LUẬN KINH ĐẠI BẢO TÍCH
Tác giả: Bồ tát An Tuệ
Hán dịch: Đời Nguyên Ngụy, Đại sư Bồ Đề Lưu Chi
Việt dịch: Cư sĩ Nguyên Huệ

 

QUYỂN 4

Này Ca-diếp! Nơi vị lai có Tỳ-kheo như con chó đuổi theo hòn đất. Ở đây, hướng theo ngoại đạo như chó. Năm thứ cảnh giới như sắc v.v… ví như hòn đất. Ném vào là như sợ sắc, thanh, hương, vị, xúc, chỉ rõ sự sợ hãi các cảnh giới đó. Tỳ-kheo kia sợ cảnh giới, vì không chứng biết nhân của sợ, chỉ rõ có bốn thứ tướng, do chỉ đuổi theo cảnh giới.

Ở chỗ thanh vắng vì muốn chuyển được cảnh giới thù thắng, nên chọn lấy nơi chốn trống trải, vắng vẻ. Tỳ-kheo đó chỉ ở một mình, không có bạn bè, nhằm trừ bỏ tạp nhiễm, nên luôn trụ không hai. Thân đã lìa xa năm dục, nhưng tâm không bỏ, người này có khi hoặc nghĩ nhớ đến các thứ sắc thanh hương vị xúc đẹp đẽ, tâm tham dần khởi, vướng mắc mà không quán bên trong, không hay, không biết, chỉ tưởng nhớ đến các cảnh giới do nhẫn chịu, nên vị ấy cũng không biết. Vì sao nên lìa sắc, thanh, hương, vị, xúc? Tỳ-kheo kia do không hay không biết, thời gian sau đi vào thành ấp, xóm làng, hay kinh đô của vua v.v… giữa chốn đông người thì trở lại bị năm thứ dục kia trói buộc, nên thoái chuyển.

Nếu người trụ ở nơi chốn thanh vắng cho đến chết, vì giữ giới thế tục để được sinh lên cõi trời, thì vẫn bị trói buộc do sự yêu thích năm thứ dục lạc trên trời. Khi phước nơi cõi trời hết, cũng không tránh khỏi rơi vào bốn nẻo ác là: Địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh và A-tu-la. Được sinh lên cõi trời lại bị đọa, là do hành hoàn toàn dựa vào tham dục, đó là pháp bạn đen, nên biết. Dựa vào sự thấy biết mà hành, gọi là pháp bạn trắng, nên biết. Do thấy người vô ngã, nên kẻ ấy đã được đối trị để giải thích thành hai thứ bạn đen, trắng v.v…

Tu tập các hành như thế, nếu tâm tán loạn thì thâu giữ lại. Đã thâu giữ thì khiến được giải thoát. Câu kinh trong đấy là dụ. Do tâm không nhập định, nhưng vì muốn được giải thoát nên nói các phương tiện về Xa-ma-tha v.v… trừ bỏ các phiền não. Hành Xa-ma-tha là để đối trị tâm xen tạp, nên hiển bày dụ về yết hầu và dụ về người bị trói buộc v.v… cùng do một tâm trong tâm định để nói về phương tiện giải thoát, chỉ rõ tướng kiến, tu trong phiền não, nói phương tiện để trừ diệt chúng.

Chướng ngại của kẻ tu đạo là thân kiến và vui đắm nơi Tammuội, như dụ về yết hầu và người bị trói buộc v.v… đã nhận biết. Khi chứng đế, dùng trí xuất thế gian hành tác, khiến gặp khó khăn, nên thân kiến như bệnh sinh nơi yết hầu, nên biết.

Đã hành các hạnh như thế, vì ngăn chận chấp có, ngăn chận những pháp như vậy nên nói hai thứ không dụ cho tâm không tịnh: (1) Đọc tụng kinh sách, các luận v.v… của thế gian, ngoại đạo. (2) Cất chứa nhiều y bát tốt đẹp, dựa nơi nghiệp, dựa vào thân. Hai pháp này có thể khiến bị hai thứ trói buộc: (1) Trói buộc do kiến chấp. (2) Trói buộc do lợi dưỡng, tiếng khen v.v… Hai thứ này có thể tạo trói buộc khi pháp thiện chưa sinh, khiến không sinh, tạo ra hai chướng khác: (1) Bạn Thánh chủng. (2) Gần gũi các đàn-việt. Còn pháp thiện đã sinh thì khiến bị diệt mất, cùng tạo cấu nhiễm, khiến thành hai thứ cấu uế: (1) Chịu đựng cấu uế của các phiền não. (2) Tham quen biết với các đàn-việt. Vĩnh viễn đoạn dứt pháp căn thiện, khiến hỗ trợ thành hai thứ mưa dữ hủy hoại chánh pháp: (1) Hủy báng chánh pháp. (2) Phá giới mà vẫn thọ nhận của tín thí. Nơi hiện pháp, kẻ ấy không thể chữa trị, khiến mắc phải hai thứ bệnh ung nhọt: (1) Cầu tìm lỗi của người khác. (2) Tự che giấu các tội của mình.

Trong pháp hiện tại, khổ vì hành ác, khiến bị hai thứ pháp thiêu đốt: (1) Thân tâm cấu uế mà nhận mặc cà sa. (2) Nhận sự lễ bái, cúng dường v.v… của người giữ giới có công đức.

Dụ về vị lai là dù thế nào cũng không thể sinh căn thiện, nên khiến bị hai thứ bệnh, không thể chữa trị là: (1) Luôn khiến tâm khởi tăng thượng mạn. (2) Hủy hoại sự phát tâm Đại thừa của người khác. Vì phỉ báng Bồ-tát, dựa vào giới Thanh văn lần lượt lại có trong vị lai, nên biết.

Này Ca-diếp ! Phải tự quán bên trong. Như thế, cho đến trong đó có người thông tuệ, điều phục được phiền não như tham v.v…, nên nói dụ về hành giới tăng thượng nghe nhiều, học rộng. nhằm khiến ý sinh chán bỏ, hối hận, nêu rõ hành giới của tâm tăng thượng, nên nói dụ về yết hầu và dụ về người bị trói buộc. Do người vô ngã và pháp vô ngã nên hành giới của trí tăng thượng.

Hỏi: Nếu để điều phục phiền não như tham v.v…, nên hành giới của tâm tăng thượng như kinh đã nói, thì sao trong đây lại nói hành giới tăng thượng?

Đáp: Có thể phát khởi các hành như tham dục, não hại v.v…, nên tội phần nhiều nhân nơi tham sân si cùng sinh, thế nên nói điều phục tham, não v.v… là hành giới tăng thượng.

Hỏi: Thế nào là các thứ tham não khiến có thể phát khởi tội?

Đáp: Có hai thứ tướng nên như người kia không thể sám hối, hoặc như người kia đã sám hối nhưng không thành.

Hoặc có các Sa-môn, Bà-la-môn không nhận biết nhân của phiền não, tức sợ hãi các cảnh giới như sắc v.v…, nên trụ ở chốn thanh vắng, tự tâm phát khởi tư duy bất thiện, nên cũng khởi cảnh giới tham, não ngã mạn.

Hoặc nhớ nghĩ đến xứ khác nên thấy tham v.v… liền theo đuổi, như con chó đuổi theo hòn đất. Dùng hòn đất ném mạnh nên chó chỉ đuổi theo hòn đất. Như vậy là không trừ bỏ được tham v.v…

Hoặc do những sự gần gũi hiện có nơi xóm làng khiến nhớ nghĩ đến, đó gọi là chưa trừ bỏ. Không thuận theo nghĩa ấy nên gọi là trừ bỏ và trừ bỏ xong.

Hỏi: Vì sao trong pháp bạn đen nói điều phục tham, không nói điều phục não. Còn trong pháp bạn trắng thì nói điều phục não, không nói điều phục tham?

Đáp: Vì cả hai đều ở trong cõi Dục, nên chỉ rõ có trường hợp điều phục, có trường hợp không điều phục.

Như vậy, nghĩa là: Nếu người ở nơi chốn thanh vắng mà mạng chung là chưa điều phục. Người trụ nơi giới thành tựu giới tăng thượng cũng bị hủy hoại, huống chi là người không trụ nơi giới. Như thấy con ngựa đi dưới đường đôi khi còn lẫn lộn. Hành giả hành giới tăng thượng cũng thế, do nhầm lẫn về các niệm cũng gọi là tán loạn. Như chứng bệnh yết hầu có thể khiến tử vong. Như vậy dựa nơi người vô ngã nên hành trí tuệ tăng thượng, vì thân kiến có thể đoạn dứt mạng sống của pháp. Như có người theo xứ bị trói buộc mà cầu giải thoát. Như thế là dựa nơi pháp vô ngã mà hành trí tuệ tăng thượng. Trong vọng niệm khiến tâm chấp trước, nên theo tánh mà thắng vượt chúng.

Nơi ba thứ tu giới này có tám thứ pháp mâu thuẫn với giới, có tám thứ thuận theo tâm không tịnh, như đọc tụng kinh, sách, các luận v.v… của thế gian ngoại đạo. Có nhiều y bát tốt đẹp v.v… mà không dùng. Như nhiễm chấp sai lạc về không, vì nhiễm chấp sai lạc là nhân của trói buộc. Lần lượt nêu về hai thứ trói buộc: (1) Trói buộc của kiến chấp. (2) Trói buộc của danh tiếng, lợi dưỡng. Ở nơi trói buộc tạo nhân nên nói là lần lượt.

Do kiến chấp trói buộc nên ghét bỏ hủy báng bạn bè của Thánh chủng. Bị lợi dưỡng và danh tiếng trói buộc nên ưa thân cận các bạch y. Như nhân của chứng đắc do cấu uế, nên lần lượt nói hai thứ cấu uế: (1) Oán ghét hủy báng bạn Thánh nên nhận lấy các phiền não. (2) Thân cận các bạch y nên tham muốn quen biết các đàn-việt. Cấu uế này là nhân tạo cơn mưa dữ, nên tiếp theo là nói về mưa dữ. Nhận lấy các phiền não, nên hủy báng chánh pháp. Tham theo đàn-việt do thân cận này là duyên của sự phá giới, nên nói về phá giới nhận lãnh người tín thí. Đối với nhân của mưa dữ, nên tiếp theo có bệnh ung nhọt. Do hủy báng chánh pháp cùng phá giới, thọ hưởng của tín thí nên tự che giấu các tội, là nhân của chứng ung nhọt thiêu đốt, nên tiếp theo là nói về pháp thiêu đốt, cầu thấy lỗi kẻ khác. Nói thân tâm cấu uế mà nhận cà sa, do tự che giấu tội mà nhận lấy sự lễ bái, cúng dường v.v… của người có công đức giữ giới. Nơi nhân của thiêu đốt thành bệnh, nên tiếp theo nói về bệnh không thể chữa trị, nên nói thân tâm cấu uế mà nhận mặc cà sa. Ôm giữ tăng thượng mạn mà tâm tích tập giới nhận lãnh sự lễ bái, cúng dường v.v… của người giữ giới có công đức, là hủy hoại kẻ trụ vào phát tâm Đại thừa.

Nói pháp bạn trắng: Là để đối trị các chứng bệnh trên.

Trong hai loại người này: Thứ nhất là người hành kiến chấp. Thứ hai là người hành tham ái, nên biết.

Có bốn loại Sa-môn do gì để lần lượt chỉ rõ? Như kẻ kia gây tai họa vì sống trái với giới pháp. Hoặc thân cận với bạch y. Hoặc bỏ người bị tai họa. Hoặc được người có công đức rồi gây chướng ngại trong tâm niệm của họ. Hoặc không phải chướng ngại thì chỉ rõ trong ấy người gây tai họa có ba loại, dựa nơi ba thứ người nên nói.

Sa-môn tướng hình phục: Tâm hành đều suy hoại. Dựa nơi ưa ghét nên Sa-môn lừa dối nói dựa nơi nghĩa Sa-môn tham danh tiếng, hạnh thành tựu nhưng tâm suy hoại. Dựa vào hai thứ hỷ, dục lớn cùng hỷ dục hữu lậu.

Ở đây, hỷ, dục xấu: Là như nói Sa-môn nhưng không phải là Sa-môn. Sợ hãi nhiều: Như có các đức, nhưng tự ý vượt quá đức đã có của mình, luôn nghĩ thế này: Người có hỷ, dục, nếu có đức mà cùng sinh tâm với đức.

Loại thứ nhất có hai thứ hành suy hoại: (1) Chưa hoàn toàn. (2) Hoàn toàn.

Chưa hoàn toàn: Là dựa vào bốn hạng Sa-môn nên nói. Dựa nơi việc thọ giới hữu lậu cho đến ý nghiệp hành bất tịnh. Dựa theo ba thứ không khéo điều phục này, như thứ lớp chỉ rõ. Căn cứ vào việc khất thực nên nói thọ mạng không tịnh. Dựa vào thọ dụng để nói về sự keo kiệt nơi thọ dụng, tức gồm chứa để dành thức ăn qua đêm. Dựa vào hành tu tập để nói thọ mạng bất tịnh. Dựa vào thọ dụng để nói sự keo kiệt nơi thọ dụng, như cất giữ đồ ăn cách đêm v.v… Dựa vào hành tu tập nên nói về lười biếng.

Hoàn toàn: Là do phá giới nên phạm những giáo pháp căn bản của giới.

Tâm suy hoại: Là do pháp ác và cố ý che giấu tội của mình.

Loại thứ hai là hành thành tựu: Là dựa vào hành, mạng, giới, thọ dụng cùng tu đạo.

Ở đây, hành thành tựu là dựa vào hành. Thành tựu về cảnh giới là dựa vào thọ mạng.

Thành tựu về oai nghi là do tâm hiện rõ trong bốn hạnh oai nghi. Dựa vào giới là thọ dụng vật thô xấu, thức ăn dở kém, ít ham muốn.

Tánh của bốn Thánh chủng là dựa vào thọ dụng nên nói, không thân cận các hàng đạo, tục v.v… Dựa vào tu đạo nên ít nói ít lời. Ưa thích nơi chốn thanh vắng là dựa vào luận thuyết an ủi, khuyến dụ v.v… nên biết. Tuy hành các pháp như thế, nhưng đều là lừa dối, không vì khéo làm thanh tịnh tâm, vì tâm đã suy hoại nên hành tu tập nương vào cũng lừa dối, nên biết.

Thường có ngã kiến là dựa vào người vô ngã mà hành, nhưng không diệt trừ được ngã kiến. Nên ở trong pháp không sinh nạn sợ hãi, như thấy mình sắp rơi xuống hang sâu. Nương vào pháp vô ngã, nhưng không phân biệt về không, nên người giảng nói về pháp không thì khởi tưởng như oan gia.

Loại thứ ba là thành tựu hành tùy thuận trụ niệm: Là dựa nơi chỉ và hành, tùy thuận các pháp, nên biết. Ở đây, trụ là giữ giới, niệm là đa văn. Do nhớ nghĩ đó nên tùy thuận được các việc. Dựa nơi chỉ là an tọa nơi chốn thanh vắng. Vì tọa thiền ở chốn thanh vắng, nên tùy thuận nơi các công đức. Tùy thuận các pháp là biết đủ, ít ham muốn v.v… tâm không hề thân cận. Ở đây, không diệt các niệm: Là chỉ rõ có chán lìa dục, nên đối trị chúng, diệt trừ được các dục dấy khởi mạnh. Được tam Bồ-đề hay mất tam Bồ-đề là do quả của hành đạo này.

Loại thứ tư là người: Là cả hai đều thành tựu. Do chín thứ thế mạnh nên thành tựu, nên biết.

  1. Thế mạnh của thường hành.
  2. Thế mạnh của đa văn.
  3. Thế mạnh của mong muốn.
  4. Thế mạnh của tư duy tịch tĩnh.
  5. Thế mạnh của chánh kiến.
  6. Thế mạnh của chứng đắc.
  7. Thế mạnh của diệt hết.
  8. Thế mạnh của tu tập.
  9. Thế mạnh của chứng đắc chân chánh.

Không cầu về thân mạng là do không tham tiếc thân mạng, đó gọi là thế mạnh của thường hành.

Ưa nghe, lãnh hội pháp không v.v…, tâm hoan hỷ là nêu rõ thế mạnh thứ hai là đa văn. Cũng không vui nơi không kiến v.v… Lại không vui tu các phạm hạnh để cầu Niết-bàn, huống chi là mong cầu nơi ba cõi. Không mong cầu các kiến về pháp cũng hợp với pháp diệt, ý đạt đến Niết-bàn của quả đó, đạo đó.

Thế mạnh thứ ba là mong muốn: Tức luôn nương dựa nơi pháp, không dựa vào văn tự, chương câu. Cầu nơi nội tâm khiến giải thoát các phiền não, không chạy theo bên ngoài. Vì dựa vào pháp nên cầu thiền định giải thoát, tâm đạt trí tuệ thế gian v.v…

Thế mạnh thứ tư là tư duy tịch tĩnh: Là cầu giải thoát khỏi tất cả phiền não, không hướng bên ngoài, thấy rõ một pháp xưa nay vốn không cấu uế, hoàn toàn thanh tịnh để tự nương dựa. Cũng không nương dựa vào người khác là tánh không nhiễm. Pháp hữu học xuất thế gian là nội tâm mình phải nhận biết.

Thế mạnh thứ năm là chánh kiến: Là dùng Pháp thân chân chánh hãy còn không thấy Phật, huống gì là sắc thân. Là do không thấy Tam bảo nhưng Tam bảo luôn là chân thật, cũng là do trí xuất thế gian phân biệt nhớ nghĩ.

Thế mạnh thứ sáu là chứng đắc: Đã lìa khỏi tai họa chấp không hãy còn không thấy pháp, huống chi là tham đắm nơi âm thanh, lời nói. Do vậy nên diệt trừ những gì cần diệt trừ.

Thế mạnh thứ bảy là diệt hết: Là không còn có điều gì phải tu tập nữa.

Thế mạnh thứ tám là tu tập: Không sinh vào nẻo sinh tử, không tham vướng Niết-bàn, nhận biết tất cả pháp xưa nay là vắng lặng, không thấy có trói buộc, không cầu giải thoát. Thế nên, không từ bỏ thế gian, không chứng đắc Niết-bàn. Không diệt nhân của thế gian để đạt được Niết-bàn. Không sinh ở thế gian, không cầu nơi Niết-bàn. Không mong cầu chết cùng thọ mạng. Không cầu mở, không mong buộc, vì đã diệt cùng phần hữu dư.

Không hành cũng không diệt. Trong ấy, các pháp vô học thuộc về tánh trí diệt tận, vô sinh v.v… nên biết. Đó gọi là thế mạnh thứ chín là chứng đắc chân chánh.

Vì hiện có ba loại Sa-môn kia, nên lập danh Sa-môn. Tên gọi Sa-môn đó không có nghĩa, chỉ rõ là không tương tợ, chỉ dùng tên để thay thế.

Nói dụ về bần cùng: Vì sao dùng tên để thay thế? Vì khác với Sa-môn gọi là hình phục dối nhận lợi dưỡng của tín thí. Từ đấy trở về sau, chẳng phải là hành chân thật. Sa-môn và sự nhận biết đã khởi ngã mạn. Sa-môn hành chân thật cùng giữ giới nhận biết. Nói điên đảo vì giống như giữ giới. Các trí như văn, tư, tu, dựa vào ngã mạn ấy nên nói hai thí dụ: Như có người bị chìm trong vũng nước sâu mà chết khát. Dụ này chỉ rõ do có văn tuệ nên sinh ngã mạn.

Dụ về thầy thuốc: Là do có tư tuệ nên vui đắm nơi Tam-mabạt-đề.

Hàng phàm phu lìa dục thì ưa tham vướng nơi lợi dưỡng và sự cung kính.

Hàng hữu học khởi hối, tu Tam-ma-bạt-đề, vì tu tuệ theo hành tà. Chỉ rõ trong hành chánh hạnh đã khởi ngã mạn, nên nói ba dụ còn lại: Dụ đầu là bệnh nhân, dụ thứ hai là vật báu, dụ thứ ba là người chết.

Dựa vào giới khởi ngã mạn, nên chỉ rõ có bốn hạng Tỳ-kheo phá giới. Dụ tự khéo giữ giới v.v… Ở đây, người thứ nhất là giả thọ giới, người thứ hai là nói không khéo giữ giới luật, làm rõ sự biếng trễ. Người thứ ba do hành giống như người giữ giới. Đối với chướng ngại của sự phá giới đã hủy hoại, nên nói giới hoại chướng. Người thứ tư nói là đã thọ nhận đủ mười hai công đức của hạnh Đầu-đà, là trì giới giả danh. Trong ấy, người thứ nhất thấy lo lắng vì diệt bỏ phá giới nên dùng chướng ngại để đối trị, gọi là phá giới.

Hữu lậu là do phá giới nên không thể giữ được một phần nào trong số các giới.

Ở trong cảnh giới Niết-bàn sinh sợ hãi, vì không có khả năng diệt trừ chướng ngại là phá giới, nên đối trị bằng tu hành.

Người thứ hai do ngã mạn sinh khởi cho là được tướng giải thoát. Để đối trị hành này, nên nói các công đức trì giới chân thật. Phá giới đã hiện rõ điều xấu ác, cùng hiển bày hành tu đạo.

Trong đó, người thứ nhất giữ giới nên chứng nhập từ bên trong, không chứng nhập từ bên ngoài.

Người thứ hai nói: Tạo nghiệp nhiễm, không tạo tác. Khéo không tạo tác. Không phải là thân v.v… tạo tác. Nghiệp nhiễm cũng không phi tạo tác. Là chủ thể tạo tác thiện vô hành, vô phi hành. Dựa nơi tạp nhiễm, không tạp nhiễm. Dựa vào khất thực không chỗ hành cũng không chẳng hành. Dựa nơi tạp nhiễm, không tạp nhiễm để thọ dụng, nên không danh, không sắc, Niết-bàn vô dư. Trong vô tưởng, vô phi tưởng, vô tướng hành, lìa bỏ hết thảy tưởng niệm cùng niệm giới vô tưởng, vô diệt, vô phi diệt. Hành vô học đối với Niết-bàn là hữu dư, phiền não là vô dư. Không lấy không bỏ, thường hành lìa mừng, lo, và bỏ niệm hữu đồng sinh, không gì đáng giữ không gì đáng bỏ, trở lại cảnh giới ban đầu kia, không giữ lấy ưu, hỷ, cùng lấy bỏ niệm đồng sinh, nên không có chúng sinh, không tên gọi chúng sinh, cho đến không tâm, không có tên gọi của tâm. Dựa vào dụ để giải thích, đã diệt là tùy theo chỗ có thể ghi nhận, tùy vào việc đã ghi nhận cùng tùy thuận đối tượng được ghi nhận. Không thế gian, không phi thế gian. Dựa nơi khí thế gian xen tạp, không xen tạp người hành tạo các hành. Nên nói không nương dựa, không phi nương dựa, nương nơi tạp nhiễm cùng không tạp nhiễm. Dựa vào cảnh giới của thôn, ruộng nơi sáu thức. Nói không dùng giới để tự đề cao. Không hủy báng giới của người khác là thấp. Dù nương vào sự thân cận tại gia, cũng không nhớ tưởng, phân biệt với giới kia. Không phân biệt ta là người trì giới, ta có trì giới như thế, không phân biệt tánh ấy. Vô lậu cũng có thế gian cùng có thể diệt. Tìm kiếm tức hiển bày, nên nói là không chung. Nhưng kẻ kia, hoặc ba cõi không phải là quả, không phải là cầu nhân của ba cõi. Hai câu này chỉ rõ đó gọi là theo thứ lớp, dựa nơi giới có các pháp thuận, không thuận.

Nói: Sa-môn khéo tu học và không khéo tu học có sự sai biệt.

Thế nào là Sa-môn không khéo tu học? Đáp: Ở đây có ba loại, nên biết.

Một là Sa-môn hình phục tương tợ: Là Sa-môn không yêu tiếc giới, chỉ hình phục là đồng. Không đồng là về hành tác, mạng sống, thọ dụng và giới mạng, kiến văn, tâm đều không giống nhau v.v… Trong đó, xứ hình tướng và xứ y phục gọi là xứ hình phục tương tợ. Về xứ y phục, do cùng mặc y Tăng-già-lê v.v… nên gọi là y phục đồng. Về xứ hình tướng cũng cạo bỏ râu tóc, mang bình bát, nên gọi là hình tướng đồng. Nhưng do hành của thân nghiệp v.v… là bất tịnh, nên gọi là hành không tương tợ. Mạng sống bất tịnh, nên thọ mạng không tương tợ. Vì keo kiệt nên ở trong thọ dụng không tương tợ. Vì biếng trễ nên hành dụng không tương tợ. Vì phá giới nên ở trong trì giới không tương tợ. Do pháp ác nên kiến văn không tương tợ. Vì không điều, không phục, các căn không an ổn, nên đối với tâm không tương tợ.

Hai là Sa-môn oai nghi lừa dối: Loại này luôn cầu xin những vật dụng sinh sống, mặc sức thọ dụng, nên biết. Tâm tăng thượng, tuệ tăng thượng thì đồng, nhưng hành và tâm thì không tương tợ. Thành tựu trong việc dụng ý, nên giới tăng thượng đồng. Nhất tâm thư thái cho đến không ưa tạp loạn, nên hành của tâm tăng thượng thì đồng. Ít nói ít lời nên hành của trí tăng thượng thì đồng. Nhưng tất cả hành của kẻ kia đều là dối trá, nên tâm không đồng.

Ba là Sa-môn tham tiếng khen: Tức chỉ cầu được tiếng khen, nên biết.

Phần hành Xa-ma-tha đồng. Phần hành Tỳ-bà-xá-na đồng. Tức tu hai phần đó đồng. Trở lại hai hành trợ đạo kia thì tâm đồng nhưng tánh không đồng. Ở đây, do giới nên có phần giới, phần hành Xa-matha đồng vì giới là nhân của Tam-muội. Do đa văn nên phần hành Tỳbà-xá-na đồng. Do nghe có thể lãnh hội được trí vô lậu. Do ở chốn A-lan-nhã thanh vắng, nên phần tu tập hai thứ kia cùng tương tợ. Vì trụ nơi chốn thanh vắng là nhân tu tập, nên ít ham muốn v.v… tức hai hành trợ đạo kia là đồng. Do thiểu dục là hành hỗ trợ tu tập v.v… Do thân cận với kẻ khác, nên tâm không tương tợ, nên biết.

Thế nào là Sa-môn khéo tu học? Đáp: Có bốn thứ tướng, nên biết. Đó là hành, tâm, chứng, và đạt đến cùng tận.

Do không tiếc thân mạng nên ở trong hiện pháp đạt được hành nhàm chán, hối hận. Sa-môn với ý nghĩ vui mừng đối với pháp không v.v… nên vị lai sinh hành của thân giáo hóa. Đó gọi là thế mạnh của hành, nên biết.

Do nương vào hành chân như nên ý tin pháp vô ngã, không vui với cảnh Niết-bàn, cùng không mừng đối với không, tức chỗ nên đạt được cùng chốn có thể đạt được đều thuận hợp. Người kia cũng lìa tánh, tướng giả danh. Không chấp nơi pháp, luôn dựa vào kinh liễu nghĩa, không dựa vào văn tự, chỉ mong cầu nơi nghĩa cần đến.

Ở trong phiền não mà cầu giải thoát, không chạy theo bên ngoài. Không như tánh thuận theo âm thanh. Đó gọi là thế mạnh của tâm, nên biết.

Thấy rõ thể của tất cả các pháp là hoàn toàn thanh tịnh, không nhiễm. Do pháp chân như nên tạo sự hỗ trợ hình tướng mình và của người khác, không duyên vào trí tánh của kẻ khác, nên sự chứng đắc không nhiễm. Ở đây, các quả báo v.v… đều thấy rõ về giải thoát, không thấy tánh, tướng giả danh. Đó gọi là thế mạnh của chứng đắc, nên biết.

Tự tánh của tất cả chúng sinh đều vắng lặng, nên không hành thiện, không tu pháp đối trị hết thảy các phiền não cấu nhiễm v.v…, không nhận lấy Niết-bàn, chân như không đoạn dứt, không quan sát việc sai quấy. Đó gọi là thế mạnh của sự đạt đến tận cùng, nên biết.

Dụ về người nghèo: Trong ấy là so với Sa-môn không khéo tu học. Do ba thứ tướng nên đối với danh không như nghĩa, nên biết. Tâm suy hoại mà hành thành tựu. Tâm thành tựu mà hành suy hoại. Tâm suy hoại và hành cũng suy hoại.

Ở đây, tâm suy hoại mà hành thành tựu có ba thứ, nên biết. Chủ thể nghe và đối tượng được nghe, tâm cho là biết đủ. Trong chủ thể giảng nói, kẻ kia cho là biết đủ, vì đạt được Tam-muội thế gian, có được công đức của thế gian, lấy đó làm điều tham đắm.

Ở đây, dụ về kẻ bị chìm nơi sông: Là nói về tâm suy hoại mà hành thành tựu, vì chỉ có các sự việc như nghe v.v… nên biết.

Dụ thầy thuốc: Là trở lại sự việc kẻ kia chỉ có nói suông, nên biết.

Dụ về huyễn thuật: Là chỉ cho việc đạt được Tam-muội thế gian, chỉ có tham đắm vào đó, nên biết.

Dụ về ngọc báu Ma-ni: Là chỉ rõ tâm thành tựu nhưng hành thì suy hoại, nên biết.

Dụ về sự chết: Là chỉ rõ tâm hành đều suy hoại, nên biết.

Dụ về người con của ông trưởng giả: Là chỉ rõ tâm hành đều thành tựu. Vì nghĩa của một tướng.

Sa-môn khéo tu học, nên biết nói có bốn loại. Tỳ-kheo phá giới giống như khéo trì giới, thứ lớp ra sao? Do Sa-môn chân thật chỉ rõ việc thọ nhận hành chân thật. Do chỉ rõ như giới tương tợ trụ nơi giới giả danh là nhằm làm sáng tỏ giới giả danh. Chỉ rõ giới giả danh như thế nào? Là duyên nơi giới giả danh hành có bốn thứ, nên biết.

Hạng Sa-môn ấy lại do ngã mạn hủy hoại, nên gọi là trụ vào giới giả danh mà hành.

Thứ nhất là thành tựu sáu thứ giới, do hai thứ chướng làm hư hoại giới. Sáu thứ hành đó là gì? Phần giới trì thành dựa theo Bala-đề-mộc-xoa đã nói mà hành thành tựu. Hành thành tựu, suy hoại, cảnh giới thành tựu. Đối với tội rất nhỏ vẫn cảm thấy sợ hãi, nên thọ nhận giới tu hành. Ở trong các giới có hai thứ chướng, đó là: Thân kiến quá mạnh khiến trong giới khởi và thọ mạng nhận biết.

Thứ hai là bỏ hai tai họa đó. Lìa bỏ xứ thân kiến quá mạnh, do vị luật sư nên đối với các thứ phạm giới khéo có thể phát hiện. Nhưng vì cùng với thế gian thanh tịnh, nên các thứ lợi dưỡng không thể động đồng sinh thân kiến.

Thứ ba là pháp đồng này được giới thanh tịnh của thế gian, lại đồng sinh thân kiến. Không hiểu pháp vô ngã nên nghe pháp sinh sợ hãi, biếng trễ.

Thứ tư là lìa bỏ tất cả những thứ gây ra tai họa, nhưng do tin pháp tà là vô ngã, nên sinh ngã mạn hủy hoại giới, trụ trong bốn thứ giới không chân chánh, biết rõ giới pháp bị hủy báng tướng đó và pháp vô lậu kia, nên biết.

Thế nào là pháp bị hủy báng? Thứ nhất là trụ vào giới giả danh, cũng thấy có ngã cùng nói có ngã sở. Đối trị hạng đó nên nói không có ngã và ngã sở. Đã gây tạo phạm giới, đó gọi là không tạo. Để đối trị thì nói về vô tác, vô phi tác. Hành tác, kẻ kia cũng chẳng phải là hành. Để đối trị nên nói không có đối tượng được tạo tác, cũng không có người tạo tác. Hành an tường cũng gọi là chẳng phải hành. Để đối trị nên nói vô hành, vô phi hành. Hành vọng niệm, đó gọi là chẳng phải hành. Để đối trị nên nói không có đối tượng hành, cũng không có chẳng hành.

Thứ hai là hành trụ vào giới giả danh, thân kiến làm bạn với sự tùy thuận phiền não, cũng thấy danh cũng thấy sắc. Để đối trị nên nói là không sắc, không danh. Vị lai sinh tưởng quyết định là có cùng tưởng kia. Để đối trị nên nói vô tưởng, vô phi tưởng. Diệt trừ kiết sử dấy khởi mạnh cũng gọi là không diệt. Để đối trị nên nói vô diệt, vô phi diệt. Hạng chấp người vô ngã cùng lấy, bỏ người. Để đối trị nên nói không lấy không bỏ. Còn hạng chấp chúng sinh vô ngã kia, cho là cũng có thể giữ lấy, cũng không thể giữ lấy. Để đối trị nên nói không thể lấy, không thể bỏ. Hạng chấp tướng chúng sinh không phải do sắc v.v… cho đó là rất tốt. Để đối trị nên nói không có chúng sinh, không có tên gọi chúng sinh. lời nói phân biệt cũng cho là tốt đẹp. Để đối trị nên nói không có thân, không có tên gọi thân, không có miệng, không có tên gọi miệng. Phân biệt đó là tâm, cùng giữ lấy phân biệt đó là hay lắm. Để đối trị nên nói không có tâm, không có tên gọi tâm phân biệt.

Thứ ba là hành trụ vào giới, cho sinh nơi thế gian bậc thượng, bỏ hạng dưới vì là phi thế gian. Để đối trị nên nói không có thế gian, không có phi thế gian. Dựa vào Tam-muội cũng là dựa nơi không tham dục. Để đối trị nên nói không nương dựa, không phi nương dựa. Hạng thâu giữ giới của mình, không hủy báng giới của người khác. Để đối trị nên nói không đem giới để tự đề cao, không chê giới của người khác là thấp kém.

Thứ tư là trụ nơi giới giả danh. Nói: “Ta là người có thể giữ giới”, sinh niệm phân biệt. Để đối trị nên nói cũng không phân biệt giới. Hạng có niệm phân biệt giới như niệm về tánh thù thắng. Để đối trị nên nói giới không phân biệt và không niệm về giới ấy. Đó gọi là hủy báng pháp.

Trong giới vô lậu hoàn toàn có thể diệt trừ hết. Đó gọi là một câu nói các Thánh trì giới vô lậu đầy đủ.

Không có đối tượng chấp trước là xuất thế gian, không đến nơi ba cõi. Lý không thuận nơi tất cả phiền não, nên lìa mọi sự nương dựa. Đối trị là lìa ba cõi. Thế nên đối với cõi trở lại làm thanh tịnh, chỉ rõ sự thù thắng nơi hạnh trì giới, nên nói các kệ:

Người trì giới đầy đủ

Không cấu, không sở hữu.

Câu kệ thứ nhất nêu sự lìa cấu uế nên nói tánh thanh tịnh. Những thứ tham dục còn lại đều đã xa lìa hết, đó là nhân nơi tịnh, nên được giới tánh tịnh, chỉ rõ đồng nhân cùng tịnh.

Ba câu còn lại, trở lại với hành trì giới, chỉ rõ đồng bạn cùng nhân tịnh.

Ở đây, đồng bạn phá giới cùng các đồng nhân đối trị. Đối với giới đồng bạn và các đồng nhân, có ba thứ sai biệt, nên biết. Trong đó, đồng bạn phá giới có ba thứ: Đồng sắc kiêu mạn v.v… Nương dựa nơi nhân khiến ý bị mê hoặc nên thấy biết như ngu si. Đồng ưa Tam-ma-bạt-đề, chế ngự đồng bạn chấp lấy niệm đó.

Đồng sự niệm là như xứ thô, đồng thân yêu thích, vui mừng với bạn. Đó là nghĩa của kệ thứ nhất.

Trở lại với hết thảy tướng trong việc trì giới kia là nêu rõ nương vào giới thanh tịnh, nên nói kệ thứ hai, nên biết.

Tịch diệt thường rốt ráo như vậy. Trong đó có bốn thứ tánh đồng đối trị tai họa, nên nói giới Ba-la-đề-mộc-xoa thanh tịnh, nên biết. Do không thiếu sót nên đối với việc thọ giới thiền tịnh, phần còn lại đều là giới vô lậu tịnh. Trở lại nương vào hành trì giới kia, vì thanh tịnh, không có tai họa, nên nói kệ thứ ba:

Không tham tiếc thân mạng.

Như vậy có năm thứ tai họa:

1. Tai họa do lợi dưỡng và sự cung kính, do luyến tiếc thân mạng.

2. Tai họa do lười biếng, niệm nối tiếp không chết, khởi vui thích sự sống.

3. Tai họa do khởi nguyện giữ gìn phạm hạnh, mong cầu tất cả cõi sinh.

4. Tai họa do quan niệm chỉ có giới là đủ, không có phương tiện chân chánh.

5. Tai họa do không biết nẻo xuất ly, như các ngoại đạo nêu bày, đều thành lối lý luận không đúng đắn.

Giải thích làm rõ sự thanh tịnh, không còn các tai họa, nên biết. Dựa vào thanh tịnh, không phiền não, nên nói kệ thứ tư:

Trì giới không nhiễm đời.

Pháp thế gian không thể khiến cấu nhiễm. Dựa nơi tập đế gồm thâu nhiễm, cùng dẫn đến cấu nhiễm mạnh, phát khởi xứ dục.

Hai thức chấp trước các ái nhiễm, nên nói không dựa nơi pháp thế gian. Không dựa nơi đời là diệt các nhiễm trước, lại có ái nên diệt.

Mau đạt trí tuệ sáng
Do được ánh quang minh
Ở trong đạo kiến đế
Không ngại, không sở hữu.

Sự việc không ngại, không sở hữu: Là do tu đạo phá trừ vô minh v.v… và các thứ đối trị khác nên nói:

Không ngã, không tướng kia.
 
Nên lìa tướng ta, người.
Dựa vào đạo vô học.
Lìa ngã mạn, thanh tịnh.
Nên nói kệ thứ năm:
Không bờ này, bờ kia
Cũng không có khoảng giữa.

Trong hành vô tướng không chấp trước các nhập trong ngoài.
Vô lậu là không bị vướng, buộc, do đã diệt trừ phiền não và các kiết sử bùng phát. Không dua nịnh và đạt vô lậu nên không ngã mạn sai biệt, nêu rõ việc hoàn toàn dựa vào thanh tịnh, nên nói kệ thứ sáu:

Tâm không vướng danh, sắc
Khởi nguyện nơi mọi việc
Không rời pháp tịch diệt.

Người kia, do trì giới không đủ, nên các căn cần được điều phục, ở trong Tam-muội hành không đầy đủ. Không sinh ngã, ngã sở, cho đến cõi Hữu đảnh nơi thế gian. Biết đủ nên trụ nơi trì giới. Nói ở trong giới, hoàn toàn chỉ rõ dựa vào thế gian thanh tịnh, nên nói kệ thứ bảy:

Tuy hành trì các giới
Tâm không hề tự cao.

Là chỉ rõ do trì giới, nên tâm không sinh sự phân biệt cao, thấp, không chán đủ.
 
Cũng không cho là trên
Hơn là cầu đạo Thánh.

Giữ giới thanh tịnh, tướng này do Tam-muội không đủ, nên cầu đạo xuất thế gian, dựa vào sự thanh tịnh của xuất thế gian, nên nói kệ thứ tám:

Không cho giới là nhất
Không cho giới là đủ
Cũng không chuộng Tam-muội
Không tham vướng Tam-muội.

Vượt quá hai sự việc ấy là tu tập trí tuệ trên hết.

Không phân biệt là tánh của Thánh. Không phân biệt là tu tập thâu giữ trí tăng thượng, luôn được chư Phật khen ngợi. Thế nên, người nhận biết các sự việc còn lại sẽ được tán thán hơn hết. Dựa vào sự thanh tịnh của hữu học, vô học, phi hữu học phi vô học, nên nói kệ thứ chín:

Tâm giải thoát thân kiến
Diệt thân kiến phân biệt
Thị hiện học giới tịnh
Diệt trừ ngã, ngã sở.

Do diệt trừ thân kiến đồng sinh, nên chỉ rõ giới vô học thanh tịnh, tin cảnh giới của Phật là không. Do tin nơi không nên chỉ rõ sự thanh tịnh của phi học, phi vô học. Dựa vào sự thanh tịnh trừ bỏ keo kiệt và chấp trước, nên nói kệ thứ mười:

Nương giới, được Tam-muội
Tam-muội hay tu tuệ.

Ở đây chỉ rõ vì chưa được giới của tám đạo Thánh, nên nói không trì giới tịnh.

Nương nhân chỗ tu tuệ
Mau được trí thanh tịnh
Do đạt được trí tịnh
Giới thanh tịnh đầy đủ.

Do chứng đắc Thánh trí nên sau đó được giới thanh tịnh.

Lúc giảng nói kệ ấy, có tám trăm vị Tỳ-kheo không còn các lậu, tâm được giải thoát. Có ba vạn hai ngàn người lìa khỏi phiền não cấu uế, đạt được pháp nhãn thanh tịnh. Điều đó chỉ rõ trong sự chỉ dạy đã có lợi ích lớn như thế. Cũng lại chỉ rõ tức được quả lớn.

Đối với sự hóa độ: Hàng hữu học, vô học đều chứng đắc.

Cùng năm trăm vị Tỳ-kheo đạt được thiền định, tức nghe pháp sâu xa này, tâm không tin hiểu, không thể thông đạt, nên rời khỏi chỗ ngồi, đứng dậy ra đi: Là chỉ rõ những người ấy khó điều phục, đã có thể điều phục xong. Không thể tin hiểu, không thể thông đạt, hội nhập nơi pháp sâu xa.

Có hai thứ tướng khiến không thể thông đạt được các pháp: Là do không tin, có tin nhưng không vui thích, nên trí tuệ không thể thông tỏ các nghĩa.

Kệ này thâm diệu: Vì khó nhận biết.

Bồ-đề của chư Phật Như Lai là hết sức sâu xa: Là ý khó có thể lường xét. Nếu các căn thiện không được thuần thục là do đã bị các tri thức xấu ác thâu giữ. Do sức tự tin quá ít, nên rất khó tin nhận các pháp. Bị tri thức ác gồm thâu, nên không thể tu tập các căn thiện thuần thục, nên không tin nhiều.

Bấy giờ, Đức Thế Tôn nói với Tôn giả Tu-bồ-đề: Là lúc nhằm hiển bày về Bồ-đề, các Thanh văn là do Đức Như Lai tạo ra, có thể hóa độ theo thắng nghĩa. Thế nên cho đến giả danh, chân thật đều có sai biệt, nên biết.

Lúc ấy, Đức Thế Tôn liền hóa ra hai vị Tỳ-kheo: Là chỉ rõ phương tiện ứng hiện hóa độ của Đức Như Lai.

Chỉ rõ người được hóa có hai thứ tướng: Là hiển bày tin nơi đồng phục và thấy đồng pháp sự. Các Tỳ-kheo kia đều thâu nhận cho là vì mình nên Đức Như Lai đã giảng nói, chỉ dạy đúng đắn. Các Tỳ-kheo kia do chấp giữ sai lạc về Niết-bàn, nên sinh ngã mạn, sinh tâm hoảng sợ. Vì tin nên nói Niết-bàn như thật, không có chúng sinh.

Nếu đã vào Niết-bàn thì không còn các thứ tham dục v.v… chỉ có tận diệt. Những thứ kia như không sinh, chỉ rõ Niết-bàn chỉ có tịch diệt, không còn sinh khởi các phiền não.

Nói các ông đừng tạo tác những nhớ tưởng, chớ dấy khởi những phân biệt: Là ở trong các nhập nội, ngoại, đều là ngã, ngã sở, như thứ lớp, tức đối với các pháp không chấp trước, vì tham sân xưa nay là không sinh. Không lìa là cả đến vị lai cũng không lìa. Đó gọi là tịch diệt. Để ngăn chận chấp trước này: Vốn chẳng phải tịch diệt mà có tịch diệt. Nên biết các phẩm như giới hiện có v.v… là không qua, không lại.

Lại cũng không diệt tận: Là do tên gọi chúng sinh là vĩnh viễn tịch diệt.

Không qua, không lại: Là không nhiễm ô.

Lại không diệt tận: Là tánh tự diệt tận. Các thứ kia cũng không còn gì. Nếu xưa không tịch diệt, về sau mới thành tịch diệt, các ông nên lìa bỏ tướng ấy, đó là Niết-bàn không có sự việc ấy.

Nói ta chớ nhập Niết-bàn, chỉ do tướng hướng đến cảnh giới Niết-bàn, nên tạo ra tướng Niết-bàn. Đừng nên dùng tướng như những tham dục v.v… mà hiểu là tướng Niết-bàn, vì chẳng phải là tham dục v.v… không có nên gọi là Niết-bàn. Đó gọi là tướng của các thứ kia. Lại, trong hành vô tướng đều là phương tiện. Nếu đạt vô lậu rồi, sau đó mới nói về hiện pháp lạc, hành phương tiện, hành nhập định diệt tận. Hoặc lại đây là nghĩa khác.

* Kinh nói: Nếu Tỳ-kheo kia không tu tập các căn thiện thuần thục, thì công đức trí tuệ hành trợ đạo sẽ thiếu kém, thì bụi bặm phiền não sẽ gia tăng. Nghĩa ấy không phải thuộc về tri thức ác, vì tri thức thiện không gồm thâu.

Hư hoại, nghĩa này không thể tin hiểu: Là do lìa trí hành trợ đạo. Có thể tin nơi xứ sâu xa, nghĩa này không thể tin hiểu. Cho nên nói chung là không có khả năng thông đạt, là không thể lường xét nhận biết trí an trụ trong thể của pháp. Lại, không có khả năng tin hiểu thì không thể có quyết định đúng đắn do trí chân thật.

Phương tiện hóa độ của Như Lai có hai thứ, nên biết. Giáo hóa là do ngã mạn cùng thể nên chỉ rõ đồng cùng sự. Điều được nêu bày có thể thuận theo hành giáo hóa và được chỉ dạy có nhân xuất thế gian. Giảng nói giáo pháp thanh tịnh đúng đắn làm phương tiện truyền trao.

Lại có bốn thứ tướng nên biết:

1. Kẻ ở trong pháp nhiễm, tịnh sinh sợ hãi, thì nương thuận để giảng nói cho họ nhân xa lìa phiền não. Đối với pháp thanh tịnh thì chỉ dạy trao truyền khiến bỏ nhân sợ hãi thấy được hiện pháp, là phương tiện hành trì đạt an lạc bậc nhất. Thân này lại có ngã kiến, cho là ngã chính thức chứng đạo, nên dựa nơi pháp tịnh nhiễm đem lý không tùy thuận để truyền dạy, bảo: Ta không có tội gì để sinh lo sợ cả, do nhiễm là hành của thế gian. Đó gọi là tướng thứ nhất.

2. Các ông chớ nên khởi nghĩ tưởng, chớ tạo phân biệt. Nhân của phiền não chỉ rõ có hai thứ tánh giả danh. Là tánh kiêu mạn phân biệt chấp nơi phiền não, cùng phân biệt chấp vào công đức cho là hơn kém. Đó gọi là tướng thứ hai.

3. Phần tịnh, lược nêu có hai thứ, nên biết: (a) Tịnh do hành đạo. (b) Tịnh do Niết-bàn. Ở đây có hai thứ tướng. Tịnh do hành đạo là nhân dấy khởi sợ hãi, nên biết.

Này các thầy Tỳ-kheo! Các phẩm giới hiện có là không đến đi, lại không diệt tận mà cho là trong chân như hoàn toàn thanh tịnh.

Nơi phần trước đã giải thích có phân biệt phiền não và lìa phân biệt phiền não, cũng không thành. Phiền não và lìa phiền não trong tịnh do hành đạo kia là đã có phân biệt, nhưng ở trong tịnh do hành đạo dấy khởi sợ hãi có hai thứ tướng, nên biết. Lại ở trong nhân của tịnh do Niết-bàn đã phát sinh sợ hãi, các ông phải nên lìa bỏ tưởng này. Đó là Niết-bàn không khác với tánh giả danh, nhưng lại tưởng chấp.

Chớ nên tùy nơi tưởng, chớ nên theo chẳng phải tưởng: Đó gọi là Niết-bàn khác với tưởng. Nhớ nghĩ tạo ra tưởng của tâm. Đừng có tưởng khác. Đừng dùng thức tưởng. Chớ lấy tưởng khác quán xét danh. Đó gọi là tưởng của nội tâm tịch diệt.

Lại chớ nên dùng tưởng quán tưởng. Không còn hai nhân đó thì ở trong Niết-bàn không sinh sợ hãi. Đó gọi là tướng thứ ba.

(4) Bỏ hai nhân kia truyền dạy các phương tiện của hành tác tối thượng. Khi bỏ hai nhân ấy cùng bỏ nhân phiền não, thì ở trong pháp tịnh đã dứt hết nhân sợ hãi. Đó gọi là tướng thứ tư.

Ở đây cho đến phương tiện hóa độ của Như Lai đều nên biết.

Từ đây trở về sau: Là nói về chánh trí tạo lợi ích lớn. Dựa vào sáu việc nên nói:

  1. Sự việc của nhân.
  2. Sự việc nương dựa.
  3. Sự việc âm vang
  4. Sự việc tư duy tịch tĩnh.
  5. Sự việc chỉ dạy.
  6. Sự việc chứng pháp và thuyết pháp.

Bấy giờ, Tôn giả Tu-bồ-đề hỏi các Tỳ-kheo kia: Tỳ-kheo các ông đã đi đến nơi và hôm nay từ đâu tới đây?

Các Tỳ-kheo nói: Này Tôn giả Tu-bồ-đề! Đức Phật đã dạy: Pháp không từ đâu đến và không đi về đâu. Điều ấy có nghĩa gì? Nên nói như thế này: Thứ nhất là dựa vào nhân của Niết-bàn. Do nghĩa gì mà xứ kia không có qua lại? Dụ như thế gian.

Lại hỏi: Ai là thầy ông?

Đáp: Thầy của chúng tôi nếu từ trước đến nay không sinh thì cũng không có diệt. Có nghĩa gì? Nói như thế này: Thứ hai là dựa vào sự việc của nhân. Là dựa vào không phải sắc thân nơi Đức Thế Tôn, Ngài không sinh cũng không diệt, là tánh của Niết-bàn.

Lại hỏi: Vậy thì các vị theo ai để nghe pháp?

Đáp: Không bị trói buộc nên không cầu giải thoát. Có nghĩa gì? Nên nói như vầy: Thứ ba là dựa vào nhân của âm vang để nói pháp, là họ không bị trói buộc. Dựa vào sự đối trị ái nhiễm đã phát sinh ở trên nên không cầu giải thoát, tức người đó đã được giải thoát.

Lại hỏi: Các vi đang tu tập các pháp gì?

Đáp: Không vì diệt trừ vô minh, không vì sinh khởi minh. Có nghĩa gì? Nên nói như thế này: Thứ tư là dựa vào sự việc tư duy tịch tĩnh, không diệt vô minh nên không dựa lẫn với vô minh. Các bậc Thánh đã nghe có hành đó.

Không vì phát sinh minh là vì đã sinh rồi.

Lại hỏi: Thầy của các ông là ai?

Đáp: Vô đắc, vô tri là thầy của chúng tôi. Đệ tử của vị đó hoặc chưa đắc cùng chưa chứng. Do nghĩa gì? Nên nói như vầy: Thứ năm là dựa vào sự việc chỉ dạy.

Giáo hóa, khuyến dụ các Tỳ-kheo hiện có thân, nên thứ sáu là chứng pháp và hành thuận pháp, dựa vào mười sự việc để nói, nên biết. Dựa vào Niết-bàn hữu dư, Niết-bàn vô dư. Diệt phiền não hành kiến đế. Diệt phiền não hành tu đạo, diệt các khổ. Cúng dường Tôn giả. Hành bố thí. Hành vượt quá địa phàm phu. Nhập trụ địa Thánh nhân. Đồng đạt đến giải thoát.

Lại hỏi: Các vị cùng tu tập phạm hạnh với ai?

Đáp: Chúng tôi ở trong ba cõi, không hành, cũng chẳng phải không hành. Có nghĩa gì? Nên nói như vầy: Niết-bàn vô dư có các sự việc còn lại. Bấy giờ, cùng với các đồng pháp trụ.

Lại hỏi: Chừng nào các vị chứng Niết-bàn?

Đáp: Những người được Đức Như Lai giáo hóa đều đã chứng nhập Niết-bàn, chúng tôi cũng sẽ chứng nhập. Có nghĩa gì? Nên nói như thế này: Dựa vào Niết-bàn hữu dư do vốn có sinh diệt. Tha lực nơi pháp tương tợ ứng hợp nghiệp gốc. Bấy giờ cùng với những người khác trụ.

Lại hỏi: Các vị đã diệt hết phiền não chưa?

Đáp: Tướng của hết thảy các pháp đều đã dứt hết. Nghĩa của câu ấy nên nói như vầy: Do diệt mọi Hoặc (Phiền não) của kiến đế, nên tất cả các pháp đều vĩnh viễn diệt, kể cả xứ của các cõi ác.

Lại hỏi: Các vị đã được được lợi ích cho mình chưa?

Đáp: Nhận biết cách đoạn trừ nên không ngã, không ngã sở. Nghĩa của câu ấy nên nói như thế này: Dựa vào tu tưởng để diệt trừ phiền não, cùng diệt trừ thân kiến đồng sinh.

Lại hỏi: Các vị đã phá trừ được ma chưa?

Đáp: Ma năm ấm thì không thể thủ đắc. Nghĩa của câu ấy nên nói như thế này: Là diệt trừ khổ, còn ma năm ấm thì không thể thủ đắc, đời vị lai chúng không còn hiển bày nữa. Thế nên ở đây phải hàng phục tất cả ma oán thù. Do năm ấm đã không nên các ma khác không thể hiện hành.

Lại hỏi: Các vị phụng sự Đức Như Lai như thế nào?

Đáp: Không dùng thân, miệng, tâm. Nghĩa của câu ấy nên nói như thế này: Cung kính Tôn giả không dùng đến thân v.v… đạt được Niết-bàn là được thân cận cung kính.

Lại hỏi: Các vị đã tạo lập phước điền chưa?

Đáp: Không giữ lấy nên không có tạo tác. Do những gì nên nói như thế? Người đàn-việt tạo sự cung kính, chúng tôi không hề giữ lấy cũng không tạo ra, do lìa các kiến chấp ác động.

Cứ như vậy lại hỏi: Các vị đã đoạn dứt sự qua lại nơi sinh tử chưa?

Đáp: Là không thường, không đoạn. Câu này có nghĩa gì, nên nói như thế này: Vì đã vượt quá địa không phải là Thánh nhân, nên không đoạn dứt thế gian, khiến tạo một ít phương tiện, nhưng chẳng phải là bậc thượng, do có Niết-bàn. Đây là chỉ rõ không đoạn dứt thế gian.

Lại hỏi: Các vị đã hành thuận nơi địa của Thánh nhân chăng?

Đáp: Xa lìa tất cả thủ, hữu, nên được giải thoát vô ngại. Câu này có nghĩa gì? Nên nói như thế này: Trụ nơi địa của Thánh nhân, từ bỏ tất cả thủ nên giải thoát. Không chấp sai lạc, lìa bỏ các chấp giữ không đúng đắn.

Lại hỏi: Rốt cùng các vị nương dựa vào đâu?

Đáp: Tùy theo Như Lai để giáo hóa mọi người là nơi đi chốn đến. Nghĩa của câu ấy nên nói như thế này: Là cùng đến giải thoát. Đối với Như Lai không có pháp tương tợ hay khác hơn, chỉ rõ giải thoát cùng đến, hoặc là tâm được tự tại.

Các Thiện nam ! Có thể tùy lúc để có thể nhận lãnh sự thọ ký chân chánh. Do đã được Tôn giả Tu-bồ-đề nêu ra các câu hỏi như thế, nên tiếp theo là nói sự thọ ký chân chánh, có thể đem lại lợi ích lớn, nên biết.

Thế nào là mật ngữ? Là trí không có hai tướng cùng tất cả mật ngữ. Nhân nơi tướng không có hai tướng. Cái gì là nơi chốn của câu đãnói? Tánh của câu nói đó là không. Đã nói tánh huân tập một tướng, tánh tướng của cảnh giới là có, nên không hai. Trong không hai ấy sinh khởi chấp. Có hai tướng là nhiễm. Không chấp nơi hai tướng là tịnh. Tuy nói tất cả câu xứ hiện có là có sự, nhưng chúng cũng là giả danh, do ngôn từ huân tập tướng. Tánh của cảnh giới là không nhưng hai thứ kia đã huân tập tướng nên tánh của cảnh giới là có hai thứ kia. Ở nơi không hai chấp hai tướng. Có nhiễm, không chấp đều dứt hết nên là tịnh. Như thế, tất cả chư Phật đều hội nhập nơi mật ngữ kia. Đó là tướng không hai, nên biết.

Trong đây, có năm thứ tướng, đối với xứ tôn quý và sự truyền dạy đó, có năm thứ quả và năm quả của lợi ích. Vì thành tựu việc gìn giữ, nên nói các sự việc bí mật, nên biết.

Thế nào là năm thứ tướng tôn quý? Nếu có tưởng nên nói tưởng đó thành tựu, là thành tựu sự việc tôn quý, nên biết. Lại có nghĩa gì? Nghĩa là Đức Phật vĩnh viễn chứng đắc Niết-bàn, nên Ngài mới nói: Các pháp không từ đâu tới và không đi đến nơi nào. Xa lìa sáu thứ nên nhập diệt. Các hữu trong cảnh giới kia có hủy báng hay không hủy báng v.v… và không phân biệt nhận biết. Nên tất cả các pháp do đâu chúng tôn trọng để có thể giảng nói? Các pháp ấy có tướng gì? Do chúng trước đến nay chưa sinh nên cũng không diệt, vì dựa vào pháp thân không sinh, không diệt.

Đó là nói các pháp gì? Nếu không bị trói buộc thì không cầu giải thoát. Trói buộc được cởi là tánh, tướng đều không, nên khiến nhận biết được các hành.

Do bao nhiêu thứ tánh, tướng để nói? Là không đoạn diệt vô minh, cũng không sinh khởi minh. Vô minh và minh đều có tánh giả danh, không thể thủ đắc để thấy biết. Vì người nào để thuyết giảng nếu chưa chứng đắc, chưa được quả vị Chánh giác. Chánh giác chưa dừng thì pháp kia không có.

Thế nào là thành tựu quả thù thắng? Nghĩa là cảnh giới Niếtbàn vô dư. Nếu đối với ba cõi không hành thì dựa vào xứ của cõi Niết-bàn vô dư, chỉ trụ nơi xứ chân như tịnh, nên nói như vầy: Cảnh giới Niết-bàn hữu dư, nếu được Đức Như Lai giáo hóa, chứng nhập cảnh Niết-bàn chân thật, tức chính là có tánh Niết-bàn, tất cả các pháp đều dựa vào Niết-bàn của thế đế. Đó là nói có khả năng hành đầy đủ Thánh đạo. Những việc làm đã hoàn tất nên nói ta đã làm xong mọi việc. Đối với có ngã, không có ngã, ngã sở, đều dựa vào sự chứng đắc pháp vô ngã nên nói: Đã diệt oán bên trong do nội lực. Các thứ phiền não oán do chứng đắc pháp vô ngã, nên đã hoàn toàn trừ bỏ. Nói trừ bỏ oán bên ngoài nhưng chưa thấy biết ma ấm. Những thứ hiện có thuộc về ngoại ấm.

Ấm là oán bên ngoài, là âm thanh, lời nói, nên biết. Vượt hơn năm ấm là xa lìa nhớ nghĩ phân biệt. Tánh của năm ấm là không giác ngộ, nên biết.

Ở đây, thành tựu sự việc lợi ích của quả là hiện tâm cung kính Đức Thế Tôn, không phải bằng sắc thân v.v… Do thuận hành pháp nên khéo nhận lãnh tín thí thanh tịnh. Hiểu rõ phước điền nên không giữ lấy một pháp nào có thể vượt qua biển khổ thế gian.

Vượt qua thế gian: Là do đạt pháp vô ngã, không đoạn, không thường, không thoái chuyển nơi xứ phước điền. Hành địa phước điền nên từ bỏ chấp giữ pháp kiêu mạn, được pháp giáo hóa thành Phật tử. Dựa vào Đức Như Lai nên nói: Các ông vì sao luôn đi mà không có nơi đến? Như Đức Như Lai đã giáo hóa, đó là đến.

Tôn giả Tu-bồ-đề đã hỏi đáp với các Tỳ-kheo như thế. Bấy giờ, có tám trăm vị Tỳ-kheo, không thọ nhận các pháp nên tâm được giải thoát. Ba vạn hai ngàn người đã xa lìa phiền não cấu uế chứng được pháp nhãn thanh tịnh. Sự thọ ký chính thức này đem lại lợi ích lớn. Người hữu học đạt được vô học, phàm phu thành tựu được quả vị hữu học.

Bạch Đức Thế Tôn! Pháp môn Bảo Tích này thật là hy hữu, có thể tạo được lợi ích lớn là giúp cho các thiện nam, thiện nữ trụ trong Đại thừa.

Từ đây về sau: Là hiển bày về pháp môn này, nêu các lợi ích lớn. Do có lợi ích nên đối với các Bồ-tát đã thành tựu pháp Phật cùng giáo hóa chúng sinh, dùng nghĩa trung đạo để dẫn dạy.

Các thiện nam, thiện nữ kia được bao nhiêu công đức: Là chỉ rõ việc lãnh hội trong Tạng Bồ-tát có sự chỉ dạy để tin tưởng tăng trưởng.

Này Ca-diếp ! Nếu có thiện nam, thiện nữ như vậy v.v…: Là chỉ rõ có năm thứ tướng hiện bày lợi ích tin tưởng:

  1. Thế giới vào thời duy trì có đức lớn.
  2. Tự tại tạo thành nhân thoái chuyển.
  3. Chuyển thân.
  4. Xứ sở đó thành tựu việc nêu bày có thể làm pháp khí.
  5. Người nghe làm pháp khí và khi xả thân mạng thấy rõ nghiệp tịnh.

Ở đây, thế giới lớn: Là chỉ Đức Phật, các Thanh văn cùng các tháp v.v… Duy trì: Là các vật báu đầy khắp các thế giới như y phục v.v… Thời: Là vô lượng A-tăng-kỳ kiếp.

Trong ấy, có năm thứ tướng được sự việc thoái chuyển nơi nhân của tự tại lớn, nên biết.

Do nhân có hạn lượng mong cầu quả vô lượng. Do pháp có cùng tận và không cùng tận. Do chẳng phải là trên hết mà được an lạc trên hết, nên hỗ trợ nhận biết tánh hành của đạo, cùng thâu nhận dẫn dắt.

Lại có năm thứ tướng khiến có thể tạo thành sự việc nơi nhân thoái chuyển của tự tại lớn, nên biết:

  1. Nhân an lạc của việc ác nhỏ.
  2. Nhân an lạc hoàn toàn bất tịnh.
  3. Nhân an lạc không vĩnh viễn.
  4. Nhân an lạc của ý thọ nhận điên đảo.
  5. Nhân an lạc dựa nơi thân thọ khổ.

Sau cùng, thọ thân nữ được chuyển đổi thân và nơi chốn đó được cung kính như tháp Thánh.

Xứ ở kia do tạo ra người gánh vác pháp, tùy thuận nơi pháp để đọc tụng, thọ trì v.v… Nói rõ là vì làm pháp khí, gánh vác pháp sự, nên người ấy khi lâm chung thấy Như Lai, được nghiệp thân, miệng, ý thanh tịnh. Lúc xả bỏ thân mạng được thấy thanh tịnh và nghiệp thanh tịnh, không có các hoạn nạn, do lìa các khổ thọ, lìa nhân của lo âu sầu não, nên tâm ưa não đã ho tan biến. Hai mắt không còn nhấp nháy, nhưng biết đúng là các ý vẫn hiện hữu. Tay chân không cử động là đã thành tựu oai nghi. Bụng không mất đại, tiểu tiện là tâm không nhiễm ô.

Vì không sợ hãi nên không nắm tay, không quờ quạng nơi hư không, không có tướng xấu, nên theo chỗ ngồi nằm mà xả bỏ thọ mạng. Do thân đã điều phục nên tiếng nói an lành, đúng đắn. Do lìa các nạn sợ hãi, nên giọng nói trôi chảy, lanh lợi. Do đã xa lìa lời nói khúc mắc, xấu ác, nên tiếng nói càng dễ nghe. Dùng lời nói thượng diệu để nói về pháp mầu nhiệm của Như Lai, nên tiếng nói được ưa thích, yêu mến. Tán thán khi nói về các Đức Như Lai, nên tiếng nói được hàng trời người vui ưa ủng hộ và luôn mềm dịu.

Người đồng pháp đem đạo lý để nêu bày đối đáp, nên lời nói không hề bội ước. Do không có các lời nói dối, nên tiếng nói luôn nhanh nhẹn, sắc bén. Lời nói trước sau không mâu thuẫn, nên lời nói có thể được giữ lấy. Lời nói luôn thuận lý không chống trái, nên tiếng nói được chư Thiên ủng hộ. Tin chư Thiên ủng hộ pháp Phật, nên tiếng nói được chư Phật hộ trì, chư Phật đã thâu nhận. Không giận dữ hiện bày, gặp việc ác có thể nhẫn, nên không hề oán hận. Có thể nhẫn nhục với việc ác trong quá khứ, nên không hề phẫn nộ, não hại. Không che giấu các điều ác, nên không mang tâm báo thù. Các thứ nóng bức như ưu, hối không thể thiêu đốt, nên không cố chấp nơi lỗi lầm.

Do không mong cầu tham dục v.v… nên không hề ôm giữ các thứ ấy. Do không mong cầu báo đáp, nên không có tướng dị biệt, tâm không khiếp nhược đối với giới pháp. Không giữ lấy kiến thức khác biệt, nên không phóng dật, tâm luôn siêng năng tinh tấn. Do tâm vắng lặng không tán loạn, nên tâm không khiếp sợ khi tiếp nhận thế giới thanh tịnh của Phật.

Do không vui mừng nơi tự thân được chư Phật, Bồ-tát che chở, mà chỉ nhận lấy thế giới Phật thượng diệu, nên lìa bỏ kiêu mạn cùng tăng thượng mạn. Do đạt được khí lực hiện có của tất cả pháp Phật, nên luôn từ bỏ kiêu mạn và tăng thượng mạn. Tam-muội, Tam-mabạt-đề của thế gian, thâm tâm phân biệt vi tế nhưng không cầu, chỉ để cầu nhân của khí lực hiện có nơi tất cả pháp Phật, nên được Tammuội không gì hơn của tất cả chư Phật, là tạng Bồ-tát, được các việc lợi ích của chánh tín trong sự chỉ dạy. Như thế, nơi vô lượng A-tăngkỳ, hành giả đã phân biệt những sai khác từ gốc. sự tin tưởng tăng trưởng cũng chuyển khắp vô lượng vô biên A-tăng-kỳ.

Tạo Luận Bảo Tích này
Con có được công đức
Do ý tịnh dũng mãnh
Nguyện thế đạt cứu cánh.
Pháp diệu, Kinh Bảo Tích
Đại trí sáng không cấu
Luận này trừ chướng, lấp
Tạo, chép được phước đức.
Mọi kiến chấp hiện có
Rơi vào lưới không trí
Mắt Phật không chướng ngại
Nguyện thế gian chóng được.

HẾT – QUYỂN 4

Pages: 1 2 3 4