LUẬN THI THIẾT
Hán dịch: Đời Triệu Tống, Đại sư Pháp Hộ – Duy Tịnh
Việt dịch: Cư sĩ Nguyên Huệ
QUYỂN 7
* Môn thứ 12: Thi Thiết Nhân trong Đại Luận Đối Pháp.
Như kinh nói: “Do một tánh tạo thành nhưng có nhiều chủng loại”. Nay xin hỏi: Do đâu có sự việc như thế?
Đáp: Nghĩa là như có Bí-sô dẫn khởi định thế gian, trước là được lìa dục, kế đến là không gian khổ, lại không tan mất. Do người ấy đã phát khởi, sinh trưởng, tích tập, về sau lại khởi việc biến hóa, hành tác thành thục, nên tùy theo ý muốn hoặc hóa ra thân người, hoặc hóa ra các thứ thân voi, ngựa, bò, thân loài chim bay, tướng xe cộ, cây cối, tường vách, hoặc các việc hiện đến đi, ra vào, lui tới đều tự tại. Do nhân ấy nên có sự việc như thế.
Như kinh nói: “Có nhiều chủng loại nhưng quy trở về một tánh”. Nay xin hỏi: Do đâu có sự việc như thế?
Đáp: Nghĩa là như có Bí-sô tùy theo các dung mạohình chất, sự tướng, hoặc hóa ra thân người, hoặc hóa ra thân voi, ngựa, trâu, bò, chim chóc, hoặc hóa ra tướng xe cộ, cây cối, tường vách, hoặc các việc đến, đi, ra vào v.v… Tùy theo các sự việc biến hóa ấy, công sức hành tạo đều nhẹ nhàng nhanh chóng. Các thứ hình tướng, sự việc do người kia dụng công biến hóa, đã hóa hiện rồi thì ẩn mất đều không hiện nữa. Do nhân ấy nên có sự việc như thế.
Như kinh nói: “Trong các thứ biến hóa như hiện đến, biến đi v.v…, tùy theo sự thấy biết, mỗi mỗi đều khác nhau”. Nay xin hỏi: Do đâu có sự việc như thế?
Đáp: Nghĩa là như có người muốn biến hóa tướng hiện đến, trước hết người ấy tự suy nghĩ: Làm thế nào khiến mọi người không thể thấy, ta, không thể nhận biết ta? Nghĩ như thế xong liền nhập định nhảy vụt lên, vượt qua tường vách theo ý mà đến. Đây là tướng hiện đến mọi người đều không thể thấy.
Thế nào là tướng biến đi mọi người không thể nhận biết? Nghĩa là như có người muốn hóa tác tướng biến đi, trước hết khởi suy nghĩ: Làm thế nào khiến mọi người không thể thấy ta, không thể nhận biết ta? Nghĩ như thế rồi liền nhập định, tức thì bay vụt lên, vượt qua tường vách, tùy ý biến đi. Do như thế nên tướng biến đi không ai thấy. Nghĩa là do ở trong định đã hóa ra tướng đến tức là tướng đi, đã hóa ra tướng đi tức là tướng đến. Thấy biết như thế, theo chỗ khởi hiện, mỗi mỗi đều có khác, mỗi mỗi đều biết rõ. Người trí nên tùy thuận ứng hợp. Nhờ tánh tuệ sáng nên ở trong không tướng sinh khởi có tướng, trí lợi rộng lớn, mở bày thông tỏ khắp. Do nhân ấy nên có sự việc như thế.
Như kinh nói: “Vượt qua tường vách, hay xuyên qua núi đá, thân không bị vướng mắc, tùy ý mà đi như nơi khoảng không”. Nay xin hỏi: Do đâu có sự việc như thế?
Đáp: Nghĩa là như có Bí-sô khi nhập định, không ở trong định đó bay vụt lên, vượt qua tường vách, núi đá, thân không hề vướng mắc, tùy ý mà đi như nơi khoảng không. Người ấy vượt qua tất cả tường vách, núi đá, cũng như giữa khoảng không đều không trở ngại.
Như kinh nói: “Có người có thể chui vào đất như vào trong nước, đi trên nước như đi trên đất”. Nay xin hỏi: Do đâu có sự việc như thế?
Đáp: Nghĩa là như có Bí-sô khi nhập định nước thì từ đất lên xuống, hiện ra, ẩn vào không có trở ngại. Như khi đi trong nước lên xuống cũng như vậy, không ngăn dòng nước chảy, tùy ý đi qua. Người nầy ở nơi đất như ở trong nước, đi trong nước như đi trên đất. Do nhân ấy nên có các sự việc như thế.
Như kinh nói: “Có người có thể ở trong không trung trước hết xếp bằng mà ngồi, tức ngồi mà đi, giống như chim bay, đi trong khoảng không tự tại”. Nay xin hỏi: Do đâu có sự việc như thế?
Đáp: Nghĩa là như có Bí-sô dẫn khởi định thế gian, trước là được lìa dục, kế đến là không gian khổ, lại không tan mất. Do người ấy đã phát khởi, sinh trưởng, chứa nhóm, về sau sinh ra sự việc biến hóa. Tùy ở địa phương, có thể ở giữa không trung, hoặc ngồi hoặc đi. Hoặc ở trong không trung hóa hiện ra đống lửa lớn bừng cháy sáng rực. Hoặc hóa ra khói mù. Hoặc hóa ra tướng cờ hiệu bằng khói. Hoặc hóa ra phong luân ở giữa không trung thổi động thúc giục. Hoặc ở trong phong luân cỡi voi mà đi. Hoặc hóa ra các thứ xe cộ, hoặc người, ngựa, tường vách, hoặc hóa hiện cây cối, chim chóc v.v… Theo các tướng hóa ra đó mọi người đều thấy, đều kinh sợ, cho là quái dị, mỗi mỗi đều hiểu biết rõ, là do sức thần thông nên có các hình dạng như thế. Đây là do khéo tu các trí lực thần túc. Do nhân ấy nên có các việc như thế.
Như kinh nói: “Hoặc có người có thể ở trong hư không đưa tay sờ chạm vào mặt trời, mặt trăng”. Nay xin hỏi: Do đâu có sự việc như thế?
Đáp: Nghĩa là như có Bí-sô đang ở trong định, do ánh mặt trời kia từ trong Nhật luân xuất, do ánh trăng kia từ trong Nguyệt luân xuất, nên từ trong định khởi hiện thần thông, tức đưa tay lên không trung sờ chạm mặt trời mặt trăng. Đó là sức thần thông của định, nên tùy ý vô ngại.
Như kinh nói: “Có người có thể qua lại nơi cõi trời Phạm thiên tùy ý tự tại”. Nay xin hỏi: Do đâu có sự việc như thế?
Đáp: Nghĩa là như có Bí-sô dẫn khởi định thế gian, trước được lìa dục, kế đến là không gian khổ, lại không tan mất. Do người ấy đã phát khởi, sinh trưởng, chứa nhóm, về sau lại khởi sự việc biến hóa, thân tâm hòa hợp dung kết làm một: Tâm tức là thân, thân tức là tâm, thân tâm tương tức, vận dụng hòa vào nhau. Ví như ở thế gian, các chất sữa mật, nước dầu hòa lẫn vào nhau thành một loại. Bí-sô khi ở trong định cũng lại như thế. Thân tâm hòa vào nhau, khinh an, nhu hòa, tâm tưởng tự tại, tùy ý có thể đi đến, trong cõi trời Phạm thiên, cao thấp cùng bay vượt đều không chướng ngại. Ví như người thợ chuyên đan sọt, làm giỏ, mọi hành tác đan, buộc được vận dụng tùy ý, không chút trở ngại.
Lại như Bí-sô khất thực, khi được các thức ăn để trong bát, tùy ý xới trộn cũng không chướng ngại. Bí-sô ở trong định cũng lại như thế. Thân tâm mềm dịu, tưởng khinh an sinh khởi, vận dụng uyển chuyển đều không chướng ngại. Cho đến cung điện nơi cõi Phạm thiên, chỉ dấy tâm liền đến nơi, sắc lực tăng thạnh, thế dụng mạnh mẽ, nơi cõi Phạm thiên qua lại tự tại.
Như kinh nói: “Vào một lúc nọ, Đức Phật nói với Tôn giả A-nan: Tôn giả có thể biết chăng? Ta đã dùng thân do ý tạo thành, dựa nơi sức thần thông, tùy ý có thể đi đến cung điện ở cõi Phạm thiên.
Tôn giả A-nan bạch Phật: Đúng vậy! Đúng vậy! Con biết rõ Đức Thế Tôn đã dùng sức thân thô nặng do bốn đại tạo thành tùy ý có thể đi đến cung điện nơi cõi Phạm thiên.
Đức Phật bảo: Nầy A-nan! Ta biết rõ sắc thân thô nặng như thế do bốn đại hòa hợp với các duyên như chất Yết-la-lam bất tịnh của cha mẹ v.v… để tạo thành, tuy phải nhờ vào vô số sự việc như ăn uống, y phục, tắm gội, nuôi dưỡng, chung quy vẫn bị hao mòn, hủy diệt, vì nó là pháp tan hoại, nhưng với sắc thân đó tức có thể đi đến cung điện nơi cõi Phạm thiên.
Tôn giả A-nan bạch Phật: Đức Thế Tôn có thể đi đến! Đức Thiện Thệ có thể đi đến!
Đức Phật bảo: Như chất sắt và vật dụng cày bừa nơi thế gian, khi đang ở trong lò đúc, lò rèn, lửa cháy hừng hực, chưa lấy ra khỏi lửa các vật dụng ấy đều nhẹ, mềm, dễ kéo dài ra hay đập ngắn lại. Nhưng khi gặp lạnh, hoặc đã nguội, các vật dụng đó trở nên nặng, cứng, khó rèn đập.
Nầy Tôn giả A-nan! Như Lai cũng lại như thế. Nếu khi thân tâm hòa hợp dung kết vào nhau, tưởng khinh an sinh khởi, lại thêm dịu dàng, điều thuận, an vui, nên tùy ý có thể đi đến cung điện nơi cõi Phạm thiên. Lại nữa, nên biết: Nếu tâm không nối tiếp tức tâm không nương dựa, tâm không hệ thuộc. Do tâm không nương dựa, không hệ thuộc nên thân tức tự tại”.
Hỏi: Do đâu hóa nhân được tạo ra có thể ở trong không trung tùy ý đi lại?
Đáp: Là do người biến hóa được tự tại, nên hóa nhân cũng như thế. Nhờ nơi sức biến hóa nên ở trên không cũng như ở trên mặt đất. Do nhân ấy nên có thể đi lại nơi hư không.
Hỏi: Do đâu hóa nhân có thể đứng yên giữa không trung?
Đáp: Là do người biến hóa được tự tại, nên hóa nhân cũng như thế. Nhờ nơi sức biến hóa nên ở trên không cũng như ở trên mặt đất. Do nhân ấy nên có thể đứng yên trên không.
Hỏi: Do đâu hóa nhân có thể ngồi yên trên không trung?
Đáp: Là do người biến hóa được tự tại, nên hóa nhân cũng như thế, tức ở trong hư không hóa tác phần vị an tọa. Do nhân ấy nên có thể ngồi yên trên không trung.
Hỏi: Do đâu hóa nhân có thể ở trong không trung sắp đặt giường tòa tùy ý nằm nghỉ?
Đáp: Là do người biến hóa được tự tại, nên hóa nhân cũng như thế, tức ở trong không trung sắp đặt giường tòa. Do nhân ấy nên có thể nằm nghỉ nơi không trung.
Theo như ở đây, các sự việc khác do sức thần thông tạo nên, như chỗ đã nói tùy ý nên biết.
*
* Môn thứ 13: Thi Thiết Nhân trong Đại Luận Đối Pháp.
Hỏi: Có phần lượng nào để nhận biết về trời mưa?
Đáp: Có tám loại mây để nhận biết về trời mưa: Loại mây thứ nhất cao một do-tuần rưỡi. Loại mây thứ hai cao năm câu-lô-xá. Loại mây thứ ba cao chừng một do-tuần. Loại mây thứ tư cao ba câu-lôxá. Loại mây thứ năm cao khoảng nửa do-tuần. Loại mây thứ sáu cao một câu-lô-xá. Loại mây thứ bảy cao nửa câu-lô-xá. Loại mây thứ tám cao một phần tư câu-lô-xá. Các đám mây ngừng rồi, trời mưa hay không lại không nhất định.
Hỏi: Do đâu người thời kiếp sơ cỡi mây bay cao một do-tuần rưỡi, thì hết thảy nơi đại địa đều có mưa?
Đáp: Người thời kiếp sơ có đủ oai đức lớn, các Long vương đại lực đều tôn kính ngưỡng mộ, cho nên khi họ có thể cỡi mây bay cao một do-tuần rưỡi thì khắp tất cả đại địa đều có trời mưa. Người thời nay oai đức giảm thiểu, Long vương đại lực không sinh tôn kính ngưỡng mộ, thế nên người thời nay cỡi mây chỉ có thể bay cao nửa câu-lô-xá thì trời mưa xuống. Do nhân ấy nên có sự việc như thế.
Hỏi: Do đâu hoặc có lúc trời không mưa?
Đáp: Có tám thứ nhân khiến trời không mưa:
1. Khi trời sắp mưa, ánh chớp sáng, sấm rền vang, gió lạnh từ bốn phương thổi động, khiến người dự đoán thời tiết không thể biết rõ, chỉ tự nói là trời sắp mưa. Hoặc do sức nóng trên đại địa tăng nhiều, tức do duyên ấy nên cơn mưa biến mất. Như thế gọi là nhân thứ nhất khiến trời không mưa.
2. Khi trời sắp mưa, ánh chớp sáng, sấm rền vang, gió lạnh từ bốn phương thổi động, khiến người dự đoán thời tiết không thể biết rõ, chỉ tự nói là trời sắp mưa. Hoặc lại trong không trung, cuồng phong thổi mạnh, khiến đám mưa ấy rơi xuống ở nơi rất xa, nơi các cánh đồng hoang vắng không có nhà cửa. Như thế gọi là nhân thứ hai khiến trời không mưa.
3. Khi trời sắp mưa, ánh chớp sáng, sấm rền vang, gió lạnh từ bốn phương thổi động, khiến người dự đoán thời tiết không thể biết rõ, chỉ tự nói là trời sắp mưa. Hoặc lại do vua A-tu-la La Hầu hai tay cầm vật ngăn che khiến mưa rơi xuống nơi biển cả. Như thế gọi là nhân thứ ba khiến trời không mưa.
4. Khi trời sắp mưa, ánh chớp sáng, sấm rền vang, gió lạnh từ bốn phương thổi động, khiến người dự đoán thời tiết không thể biết rõ, chỉ tự nói là trời sắp mưa. Hoặc lại khi trời mưa, thiên quan lại đang mê say buông lung. Do buông lung nên không thể điều hành mưa xuống được. Như thế gọi là nhân thứ tư khiến trời không mưa.
5. Khi trời sắp mưa, ánh chớp sáng, sấm rền vang, gió lạnh từ bốn phương thổi động, khiến người dự đoán thời tiết không thể biết rõ, chỉ tự nói là trời sắp mưa. Thời ấy, hoặc do dân chúng làm nhiều việc phi pháp, gây tạo các hành hiểm ác, do đấy nên trời không mưa. Như thế gọi là nhân thứ năm khiến trời không mưa.
6. Khi trời sắp mưa, hoặc có thiên tử gồm đủ thần thông, đã dùng oai lực của thần thông, tùy theo phần lượng cơn mưa đều ngăn chận hết. Như thế gọi là nhân thứ sáu khiến trời không mưa.
7. Do nghiệp chướng của dân chúng, pháp hợp như thế, nên ở trong cõi nầy trời không mưa xuống. Như thế gọi là nhân thứ bảy khiến trời không mưa.
8. Là mưa gió không đúng thời, phải nên thành khẩn cúng tế cầu đảo, do vì các thiên tử đã dùng oai lực của thần thông ngăn cản, không cho mưa xuống. Như thế gọi là nhân thứ tám khiến trời không mưa.
Hỏi: Do đâu có thể khiến trời mưa xuống đúng thời?
Đáp: Có tám thứ nhân khiến trời mưa xuống. Đó là:
1. Do oai lực của Long vương nên trời liền mưa xuống.
2. Do oai lực của Dạ-xoa nên trời liền mưa xuống.
3. Do oai lực của quỷ Cưu-bàn-trà nên trời liền mưa xuống.
4. Do oai lực của chư Thiên nên trời liền mưa xuống.
5. Do oai lực của loài người nên trời liền mưa xuống.
6. Do sức của thần thông nên trời liền mưa xuống.
7. Do đúng pháp đúng thời nên trời liền mưa xuống.
8. Do thành khẩn cúng tế cầu đảo nên trời liền mưa xuống.
Đó là tám nguyên do khiến trời mưa xuống.
Hỏi: Do đâu vào kùa hạ khí trời nóng bức và vào mùa mưa đều có mưa nhiều?
Đáp: Là do vào hai mùa ấy, các Long vương hoan hỷ, lại do thời tiết quy định, xui khiến, các rồng vui thích lượn múa nơi hư không cùng đến. Do các rồng vui thích nên vào hai mùa ấy có mưa nhiều. Hoặc lại do dân chúng bấy giờ hành theo chánh pháp, tu tập các nghiệp thiện, thiện lực hỗ trợ nên vào hai mùa đó có mưa nhiều.
Hỏi: Do đâu khi trời mưa kết thành giọt lớn?
Đáp: Là do gió hai phương thổi mạnh quy tụ vào một chỗ, nên khi mưa trút xuống thì kết lại thành giọt lớn. Hoặc lại do người tạo nhiều nghiệp ác, sức ác hỗ trợ khiến các loài phi nhân loạn động. Các tướng như thế thật không có nghĩa lợi. Do nhân ấy nên có sự việc như thế.
Hỏi: Do đâu khi mưa lớn lại có mưa đá?
Đáp: Là do gió lạnh hai phương thổi xoáy mưa vào một nơi, tạo nên các giọt mưa lớn rơi xuống đất, mặt đất lại quá cứng chắc, gió bên dưới thổi mạnh, nên có khi tạo thành tuyết, hoặc làm mưa dữ dội đổ xuống. Do nhân ấy nên có sự việc như thế.
Hỏi: Do đâu có ánh chớp hiện ra?
Đáp: Là do gió hai phương thổi mạnh dữ dội, gặp gió nóng thổi vào, hai thứ gió ấy chạm nhau nên ánh chớp từ gió hiện ra. Do nhân ấy nên có sự việc như thế.
Hỏi: Do đâu trong cơn mưa lại có sấm sét rền vang?
Đáp: Là do nơi phương dưới có sức lửa nóng dữ, hình dạng như ngọn lửa cháy sáng, tức là hỏa giới tăng mạnh. Hỏa giới tăng mạnh nên gió càng thêm mạnh. Do gió thêm mạnh nên có nước chảy qua lại. Do nhân ấy nên có sự việc như thế.
Hỏi: Do đâu mây có màu xanh?
Đáp: Là do tánh của thủy giới lưu động thấm nhuần.
Hỏi: Do đâu mây có màu vàng, màu đỏ?
Đáp: Là do tánh ấm, khổ của hỏa giới.
Hỏi: Do đâu mây có màu trắng?
Đáp: Là do tánh hòa hợp của các giới lửa, nước, gió v.v…, do đấy nên biết tướng mây có màu xanh, vàng, đỏ, trắng.
Hỏi: Do đâu ở thế gian có các vị đắng, chua, cay, mặn, lạt v.v…?
Đáp: Là do các giới cùng trái nghịch hại nhau. Do nhân ấy nên có sự việc như thế.
Hỏi: Do đâu có vị ngọt?
Đáp: Là do tánh hòa hợp của các giới lửa, nước, gió v.v…
Hỏi: Do đâu nơi thế gian, trong các vật có các thứ cứng rắn thô nặng?
Đáp: Là do tánh cứng chắc của địa giới.
Hỏi: Do đâu có sự mềm mại, điều thuận?
Đáp: Là do tánh lưu động thấm nhuần của thủy giới tăng mạnh.
Do nhân ấy nên có sự việc như thế.
HẾT – QUYỂN 7