LUẬN THI THIẾT
Hán dịch: Đời Triệu Tống, Đại sư Pháp Hộ – Duy Tịnh
Việt dịch: Cư sĩ Nguyên Huệ
QUYỂN 3
* Môn thứ 3, phần 2: Thi Thiết Nhân trong Đại Luận Đối Pháp.
Lại nữa, nầy A-nan! Khi Ta ra khỏi thai mẹ chưa bao lâu liền nhìn khắp bốn phương và suy nghĩ: “Ta sẽ thành bậc Như Lai Ứng Cúng Chánh Đẳng Chánh Giác, vì các chúng sinh diễn nói pháp bốn Thánh đế”. Đây là Bồ-tát hiện trước tướng điềm lành.
Lại nữa, nầy A-nan! Khi Ta ra khỏi thai mẹ chưa bao lâu, liền nói: “Ta nay thân nầy là đời sống sau cùng”. Khởi suy nghĩ: “Ta sẽ thành bậc Như Lai Ứng Cúng Chánh Đẳng Chánh Giác, tức vì tất cả chúng sinh giảng nói pháp dứt hết mọi biên vực sinh tử”. Đây là Bồtát hiện trước tướng điềm lành.
Lại nữa, nầy A-nan! Khi Ta ra khỏi thai mẹ chưa bao lâu, trên không trung tự nhiên mưa xuống các thứ hoa trời như hoa Ưu-bát-la, hoa Câu-mẫu-đà, hoa Bát-nạp-na, hoa Bôn-noa-lợi-già. Lại mưa xuống các thứ hương diệu như trầm thủy huân lục, chiên đàn hương bột, cùng tung rải hoa trời v.v… Khởi suy nghĩ: “Ta sẽ thành bậc Như Lai Ứng Cúng Chánh Đẳng Chánh Giác có đủ trí tuệ lớn, đủ phước đức lớn, các thứ thọ dụng như thức ăn uống, y phục, giường tòa, thuốc men v.v… thảy đều dồi dào”. Đây là Bồ-tát hiện trước tướng điềm lành.
Lại nữa, nầy A-nan! Khi Ta ra khỏi thai mẹ chưa bao lâu, trên không trung tự nhiên có âm nhạc trời cùng hòa tấu. Liền khởi suy nghĩ: “Ta sẽ thành bậc Như Lai Ứng Cúng Chánh Đẳng Chánh Giác, tiếng tăm vang khắp mười phương”.
Lại nữa, nầy A-nan! Ngày trước, lúc còn ở trong cung vua, Ta đã cùng các người trong cung ngồi chung ghế, nằm chung giường. Khi đó, Ta suy nghĩ: “Từ nay trở đi, Ta sẽ không còn nằm ngồi trên những thứ ấy nữa”. Nay Ta ngồi trên tòa nầy là lần cuối cùng. Nghĩ thế rồi, Ta liền đứng dậy đi về phía cửa cung, ý chí mong muốn được xuất ly. Bấy giờ, có các Thánh hiền ngầm mở cửa cung. Ra khỏi nơi nầy rồi, Ta lần lượt đi qua lớp lớp cung cấm, mỗi mỗi cửa cung đều có các bậc Thánh hiền mở giúp. Lúc ấy, Ta suy nghĩ: “Ta sẽ thành bậc Như Lai Ứng Cúng Chánh Đẳng Chánh Giác, vì khắp các chúng sinh mở rộng cửa cam lộ”. Đây là Bồ-tát hiện trước tướng điềm lành.
Lại nữa, nầy A-nan! Khi ấy, Ta cỡi ngựa chúa Ca-sai-ca ra khỏi hoàng thành đến một nước khác, liền xuống ngựa và suy nghĩ: “Đây là lần sau cùng Ta cỡi ngựa quý của vương cung”. Bấy giờ, mọi thứ vật dụng trang sức hiện có cùng ngựa chúa Ca-sai-ca Ta đều giao lại cho người hầu giữ ngựa. Ta suy nghĩ: “Đây là lần cuối cùng Ta mang các vật trang sức của thế gian. Thế là Ta liền bỏ xuống hết”. A-nan nên biết! Lúc đó Ta rút cây kiếm báu đẹp đẽ cắt ngang búi tóc trên đỉnh đầu. Cắt xong, Ta lại nghĩ: “Hôm nay là lần sau cùng Ta cắt đứt búi tóc quý giá nầy, nó không bao giờ mọc lại nữa”. Liền thấy một người mặc áo cà sa, dáng vẻ hiền lành, thấy vậy, Ta rất hoan hỷ, liền đến trước người ấy nói: “Nay Tôi cho ông chiếc áo Ca-thi-ca nầy, ông hãy đổi lại cho Tôi pháp y cà sa kia”. Lại suy nghĩ: “Đây là lần sau cùng Ta bỏ các thứ y phục của vương cung, chẳng còn mặc đồ thế tục nữa”.
Lại nữa, nầy A-nan! Về sau nầy, Ta đến chỗ ông Trưởng giả Kiết Tường, nhận bó cỏ kiết tường, rồi tới bên cội cây Bồ-đề tự trải cỏ ngồi kiết già, thân ngay ngắn, giữ chánh niệm, suy nghĩ: “Nếu Ta không chứng được đạo quả Chánh đẳng Chánh giác Vô thượng thì nguyện sẽ không rời bỏ tòa cỏ nầy”. Lại suy nghĩ: “Ta nay chắc chắn đạt được thiện lợi”. Vì sao? Vì tất cả chúng sinh đang ở trong chốn vô minh, chấp giữ vô minh, sống trong màng bọc vô minh, che ngăn mắt tuệ, Ta sẽ phá bỏ màng bọc vô minh ấy, khiến tất cả chúng sinh đều được an lành.
Lại nữa, nầy A-nan! Ta thành Phật chưa bao lâu, đã quán thấy rõ các sự sinh, già của chúng sinh trong thế gian nầy. Có kẻ căn tánh lanh lợi, có kẻ căn tánh trung bình, có kẻ căn tánh thấp kém. Đối với các chúng sinh căn tánh thấp kém, tùy theo hành tướng để điều phục hóa độ. Cho đến những kẻ các căn thiếu giảm không nghe chánh pháp, Ta đều quán xét thấy rõ, luôn khởi tâm đại bi, vì họ thuyết giảng chánh pháp để hóa độ.
Lại nữa, nầy A-nan! Ta lại suy nghĩ: “Ta nay nhất định đạt được thiện lợi”, vì Ta sinh ra trong thế gian tạp nhiễm, nhưng mọi nẻo hành nơi tâm ý Ta đều không bị cấu nhiễm.
*
* Môn thứ 4: Thi Thiết Nhân trong Đại Luận Đối Pháp.
Tụng nêu chung:
Như con, họ thấp kém, bần cùng
Nạn giặc, kiếp sơ, đến mười tuổi
Châu Ngưu hóa, Thắng thân, Câu lô
Vô ngã cùng cõi Dục, cõi Sắc
Phật từ định khởi nhập Niết-bàn
Sau cùng đại y không bị cháy.
Hỏi: Do đâu Bồ-tát là bậc tối thượng, tối thắng đối với tất cả chúng sinh, có người không phát tâm Đại Bồ-đề mà có thể chánh tín xuất gia?
Đáp: Bồ-tát trong mọi thời gian luôn xem tất cả chúng sinh cùng đồng như con, siêng tu nghiệp thiện, nuôi dưỡng trở nên thành thục, được quả báo thắng diệu hiện tiền thành tựu. Pháp là như thế.
Các chúng Bồ-tát nhiều như cát sông Hằng, chưa có ai không phát tâm Đại Bồ-đề mà có thể chánh tín xuất gia. Như điều đã nói tức là không nên thọ nhận.
Hỏi: Do đâu Bồ-tát không sinh nơi tộc họ thấp kém?
Đáp: Sinh nơi tộc họ thấp kém thì quen gần với tâm lười chậm. Bồ-tát trong mọi thời gian đều xa lìa các thứ lười chậm, gần gũi các pháp thiện, tu tập hành tác khắp. Thế nên Bồ-tát quyết định sinh trong tộc họ tôn quý. Lại, nếu Bồ-tát sinh ra từ tộc họ thấp kém tức sẽ bị hủy báng, chê bai.
Hỏi: Do đâu Bồ-tát không sinh nơi tộc họ bần cùng?
Đáp: Sinh nơi tộc họ bần cùng thì quen gần với tâm keo kiệt bỏn sẻn. Bồ-tát trong mọi thời gian luôn xa lìa các thứ cấu uế của keo kiệt, gần gũi tu tập, hành hóa rộng khắp pháp không keo kiệt bỏn sẻn. Thế nên Bồ-tát quyết định sinh trong tộc họ giàu sang. Nghĩa là do Bồ-tát đã đạt được các cảnh như sắc, thanh, hương, vị, xúc không phải trải qua gian khổ, mình, người đều bình đẳng thọ dụng. Lại, nếu Bồ-tát sinh từ nơi tộc họ bần cùng tất bị khinh chê.
Hỏi: Do đâu Bồ-tát không sinh vào các nơi chốn biên địa xa xôi, cùng những vùng nhiều giặc, nạn xấu ác?
Đáp: Nơi chốn biên địa xa xôi v.v…, tức đối với các thứ kiến thức và giới pháp đều rất khó đạt được, không tương đồng với hạnh của Bồ-tát. Vì Bồ-tát luôn siêng tu các pháp thiện, nuôi lớn, thành thục, nên các quả báo thắng diệu hiện tiền liền thành. Thế nên Bồ-tát quyết định sinh vào vùng giữa nước, rộng lớn, có nhiều thuận lợi. Ở đây giả sử có các chúng sinh lợi căn thanh tịnh gặp được Bồ-tát có oai đức lớn, nhưng những người nầy cũng không thể phát khởi các pháp thiện vô lậu tối thượng được, đó là những pháp Đáo bỉ ngạn, Bồ-đề Chánh đẳng Vô thượng, Bồ-đề Duyên giác, Bồ-đề Thanh văn, cùng các căn thiện vô lậu tối thượng khác.
Hỏi: Do đâu Bồ-tát không sinh vào thời kiếp sơ, ở đấy tuổi thọ của con người khởi đầu là tám vạn năm?
Đáp: Người ở thời kiếp sơ căn tánh thấp kém, hành tác có nhiều ngu tối chậm chạp, thuộc chủng loại chất phác không đồng với hạnh của Bồ-tát. Bồ-tát Đại sĩ có oai đức lớn, trong mọi thời gian luôn siêng tu các pháp thiện, nuôi lớn, thành thục. Giả như có chúng sinh căn tánh lanh lợi, thanh tịnh, gặp được Bồ-tát có oai đức lớn, nhưng cũng không thể phát khởi các pháp thiện vô lậu tối thượng được.
Hỏi: Do đâu Bồ-tát không sinh vào thời sau cùng lúc loài người có tuổi thọ là mười tuổi?
Đáp: Do vào lúc tuổi thọ của loài người còn mười tuổi, tức có rất nhiều nghiệp tội ác, rất nhiều phiền não, nên không đồng với hạnh của Bồ-tát. Thế nên Bồ-tát có oai đức lớn, không sinh vào thời kỳ loài người có tuổi thọ mười tuổi.
Hỏi: Do đâu Bồ-tát không sinh vào châu Tây Cù-đà-ni?
Đáp: Người ở châu Tây Cù-đà-ni căn tánh thuộc phẩm hạ, việc làm có nhiều ngu độn, thuộc chủng loại chất phác không đồng với hạnh của Bồ-tát. Do Bồ-tát Đại sĩ có oai đức lớn luôn siêng tu các pháp thiện, nuôi lớn, thành thục, nên các quả báo thắng diệu, hiện tiền liền thành. Thế nên Bồ-tát quyết định sinh nơi trung tâm cõi nước lớn. Ở đây giả sử có chúng sinh căn tánh lanh lợi thanh tịnh, gặp được Bồ-tát đủ oai đức lớn, nhưng cũng không thể phát khởi các pháp thiện vô lậu tối thượng, đó là các pháp Đáo bỉ ngạn, Bồ-đề Chánh đẳng Vô thượng, Bồ-đề Duyên giác, Bồ-đề Thanh văn, cùng các căn thiện vô lậu tối thượng khác.
Hỏi: Vì sao Bồ-tát không sinh nơi châu Đông Thắng thân?
Đáp: Như châu Tây Cù-đà-ni, các việc đã nói rộng.
Hỏi: Vì sao Bồ-tát không sinh nơi châu Bắc Câu-lô?
Đáp: Vì người ở châu Bắc Câu-lô căn tánh thuộc phẩm hạ, hành tác có nhiều ngu độn, thuộc chủng loại chất phác, theo đấy thường tạo các việc gian khó, không đồng với hạnh của Bồ-tát. Bồ-tát Đại sĩ có oai đức lớn, trong mọi thời gian luôn siêng tu pháp thiện, nuôi lớn, thành thục, nên nơi hiện tiền, các quả báo thắng diệu liền thành. Thế nên Bồ-tát quyết định sinh nơi trung tâm của cõi nước lớn. Ở đây giả sử có các chúng sinh lợi căn, thanh tịnh, gặp được Bồ-tát có oai đức lớn, nhưng họ cũng không thể đối với tất cả xứ phát khởi các căn thiện vô lậu tối thượng.
Lại nữa, người ở châu Bắc Câu-lô không có chấp về ngã sở.
Ở đây nên hỏi: Vì sao người ở châu Bắc Câu-lô không có chấp về ngã sở?
Đáp: Là do các chúng sinh đối với cảnh giới được thọ nhận đều là những cảnh giới rộng lớn, rất hợp ý, bình đẳng không sai biệt, nên không có ngã sở.
Hỏi: Vì sao Bồ-tát không sinh vào các cõi trời thuộc Dục giới?
Đáp: Vì nơi các cõi trời thuộc Dục giới, các chúng Thiên tử ở đấy tham đắm cảnh giới, ưa thích phóng dật, không đồng với hạnh của Bồ-tát. Tuy chư Thiên ấy có thể tu tập hành trì một phần ít phạm hạnh, nhưng không thể rộng làm bốn chúng như Tỳ-kheo, Tỳ-kheoni, Ưu-bà-tắc, Ưu-bà-di, diễn nói rộng khắp về phạm hạnh, khiến các hàng trời, người đều đạt được nhiều lợi ích. Do duyên ấy nên Bồ-tát không sinh vào các cõi trời thuộc Dục giới.
Hỏi: Vì sao Bồ-tát không sinh vào các cõi trời thuộc Sắc giới?
Đáp: Vì nơi các cõi trời thuộc Sắc giới, tuy các chúng Thiên tử có thể tu trì một phần ít phạm hạnh, nhưng cũng không thể rộng làm bốn chúng, mỗi mỗi chúng đều diễn giảng riêng các phạm hạnh, khiến hàng trời, người đạt được nhiều lợi ích.
Lại nữa, Bồ-tát không ở nơi các cõi trời thuộc Sắc giới, chứng nhập Niết-bàn.
Ở đây nên hỏi: Vì sao nơi các cõi trời thuộc Sắc giới, không nhập Niết-bàn?
Đáp: Nghĩa là tướng vô sắc là xứ chánh thọ, chỉ cần tác ý là chính thức nhập Niết-bàn.
Hỏi: Như các việc vừa nói, đó là tâm bất thiện nhập hay là tâm vô ký nhập?
Đáp: Nên biết, đây nói là tâm vô ký nhập.
Hỏi: Vì sao chư Phật, Thế Tôn trụ thế giáo hóa chúng sinh, nhưng chúng Đại Thanh văn hiền thượng lại nhập Niết-bàn trước, còn Phật thì nhập sau?
Đáp: Do các Thanh văn trong suốt thời gian dài, không gián đoạn, siêng tu các pháp thiện, nuôi lớn, thành thục, nên trong hiện tiền, các quả báo thắng diệu liền thành. Nếu thấy Phật Thế Tôn nhập Niết-bàn thì các Thanh văn kia nơi những thắng báo hiện có tức không thể thành tựu viên mãn. Lại nữa, pháp là như vậy. Hằng hà sa số chư Phật Thế Tôn hiện có bao nhiêu chúng Đại Thanh văn hiền thượng đều nhập Niết-bàn trước, còn chư Phật nhập sau.
Như đã nói về nhập Niết-bàn, chư Phật Thế Tôn ở trong địa Bất động của đệ tứ thiền là đã hiện tiền chứng nhập.
Ở đây nên hỏi: Vì sao Đức Thế Tôn nhập Niết-bàn hoặc lại khởi?
Đáp: Nếu có chỗ khởi tức không chỗ nhập.
Hỏi: Vì sao Đức Như Lai, Thế Tôn nhập Niết-bàn, Thánh thể đã được hỏa thiêu nhưng đại y vẫn như cũ, hoặc trong hoặc ngoài đều không hư tổn?
Đáp: Là do oai lực của chư Thiên. Nghĩa là chư Thiên đối với Đức Phật Thế Tôn sinh tâm tin tưởng thanh tịnh chí thành. Lại nữa, có hai thứ chế ngăn không thiêu đốt: Đó là ngoại thân và tài sản bên ngoài. Nên biết đây đều là thần lực của Phật.
*
* Môn thứ 5, phần 1: Thi Thiết Nhân trong Đại Luận Đối Pháp.
Tụng nêu chung:
Hai duyên, hai chúng kia xuất hiện
Thanh văn, ba ngàn đại thiên giới
Đại từ, đại bi hai thứ tâm
Chẳng nghĩ bàn cùng pháp tùy thuận
Hành tác sai biệt ở trong chúng
Như voi chúa trụ cùng địa ngục.
Hỏi: Vì sao Phật và Chuyển luân Thánh vương đều có đủ ba mươi hai tướng của bậc Đại trượng phu, một vị gọi là Như Lai Ứng Cúng Chánh Đẳng Chánh Giác, còn vị kia gọi là Chuyển Luân Thánh vương?
Đáp: Chuyển Luân Thánh vương là do từ xa xưa đã tu nhân tích đức, hành sự rộng lớn và trong thời gian dài thường khởi suy nghĩ: Ta nên hành bố thí rộng khắp, gieo trồng các phước thắng diệu, nuôi lớn tất cả chúng sinh, giữ giới hạnh thanh tịnh, thế gian tối tăm không nơi nương dựa, cứu giúp, ta sẽ cứu độ tất cả.
Còn Như Lai Ứng Cúng Chánh Đẳng Chánh Giác là tùy theo tất cả các pháp thiện đã hành tác, bố thí khắp cho hết thảy chúng sinh ở thế gian, phát nguyện rộng lớn, theo như nguyện thực hành, bỏ nhà xuất gia, chứng quả Đẳng chánh giác. Do nhân ấy nên cả Chuyển luân Thánh vương và Đức Như Lai Ứng Cúng Chánh Đẳng Chánh Giác đều có đầy đủ ba mươi hai tướng Đại trượng phu.
Hỏi: Vì sao Đức Phật cùng bậc Duyên giác ở trong một thời không cùng gặp nhau?
Đáp: Các chúng Duyên giác ở trong thời gian dài tu pháp Duyên giác, quả báo thắng diệu hiện tiền liền thành, không còn điều nguyện cầu, đối với pháp tối thượng không tùy thuận hành hóa, cũng không ưa thích gần gũi cung kính chiêm ngưỡng Đức Như Lai. Do nhân ấy Phật cùng Duyên giác không đồng thời xuất hiện.
Hỏi: Vì sao không đồng thời xuất hiện hai vị Chuyển luân Thánh vương?
Đáp: Chuyển luân Thánh vương do từ thời xa xưa đã tu nhân tích đức, hành sự rộng lớn. Nghĩa là trong thời gian dài, luôn siêng tu các pháp thiện, cùng một chiếc lọng vi diệu trùm khắp tất cả, một vị Chuyển luân Thánh vương quán hết thảy chúng sinh theo tưởng đồng là một con duy nhất. Một vị Luân vương xuất hiện đồng một cảnh giới, được tôn trọng cúng dường, theo chỗ ứng hợp hành tác tất cả các nghiệp thiện, quả báo của thắng nguyện hiện tiền thành tựu. Do nhân ấy nên hai vị Chuyển luân Thánh vương không đồng thời xuất hiện.
Hỏi: Vì sao hai Đức Phật Như Lai Ứng Cúng Chánh Đẳng Chánh Giác không cùng thời xuất hiện?
Đáp: Bồ-tát do từ thời xa xưa đã tu nhân tích đức, hành sự rộng lớn. Nghĩa là trong thời gian dài chỉ một thầy dạy, chỉ một loại tu tập, hành tác pháp thiện, theo chỗ hành hóa đồng một giải thoát, chỉ một bậc tôn quý, chỉ một đại trí tạo các nghiệp thiện, nuôi lớn, thành thục, ở trong một thời không có hai quả báo hiện tiền cùng khởi. Đây lại là thế nào? Vì hai cái khó cùng lúc xảy ra. Do nhân ấy nên ở trong một thời, không có hai Đức Phật Như Lai cùng xuất hiện.
Hỏi: Vì sao người nữ không làm Chuyển luân Thánh vương, không thành Đế thích hay Phạm vương, Ma vương, không chứng quả Bồ-đề Duyên giác, không chứng quả Bồ-đề Chánh đẳng Vô thượng?
Đáp: Vì các người nữ sức thiện yếu kém, còn người nam thì sự kiến lập các căn lực, sự vui thích, ưa muốn đều thắng thiện, do họ có tâm mong muốn sinh thiện rất mạnh mẽ. Người nữ không có uy lực mạnh, đều là nhân nơi nghiệp thiện của người nam để làm.
Lại nữa, người nữ không có nhiều hạng thuộc lợi căn, chỉ nhờ vào sức thiện của người nam mới thành. Lại, sức thiện của người nam luôn tăng thượng tột bậc, nên có thể đạt được lợi căn nơi thắng nghiệp. Do nhân như thế nên người nữ không làm Chuyển luân Thánh vương, không thành Đế thích, Phạm vương, Ma vương, không chứng được Bồ-đề Duyên giác, không thể chứng quả Bồ-đề Chánh đẳng Vô thượng.
Hỏi: Vì sao chư Phật Thế Tôn có đầy đủ trí vô biên, đầy đủ tuệ vô biên và đầy đủ biện tài vô biên?
Đáp: Vì Bồ-tát trong thời gian dài đối với ba thứ tuệ đó luôn gần gũi tu tập, hành tác rộng khắp. Nghĩa là đối với ba tuệ do Văn, Tư, Tu tạo thành luôn siêng gắng tu tập tăng thượng mạnh mẽ. Do nhân như thế nên chư Phật Thế Tôn có đủ trí tuệ vô biên, biện tài vô biên.
Hỏi: Vì sao chư Phật Thế Tôn phát ra âm thanh vi diệu thanh tịnh, khiến khắp Tam thiên đại thiên thế giới đều nghe, đều khiến hiểu rõ?
Đáp: Do Phật Thế Tôn thành đạo chưa lâu đã trụ nơi cảnh giới phạm hạnh thanh tịnh, khiến tất cả những ai thường gần gũi được nghe liền giải thoát.
Tụng nêu:
An trụ trong chánh giáo chư Phật
Phát khởi tinh tấn cầu xuất ly
Quân sức lớn phá tan sinh tử
Cũng như voi mạnh nơi nhà cỏ.
Nay chánh pháp luật thanh tịnh nầy
Tâm không phóng dật hành tác thiện
Tức hay đoạn dứt vòng sinh tử
Nên hết biên vực tất cả khổ.
Câu tụng như thế, nơi mỗi mỗi thế giới, mỗi mỗi chúng sinh đều được nghe khắp, hiểu rõ phân minh. Đó là diệu âm thanh tịnh của Như Lai nơi Tam thiên đại thiên thế giới đều nghe khắp.
HẾT – QUYỂN 3