LUẬN THI THIẾT
Hán dịch: Đời Triệu Tống, Đại sư Pháp Hộ – Duy Tịnh
Việt dịch: Cư sĩ Nguyên Huệ

 

QUYỂN 5

* Môn thứ 7, phần 2: Thi Thiết Nhân trong Đại Luận Đối Pháp.

Hỏi: Do đâu người chưa lìa dục, sau khi mạng chung gió bên trên thổi mạnh nhập vào thân. Người đã lìa dục sau khi qua đời không có gió bên trên thổi mạnh nhập vào thân?

Đáp: Người chưa lìa dục sau khi mạng chung tâm bên ngoài sinh khởi, trụ chấp, dong ruổi, gió thổi khiến mắt mở ra, tâm trí hiện bày khắp, gió ấy thổi mãi không dừng, thế nên nói gió bên trên thổi mạnh nhập vào thân người ấy. Người lìa dục sau khi mạng chung không sinh khởi tâm bên ngoài, trụ chấp, dong ruổi, nên không có gió thổi, mắt không mở nhắm, tâm không hiện bày khắp, nên gió kia liền ngưng, vì thế không có gió bên trên thổi mạnh nhập vào thân người ấy. Do nhân ấy nên có các việc như thế.

Hỏi: Do đâu khi con người còn sống thân thể nhẹ, mềm, lại thuận hợp, nhưng khi thân mạng đã diệt thì thân thể cứng, nặng, lại không thuận hợp?

Đáp: Do thân xác khi mạng chung, phần vị ở nơi biên vực, hai giới lửa và gió đều đã diệt, thế nên thân thể nặng, cứng, không thuận hợp. Còn khi đang sống, phần vị ở nơi trung gian, hai giới lửa và gió chưa mất, thế nên thân thể nhẹ, mềm, lại thuận hợp. Do nhân ấy nên có các việc như thế.

Hỏi: Do đâu khi con người còn sống hiện trụ nơi thế gian thì ăn uống tiêu hóa, nhưng khi đã qua đời thì thức ăn uống không tiêu hóa?

Đáp: Khi con người đang sống hiện trụ nơi thế gian, phần vị ở nơi trung gian, các giới lửa, nước, gió đều chưa mất, do giới nước lưu thông, thấm nhuần, giới lửa nung nóng, giới gió thổi động xô đẩy, cho nên các thức ăn uống đưa vào đều được tiêu hóa. Người ấy lúc qua đời, phần vị ở nơi biên vực, các giới lửa, nước, gió đều mất, nên thức ăn uống đưa vào, nước không lưu thông, thấm nhuần, lửa không nung nóng, gió không thổi động, nên chúng không thể tiêu hóa. Do nhân ấy nên có các việc như thế.

Hỏi: Do đâu khi con người còn sống hiện trụ nơi thế gian, thân không có khí uế tạp. Nhưng khi đã qua đời thì khí uế tạp hiện ra đầy ắp?

Đáp: Khi con người còn sống hiện trụ nơi thế gian, phần vị ở nơi trung gian, hai giới lửa và gió không mất, xuôi theo giới nước được tràn đầy, thế nên thân ấy không có các thứ khí uế tạp. Khi đã mạng chung, phần vị ở nơi biên vực, hai giới lửa và gió đều mất, không xuôi theo giới nước để được tràn đầy, thế nên nơi thân liền có khí uế tạp. Do nhân ấy nên có các việc như thế.

Hỏi: Do đâu khi con người còn sống hiện trụ nơi thế gian, thở ra hít vào luôn tùy chuyển. Nhưng khi qua đời, sự việc không còn như thế?

Đáp: Khi con người còn sống hiện trụ nơi thế gian, do luôn tư duy để hiểu biết, cần phải nương dựa nơi tư duy, phải hít vào thở ra thay nhau. Khi đã mạng chung không còn tư duy nữa, nên có sự việc như thế.

Hỏi: Do đâu loài chim cú ban đêm thấy, ban ngày không thấy?

Đáp: Do đồng tử trong mắt của loài chim cú ấy có dạng màu đỏ, đêm về không bị ngăn, ban ngày thì bị ngăn che, vì thế ban đêm thì thấy, ban ngày không thấy.

Hỏi: Do đâu con người có thể thấy nơi ban ngày, còn ban đêm không thấy?

Đáp: Do đồng tử trong mắt của con người hình dạng màu đen, ban ngày không bị chướng ngại, chỉ bị ngăn che vào ban đêm, thế nên ban ngày thì thấy, ban đêm không thấy.

Hỏi: Do đâu các loài chó, ngựa, ban đêm có thể thấy và ban ngày cũng thấy?

Đáp: Do đồng tử trong mắt của các loài chó, ngựa có màu vàng, nên đêm ngày đều không bị ngăn ngại, thế nên cả ngày lẫn đêm đều có thể thấy.

Hỏi: Do đâu loài cá thấy được trong nước, còn lên cạn thì không thấy?

Đáp: Do đồng tử trong mắt của loài cá bị ghèn và nước mắt che lấp, ở trong nước không bị trở ngại, khi lên cạn mới bị ngăn che, thế nên ở trong nước thì thấy, lên bờ thì không thấy.

Hỏi: Do đâu hai mắt của con người, nơi đất liền không bị chướng ngại, còn ở trong nước thì bị trở ngại?

Đáp: Do đồng tử trong mắt của con người do bọt nước tạo nên, vì thế ở trên cạn không bị trở ngại, còn ở trong nước thì bị chướng ngại.

Hỏi: Do đâu các loài rùa, ba ba, tôm, cua, ếch, nhái, đỉa nước

v.v… ở trong nước hay trên cạn đều thấy?

Đáp: Do đồng tử trong mắt của các loài nói trên do xương tạo thành, nên ở trong nước hay ở trên cạn đều không bị chướng ngại, do đó đều thấy.

*

* Môn thứ 8: Thi Thiết Nhân trong Đại Luận Đối Pháp.

Tụng nêu chung:

Ngủ nghỉ, bạo ác và trạo cử

Nhiều lưỡi nói năng và ám độn

Niệm tuệ nhưng phiền não lại tăng

Không được lợi hơn nơi thiền định.

Hỏi: Vì sao nơi thế gian có người ngủ nghỉ nhiều?

Đáp: Nghĩa là như có người luôn gần gũi hành tập nhiều nơi sự ngủ nghỉ. Người ngủ nghỉ nhiều đối với pháp sáng tỏ không thích gần gũi hành tác. Người ấy mạng chung nên nói như thế nào? Tức họ sẽ sinh nơi các loài trăn, rắn, rồng v.v… Do nhân ấy nên có các việc như thế.

Hỏi: Vì sao lại có người ít ngủ nghỉ?

Đáp: Nghĩa là như có người đối với pháp ánh sáng luôn tạo tưởng sáng tỏ lại thường gần gũi hành tập. Đối với các pháp hôn trầm ham ngủ nghỉ không thích gần gũi tạo tác. Người đó hoại diệt rồi nên nói như thế nào? Tức họ sẽ sinh làm các bậc Tiên nhân, những vị xuất gia, các vị Trưởng giả, hoặc được sinh lên các cõi trời thuộc Sắc giới, Vô sắc giới. Do nhân ấy nên có các việc như thế.

Hỏi: Do đâu có người bạo ác?

Đáp: Nghĩa là như có người luôn quen cầm nắm sử dụng các thứ, đao gậy binh khí hành bạo ác với mọi người, không thể gần gũi giao tiếp với người không bạo ác, không sử dụng các thứ đao gậy vũ khí. Người đó mạng chung nên nói như thế nào? Tức họ sẽ sinh làm kẻ đồ tể giết mổ trâu, dê, kẻ làm nem chả, kẻ săn bắt giăng lưới, kẻ huấn luyện voi ngựa, kẻ lo việc gông cùm trói cột, những kẻ không tuân theo luật pháp. Do nhân ấy nên có các việc như thế.

Hỏi: Do đâu có người không bạo ác?

Đáp: Nghĩa là như có người thường gần gũi hành tập không ưa sử dụng các loại đao gậy binh khí, không hành bạo ác với mọi người, những sự việc ác, dữ không hề gần gũi hành tác. Người nầy mạng diệt nên nói như thế nào? Tức họ sẽ sinh làm các bậc Tiên nhân, các vị xuất gia, các vị Trưởng giả, hoặc được sinh nơi cõi trời thuộc Sắc giới và Vô sắc giới. Do nhân ấy nên có các việc như vậy.

Hỏi: Do đâu có người trạo cử (lay động không yên)?

Đáp: Nghĩa là như có người thường gần gũi hành tập nhiều nơi sự trạo cử, không thể gần gũi hành tác các pháp yên lặng, thôi dứt. Người đó qua đời nên nói như thế nào? Tức họ sẽ sinh làm những kẻ ca múa, hát xướng, vui đùa, hoặc sinh lên các cõi trời thuộc Dục giới. Do nhân ấy nên có các việc như thế.

Hỏi: Do đâu có người không trạo cử?

Đáp: Nghĩa là như có người thường ưa gần gũi hành tập các pháp vắng lặng, yên tĩnh, ngưng dứt, không thích gần gũi các thứ náo động, không yên. Người ấy đến khi hoại diệt nên nói như thế nào? Tức sẽ sinh làm các bậc Tiên nhân, những vị xuất gia, các vị Trưởng giả, hoặc được sinh nơi các cõi trời thuộc Sắc giới và Vô sắc giới. Do nhân ấy nên có các việc như thế.

Hỏi: Do đâu nơi thế gian có người lắm lưỡi nhiều lời?

Đáp: Nghĩa là như có người thường gần gũi hành tập với kẻ nói nhiều, không thể gần gũi hành tác với những người thận trọng, ít nói. Người nầy đến khi hoại diệt nên nói như thế nào? Tức sẽ sinh nơi các loài chim bay như anh vũ, cò vạc, le le, Câu-chỉ-la, yến, nhạn v.v… Do nhân ấy nên có các việc như thế.

Hỏi: Do đâu nơi thế gian có người không lắm lưỡi nhiều lời?

Đáp: Nghĩa là như có người thường gần gũi hành tập với người điềm đạm, ít nói, không ưa thích gần gũi giao tiếp với kẻ nói nhiều. Người ấy đến khi hoại diệt nên nói như thế nào? Tức sẽ sinh làm các bậc Tiên nhân, các vị xuất gia, các vị Trưởng giả v.v…, và được sinh nơi các cõi trời thuộc Sắc giới và Vô sắc giới. Do nhân ấy nên có các việc như thế.

Hỏi: Do đâu nơi thế gian có người ám độn?

Đáp: Nghĩa là như có người không thể gần gũi hành tập với những bậc đa văn, hiếu học, không dùng các thứ ngôn ngữ của phương xứ để nêu giảng, giải thích nghĩa lý. Người ấy đến khi hoại diệt nên nói như thế nào? Tức sẽ sinh làm. Do nhân ấy nên có các việc như thế.

Hỏi: Do đâu nơi thế gian có người không ám độn?

Đáp: Nghĩa là như có người thường hay gần gũi giao tiếp hành tập với những bậc đa văn, hiểu biết rộng, không ưa gần gũi hành tác với kẻ ít học, ít hiểu biết. Lại có thể dùng các ngôn ngữ của nhiều phương xứ để nêu giảng, giải thích các nghĩa lý. Người nầy cho đến khi hoại diệt sẽ sinh làm những người khéo giảng nói pháp trong hàng Bà-la-môn, hoặc Sa-môn v.v… Do nhân ấy nên có các việc như thế.

Lại nữa, nên biết những người ít nói (có hiểu biết) có hai loại: Đó là kẻ thấp hèn và người tôn quý.

Thế nào là kẻ thấp hèn ít nói? Nghĩa là như có người tuy là nghèo hèn, nhưng do có trí, nên luôn có thể nương dựa nơi cha mẹ, sư trưởng có danh tiếng tôn quý, cùng các người có trí khác, nên tuy là kẻ thấp hèn nhưng có thể ít nói.

Thế nào là người tôn quý ít nói? Nghĩa là như có người bản tánh cao quý, lại có trí, thường có thể nương dựa nơi cha mẹ, sư trưởng có danh tiếng tôn quý, cùng những bậc có trí khác, cho nên gọi là người tôn quý ít nói.

Hỏi: Do đâu nơi thế gian có người có hành, không có tuệ?

Đáp: Nghĩa là như có người luôn tìm cầu học hỏi chánh pháp tâm không hề chán đủ, nhưng đối với các nghĩa lý sâu xa thì không thể suy xét, tìm hiểu. Do nhân ấy nên có các việc như thế.

Hỏi: Do đâu nơi thế gian có người có tuệ, không có hành?

Đáp: Nghĩa là như có người đối với nghĩa lý sâu xa của các pháp có thể suy xét tìm hiểu kỹ, đúng, nhưng đối với chánh pháp không thể tìm học nhiều, chỉ được một ít đã cho là đủ. Do nhân ấy nên có các việc như thế.

Hỏi: Do đâu nơi thế gian có người không có tuệ, cũng không có hành?

Đáp: Nghĩa là như có người không thể cầu học nhiều nơi chánh pháp, lại đối với nghĩa lý sâu xa của các pháp cũng không thể suy xét tìm hiểu. Do nhân ấy nên có các việc như thế.

Hỏi: Do đâu nơi thế gian có người có hành và có tuệ?

Đáp: Nghĩa là như có người thường cầu học chánh pháp, lại có thể quán xét tìm hiểu nghĩa lý sâu xa của các pháp. Do nhân ấy nên có các việc như thế.

Hỏi: Do đâu nơi thế gian có thể giữ vững chánh pháp?

Đáp: Nghĩa là như có người thường có thể nương dựa nơi hành tướng của các pháp, đối với mười hai xứ pháp luôn khéo thâu nhận giữ gìn. Do nhân ấy nên có các việc như thế.

Hỏi: Do đâu nơi thế gian có người mất niệm?

Đáp: Nghĩa là như có người đối với các pháp bất thiện luôn chứa nhóm tùy chuyển, gần gũi hành tác, tạo nhiều hành xấu ác.

Người nầy sau khi mạng chung bị đọa vào nẻo ác, sinh trong địa ngục. Khi đã hết kiếp ở địa ngục, giả như muốn được sinh trở lại nơi đồng phận của loài người, được làm người thì tuổi thọ ngắn ngủi, chết yểu, lại sinh làm người thì trí nhớ rất kém, luôn bị quên mất. Do nhân ấy nên có sự việc như thế.

Hỏi: Do đâu nơi thế gian có người ghi nhớ nhiều?

Đáp: Nghĩa là như có người đối với các pháp thiện luôn tích tụ tùy chuyển, luôn gần gũi hành tập, rộng tạo các hành thiện. Người nầy sau khi mạng chung được sinh vào các nẻo thiện, ở trên cõi trời. Khi thọ mạng nơi cõi trời đã hết, nếu muốn sinh trở lại nơi đồng phận của loài người, tức được làm người có tuổi thọ lâu dài, mạng chung, được sinh trở lại làm người thì có trí nhớ rất tốt, nhớ lâu, nhớ nhiều. Do nhân ấy nên có các việc như thế.

Hỏi: Do đâu nơi thế gian có người bị phiền não quá sâu dày?

Đáp: Nghĩa là như có người đối với các tưởng dục, sân, hại, đối với các nhân dục, sân, hại, cùng các tầm dục, sân, hại luôn gần gũi hành tác, nên ở trong chỗ phiền não sâu dày tùy thuận hợp chuyển. Do nhân ấy nên có các việc như thế.

Hỏi: Do đâu nơi thế gian có người không bị phiền não quá sâu dày?

Đáp: Nghĩa là như có người đối với các tưởng xuất ly, không sân, không hại, đối với các nhân xuất ly, không sân, không hại, cùng các tầm xuất ly, không sân, không hại luôn gần gũi hành tập tạo tác, nên đối với các phiền não sâu dày không tùy thuận hợp chuyển. Do nhân ấy nên có các việc như thế.

Hỏi: Do đâu nơi thế gian có người không thể nhanh chóng thành tựu hai pháp thiện thiền định, nhẫn nhục?

Đáp: Nghĩa là như có người đối với các nghĩa quyết định về hành tướng của các pháp không khéo thâu nhận, hành trì. Do nhân ấy nên không thể nhanh chóng thành tựu hai thứ pháp thiện thiền định, nhẫn nhục.

Hỏi: Do đâu nơi thế gian có người thành tựu nhanh chóng hai pháp thiện thiền định, nhẫn nhục?

Đáp: Nghĩa là như có người đối với nghĩa quyết định về hành tướng của các pháp có thể khéo thâu nhận, hành trì. Do nhân ấy nên có thể thành tựu nhanh chóng hai pháp thiện thiền định, nhẫn nhục.

*

* Môn thứ 9, phần 1: Thi Thiết Nhân trong Đại Luận Đối Pháp.

Tụng nêu chung:

Tu-di, đại địa cùng phương xứ

Núi có nhiều cây cỏ mọc khắp

Nhiều cây cùng rất nhiều cành lá

Hoa quả được mùa và tốt tươi.

Hỏi: Do đâu trong tất cả các núi, núi chúa Tu-di là tối cao tối thắng?

Đáp: Lúc thế giới mới thành lập, núi Tu-di ấy có địa giới tối thượng, chỗ ở, đường đi tối thượng, thù diệu tối thượng, chu vi tối thượng, tụ hợp chung nhiều phương xứ mà thành núi nầy. Do nhân ấy nên núi chúa Tu-di là tối cao tối thắng.

Hỏi: Do đâu nơi địa giới phương Bắc có nhiều cây cỏ nhất?

Đáp: Khi thế giới mới thành, gió thổi về mặt phía Bắc, nên địa giới ở đó là hơn hết, chỗ ở, đường đi là hơn hết, thù diệu hơn hết, tụ hợp chung các nơi chốn. Do nhân ấy nên phương Bắc có nhiều cây cỏ nhất.

Hỏi: Do đâu ở trong đại địa có chỗ đất cao, có nơi đất thấp?

Đáp: Trong đại địa nầy có một loại địa phương đất đai cao vọt, ít nhận được nước mưa, vì nước mưa chảy tràn xuống vùng trũng phá hoại ở dưới thấp, nên đất ở đấy thấp.

Lại, nơi đại địa nầy có một loại địa phương dưới mặt đất có nhiều vật báu như sắt, đồng, bạch lạp, hắc lạp, vàng, bạc v.v… cùng các vật cứng rắn khác nằm sâu trong đất. Tuy có trời mưa xối nước xuống, nhưng chỉ phá hoại phần dưới, nên đất ở đấy cao lên. Do các nhân ấy nên nơi đại địa có những chỗ đất cao hoặc thấp.

Hỏi: Do đâu trong số các núi, có loại núi cao, có loại núi thấp?

Đáp: Nghĩa là khi thế giới mới thành lập, có gió thổi rất mạnh làm tung đại chủng địa, rồi tụ hợp chung lại thành đống cao thành núi cao. Nếu gió thổi nhẹ thì chỉ tung ít địa chủng, gom tụ ít đất, nên thành đống nhỏ, đó là các núi thấp. Lại nữa, các nơi có núi cao vọt ít nhận được nước mưa, vì nước mưa chảy tràn xuống phá hủy các nơi thấp, nên núi ở đấy thấp. Lại có một loại núi trong ấy có nhiều vật báu như sắt, đồng, sáp trắng, sáp đen, vàng bạc và các vật cứng rắn khác nằm sâu trong đất, dưới núi. Tuy trời mưa xối nước xuống, nhưng đất ở đó không bị phá hủy, nên núi đó cao. Do các nhân ấy nên các phương xứ nơi đại địa núi có cao, thấp.

HẾT – QUYỂN 5

Pages: 1 2 3 4 5 6 7