SỐ 1523/4
LUẬN KINH ĐẠI BẢO TÍCH
Tác giả: Bồ tát An Tuệ
Hán dịch: Đời Nguyên Ngụy, Đại sư Bồ Đề Lưu Chi
Việt dịch: Cư sĩ Nguyên Huệ

 

QUYỂN 1

* Kệ nêu:

Quy mạng: Cứu thế gian
Biển khổ vượt bờ giác
Đại bi hàng ma oán
Con giải Kinh Bảo Tích.
Mười sáu thứ trang nghiêm
Nghĩa chân thật vi diệu
Nhằm khiến pháp trụ lâu
Để lợi mình, lợi người.

Hỏi: Ông muốn giải thích Kinh Bảo Tích, trước hết nên giải thích môn này: Do nghĩa gì mà gọi là Bảo Tích?

Đáp: Trong pháp báu của Đại thừa, nghĩa sai biệt, tướng sai biệt của tất cả các pháp đều được thâu giữ trong Kinh này, nên gọi là Bảo Tích. Bảo Tích nghĩa là tụ hội, tích tập, che mát, hòa hợp, tên khác nhưng nghĩa là một.

* Tất cả pháp Đại thừa, trong đó Đức Như Lai đã vì các Bồtát giảng nói 16 thứ tướng sai biệt: Đó là:

1. Tướng hành tà nơi pháp: Là Bồ-tát đã hành theo hạnh tà như vậy, gọi là tướng hành hạnh tà.

2. Tướng hành chánh: Là những Bồ-tát đã hành hạnh chánh, gọi là tướng hành hạnh chánh.

3. Tướng lợi ích của hành hạnh chánh: Là Bồ-tát đã trụ vào hạnh chánh, gọi là hành hạnh thiện như pháp hành v.v…

4. Các tướng sai biệt của hành pháp hành.

5. Tướng của các Bồ-tát đã sinh tướng tâm từ, vì khiến khởi tâm kính trọng nên hành như thuyết.

6. Tướng của Bồ-tát trụ trong hạnh chánh tu học giới.

7. Tướng ở trong giới Thanh văn và giới Bồ-tát nói về chỗ hơn, bằng, kém.

8. Tướng sai biệt của Bồ-tát đã khéo học giới Bồ-tát có thể cùng với trí thế gian hành tạo lợi ích cho người khác.

9. Tướng sai biệt khi thọ nhận tạng Bồ-tát, đã chỉ dạy tu tập giới Thanh văn.

10. Tướng sai biệt do không khéo học theo Sa-môn.

11. Tướng sai biệt do không khéo học nơi Sa-môn.

12. Tướng sai biệt do trụ nơi hành giả danh.

13. Tướng sai biệt do trụ nơi hành chân thật.

14. Tướng sai biệt nơi phương tiện hóa độ chúng sinh của Như Lai.

15. Tướng sai biệt của việc thuyết nêu mật ngữ vi diệu.

16. Tướng sai biệt của việc ở trong tạng Bồ-tát đã được chỉ dạy, khéo tin tưởng có lợi ích.

Trong kinh thuộc Đại thừa, Đức Như Lai đã vì các Bồ-tát giảng nói về mười sáu thứ tướng pháp sai biệt như vậy. Nơi pháp môn kia, tất cả các tướng ấy hiện đang được nói đến.

Trong pháp bảo Đại thừa này, các tướng hiện có đều được thâu giữ hết, nên pháp môn vi diệu này gọi là Bảo Tích.

Hỏi: Vì sao trong chánh pháp bảo của Đại thừa kia, các tướng hiện có đều được gồm thâu hết trong pháp môn này?

Đáp: Này Ca-diếp! Có bốn pháp khiến trí tuệ thoái mất. Tám thứ bốn câu như thế v.v… thuộc về bạn ác, gồm thâu tướng sai biệt của hành tà. (Để đối trị điều này, nên thuộc về hành chánh cũng có tám thứ bốn câu).

Này Ca-diếp! Bồ-tát có được bốn kho báu ẩn giấu lớn. Sáu thứ bốn câu như thế đã gồm thâu tướng sai biệt của những lợi ích nơi hành chánh.

Như vậy, hai mươi hai thứ bốn câu nói đủ về các sự việc nhiễm tịnh, thoái lui và tăng ích.

Này Ca-diếp! Gọi là Bồ-tát: Không phải chỉ có danh tự mà gọi là Bồ-tát, nên biết là có ba mươi hai thứ tướng sai biệt như vậy.

Này Ca-diếp! Công đức của Bồ-tát là vô lượng vô biên, Ta sẽ dùng mười chín thí dụ để diễn nói rõ về các tướng khác nhau đó.

Này Ca-diếp! Nên biết, Bồ-tát muốn học Kinh Đại Bảo Tích này, cho đến như đèn sáng kia, đấy là gốc của Thánh tuệ, còn sự tối tăm ấy chính là các nghiệp của kiết. Đó gọi là trụ trong hạnh chánh gồm thâu tướng sai biệt của các giới.

Này Ca-diếp! Ví như trồng cây trong hư không mà có thể sinh trưởng, từ xưa đến nay không hề có việc ấy. Chánh hạnh kia có khả năng xuất sinh vô lượng trăm ngàn quả báo của Thanh văn, Phậtbích-chi. Thí dụ như thế v.v… là làm rõ về giới Thanh văn. Trong giới của Bồ-tát thì gồm thâu cả tướng sai biệt về hơn kém.

Bấy giờ, Đức Thế Tôn lại bảo Tôn giả Đại Ca-diếp: Cho đến từ trước tới nay hoàn toàn thanh tịnh, như thế là đã thâu giữ cả trí thế gian và xuất thế gian. Đó chính là tướng sai biệt của sự việc tạo lợi ích cho người khác, nên biết.

Này Ca-diếp! Các ông nên quan sát bên trong, chớ chạy theo bên ngoài, kể cả người xuất gia cũng còn có hai thứ bệnh: Một là ôm giữ tánh tăng thượng mạn mà tự điều phục tâm. Hai là hủy hoại sự phát tâm Đại thừa của người khác. Như thế nên biết, tướng sai biệt đã thâu giữ khi thọ nhận tạng Bồ-tát, chỉ dạy tu tập giới Thanh văn.

Này Ca-diếp! Nên biết về Sa-môn, do nghĩa gì mà gọi là Samôn? Lại, thế nào là Sa-môn? Này Ca-diếp! Có bốn loại Sa-môn. Cho đến được nêu rõ khắp như thế, đó gọi là pháp thông đạt mau chóng của Bồ-tát. Như vậy là đã gồm thâu tướng sai biệt nơi ba loại Sa-môn trước, không khéo học về pháp Sa-môn.

Bấy giờ, Tôn giả Ma-ha Ca-diếp bạch Phật: Thế Tôn! Thật là hy hữu! Kinh Đại Bảo Tích này đối với người hành pháp Đại thừa có thể đem lại lợi ích, nếu đọc tụng, thọ trì, biên chép Kinh này, thì người đó tức đã cúng dường hết thảy chư Phật. Như thế là đã gồm thâu tướng sai biệt của Bồ-tát đã được chỉ dạy, trao truyền, khéo tin tưởng, đạt lợi ích.

Nên biết, như vậy là trong Đại thừa đã nói, là gồm thâu mười sáu thứ tướng sai biệt của pháp, nên pháp môn này gọi là Bảo Tích.

* Kinh nói: Đức Phật trụ tại đại thành Vương-xá.

Hỏi: Vì sao trước phải nói rõ về trụ xứ?

Đáp: Nói trụ xứ của Phật là muốn khiến cho chúng sinh kính trọng nơi chốn ấy. Chúng sinh biết quý trọng phước đức tức sẽ tôn kính nơi chốn này, căn thiện thêm lớn mạnh. Vì vậy trước hết phải nêu rõ trụ xứ.

Hỏi: Do đâu pháp này chỉ giảng nói ở thành Vương-xá, không phải là ở thành ấp khác?

Đáp: Giải thích pháp môn này là trụ xứ của Pháp vương, dụ như Vương-xá là chỗ ở của vua, nên nêu rõ về Vương-xá. Pháp môn lớn này cũng lại như vậy. Là trụ xứ của Pháp vương, giải thích xác nhận nghĩa này nên nói là trụ ở thành Vương-xá.

Hỏi: Vì sao chỉ nói tại núi Kỳ-xà-quật mà không phải địa phương khác?

Đáp: Đức Phật giảng nói pháp Đại thừa này có nghĩa lý tăng thượng so với thừa Thanh văn, Duyên giác. Tăng thượng về hành tự lợi, lợi tha.

* Kinh nói: Cùng với chúng Đại Tỳ-kheo tám ngàn người hội đủ, Bồ-tát có một vạn sáu ngàn vị cùng tập hợp.

Hỏi: Đã nhân nơi Bồ-tát nói rõ pháp môn này, do nghĩa ấy nên đại chúng này được gọi là chúng Đại Bồ-tát. Vậy còn nói chúng Thanh văn là có nghĩa gì?

Đáp: Nói chúng Thanh văn, vì hoặc có Thanh văn ở trong pháp Đại thừa hiện có tâm nghi ngờ, nên nói là để trừ bỏ tâm nghi. Hoặc có Thanh văn còn bất định, muốn giúp đỡ họ thành tựu chánh tín. Hoặc có người tự cho mình đã được thanh tịnh, muốn họ lìa bỏ tâm thanh tịnh ấy. Lại có Thanh văn cho mình đã diệt hết các kiết sử, ở trong pháp Phật chẳng còn tu tập gì nữa. Đó là đã diệt trừ các chướng ngại như phiền não v.v…, tâm sinh đã được lợi mình, vì muốn lìa bỏ tâm kiêu mạn ấy. Trong pháp môn này, vì các Bồ-tát giảng nói về pháp diệt trừ các phiền não chướng. Nhân nơi phiền não chướng cũng diệt trừ chướng ngại của trí (sở tri chướng), chứ không nói về điều gì khác. Hơn hẳn thừa Thanh văn, Duyên giác là đạt được quả báo tối thượng.

Hỏi: Chúng Thanh văn và Bồ-tát này từ đâu đến?

Đáp: Trong đời vị lai có người nghi hoặc, vì khiến trừ bỏ nghi hoặc đó, trong kinh có nói: “Từ cõi nước của chư Phật nơi phương khác vân tập về pháp hội”.

Hỏi: Vì sao nói họ đều đạt được không thoái chuyển?

Đáp: Đạt được không thoái chuyển là đã đầy đủ bốn nhẫn. Người một đời chứng đắc, nghe thuyết giảng về pháp này tức có thể làm pháp khí.

Hỏi: Các Bồ-tát này từ cõi nước của chư Phật nơi phương khác đến, vậy nơi cõi này có được lợi ích gì, vì trong thế giới kia, chư vị Như Lai ấy đều đã giảng nói pháp?

Đáp: Vì tạo lợi ích cho chúng sinh. Trong thế giới này cũng có chúng sinh được các Bồ-tát ấy vốn đã nhận giáo hóa. Đã thấy vốn đồng tu các hạnh, thế nên vui thích muốn thấy, gặp. Cùng pháp của các Bồ-tát vốn đã được giáo hóa lại dùng để thọ nhận hành này. Các phương khác cũng có vô lượng chư Phật, nhưng vì nhằm khiến cho chúng sinh sinh tâm khát ngưỡng, kính trọng, thỉnh vấn, thân cận, nên nói là vô lượng Phật, vì muốn khiến cho các chúng sinh tâm có thể đạt được, khởi tinh tấn dũng mãnh, không sinh mệt mỏi. Lại nữa, Đức Như Lai Thích Ca này xưa kia đã từng giáo hóa, các Bồ-tát nhớ lại việc đã được hóa độ ngày xưa và việc tu tập các hạnh nguyện, nên đã từ phương khác đến để được gần gũi Như Lai.

Hỏi: Vì sao nêu rõ về Bồ-tát nhiều, còn nói về Thanh văn thì ít?

Đáp: Sở dĩ nói chúng Bồ-tát nhiều vì trong pháp môn này đã biện giải về các hành. Đức Phật đã biết hết về nhân nên vì các Bồ-tát giảng nói.

Hỏi: Vì sao trước hết Phật lại nói cho chúng Thanh văn?

Đáp: Vì Đức Phật muốn cho chúng Thanh văn gia tăng khả năng thọ trì pháp do Ngài đã giảng nói.

Hỏi: Do đâu nói các Bồ-tát từ phương khác đến tập hợp nơi đây đều đã được nhất sinh?

Đáp: Nói như vậy là để cho các thứ biếng nhác, ngã mạn không dấy khởi. Chư vị đến là để cầu chánh pháp đối trị với phiền não. Nói là họ tự ưa thích chánh pháp, nên mới từ phương xa đến tham dự, không phải tùy thuận theo tâm của người khác. Giải thích xác nhận, trong thế giới của chư Phật, từ xa đến, các Bồ-tát này đã đạt được phần vị Phật, hãy còn vì pháp mà đến, huống chi là những người khác sao lại không đến.

Hỏi: Vì sao Như Lai chỉ nói pháp môn này với Tôn giả Đại Cadiếp mà không nói với Bồ-tát khác?

Đáp: Khi Đức Như Lai nói với Tôn giả Đại Ca-diếp là Như Lai đã biết Tôn giả Đại Ca-diếp có đủ khả năng nhận lãnh, nên mới chọn, chỉ có điều Tôn giả Đại Ca-diếp chưa nhận biết, lại chưa chánh tín, nên để giải thích xác nhận là có thể hiểu biết tin nơi nghĩa của Đại thừa.

Ở đây tám thứ bốn câu thuộc về hành tà theo như trên lần lượt cùng giải thích, nên biết.

1. Bốn câu thứ nhất: Nói về sự tướng của hành tà làm thoái mất trí tuệ.

2. Bốn câu thứ hai: Nói về thoái mất trí tuệ rồi, thì chánh niệm cũng quên mất.

3. Bốn câu thứ ba: Chánh niệm mất thì pháp bạch cũng diệt mất.

4. Bốn câu thứ tư: Pháp bạch diệt, thì chẳng phải là hạnh Bồtát mà tợ như tướng của tâm ác.

5. Bốn câu thứ năm: Đã hành theo tướng của tâm ác thì khó điều phục.

6. Bốn câu thứ sáu: Đã khó điều phục thì hành nơi đạo tà.

7. Bốn câu thứ bảy: Đã hành nơi đạo tà rồi thì không nên gần gũi mà lại hay gần gũi.

8. Bốn câu thứ tám: Không nên gần gũi mà hay gần gũi rồi thì khiến không hỗ trợ cho hạnh Bồ-tát mà trở thành hành tà.

Để đối trị điều này, nên thuộc về hành chánh cũng có tám thứ bốn câu, theo như trên lần lượt cùng giải thích:

1. Bốn câu thứ nhất: Nói trí hỗ trợ đạo đầy đủ rồi khiến không quên chánh niệm.

2. Bốn câu thứ hai: Đã khiến không quên chánh niệm nên trí hộ trợ đạo càng tăng trưởng.

3. Bốn câu thứ ba: Chánh niệm không quên mất thì pháp bạch tăng trưởng.

4. Bốn câu thứ tư: Pháp bạch tăng trưởng rồi thì hành tương tợ với hành tưởng tâm Bồ-tát.

5. Bốn câu thứ năm: Tâm hành không ác thì sự việc khéo điều phục.

6. Bốn câu thứ sáu: Đã khéo điều phục rồi thì hành nơi đạo chánh.

7. Bốn câu thứ bảy: Đã hành nơi đạo chánh rồi thì người nên gần gũi tức có thể gần gũi.

8. Bốn câu thứ tám: Người nên gần gũi đã có thể gần gũi được rồi, thì khiến tùy theo các hạnh Bồ-tát đã hành, nên làm theo để thành hành chánh.

Trước đã nói về lợi ích của hành chánhsáu thứ bốn câu theo như trên lần lượt cùng giải thích:

1. Bốn câu thứ nhất: Bồ-tát đã hành nhiều hành chánh như thế rồi, thì nên tu tập để thành tựu phước đức trí tuệ.

2. Bốn câu thứ hai: Dựa nơi công đức, trí tuệ đã tu tập thành tựu, khiến các chướng ngại được thanh tịnh.

3. Bốn câu thứ ba: Dựa vào chướng ngại đã thanh tịnh, khiến hết thảy pháp môn hỗ trợ cho việc tu tập thông đạt một pháp môn.

4. Bốn câu thứ tư: Dựa vào sự tu tập hết thảy pháp môn bạch, tất cả tướng, tất cả loại, vì tạo lợi ích cho hết thảy chúng sinh nên lại tu hành vô lượng công đức.

5. Bốn câu thứ năm: Đã tu hành vô lượng công đức tức khiến vượt qua trụ địa vô minh.

6. Bốn câu thứ sáu: Dựa vào việc đã vượt qua trụ địa vô minh, tức khiến đạt được địa không chướng ngại.

Ở trên đã lần lượt nói về hai mươi hai thứ bốn câu. Từ đây về sau sẽ theo thứ lớp trở lại giải thích bốn câu trước, nên biết.

* Kinh nói: Này Ca-diếp! Bồ-tát có bốn pháp làm thoái mất trí tuệ.

Hỏi: Do nghĩa gì nên nói ra lời này?

Đáp: Đối với người tu Đại thừa thì khiến đạt được phương tiện của Bồ-đề vô thượng. Kẻ ngu si thì khiến họ được chỉ bày. Kẻ phóng dật thì khiến họ chánh cần. Kẻ yếu kém có tâm nhỏ, thì hỗ trợ, an ủi khuyến dụ, khiến họ phát khởi tâm rộng lớn. Người đã hành hạnh chánh thì vì họ khiến được khen ngợi.

Hỏi: Nêu rõ bốn pháp, số này là không nghĩa, sao lại nói tự thể sáng tỏ?

Đáp: Về toán số bốn là nói theo nghĩa thâu giữ, vì chúng rộng lớn không cùng tận, đề phòng trường hợp người nghe không thích nghe nhiều, nên dùng số gồm thâu khiến nhớ giữ dễ dàng, như sợi dây xâu kết các hoa không khiến chúng rơi rớt.

Hỏi: Vì sao chỉ nhất định có bốn, không nhiều cũng không ít?

Đáp: Là để ngăn chận những câu hỏi không cùng tận và vô nghĩa.

Lại còn có dụ là để giúp cho kẻ bị thoái mất ba thứ trí có thể gồm thâu giữ, nên nêu rõ về bốn số.

Lại có trường hợp khác, lược nói có ba thứ trí tuệ: Văn, Tư, Tu.

Ở đây, ba pháp trước đa số chỉ rõ việc mất hết trí tuệ về Văn. Pháp thứ tư đa số nêu rõ đã mất hết trí tuệ về Tư, Tu v.v… Thế nên, nói bốn pháp.

Thứ đến là chỉ rõ tướng gần trong các pháp, lần lượt giải thích nghĩa sai biệt.

Lúc Đức Phật nói với Ca-diếp là nhằm khuyên bảo thính chúng, kể cả đồ đệ của thính chúng, phải nhất tâm lắng nghe, không nghĩ đến chuyện gì khác.

Pháp, khiến người nghe xả bỏ phiền não nên nói là nghe pháp. Nếu không nói pháp thì nghe pháp sẽ có người sinh nghi. Vì muốn nói pháp là nhằm vào những người ấy mà nói.

Hỏi: Trước có nói đến Bồ-tát. Do nghĩa gì nên gọi là Bồ-tát?

Đáp: Là người hành Đại thừa, nên Bồ-tát này gọi là gồm thâu nhiều nghĩa. Nay lược nói có ba nghĩa, nên biết là tin, tu hành, chứng đắc.

Thế nào là tin? Là hiểu biết do có trí tuệ thâm diệu, nên có thể khiến người khác cùng hiểu biết như mình.

Thế nào là tu hành? Vì nhân là tự lợi và lợi tha nên thường hành trì Bồ-đề vô thượng.

Thế nào là chứng đắc? Là dùng lực của trí tuệ khiến chứng được đạo Bồ-đề vô thượng.

Người thoái mất trí tuệ: Là nêu rõ về hai thời có hai thứ mất: (1) Mất sau khi đã có được. (2) Sẽ mất khi có được.

Thế nào là thoái? Thế nào là mất? Ở trong pháp vô lậu là mất khi sẽ được. Còn lại là ở thế gian, hai thời đều cùng mất. Do không biết phân biệt hơn kém nên nói thoái mất trí tuệ.

Hỏi: Pháp vô lậu cũng mất chăng?

Đáp: Giải thích thì không phải thế. Nói thoái mất trí tuệ là nhằm nêu rõ nhân không phóng dật. Ở trong các việc đã làm đều khiến hành trì pháp.

Vì sao nói thoái mất trí tuệ? Vì trí hữu lậu và trí vô lậu đều là nhân hỗ trợ đạo. Trí hữu lậu này đã được, nhưng chưa được cả hai nên lại mất. Trí vô lậu mất là do không được. Đã chứng đắc trí vô lậu thì không có thoái mất.

Hỏi: Vì sao không tôn trọng pháp khiến có thể bị thoái mất trí tuệ?

Đáp: Vì hay giận dữ nên không tôn kính. Vì không tôn kính nên không lắng nghe. Vì không lắng nghe nên không sinh hiểu biết. Do không sinh hiểu biết, tức hiện rõ là thoái mất trí tuệ. Keo kiệt đối với các pháp, nên khi đã nhận các pháp lại giấu không nói hết, nên người không lắng nghe. Vì không lắng nghe nên trong đời vị lai, các duyên không đủ. Duyên không đủ nên thoái mất trí tuệ. Đối với người ưa chuộng pháp mà gây trở ngại, nói các nhân duyên gây khó khăn, hủy hoại tâm trí họ. Hoặc có người khác lại nói: Đã phạm tội lại che giấu thì không thể sám hối lỗi mình v.v… Được nghe quả báo của chướng, do vậy nên mắc phải nhân ngu si, thế nên trong đời vị lai tất sẽ bị ngu si. Do ngu si, nên trí tuệ bị thoái mất. Tâm kiêu mạn, tự cao, tự khen mình, chê người khác, tạo sân hận với họ. Vì đã có sân hận với người khác, nên nói năng điên đảo. Vì đã nói năng điên đảo, nên trong đời vị lai sẽ chiêu cảm điên đảo. Do đấy thoái mất trí tuệ.

Hỏi: Thời gian nào thì thoái mất trí tuệ?

Đáp: Trong hai thời, tức hiện tại và vị lai.

Hỏi: Nếu các pháp như bố thí v.v… cũng có thoái mất, nhân có kẻ keo kiệt v.v… đối với các pháp. Vì sao chỉ nói về nhân thoái mất trí tuệ mà không nói nhân thoái mất bố thí v.v…?

Đáp: Vì trí tuệ dễ mất nên nói trước. Vì Bồ-đề là tánh của trí.

Các Ba-la-mật khác đều phát sinh từ trí tuệ ấy và dựa vào trí. Bồ-tát ở trong trí tuệ mà có hành tà thì đối với Bồ-đề và pháp trợ Bồ-đề không gọi là hành chánh. Do vậy, chỉ nói đến nhân thoái mất trí tuệ mà không nói nhân thoái mất bố thí v.v… Như thế, không kính trọng các pháp là nhân khiến thoái mất trí tuệ.

Bốn câu nói rõ về bốn pháp không thích nghe v.v… Trong đấy, không kính trọng là nói rõ vì không ưa thích nghe nên keo kiệt nơi pháp. Không nghe chướng ngại nơi pháp khác, nên không được nghe quả báo của chướng. Do ngã mạn, tâm cấu uế, nên nói năng điên đảo. Như thế, trí không thể hỗ trợ cho nghe v.v… nên thoái mất ý.

Bốn pháp này do lại có tướng của trí khác, nghĩa là sinh khởi bốn pháp ăn năn trong hiện tại và vị lai. Bốn pháp đó là:

  1. Không thể sinh hiểu biết.
  2. Các duyên không đủ.
  3. Hỗ trợ phước báo của ngu si.
  4. Cùng đã điên đảo.

Dựa vào không nghe, nên trong hiện pháp không phát sinh hiểu biết đúng đắn. Do dựa vào không nghe, nên trong đời vị lai các duyên không đủ. Dựa vào việc nghe chướng ngại, nên sẽ nhận lấy báo ngu si trong đời vị lai. Dựa nơi tâm cấu uế, nói năng điên đảo, nên trong đời vị lai sẽ nhận lấy quả báo điên đảo.

Hỏi: Không tôn kính pháp và không kính trọng Pháp sư, hai câu này được lặp lại là có nghĩa gì?

Đáp: Cách nói lặp lại trong hai câu này là hiển bày đầy đủ ý không ưa thích nghe. Nếu có người giận dữ, hủy báng, thì không kính trọng pháp, nên không nghe pháp đó. Còn kính trọng Pháp sư nên ưa thích lắng nghe pháp. Lại có kẻ sân hận không kính trọng Pháp sư, nên không lắng nghe pháp. Lại có người sân hận, nhưng kính trọng pháp, nên có thể lắng nghe pháp. Nếu có đủ sân hận, hủy báng, không kính trọng, thì những chúng sinh đó không còn cách gì để có thể lắng nghe pháp. Thế nên hai câu này được lặp lại nhằm chỉ rõ đầy đủ ý không ưa thích nghe pháp.

Hỏi: Keo kiệt với các pháp đã hiểu, nhận giữ các pháp giấu kín không nói hết, hai cây này nêu rõ về nghĩa gì?

Đáp: Keo kiệt với các pháp: Là thấy mình hiểu biết hơn những gì người khác biết, tức ở trong pháp giữ kín không chịu nói hết. Giữ kín: Là để phòng về sau có kẻ không kính trọng và sợ họ sẽ hơn mình.

Hoặc lại có nghĩa: Là dù có thỉnh cầu hay không thỉnh cầu, hoàn toàn không nói pháp. Do bỏn sẻn tiếc pháp, hoặc vì như vừa nói, hoặc lại không nói, hoặc vì tánh keo kiệt nên hủy bỏ chánh pháp. Lìa bỏ chánh pháp, tức là hủy hoại tâm mình. Còn hiểu, nhận pháp mà cố giữ kín không nói hết vì khởi tâm keo kiệt, thì đó là hành suy hoại.

Có người ưa thích pháp mà lại gây trở ngại cho họ, nói những nhân duyên gây khó khăn để hủy hoại tâm họ. Hoặc nói có người khác bảo: Đã phạm tội mà che giấu thì không thể sám hối. Những câu như thế còn có nghĩa nào khác? Ở đây người ưa thích pháp lại bị gây trở ngại đấy là nói có người khác nói.

Thế nào là người ưa thích pháp mà bị gây trở ngại? Là nói những nhân duyên gây khó khăn để hủy hoại tâm họ. Hoặc quở trách, nói là có người nói: Đã phạm tội mà che giấu thì không thể sám hối tội lỗi.

Thế nào là gây khó khăn, hủy hoại người, pháp đều nói các ác? Hết thảy pháp hiện có là từ người vui thích nghe. Pháp kia với người ưa nghe đó, nhưng đã không nói thật, chỉ nói vô nghĩa, lại còn bảo: Ta có khả năng nói vô số thứ, nói như thế là khiến người kia không còn ưa thích nghe.

Thế nào là nói các nhân duyên quở trách v.v…? Là đã nói không đúng đắn, lời nói lại không hạn chế. Hoặc lại đối với kẻ ưa thích nghe pháp, đã hỏi họ những câu khúc mắc, khó khăn. Khi nghe những câu hỏi như thế thì người kia không nghe pháp nữa, cũng không còn ưa thích nghe.

Thế nào là không thể vì kẻ khác nói lời giáo hóa? Là được thỉnh mà không nhận. Có người khác ưa chánh pháp đến thỉnh vấn việc giảng nói pháp, nhưng vì mình vốn đã keo kiệt pháp, nên không nói cho họ. Lại cũng không chỉ cho họ thỉnh cầu Pháp sư khác v.v… Nếu người kia có ý muốn thỉnh hỏi Pháp sư khác, thì không chấp thuận.

Thế nào là che giấu? Là nói với người nghe pháp, quở trách chúng đang nghe pháp, với pháp lại nói: Các ông là những người không có trí, còn pháp này rất là thâm diệu nên không thể nhận biết, thông đạt được. Do đã nói với chúng nghe pháp như thế, nên che giấu chánh pháp. Nhân duyên gây trở ngại pháp như thế, dẫn đến quả báo là gặp phải xứ nạn. Tâm kiêu mạn, tự cao, khen mình, chê khinh người khác, những câu như thế có ý nghĩa gì? Kiêu mạn được nói trong câu thứ nhất, thì kiêu mạn là thế nào? Là tự khen mình là hơn hết, rồi chê bai người khác.

Thế nào là khen mình là hơn hết? Là tự mình đã nói về điều không tốt, tu hành không chân chánh. Lại thấy người khác nói đều là tốt, tu hành cũng chân chánh, trong đó khởi tâm kiêu mạn, đố kỵ.

Thế nào là hủy báng người khác? Đối với người khác khéo nói pháp, khéo tu hành, thì sinh ý không tốt, nói họ tu hành bất thiện, luôn có tâm tưởng kiêu mạn, ganh ghét, thế nên không thể chứng được trí tuệ chánh giác.

Thuộc về các pháp đã chứng đắc hết, ở đây chỉ lược nêu:

  1. Chỉ bị thoái mất.
  2. Thoái mất như thế nào?
  3. Do thời gian nào thoái mất?
  4. Các pháp đã có được đều thoái mất.

Bốn thứ vừa nêu đã chỉ rõ đầy đủ.

Thoái mất ở nơi nào? Đó là ở trong trí tuệ.

Còn thoái mất như thế nào? Do tưởng nào mà thoái mất? – thì đã giải thích ở trước.

Thời gian nào khiến thoái mất trí tuệ? Là hiện tại và vị lai.

Các pháp đã có mà bị thoái mất: Là làm rõ về bốn pháp như không kính trọng v.v… Đã có bốn pháp như không kính trọng v.v… này, nên có thể khiến cho trí tuệ bị thoái mất, làm chướng ngại chánh pháp.

Nói về bốn pháp đối trị: Lại nữa, này Ca-diếp! Bồ-tát có bốn pháp thành tựu đại trí tuệ. Những gì là bốn pháp? Đó là cung kính, tôn trọng pháp, kính trọng các Pháp sư, tùy thuận hành sự cung kính này là nhân của pháp, gây được nhân của đại trí tuệ.

Bốn thứ trí tuệ phát sinh: (1) Khởi đầu. (2) Thành thục. (3) Trợ đạo đầy đủ. (4) Có khả năng thành tựu Bồ-đề.

Nhưng chỗ cung kính đó phải có sự ưa thích lắng nghe pháp. Đã được nghe pháp nên trí tuệ phát sinh. Theo các pháp đã được nghe đọc tụng, thọ trì, đem tâm thanh tịnh giảng nói rộng cho mọi người, không từng mong cầu các thứ tiếng tăm, lợi dưỡng, cung kính nào v.v…, chỉ nhằm giáo hóa khiến chúng sinh thành thục được tâm trí, khéo nhận biết trí tuệ từ đa văn sinh nên luôn tinh tấn, không biếng trễ, như cứu lửa cháy đầu.

Nghe pháp, đọc tụng, ghi nhớ, ưa thực hành đúng theo lời giảng nói, nhưng không lệ thuộc vào lời nói, luôn cầu được hiểu biết rộng. Như vậy được nghe pháp, thì nhớ giữ không quên, khiến được đầy đủ trí trợ đạo hành trì chân thật. Khi hành trì không tùy thuộc vào lời nói và âm thanh, chỉ chú trọng ở chỗ hành chân thật, mới có thể đạt được trí tuệ Bồ-đề.

Sự tôn kính pháp và kính trọng Pháp sư ở đây là để đối trị kẻ không kính trọng pháp, nên biết.

Theo các pháp đã được nghe, dốc đọc tụng, thọ trì, ở đây nghe là do nhĩ thức, đọc tụng, thọ trì là do ý thức. Hoặc nghe là văn tuệ, đọc tụng, thọ trì là tư tuệ.

* Kinh nói: Đem tâm thanh tịnh giảng nói rộng cho mọi người là để lìa bỏ tâm keo kiệt, ganh ghét, không mong cầu tất cả tiếng tăm, lợi dưỡng, cung kính v.v… vì đó là nhân của bỏn sẻn pháp, nên dứt bỏ.

Lợi dưỡng là như y phục v.v… Cung kính là như lễ bái v.v… Tiếng tăm là những lời khen ngợi, tán dương các công đức. Do đa văn nên có thể đạt được trí như văn tuệ v.v…

Đã như cứu lửa cháy đầu, đó là việc phải tu tập để cầu văn tuệ. Vì cầu văn tuệ sẽ khuyến khích tạo chuyển biến sáng suốt để tu tuệ.

Như có người bị cháy đầu, cháy áo, thì họ phải bỏ mọi chuyện để lo cứu đầu, áo. Bồ-tát cũng như vậy, nhận biết văn tuệ là nhân của trí, trí này cho đến cũng có thể làm nhân để được Nhất thiết trí. Siêng năng mong cầu văn tuệ là do tự và lợi tha. Tùy pháp đã được nghe, có thể đọc tụng, vâng giữ và hành đúng theo lời giảng nói. Hoặc do nghe pháp mà hiểu được nghĩa, là đã thuận hành nên có thể phát sinh trí như thuận.

Không phải như chỉ có âm thanh và lời nói, không phải như chỉ cầu được nghe, không phải chỉ là miệng nói, vì có khi lời nói vô nghĩa, hoặc lời đã nói đều không có lợi ích xuất thế gian.

Theo thứ lớp giải thích, không cung kính tôn trọng pháp và hành thuận pháp, trở thành keo kiệt với các pháp. Do keo kiệt với pháp, nên đối với người ưa cầu pháp dấy khởi chướng ngại, giữ kín, không giảng nói. Ba thứ đó đã làm nhân cho sự mất trí tuệ. Đã không có trí nên kiêu mạn khởi lên. Tự nêu pháp đối trị là tôn kính pháp, là tu hành đúng pháp cùng thứ lớp pháp nên lìa bỏ tâm keo kiệt, tiếc pháp. Phải theo pháp đã được nghe, giảng nói rộng cho mọi người. Vì ưa thích pháp nên mong cầu được nghe nhiều, hiểu rộng. Nghe nhiều hiểu rộng tức có thể hành trì hạnh lợi mình, lợi người. Theo như lời dạy tu tập nhưng không vướng mắc nơi ngôn ngữ, âm thanh.

Tâm Bồ-đề chính là phần căn bản của trí. Nhất thiết trí chính là lấy tâm Bồ-đề làm gốc. Do đó, không quên mất tâm Bồ-đề. Quên mất tâm Bồ-đề nhưng không quên nhân của các pháp.

* Kinh nói: Đức Phật bảo Ca-diếp: Bồ-tát có bốn pháp khiến quên mất tâm Bồ-đề. Những gì là bốn pháp? Đó là: Khi dể, lừa dối các vị A-xà-lê v.v…

Hỏi: Vì sao chỉ nói có bốn pháp có thể là nhân quên mất tâm Bồ-đề mà không nhiều, không ít?

Đáp: Vì sự quên mất này có bốn thứ. Lược nói là:

1. Không chánh tín nên quên mất tâm Bồ-đề.

2. Tin điên đảo nên quên mất tâm Bồ-đề, nhận thấy có lỗi đối với tâm Bồ-đề.

3. Các pháp được thọ nhận đều là giả danh, tâm cố chấp nên quên mất tâm Bồ-đề.

4. Tâm đạt được Thể của pháp nên quên mất tâm Bồ-đề.

Trong bốn thứ quên mất này, đối trị có bốn thứ nhân theo thứ lớp như thế, nên biết.

Ở đây, khi dể, lừa dối các vị A-xà-lê, Sư trưởng v.v… là đối trước mặt Sư trưởng không thể nói lời thật, đã phạm tội nhưng không phát lồ sám hối, lại lừa gạt, nói dối, nên trở thành khinh khi, lừa dối Sư trưởng.

A-xà-lê là người có thể can gián, khuyên răn, trao truyền. Chiếu theo giới điều người kia đã phạm để khuyên họ nên phát lồ sám hối, nói rõ việc này không nên làm. Tội đã phạm trước muốn sám hối để diệt trừ, thì A-xà-lê nói các phương tiện: Ông nên nghĩ như thế này: Sư trưởng là người có thể hỗ trợ tạo lợi ích, làm tăng trưởng lời dụ của Thánh, tuy không phải là Sư trưởng, nhưng vì đã có các công đức, thương xót và ưa khuyến khích dứt bỏ ác, tu thiện. Vì đã phạm tội, nên khiến người kia nói dối và quên mất. Do nghĩa đó nên càng làm cho nghiệp báo phát triển thêm lên, thế nên trở thành không chánh tín quên mất tâm Bồ-đề, nên biết. Nếu người kia không thể khiến người khác quên mất tâm Bồ-đề, như thế người kia đã hành tập nói dối và làm chướng ngại cho việc thành tựu giới nên quên mất tâm Bồ-đề. Đó gọi là nhân thứ nhất, khiến kẻ không nghi hối sinh tâm nghi hoặc, hối tiếc. Người đồng tu phạm hạnh không nghi ngờ có thể khiến sinh khởi điên đảo, nghi ngờ. Người tu hành giới hạnh chân chánh trong phạm hạnh khiến sinh khởi tâm nghi hoặc đối với giới cấm.

Như vậy, người đồng phạm hạnh kia không chí tâm cung kính, tâm lại hành dua nịnh quanh co, sinh nghi hoặc đối với giới luật, nên phát sinh nghiệp chướng sâu nặng. Vì lẽ đó tâm Bồ-đề bị điên đảo, không chánh tín, không thấy lỗi, nên quên mất tâm Bồ-đề. Nếu người kia không thể khiến cho người khác sinh nghi hoặc, thì tìm cách hủy báng việc nói pháp, khiến quên mất tâm Bồ-đề. Đó gọi là nhân thứ hai.

Người tu Đại thừa, bị quở mắng, hủy báng, bêu xấu. Người ưa tu học chánh pháp theo chỗ có lợi của pháp, thì kẻ kia có thể khiến xa lìa, từ bỏ. Nếu có người tin ưa tu tập Đại thừa, thì kẻ kia nhằm phá hoại nên quở mắng, hủy báng, bêu xấu, nói lời bất thiện, nói lời phá hoại, không lợi ích. Lời nói không lợi ích ở đây là lời nói không tốt. Bêu xấu là vạch lỗi lầm của người, bảo họ là phá giới, lời người ta nói ra đều cho là ác. Vạch khuyết điểm của người, bảo đó là phi phạm hạnh. Người hay phân biệt nói là không xứng công đức, tùy vào lời nói để cho là xấu ác. Do có những sự việc như vậy, nên người kia đem những chuyện ấy hướng vào Bồ-tát để nói lời không lợi ích, phân biệt rộng, bêu xấu. Người muốn tu tập Đại thừa, như vậy dễ khiến thoái lui và bị mê lầm. Kẻ kia hướng vào các Bồ-tát, tâm không cung kính, nên Bồtát có được bao nhiêu công đức, cũng đều che giấu. Đã che giấu nên sự ác độc và nghiệp chướng càng sâu nặng hơn. Do kẻ kia gây chướng ngại, nên những gì tâm đã tu tập giới trước đây đều bị hoại diệt. Nếu khiến không thể che giấu được công đức chân thật của Bồ-tát, thì giới của người kia bị chướng ngại, tâm bị thoái mất. Đó gọi là nhân thứ ba.

Đem tâm dua nịnh quanh co làm việc với người khác, là không có tâm chân thật. Hoặc muốn các Pháp sư nêu rõ những sự việc bí mật thì lại khiến tâm kẻ đó bị mê hoặc. Dua nịnh ở đây là dối trá, không có tâm chân thật mà hành sự với người khác. Quanh co là tâm nịnh bợ, lừa dối, không có tâm chân thật cùng tùy thuận với người. Vì muốn các Pháp sư chỉ bày làm rõ việc thực hành các sự bí mật. Theo các Pháp sư để được nghe pháp sâu xa vi diệu. Nghe rồi, nếu có người tu hành Đại thừa, thì kẻ kia khởi ý hủy báng. Tạo ý như thế, nên nghiệp ác thêm sâu khôn lường. Đáng lẽ được tâm thuận pháp, nhưng do có nghiệp chướng đó nên trở thành xa lìa pháp, tâm thoái mất. Nếu không thể hủy báng khiến xa lìa thì người kia cũng bị chướng ngại trong giới cấm, tâm cũng bị thoái mất.

Nói tóm lại: Do cái gì nên thoái mất? Đó là tâm thoái mất vào lúc nào? Nên hành ra sao trong pháp hiện tại, đã qua, sẽ đến? Có những tướng gì biểu lộ cung kính bất chánh đối với các thầy, các bậc tôn trưởng? Tức có đủ bốn pháp ấy. Đây là nói rõ bốn pháp thiện đối trị bốn pháp vừa nêu.

* Kinh nói: Cho đến nhân duyên phải bỏ mạng, Bồ-tát vẫn không cố ý nói dối: Là nhằm bảo vệ lời nói thật. Do không tiếc nơi thân mạng, huống chi là nói lời đùa cợt. Đối với các tội nhẹ, nhỏ, Bồ-tát vẫn cảm thấy sợ hãi lớn. Bồ-tát luôn đem tâm chân thật hòa hợp với mọi người, do đã lìa bỏ tâm dua nịnh, không còn có ngã. Tâm chân thật là tâm thành thật, luôn tùy thuận, thân cận, vô ngã, lìa các lo toan. Bồ-tát thân cận như thật, không thể hiện sự giả tạm, hành hạnh xa lìa các thứ dua nịnh, quanh co, xa lìa kẻ không điều phục tâm ác. Đối với tất cả các Bồtát, luôn sinh tưởng chư vị là Đức Thế Tôn, có thể vì các Bồ-tát trong bốn phương luôn xưng tán công đức, tùy những lợi ích có được từ các pháp do các Bồ-tát hành tạo mà khen ngợi. Bồ-tát tự không ưa thích thích các pháp của Tiểu thừa, theo các chúng sinh được hóa độ, khiến họ đều trụ nơi đạo Chánh đẳng Chánh giác Vô thượng. Bồ-tát không ưa thích sự hành hóa hạn hẹp, có thể cho mình yếu kém hẳn. Bồ-tát đã tu hành từ những nghĩa thù thắng, phải nắm lấy ý muốn gồm thâu chúng sinh để giáo hóa. (Các câu này sẽ được lần lượt giải thích lại sau)

Khinh khi, lừa dối A-xà-lê v.v… lại không cung kính cúng dường các vị A-xà-lê, Sư trưởng v.v… Trong giới pháp không sinh ý niệm ân cần, tôn trọng nhanh chóng, bản thân không biết hổ thẹn, ăn năn lỗi lầm. Thấy người khác có hổ thẹn, ăn năn hối lỗi, lại làm cho họ sầu não, càng khiến tâm họ không được yên vui, càng làm cho họ thêm lo buồn. Mình không biết hổ thẹn mà lại khuyên bảo kẻ khác ăn năn tội lỗi. Đối với người tu học Đại thừa, thì nói các việc xấu ác, nhằm hủy báng người mới phát tâm Bồ-đề. Vì không có tâm tạo lợi ích cho người khác, nên sống với người theo tâm dua nịnh quanh co, không phải với tâm chân thật.

Các câu: “Lại có”, “Không mất” sẽ theo thứ lớp giải thích lần nữa. Vì dùng lời nói thật nên không quên nhân tích tập tâm Bồ-đề, không mất tâm Bồ-đề, là đã khởi đầu tạo lợi ích cho chúng sinh. Trong tự thân Bồ-tát có vô lượng các pháp hy hữu, biết đã kính trọng tâm Bồ-đề và nhân của Nhất thiết trí. Đối với tâm Bồ-đề cùng tất cả Bồ-tát, Bồ-tát đã sinh khởi tưởng là Đức Thế Tôn. Vì kính trọng tâm Bồ-đề, nên giáo hóa chúng sinh, Bồ-tát đều khuyến khích tất cả đồng hướng về quả vị Chánh đẳng Chánh giác Vô thượng. Không ưa thích mong cầu hành hóa theo pháp hẹp, kém của Tiểu thừa. Tâm Bồ-đề là ứng hợp nghĩa của Bồ-tát.

Hỏi: Nếu là Bồ-tát mới phát tâm: Ta sẽ thành tựu quả vị Chánh giác, thì tâm ấy có tánh gì? Lại có tướng gì? Có những niệm gì? Có công đức gì? Có những sự việc thù thắng nào? Do đâu được gồm thâu? Vì ai làm căn bản? Cái gì là nhân của khí thế hiện tại? Nương dựa vào đâu?

Đáp: Câu hỏi đầu thì Bồ-tát lấy chánh nguyện làm tánh. Há muốn cầu tướng Bồ-đề! Là niệm và niệm về chúng sinh. Vì nhân của Nhất thiết trí là vô lượng công đức, nên lập nguyện trên cả nơi thế gian, Thanh văn và Duyên giác. Vì địa thắng tín đã gồm thâu cội gốc của Bồ-đề vô thượng. Từ bi là nhân của khí thế trong hiện tại, là chỗ dựa của Bồ-tát giới.

Nhưng phát tâm Bồ-đề này lược nói có 2 thứ:

  1. Nhân xuất thế gian.
  2. Nhân không xuất thế gian.

Nhân xuất thế gian: Là nếu đã phát tâm rồi thì vĩnh viễn theo đuổi hành trì không quên. Đó gọi là nhân xuất thế gian.

Nhân không xuất thế gian: Là nếu tâm không vĩnh viễn gắn bó, theo đuổi thì quên mất tâm đó.

Thoái chuyển cũng có 2 thứ:

  1. Vĩnh viễn thoái chuyển.
  2. Không vĩnh viễn thoái chuyển.

Vĩnh viễn thoái chuyển: Là cũng có một số người thoái chuyển nhưng vẫn còn khả năng phát sinh.

Không vĩnh viễn thoái chuyển: Là hoặc có người vừa thoái chuyển liền phát sinh ngay. Tuy nhiên, tâm đó phải do bốn thứ duyên, bốn thứ nhânbốn thứ lực mới có thể phát sinh.

Những gì là bốn thứ duyên?

1. Thấy, nghe những sự biến hóa hy hữu của Như Lai, nên phát tâm Bồ-đề.

2. Nhân đối với Bồ-đề vô thượng do nghe pháp mà thương xót, nguyện đem lại lợi ích cho chúng sinh, nên phát tâm Bồ-đề.

3. Bồ-tát vì muốn cho chánh pháp được trụ lâu trong thế gian, nên phát tâm Bồ-đề.

4. Vì thấy trong đời sau cùng, chúng sinh phải chịu nhiều khổ não trầm trọng, nên phát tâm Bồ-đề.

Những gì là bốn thứ nhân?

  1. Có đủ tánh.
  2. Có đủ tri thức thiện.
  3. Lấy tâm từ bi làm đầu.
  4. Không sợ hãi cảnh sinh tử của thế gian với vô số loại nhân sâu xa có được từ nghe.

Những gì là bốn thứ lực?

  1. Tự lực.
  2. Lực của người khác.
  3. Lực của nhân.
  4. Lực của sự tu hành.

Ở đây, tự lực: Là do lực của chính mình, có thể vui thích nhằm phát tâm Bồ-đề, cầu đạt Chánh đẳng Chánh giác Vô thượng, đó gọi là tự lực.

Lực của người khác: Là do người khác khuyến khích, khiến mình phát tâm, đó gọi là lực của người khác.

Lực của nhân: Là trước đây đã được học pháp thiện của Đại thừa, đó gọi là lực của nhân.

Lực của sự tu hành: Là trong pháp hiện tại, thân cận tri thức, nơi đêm dài sinh tử, nghe, tư duy v.v… về chánh pháp, học tập, hành trì điều thiện không dừng nghỉ, đó gọi là lực của sự tu hành.

Trong phần này, hoặc nói rộng hay tóm lược. Vì bốn duyên và bốn nhân ấy nương dựa vào nhau. Nếu khiến về bên trong thì tự lực và lực của nhân, đủ hai thứ nhân ấy sẽ phát sinh tâm kia, như thế nên gọi là có ích, gọi là kiên cố, không lay động mà sinh. Lực của người khác và lực của sự tu hành sinh khởi tâm Bồ-đề, gọi là không nên dao động khiến mất đi, nên biết.

Tướng thoái chuyển của tâm Bồ-đề cũng có bốn thứ: Vì không có tánh nên thuộc về tri thức ác. Không khởi tâm từ bi đối với các chúng sinh. Vì e sợ đối với thế gian, nên tuy không quên tâm Bồ-đề, Bồ-tát cũng trở lại nhớ giữ tâm Bồ-đề kia. Có thể tu hành công đức với trí sáng suốt, đem căn thiện hỗ trợ đạo. Bồ-tát tu tập các hành như thế, pháp thiện đã diệt, nhân không tăng trưởng, nên giảng nói các pháp.

* Kinh nói: Đức Phật nói với Ca-diếp: Bồ-tát tạo thành bốn pháp, pháp thiện đã sinh, khiến diệt, không tăng trưởng v.v… Những gì là bốn pháp? Chỉ do tâm kiêu mạn, đọc tụng sách vở, chú thuật của thế gian, như thế v.v…

Hỏi: Vì sao chỉ có bốn pháp, không nhiều không ít, nêu rõ về nhân có thể diệt pháp thiện khiến không thể tăng trưởng?

Đáp: Pháp thiện có bốn thứ diệt không tăng trưởng. Đó là:

1. Không sinh nên diệt thì không tăng trưởng.

2. Không có khả năng tăng trưởng nên diệt thì không tăng trưởng.

3. Trừ bỏ căn bản nên diệt thì không tăng trưởng.

4. Tạo tác và xa lìa nên diệt thì không tăng trưởng.

Trong đó, các pháp bạch không sinh, là nhân của diệt: Là do tâm ngã mạn, đọc tụng kinh điển thế gian, cầu các chú thuật, không thể thông đạt sáu Ba-la-mật và tạng pháp của Bồ-tát. Bồ-tát do tâm ngã mạn chi phối nên mong cầu danh tiếng, lợi dưỡng, ganh ghét điều người khác hơn mình, vì luôn lừa dối, mưu cầu các chú thuật ở thế gian, không thể mong cầu các thứ pháp bạch, pháp thiện. Đã không sinh, các pháp bạch lại bị diệt, nên có thể khiến bị diệt hết cùng với những thứ đã được từ trước. Do duyên sự nên việc nghe, học trở nên yếu kém, là không tăng trưởng, nên diệt. Vì sao? Vì tham vướng nơi lợi dưỡng, danh tiếng, thân cận các Đàn-việt.

Ở đây, lợi dưỡng như là y phục v.v… Cúng dường là như lễ bái v.v…, vì vướng mắc vào lợi dưỡng, danh tiếng, nên nói là tham đắm lợi dưỡng, danh tiếng.

Vì tham đắm lợi dưỡng, danh tiếng, nên sống theo tà mạng, nói rõ hơn là tham đắm nơi của cải nuôi dưỡng mạng sống v.v… nên biết. Vì thận cận với các gia đình Đàn-việt, nên phần nhiều đều gặp phải tai họa trong sự gần gũi. Nếu người kia đã có hai điều nghi như thế tạo thành thì bảo vì đúng như pháp nên được của cải, lợi dưỡng, cho là nhân không diệt, là do ý dựa vào tính chất dua nịnh, quanh co v.v… không trụ trong xứ Thánh. Đã tham vướng nơi danh tiếng, lợi dưỡng như thế, đã thân cận các gia đình bạch y, dùng nhiều duyên để gần gũi, nên các pháp thiện đã nghe v.v… không thể tăng trưởng. Nghe lãnh hội v.v… không tăng trưởng, tức là các pháp thiện đã nghe v.v… đều không tăng trưởng, khiến cho nghĩa mất hết, nên nhân căn bản cũng diệt cùng gia tăng sự hủy báng Bồ-tát. Ác kiến đã có trở lại gia tăng và hủy báng pháp tạng Bồ-tát. Vì đã giận dữ nên càng tìm kiếm, nêu đặt những sự nhầm lẫn của các Bồ-tát, vu khống các Bồtát bằng tội giả đặt, phỉ báng, cho Bồ-tát đó mắc phải tội rất lớn. Do gây tạo nghiệp như thế, nên các pháp thiện hiện có, từ căn bản đều bị nhổ dứt, xa lìa, diệt hết. Xa lìa, diệt bỏ nhân nên chưa được nghe pháp, chưa từng thọ trì kinh pháp, mà lại có thể hủy báng. Chưa nghe pháp nghĩa là đạo pháp chưa đến với nhĩ thức. Chưa từng thọ trì là đã tiếp cận đạo, nhưng không đọc tụng, thọ trì, lại hủy báng các giáo pháp đốn ngộ và các kinh pháp. Do từ nghĩa đó, nên Đức Như Lai mới giảng nói kinh này. Trong Đại Ưu-ba-đề-xá cũng đã nói nghĩa ấy. Nếu có sư tà lại có thể lường xét tâm ý của Như Lai, thì kẻ đó chỉ làm được việc là hủy báng lớn đối với chánh pháp. Thế nên, phải xa lìa các pháp diệt, khiến các pháp bạch bị diệt. Vì đối trị nơi điên đảo, nên làm rõ các câu pháp như bạch, thiện v.v… ấy, nên biết.

Thế nên, Đức Như Lai bảo Ca-diếp: Này Ca-diếp! Bồ-tát thành tựu bốn pháp, pháp thiện đã sinh, được chuyển biến tăng trưởng tốt đẹp, không khiến bị mất, lại chuyển biến thù thắng gấp bội. Bốn pháp đó là: Lìa bỏ pháp tà, chỉ cầu chánh pháp, như thế v.v…

Chỉ cầu chánh pháp ở đây là sáu Ba-la-mật nơi pháp tạng của Bồ-tát. Nghe chân chánh, không phải là nghe không chân chánh. Đã biết rõ các thứ chú thuật v.v… của thế gian nên hoàn toàn bỏ ngoài tai đã nói. Lời nói đưa đến hiểu biết, nhưng còn tùy thuận nơi tâm được khuyến khích. Tâm thiện mềm mỏng, biểu lộ ý nghĩa gì? Là cầu mong những ngôn ngữ, chú thuật của thế gian, hay là nhân của mong cầu.

Vướng chấp nơi ngã mạn là tạo thành những việc chú thuật của thế gian, là mong cầu chú thuật của thế gian. Ngôn ngữ là thành tựu hay từ bỏ tâm niệm về lợi dưỡng, cung kính, danh tiếng. Khiến xả bỏ tâm niệm trên nên nói cầu sáu pháp Ba-la-mật và nhận lấy pháp tạng của Bồ-tát. Dùng pháp, tài sản và lợi dưỡng làm đủ, lìa bỏ tất cả lối sống theo tà mạng, an trụ trong tánh biết đủ của Thánh chủ, lấy lợi ích của pháp làm đủ. Như pháp là có được lợi dưỡng, tâm luôn biết đủ.

Người dứt bỏ hết thảy tà mạng là xa lìa tâm dua nịnh quanh co, an trụ trong tánh biết đủ của Thánh chủ, không sinh tâm mệt mỏi, nên được hay mất không phải do tâm. Hành trì theo hành chánh như vậy, Bồ-tát kia đã thành tựu hạnh lợi mình, lợi người, phòng hộ tâm của người khác. Nếu có lỗi gì hãy còn không can ngăn, hay biện bạch là giả, thật, huống chi là vạch tìm các lỗi hơn kém của người. Bồ-tát này tu hành sáu pháp Ba-la-mật nơi pháp tạng của Bồ-tát. Nếu tâm chưa thông đạt các pháp của chư Phật, thì ở đây chỉ có Phật là hiện tác chứng, nên không sinh tâm hủy báng. Vì sao? Vì Bồ-đề của Phật là vô biên, mà tín căn hiện bày không phải một, nên diễn nói các pháp, cũng là sửa trị các pháp.

Gồm lược mà nêu rõ: Vì sao thoái mất, không thể tăng trưởng? Thoái mất như thế nào? Thoái mất từ bao giờ? Thoái mất những pháp nào? Đó là chỉ rõ các pháp thiện vì sao thoái mất, không thể tăng trưởng? Thoái mất như thế nào? Là do tâm ngã mạn, cầu các thứ ngôn ngữ, chú thuật v.v… của thế gian. Lần lượt nêu bày thoái mất bao giờ, là trong hiện pháp và vị lai. Là những pháp nào? Là gồm đủ bốn pháp. Nơi bằng hữu bạch cũng thế. Pháp thiện hiện có sinh và sinh như thế nào? Sinh vào lúc nào cùng những pháp nào sinh?

Dùng thuyết nào để đối trị? Lại, các pháp này thứ lớp là thuộc về thứ ngã mạn nào? Các thứ lợi dưỡng v.v… hy vọng về các thứ ngôn ngữ, chú thuật v.v… của thế gian v.v… Mong cầu nơi chốn nào tùy thuận? Trông thấy lợi dưỡng nơi nhà Đàn-việt nào, thì có thể gần gũi gia đình ấy. Thân bị ràng buộc do lợi dưỡng, tiếng tăm. Tâm khởi ganh ghét, keo kiệt, vì các gia đình Đàn-việt hiện có đều đã có Bồ-tát khác thân cận. Từ đó nổi giận khởi lên sự bêu xấu, nhân giận dữ đó lại chê bai người, tức là hủy báng chánh pháp. Trong pháp bằng hữu bạch, lần lượt làm rõ các tai họa nên cần xa lìa kiêu mạn v.v…

Thuộc về sáu pháp Ba-la-mật, Bồ-tát tu học nghe biết đúng đắn, có thể tùy thuận pháp tu hành. Hành thuận theo pháp rồi, thì như pháp được thí, do nhận biết lượng. Lìa bỏ hết thảy tà mạng, an lạc trong tánh biết đủ của Thánh chủ. Tham đắm vào lợi dưỡng, tiếng tăm là nhân duyên của sự hủy báng. Không nói tội lỗi của người khác, dù thật hay chẳng thật cũng không tìm kiếm điều thiếu sót của người. Lìa bỏ tâm hủy báng, nên Bồ-tát có khả năng hành tạo lợi ích theo các sự việc đúng như pháp. Hành như pháp nên không hủy báng chánh pháp, lìa bỏ mọi nhân làm tiêu diệt pháp bạch và các pháp. Tu hành các nhân không diệt pháp bạch. Lìa bỏ làm những việc tương tợ nhưng không phải Bồ-tát. Từ bỏ hết thảy các hành tập tâm ác, tạo ác. Tu tập hành tương tợ tâm ngay thẳng của Bồ-tát. Hành tập các hạnh rồi khuyên bảo người khác, hiển bày rõ về các thứ khổ của sinh, diệt, không gây não hại cho người.

* Kinh nói: Đức Phật nói với Ca-diếp: Bồ-tát có bốn thứ tâm dua nịnh quanh co thường phải lìa bỏ. Đó là nên lìa bỏ tâm nghi ngờ, hối tiếc, không quyết định rõ đối với pháp Phật.

Hỏi: Vì sao chỉ nói có bốn pháp?

Đáp: Vì nhân nơi bốn thứ pháp dua nịnh v.v… nên có bốn thứ tâm dua nịnh, do đấy nói bốn thứ dua nịnh, nên biết. Những gì là bốn?

  1. Dua nịnh quanh co đối với thừa.
  2. Giáo hóa thọ nhận của dua nịnh quanh co.
  3. Dua nịnh quanh co hỗ trợ cho công đức.
  4. Dua nịnh quanh co hỗ trợ cho trí.

Ở đây, dua nịnh quanh co đối với thừa: Là tâm sinh nghi hoặc, không quyết định rõ ràng v.v… đối với pháp Phật. Không cung kính, tôn trọng pháp Phật, cũng không kính trọng các giới pháp. Ở trong pháp Phật, sinh nghi hoặc, nên tâm không tin nơi Đại thừa mà cứ lặng lẽ làm. Do có pháp nên sinh nghi, do có ý tìm đức lớn nên bị mê lầm, vì trí không nắm bắt được pháp Phật, nên không có quyết định sáng rõ.

Giáo hóa thọ nhận nhân của dua nịnh quanh co: Là phát sinh tâm kiêu mạn, giận dữ, vọng tưởng đối với các chúng sinh. Do tâm kiêu mạn v.v… nên trong sự giáo hóa các chúng sinh luôn âm thầm sân hận. Không có khả năng chỉ lối do ý tưởng luôn hư vọng, kiêu mạn, giận dữ. Các bậc tôn trưởng cùng các đệ tử đều khuyên giải, can gián, trong những công việc hữu ích, vô ích v.v… nên biết.

Nhân của dua nịnh quanh co hỗ trợ cho công đức: Là sinh tâm ganh ghét, keo kiệt, đối với lợi dưỡng của người khác. Thấy người khác được lợi dưỡng, tâm ý phát sinh ganh ghét, giận dữ, gây rắc rối. Hoặc thấy kẻ cầu xin thì sinh tâm luyến tiếc, đó gọi là keo kiệt. Đã phát sinh tâm ganh ghét, keo kiệt mãnh liệt như thế, thì đối với sự việc hỗ trợ trí tuệ, công đức luôn bị sân hận chi phối không tu hành, nên các trí tuệ, công đức liền thoái mất.

Nhân của dua nịnh quanh co hỗ trợ cho trí: Là bêu xấu các Bồ-tát, nào là tên ác, gọi ác, hành ác v.v… Những việc nói về tên ác, trước đây đã giảng giải ở các câu như: Vì các Bồ-tát mà nói những điều ác, là nói đến kinh thuộc Đại thừa, nên biết. Vì hủy báng Đại thừa, nên đối với trí hỗ trợ đạo, Bồ-tát âm thầm trụ nơi biếng nhác, không tu tập hành trì, nên trí tu đạo bị thoái mất. Vì sự việc này nên nói là bè bạn, nên biết.

Để đối trị tâm dua nịnh quanh co, Đức Phật nói với Ca-diếp: Bồ-tát có bốn thứ tướng chất trực. Những gì là bốn? Là hoàn toàn không che giấu các tội đã phạm v.v… Ở đây, các tội đã phạm hoàn toàn không che giấu, nghĩa là đều hướng về người khác để phát lồ. Sự việc phát lồ nên nói, đó là có tội thì sám hối. Do sám hối như thế, nên về sau không sinh tâm hối hận v.v…, tức có thể phát khởi điều thiện. Không màng đến cõi nước hoặc của cải để tìm sự thật, đó là thị hiện bố thí không tiếc. Thân mạng khó được, do lìa bỏ thân mạng, không dựa vào các thứ khác, nên không nêu ra sự việc gì khác. Lìa bỏ như vậy, khiến kẻ khác bị mê lầm, vì ý ấy nhằm đến chuyện khác. Trong tất cả điều ác, như mắng nhiếc, phỉ báng, đánh đập, trói buộc, gây vô số tổn hại, khi nhận lãnh khổ não mới tự trách mình, tự nhớ lại nghiệp báo, mới hết sân hận người khác.

Các câu này còn có ý nghĩa gì khác? Trong đây, mắng nhiếc là nêu bày điều hư vọng. Giận dữ là giả hay thật đều nói. Gây khổ cho người khác là nói đến tộc họ v.v… nói đến các việc ác. Phỉ báng là dùng nhân để thấy thật rõ sự việc xấu ác. Trách cứ, đánh đập là trong tự thân có đủ các duyên. Trách kể là có đủ ba nghiệp. Đánh đập là dùng các phần thân như tay chân v.v… Giết hại là tay cầm đao gậy v.v… Trói buộc là dùng dây buộc lại. Nơi những sự việc như thế, chỉ nên tự trách ở nghiệp báo của mình, nhân là ở nghiệp báo thiện ác.

Không giận dữ người khác là không giữ tâm sân hận v.v… Không có kiết sử là không mang giữ kiết sử sân giận.

Bồ-tát khéo trụ vững chắc trong niềm tin và mong muốn. Giả sử có người không thể tin tưởng nơi pháp của chư Phật, Bồ-tát có thể khiến cho người ấy tin do tâm thanh tịnh, nói rõ thân tâm đều thành tựu từ trong pháp Đại thừa. Các câu này lần lượt sẽ nói.

Đối với pháp của chư Phật, do tâm nghi, nên không tu tập hạnh giới, khiến các chúng sinh hành theo hạnh tà vạy. Hành theo hạnh tà nên sinh tâm cầu lợi dưỡng, keo kiệt, ganh ghét. Vì không thể chế ngự tâm ganh ghét, nên thấy nghe các Bồ-tát có công đức, lợi dưỡng, thì khởi tâm phỉ báng, bêu xấu. Trong pháp bằng hữu bạch lần lượt cũng có việc nương, giữ giới pháp. Người khéo giữ giới là khéo giữ gìn lời chân thật. Giữ gìn lời chân thật, là có thể hành pháp Thuận nhẫn. Do đủ sức nhẫn nên thân tâm được thanh tịnh, vì vậy có khả năng tin tưởng chánh pháp của chư Phật.

Lược nói về dua nịnh quanh co, đó gọi là tâm hổ thẹn. Dua nịnh quanh co thường biểu lộ ở đâu? Ở trong pháp của chư Phật và do chúng sinh. Dua nịnh quanh co trong thời gian nào? Trong pháp hiện tại, hành tập mà không xả, cũng đến đời vị lai, thuận theo pháp hiện có. Thuận theo thì đã nói nơi hai thứ bốn câu, là thuận theo tướng chân thât ngay thẳng hiện có. Nghĩa ấy như thế nào? Lại do vào lúc nào? Hết thảy có ghi chép được đối trị do pháp bạch, nên biết. Các Bồ-tát can gián tâm dua nịnh quanh co bằng tâm chân thật, ngay thẳng. Do có tâm chân thật, ngay thẳng, nên Bồ-tát nói các nghĩa điều phục, để ngăn chận các pháp dua nịnh quanh co. Bồ-tát khuyên họ điều thuận, chỉ rõ chỗ điều thuận, không điều thuận.

* Kinh nói: Đức Phật nói với Ca-diếp: Bồ-tát có bốn thứ tướng tán hoại không điều thuận. Những gì là bốn?

1. Đọc tụng kinh điển nhưng sinh hý luận.

2. Pháp cùng sự việc thuận pháp, không theo đó để hành.

3. Ở trong sự khuyên dạy không điều phục tâm, khiến tan hoại.

4. (Bản Hán không thấy pháp thứ tư)

Vì sao chỉ nói có bốn pháp? Có bốn pháp, vì có bốn thứ nhân không điều phục tâm khiến tán hoại. Bốn pháp không điều phục tâm khiến tán hoại là:

1. Xứ không điều phục nên tán hoại.

2. Trong sự phát khởi hành không điều phục tâm nên tán hoại.

3. Thọ dụng không điều phục tâm nên tán hoại.

4. Cùng trụ không điều phục tâm khiến tán hoại.

Ở đây, không điều phục nên tán hoại: Gọi là không khéo điều phục, dụ như ngựa dữ. Bốn pháp không điều phục nên tán hoại này có thể gây chướng ngại cho sự tu tập hạnh Bồ-tát, nên gọi là pháp không điều phục nên tán hoại.

Lắng nghe các pháp và ở xứ tu hành lại sinh hý luận, đó gọi là nhân của xứ không điều phục nên tán hoại.

Dụ như ngựa dữ không được điều phục nên tán động. Vì không được điều phục, nên trở lại ở yên chỗ cũ. Bấy giờ, không thể khéo an trụ, lại không thể điều phục, nên khiến không thể không tán hoại. Bồ-tát cũng như thế. Nghe nhiều hiểu rộng về nghĩa pháp. Vì nghe nhiều, hiểu rộng, nên tâm không điều phục. Được các tri thức thiện chính thức khuyên dẫn, khiến tu tập các pháp theo thứ lớp, nhưng không thể chánh trụ. Ở trong sự khuyên dạy không thể thọ nhận pháp hạnh đúng đắn. Đó gọi là nhân phát khởi hành không điều phục tâm nên tán hoại.

Ví như không điều phục được ngựa dữ, đặt nó ở yên nơi đường chánh. Do không điều phục nên ngựa hướng theo đường xấu ác. Bồtát không điều phục cũng lại như thế. Được các tri thức thiện khuyên dẫn tu hành các pháp theo thứ lớp, nhưng trong chỗ khuyên dạy lại hiện rõ tâm niệm điên đảo phân biệt, tức nên chấp giữ điên đảo, tổn hại tâm cung kính cúng dường của tín thí khác. Đó gọi là nhân của việc không điều phục nên tán hoại trong thọ dụng.

Ví như ngựa dữ không được điều phục, ở chung một nơi với các ngựa đã được điều phục, thì ngựa dữ ấy vẫn sống khác với đàn ngựa kia, thế nên nói là không điều phục. Bồ-tát không điều phục cũng lại như thế. Tuy đồng trụ với các Bồ-tát đã được điều phục, nhưng vì giới hạnh đã có thiếu sót, sai phạm, nên việc thọ nhận sự cung kính cúng dường của tín thí trở thành sự hối hận. Không hành trì giống như Bồ-tát khéo điều phục, không ưa thích tri kiến nên phát sinh tâm phỉ báng, không cung kính những Bồ-tát khéo điều phục kia. Đó gọi là nhân của xứ không điều phục nên tán hoại.

Ví như ngựa dữ không được điều phục ở chung một nơi với đàn ngựa đã được điều phục. Do không được điều phục nên tâm không thấy vui thích. Người khéo điều phục và người không điều phục cùng ở chung một nơi chốn cũng thế. Bồ-tát không điều phục cũng lại như thế. Do tự có kiến thủ, nên tâm không thấy vui thích khi ở chung với các Bồ-tát đã khéo điều phục. Bồ-tát đã khéo điều phục cũng lại như vậy.

Ở đây, Điều là các căn đã được điều thuận thù thắng. Phục là một lòng diệt trừ các ác để được hạnh tốt đẹp. Chuyển đổi đối trị tất cả pháp đen, nên biết là giảng nói pháp bằng hữu trắng.

* Kinh nói: Khéo nói cho người nghe, nghe rồi tin nhận, hành trì như lời đã nói. Nương dựa vào pháp, không dựa vào lời nói. Không phải đem tâm ganh ghét tranh lấy phần hơn, chỉ lắng nghe chánh pháp, cầu được lợi ích, không tìm kiếm để thấy các khuyết điểm của người khác.

Bồ-tát hành trì các việc như thế thì thường được gặp pháp không lìa tri thức thiện, thuận theo lời thầy dạy, có thể nhận biết chỗ nương dựa, hành đúng với những lời đã giảng nói, không trái ý thầy, giới định không thoái chuyển.

Các câu này còn có nghĩa gì khác? Trong đây, đối với chỗ khuyên dạy, luôn thuận theo lời thầy: Là gồm chung đều có thể khiến làm việc thiện. Dùng dụ nơi lời nói: Là nghe những điều thiện, ác, đều nhẫn nhục.

Mọi việc làm đều thiện: Là mọi lúc đều không vi phạm giới cấm. Không làm trái ý thầy: Là tâm luôn kính trọng đối với lời thầy dạy khuyên.

Bồ-tát hành trì các việc như vậy, thường được gặp tri thức thiện, không lìa chốn A-lan-nhã, giới định không thoái chuyển, dùng tâm đã điều phục thọ nhận sự cúng dường, đã nói về giới định không thoái chuyển, lại làm rõ lần nữa giới do định mà được nổi bật, nên biết.

Bồ-tát hành hóa thuận hợp rồi, nên thường không xa lìa hành các công đức nơi bậc tri thức thiện. Được gặp các Bồ-tát khéo điều thuận, tức sẽ cung kính, yêu thích, tùy thuận người thiện, khuyến khích thọ nhận hành thuận, hướng thuận, ý thuận các công đức, vì khiến đạt được lợi ích.

Các câu này còn có nghĩa gì khác? Ở đây, các câu khéo điều phục và tùy thuận v.v…: Như trước đã nói. Cung kính, yêu thích: Là chỉ rõ tâm vui mừng, kính trọng.

Tùy thuận hướng theo: Là ưa thích được thấy, gặp. Thuận ý: Là ý muốn thân cận chân chánh. Thuận các công đức: Là ý ưa thích nghe pháp. Vì khiến đạt được lợi ích: Là ý thuận hành pháp này.

Làm các việc làm như vậy, Bồ-tát thành tựu pháp không xa lìa tri thức thiện, đứng đầu trong chúng.

Lược nói: Là do đâu nên gọi là điều thuận, không điều thuận, bên sự việc hư hoại, cùng làm thế nào có được? Là chỉ do các tướng như nghe v.v… Vào lúc nào? Là pháp ở hiện tại và vị lai, được hành tập không ngừng. Do những tướng nào? Là đầy đủ bốn pháp, là hành pháp đối trị như nghe v.v… nên nói pháp bằng hữu trắng v.v… nên biết.

Khởi nói tiếp: Hành pháp như nghe v.v… với tâm kiêu mạn. Tùy thuận hành nơi chánh pháp và các pháp nối tiếp v.v… xong, không hành như pháp đối với chỗ truyền dạy đúng đắn, nên việc thọ dụng của tín thí dễ khiến kẻ ấy rơi vào chốn không lợi ích, vì tâm đã xen tạp cấu nhiễm. Do đấy, gặp các Bồ-tát đã khéo điều phục tâm, không sinh cung kính, nên đối trị bằng cách lần lượt nói pháp bằng hữu trắng v.v… nên biết.

Trong các pháp không điều phục đã can gián, nên khuyên tu tập các pháp điều phục v.v… Trụ trong pháp điều phục và phòng hộ pháp lầm lẫn của Bồ-tát v.v… Khuyên tu tập các pháp không lầm lẫn, nên nói các pháp lầm lẫn, không lầm lẫn.

* Kinh nói: Đức Phật nói với Ca-diếp: Bồ-tát có bốn pháp lầm lẫn, đó là: Đối với các chúng sinh chưa được tin nhận giáo hóa mà cùng đồng ý, đó là Bồ-tát lầm lẫn. Cho đến thâu giữ cả những kẻ ác phá giới v.v… đó là Bồ-tát lầm lẫn.

Hỏi: Do đâu chỉ nói bốn pháp?

Đáp: Vì dựa vào bốn pháp lầm lẫn để nói Bồ-tát có bốn thứ lầm lẫn. Những gì là bốn? Đó là:

  1. Lầm lẫn vì không hành.
  2. Lầm lẫn vì vượt quá dung lượng.
  3. Lầm lẫn vì hành trì không đúng.
  4. Lầm lẫn vì làm điều ác.

Trong ấy, lầm lẫn vì không hành: Là đối với các chúng sinh chưa thọ nhận sự giáo hóa mà cùng đồng ý. Dựa vào sự giáo hóa chúng sinh, khuyên khiến đạt đến cứu cánh. Giảng nói pháp mà đoạn dứt tâm tin tưởng, cung kính của chúng sinh, đó là Bồ-tát lầm lẫn.

Lầm lẫn vì vượt quá dung lượng: Là giảng nói pháp thâm diệu thù thắng cho các chúng sinh không phải là pháp khí hay đối với các chúng sinh theo Tiểu thừa mà khiến cầu Đại thừa, lại không tùy thuận nơi căn cơ mà giảng nói, đó là Bồ-tát lầm lẫn.

Lầm lẫn vì hành trì không đúng: Là đối với các chúng sinh thượng căn, lại giảng nói pháp Tiểu thừa. Hay đối với người theo Đại thừa lại khiến cầu học Tiểu thừa. Giảng nói pháp mà không thuận theo căn cơ, đó là Bồ-tát lầm lẫn.

Lầm lẫn vì làm điều ác: Là đối với các chúng sinh trụ nơi hạnh chánh, giữ giới như pháp, lại giữ lấy việc trị phạt cho là không cung kính, thâu nhận kẻ phá giới. Ở trong việc trì giới, phá giới, tâm lệch lạc nên nói pháp điên đảo.

Ở đây, giữ giới có ba nghĩa, nên biết. Trụ nơi hạnh chánh là không tạo nghiệp phạm giới. Giữ giới là các giới không thiếu sót, không sai phạm. Pháp chân thật là pháp kính trọng giới.

Có hai thứ tướng giải thích thành phá giới: Là phá giới và thiếu sót giới điều.

Pháp ác: Là không kính trọng các giới. Lầm lẫn: Là giữ lấy đạo bất chánh và chỉ rõ đạo ấy, nên biết.

Bốn câu nói về lầm lẫn này, hiện nói bốn pháp:

  1. Không nói.
  2. Nói không tương tợ.
  3. Nói không hợp căn cơ.
  4. Nói điều ác.

Không nói: Là tỏ vẻ mệt nhọc trước và sau khi nói pháp, là đã sinh tâm ác.

Nói không tượng tợ: Là chỗ giảng nói không có phương tiện.

Nói không hợp căn cơ: Là chỉ ưa thích pháp Tiểu thừa.

Nói điều ác: Là giáo huấn, khuyên răn với tâm mong cầu lợi dưỡng.

Ở đây, tâm ác là do không nói nên ở trong các căn thiện liền bị thoái mất, không thể đầy đủ, thế nên chỉ là lừa dối chúng sinh. Vì không có phương tiện thiện xảo để giảng nói pháp, nên không thể thâu giữ được các kẻ có căn thiện bậc thượng. Do ưa thích pháp Tiểu thừa, nên xa lìa hàng căn thiện bậc thượng.

Lại nữa, có thường tâm mong cầu lợi dưỡng khi hành chỉ dạy, khuyên bảo, nên không tích tập được công đức, chỉ hỗ trợ điều ác. Lừa dối chúng sinh nên đối trị việc đó tức nói pháp bạn bè trắng, nên biết.

* Kinh nói: Đối với các chúng sinh, tâm Bồ-tát đều bình đẳng, cho đến khiến cho hết thảy các chúng sinh bình đẳng trụ trong hạnh chánh.

Tâm Bồ-tát đều bình đẳng đối với các chúng sinh: Nghĩa là tâm bình đẳng đối với tự tha. Giảng nói pháp cho các chúng sinh không có lòng tin sâu xa, hay chúng sinh giáo hóa chưa thành thục, phải phòng hộ để không tạo sự lầm lẫn. Tâm nhận biết đối với tất cả chúng sinh, đều bình đẳng khi giảng nói pháp. Hết thảy đối với pháp đều bình đẳng, nên gọi là pháp bình đẳng.

Đối với các chúng sinh không phải là pháp khí, ưa chuộng Tiểu thừa v.v…, mong cầu Đại thừa: Nghĩa là tùy theo năng lực giảng nói pháp, đề phòng sự lầm lẫn vì vượt quá dung lượng, nên biết. Vì thế nói pháp phải tùy theo căn cơ.

Giáo hóa khắp hết thảy chúng sinh khiến nhập vào trí tuệ Phật: Nghĩa là đối với các chúng sinh thượng căn tin ưa Đại thừa, nhưng ý cầu pháp Tiểu thừa, thì nên khuyên bảo khiến họ hội nhập nơi trí tuệ Phật, đề phòng sự lầm lẫn do hành trì không đúng, nên biết.

Khiến cho hết thảy các chúng sinh bình đẳng trụ trong hạnh chánh: Nghĩa là nên từ bỏ các tâm cầu lợi dưỡng, tiếng tăm, phân biệt giữ giới, phá giới, bình đẳng giảng nói pháp, đề phòng sự lầm lẫn vì làm điều ác, nên biết. Can gián Bồ-tát không giữ lấy nhân đúng đắn, cùng không nên gần gũi, là chỉ rõ về nhân có thể gần gũi, không thể gần gũi.

* Kinh nói: Đức Phật nói với Ca-diếp: Bồ-tát có bốn hạng không phải là tri thức thiện, không phải là bạn thiện v.v… Bồ-tát thường nên xa lìa chúng. Những gì là bốn? Là người cầu Tiểu thừa, chỉ muốn tự lợi, cho đến gần gũi. Do thành lợi thế gian, không lợi ích gì cho chánh pháp.

Hỏi: Vì sao chỉ quyết định nói có bốn pháp?

Đáp: Nhân không phải là tri thức thiện, nên nói bốn thứ không phải là tri thức thiện, không phải là bạn thiện, nên biết. Những gì là bốn? Đó là:

  1. Ở trong thừa, không phải là tri thức thiện.
  2. Ở trong hành, không phải là tri thức thiện.
  3. Trong pháp Phật, không phải là tri thức thiện.
  4. Trong chánh pháp, không phải là tri thức thiện.

Ở đây, người Tiểu thừa: Là người chỉ cầu lợi mình, không cầu lợi ích cho người khác. Tánh hạnh tợ như hẹp, kém. Họ khuyên Bồtát khiến xa lìa pháp Đại thừa. Đó gọi là ở trong thừa không phải là tri thức thiện.

Người cầu Duyên giác: Là hạng ít ham muốn, ít tạo tác, chỉ lo xứ tu hành, từ bỏ việc đem lại lợi ích cho chúng sinh. Họ khuyên Bồtát khiến xa lìa các việc làm tạo lợi ích cho chúng sinh. Vì xa lìa hành tạo lợi ích nên thành mất nhân hành. Đó gọi là ở trong hành không phải là tri thức thiện.

Lô-già-da-đà: Là nói vô số lời dị biệt, khuyên khiến xa lìa pháp Phật. Do xa lìa nên thành mất nhân hành. Đó gọi là ở trong pháp Phật không phải là tri thức thiện.

Nếu tạo gần gũi, chỉ có lợi ích thế gian, không có lợi ích gì cho pháp, nên ở trong pháp thiện chỉ lo siêng tu tập thì trở thành nhân thoái mất. Do thoái mất nhân của pháp thiện, nên gọi là ở trong chánh pháp không phải là tri thức thiện.

Đối trị nơi bốn thứ ấy, nên nói bốn hạng tri thức thiện.

* Kinh nói: Những người đến cầu xin là tri thức thiện của Bồtát, là nhân duyên của Phật đạo. Do không khiến đoạn dứt pháp Đại thừa nên gọi những người tới cầu xin là tri thức thiện của Bồ-tát. Nên biết là có sai biệt.

Bồ-tát nghĩ thế này: Ta dựa vào những người đến cầu xin là tri thức thiện, nên tu tập vô lượng công đức, hồi hướng về đạo quả Bồđề vô thượng, là tu hành chân thật. Không mong cầu Tiểu thừa, nên việc tu tập bố thí tất làm lớn thêm căn thiện của Bồ-tát, khiến không mất hành Đại thừa.

Người giảng nói pháp là tri thức thiện của Bồ-tát, vì phát sinh trí tuệ thuần thí nên không mất hành đối trị. Do đa văn nên có thể khiến vì những người khác nói pháp. Vì vậy không cầu sự thiểu dục, văn tuệ thêm nhiều, thuần chí, dù bị khổ nơi thế gian, nhưng Bồ-tát không thấy mệt mỏi. Giáo hóa mọi người khiến được xuất gia, đó là tri thức thiện thuần chí của Bồ-tát.

Tăng trưởng tất cả pháp thiện, là lý đối trị không làm đoạn dứt chánh pháp. Khuyên xuất gia, nên đối với các thứ pháp tà đã được xa lìa. Vì hết thảy căn thiện đã thuần chí nên làm lợi ích không thấy mệt mỏi, biếng trễ, thoái lui.

Chư Phật, Thế Tôn là tri thức thiện thuần chí của Bồ-tát, vì làm tăng trưởng tất cả pháp Phật. Là đối trị, khiến không làm mất pháp Phật, chỉ rõ nếu có được giáo pháp thù thắng của chư Phật thì không thoái mất tâm Bồ-đề.

Giải thích xác nhận về việc không vướng mắc lợi dưỡng, tiếng tăm v.v… Đã tham vướng nơi lợi dưỡng, tiếng tăm, nên khiến xa lìa, thoái mất pháp của chư Phật. Thuần chí tu tập pháp của chư Phật cùng do tích tập sức mạnh của căn thiện nên không thể lui mất. Vì ý nghĩa đó, nên từ chỗ không phải là tri thức thiện, nhưng đã can gián, khuyến khích tu tập hành chân thật như thế, hành tác các việc làm của Bồ-tát, nêu rõ tướng như thật và không như thật của Bồ-tát.

* Kinh nói: Đức Phật nói với Ca-diếp: Bồ-tát có bốn hạng không phải là Bồ-tát mà chỉ tương tợ như Bồ-tát. Những gì là bốn hạng? Đó là: Tham cầu lợi dưỡng mà không cầu pháp, cho đến ưa thích tụ tập đồ chúng không thích hạnh xa lìa.

Hỏi: Vì sao chỉ nói có bốn pháp?

Đáp: Nhân nơi bốn thứ không phải là tướng của Bồ-tát, nên nói bốn thứ chẳng phải là tướng của Bồ-tát, chỉ tương tợ:

  1. Tương tợ như nghe nhiều, học rộng.
  2. Tương tợ như A-lan-nhã.
  3. Tương tợ như tạo tác hành công đức.
  4. Tương tợ như dẫn dắt các đồ chúng.

Tham cầu lợi dưỡng mà không cầu pháp: Nghĩa là Bồ-tát này mong cầu lợi dưỡng đối với những người có tâm tin tưởng, tuy vẫn còn vâng giữ chánh pháp. Đó gọi là không như thật, chẳng phải như thật.

Tham cầu tiếng tăm, tự xưng tán đức của mình, không mong cầu công đức xuất thế: Nghĩa là Bồ-tát này ưa thích tiếng tăm, dù ở chốn A-lan-nhã. Đó gọi là không như thật, chẳng phải như thật.

Tham cầu an vui riêng không thể cứu vớt các thứ khổ não của chúng sinh: Nghĩa là vì bị trói buộc do tâm mong cầu lợi dưỡng. Bồtát này tuy hành tạo công đức, vẫn gọi là không như thật, chẳng phải như thật.

Thích tụ tập đồ chúng, không ưa xa lìa: Nghĩa là do tâm mong được cung kính cúng dường, trói buộc, tuy là người đứng đầu chúng, nhưng Bồ-tát này vẫn gọi là hành không như thật, hành chẳng phải như thật.

Bồ-tát đã hành các hạnh như vậy, thì các công đức tạo được, dù ở chốn A-lan-nhã, dù đứng đầu chúng, cũng đều mất hết.

Đối trị điều ấy, nên nói đến các công đức chân thật, nên biết.

* Kinh nói: Có thể tin hiểu về không, cũng tin nghiệp báo. Do tin hiểu không, nên không ưa những việc như lợi dưỡng v.v… Còn tin nghiệp báo là nhân để ưa thích các pháp. Vì ưa thích pháp, nên nghe và tu tập vô lượng công đức nhẫn, tất cả đều vô ngã và ngã sở. Vì nhẫn nhục vô ngã, nên không ưa thích vướng mắc nơi các việc danh tiếng, xưng tán v.v… Đối với tất cả chúng sinh, khởi tâm đại bi. Do tâm đại bi nên mong cầu công đức của Bồ-tát, ý nhập Niết-bàn. Vì ý nhập Niết-bàn nên không ưa thích an vui riêng mình cũng không từ bỏ việc làm cho thế gian. Do không từ bỏ thế gian, nên luôn cứu vớt chúng sinh khổ. Vì giáo hóa chúng sinh, nên tâm không bỏ chúng sinh, mà luôn hành tác bố thí. Vì hành bố thí nên khéo nhận biết công đức của chúng sinh. Tuy tu hành thí, nhưng Bồ-tát không mong được trả ơn. Do ưa thích vắng lặng, nên hành bố thí không mong cầu được đền đáp.

Hỏi: Trong pháp bằng hữu trắng đã diễn nói các pháp như tin, ưa, thì đâu cần gì nói đến pháp không v.v…?

Đáp: Các hành trợ đạo như bố thí v.v… có ý nghĩa là cùng hành với các hành của hàng Thanh văn, Duyên giác v.v… nhưng muốn nghe hành thù thắng của Bồ-tát mà sinh tâm do dự. Vì nhằm hiện nói pháp không chung với Thanh văn, Duyên giác, hỗ trợ cho việc thành tựu chánh giác, là pháp của các Bồ-tát.

HẾT – QUYỂN 1

Pages: 1 2 3 4