng trái này

Không phải kiến vô lậu.

Đáp: Có. Là lúc người phàm phu tu thần thông. Đạo vô ngại đoạn trừ phiền não, thần thông cùng trái nhau nhưng được các diệt, không phải trái nhau nơi kiến vô lậu. Vì sao? Vì lúc Thánh nhân lìa dục thì pháp nhẫn hiện ở trước, vì đắc nhẫn là cùng trái với phiền não diệt.

Từng các phiền não diệt

Người lìa dục đạt được

Không đoạn nơi phiền não

Nhưng được toàn vô cấu.

Đáp: Có. Là lúc ở nơi địa trên mạng chung, sinh vào cõi Phạm thiên, được phiền não của cõi dục diệt nhưng không đoạn trừ phiền não đó, vì trước đã đoạn rồi. Tất cả địa khác cũng như vậy.

Từng địa tịnh vô cấu

Chưa từng được mà được

Không lìa dục, không thoái

Không dựa nơi kiến đạo.

Đáp: Có. Là thiền thứ nhất lìa dục, dựa vào thiền thứ nhất cùng quyến thuộc vượt lên đạt ly sinh. Đạo tỷ trí sinh khởi, thành tựu quả A-na-hàm của ba địa. Từ định kia khởi nhập thiền thứ hai, đạt được vô lậu của thiền thứ hai. Lúc được vô lậu của thiền này, không phải do lìa dục, vì trước đã lìa dục, không phải thoái vì thắng tấn, không phải kiến đạo, vì kiến đạo là rốt ráo. Nên biết địa trên và các căn tăng ích cũng như vậy.

Từng được chưa từng được

Nhưng được nơi tịch diệt

Không xả không được kia

Như bâc Năng Tri nói.

Đáp: Có. Tức là trừ quyến thuộc của khổ pháp nhẫn được, được đạo vô lậu khác, xả vô lậu ban đầu kia. Tất cả tánh phàm phu đều không được, những thứ khác không xả, vì trước đã xả.

Nếu thành tựu tám nhẫn

Cũng thành tựu bảy trí

Các kiến vô lậu này

Không thấy vô lậu nào.

Đáp: Có. Đó là nói người này trụ nơi đạo tỷ nhẫn, thành tựu tất cả tuệ của kiến đạo, thấy tất cả diệt, tất cả đạo, chỉ trừ quyến thuộc của đạo tỷ nhẫn. Nhẫn kia không thấy tự tánh, vì không tự quán, không có hai tánh, vì cũng không thấy tương ưng với một hành, một duyên, không thấy có chung một quả, một quyết định.

Từng có pháp chưa được

Cảnh giới bên hữu lậu

Chỉ có người không động

Hay kích động pháp thiện.

Đáp: Có. Là nói về vô tướng của vô tướng, ở nơi sinh tử không cùng, chưa từng được mà được. Vì Thánh đạo rỗng lặng, nên nói duyên nơi hữu lậu. Vì là phi số diệt, nên nói cảnh giới biên, ngoài ra là không có, nên nói chỉ không động, vì Thánh đạo rỗng lặng, nên nói đã kích động pháp thiện.

Đã khởi tuệ vô lậu

Nơi người chưa khởi kia

Đời trước không nhân sau

Như bâc Năng Tri nói.

Đáp: Có. Là sự tăng thêm trước, không phải là nhân kém sau, vì quả kia tương tợ và tăng thêm.

Từng lìa dục sáu địa

Thánh cũng thành quả kia

Không thành thiền vô lậu

Như bâc Năng Tri nói.

Đáp: Có. Là ở không xứ lìa dục, dựa vào thiền vị chí, vượt lên đạt ly sinh. Khổ pháp nhẫn sinh, đạo tỷ trí chưa sinh, do tám mươi chín quả Sa-môn, nên nói là thành tựu quả của địa kia. Vì khổ pháp trí là khổ pháp nhẫn nơi quả y và quả công dụng. Phiền não do kiến khổ đoạn đã hết, là quả giải thoát và quả công dụng, nhưng không thành tựu thiền vô lậu, vì chưa được.

Từng các pháp vô lậu

Nhưng là thuộc về quả

Người hay sinh pháp kia

Không nhập trong cõi ấy.

Đáp: Có. Tức là giới vô lậu, thuộc về cõi vô lậu kia, không phải thuộc về hữu lậu. Giới là do bốn đại tạo nên, là quả của bốn đại đó. Bốn đại là thuộc về cảnh giới xúc, vì là cảnh giới của thân thức.

Từng một đại chủng diệt

Nơi địa thiền không khởi

Hai đại chủng ở trước

Như bâc Năng Tri nói.

Đáp: Có. Là nói về Thánh nhân sinh nơi cõi dục và thiền thứ nhất vô lậu, theo thứ lớp thiền thứ nhất hữu lậu hiện ở trước. Một chủng bốn đại diệt, là bốn đại của cõi dục, do vô lậu tùy chuyển. Nếu ở nơi cõi dục kia sinh, hiện ở trước, tức là địa kia do bốn đại tạo. Hai thứ bốn đại hiện ở trước: Nghĩa là cõi dục và bốn đại của địa thiền thứ nhất. (Đạo cùng với giới gọi là vô lậu tùy chuyển. Nếu ở nơi cõi dục kia sinh, tức là bốn đại tạo cõi dục đó, nên bốn đại này cùng với vô lậu đều có sự khởi diệt).

Từng pháp nhân ba đạo

Là ba thứ tự tánh

Nói ba thứ một địa

Cũng lại ở ba địa.

Đáp: Có. Là tuệ vô học, lấy kiến đạo, tu đạo, đạo vô học kia làm nhân. Tận trí, vô sinh trí, đẳng kiến vô học là tự tánh. Vì phân biệt hạ trung thượng nên nói là ba thứ, vì thuộc về địa vô học nên nói là một địa. Có giác có quán đều phân biệt, nên ở nơi ba địa.

Từng có thọ hữu lậu

Hai thành, một không thành

Hai căn, hai chủng thành

Đây nói là thân chứng.

Đáp: Có. Tức là người Thân chứng, căn cứ vào thiền thứ nhất, quyến thuộc của thiền thứ nhất và căn thắng tấn của thiền thứ hai. Địa trên không hiện ở trước, thành tựu khổ căn, lạc căn hữu lậu. Người này trước đã được lạc căn vô lậu của địa thiền thứ ba. Do chuyển căn nên xả rồi chưa được trở lại, vì dựa vào căn thắng tấn của địa dưới nên không tu học đạo của địa trên. Như được một ưu căn của quả học không thành tựu, vì lìa dục. Hỷ căn, xả căn, mỗi căn đều có hai thứ, nghĩa là hữu lậu, vô lậu, tức đều thành tựu, do xả căn thuộc về thiền vị chí, thiền trung gian, thế nên được xả căn. Hỷ căn thuộc thiền thứ nhất, thiền thứ hai, vì vậy được hỷ căn.

Phiền não chín địa diệt

Nhưng được nơi các thiền

Không được định vô sắc

Hoặc lại được nên nói.

Đáp: Có. Là A-la-hán có thể được thiền định, không phải là vô sắc. Các thiền cũng được, cũng hiện ở trước. Vô sắc là thành tựu nhưng không hành.

Một pháp có nhiều tánh

Hoặc một, ba, có không

Đó là pháp vô học

Sức nhân đã nuôi lớn.

Đáp: Có. Là vô tri căn. Vì kiến lập một căn nên nói là một. Do chín căn hòa hợp nên nói là nhiều tánh. Do nhiều tánh nên nói không phải là một. Vì một địa vô học nên nói là một địa. Do giác quán phân biệt nên nói là ba địa. Có, nghĩa là có danh. Không, nghĩa là không có sự riêng. Vì vô học đắc nên nói là pháp vô học. Do ba nhân thành lập nên nói là nhân nuôi lớn.

Từng pháp là có phần

Cùng kia có phần khác

Sinh, trụ, hoại tương tợ

Như bâc Năng Tri nói.

Đáp: Có. Tức là sắc nhập thì có phần khác. Tướng của sắc kia cùng với nhập đều cùng có sinh, trụ, diệt, vì chung một quả. Sắc nhập: Nghĩa là không tạo nghiệp nên nói là có phần khác. Tướng sắc kia: Nghĩa là thuộc pháp nhập, nên là có nhập.

Từng các pháp tương ưng

Hoặc nói có phần khác

Hoặc lại nói có phần

Như bậc Năng Tri nói.

Đáp: Có. Nghĩa là pháp không sinh ở vị lai, ý nhập là có phần khác, do không tạo nghiệp. Tâm pháp khác là có phần, vì thuộc pháp nhập.

Từng hai A-na-hàm

Sinh chung nơi một địa

Pháp thứ nhất hoặc thành

Cùng đắc quả một địa.

Đáp: Có. Đó là một A-na-hàm, dựa vào thiền thứ hai, vượt lên đạt ly sinh. A-na-hàm thứ hai dựa vào thiền thứ ba. A-na-hàm kia mạng chung, đều cùng sinh nơi thiền thứ ba. Người A-na-hàm kia dựa vào thiền thứ hai, vượt lên đạt ly sinh, là vì thiền tăng tiến, bỏ pháp thế gian thứ nhất, tức dựa vào thiền thứ ba, nghĩa là thành tựu, không bỏ. Các địa trên cũng như vậy. Được quả của địa là thiền không giác, không quán.

Từng có pháp bất động

Cùng thọ nơi một hữu

Một thành tựu chín địa

Thiện hữu lậu một vô.

Đáp: Có. Nghĩa là một sinh nơi cõi dục, một sinh nơi thiền thứ nhất. Người sinh nơi cõi dục tức thành tựu pháp hữu lậu của chín địa. Người sinh nơi thiền thứ nhất có tám địa, trừ địa cõi dục. Tăng thêm và xả bỏ đều cùng thọ một hữu, nên nói là một hữu. Hữu lậu là do vô lậu sinh lên địa trên, thành tựu địa dưới, nên nói là hữu lậu.

Từng trụ một sát-na

Được, xả ba môn thoát

Hoặc lại xả nơi hai

Một xả trở lại được.

Đáp: Có. Là người sinh nơi cõi vô sắc, sẽ được A-la-hán, trụ nơi tam muội kim cang, được môn tam muội vô học, xả ba môn giải thoát học, xả định diệt thọ tưởng và xứ phi tưởng phi phi tưởng, xả tất cả phần thoái chuyển, được tất cả phần thắng tấn. (Vì trong một niệm cũng xả cũng được, nên nói là một niệm. Định diệt thọ tưởng và phi tưởng được đoạn trừ nhận biết nên nói xả hai. Xả phần thoái, được phần thắng nên nói xả một được một).

Từng thành quả Sa-môn

Thành tựu Thánh, phi Thánh

Nhưng không được đoạn biết

Như bậc Năng Tri nói.

Đáp: Có. Là đẳng vô gián, khổ trí sinh, tập trí chưa sinh. Bấy giờ, ở nơi tám mươi chín phần quả Sa-môn thì thành tựu, ở bốn quả Sa-môn thì không thành tựu, cũng không được đoạn trừ do nhận biết.

Qua biển vô thắng kia

Sức kém không kham được

Nay tôi theo khả năng

Tuyên thuyết nghĩa sâu diệu.

Người nghèo khổ thế gian

Có thể được giàu có

Không trí tức chẳng vậy

Nên cần phương tiện lớn.

Báu thế gian dễ được

Tuệ báu thật khó đạt

Do vậy phải siêng học

Nhập dần trí thâm diệu.

Hiểu đúng đường Niết-bàn

Nẻo tà hoặc sinh tử

Tuệ hay diệt si ám

Như mặt trời xua tối

Vì cầu đạt giải thoát

Dốc siêng tu trí tuệ.

Bài kệ trang nghiêm A-tỳ-đàm của Tỳ-kheo Tát-bà-đa, là nguyện khiến cho hết thảy chúng sinh, trí tuệ dần tăng, nhanh chóng được giải thoát.

HẾT – QUYỂN 11

Trang: 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11