LUẬN KINH ĐẠI BẢO TÍCH
Tác giả: Bồ tát An Tuệ
Hán dịch: Đời Nguyên Ngụy, Đại sư Bồ Đề Lưu Chi
Việt dịch: Cư sĩ Nguyên Huệ

 

QUYỂN 3

Không thấy ngã làm sao giải thích thành người vô ngã? Chỉ rõ do một tướng mà nhận biết. Ở đây, vì có sự nhận biết này, nên nói không thường xuyên quán biết trở lại trong ba thứ sự việc kia. Phàm phu chấp giữ chỗ sinh khởi là do thường không nhận thấy. Phàm phu đã chấp là tự cùng thấy khác.

Ấm v.v… là vô thường làm thế nào giải thích về pháp không? Chỉ rõ cũng do một tướng nhưng không nhận biết, nên nói là chẳng quán vô thường. Nhận biết trong đó có sự không hiểu rõ, nên trở lại nơi nẻo vô thường trong sự việc kia, cả nội ngoại và và hai trung gian. Phàm p hu này đã chấp giữ vào tánh của thể tướng giả nói mà không thể nhận biết. Biết được vô thường nhưng nếu đã chấp, nên ở trong sự việc không thể nói, chỉ an lập tạm thời. Như vậy làm sao giải thích nói pháp là vô ngã? Chỉ rõ do một tướng để nhận biết. Ở đây, có sự nhận biết rõ ấy, nên trở lại trong sự việc kia, đã thấy biết cảnh giới của Thánh trí. Chỉ có bậc Thánh tự nội chứng biết, người khác không thể nêu bày.

Sự nhận biết ấy có sáu thứ tướng. Như phàm phu đã chấp lấy cái giả thấy nên nói tánh không tương tợ. Những gì là sáu thứ tướng? Đó là:

1. Không phải sắc là tự lường xét, chỉ ra chỗ sai lầm, vì không thể thủ đắc để nêu bày.

2. Đấy là những thứ không thể thấy. Là do sắc kia không thể nắm bắt được.

3. Chỉ rõ cái khác không trụ, nghĩa là vượt quá cảnh giới của sắc căn. Các căn như xứ, sắc kia v.v… là không thể trụ.

4. Vô tướng là lìa mọi nhớ nghĩ về tánh tướng.

5. Vô ký là lìa bỏ cảnh giới của ý thức.

6. Không vướng mắc là không có sự phiền não.

Làm thế nào để giải thích xác nhận sự chấp giữ sai lạc về biên có? Chỉ rõ có hai thứ thắng tướng đang nói, cùng chỉ rõ tướng của thể tánh đó đang được nói đến.

Ở đây, thế nào là tánh tướng thù thắng đang nói? Chúng càng lên trên đều có tám thứ nên biết. Tức trở lại trong sự việc kia: Chấp thật về thường. Chấp thật về vô thường.

Dựa nơi chấp thật về thường, nên chấp thật về có ngã thủ. Dựa nơi chấp vô thường nên chấp có ngã không ngã. Lại dựa nơi chấp không ngã thủ, nên chấp có giữ lấy tâm thật, lớn. Dựa nơi chấp có ngã, nên chấp nói không giữ lấy tâm thật. Chỗ dựa của chúng là cầu tìm, lại cũng cầu tìm. Do dựa nơi chấp, nên cùng dựa vào đấy, cùng thuận theo chỗ dựa, giữ lấy tâm không thật, nên chỗ chấp giữ là bất thiện. Các thứ chấp trước, cho đến giữ lấy cấu nhiễm, chấp tướng có năm thứ lo lắng, gây chướng ngại. Ở trong pháp nhiễm, có lo lắng của điên đảo, lo lắng của sự hủy báng, lo lắng của sự phát khởi, lo lắng của thô ác, lo lắng của vô thường. Dựa nơi sự chấp giữ tâm thật, để đối trị chúng, nên ở trong pháp tịnh tạo được sự an định tốt đẹp, cho đến sự an tịnh có được do thanh tịnh. Đây là thành tựu tám thứ an định thù thắng.

Trong tám thứ an định thù thắng này, Bồ-tát không nhận biết nhớ nghĩ tùy thuận, không chấp trước, không nói đến sự tùy thuận, không khuyên bảo người khác, không tỏ ngộ sự tùy thuận, không động loạn người khác.

Ở đây, nắm giữ sự an định chân thật, như trên đã nêu rõ. Dựa vào tám thứ an định thù thắng, hàng phàm phu đã buộc niệm nơi tánh gia dụng, giữ lấy sự an định cho là có an ổn như thế.

Thế nào là loại bỏ sự hủy báng về biên? Là cũng do một tướng chỉ rõ có việc hủy báng.

Ở đây có sự hủy báng, tức như kẻ kia tin theo pháp tà, giữ lấy vô ngã trong mọi lúc, nên nói không có tướng của tất cả pháp là theo nghĩa ấy. Đó là lược nói về sự chấp sai lầm hủy báng về biên.

Lìa sáu thứ tướng: Là làm rõ về nghĩa trung đạo.

Thế nào là giải thích, xác nhận sự việc chứng đắc các pháp? Như kinh nói: Này Ca-diếp! Minh và vô minh đều không riêng, không khác.

Nhận biết như thế thì đó gọi là chánh quán chân thật của trung đạo, cho đến già, chết, diệt mất đều là không hai, không khác v.v… Có ba thứ tướng để giải thích nói về việc chứng pháp, trở lại trong phần gốc kia nói ba thứ sự cùng sự việc của nhân duyên thứ tư, trong đó có chướng ngại, có đối trị, trụ vào pháp hữu vi, vô vi, chỉ rõ tánh tướng đều không thể thủ đắc, nên chỉ rõ sự việc thù thắng cũng không thể thủ đắc. Nhưng sự hành tập đó đã chứng được trí như thật.

Ở đây, tánh tướng không thể thủ đắc: Là như phàm phu chấp giữ tánh tướng của minh và vô minh, đều không thể thủ đắc.

Sự việc thù thắng không thể thủ đắc: Là hết thảy hàng phàm phu kia chấp giữ sai lạc về tánh tướng sinh diệt, tụ tập mà không thấy hai tướng.

Trí chứng đắc: Là đã nói đến trí ấy cũng như nơi chốn nương dựa, nghĩ nhớ, không nhớ nghĩ, cùng hành không chướng ngại. Do nội trí nên biết pháp chứng đắc là vô ngã.

Thế nào là giải thích pháp Bồ-tát chứng đắc? Vì phát nguyện hồi hướng Đại Bồ-đề nên cũng là một tướng. Như nói chẳng phải do không nên khiến các pháp là không. Bảy câu như thế v.v… đã nêu rõ. Bồ-tát vì tạo lợi ích cho chúng sinh, đem lý không nhưng không khiến các pháp trở nên không, không rời bỏ phiền não, nghĩa đó là như thế. Không đem vô nguyện để khiến các pháp thành vô nguyện. Không đem vô tướng để khiến các pháp thành vô tướng. Không hiện khởi lại dòng chảy của nghiệp sinh cùng dòng chảy của niệm sinh. Hết thảy các hành đều vô tánh, đem Niết-bàn chấm dứt dòng chảy của thế gian.

Thế nào là đã hành như vậy? Là giải thích xác nhận sự việc của tâm chưa lìa khỏi phiền não khổ, cũng là do nghĩa của một tướng. Nói như các pháp là có tánh, không tánh, bảy câu như thế v.v… đã nói rõ là chưa diệt trừ được các pháp oán đối chướng ngại v.v… Quán chứng như thật, ở đây chứng như thật là trở lại nơi các pháp chướng ngại kia, do thể tánh hành pháp vô ngã, nên thấy không còn nhiễm và khổ.

Làm thế nào để giải thích chỗ hơn hẳn nơi bốn thứ tướng? Tức chỉ rõ tướng thấy hơn hẳn. Chỉ rõ trở lại xa lìa tướng hơn hẳn kia. Chỉ rõ phần loạn hơn hẳn làm mất thiền định. Chỉ rõ tâm loạn hơn hẳn.

Ở đây thấy hơn hẳn, như kinh nói: Này Ca-diếp! Chẳng phải là không có người nên gọi là không, cho đến khoảng giữa cũng không. Không phải chỉ vì không thấy người nên nói là không. Nghĩa đó là sao? Trụ nơi chúng sinh không, không thấy pháp không, chỉ là tự thể của pháp là không. Đời vị lai, ở trong Niết-bàn đoạn trừ tâm kiêu mạn, khéo quán đối tượng được giữ lấy cho đến chủ thể giữ lấy hành trí vô ngã, lìa giả danh thuộc về tánh không. Không khéo quan sát ba thời quá khứ, hiện tại, vị lai, nên gọi là không chánh quán về cảnh giới của trí chân như, nên kiêu mạn, vọng chấp giữ pháp vốn là không, là giả danh.

Nói dựa vào không, không dựa vào pháp vì vô ngã, chân thật là không. Pháp ấy do không diệt trừ gốc nơi đối tượng giữ lấy là chúng sinh không cùng có giữ lấy pháp sinh, nên gọi là tướng thoái mất. Bồ-tát đối với pháp ấy không như thế. Do nghĩa đó nên đã hiển bày chỗ thù thắng, nói hành của Bồ-tát là pháp vô ngã. Đức Phật nói với Ca-diếp: Các ông phải nương dựa nơi không, cho đến ở trong pháp Phật tức bị thoái mất.

Ở đây có sự xa lìa trụ nơi hơn hẳn trong chúng sinh vô ngã. Từ ngã kiến là do ở trong hàng phàm phu thấp nhất chuyển biến. Thấp nhất có hai thứ tướng:

  1. Không tránh khỏi khổ.
  2. Hành khổ.

Đó là hai tướng. Đức Phật nói với Ca-diếp: Thà khởi chúng sinh kiến tích tụ như núi Tu-di, không vì không kiến mà khởi tăng thượng mạn. Vì sao? Này Ca-diếp! Vì tất cả các kiến chấp đều do không mà được giải thoát. Nếu khởi không kiến thì kẻ ấy là không thể đối trị. Phần văn này chỉ rõ về nghĩa kia.

Thà khởi ngã kiến tích tụ như núi Tu-di: Nghĩa là ngã kiến ấy có thể đối trị, có thể khiến được diệt trừ.

Không vì không kiến mà khởi tăng thượng mạn: Là do không thấy pháp vô ngã, nên khởi tăng thượng mạn. Nên biết, ngã là không nên thấy các hành đều không. Vọng tưởng chấp tánh không cũng là không, vì không thể thủ đắc. Thể không và chấp sai lạc để phân biệt tánh không rồi tạo sự an ổn sai lạc nơi xứ điên đảo. Do an ổn sai lạc giữ lấy kiến đó mà thành không kiến.

Nếu khởi không kiến thì kẻ ấy không còn có thể đối trị, nên không thể nắm giữ. Nên biết, do không thể nắm giữ nên không tránh khỏi các khổ như sinh v.v… Do thời gian không lìa được phiền não nóng bức, nên không thể vui hành, dụ như bệnh nhân không thể chữa trị.

Diệt trừ hai thứ chấp giữ tức trước đây nói có hai thứ tướng. Ví như lương y trao thuốc cho bệnh nhân, cho đến nếu khởi không kiến, ta nói người đó là không thể chữa trị. Dụ này chỉ rõ: Ví như bệnh nhân chưa đến nỗi tắt thở, nhưng do bệnh khuấy động, hoặc thuận động vào nhân của bệnh, hoặc không thuận động vào nhân của bệnh trước sau, khiến bệnh nhân nhận hai thứ khổ thọ.

Như vậy, người chấp vô ngã không diệt thì đồng với ngã kiến cùng không lìa chấp sinh không, pháp vô ngã, vì tự thuận theo bệnh phiền não. Hai thứ chấp giữ trước, sau đều diệt, nên gọi là diệt.

Bồ-tát không như thế. Ở đây nói diệt là thiện thắng. Như kinh nói: Ví như có người sợ hãi hư không, như thế v.v… Như người nhìn vào khoảng không tự nhớ nghĩ, phân biệt, cố chấp sai lạc, tạo nên sự sợ hãi cho mình. Người đó kêu lên: Trừ bỏ hư không đi! Trừ bỏ nó đi! Như vậy người này trụ vào người vô ngã, không trụ vào pháp vô ngã, vì ngã mạn nên sinh sợ hãi. Ở nơi hư không chẳng có việc gì có thể nói nhưng đã chấp sai lạc rồi tạo sự an ổn hư giả vào đấy. Cũng như chấp sắc, tạo tưởng về sắc, rồi cần tìm sự đoạn trừ.

Bồ-tát không như thế. Ở đây có tâm loạn này là sự việc hơn hết. Đức Phật nói với Ca-diếp: Ví như họa sư tự tạo nên bức vẽ đầy sự kinh hãi, như hình tượng quỷ Dạ-xoa v.v… Như vậy là mất vì hành loạn trụ nơi người vô ngã, tự phân biệt, tự nhớ nghĩ, cho là thật có các cảnh giới. Người kia vì do tưởng v.v… bị đảo lộn nên khiến thành điên đảo. Bồ-tát thì không như thế.

Thế nào là giải thích nói về nhân dùng hai thứ dụ?

  1. Dụ về huyễn sư.
  2. Dụ về hai thanh gỗ cọ xát vào nhau.

Dụ thứ nhất chỉ rõ: Quán chủ thể giữ lấy, do người vô ngã, nên trí chỉ giữ lấy các hành. Người kia do pháp vô ngã nên dùng trí quán. Thế nên trí của pháp vô ngã gọi là chủ thể giữ lấy và quán. Nhưng trí của người vô ngã cùng với trí của pháp vô ngã nơi người kia là nhân. Do có nhân ấy nên có dụ này. Như huyễn sư và người huyễn là nhân. Dụ nếu người huyễn ăn thì huyễn sư cũng hành tác như thế. Do trí của pháp vô ngã nên biết chúng sinh vô ngã. Trí lìa tánh giả danh nên là không. Lìa sự phân biệt kia nên vắng lặng. Có thể xả bỏ tướng nên không có vững chắc. Vì là không tức không có đối tượng nên không quán chắc chắn như ăn.

Dụ thứ hai chỉ rõ: Ví như hai thứ chứng đắc thật sự, thì ở đây sự chứng đắc như thật là hiện có quán có. Chủ thể giữ lấy và đối tượng được giữ lấy đều vắng lặng, nên tư duy, nhớ nghĩ về nhân là không lìa nhau, hoàn toàn nhận biết được bên trong nên trí quyết định sinh.

Quán đối tượng được giữ lấy ở đây nghĩa là trí quán chúng sinh vô ngã. Chủ thể giữ lấy là trí hành pháp vô ngã. Hai trí đó như hai miếng gỗ trên dưới thuận hợp, tư duy vắng lặng, vì do nhân vắng lặng nên chỗ chứng biết bên trong đã sinh trí quyết định, gọi là chứng đắc chân thật.

Dụ về hai miếng gỗ ấy chỉ rõ nhân có thể đạt được. Dụ như nhân nơi hai thanh gỗ cọ xát vào nhau nên sinh lửa. Lửa này trở lại đốt cháy hai miếng gỗ kia. Như vậy, trí của người vô ngã, trí của pháp vô ngã là nhân của hành, sinh trí của pháp vô ngã ấy. Do duyên nơi trí bên trong nên trí quyết định sinh. Hành trí kia hiện có tánh vọng niệm chấp trước, do quán như thật nên có thể đốt cháy hết.

Thế nào là nói hiện hữu khắp không? Cũng do nghĩa một tướng. Trở lại trong trí của pháp vô ngã kia vì thấy như thật, nên nói ví như khi đốt đèn, tất cả bóng tối thảy đều tự tan biến. Dụ này giải thích chỗ nói ở đây đã thấy như thật. Tánh lìa giả danh như không trí v.v…

Không là không chấp như thế. Không thể giữ lấy sự vắng lặng là vì không hiểu biết. Thế nào là giải thích không như vậy? Nghiệp diệt nên phiền não diệt, là hiện đối trị.

Đức Phật nói với Ca-diếp: Ví như trong khu nhà, hoặc nơi từng căn, từng buồng, từng phòng, trải qua hàng ngàn năm cho đến nay, hết thảy bóng tối trong đó được xem là các kiết sử nơi nghiệp. Dụ này là nêu ở đây đã hiển bày về diệt, cho đến hoàn toàn mất hẳn: Là sự tìm kiếm, tức đã sinh trí tuệ sáng suốt, có thể diệt trừ các nghiệp phiền não từ vô thỉ đến giờ. Nếu có thể nhanh chóng trừ bỏ các phiền não như thế, thì vì sao các Bồ-tát lại tu hành lâu dài trong thế gian? Hai dụ đã chỉ rõ việc đạt được thắng quả đó.

Đức Phật nói với Ca-diếp: Ví như gieo giống trong khoảng không, cho đến các sử tạp nơi pháp thế gian cũng có thể nuôi lớn pháp Phật, là hạt giống có thể sinh trưởng trong thửa ruộng tốt có nhiều uế tạp.

Những dụ như thế nhằm chỉ rõ việc tâm Bồ-tát hướng đến Niếtbàn nhưng không bỏ chúng sinh, vì chứng đắc pháp Phật nên nguyện giữ lấy thế gian, vì đã hồi hướng phát nguyện các căn thiện, nên trong đêm dài sinh tử luôn hành trì các hạnh.

Niết-bàn ở đây là vô vi, dụ như hư không, nếu dựa vào hư không thì pháp Phật không được nuôi lớn. Thế gian như thửa ruộng của phiền não uế tạp. Tâm đại bi của Bồ-tát cũng như mảnh đất có phiền não uế tạp, nắm giữ mảnh đất này Bồ-tát mới có thể làm tăng trưởng pháp Phật.

Hỏi: Vì sao dựa vào pháp hữu vi thấp kém, Bồ-tát có thể làm tăng trưởng pháp Phật vô thượng?

Đáp: Dùng dụ về hoa sen để giải thích rõ. Nên Đức Phật nói với Ca-diếp: Ví như từ những chỗ đất ẩm thấp, đầy bùn lầy, hoa sen mới mọc lên. Bồ-tát cũng như thế, ở trong vũng bùn sinh tử nơi chúng sinh tà định, Bồ-tát mới làm cho pháp Phật phát sinh.

Hỏi: Nếu như thế thì đối với Bồ-tát, các Thanh văn không có 12 thứ sự việc thù thắng này. Mười hai thứ ấy là gì?

Đáp: Đó là:

  1. Thù thắng trong sự tu tập hiện các căn thiện xen tạp.
  2. Thù thắng trong sự tu trí và hạnh.
  3. Thù thắng trong quả giải thoát gồm thâu tận trí, vô sinh trí, giải thoát cùng đạt.
  4. Thù thắng trong việc hàng phục diệt trừ các ma oán.
  5. Thù thắng trong việc tu học hoàn tất.
  6. Thù thắng trong quả A-la-hán.
  7. Thù thắng trong chúng sinh, nói nghĩa ứng cúng.
  8. Thù thắng trong việc nói rõ pháp thù thắng, dựa vào bốn Quả bốn Hướng.
  9. Thù thắng trong hiện pháp đạt được Niết-bàn, nói rõ pháp thù thắng trong chúng sinh.
  10. Thù thắng trong sự đạt được tịch diệt tối thượng từ chúng sinh cho đến chín xứ chúng sinh.
  11. Thù thắng trong việc tâm được tự tại.
  12. Thù thắng trong việc điều phục chúng sinh khó điều phục.

Vì nhằm ngăn chận các vấn nạn nên nêu ra dụ, nên biết.

Vì nhằm ngăn chận vấn nạn về thù thắng thứ nhất, nên nói hai dụ về biển cả và sinh tô, vì vô lượng chúng sinh không nhận lãnh pháp thọ dụng tương tợ.

Thứ hai là nhằm ngăn chận vấn nạn về trí của Bồ-tát có hai: Đối trị chướng ngại của tự thân và của người khác trong vô lượng thân chúng sinh.

Thứ ba là nhằm ngăn chận vấn nạn về Bồ-tát có hai thứ: Dụ về người trượng phu, như xứ giải thoát của bậc thượng nhân, các thừa Thanh văn và nguyện là xứ của kẻ nghèo. Xứ của hạng tôi tớ bị sai khiến, Bồ-tát cũng không bỏ những chúng sinh này. Xứ của vua là thệ nguyện của Đại thừa.

Nhằm ngăn chận vấn nạn về thù thắng thứ tư, nên nêu dụ thứ nhất về Chuyển luân Thánh vương so với người con chân thật của Đức Như Lai.

Nhằm phòng hộ cho sự thù thắng trong việc tu học hoàn tất, nên nói dụ thứ hai về Chuyển luân Thánh vương, là không đoạn chủng tử Phật.

Nhằm phòng hộ cho sự thù thắng về quả A-la-hán có thể hành ứng cúng, nên nói dụ thứ ba về Chuyển luân Thánh vương, là nhân truyền trao Nhất thiết trí.

Nhằm phòng hộ cho sự thù thắng thứ bảy, nên nói dụ về Tỳlưu-ly, ban đầu gồm thâu được tâm Bồ-đề.

Nhằm phòng hộ cho sự thù thắng thứ tám, nên nói dụ về cây thuốc chúa, vì có thể diệt trừ bệnh phiền não của chúng sinh.

Nhằm phòng hộ cho sự thù thắng thứ chín, nên nói dụ không thể bỏ vầng trăng, vì như thế là có thể tạo nên ánh sáng trí tuệ của tất cả chúng sinh.

Nhằm phòng hộ cho sự thù thắng đạt được tịch diệt tối thượng, nên nói dụ về trăng mới mọc, tích tập công đức là nhân của trí, hỗ trợ đạt được Bồ-đề.

Nhằm phòng hộ cho sự thù thắng về tâm được tự tại, nên nói dụ về ngọc lưu ly, vì Bồ-tát đã thành tựu quả Nhất thiết trí.

Nhằm phòng hộ cho sự thù thắng thứ mười hai, nên nói dụ như ngọc Tỳ-lưu-ly được mài giũa. Tâm tự tại hơn hẳn các công đức của Thanh văn như lợi dưỡng v.v… Dựa vào Bồ-tát nên lược nói các dụ ấy như thế, chỉ rõ công đức của Bồ-tát vượt hơn hàng Thanh văn.

Từ đây về sau: Là nói rộng về các công đức.

Có bao nhiêu hạng Thanh văn? Giới của Bồ-tát có những gì vượt hơn giới của Thanh văn? Có bốn hạng Thanh văn. Lại, giới của Bồ-tát có mười ba thứ tướng vượt trội hơn giới của Thanh văn.

Những gì là bốn hạng Thanh văn? Đó là:

  1. Thanh văn ứng hóa.
  2. Thanh văn ngã mạn.
  3. Thanh văn lập nguyện Bồ-đề.
  4. Thanh văn tánh diệt định.

Thanh văn ứng hóa: Nếu nhằm hóa độ chúng sinh nên chư Phật, Bồ-tát đã hóa hiện. Đó gọi là Thanh văn ứng hóa.

Thanh văn ngã mạn: Hoặc chỉ là chúng sinh đạt được trí vô ngã cùng không có pháp tà, nhưng ngã mạn chấp trí cho là thanh tịnh. Đó gọi là Thanh văn ngã mạn.

Thanh văn lập nguyện Bồ-đề: Là từ trước đến giờ, tâm thương xót chúng sinh yếu kém, do thân cận Đức Như Lai và nhờ hành tập, nên đối với pháp Phật thượng diệu thân tâm tin tưởng, hành tạo công đức, huân tập thành tựu. Tuy an trụ trọn vẹn trong giới vô lậu, nhưng chư Phật đã khuyến khích giảng nói các phương tiện, nhân đó các Thanh văn được tu tập Đại Bồ-đề. Tuy đã tu tập như thế, nhưng về sau trong việc tạo lợi ích cho chúng sinh, thường chậm chạp, không nhạy bén và ưa thích thanh tịnh riêng, không phải như mới phát tâm mà có Phật tánh. Đó gọi là Thanh văn lập nguyện Bồ-đề.

Thanh văn tánh diệt định: Là từ trước đến nay, tâm thương xót chúng sinh kém, hẹp, hoàn toàn lìa bỏ chúng sinh, tâm vốn sợ hãi trước các thứ khổ của thế gian, chỉ trụ hướng về Niết-bàn, không đủ khả năng tu tập Đại Bồ-đề. Ví như hai vương tử hình dáng, diện mạo giống nhau, đồng thọ nhận mọi an lạc của nhà vua, nhưng một người đã khéo thông đạt pháp của vua cùng các thứ kỹ thuật v.v… còn vương tử thứ hai thì không được như vậy. Hai vương tử này có sự hơn kém trong lãnh vực kỹ thuật, học vấn v.v…, nên xứ thọ dụng an lạc không như nhau.

Như vậy, Bồ-tát an trụ trong giới vô lậu là hơn hẳn so với Thanh văn tánh diệt định. Bồ-tát vượt hơn hẳn hàng Thanh văn ở các xứ: Xứ trong thân hành tập các pháp bạch, xứ tích tập trí, xứ tương tợ, xứ tánh, xứ gia trì, xứ hành, xứ thần lực, xứ tu hành, xứ phước điền, xứ thắng thượng, xứ nhân quảxứ nương dựa sinh khởi, nên nhận biết như thế.

Ví như gieo giống nơi hư không mà có thể sinh trưởng được, là không có điều ấy. Nhưng gieo giống nơi ruộng tốt lẫn với uế tạp thì có thể sinh trưởng. Trên vùng đất đồi gò cao thì hoa sen không mọc được. Các thí dụ như thế chỉ rõ về Thanh văn tánh diệt định cùng nói đến sự thù thắng về niềm tin, về chí tâm của Bồ-tát.

Thanh văn tánh diệt định như vạt đất uế tạp. Các thứ hành tác luôn xen lẫn với bùn lầy phiền não cấu nhiễm nơi chúng sinh, nhưng lại từ bỏ, hoàn toàn hướng về cõi Niết-bàn. Như khoảng đất lớn đang rực cháy trong cảnh giới của chúng sinh thanh tịnh, tâm vẫn đồng an trụ. Trái lại tâm Bồ-tát hướng đến Niết-bàn, cùng trụ với chúng sinh thanh tịnh, không hề bỏ chúng sinh có nhiều phiền não vì luôn cứu độ, giữ lấy thế gian tạp nhiễm để dẫn dắt chúng sinh.

Nêu các dụ về xứ tập hợp các pháp bạch lần lượt thay thế để chỉ rõ các hành tạo của Bồ-tát là thù thắng. Thanh văn cũng có các pháp bạch nhưng ít và mỏng, chỉ nhằm lợi ích cho tự thân. Pháp Bồ-tát thì vô lượng, luôn tăng trưởng tạo lợi ích cho tất cả chúng sinh, xem họ như con mình. Ví như người cha dùng sinh tô nuôi lớn các con, Bồtát cũng như thế. Căn thiện của mình là vô số, như sinh tô nuôi dưỡng làm tăng trưởng các Bồ-tát mới tu học xem như con trai.

Hư không chính là cùng chỉ rõ sự thù thắng của xứ tích tập trí. Thanh văn dùng trí vô lậu chỉ nhận thấy tự thân tịch tĩnh. Các Bồ-tát ở ngay trong phiền não vì tâm luôn thương xót, trí đồng chứng ngộ, xoay chuyển tất cả chúng sinh trong mười phương, khiến họ cùng phát nguyện hướng tới đạo Bồ-đề vô thượng.

Dụ về vị phu nhân lớn tuổi và người nữ tỳ: Là chỉ rõ sự thù thắng về xứ tương tợ. Thanh văn nhớ nghĩ đến nẻo giải thoát vượt bậc. Vị phu nhân lớn tuổi, như mẹ, thì ý niệm nhỏ hẹp, thấp kém, như cha thì tâm nghèo khổ gia tăng, nên không thành Phật tử. Các vị Bồ-tát lìa bỏ tánh thấp kém của chúng sinh phàm phu, như người mẹ nhớ nghĩ đến kẻ nữ tỳ, dùng tâm niệm vô thượng như bậc đại vương hành pháp quán đảnh thành tựu, nên được gọi là Phật tử.

Dụ về Chuyển luân Thánh vương thứ nhất: Là chỉ rõ sự thù thắng của xứ tánh. Như vương tử của Chuyển luân Thánh vương đã thành tựu các năng lực, thành tựu thế mạnh, thành tựu uy dũng tột cùng, nhưng do không có tướng của Chuyển luân Thánh vương, nên không thể làm Chuyển luân Thánh vương. Hàng Thanh văn cũng như thế. Siêng năng tinh tấn, thành tựu các năng lực về đế, thiện xảo, thành tựu thế mạnh do tâm không xả bỏ, thành tựu uy dũng cùng tột nhưng không có tướng, tánh của Phật, nên chư Phật Như Lai không hộ trì, tiếp nhận, dẫn dắt.

Bồ-tát dùng dụ về Chuyển luân Thánh vương thứ hai: Là để chỉ rõ sự thù thắng của xứ gia trì. Thanh văn tuy đạt được đầy đủ, nhưng nơi vị lai không thể giữ vững ngôi nhà Phật, còn Bồ-tát mới phát tâm thì có năng lực giữ vững được.

Dụ về Chuyển luân Thánh vương thứ ba: Là chỉ rõ sự thù thắng của xứ hành. Thanh văn tuy đã chứng ngộ đến cùng, nhưng các hàng trời, Thánh nhân đều không cung kính, khen ngợi như đối với Bồ-tát mới hành hóa.

Dụ về ngọc báu Tỳ-lưu-ly: Là chỉ rõ sự thù thắng về xứ thần lực cao tột. Bồ-tát từ Địa thứ nhất do thần lực, trí tuệ đã bỏ xa hết thảy hàng Thanh văn, Duyên giác.

Dụ về cây thuốc ở núi Tuyết: Là chỉ rõ sự thù thắng về xứ tu hành. Thanh văn tuy đã thành tựu trí, có thể diệt trừ các bệnh phiền não, tức thuốc trí chữa khỏi bệnh phiền não của chúng sinh. Bồ-tát thì trái lại, chỉ luôn hành tạo lợi ích cho mọi người.

Dụ về các vì sao: Là chỉ rõ sự thù thắng về xứ phước điền. Tuy đạt đến đầy đủ, nhưng Thanh văn vẫn không thể dùng trí tuệ soi sáng chúng sinh, không tạo được phước điền để hóa độ hết thảy hàng người, trời. Còn Bồ-tát tuy không diệt hết phiền não, nhưng có thể làm phước điền cho tất cả hàng người, trời, gieo trồng căn thiện.

Dụ về mặt trăng vào đầu tháng: Là chỉ rõ sự thù thắng trong xứ thắng thượng. Chư Phật, Như Lai nơi tất cả thời đều hơn hẳn Thanh văn, Bồ-tát. Sự thù thắng ấy là từ Bồ-tát mà thành. Các Bồtát có hai thứ tướng nên chuyển biến thù thắng. Bồ-tát giáo hóa chúng sinh và thành thục pháp Phật như vậy, thế nên có Bồ-đề và đạt được quả vị. Theo sự giáo hóa chúng sinh khiến họ được giải thoát.

Ví như người hành tạo các thứ ảnh tượng trở thành kỳ dị khiến tâm sợ hãi. Đây cũng như thế, nên biết. Ví như chư Thiên và loài người nơi tất cả thế gian đều khéo giữ gìn ngọc lưu ly, dụ này chỉ rõ sự thù thắng của xứ nhân quả.

Thanh văn tuy hoàn toàn tu tập nhân tốt của pháp thanh tịnh, lại gặp gỡ gần gũi với vô lượng tri thức thiện, nhưng không thể khiến đạt được quả Đại Bồ-đề. Trái lại, nói các Bồ-tát có thể khiến chứng quả Đại Bồ-đề. Ví như mài giũa ngọc quý Tỳ-lưu-ly, dụ này chỉ rõ sự thù thắng của xứ nương dựa sinh khởi.

Các Thanh văn nương vào Bồ-tát nên xuất hiện ở thế gian, không phải các Bồ-tát dựa vào Thanh văn để xuất hiện ở đời, vì nghĩa dứt hết các điều ác, giữ trụ điều thiện.

Đức Phật nói với Tôn giả Ma ha Ca-diếp: Này Ca-diếp! Nếu có đất nước, trong đó chỉ có loài lạc đà cổ đen, đầu ngước lên nhìn ánh sáng, cho đến đất nước kia không có các sự việc đáng lo sợ. Này Ca-diếp! Bồ-tát vẫn thường xuyên cứu hộ đem lại lợi ích cho chúng sinh, như đã lần lượt nêu bày.

Từ đây trở về sau: Là chỉ rõ việc đạt được lợi ích của quả kia, như đoạn trước đã nói về sự thù thắng.

Nói trong bùn lầy phiền não nhiễm tạp, Bồ-tát có thể làm tăng trưởng pháp Phật. Nếu thế không phải là tăng trưởng trong thân của Bồ-tát, cũng không phải các Bồ-tát khác giúp đỡ thân Bồ-tát ấy. Vậy làm sao trong thân của Bồ-tát lại có thể làm tăng trưởng Bồ-tát? Vì chúng sinh nên tu tập các hạnh là chỉ rõ về điều này: Nếu tăng trưởng cho Bồ-tát là cũng đã tăng trưởng cho đạo của mình.

* Kinh nói: Bồ-tát thường nên cứu hộ như thế v.v…: Là chỉ rõ cho đến bốn phương, nơi tất cả thế giới, hết thảy thệ nguyện của Bồtát đều là những hành tác đem lại lợi ích cho chúng sinh.

Chữa trị hoàn toàn chân thật: Mọi sự lìa bỏ lương y mà chữa lành bệnh của thân, cho đến không lìa bỏ ngoại đạo mà chữa trị được phiền não, thì đó không phải là cách chữa trị chân thật, chỉ là chữa trị giả danh, điên đảo.

Ở đây, Bồ-tát là dụ như lương y, hết thảy chúng sinh dụ như người bệnh. Các bệnh như tham, sân v.v… Thuốc là như pháp quán bất tịnh v.v… Như có ba thứ tướng khiến các đại bị động nên sinh các thứ bệnh. Hoặc do chứa nhiều chất độc trong người. Hoặc do không nên ăn mà ăn. Hoặc do hết bệnh này sinh bệnh khác. Như thế, ba thứ nhân ấy là tướng của tâm ác nên sinh tâm bệnh. Hoặc vì chứa các điều ác như tham v.v… Hoặc là do hành tập các thứ như tham v.v… trong suốt đường sinh tử. Hoặc vì thấy việc không nên làm mà làm. Lại hiện có hành các thứ kiến chấp v.v… Hoặc làm các việc điên đảo rồi bỏ.

Trong đó, đối trị bệnh phiền não thứ nhất là dùng quán bất tịnh. Nên biết dùng quán bất tịnh để đối trị các thứ tham. Dùng tâm từ để đối trị giận dữ. Dùng bốn pháp quán nhân duyên để đối trị ngu si. Nói có bệnh nên vì đấy nói đối trị là các thứ không v.v…, tức dựa vào 4 loại chúng sinh, nên nói:

  1. Kiến chấp.
  2. Vui đắm nơi Tam-ma-bạt-đề.
  3. Ưa thích các đời sống.
  4. Đối với xứ không phải giải thoát khởi tưởng giải thoát.

Ở đây, dựa vào sự chấp trước nơi chúng sinh kiến, nên nói: Mọi thứ kiến chấp chỉ không mới có thể đối trị. Nếu khởi không kiến v.v… tức đã nói như thế.

Nên biết, vì vui đắm nơi Tam-ma-bạt-đề nên nói về vô tướng. Tất cả các niệm phân biệt về có, không trong tướng đều vô tướng, chỉ rõ về hết thảy có, không, chỉ rõ sự vui đắm nơi Tam-muội.

Dựa nơi sự ưa thích các đời sống nên nói về vô nguyện. Vì nhằm dứt bỏ tất cả cõi Dục, cõi Sắc, cõi Vô sắc v.v…, nên nói về vô nguyện.

Dựa vào xứ không phải là giải thoát mà tạo tướng giải thoát, nên nói chẳng phải là bốn điên đảo. Vì nhằm diệt hết các điên đảo nên nói bốn điên đảo. Vì chấp thường v.v… nên đối với xứ không phải giải thoát sinh khởi tướng giải thoát, tức xả bỏ các hành tập điên đảo. Vì dựa vào hữu nên nói rộng, lược về sự đối trị bốn thứ điên đảo.

Nên biết, phàm phu hữu lậu lại có 6 loại:

  1. Dựa vào sự tham chấp nơi thân, để đối trị nên nói các Niệm xứ.
  2. Phiền não khiến tán loạn: Để đối trị nên nói bốn Chánh cần.
  3. Luôn bị ngã mạn trói buộc: Để đối trị nên nói các Như ý túc.
  4. Lìa bỏ việc tu tập các căn thiện: Để đối trị nên giảng nói các Căn, Lực.
  5. Không thông đạt các đế: Để đối trị nên giảng nói Bảy phần giác đạo.
  6. Vui ưa các sự lành dữ: Để đối trị nên giảng nói Tám phần đạo.

Thế nào là không thuận quán thân, theo thân kiến hoặc ngã sở kiến, không phân biệt, từ bỏ pháp thiện, không tin, nên biết, để đối trị nên nói các căn, lực?

Này Ca-diếp! Trong cõi Diêm-phù-đề, hết thảy thầy thuốc và học trò của thầy thuốc hiện có thì Kỳ-bà y vương là bậc nhất. Này Ca-diếp! Giả sử hết thảy chúng sinh hiện có trong Tam thiên đại thiên thế giới đều là thầy thuốc như Kỳ-bà y vương, tức các chúng sinh đều tương tợ như Kỳ-bà v.v…, là chỉ rõ các bộ luận về y phương hiểu biết rộng thiện xảo tốt đẹp, cũng khó đối trị được các thứ kiến chấp: Biện thủ kiến, giáo hối kiến, nghi hối kiến v.v… Ở đây, do phương tiện để tâm định, nên các thứ kiến chấp đều có thể gây chướng ngại. Như Tôn giả Xiển-đà nói: “Các Đại đức! Tôi nghĩ như vầy: Sắc là vô thường v.v… cho đến v.v…, nhưng tôi lại hành Xá-ma-đà không, không phân biệt diệt ái, lìa dục, diệt cùng trong Niết-bàn tâm không an, không vui, không trụ, không hiểu. Ý của tôi xoay chuyển sinh tâm chán nản, lười biếng. Nhưng thế nào là ngã sở?”. Nói như thế rồi, bấy giờ, Tôn giả Xiển-đà dùng tâm trí tuệ nhớ nghĩ đến Niết-bàn, vì không diệt trừ được thân kiến của ngã, nên nói ngã sẽ vô ngã, ở trong Niết-bàn tâm thoái chuyển sinh khởi sầu não. Nhưng thế nào là ngã và ngã sở? Không suy nghĩ như thế này: Đây chỉ là hành. Do cái gì là không có kia? Nhưng thời ấy đạo hành của thế gian không có khả năng chữa trị, nên gọi là không thể đối trị.

Vì muốn thâu giữ tâm chưa nhập định, nên sự ràng buộc đã tạo ra nghi, hối. Có khả năng xua tan nhân của nghi hối, dứt trừ giáo hối, thì chỉ có chư Phật, Như Lai cùng các Bồ-tát vì không có các thứ độc hại, lại có đại lực. Do đó chỉ nói kiến, nghi, hối, không lực thì không thể nhận biết. Ý không thể lường cùng không thể nói, không thể đọc tụng, không thể nêu bày đúng đắn, không thể dùng ngôn thuyết. Cầu hành trợ đạo này rồi, cầu hành xuất thế gian. Trong hữu dư tâm cầu, sau đó là hữu dư. Dựa vào chúng sinh vô ngã tức có hai thứ nên biết dựa vào pháp vô ngã. Có một duyên nhập nơi trí v.v… Nhân nơi dục, tin, căn bản trí, tín trí, chỉ có tâm là khuyên can đúng, đoạn dứt, không duyên biết cùng vô ngã. Tìm kiếm trong nhân duyên hành tập là chỉ rõ sự chứng đắc về người vô ngã. Ở trong các nhập nội ngoại, cùng nương dựa trong xứ thức nhớ nghĩ kia tánh vọng tưởng niệm sai lạc, nên tâm không thể thủ đắc và thành tựu các tướng như không sắc v.v… Do thấy tánh nên chỉ rõ sự chứng đắc về pháp vô ngã. Nhưng thành tựu về tánh này nên hành nơi tâm đều có hộ trì và không nên chấp giữ.

Đức Phật nói với Ca-diếp: Tâm của tất cả chư Phật đều không có kiến chấp, nên nói chẳng phải là tự nhiên. Không kiến chấp là chỉ rõ tâm trụ nơi thể của pháp. Vì tất cả chư Phật đều nói là thấy suốt cả ba thời. Như vậy, trước đã nói không có tánh phân biệt, nhớ nghĩ sai lạc. Tướng của sự nhớ nghĩ sai lạc đó chỉ rõ tánh và tướng khác nên nói có chỗ nương dựa.

Nói tâm kia lấy gì làm tánh để giữ lấy, trong đó đã nêu rõ tâm và tâm số pháp. Nếu do ý gắn liền thì chỉ là tướng, làm sao giải thích xác nhận sự sinh tử của thế gian như huyễn?

Chỉ là một tâm hành trì như dòng sông trôi. Tâm hành như thế trong sự chán lìa thì do đâu không được giải thoát? Giải thích rõ sự việc đó như gió, trong ấy cái từ xa đến là trong hết thảy sự việc đều có tánh kia, nhưng rất khó biết.

Thế nào là được giải thoát? Giải thích rõ sự việc ấy như đèn cháy sáng. Do duyên lực của vô minh nên hành, chỉ rõ vô minh dứt hết thì không hành. Nếu sức phiền não của tâm còn nên nhiễm thành, không làm là thuận nơi như. Vì phiền não kia không tịnh, nên không thấy giác ngộ, giải thoát. Vì ngăn chận các vấn nạn này, nên chỉ rõ như hư không. Vì ngăn chận các vấn nạn nên nói như hư không không phân biệt, chỉ rõ như sấm chớp, niệm niệm đều diệt. Vì không trụ nơi các thứ tham v.v…, nên chỉ rõ về tướng vô thường. Chỉ rõ về tướng vô thường là nhằm ngăn chận các vấn nạn về tướng dị biệt. Tuy tâm tịnh, nhưng mỗi mỗi niệm đều diệt, nên chỉ rõ như khỉ vượn. Vì tâm kia không phải là mong cầu các thứ cảnh giới nên phân tán, mà là do thuận theo các thứ tham v.v… đều không thể trừ bỏ nên thành có tán loạn.

Vì sao không giải thích tất cả là cùng sinh như công việc của họa sư? Vì sao không phải hết thảy các thời như thế v.v…? Giải thích tạo nghiệp là không trụ. Vì sao nghiệp hiện tại thoái chuyển? Hoặc do như cây hiện ra khí lực nên sống. Giải thích như sự nghiệp của vua. Hết thảy nghiệp tu là sức mạnh tối thượng, do có thể huân tập nên được tăng thượng, thành tựu hành giảng nói. Nếu như vua, vì sao tự mình có thể sinh các khổ? Giải thích là như oan gia. Vì sao tự chính mình mà như oan gia? Giải thích là như bệnh tật, chỉ rõ tích tụ nơi nhà cửa. Chỉ rõ nơi thân v.v… có bốn thứ điên đảo. Các hành như tùy thuận v.v… nên ngăn chận các thứ tai họa. Có như vậy thì do đâu sinh ở xứ an lạc mà chấp giữ sự sống? Chỉ rõ như oan gia. Có ba thứ khổ nên chỉ rõ nơi xứ kia cũng sinh khổ. Khổ như thế vì sao không dùng cách đối trị khổ? Chỉ rõ như quỷ Dạ-xoa đoạt lấy khí lực của con người. Phòng hộ sự vui đắm nơi Tam-muội, nên theo như thứ lớp. Lại vì sao trong sự đối trị không ưa thích chỉ rõ như những việc làm của giặc? Không phòng hộ, không dẫn dắt chúng sinh, trợ đạo hành căn thiện. Nếu do trong khổ đã tạo tác công đức an lạc, ý vui thích trụ như thế, thì do tai họa nào mà chỉ rõ như có đủ các sự việc thế mạnh, không thế mạnh, ghét yêu. Vì sao si mê cuồng loạn tham vướng nơi sắc v.v…? Giải thích là như loài phù du làm tắt đèn.

Đức Phật nói với Ca-diếp: Mong cầu là tướng của tâm, nhưng không thể thủ đắc. Nếu không thể thủ đắc tức không thể thấy, cho đến các tánh của Thánh cũng như thế, không phải là thân tạo nghiệp, không phải là miệng, không phải là ý. Trong tánh kia cũng không có sai biệt nơi thượng, trung, hạ.

Cầu là tướng của tâm, nhưng không thể thủ đắc: Là có sự nối tiếp nào? Chỉ rõ về hành tánh tướng khác xong, như tánh tướng khác kia đã mong cầu, tức cũng cầu với vọng niệm sai lạc, và khi mong cầu tánh thành tựu mới được chỉ rõ. Tuy nhiên, vọng tưởng sai lạc với tánh phân biệt là sự mong cầu không thể thủ đắc trong lý của tâm, thế nên tánh tướng đều không thể thủ đắc. Tâm kia cũng do không thể thủ đắc, nên đã nêu rõ thành tựu tướng tánh nơi tâm phải là vô vi, thời gian sau sẽ nói đến.

Chỉ rõ về sự việc sinh trong ba đời của tâm kia, không phải như nhập vào định diệt tận, vì đương thời tâm không cùng sinh trong ba đời. Như thế, việc sinh khởi của tâm kia nên biết là chỉ rõ vượt quá ba đời, nhưng không vượt quá ba đời, vì tâm đã khởi rồi lại sinh nữa. Nếu vượt quá thời gian ba đời, tâm kia cũng không được gọi là đã có sự ngăn chận chấp giữ sai lạc. Dựa vào danh chỉ rõ cũng có, cũng không. Do vọng tưởng nhớ nghĩ đến tánh tưởng khác, nên mới nói rõ là thành tựu tánh nên có.

Tâm kia tức không sinh là do nhân của quán thân, nên tâm ấy là không. Tánh là nhân của tánh quyết định, như đối với địa ngục v.v… Tâm kia không khởi là tạo ra nhân sinh khởi nên không diệt là đã diệt mất. Tâm kia tức không lìa là do diệt. Không lìa là do chưa diệt. Tâm kia tức không hành nghiệp là ấm. Tâm kia là vô vi, vì hiển bày về nó, nên nói tất cả việc đây, kia là vô vi. Nay muốn phân biệt giải thích rõ: Tâm này là gốc của tất cả tánh Thánh, do tâm nhớ nghĩ này nên được xứ Thánh kia. Các Thánh cũng do tâm này mà được hiển bày. Nhưng tánh của tâm ấy là do Niết-bàn hữu dư và vô dư làm sáng tỏ, do Niết-bàn của Bồ-tát hiển bày.

Ở đây dựa vào Niết-bàn hữu dư, nên nói: Không có giữ giới cũng không có phá giới, vì đã khéo học giới, nên không hành, hữu dư diệt, chẳng phải hành hữu dư, diệt hữu dư, cũng chẳng phải không hành các phiền não.

Không có tâm, không có tâm số pháp, là vì lìa nhiễm. Nghiệp ở đây là lại có nghiệp nhân của phiền não, cũng không có nghiệp báo, vì dựa vào Niết-bàn vô dư. Do nơi nghĩa ấy, nên nói như thế này: Nếu không khổ và không vui đấy là tánh của bậc Thánh. Như trước đã nói: Tâm kia không có nghiệp. Ba câu Tu-đa-la nói về sự khác nhau của nghiệp. Câu thứ tư nói về sự sai biệt của chúng sinh.

Dựa vào Niết-bàn của Bồ-tát, nên nói tánh ấy bình đẳng như hư không, cho đến tánh ấy là chân tịnh, tức từ trước đến giờ đều hoàn toàn thanh tịnh.

Tánh ấy bình đẳng như hư không: Là chỉ rõ sự bình đẳng cùng hành tự lợi lợi tha, nên tánh này không có gì hơn.

Tất cả các pháp đều cùng một vị: Là chỉ rõ trong các Bồ-tát thanh tịnh tánh không khác biệt. Trong tất cả pháp phần Bồ-đề, sự thù thắng không khác.

Tánh này tịch tĩnh: Là xa lìa.

Thân tâm tịch tĩnh: Là chỉ rõ thể không khác biệt của tâm.

Tánh này tùy thuận hướng đến Niết-bàn: Là chỉ rõ nghiệp thân thù thắng của Bồ-tát trong thân của các chúng sinh.

Tánh ấy tịch tĩnh, xa lìa hết thảy phiền não cấu nhiễm: Là chỉ rõ tuy đồng giải thoát nhưng diệt trừ tập khí thì có hơn.

Tánh này là vô ngã, lìa ngã và ngã sở: Là chỉ rõ thế giới thanh tịnh, hoàn toàn diệt định.

Tánh này không có ác, hoặc giả hoặc hư thật, sinh từ bình đẳng: Là chỉ rõ nẻo hành của Bồ-tát nơi thế gian. Niết-bàn không mất, không được, không sinh phân biệt, do bình đẳng, thật nghĩa. Niết-bàn là nghĩa thật hư, còn thế gian là không thật, nên biết.

Tánh ấy là đệ nhất nghĩa đế chân thật: Là chỉ rõ xa lìa các thứ hủy báng, không cùng chung với ngoại đạo.

Tánh ấy không thể cùng tận, rốt ráo không sinh: Là chỉ rõ tuy đã chứng Niết-bàn vô dư, nhưng Bồ-tát vẫn không dứt bỏ hành tạo lợi ích cho chúng sinh.

Lại, tánh ấy rốt ráo không sinh: Là chỉ rõ Bồ-tát sinh ra không phải do nghiệp, phiền não, mà là do thành tựu lực tự tại thù thắng nên sinh.

Tánh này trụ trong tất cả các chân như thường trụ: Là chỉ rõ việc trụ nơi thế gian cùng Niết-bàn. Vì thế gian không phải như vậy, nên nói tánh ấy là an lạc, thanh tịnh, vô ngã v.v… nên biết.

Tánh này chân tịnh, từ trước đến nay hoàn toàn thanh tịnh: Là chỉ rõ về sở tri chướng đã được thanh tịnh. Tùy nơi chốn nên thanh tịnh mà hiển bày sự thanh tịnh như thế. Thế nên cho đến sự đối trị của thế gian, xuất thế gian có sai biệt nơi nghĩa lớn.

Đây là lần lượt giải thích theo thứ lớp và vượt thứ lớp, nên biết.

Này Ca-diếp! Bồ-tát đến khắp bốn phương, nên hành tạo lợi ích cho chúng sinh: Là chỉ rõ việc dùng trí thế gian và xuất thế gian cùng làm lợi ích cho mọi người. Đến khắp bốn phương là Bồ-tát giáo hóa chúng sinh, từ thế giới này đến thế giới khác. Do thần lực nên từ một thế giới này đến các thế giới khác, trung gian, như từ nước này tới nước khác, rồi trở lại thế giới đầu tiên mình sinh ra cùng sinh nơi bất cứ xứ nào khiến cho mọi nơi chốn đều được thanh tịnh, tùy có chúng sinh.

Các Bồ-tát kia đã giáo hóa: Là khiến các chúng sinh ấy được thanh tịnh. Bồ-tát tạo ra pháp đối trị hoàn toàn chân thật: Là đã dùng phiền não đối trị phiền não. Bồ-tát chữa trị các chúng sinh điên loạn, trở thành bậc Đại y vô thượng, vì họ truyền dạy ba thứ giới hành thanh tịnh, đối trị các kiến chấp mà các Đại y vương như Kỳ-bà v.v… không thể trị được. Cùng đối trị dứt trừ nghi, hối, hoặc lại đối trị lớn: Là đối trị chân thật, nên gọi là đối trị lớn. Đại, nghĩa là chân thật, không dùng nghĩa này, sau đó gọi là chữa trị hoàn toàn chân thật. Do hành đạo xuất thế gian diệt trừ các phiền não sử, trở thành trí thế gian, trong đó có hai loại: (1) Thô. (2) Trung bình. Đối trị hạng thô là diệt trừ các phiền não. Đối với hạng trung bình, Bồ-tát đối trị bằng cách hàng phục.

Đó là đối với kẻ nhiều tham dục, thì đối trị bằng pháp quán bất tịnh, cho đến diệt trừ tất cả các thứ điên đảo. Có bốn thứ điên đảo cùng diệt như thế. Để đối trị với phiền não thô, Bồ-tát áp dùng bốn niệm xứ cho đến tám chánh đạo. Đối với hạng trung bình, Bồ-tát đối trị bằng phương pháp hàng phục.

Ở đây phiền não thô là các hành như tham dục v.v… trong cảnh giới hiện tại, chuyển thành hạng trung bình, nên biết.

Hành ở đây là dùng trí thế gian tự suy xét tướng của cảnh giới, nhằm ngăn chận các phiền não cấu nhiễm v.v…

Tham được hàng phục xong, thì khiến hành tánh tịnh. Hành tánh ở đây có sai biệt. Người tại gia đa số đều hành theo tham, giận và si. Người xuất gia phần nhiều dựa vào các thứ kiến chấp, do dựa vào chúng nên không có chánh niệm nơi tánh niệm. Phân biệt tánh niệm nêu rộng lược về bốn thứ điên đảo.

Không phải xứ giải thoát, sinh kiêu mạn chấp cho là giải thoát.

Ở đây tham dục thì dùng quán bất tịnh để đối trị khiến được thanh tịnh. Giận dữ thì dùng quán từ bi để đối trị. Si mê thì đối trị bằng quán nhân duyên.

Các kiến chấp thì dùng pháp không để đối trị. Phân biệt thuộc về không chánh niệm cùng tánh phân biệt vượt trội thì đối trị bằng vô tướng. Lại có mong cầu thì đối trị bằng vô nguyện.

Không phải xứ giải thoát mà sinh tưởng giải thoát thì dùng không điên đảo để đối trị, ví như đây là xứ thường v.v… Ở đây phiền não thì làm thế nào để ngăn chận phiền não thô? Dựa vào tự thân đối trị. Nếu dựa vào cảnh giới nhiễm thì đó là tham, giận, ngu. Ở trong cảnh giới hiện tại, những hành như tham v.v… là tai họa. Tập hợp là nghĩa của hành. Diệt trừ chúng nên tu tập các pháp phần Bồ-đề như bốn niệm xứ v.v… Do tu pháp niệm xứ nên tâm được buộc giữ trong chánh niệm.

Đối với niệm chưa được buộc giữ thì tâm nên khiến được buộc giữ, tức phải tu tập, nếu không do niệm ấy thì tự tâm sẽ sinh khởi chấp ngã. Tu niệm xứ đã buộc giữ tâm niệm rồi, tu tập chánh cần, trụ nơi như ý túc.

Do được an trụ nên thân tâm theo tướng nam nữ, do quán biết bên trong, dẹp trừ phiền não bậc trung, đem trí hữu lậu, vô lậu hành đạo, dùng pháp xuất thế gian để đối trị diệt trừ, không còn dục v.v… Đó là dựa vào dục mà đối trị. Không phải cùng với căn lực tạo ra kiến chấp, mà là có nhân duyên tích tập si cùng si mê về nhân vô ngã, Bồ-tát dùng pháp phần Bồ-đề để điều phục các thứ chấp đó.

Ở trong các hành tà đạo, chánh đạo, luôn quyết định để thành. Như thế tướng phiền não thô, trung nơi xứ này hiện có, nên đối trị bằng ngăn chận, hàng phục.

Trí sự đó gọi là trí thế gian. Thế nào là trí xuất thế gian? Như thế là xứ của phiền não cấu nhiễm như tham sân si đã được hàng phục cùng những phiền não kiết sử vi tế hiện có, là do trí sự đối trị.

Điều ấy lại là thế nào? Ở trong sự đối trị, hàng phục trí sự kia có ba xứ thiện xảo, đó là trí duyên vào nhân duyên thiện xảo, trí này sinh khởi tin hiểu trong pháp không ngã, không chúng sinh, không thân mạng, không nuôi dưỡng, không pháp Phú-già-la, tin giữ nhân vô ngã, đối với pháp không không phân biệt không sinh sợ hãi. Do tin pháp vô ngã, nên tâm cầu sinh tinh tấn, vượt qua hết các phiền não hiện có đối trị giáo hóa bốn loại. Vì không trí nên không giữ lấy. Ý sinh tác dụng nơi trí để quán nội tâm: tướng đồng, tướng tự, tướng nhiễm và tướng tịnh. Trong không trí đó có ba thứ tưởng, đó là nghĩa đồng tưởng, nên biết.

Cầu tìm tâm như thế, đâu là tâm có thể ưa thích, có thể cấu nhiễm, có thể xấu hổ nơi quá khứ, vị lai hiện tại, hiện có? Quá khứ gọi là hết, vị lai là chưa đến, còn hiện tại thì niệm niệm không dừng. Trong đây, quá khứ, vị lai duyên thành tâm, đều không có giác quán. Hiện tại thì niệm niệm đều không giác, cùng các thứ tham v.v… tự duyên mà sinh, không phải tâm tạo ra chúng v.v… Các tướng nơi tâm đều là tự tướng, nên biết.

Đức Phật nói: Này Ca-diếp! Tâm này không ở trong, không ở ngoài, không ở giữa, vì biết tâm như thế nên cầu tìm tâm không thể thủ đắc. Như vốn nói giả danh nên nói tánh không thể thủ đắc. Tâm này không sắc, không hình, không trụ, không tướng, không ghi, không vướng. Như vậy, như sáu thứ tướng ở trước đã nói. Vì nhận biết chân như nên nói: Tất cả chư Phật không đã thấy, không nay thấy, không sẽ thấy. Tất cả các Thánh đều không do tri kiến mà hiểu biết, vì chủng tướng nên tâm có tướng nhiễm, nên biết. Không thuận là không thuận hành các hành nên tâm như huyễn. Do tưởng nhớ hư vọng, nên phân biệt phát sinh đủ các hành nghiệp, thọ nhận vô số thứ thân tâm, thọ sinh đủ thứ thân trong các đường. Vì không thuận nhiễm, nên tâm như dòng nước chảy. Sinh diệt không dừng, trở lại sinh nơi chốn kia, do chính mình thuận theo dòng chảy của niệm niệm nối tiếp. Tâm như làn gió bay xa, không thể nắm bắt được, vì trong tất cả ý niệm khó xử trị. Vì thuận theo hành nên tâm như ngọn đèn cháy sáng. Do các nhân duyên hữu hành, nên nước ái đã thấm ướt khắp, là thuận theo hành nhiễm, theo chỗ đã làm để có thể làm, đó là hành nhiễm. Đi đến xứ nào tâm như ánh chớp. Hoặc hướng hành đến xứ tạo thiện. Hoặc khi tâm thiện sinh khởi như làn chớp, tâm như hư không. Hoặc hướng theo hành bất thiện, nên biết tâm như hư không, bị khách trần là phiền não nhiễm. Tâm như khỉ vượn, vì một mực tham nơi các cảnh giới. Tâm như họa sư, vì hoàn toàn khởi tạo các hành nghiệp.

Này Ca-diếp! Tâm không nhất định có thể chạy theo các thứ phiền não, hoặc hoàn toàn ở trong phiền não. Lại có thể hành tham, giận và si, không dừng mà đi mãi.

Tâm như kẻ độc hành không có bạn bè. Không phải tâm kia vốn có nhiễm rồi tham mới có, nên lìa, rồi xa lìa, như lìa dục rồi mà lại có dục. Những giải thích như thế v.v… Nói tâm như quốc vương, vì được tất cả pháp tự tại. Ở trong pháp lạc do được tự tại nơi thế mạnh nên hành. Tâm như oan gia vì có thể sinh khởi tất cả khổ. Bỏ chỗ vui thích của mình nên có thể sinh khổ, tâm như nơi chứa tro tàn, như cá mắc câu, như chiêm bao, như loài nhặng xanh. Do giữ lấy vô ngã, nên tự có thể sinh khổ. Do điên đảo như oan gia, nên giúp thêm nỗi khổ của chính mình mà không biết chán đủ. Tâm như quỷ Dạ-xoa đoạt lấy khí lực của con người, khiến bỏ tu thiện, bị chúng chi phối. Tâm như oan gia vì hành bất thiện tìm kiếm các lỗi lầm, luôn phân biệt cao, thấp, có thế lực, không có thế lực, yêu, ghét. Tâm như lũ giặc dẫn đến phóng dật, điều nên làm không làm, tất cả căn thiện có thể bị diệt hết. Tâm ưa thích các sắc v.v… vì các cảnh giới như sắc luôn vui thích tham vướng. Ở trong cảnh giới có thể được cam lồ luôn nhớ nghĩ mãi. Nhớ nghĩ rồi thì khó được yên ổn.

Do ba thứ tướng nên tâm được thanh tịnh, nên biết.

  1. Vì được tướng không thủ đắc nên chẳng phải là tướng hữu vi.
  2. Vô tướng.
  3. Tánh tướng.

Này Ca-diếp! Tâm này cầu không thể thủ đắc. Vì không thể thủ đắc nên không thể nhận biết, gọi là tánh cầu tìm không thể thủ đắc. Vì không thể thủ đắc nên tâm kia không thể nhận biết. Tâm có các tướng như thế, quán nhân tịnh của tâm ấy rồi thì hành tư duy có khác.

Cầu tâm tịnh không thể thủ đắc . Tư duy như thế rồi, khiến có thể đạt được, đó gọi là đạt được tướng không thủ đắc. Pháp tu hành như thế là tu hành vô ngã, dùng tuệ để hành là tướng chân như. Tâm do trí kiến, sau đó là tướng chân như. Dùng chín thứ tướng để nói đến tâm. Vì đối trước pháp của tướng hữu vi nên nói chín thứ vô vi, nên biết.

Vượt quá ba đời là không phải hành của ba đời. Lại không phải như nhập định diệt tận, khởi rồi lại có thể sinh.

Tâm kia chẳng phải có, chẳng phải không, giả danh tánh, không thể phân biệt lường xét. Do tánh chân như nên có thể đo lường biết tâm kia chẳng phải hai tướng. Tâm không sinh vì nó không sinh tướng. Tâm kia không tánh vì vượt quá tướng nhân của tánh sinh. Tâm tức không khởi vì vượt qua các đời trong vị lai. Tâm tức không diệt vì đã vượt khỏi phần đoạn nơi tử. Tâm không có đối tượng lìa bỏ vì đã vượt quá nẻo niệm niệm lìa bỏ .

Không có đối tượng lìa bỏ: Là không đến, không đi, không thoái chuyển, không sinh khởi, vì đã vượt qua sự chuyển biến nơi các đường.

Ở đây không có hành nghiệp là vì đã vượt quá nghiệp, phiền não. Nếu là vô vi tức là chủng tánh Thánh.

Tánh tướng ở đây là tướng của cảnh giới vô vi, nên biết.

Vì thấy rõ vô vi, nên hiển bày sự việc của các Thánh. Nhưng trong hiện pháp kia, đã vượt quá năm việc. Nếu là tánh Thánh, thì không có người trì giới, vì vượt quá sự việc tạo tác. Cũng không có kẻ phá giới, vì vượt quá sự việc không tạo tác. Không hành là vượt quá hành tác. Phi không hành là vượt quá tạo tác phi hành. Cùng phi hành là vượt quá hành không hành tác và vượt quá việc hữu vi trong vị lai. Đó tức là không tâm, không tâm số pháp. Vượt qua các thứ lại có sinh, phát khởi hành. Không có nghiệp là vượt qua hành hữu vi kia. Không có nghiệp báo là vượt qua nơi chốn sinh ra.

Pháp kia không có khổ, cũng lại không có vui, vì đã vượt qua chỗ nương dựa có thế mạnh, không thế mạnh của pháp hữu vi. Ở đây không có nghiệp, không khởi hành nghiệp, nhưng trong tánh của pháp vô vi kia, không phải thân tạo nghiệp, không phải miệng tạo nghiệp, không phải tâm tạo nghiệp. Vì dựa vào khổ, vui, nên tất cả pháp hữu ký đều động chuyển.

Không có nghiệp là vượt quá các học giới. Không khởi hành nghiệp là vượt quá các thứ ước nguyện. Nhưng trong tánh kia không phải thân v.v… tạo nghiệp, là vì đã vượt quá không thọ nhận quả báo.

Trong tánh kia cũng không có trên, dưới sai biệt. Vì vượt quá sự nương dựa nơi vô số thân. Nhưng tánh vô vi kia có đến chín thứ tướng khác nhau về tánh tướng. Khi không tịnh, khi tịnh, khi chứng, khi diệt.

Tánh vô vi này bình đẳng như hư không, là lúc không tịnh thì cùng đến nơi tất cả các tướng, như hư không bao trùm tất cả sắc, tất cả tướng, chân như cũng thế. Hiện tại khi tịnh, thấy cùng đến, đó là thời gian không tịnh. Một tướng là tánh không phân biệt, vì tất cả pháp đều cùng một vị nên là tánh tịch tĩnh, xa lìa. Thân tâm tịch tĩnh là khi tịnh, vì một vị và thân tâm đều tịch tĩnh.

Khi tịnh có hai thứ tướng, nên biết. Tướng tịch tĩnh này tùy thuận hướng đến Niết-bàn. Tánh này thanh tịnh vì đã xa lìa các thứ phiền não cấu uế, đã hoàn toàn chứng ngộ thế nên tùy thuận, và do thanh tịnh nên tùy thuận đều hướng đến lúc chứng đắc. Đó gọi là lúc chứng ngộ.

Tướng ban đầu, tánh ấy không cùng lìa ngã và ngã sở. Tướng thứ hai vượt quá thân kiến khi chứng đắc.

Tánh này không ác, hoặc hư hoặc thật, từ bình đẳng sinh, vượt quá ác kiến căn bản. Trở lại tướng thứ ba của tánh ấy thì tánh này là chân đế. Đệ nhất nghĩa đế: Đây là nói khi hoàn toàn diệt hết, tánh ấy an trụ, vì là thường, nên thành tựu các thứ an lạc, vượt qua ba thứ chuyển biến. Những gì là ba thứ chuyển biến? Đó là:

  1. Chuyển biến của sinh tử v.v…
  2. Chuyển biến của nơi chốn điên đảo.
  3. Chuyển biến của thanh tịnh bị thoái thất.

Tánh này không cùng tận, hoàn toàn không sinh, vì nó vượt quá sự chuyển biến của sinh tử v.v… Đó gọi là thành tựu tướng thứ nhất khi diệt tận.

Tánh này là thường, lạc, tịnh, vô ngã, vì nó vượt quá sự chuyển biến của nơi chốn điên đảo, trở lại tướng thứ hai trong tánh kia sau khi đạt đến chỗ tận cùng.

Tánh này chân tịnh, từ trước đến nay đều hoàn toàn thanh tịnh, vì đã vượt quá sự chuyển biến của thanh tịnh bị thoái thất, trở lại tướng thứ ba trong tánh kia khi đã đến chỗ cùng tận.

Thế nên, cho đến nẻo thế gian, xuất thế gian, đều chỉ rõ sự hành tạo lợi ích cho người khác, nên Đức Phật nói: Này Ca-diếp! Ông nên tự quán nơi nội tâm, đừng chạy theo bên ngoài. Cho đến: Này Ca-diếp! Tỳ-kheo hành đạo tùy theo tâm bị trói buộc nên cầu giải thoát.

Này Ca-diếp! Ông nên tự quán bên trong, có những thứ lớp nào? Như tánh vô vi kia đã hiển bày sự thanh tịnh nơi các Thánh, tánh kia đã được chỉ rõ. Như hôm nay, tùy thuận như bậc Thánh đã sinh. Lời giải đáp kia sẽ được nói rõ.

HẾT – QUYỂN 3

Trang: 1 2 3 4