LUẬN KINH ĐẠI BẢO TÍCH
Tác giả: Bồ tát An Tuệ
Hán dịch: Đời Nguyên Ngụy, Đại sư Bồ Đề Lưu Chi
Việt dịch: Cư sĩ Nguyên Huệ
QUYỂN 2
* Kinh nói: Bấy giờ, Đức Phật nói với Ca-diếp: Bồ-tát có được bốn thứ kho báu còn giấu kín lớn. Những gì là bốn thứ kho báu? Đó là: Có thể giữ gìn chư Phật. Có thể nghe lãnh hội sáu pháp Ba-la-mật. Cho đến rất ưa thích nơi núi rừng, tâm không lười biếng.
Hỏi: Vì sao chỉ nói nhất định có bốn pháp, không nhiều, không ít?
Đáp: Vì nhằm ngăn chận về vô cùng, cũng là không phải vấn nạn. Lại nhằm hiển bày nhân chưa từng có, nên nói bốn thứ.
Ở trong đêm dài sinh tử, khéo tu tập pháp không, nên được Nhất thiết trí, cũng như tu tập nhân không. Vì diệt trừ vô minh tăm tối che lấp thế gian, nên nói pháp để tâm có thể thân cận, hướng đến Niết-bàn. Chỗ sâu xa của tịch tĩnh, do không tu tập, nên không điều phục, đạt được thanh tịnh. Thế gian nếu giảng nói pháp thượng diệu, thì người nào có thể thân cận? Nên hai thứ bố thí tiền của và pháp là trái ngược với tâm ganh ghét, keo kiệt. Vì tu tập từ lâu, nên thế gian ưa thích A-lê-da (Thánh giả). Vì đã hết sức ưa thích A-lêda nên khi giảng nói pháp có thể gần gũi. Hoặc lại thâu giữ hành của tất cả Bồ-tát.
Lược nói bốn pháp. Các Bồ-tát có hai thứ hành trợ đạo Bồ-tát:
- Hành trợ đạo của trí.
- Hành trợ đạo của công đức.
Trong đây, tin không, vô ngã cùng không xả bỏ Niết-bàn v.v… là hành trợ đạo của trí. Ba câu tin nghiệp báo v.v… là hỗ trợ thành tựu của trí công đức. Tu tập rộng sáu pháp Ba-la-mật, thâu giữ hành, hỗ trợ bốn thứ hành. Ở đây không từ bỏ ý định giáo hóa chúng sinh.
Hành tài thí, pháp thí, không mong báo đáp, đó gọi là hành hỗ trợ Bố thí Ba-la-mật. Ý không bỏ Niết-bàn là hành hỗ trợ Trì giới Ba-la-mật. Do tâm Bồ-tát hướng đến Niết-bàn, nên thường sợ hãi thế gian, luôn đề phòng hàng phục nhân của các phiền não như phá giới v.v… Được thể của pháp tánh giữ giới, nên Bồ-tát thành tựu nhẫn vô ngã và điều phục chỗ nương dựa của tướng chúng sinh. Giả sử khi chúng sinh có sự bức bách não hại nhưng tâm của Bồ-tát không hề dao động, do có thể tin nghiệp báo cùng ý không từ bỏ thế gian, đó là hành hỗ trợ thành tựu Tinh tấn Ba-la-mật, cũng là hành hỗ trợ thành tựu quả của công đức, trí tuệ.
Bồ-tát tin nơi Nhất thiết trí, tuy thấy rõ các thứ khổ lớn của thế gian, tâm Bồ-tát không hề bỏ chúng sinh, cùng chí trượng phu. Không lìa mọi khổ não của thế gian, chỉ ở nơi thế gian, vì nhằm tăng trưởng căn thiện. Phát khởi đại tinh tấn, dùng tâm đại bi nên hỗ trợ thành tựu Thiền định Ba-la-mật.
Đại bi nương dựa nơi thiền định căn bản. Tin vào không là hỗ trợ cho hành Trí tuệ Ba-la-mật thành tựu. Bồ-tát không lìa bỏ tâm Bồ-đề, đó gọi là giữ gìn lời nói chân thật, không lừa dối. Bồ-tát có tâm đại bi và tin tưởng ở nghiệp báo, nên luôn hướng về bạn ở thế gian, hành tác nơi xứ chúng sinh, nhưng không giúp vào việc nêu bày điên đảo. Thế nên, do tâm đại bi và tin nơi nghiệp báo, Bồ-tát không bỏ việc hành hóa ở thế gian, không bỏ nhân của tâm Bồ-đề. Các pháp ấy đã chỉ rõ việc giữ vững lời nói chắc thật. Bồ-tát nói lời chắc thật là do không lìa bỏ tâm Bồ-đề. Đây tức căn cứ vào chỗ phát tâm bố thí của cải, giáo pháp v.v… mà không mong được trả ơn, nên gọi là giữ gìn thế mạnh.
Tâm bố thí của Bồ-tát là bố thí tài và pháp nhằm trừ bỏ tánh keo kiệt, ganh ghét. Thành tựu tâm hướng đến Niết-bàn, đó là giữ vững nẻo tịch tĩnh.
Bồ-tát đạt được tịch tĩnh là do diệt trừ các thứ không tịch tĩnh, nên có khả năng thành tựu nhân thiện và tin nơi không, vô ngã v.v… Đó gọi là giữ vững trí tuệ.
Trí tuệ của Bồ-tát là để điều phục, trừ bỏ các phiền não, đối trị để có được Bồ-đề thanh tịnh, căn thiện có thể tăng trưởng, cho đến chứng đắc Bồ-đề vẫn không mong cầu trả ơn. Tâm từ là ban cho của cải và chánh pháp v.v… khiến đem lại lợi ích cho người khác.
Đại bi, đó gọi là đại bi, vì đại bi đứng đầu, cùng tin ở nghiệp báo, nên khi hành tác ở thế gian, chỉ làm những việc hữu ích cho chúng sinh. Những hành tác này đều thành tựu nên tâm sinh vui mừng, đó gọi là hỷ. Hoặc do tâm hướng đến Niết-bàn, nên có khả năng điều phục các phiền não, vì không còn phiền não nên tâm có sự vui mừng gọi là hỷ. Hoặc quán các hành đều vô ngã, các pháp lìa ái, kính v.v… Hoặc nhớ nghĩ về vô lượng công đức của Như Lai nên sinh vui mừng, đó gọi là hỷ. Hoặc tự quán biết mình có đủ khả năng xuất thế. Hoặc thấy chúng sinh ở thế gian đều bị chìm lấp trong lớp bụi phiền não, nên Bồ-tát nghĩ: Ta có thể xua trừ hết thảy các thứ vô minh đang che phủ chúng sinh trong lớp bụi dày nơi thế gian này, khiến họ đạt đến cảnh giới Niết-bàn tịch diệt. Ta hành tác để cứu vớt chúng sinh ra khỏi nẻo bụi bặm phiền não cấu uế, thấy lợi ích của họ và của ta không lìa nhau. Hoặc thấy chúng sinh được hưởng an vui, tâm sinh vui mừng, đó gọi là hỷ. Vì quán xét các hành đều vô ngã, nên trừ bỏ các sự thân, oán v.v… chứng ngộ chân như bình đẳng, tạo lợi ích cho chúng sinh, các pháp mâu thuẫn tự nhiên từ bỏ. Nơi pháp phần Bồ-đề, đó gọi là xả. Hành tài thí, pháp thí không mong báo đáp. Bố thí, ái ngữ cùng tâm bi, nên không bỏ việc tạo lợi ích cho chúng sinh. Về lợi ích như nơi các câu khác đã nêu, tức luôn hành trì tạo lợi ích, nên làm rõ về đồng sự. Vì vậy đã thâu giữ hết thảy hành trợ đạo của Bồ-tát. Những việc được giải thích xác nhận nơi bốn câu trên.
Hỏi: Nay cần nói đến nghĩa không. Vậy thế nào là không?
Đáp: Dùng trí tuệ để khéo giải thích tánh tướng của các hành nhưng không thủ đắc, đó gọi là không.
Hỏi: Trí có khả năng diệt các hành không?
Đáp: Không.
Tuy nhiên, cảnh giới của tướng thức là như thế, trong chân thật thì không hư vọng, nhưng cảnh giới của thức được hiện bày là sự không thật. Ở trong lãnh vực có tạo tác thì thức và trí tuệ phát sinh cùng lúc. Từ khi phát khởi hành tu nhẫn bậc thấp cho đến pháp tánh thì lần lượt có chia ra trên, dưới, trước, sau, giữa. Phân biệt rõ rồi thì có thể tạo duyên cùng với trí vô lậu, rồi trở lại diệt trí vô lậu. Trong chân thật thì không nên theo hư vọng mà nhận thức, vì cảnh giới của thức là sự việc không thật. Nơi cảnh giới tạo tác thì trí và thức cùng sinh. Từ khi phát khởi hành tu nhẫn bậc thấp cho đến pháp tánh thì lần lượt chia ra trước, giữa, sau. Phân biệt rõ rồi, cùng với trí vô lậu tạo duyên, trở lại diệt trí vô lậu. Cũng cùng ở trong cảnh giới chân thật thấy rõ nhân chướng ngại cảnh giới của thức không thể duyên hợp. Trở lại cảnh giới chân thật của chính mình thì thấy cảnh giới vô tướng, thấy pháp giới. Vượt khỏi lãnh vực phiền não thì không phải là sự thấy của tự tướng. Cảnh giới của tự tướng chỉ ở tại hành thức. Các pháp kia cũng thế. Chỉ có thức tạo tác nơi thế gian. Hành tu đạo là thành trí hướng tới tướng ấy, nên không thể tự giữ lấy tướng. Nếu dựa vào trí tạo tác như thế thì không phải là trí phân biệt tánh tướng. Tự tướng ấy vốn là vô thường v.v… nên trí tuệ không phải là việc chân chính. Tướng hữu ký là thức, thế nên không có thức hơn kém. Nghĩa này không thành.
Vì sao không thể giữ lấy tự tướng? Nếu trí chẳng phải là tướng, thì trí đồng với cảnh giới của tướng. Cảnh giới này không hư, tự giữ lấy tướng. Nếu có thể giữ lấy tự tướng, thì xả bỏ tự tướng, chỉ có sự ghi nhớ cùng giải thích thành thức, là không khác với thức. Thuận theo báo là không trái ngược. Nếu dựa vào trí hành tác như vậy thì cùng thức sinh là duyên. Nhưng cảnh giới của sự ấy, tướng như vậy là gắn liền với trí nên cũng giữ lấy.
Vô thượng v.v…: Sự việc này không đúng, vì chúng trái ngược nhau, nên không có việc tự cùng với tướng trái nhau.
Đã cho sự của sắc cũng vô thường. Nếu do sự của sắc thành vô thường, thì trí tất có khả năng giữ lấy, nhưng là không thành. Cho nên trí không tự giữ lấy nghĩa của tướng. Trí tùy thuận nơi thức, tánh kia vì thế không diệt mất. Tạo ra tướng của cảnh giới chân thật, nên thành xả bỏ nghĩa của tự tướng, vì vậy trí không có cảnh giới của tự tướng, hoặc thức là cảnh giới của tướng chân thật.
Hỏi: Do gì để tin nơi không, nghiệp báo mà có thể tùy thuận? Do nghĩa này nên nói: Có thể tin vào các nghiệp báo.
Đáp: Vì có sinh nên nói, vì vậy không có lỗi.
Ở đây cũng có thể dùng trí phân biệt, quán các hành, chúng sinh không thể thấy. Trí nhận biết các hành sinh, vô tướng, không phân biệt duyên nơi đấy, nên bất thiện không thể trụ nơi sự, cùng không phân biệt về sự có, vậy thì ai tạo các hành và nhận quả gì để chúng có thể cùng thuận vào nhau. Từ đó sinh nghi hoặc, do sinh nghi hoặc, nên không tin nghiệp báo. Vì ý nghĩa này nên Đức Phật nói với Ca-diếp: Thà khởi kiến chấp của chúng sinh chứa đầy như núi Tu-di, chứ không do ngã mạn mà khởi tâm ngã mạn, như trong Luận nói kệ:
“Không” trừ mọi kiến chấp
“Kiến” chư Phật giảng nói
Nếu người có “Không kiến”
Tức là không thể trị.
Không chánh quán các không
Hay hoại không trí sáng
Dụ như bắt rắn dở
Không biết cách hành chú.
Ở đây vì hồi hướng
Như Lai nói kệ này
Biết pháp và pháp tiếp
Độn căn khó lường tính.
Bồ-tát đã khéo hành nơi thế đế và đệ nhất nghĩa đế, tuy khéo quan sát, phân biệt các hành, nên biết rõ các nhân duyên tích tập. Trí sâu xa đã được hành trì từ lâu, tức nhận biết được sự việc của nhân duyên nên không sinh nghi hoặc. Xác nhận các hành kia theo nẻo nhân như thế, nếu khác thì không thành tựu tánh. Các hành không phân biệt. Do từ ý nghĩa ấy nên có vô số thứ phân biệt như vậy. Niệm Phật thuộc về phương tiện thiện xảo để hành tác và đã thành tựu. Như xứ ứng hóa, nên lần lượt đạt được quả Nhất thiết trí. Bồ-tát do tâm tin nên phát khởi tinh tấn dũng mãnh, nhẫn nhục vô ngã thù thắng.
Hỏi: Xin nói rõ về sự nhẫn vô ngã?
Đáp: Do quán xét cảnh giới thức tưởng của chúng sinh, do có thế đế nên các pháp đều đồng, chỉ nhận biết, khéo lựa chọn, phân biệt. Đã cầu tìm không có chúng sinh và nghĩ như vầy: Đây chỉ có pháp cũng như huyễn ảo không phân biệt. Duyên lực không thể hoàn toàn tự thay đổi nối tiếp nhau. Nghiệp, phiền não là nhân sinh của củi lửa như thể của ngọn đèn cháy. Do pháp duyên từ gốc nơi nghĩa tương tợ, nên nối tiếp không dứt. Nhưng khi lửa cháy, không biết từ đâu đến. Lúc lửa tắt cũng không để lại dấu vết và cũng không đi về đâu. Trong ấy, các thứ hiện có chỉ là dùng để mong cầu. Đó gọi là nhẫn vô ngã.
Hỏi: Nhẫn vô ngã có thể tạo nên sự phân biệt không chúng sinh, còn Bồ-tát đều khiến cho chúng sinh được lợi ích, thế sao nói là nhẫn vô ngã?
Đáp: Những sự việc Bồ-tát hành hóa nơi chúng sinh đều có thể đem lại lợi ích cho họ, nên gọi là nhẫn vô ngã. Do nhẫn vô ngã, nên Bồ-tát đã điều phục các phiền não, quan sát tướng của chúng sinh để tu tập, nhận biết các hành duyên nhau là giả tạm, không phân biệt. Giả sử có chúng sinh bị tai họa, hoặc các hành thế gian trở lại gây não hại cho Bồ-tát, thì do đã khéo nhận biết về chúng sinh, nên Bồ-tát không bỏ tâm Bồ-đề lại giữ vững tâm đó để thành tựu trí tuệ và từ bi. Không lìa bỏ chúng sinh và tu tập đủ các căn thiện để đạt được Nhất thiết trí, không lìa bỏ các hành mới chứng đắc Bồ-đề.
Hỏi: Tin tưởng nơi không, nhẫn vô ngã còn có nghĩa gì khác?
Đáp: Tin tưởng nơi không và vô ngã có thể phân biệt quan sát thuận hợp tất cả các hành, chứng được xứ căn bản của pháp giới.
Nhẫn vô ngã là nơi cảnh giới của tự tướng, có thể phân biệt, quán xét thuận hợp về chúng sinh, mọi vật, chính là thấy được xứ pháp căn bản.
Tin tưởng nơi không là loại trừ tánh kiêu mạn chấp giữ nơi pháp. Còn nhẫn vô ngã là loại trừ tánh kiêu mạn chấp giữ nơi chúng sinh.
Hỏi: Do có tướng chúng sinh nên Bồ-tát khởi tâm đại bi, vì sao nói tin nơi pháp vô ngã, như vậy đại bi đó của Bồ-tát là trái ngược với pháp?
Đáp: Nhân nơi đại bi này nên Bồ-tát chứng biết hết thảy pháp đều vô ngã rồi, chỉ nhớ nghĩ đến cảnh giới của chúng sinh, luôn bị vô minh che lấp, chỉ có tu tập trong pháp vô ngã mới lìa khỏi sự cố chấp nơi tướng chúng sinh ấy. Do đã chấp đấy là ngã và ngã sở, đã duyên nơi ái nên lại tạo nghiệp hữu lậu, như vậy tức trở lại không dứt nổi đường sinh tử của thế gian. Vì thế, Bồ-tát suy nghĩ: Ta sẽ khiến chúng sinh tin ưa các pháp này. Thế nên, tâm đại bi của Bồ-tát thương xót chúng sinh càng sâu nặng.
Hỏi: Ông đã nói tâm hướng đến Niết-bàn, nay cũng nên giải thích nghĩa của Niết-bàn?
Đáp: Niết-bàn là không còn thân duyên vào quả nghiệp, phiền não. Vì không duyên, nên dòng chảy của ấm diệt mất, đó gọi là Niếtbàn. Như không còn duyên thì lửa tắt, lửa trí tuệ chỉ còn hơi ấm. Không duyên nên hạt giống của thức diệt mất. Còn có duyên nơi vị lai, các hữu tuy có nảy mầm như hạt giống, nhưng lửa đã tắt, mầm hữu lậu không sinh. Dập tắt lửa phiền não là Niết-bàn chân thật, như cây đã bị nhổ tận gốc. Nhưng Niết-bàn kia có hai thứ: (1) Niết-bàn hữu dư. (2) Niết-bàn vô dư. Ở đây, hữu dư chính là diệt phiền não. Vô dư thì không còn duyên. Không từ nơi tập, khổ, diệt, nên gọi là Niết-bàn. Vì đạt tới Niết-bàn nên gọi là đến Niết-bàn, cũng gọi là trụ nơi Niết-bàn.
Hỏi: Thế nào là tâm hướng đến Niết-bàn?
Đáp: Thấy các thứ hoạn nạn của thế gian sinh tâm như vầy: Ta phải làm thế nào để diệt trừ các phiền não như thế để mọi người đều đến được nơi chốn cam lồ vắng lặng kia. Ý hướng đến Niết-bàn phát sinh cùng thức, tâm tập hợp các pháp trắng, đó gọi là ý hướng đến Niết-bàn.
Hỏi: Ý không xả bỏ thế gian, thì thế gian này có nghĩa gì?
Đáp: Trong hành tạo của nghiệp, phiền não, chúng lần lượt duyên nhau, giả hợp, nên từ vô thỉ đến nay thế gian luôn nối tiếp không đứt đoạn. Vì đến thế gian v.v…, nên gọi là đạt đến thế gian. Thế gian tịch diệt là nghĩa của bậc hữu học. Tuy thấy các khổ hoạn, nhưng tâm Bồ-tát vẫn phát khởi hướng về thế gian, không xả bỏ chúng sinh, chỉ tu tập, nhất tâm hành tác giáo hóa.
Hỏi: Nếu theo tâm tương tợ khi phát khởi các hành, hễ tu tập pháp trắng thì được trắng, tu tập pháp đen thì bị đen. Như vậy, ý của Bồ-tát hướng đến Niết-bàn như thế nào? Bồ-tát không phát sinh các hành tương tợ với thế gian chăng?
Đáp: Bồ-tát với tâm tạo lợi ích cho người khác, nên đã tu tập lâu các hạnh của bậc Bồ-tát. Còn ý hướng đến Niết-bàn, vì đem lại lợi ích cho kẻ khác, nên tâm Bồ-tát có thể đi ngược lại Niết-bàn. Do khéo nhận biết thế gian có nhiều tai họa, tuy đã nhàm chán thế gian, có ý hướng về Niết-bàn, nhưng Bồ-tát vẫn không thể bỏ chúng sinh, vẫn luôn hành tác hóa độ. Bồ-tát suy nghĩ thế này: Các Bồ-tát không phải từ trong thể của pháp vô lậu sinh khởi, tăng trưởng pháp Bồ-tát, nhưng chính là từ trong thể hữu lậu mà các pháp của chư Phật được sinh khởi, tăng trưởng. Thế nên, Bồ-tát không lìa bỏ pháp Bồ-tát. Tuy thấy rõ thế gian có nhiều hoạn nạn, nhưng Bồ-tát vẫn nguyện chọn lấy thế gian. Như Phật đã nói: Này Ca-diếp! Ví như cây đem trồng ở không trung làm sao sinh trưởng? Cho đến phải có kiết sử tạp nhiễm của pháp thế gian mới có thể làm cho pháp Phật sinh trưởng. Do đó, Bồ-tát vì giáo hóa chúng sinh nên hành bố thí v.v…
Hỏi: Nay nên giải thích thêm việc Bồ-tát giáo hóa chúng sinh chăng?
Đáp: Tâm của các chúng sinh bị nước phiền não làm cho thấm ướt. Bồ-tát chỉ dạy họ nên nghe pháp, tư duy, tu tập, là tạo tướng Noãn (hơi ấm) đầu tiên cho họ, dẫn đến việc gom góp thành căn thiện xuất thế, khiến hơi ấm được nung thêm. Tùy theo tâm lực khiến họ được yên ổn trong hạt giống căn thiện vô lậu, thuận nơi tâm ý họ mà giáo hóa rộng khắp, gọi là Bồ-tát giáo hóa. Do khéo tu tập tâm từ bi và phương tiện thiện xảo để giáo hóa tâm chúng sinh, nên Bồ-tát dùng tài thí và pháp thí để thâu giữ hết thảy, sau đấy xét xem tâm ý họ ưa thích cái gì, tùy năng lực mà giáo hóa khiến trụ trong pháp ba Thừa.
Hỏi: Nói bố thí, vậy do đâu gọi là bố thí?
Đáp: Ban cho của cải và giáo pháp cùng sinh với tâm niệm không tham v.v…, hành trì thí cho không mong trả ơn, đó gọi là bố thí. Ở đây, vô số của cải được cho, nhận, nên quả báo cũng có nhiều nghĩa khác nhau. Bồ-tát không mong đền ơn là nghĩa đã xả bỏ chỗ vui thích của việc tự mình làm, nên không còn mong trả ơn.
Hỏi: Nói tâm ý không xả bỏ chúng sinh mà hành bố thí, há không gọi là mong cầu quả báo? Vậy thì nói hành tác bố thí, nhưng tâm không mong cầu đền đáp là sao?
Đáp: Tuy không cầu báo, nhưng vẫn hành bố thí, giáo hóa chúng sinh, hành tạo tự nhiên thì không có hại gì cả. Hoặc nghĩ thế này: Đây là xứ quả báo, có nhiều phương tiện rộng lớn. Đó là phát tâm Bồ-đề, luôn nhớ nghĩ và không bỏ chúng sinh. Vì giáo hóa chúng sinh nên hành bố thí, công việc này đem đến cho thế gian vô lượng quả báo. Như vậy, về sau trong việc đạt được Nhất thiết trí sẽ có mâu thuẫn. Tuy hiện hướng đến chúng sinh hành bố thí vì nhằm ngăn chận chỗ mâu thuẫn kia, Bồ-tát quan sát khuyên bảo chúng sinh tu tập các công đức chân thật của Bồ-tát. Thế nên nói hành bố thí, không mong báo ơn, đó là nói theo nghĩa vừa nêu, chỉ rõ Bồ-tát đã thành tựu tâm sâu xa và tâm ngay thẳng, không phải vì mong cầu điều mình ưa thích mà hành bố thí v.v… để được quả báo. Tâm của Bồ-tát ở trong nhân và quả đều không vướng mắc, không mong cầu, chỉ vì lợi ích của chúng sinh, khiến họ đều chứng đắc Bồ-đề Phật. Khi phát nguyện tu tập các căn thiện, Bồ-tát đã khởi nguyện như thế.
Bồ-tát lại suy niệm: Nếu có pháp như vậy, ta sẽ tu tập Nhất thiết trí rồi xả thí cho tất cả chúng sinh. Tuy nhiên, các pháp đều tự có Thể, người tu các hành tự thân sẽ được quả báo. Tuy vậy, ta tu tập Nhất thiết trí chỉ vì lợi ích cho mọi người. Do nghĩa của phương tiện ấy, Bồ-tát từ lúc tĩnh tâm đến nay, các sự tu hành đều khiến để phát khởi Nhất thiết trí cùng nhân của các pháp như bố thí v.v… với những duyên dựa hiện có, đạt được Nhất thiết trí là các quả của pháp. Hết thảy pháp đó đều là của Bồ-tát vì tạo lợi ích cho chúng sinh, luôn khởi tâm hướng đến để thành lợi ích. Do nghĩa này mà công đức của Bồ-tát không đồng với Thanh văn, Duyên giác, nên gọi là công đức chân thật của Bồ-tát.
Các Thanh văn và Phật-bích-chi hành bố thí cho thế gian là để tự chuyển hóa mình. Các ngoại đạo thì vì mong cầu quả báo từ bên ngoài nên hành hạnh tà. Để đối trị nên mới nói Bồ-tát an trụ trong hạnh chánh, nêu rõ 4 thứ lợi ích nơi bốn thứ bốn câu, nên biết. Những gì là bốn thứ lợi ích?
1. Được kho báu còn giấu kín lớn với sự việc tự tại.
2. Vượt quá nẻo ma, nên khiến không có các oan gia.
3. Lìa tâm dua nịnh quanh co, ở chốn thanh vắng, tịch tĩnh v.v… Mọi thứ thọ dụng đều không có sự chê trách, hờn giận.
4. Hỗ trợ cho vô lượng phước đức trang nghiêm, nên được vô biên công đức hỗ trợ.
Ở đây, các lợi ích v.v… lần lượt cùng giải thích.
Bốn câu thứ nhất: Được kho báu còn giấu kín lớn: Là hỗ trợ thành tựu hành công đức, trí tuệ. Trong đây, có thể gặp chư Phật là hỗ trợ thành tựu hành công đức. Ba câu còn lại: Là hỗ trợ thành tựu hành trí tuệ, dựa vào sự tập hợp các hành công đức trí tuệ.
Bốn câu thứ hai: Vượt quá nẻo ma, khiến các chướng được thanh tịnh, dựa vào chướng đã được thanh tịnh đó.
Bốn câu thứ ba: Là gồm thâu các pháp căn thiện, tích tập tất cả pháp môn pháp trắng, dựa vào sự tích tập các pháp môn pháp trắng.
Bốn câu thứ tư: Hỗ trợ, tích tập, thành tựu vô lượng công đức, có thể tạo được sự tướng lợi ích cho tất cả chúng sinh cùng đạt được vô biên công đức, nên biết.
Bốn thứ khiến đạt được kho báu còn giấu kín lớn: Là thân cận người thiện, có thể nghe chánh pháp, tịch tĩnh tư duy, hành thuận theo pháp, cùng với pháp nối tiếp, nên biết. Có thể được gặp Phật, nên thân cận người thiện. Có thể nghe sáu pháp Ba-la-mật, nên có thể nghe chánh pháp. Đem tâm vô ngã thân cận hầu hạ người giảng nói pháp, nên tâm tịch tĩnh, tư duy, không phóng dật. Ưa thích ở chốn núi rừng, tâm không biếng trễ, nên có thể hành thuận pháp và pháp thứ.
Trong đây, nói có thể gặp chư Phật: Là cúng dường chư Phật, hỗ trợ thành tựu hành công đức. Ba câu còn lại: Là các tuệ như văn, tư, tu thanh tịnh, là hỗ trợ cho hành trí tuệ thành tựu. Dựa vào các pháp tương tợ nơi thế mạnh của thế gian.
Nói bốn thứ pháp đạt được kho báu còn giấu kín lớn, nên biết.
Bốn thứ sự việc của thế gian:
- Thấy sự tướng thì ưa thích vô số đùa cợt.
- Thọ dụng về nghe là các thứ kỹ nhạc v.v…
- Thọ dụng về nhớ nghĩ là các thứ kho tàng, tài sản v.v…
- Thọ dụng về xúc là các thứ ăn uống còn lại.
Như vậy, thấy Phật là nghe, tư duy, tu tập v.v…, nên biết.
Bồ-tát có 4 thứ pháp vượt quá nẻo ma. Là dựa vào bốn thứ ma nên nói pháp vượt quá nẻo ma, nên biết. Những gì là bốn thứ ma?
1. Ở trong việc hành pháp Đại thừa, tạo chướng ngại khiến bỏ tâm Bồ-đề.
2. Trong việc giáo hóa chúng sinh, tạo chướng ngại. Đối với trụ xứ của tất cả chúng sinh không sinh tâm ghét bỏ.
3. Ở trong hành không khác biệt, tạo chướng ngại, vì có thể khéo nhận biết hết thảy kiến chấp.
4. Ở trong hành đầy đủ tạo chướng ngại, vì cùng khiến các chúng sinh khởi tâm kiêu mạn. Để đối trị, nên nói thừa bất động, chỉ họ tự bỏ những nhân không phải hành của chúng sinh, từ bỏ các nhân của hạnh tà, cùng bỏ nhân của hạnh chánh không đầy đủ. Do đó vượt quá nẻo ma, nên biết.
Bồ-tát có 4 pháp gồm thâu hết thảy căn thiện. Dựa vào bốn thứ căn thiện nên nói bốn thứ pháp gồm thâu tất cả thiện. Những gì là bốn pháp?
- Tướng tu địa nhất tâm.
- Tướng của địa không nhất tâm.
- Ba thứ tướng giáo hóa chúng sinh.
- Tướng tu khổ hạnh và tướng văn, tư, lìa tâm dua nịnh quanh co.
Ở chốn thanh vắng, tịch tĩnh, là hiện bày tướng tu hành căn thiện. Đối với các chúng sinh hành bốn nhiếp pháp, không cầu trả ơn, là vì hóa độ chúng sinh nên hành các hành ấy. Chúng sinh là người cần được giáo hóa, nên hành các hạnh. Đó là tướng giáo hóa chúng sinh. Vì tất cả chúng sinh nên không tiếc thân mạng, để cầu chánh pháp là rất khó. Có tướng khổ hạnh là nghe pháp cùng tìm hiểu nghĩa không biết chán đủ. Vì tích tập tất cả căn thiện cùng hành tinh tấn, đó gọi là tướng của văn, tư.
Bồ-tát có 4 sự việc để trang nghiêm vô lượng phước đức. Dựa vào chúng sinh phát khởi dục nhằm khiến họ xả bỏ, nên nói bốn xứ. Những gì là bốn xứ? Đó là nghi hoặc, do dự v.v… Vì ngăn chận rơi vào đường ác. Ngăn chận kẻ ưa chuộng Tiểu thừa. Cùng kẻ ở trong pháp Phật khởi tâm niệm ác, hủy báng. Ở đây, tâm Bồ-tát không cầu báo mà hành bố thí, đó là muốn kẻ có tâm nghi hoặc, do dự v.v… kia quay về chánh pháp. Đối với người phá giới vẫn khởi tâm đại bi, là Bồ-tát muốn xoay chuyển các chúng sinh rơi vào con đường ác kia. Xưng dương, tán thán, khuyến hóa tất cả chúng sinh phát tâm Bồ-đề, là nhằm xoay chuyển tâm của người ưa chuộng Tiểu thừa. Đối với người thấp kém, tu tập hạnh nhẫn là nhằm xoay chuyển kẻ đối với pháp Phật khởi tâm niệm ác, hủy báng. Vì nếu không cứu giúp kẻ hẹp kém, thì họ sẽ phát sinh tâm ác đối với chánh pháp.
Bồ-tát có 4 thứ pháp vượt quá địa vô minh phiền não. Những gì là bốn thứ pháp? Đó là:
- Thọ trì giới cấm.
- Thâu giữ chánh pháp.
- Hiện bày hào quang tỏa sáng qua các đời.
- Ban cho của cải vật dụng, cho đến sự đồng ý v.v…
Đó là bốn thứ pháp vượt quá địa vô minh phiền não.
Bồ-tát có 4 thứ không chướng ngại, khiến đạt được đầy đủ trí không chướng ngại. Những gì là bốn? Đó là:
- Bố thí pháp.
- Thâu giữ, hộ trì chánh pháp.
- Không khởi tâm ganh ghét.
- Không khinh bỉ, chê bai người khác.
Không phải chỉ có danh tự mà gọi là Bồ-tát: Là thị hiện sự khác nhau của hành chánh, từ lúc mới phát tâm cho đến lần lượt giảng nói pháp, thị hiện nhiều phương tiện hành trì, dựa vào các hạnh hơn, bằng v.v…
Pháp hành của Bồ-tát: Là chỉ rõ hành của Bồ-tát là hơn hẳn hành của Thanh văn v.v… Hành bình đẳng là xem thân mình và người khác như nhau. Bồ-tát thị hiện hành các hạnh không do tất cả chúng sinh. Hạnh thiện là ở trong hạnh Bồ-tát, chỉ rõ về nghĩa thù thắng nơi thiện tịnh tận cùng.
Phương tiện thiện xảo dựa nơi Bồ-đề, nên hành theo nẻo chánh pháp: Là trong hành của Bồ-tát chỉ rõ phương tiện kia. Ở đây, Bồ-tát hành theo nẻo chánh pháp, là ở trong hành của hàng Nhị thừa, chỉ rõ có năm thứ sự việc thù thắng. Đó là luôn vì lợi ích sâu xa của tất cả chúng sinh cầu được an lạc, khiến họ trụ nơi Nhất thiết trí.
Khéo có thể nêu bày với công đức của mình: Là do tâm sâu xa thù thắng. Do tâm sâu xa thù thắng, nên thâm tâm của Bồ-tát thù thắng tự thân thường tạo lợi ích an vui sâu xa cho tất cả chúng sinh, không phải như các Thanh văn, Duyên giác. Bồ-tát có khả năng dùng bốn thứ hành thù thắng nhằm khuyên bảo khiến tin tưởng và hội nhập nơi Nhất thiết trí.
Trí nơi các Bồ-tát: Là khuyên bảo chúng sinh khiến nhập trong tất cả trí tuệ, không phải như các Thanh văn, Duyên giác.
Khéo có thể nêu xưng công đức của mình, không hủy hoại trí người khác: Là Bồ-tát khéo có thể nhận biết những gì mình đã chứng được, cũng nhận biết hành của hàng Nhị thừa, còn hàng Nhị thừa thì không thể thông đạt được công đức của Bồ-tát.
Tâm không dua nịnh quanh co: Là Bồ-tát không có tâm chấp trước, kiêu mạn, vì đã chứng biết pháp vô ngã, nên tu tập hạnh vô ngã.
Câu thứ hai: Về Thanh văn v.v… có nói: Đây là xứ phước điền thù thắng.
Ý thâm nhập kiên cố: Là Bồ-tát vì mục đích giáo hóa, đem lại lợi ích cho chúng sinh, nên phát khởi ý thâm nhập vững chắc, không phải như các Thanh văn, Duyên giác v.v… lìa bỏ việc tạo lợi ích cho chúng sinh để nhập Niết-bàn.
Trong hành bình đẳng của Bồ-tát, thị hiện có 8 thứ bình đẳng:
1. Ái kính bình đẳng: Có ba thứ sai biệt tùy lúc tâm thực hiện: Ái kính không hư vọng là chỉ rõ không có tâm mong cầu. Ở trong thân oán, tâm xem như nhau, là chỉ rõ đối với việc tạo lợi ích hay không tạo lợi ích thì cùng hành như nhau. Hoàn toàn có khả năng làm tri thức thiện, cho đến khi nhập Niết-bàn, là chỉ rõ có tâm ái kính nơi tất cả thời.
2. Ý niệm thường trù tính lường xét đầy đủ việc ái kính, trước là hỏi han: Là chỉ rõ việc an ủi hỏi han với tâm bình đẳng, đặt ra hạn lượng để các tâm thành thục như nhau vui mừng vì được giáo hóa.
3. Đã hứa sự việc gì thì trọn không khiến họ lo lắng cho là ta không làm: Là chỉ rõ sự phụ trợ công việc với tâm bình đẳng. Theo chỗ hứa, gánh nặng đã thực hiện hay chưa cũng không đoạn dứt hành của tâm đại bi đối với hết thảy chúng sinh.
4. Không mệt mỏi: Là chỉ rõ tâm bi và tâm không thiên lệch cùng bình đẳng, do đã hứa nhận lãnh gánh nặng. Lại, tâm không mệt mỏi là chỉ rõ không bị trói buộc, tâm luôn như nhau đối với vui buồn trong việc hành trì gánh nặng đã nhận lãnh.
5. Luôn cầu học chánh pháp để có tiếng tốt không chán: Là chỉ rõ về phương tiện thiện xảo bình đẳng. Thiện xảo của văn nghĩa như nhau, tùy sức sử dụng làm phương tiện giáo hóa.
6. Chỉ thấy lỗi mình, nên thấy lỗi người: Là do không có tâm giận dữ, khiến người kia nói, là chỉ rõ những gì mình đã giảng nói đều bình đẳng. Nếu không thấy lỗi mình cùng do tâm giận nói ra, đó gọi là nêu bày không bình đẳng.
7. Dùng tâm Bồ-đề làm chỗ dựa cho hết thảy oai nghi: Là chỉ rõ các thứ phát nguyện cùng bình đẳng với mọi điều thiện.
8. Nẻo tạo tác bình đẳng đều hồi hướng về Đại Bồ-đề.
Nguyện hành theo căn thiện: Là nhằm chỉ rõ hành bố thí, một trong sáu Ba-la-mật, không cầu quả báo. Mỗi mỗi Ba-la-mật như thế v.v… đều có nêu pháp đối trị chướng, hiện rõ thuyết giảng vô ngại. Các Ba-la-mật như bố thí v.v… gồm cả thân miệng có thể nhẫn, tất cả chúng sinh không thể, không thể hủy hoại tâm nhẫn, nên kinh nói: “Không làm hoại hạnh nhẫn của tất cả chúng sinh”.
Vì tu tập tất cả các căn thiện: Là chỉ rõ sự tu tập căn thiện của ba Thừa, nên siêng hành tinh tấn.
Tuy sinh lên cõi Vô sắc, nhưng vẫn khởi hành thiền định: Là do có sinh nên trong cõi Sắc pháp thiện kém, nên biết.
Bồ-tát sinh nơi cõi Sắc không phải trong Tam-ma-bạt-đề: Là vì đã thành thục thân mình trong pháp Phật, đến thế giới khác để thân cận chư Phật. Ở cõi Dục tạo lợi ích thù thắng cho chúng sinh, không phải thuộc về phương tiện của xứ Sắc giới, còn hành tuệ thuộc về bốn nhiếp pháp.
Phương tiện: Là phương tiện thuộc về bốn nhiếp pháp, chỉ rõ bốn pháp. Đó là: (1) Việc pháp hành. (2) Việc tu hành. (3) Việc tánh hành. (4) Việc của quả hành.
Có ba thứ cùng hành: Là đối với chúng sinh giữ giới hay phá giới luôn sinh tâm từ bi, không có hai tâm, không có tâm phân biệt.
Truyền dạy: Ở đây là chỉ dạy cho kẻ giữ giới hay kẻ không giữ giới. Sự truyền dạy hiện có là xả bỏ mọi phân biệt về công đức hoặc tai họa, hay mong cầu truyền dạy cùng thân cận nơi thầy truyền dạy.
Chí tâm nghe pháp: Là dốc tâm dũng mãnh thọ nhận các lời dạy bảo.
Thường ưa thích núi rừng: Là dựa vào cảnh tịch tĩnh để đối trị các thứ dục tham v.v…
Ba câu này chỉ rõ sự việc tu hành. Ba câu nào chỉ rõ sự việc của tánh? Là tâm không ưa vướng mắc các việc thế gian, là chỉ rõ tướng tâm không tán loạn. Vì không tán loạn, nên không chấp vào Tiểu thừa.
Thường thấy lợi ích lớn trong Đại thừa. Vượt bỏ tâm Tiểu thừa, thành tựu thuận theo tâm Đại thừa. Lìa tri thức ác, thành tựu việc thân cận bạn lành, ở nơi tịch tĩnh, vẫn dũng mãnh hành trì không ngừng, thân cận chúng sinh, gần gũi nhẫn. Giáo hóa chúng sinh không ngừng trong sự tĩnh lặng, tinh tấn không dừng nghỉ nên hành theo pháp đã nói như Xa-ma-tha, Tỳ-bát-xá-na, gồm thâu các tưởng không khiến tán loạn. Tùy sự nhớ nghĩ, theo bạn đồng hành, nên có pháp hành này.
Quả của tánh: Có hai thứ tướng là tâm tịnh và giáo hóa chúng sinh. Ở đây tâm tịnh là do trí tuệ thanh tịnh thuộc thế gian và xuất thế gian, nên biết.
Thành tựu bốn phạm hạnh, trang nghiêm với năm thần thông diệu dụng: Là dựa vào trí tuệ thanh tịnh của thế gian thọ nhận công đức lớn. Do hỗ trợ tích tập năng lực, nương dựa tu quả làm tịnh trí tuệ thế gian, nên biết.
Thường nương dựa nơi trí tuệ: Là tu tập trí tuệ thế gian, nhưng do biết đủ nên từ bỏ tâm tham, hoàn toàn mong cầu trí tuệ xuất thế gian. Đó gọi là trí tuệ xuất thế gian, nên biết.
Bốn câu nói về việc giáo hóa chúng sinh: Là chỉ rõ đối với những chúng sinh trụ nơi hạnh tà hay hạnh chánh, nhưng ý không xả bỏ, vì trụ vào các thứ hoạn nạn không thể nhẫn chịu nổi, nên vượt qua, với khả năng nhẫn chịu các não hại, không cầu báo.
Lời nói thường quyết định: Là lời nào Bồ-tát nói ra luôn chắc chắn, luôn kính trọng mọi người trước sau, che chở nhau, không phải trước đã nói, sau lại không thích nói.
Quý trọng lời nói chân thật: Là Bồ-tát luôn ái kính và giữ gìn lời nói thật, làm theo lời mình nói. Tất cả các hành tác đều dựa vào oai nghi.
Chỉ lấy tâm Bồ-đề làm đầu: Là nương vào đó để chứng đắc Bồđề, không ưa cầu lợi dưỡng, tiếng khen.
Phân biệt trụ nơi chánh hạnh như vậy: Là Bồ-tát đã chỉ rõ các công đức thù thắng.
Nói các dụ, nên biết: Này Ca-diếp! Ví như đại địa đều có thể tiếp nhận mọi thứ.
Trong thí dụ thứ nhất: Là chỉ rõ Bồ-tát nương vào chúng sinh khiến tăng trưởng và phát triển vô số hạt giống để có quả báo tốt, nhưng tâm không phân biệt.
Không cầu báo đền: Là việc làm dù tốt hay xấu đều không mong báo đáp. Tâm không cho là đủ đối với việc làm lợi ích hay không lợi ích.
Dùng thí dụ thứ hai, thứ ba và thứ tư: Là chỉ rõ sự phát khởi của nghĩa nương dựa, là giáo hóa chúng sinh, khiến tăng trưởng đến cùng nhân của căn thiện. Ví như trăng lúc mới mọc, vầng trăng hiện rõ, hình sắc sáng tỏ rồi càng lúc càng sáng khắp.
Thí dụ thứ năm: Là dựa vào việc làm lợi ích cho chúng sinh, chỉ rõ Bồ-tát tăng trưởng, tự thành tựu hành trợ đạo Bồ-đề.
Thí dụ thứ sáu: Là ví như sư tử, chúa của muôn thú, theo chốn đi đến, không hề kinh sợ, ung dung bước đi.
Thí dụ thứ bảy: Là chỉ rõ việc không lo sợ Niết-bàn, thế gian, không vướng mắc hai nơi đó. Ví như khéo điều phục voi chúa, khiến nó có thể chở được các vật nặng không thấy mệt mỏi.
Thí dụ thứ tám: Là chỉ rõ dù gánh vác việc nặng của thế gian, nhưng Bồ-tát không dừng lại trong mệt mỏi, cũng như hoa sen sinh trong nước nhưng nước không thể dính ướt.
Thí dụ thứ chín: Là chỉ rõ phiền não của thế gian không thể cấu nhiễm Bồ-tát, ví như có người chặt cây, rễ còn nên nó sống trở lại.
Thí dụ thứ mười: Là chỉ rõ Bồ-tát không bị phiền não cấu nhiễm, nhưng cũng không chứng Niết-bàn, ví như tất cả dòng sông ở khắp nơi chốn đều đổ ra biển cả, khi ấy chỉ có một vị mặn.
Thí dụ thứ mười một: Là tuy có căn thiện cùng phiền não, nhưng vẫn hồi hướng, phát nguyện thâu giữ hết, là chỉ rõ về nhân Bồ-đề, ví như núi chúa Tu-di là nơi nương dựa của chư Thiên trời Đao-lợi và Tứ Thiên vương
Thí dụ thứ mười hai: Là ngăn chận Thanh văn đồng Niết-bàn. Thanh văn kia từ bỏ thệ nguyện của mình và các căn thiện để nhập Niết-bàn, còn các Bồ-tát tuy chỉ rõ Niết-bàn, nhưng không bỏ tự nguyện, là chỉ rõ Bồ-tát được tự tại lớn với các căn thiện, ví như nhờ vào năng lực của các quan, nên vua có thể lo xong mọi việc kế thừa của quốc gia.
Thí dụ thứ mười ba: Là chỉ rõ việc giải thích xác nhận: Vì sao nhập Niết-bàn mà vẫn có thể tạo lợi ích cho chúng sinh, ví như trời nổi đám mây lớn tất tuôn xuống trận mưa, các thứ quả hạt đều tăng trưởng.
Thí dụ thứ mười bốn: Là nơi nào Chuyển luân Thánh vương sinh ra, nơi đó có đầy đủ bảy thứ báu.
Thí dụ thứ mười lăm: Là do đâu không thường xuyên nói cùng thị hiện sinh phải chờ thời?
Thí dụ thứ mười sáu: Là ví như nơi nào có ngọc ma-ni, nơi đó có vô lượng trăm ngàn vạn thứ báu như vàng, bạc v.v…
Thí dụ thứ mười sáu: Là thị hiện cùng với Thanh văn v.v… bình đẳng, còn có lỗi lầm trong Niết-bàn, vì Thanh văn kia v.v… không có bình đẳng. Ví như chư Thiên trời Đao-lợi cùng vào vườn như nhau, các thứ vật dụng đều đồng đẳng.
Thí dụ thứ mười bảy: Là chỉ rõ v.v… vì không có năng lực, nên hàng Thanh văn không thể chứng nhập pháp thù thắng. Bồ-tát đối với mình và người, đều tạo lợi ích như nhau cho hết thảy chúng sinh. Ví như thế mạnh của chú thuật, nên tuy giữ thuốc độc, nhưng không thể hại người đó. Các thứ phân uế hiện có trong đại thành kia nếu đem bón cho ruộng mía, bồ đào tức có lợi ích.
Thí dụ thứ mười tám và thí dụ thứ mười chín: Là nói các Bồ-tát tuy chưa đoạn trừ các phiền não, nhưng việc thị hiện vẫn vượt hơn hàng Thanh văn, vì hàng Thanh văn không thể gây lầm lỗi hay tạo công đức lợi ích lớn cho chúng sinh.
Các thí dụ này, câu trước hiển bày về chỗ phân biệt nói, câu sau là lần lượt nói rõ, nên biết.
Việc đó lại là thế nào? Đáp: Bồ-tát từ lúc mới phát tâm, nơi trước giữa sau đều luôn làm chỗ dựa, hỗ trợ thành tựu căn thiện của tất cả chúng sinh, tâm không cầu báo. Đối với các thứ việc tốt, xấu, tâm Bồ-tát như đại địa. Lại không phải như đất, không phân biệt. Các chúng sinh dựa vào đất, tự nhờ nơi lực để có thể thọ dụng, nhưng đất không hề biết. Bồ-tát thì không như vậy, Bồ-tát biết mình khởi tâm ái kính là nhằm phát sinh nhân của căn thiện nơi chúng sinh.
Tâm Bồ-tát như nước nhưng lại không phải như nước. Ở trong sự thọ dụng tăng trưởng chính đáng có những trái ngược nhau. Bồ-tát không như vậy, Bồ-tát giảng nói pháp chán lìa v.v… là nhằm làm cho các căn thiện của chúng sinh thành thục.
Tâm Bồ-tát như lửa nhưng lại không phải như lửa. Thế giới của chư Phật giáo hóa thành tựu có trái nhau. Bồ-tát không như vậy, vì muốn giáo hóa thành thục chúng sinh, Bồ-tát chỉ rõ giải thoát, vận lực ứng hóa hỗ trợ việc truyền dạy giáo pháp.
Tâm Bồ-tát như gió nhưng lại không phải như gió. Con người thấy gió, mượn sức của nó để thọ dụng. Bồ-tát thì không như vậy, tự ở mình, Bồ-tát có khả năng làm tăng trưởng các pháp trắng.
Tâm Bồ-tát như trăng nhưng lại không phải như trăng, do trăng chỉ tỏa chiếu phần sáng nơi nửa tháng, còn phần nửa tháng không sáng thì không chiếu. Bồ-tát không phải vậy. Bồ-tát ở trong các pháp đen, trắng luôn đem tâm bình đẳng và trí tuệ chiếu sáng hết thảy.
Tâm Bồ-tát như mặt trời nhưng lại không phải như mặt trời. Mặt trời khi vận chuyển còn phải sợ La-hầu che khuất. Bồ-tát không phải vậy. Bồ-tát nơi tất cả nẻo, xứ sinh đều không sợ các thứ phiền não khi hành hóa.
Tâm Bồ-tát như sư tử nhưng lại không phải như sư tử. Vì sư tử khi mang gánh nặng thì sinh thoái chuyển. Bồ-tát không phải vậy, Bồ-tát có khả năng nhẫn chịu hết thảy các gánh nặng của các khổ.
Tâm Bồ-tát như rồng chúa điều phục nhưng lại không phải như rồng chúa. Rồng chúa đối với các việc được lợi, mất lợi, lời nói dịu dàng, khổ vui, phòng hộ, tăng ích, thất bại, tâm bị nhiễm. Bồ-tát không phải vậy. Đối với hết thảy pháp thế gian trong sự tăng ích, Bồtát không sinh tâm đắm nhiễm.
Tâm Bồ-tát như hoa sen nhưng lại không phải như hoa sen. Vì cộng sen bị cắt đứt thì không thể mọc ra nữa. Bồ-tát không như thế, tuy đã diệt trừ các phiền não, nhưng do lực của căn thiện, Bồ-tát có khả năng sinh tâm thế gian.
Tâm Bồ-tát như cây không bị chặt rễ lại không như cây không bị chặt rễ, vì cây như thế chỉ có rễ chính. Bồ-tát không như thế, đối với các căn thiện của mình, Bồ-tát đều hồi hướng phát nguyện Đại Bồ-đề và Niết-bàn.
Tâm Bồ-tát như lội vào nước biển nhưng không phải như lội vào nước biển, vì đấy chỉ gọi là tùy thuận như nước biển. Bồ-tát thì không thế. Bồ-tát nương vào sự tu tập các căn thiện, thành tựu lớn Đại Bồ-đề và Niết-bàn, nên có thể hiện bày diệu dụng.
Tâm Bồ-tát như núi chúa Tu-di, nơi cư trú của chư Thiên, nhưng lại không phải như núi chúa Tu-di là nơi cư trú, vì chư Thiên chỉ ưa thích tham đắm tự lạc, tâm nhiều phóng dật. Bồ-tát thì không như thế, vì do diệu lực của phương tiện trí tuệ không chung, nên có thể thực hiện đầy đủ những việc của chư Phật đã tạo.
Tâm Bồ-tát như quốc vương, lo liệu xong các việc kế nghiệp của đất nước do công sức của các quan, nhưng lại không phải như quốc vương, vì quốc vương phải nhờ nơi công sức của các quan, chỉ vì tự lợi, phòng vệ nước mình. Bồ-tát không như thế, vì Bồ-tát từ bỏ mọi an lạc của mình để tạo nên sự che chở thấm nhuần lợi ích cho các chúng sinh.
Tâm Bồ-tát như bầu trời nổi mây lớn, nhưng lại không phải như bầu trời nổi mây lớn. Vì mây không thể thường xuyên cho mưa mà còn do thời tiết khéo điều hòa. Bồ-tát thì không thế, Bồ-tát luôn luôn có khả năng phát sinh và làm tăng trưởng các pháp như pháp phần Bồ-đề.
Tâm Bồ-tát như nơi chốn xuất hiện của Chuyển luân Thánh vương, nhưng lại không phải như nơi chốn xuất hiện của Chuyển luân Thánh vương, vì chỉ có một không thể có hai bậc Đại nhân cùng sinh. Bồ-tát thì không như thế. Bồ-tát với tâm giải thoát, bình đẳng cùng phát sinh một lúc.
Tâm Bồ-tát như ngọc báu Ma-ni, nhưng lại không phải như ngọc báu Ma-ni, vì vĩnh viễn không ra khỏi kho tàng Ca-ly-sa-ba-na v.v… Bồ-tát thì không như thế, vì khi đã nhập vào giới pháp vô lậu, Bồ-tát đồng có các hành tác, đồng nhận các an vui.
Tâm Bồ-tát như chư Thiên trời Đao-lợi cùng đi vào vườn hoa, nhưng lại không phải như chư Thiên trời Đao-lợi cùng đi vào rừng, vì họ chỉ có thể làm tăng trưởng các nghiệp, phiền não, chết rồi vẫn phải bị đọa vào đường ác. Bồ-tát thì không như thế. Bồ-tát đã diệt trừ hết các phiền não, không thể bị rơi vào xứ ác.
Tâm Bồ-tát như các phiền não độc đã được trừ diệt, lại không phải như người cất giữ chất độc, không làm hại vật và không có lợi ích. Bồ-tát thì không như thế. Bồ-tát dùng phiền não của mình để có thể tạo lợi ích cho hết thảy chúng sinh.
Tâm như phân uế phiền não hiện có trong các thành lớn kia. Bồ-tát cũng như thế. (Đã nói ở Dụ thứ mười bảy)
Như thế gian khen ngợi các công đức v.v… Do vượt hơn các công đức kia, nên gọi là công đức không gì sánh bằng. Từ nơi ý nghĩa đó, các Bồ-tát được gọi là công đức không gì sánh kịp, nên biết, do trong chánh hạnh có sự sai biệt.
Đã nói các công đức thù thắng, nhưng chưa nói tánh tướng nơi thể của chánh hạnh. Thế nên tánh tướng của thể kia dùng nghĩa của trung đạo để chỉ rõ. Hiện bỏ hai biên là nghĩa trung đạo.
Hai biên là gì?
1. Biên của ngoại đạo, là các thứ ngã kiến hiện có. Đối với ấm, giới, nhập, ngoại đạo cố chấp là thường, tức là thường kiến. Về sau gồm chung mà nói thường là một biên, ngã là một biên.
2. Biên của Thanh văn, Duyên giác. Ở trong các ấm v.v…, lại chấp vô thường và chấp vô ngã. Sau này, gồm chung mà nói, vô thường là hai biên, vô ngã là hai biên. Đứng giữa hai biên hiện có ấy, gọi là trí không phân biệt. Trí đó không phân biệt nghĩa nên gọi là vô sắc. Do không thể diễn nói nghĩa, nên gọi là không thể thấy. Do không trụ trong các hành của thức, nên gọi là không trụ. Vì lìa nghĩa của đối tượng giữ lấy, có thể giữ lấy, nên gọi là vô tướng. Do lìa nghĩa của chủ thể giữ lấy chỉ được thức ghi nhận, nên gọi là vô ký. Do nghĩa không trụ ở thế gian và Niết-bàn, nên gọi là vô trước. Nên biết, ở đây các ngoại đạo ấy chấp chặt là có ngã, nên nói pháp đối trị là không quán có ngã, nhân, chúng sinh, thọ mạng của chúng sinh, sự nuôi dưỡng, trượng phu, Phú-già-la và không quán Ma-na-bà v.v…, như đã nói, nên biết.
Thanh văn, Duyên giác ở trong các ấm chấp chặt là vô thường cùng vô ngã. Đối trị biên ấy, nên nói hoặc quán sắc chẳng phải là thường, cũng chẳng phải là vô thường. Quán thọ, tưởng, hành, thức chẳng phải là thường, cũng chẳng phải là vô thường, cho đến ngã là một biên, vô ngã là hai biên. Đứng giữa hai biên hiện có ấy thấy rõ hết thảy là không sắc, không hành, không mạng, không trí, không giác, không vướng. Này Ca-diếp! Đó gọi là Trung đạo, là chánh quán chân thật của các pháp.
Nói chấp vô thường, chấp vô ngã là nhân: Là không phá trừ hai thứ chấp đó nên biết, tức chỉ rõ phân biệt sự việcc đối tượng giữ lấy là vô lượng, nên phân biệt nói sự việc của chủ thể giữ lấy cũng lại vô lượng. Này Ca-diếp! Nếu chấp tâm có thật, đó gọi là một biên. Nếu chấp tâm không thật, đó gọi là hai biên.
Ở đây, tâm chân thật: Là hoặc vốn đã nói thuận theo phân biệt, chấp vô thường, vô ngã là chân thật. Hoặc phân biệt là thường, là ngã v.v… Nếu không có tâm số, thì hành nghiệp là chỗ dựa. Không có tâm số thì chỉ có hành tạo nghiệp.
Không có ý: Là những gì đã nói không có suy lường trước. Không có thức: Là quả báo.
Pháp thiện, bất thiện là thuận theo ngu si hay chẳng phải ngu si. Ngu si là quả không đáng yêu thích. Đối trị nên nói có tội, không có tội, là không có các điều ác nơi thế gian, xuất thế gian, hữu lậu, vô lậu. Vô lậu là tâm hữu lậu không thể nhận lấy. Hữu lậu là lại làm bạn với pháp đen, là pháp nhiễm ô như đã nói.
Pháp bạn trắng là các pháp thanh tịnh v.v… Trong đó, hoặc tâm có thật, hoặc tâm không có thật, đó là hai thứ nên có chỗ tùy thuận trong các pháp.
Có thiện, bất thiện, cho đến có cấu uế, không cấu uế, hai biên hiện có ấy đều không thể thủ đắc, không thể nói, không thể biện giải. Đó gọi là Trung đạo, là chánh quán chân thật của các pháp.
Ở đây, không thể thủ đắc: Là do kiến chấp kia. Không thể nói: Là chỉ nói về sự chấp đó. Tự thể không thể nói. Người khác đến hỏi không thể vì họ nêu bày đúng đắn. Lại có những nghĩa phụ khác.
Thiện, bất thiện: Là gốc. Phần còn lại: Các câu ở trên trên nữa đã giải thích. Nên biết, để đối trị với các ngoại đạo, Thanh văn v.v… nên nói nghĩa trung đạo, rồi mới nói pháp đối trị.
Nói Bồ-tát đối trị chấp một biên ấy, vì trong đấy có các ngoại đạo chấp điên đảo về thường, ngã. Chúng được phát sinh từ đâu? Có thuyết nói: Như người mù ngã xuống đất. Các Thanh văn, Duyên giác v.v… tu hành thấy người vô ngã, là do chỉ hiểu biết về hành, nên các hành sinh là vô thường, vô ngã. Cùng gốc thấy pháp vô ngã, nên dựa nơi các hành từ vô thường vô ngã mà sinh. Bồ-tát nhận thấy việc tu hành pháp vô ngã xong, vốn hành tập pháp vô ngã, nhưng về sau sinh chấp chặt về biên có, do dựa vào ba thứ chấp chặt về biên có. Đối trị là chỉ rõ tự tướng của sự chấp đó. Về sự có, không, Phật nói với Ca-diếp: Có là một biên, không là hai biên, cho đến không thọ mạng, không hay, không biết, không vướng mắc. Đó gọi là trung đạo, là chánh quán chân thật của các pháp. Dựa nơi đối trị có chướng nên chỗ chấp vô minh thì nói về minh.
* Kinh nói: Này Ca-diếp! Ta vì các ông nên giảng nói mười hai nhân duyên. Đó là Vô minh duyên Hành, cho đến Vô minh diệt rồi, thì các tưởng hư vọng lo, buồn, khổ não v.v… cũng đều diệt. Các câu: Chấp hữu vi, vô vi cùng diệt nơi nẻo khác, hành và diệt hành, như thế v.v… Đối trị các thứ chấp ấy v.v… đó gọi là lìa bỏ tánh chấp không còn vọng tưởng phân biệt chia hai, là tánh bình đẳng nên nói không hai tướng. Chẳng phải minh khiến có thể sinh. Chẳng phải vô minh có thể diệt. Chẳng phải hành v.v… có thể diệt trừ, chẳng phải diệt khiến có thể thủ đắc. Tuy có phân biệt tánh tướng thành tựu như thế thì trí hiện có ấy cũng có khả năng ngăn chận sự chê bai chấp một biên, tức chẳng phải minh, chẳng phải vô minh v.v… Hoặc chẳng phải do không nên khiến các pháp không. Chỉ vì tánh của pháp tự không, chẳng phải do vô tướng nên khiến các pháp vô tướng, chỉ vì pháp tự nó là vô tướng. Cho đến chỉ vì các pháp tự nó là không khởi, không giữ lấy, không tánh. Như vậy là chỉ rõ về nghĩa gì? Do đã được nêu rõ các tướng là không nên biết pháp nhân duyên sinh là do tánh vọng tưởng phân biệt. Hoặc tánh thành tựu chẳng thể khiến không. Vì sao? Do thể của các pháp là như thế. Nếu tánh vọng tưởng phân biệt, hoặc lại là tánh thành tựu, thì các pháp cũng không. Như vậy cho đến vô tánh, thì những điều đã nói ấy là có ánh sáng và có chướng ngại, chỉ rõ tánh lìa vọng tưởng thành tựu, ngăn chận bảo vệ sự chê bai một biên.
Trong đây có bảy thứ đối trị chướng. Nói minh là không, cho đến vô tánh.
Bảy thứ chướng đó là: Đối trị kiến chấp có kia, nên nói là không. Đối trị nhân của tướng tham, sân, si, nên nói là vô tướng. Lại, ở trong có, chấp giữ nguyện. Đối trị điều ấy nên nói vô nguyện. Lại, tạo tác có hành của các nghiệp. Đối trị chúng nên nói vô tác. Nhân nơi hành kia có quả nên có sinh. Đối trị điều ấy nên nói không sinh. Sinh rồi tất khởi khổ vui. Đối trị điều ấy nên nói không khởi. Vì chấp không, nên sinh ngã mạn. Đối trị điều ấy nên nói các pháp cũng vô tánh.
Ở đây hành quán vô ngã là ngăn chận kẻ chấp giữ tướng. Ngoài ra, cho đến các tướng như không hai v.v…, là vì chấp giữ tướng của các pháp, nên Đức Phật nói với Ca-diếp: Chẳng phải là không có người nên gọi là không, chỉ vì không là do tự nó không, là ngăn chận lối chấp chặt giữ lấy tướng về người và pháp, cũng không phải chúng sinh diệt nên chấp giữ lấy tướng.
Không phải chúng sinh diệt, chấp giữ lấy tướng, nên tu tập không, nhưng không là tự nó là không. Chỉ rõ sự chấp tướng trong pháp diệt. Là do tánh vọng chấp phân biệt. Không là không, huống chi tất cả pháp là vọng trong phân biệt đã chấp giữ như thế do cho không là chẳng có gì. Dựa trong tánh vọng chấp phân biệt là không. Lại chẳng phải không có gì, do trong tánh thành tựu là có. Như không, hết thảy các pháp cũng như thế. Do trong các pháp đã chấp giữ nên chỉ rõ pháp là vô ngã. Nhưng pháp vô ngã kia đã thành tựu, tức chỉ rõ về ngày tháng, như kinh nói: “Trước là không, khoảng giữa là không, khoảng sau cũng không”, là nêu rõ về tất cả thời gian. Nơi thể của hàng phàm phu bậc hữu học, vô học, đã chỉ rõ là có.
Các ông nên dựa nơi không: Là dựa vào liễu nghĩa, nên đối với không, chỉ rõ việc ngăn chận phương tiện.
Chớ dựa nơi người: Là dựa nơi liễu nghĩa, nên ngăn chận việc dựa vào kẻ kia, gọi là trụ dựa nơi sự liễu nghĩa. Người hiện có phân biệt cùng tùy theo nhân của sự việc, là hai thứ Phú-già-la kia. Nếu nói do đạt được không nên dựa vào không. Đây là chỉ rõ về nghĩa gì? Không còn vọng phân biệt, vì nhận biết tánh không, nên dựa vào nghĩa không. Dựa như thế xong, gốc do ngã kiến nên chấp về người đã được hủy hoại về chấp giữ có, nên chấp ngã, pháp cũng mất, khiến tất cả chấp trước đều tan biến nhanh. Do nhận biết về tánh không cùng các thứ chấp đã nhanh chóng mất hết, tức giải thích xác nhận nên nói: Này Ca-diếp: Thà khởi ngã kiến tích tụ như núi Tu-di, còn hơn là chấp không, cho đến tất cả các kiến chấp chỉ không mới có thể diệt trừ. Do phân biệt biết không, nên thức nhận biết nghĩa chân thật của không, thì ngã mạn tan mất. Như thế khiến không thể thủ đắc lại thủ đắc để khởi hủy báng, tức là chuyển đổi được chấp người khó diệt trừ. Thuốc của ông đã chuyển động bên trong bệnh, nhưng không hiện ra ngoài, đó gọi là có bệnh.
* Kinh nói: Này Ca-diếp! Nếu khởi chấp không, Ta nói người đó là không thể đối trị. Hoặc do tánh vọng chấp phân biệt nên chấp sai lạc cho hết thảy mọi vật là hoàn toàn không có gì.
Dụ về hư không là ngăn giữ sự chuyển biến của chấp thủ không đúng đắn. Nếu có chấp không thì kẻ ấy do không nên trong các pháp như sắc v.v… đều cầu không có sự. Ở trong sự tạo phân biệt, không phải sự. Đó gọi là kẻ kia trong biến chuyển đã chấp giữ sai lầm. Tánh của các pháp như sắc v.v… này tự nó không có thí dụ. Nếu các chúng sinh khởi cầu dứt trừ “Không” là dụ cho hành. Trong Thể của pháp không là huyễn, do sợ Thể đó nên vọng phân biệt các sự. Nếu các pháp như sắc v.v… là không, thì sự tu tập các hành hóa ra là vô ích. Để ngăn chận sai lầm này, nên nói dụ về họa sư. Dụ nêu: Thật sự thì không có quỷ, đó là do họa sư đã tự phân biệt, tư duy, tính toán rồi mê muội ngã lăn nơi đất. Như thế, cũng là sự việc như không có sắc v.v… Các phàm phu cố chấp, tự phân biệt hành niệm, nên thế gian cứ hành theo sự luân chuyển, không có trí để có thể trừ bỏ ngu kia, nhằm tu tập không hư vọng. Trước đây đã giải thích hành phân biệt hư vọng, nay sẽ nói đến việc phát khởi hành không hư vọng. Nếu tâm ấy chỉ là mê muội, làm sao tâm ấy có thể nhận biết, là tâm đó cần được bảo vệ ngăn chận mọi khó khăn. Cho nên nói trước hết là ngăn chận phân biệt hư vọng đưa đến chấp giữ. Nay cần ngăn chận sự việc phát khởi hành nên nói dụ về nhà huyễn thuật. Ở đây, như xứ của Huyễn sư: Là đã buộc giữ tâm trí và sự nhớ nghĩ vào huyễn thuật. Huyễn sư tạo tác là trí quán không có sự việc gì khác. Như ăn uống chẳng hạn, trí chỉ quán vào đó, không nhớ nghĩ gì nữa, quán như hư không v.v… Gốc của tuệ Thánh xưa nay luôn quán thấy như thật. Nhưng đã là không thì làm sao quán như thật để chứng đắc được trí xuất thế gian? Để ngăn chận vấn nạn này, nên nói dụ hai cây cùng cọ xát với nhau, vì duyên nơi chốn tư duy vắng lặng, nên từ đó có lửa sinh. Gốc của Thánh tuệ sinh rồi, thì xả bỏ quán nơi chốn vắng lặng kia, đã chỉ rõ nên biết.
Trí tuệ đã sinh là để đối trị không có trí tuệ. Vì nhằm ngăn chận vấn nạn về pháp chưa sinh, nên nói dụ về đèn sáng. Tướng của trí không phân biệt, chỉ rõ lúc trí tuệ sinh là đối trị vô trí. Thế nào là phiền não vô thỉ cấu nhiễm đối trị bằng hữu thỉ có thể diệt trừ? Để ngăn chận vấn nạn ấy, nên nêu dụ chấp đèn sáng từ bên trong. Dụ này là dụ cho nghĩa của trung đạo. Đó là nêu và giải thích tóm lược. Nếu phân biệt rộng, Bồ-tát trụ trong giới hạnh chánh, có sai biệt nên biết.
Pháp Bồ-tát hành trì là nói theo lý thật ngữ của thế đế và phân biệt thật ngữ, hiện bày về tiệm giáo không như nghe âm thanh rồi giữ lấy. Do tướng như thế, nên không dựa vào thừa Thanh văn mà vượt qua nên đã nói về trung đạo.
Từng cúng dường và tu tập căn thiện, là tùy thuận hướng đến các pháp sâu xa của Đại thừa và tùy thuận “Không”.
Đối với phân biệt và không phân biệt là thuộc về lý của thật đế. Thế đế cùng Chân thật đế đã nói, chỉ nói trong một pháp giới liễu nghĩa. Do nghĩa này nên thuận theo nơi chốn nương dựa gọi là hành tịch tĩnh. Hành tịch tĩnh nên gọi là thuận hướng về nghĩa trung đạo.
Như vậy, pháp trung đạo kia đã chỉ rõ những sai lầm để bác bỏ, nên giảng nói về mười ba thứ trung đạo. Giải thích chúng sinh không là chúng sinh vô ngã và pháp không. Pháp vô ngã này là sự phân biệt về chiều ngang (không gian), như chấp một biên và chê bai một biên. Pháp chứng đắc và sự phát nguyện kia đều hướng về Đại Bồ-đề.
Hành như thế xong, đối với phiền khổ, tâm không chán đủ và càng tin hơn nơi hai thứ vô ngã. Vô ngã ở trước, vô ngã ở giữa và sau, là nẻo tột cùng nơi các không. Không đó, cũng được giải thích, như nói về thần lực.
Thế nào là giải thích về chúng sinh không? Là do một tướng.
Nói nếu không tự quán: Là chỉ rõ không tự mình hiểu biết.
Trong đây có sự không phân biệt ấy. Có ba thứ sự không phân biệt. Ở trong sự của chúng sinh nêu rõ về năm ấm và vô số sự việc của chúng. Chuyển biến nêu rõ trong các giới, các nhập v.v… nơi sự thọ dụng kia, trong, ngoài và trung gian, như hàng phàm phu đã chấp sai lạc.
HẾT – QUYỂN 2