TU PHẬT
NGHI-THỨC YẾU-LƯỢC
Biên soạn: Hòa-Thượng Thiền-Sư Thích Từ-Quang

QUYỂN NHỨT

TAM-BẢO KINH

CHƯƠNG 7
PHÉP TRÌ-TRAI

Luận về khoa-học, các món rau, đậu có rất nhiều sinh-tố bổ-dưỡng thân-thể, lại ít chất độc hơn thịt, nhưng cần phải nau cho có vệ-sinh.

Luận về đạo-đức, ăn chay tránh sự sát-sanh, giải được nạn oan-cừu báo-oán, khỏi được các trược-khí huyết-nhục, trợ-duyên cho công-phu tham thiền, niệm Phật, tụng kinh, trì chú được linh-nghiệm.

Theo phép trì-trai, trong bữa cơm trước khi ăn, Phật-tử phải dùng ba miếng cơm lạt, vừa ăn vừa đọc:

“Qui-y Phật, qui-y Pháp, qui-y Tăng.
Nguyện đoạn nhứt-thiết ác,
Nguyện tu nhứt-thiết thiện,
Nguyện độ nhưt-thiết chúng-sanh”.

Âu cũng là một bài học nhắc nhỡ cho Phật-tử đừng quên bổn-phận Từ-Bi. Ăn chay cốt-yếu phải giữ trai-tâm.

Phép trì-trai có:

A. ĐOẢN-TRAI. Đại-khái như:

1. Sóc-vọng-trai :mỗi tháng ăn chay trong hai ngày tức là ngày mùng một và ngày rằm.

2. Lục-trai : mỗi tháng ăn chay trong sáu ngày: 8, 14, 15, 23, 29, 30 (tháng thiếu, tính ngày 28, 29, thế cho 29, 30).

3. Thập-trai :mỗi tháng ăn chay trong mười ngày: 1, 8, 14, 15, 18, 23, 24, 28, 29, 30 (tháng thiếu, tính ngày 27, 28, 29, thế cho 28, 29, 30).

4. Bán-nguyệt trai : mỗi tháng ăn chay trong 15 ngày, như ngày mùng một ăn chay, ngày mùng hai ăn mặn, cứ một ngày ăn chay, một ngày ăn mặn.

5. Tam-nguyệt trai: mỗi năm ăn chay trong ba tháng: tháng Giêng, tháng Năm, tháng Chín (hoặc tháng Giêng, tháng Bảy, tháng Mười).

B. TRƯỜNG-TRAI: Ngày nào cũng ăn chay (hai hoặc ba bữa cơm), còn như mỗi ngày chỉ ăn một bữa cơm chay đúng giờ Ngọ (12 giờ trưa) gọi là Ngọ-trung trai.

Phần đông cư-sĩ, vì gia-duyên ràng buộc nên không trường-trai được. Vậy trong lúc ăn mặn, không nên dùng năm món gọi là ngũ vị-tân: hành, he, tỏi, nén, hưng-cừ (hưng-cừ là một giống cây có củ ở bên Tàu, giống như củ kiệu ở Việt-Nam), vì năm món gia-vị đó có tánh-chất sanh dục và tổn thần, lại là những món có mùi thích hạp với ma quỷ.

Bất-đắc-dĩ, nếu vị cư-sĩ nào còn ăn mặn, muốn tránh sự cố-sát, thì có thể dùng năm thứ thịt gọi là ngũ tịnh-nhục như sau:

1. Tự-tử nhục : thịt của thú vật tự chết.

2. Điểu-tàn nhục : thịt của thú vật chết và bị chim ăn còn dư.

3. Bất-kiến-sát nhục : thịt của thú vật mà mình không thấy ai giết.

4. Bất-văn-sát nhục : thịt của thú vật mà mình không nghe ai giết.

5. Bất-nghi-vị-kỷ-sát-nhục : thịt của thú vật mà mình không nghi vì mình mới bị giết.

Tuy nói năm thứ thịt, nhưng chỉ có ba, vì hai thứ: Tự-tử nhụcĐiểu-tàn nhục, chắc không ai dùng.

Riêng các vị chơn-xuất-gia, chuyên-tu giải-thoát, theo phái Đại-thừa Phật giáo, thì phải hoàn-toàn ăn chay trường, không được viện lý-do chi mà tự chế ăn mặn.

Người ăn thịt có thể bị mất hột giống từ-bi.
Nếu không ăn thịt thì không có người sát-hại chúng-sanh.
Kinh Lăng-Già