TU PHẬT
NGHI-THỨC YẾU-LƯỢC
Biên soạn: Hòa-Thượng Thiền-Sư Thích Từ-Quang
QUYỂN NHỨT
TAM-BẢO KINH
CHƯƠNG 08
PHÁP-MÔN NIỆM PHẬT
Niệm Phật là một phương-pháp cải-thiện, sửa vọng-niệm ra chơn-niệm, đổi tà-niệm ra chánh-niệm, thay niệm chúng-sanh làm niệm Phật, một niệm phản-bổn hoàn-nguyên, bội-trần hiệp-giác, chánh-đại quang-minh, chuyển phiền-não ra Bồ-đề.
Nam-mô A-Di-Đà Phật có nghĩa là nhứt-tâm tôn-kính và nương theo bậc Viên-Giác có đủ phương1-đức vô-lượng 2.
Xưa Đức Phật A-Di-Đà có phát bốn mươi tám nguyện, đại-ý nói rằng:
Khi thành Phật, kiến-lập một thế-giới Cực-Lạc. Nếu có chúng-sanh nào nghe đến vạn-đức hồng-danh A-Di-Đà Phật, hết lòng tin tưởng, nguyện tu chơn-chánh, nhiếp-tâm thanh-tịnh, chí-thành trì-niệm cầu sanh Cực-Lạc, thì khi sanh-tiền được Phật bảo-hộ bình-an, khi lâm-chung được Phật phóng quang tiếp-dẫn về coi Cực-Lạc, giáo-hóa tu-tập tuần-tự tiến đến Phật-quả.
Kinh Lăng-Nghiêm có nói:
“Thập-phương chư Phật thương tưởng chúng-sanh như mẹ nhớ con, nhưng nếu con cứ trốn tránh mẹ, thì dầu có nhớ cách nào, mẹ cũng không cứu được. Trái lại nếu con nhớ mẹ như mẹ nhớ con thì dầu trải bao nhiêu kiếp, mẹ con cũng được sum hiệp. Nếu tâm chúng-sanh nhớ Phật, niệm Phật, thì hiện-tại hoặc vị-lai, quyết-định thấy Phật, cách Phật không xa”.
Tu phép niệm Phật cần phải nhứt-tâm, gồm có sự và lý.
A. Sự nhứt-tâm niệm Phật có nghĩa là giữ lòng thanh-tịnh, không cho một mảy vọng-tưởng xen vào, chỉ rõ ràng một tiếng niệm Nam-mô A-Di-Đà Phật. Công phu trì-niệm đại-để co 42 phép, xin lược-giải hai phép cần-yếu như dưới đây:
1. Cao-thinh niệm Phật tức là niệm Phật cho có tiếng tỏ rõ. Như giữ niệm thường-nhựt trong bốn thời công-phu Tý, Ngọ, Mẹo, Dậu, tay lần từ hột chuỗi, miệng niệm Nam-mô A-Di-Đà Phật, cốt-yếu phải nhứt-tâm thanh-tịnh.
Dùng chuỗi niệm Phật nên biết:
1- Các hột chuỗi tiêu-biểu công-đức thù-thắng của chư Bồ-Tát.
2- Hột chuỗi chận ở giữa xâu chuỗi tiêu-biểu dứt sạch các phiền-não.
3- Dây xỏ chuỗi tiêu-biểu vô-úy-thí của Đức Quán-Thế-Âm Bồ-Tát.
4- Hột mẫu-châu ở trên đầu xâu chuỗi giống như bình sái tiêu-biểu Đức Phật A-Di-Đà. Khi lần chuỗi không nên lần qua hột mẫu-châu này.
Hột chuỗi làm bằng Bồ-đề, hột sen, kim-cang, v.v…
Chuỗi có nhiều hạng: thứ 1080, 108, 54, 21, 18, v.v…
2. Mặc-nhiên niệm Phật tức là niệm thầm sáu chữ Nam-mô A-Di-Đà Phật.
Ví như tập trong hơi thở điều-hòa vô ra, luôn luôn có tiếng niệm, cốt-yếu phải nhiếp-tâm thanh-tịnh, lóng nghe rõ ràng tiếng niệm ấy giao-tiếp nhau, không gián đoạn, bất-luận lúc nào trong tứ oai-nghi: đi, đứng, ngồi, nằm (nằm nghiêng bên mặt).
Nếu niệm Phật, dầu cao-thinh dầu mặc-nhiên, mà biết quán-tưởng Đức A-Di-Đà đứng trên tòa sen vàng, thân kim-sắc, tướng hảo quang-minh, tay trái giữ ấn kiết-tường, tay mặt thả xuôi theo mình, bàn tay giở ngửa ra tượng-trưng tiếp-dẫn, thì mau có hiệu-quả mỹ-mãn.
Phật-tử nhứt-tâm thanh-tịnh, trì-niệm A-Di-Đà Phật, lâu ngày công-phu thuần-thục, các vọng-tưởng dứt sạch, niệm niệm tùng tâm khởi, niệm Phật bất ly tâm, niệm như-không niệm, không niệm mà niệm, thành-tựu được phép niệm Phật chánh-định, đạt được cảnh-trí nhứt-tâm bất-loạn, thì chắc vãng-sanh Cực-Lạc.
B. Lý nhứt-tâm niệm Phật tức là lý niệm Phật và niệm tâm đồng khế-hiệp. Đức Phật sở-niệm và tâm năng-niệm đồng một thể thanh-tịnh trang-nghiêm.
Khế-Kinh có dạy:
Tất cả chúng-sanh đều có tánh Phật. Tánh Phật là Tự-Tánh Chơn-Như, cụ-túc trang-nghiêm, thiêng sáng rỗng suốt, thường-trụ vắng lặng. Tự-Tánh cụ-túc trang-nghiêm tức là đức Pháp-thân.
Tự-Tánh thiêng sáng rỗng suốt tức là đức Bát-Nhã.
Tự-Tánh thường-trụ vắng lặng tức là đức Giải-thoát.
Suy theo lý đó thì nhận-thức: niệm Phật tức là niệm Tự-Tánh, niệm Tự-Tánh tức là niệm Phật, cảnh-giới Cực-Lạc cũng do Tự-Tâm thanh-tịnh mà thật-hiện. Đó là lý Duy-Tâm Tịnh-độ, Tự-Tánh Di-Đà.
Phật-tử nhứt-tâm trì-niệm danh-hiệu Đức A-Di-Đà, cần phải viên-dung sự-lý.
Vẫn biết Tự-Tánh hoàn-toàn sáng suốt, nhưng vì từ vô-thỉ nhẫn nay, chúng-sanh trải qua lịch-kiếp tạo nghiệp, các phiền-não che khuất sâu dày, rất khó tỏ ngộ được. Tuy-nhiên dầu bị trầm-luân sanh-tử trong sáu cõi phàm-phu, các phiền-não có che khuất cách nào, Tự-Tánh vẫn luôn luôn tròn sáng, đó là lý “tùy duyên bất-biến”.
Nếu muốn tỏ ngộ Tự-Tánh thì trước phải đoạn-trừ phiền-não, mà muốn nhờ vừa tự-lực vừa Phật-lực, đoạn-trừ phiền-não cho mau công-hiệu, thì phải tịnh-niệm Phật A-Di-Đà.
Khế-Kinh có dạy:
Một niệm dung-hiệp với Phật là một niệm thành Phật, các niệm dung-hiệp với Phật thì các niệm đều thành Phật.
Như tịnh-niệm một câu A-Di-Đà Phật thì dứt trừ được một phiền-não, niệm cho đến hàng trăm, hàng ngàn, hàng vạn, dĩ-chí vô-số câu, thì chắc chắn có ngày dứt sạch tất cả phiền-não, trở nên minh-tâm kiến-tánh thành-đạo Chánh-Giác.
Vậy Phật-tử nên gắng công lo sắm đủ ba món tư-lương “Tín, Hạnh, Nguyện” nhứt-tâm tu phép niệm Phật, hầu về cảnh Tịnh, thoát khổ được vui.
Nếu chuyên-tâm tịnh-niệm vạn đức Hồng-danh A-Di-Đà Phật,
phát nguyện cầu về Cực-Lạc, thì khi lâm-chung chắc có phần đới-nghiệp vãng-sanh.