YẾT MA
Hán dịch: Đời Tào Ngụy, Sa-môn Đàm Vô Đức ở An Tức
Việt dịch: Linh Sơn Pháp Bảo Đại Tạng Kinh
Hội Văn Hóa Giáo Dục Linh Sơn Đài Bắc Xuất Bản

 

(TRÍCH TỪ LUẬT ĐÀM VÔ ĐỨC)

PHÁP YẾT MA TỲ KHEO

Phần 1: PHÁP KẾT GIỚI

(Phàm các yết-ma tác pháp, trước nên tác bạch, người chưa thọ giới cụ túc đi ra ngoài, Tỳ-kheo không đến thì thuyết dục và thanh tịnh. Nay, Tăng hòa hợp để làm gì? Một người trong Tăng tùy theo sự việc để trả lời: Yết-ma việc như thế, trừ pháp kết giới không cho phép thọ dục:

Lại, pháp kết giới. Hai giới không được tiếp giáp nhau, nên chừa lại khoảng giữa, cũng không được kết cách giữa con sông, trừ thường có cầu. Nếu muốn kết giới trường ở trong đại giới thì trước phải lập tướng bốn phương giới trường, bên ngoài ít nhất cách nhau khoảng một tầm tay thành lập tướng bên trong bên ngoài của đại giới thì tùy theo gần hay xa cũng lập tướng bốn phương. Sai một cựu Tỳ-kheo xương tướng bốn phương ấy. Trong chúng sai một vị có khả năng yết-ma để kết, nên kết đại giới trước, rồi sau kết giới trường. Như người muốn xướng tướng của đại giới này, trước kết bắt đầu từ gốc Đông nam tướng bên ngoài đi một vòng bốn phương. Lại xướng tướng bên trong cũng đều đi một vòng rồi nói, đây là tướng bên trong, kia là tướng bên ngoài, là một vòng tướng bên trong, tướng bên ngoài của đại giới. Xướng như vậy ba lần. Nếu bên trong không có giới trường thì chỉ xướng tướng bên ngoài. Pháp kết đại giới, tiểu giới, Tăng nên tập họp kết, không được thọ dục.

Người thọ dục không biết tướng nên mất y, phá hạ) Phàm dục có ba trường hợp:

1. Khi thuyết giới giữ dục thanh tịnh.

2. Khi Tự tứ giữ dục tự tứ.

3. Yết-ma khác thì chỉ nói giữ dục.

Văn Yết-ma kết đại giới:

Đại đức Tăng lắng nghe! Trong trụ xư này, Tỳ-kheo tên là… xướng tiêu tướng bốn phương của đại giới. Nếu thời gian thích hợp với Tăng, Tăng đồng ý. Nay Tăng dựa vào bên trong tướng bốn phương này kết làm đại giới, đồng trụ xư và đồng thuyết giới. Đây là lời tác bạch.

Đại đức Tăng lắng nghe! Trong trụ xứ này, Tỳ-kheo tên là… xướng tiêu tướng bốn phương của đại giới. Nay Tăng dựa vào bên trong tiêu tướng bốn phương kết làm đại giới, đồng một trụ xư, đồng một thuyết giới. Các Trưởng lão nào đồng ý nay Tăng dựa vào bên trong tiêu tướng bốn phương này kết làm đại giới, đồng một trụ xư, đồng một nói giới thì im lặng. Vị nào không đồng ý thì nói ra.

Tăng đã đồng ý dựa vào bên trong tiêu tướng bốn phương này kết làm đại giới, đồng một trụ xư, đồng một thuyết giới. Tăng đã đồng ý vì im lặng. Việc này, nay tôi xin ghi nhận như vậy.

Văn Yết-ma kết giới trường:

(Nguyên nhân thành lập giới trường là vị trụ xư ấy đại chúng tập họp khó khăn, nên kết giới này để cho tiện. Trong chúng có việc cần, tùy theo thời gian mà tác pháp; không cho phép giải ngay. Nếu người không nương vào trụ xư, chỉ vì tạm thời tác pháp thì khi việc xong liền giải ngay. Nếu không giải thì phạm tội, vì làm trở ngại người kết giới sau)

Đại đức Tăng lắng nghe! Ở trụ xư này, Tỳ-kheo tên là… xướng tướng bốn phương của tiểu giới. Nếu thời gian thích hợp đối với Tăng, Tăng đồng ý. Nay Tăng căn cứ vào bên trong tiêu tướng bốn phương của tiểu giới kết làm giới trường. Đây là lời tác bạch.

Đại đức Tăng lắng nghe! Ở trụ xư này, Tỳ-kheo tên là… xướng tiêu tướng bốn phương của tiểu giới. Nay Tăng căn cứ vào bên trong tiêu tướng bốn phương của tiểu giới này kết làm giới trường. Các Trưởng lão nào đồng ý, Tăng căn cứ vào bên trong tiêu tướng bốn phương của tiểu giới này kết làm giới trường thì im lặng. Vị nào không đồng ý thì nói ra.

Tăng đã đồng ý ở bên trong tiêu tướng bốn phương này kết làm giới trường rồi. Tăng đã đồng ý vì im lặng. Việc ấy, nay tôi xin ghi nhận như vậy.

Văn yết-ma giải đại giới, giới trường:

(Một Yết-ma này giải luôn cả hai giới. Trong văn Yết-ma chỉ gọi giải giới nên tên không câu nệ vào bên nào cả. Nó ở vào vị trí nào thì thuộc vị trí đó; khi đang tác pháp thì tùy theo sự việc xướng giải giới trường, chỉ trừ đồng trụ xứ, đồng thuyết giới là khác).

Đại đức Tăng lắng nghe! Nay Tỳ-kheo ở trụ xứ này đồng một trụ xư, đồng một thuyết giới. Nếu thời gian thích hợp với Tăng, Tăng đồng ý giải giới. Đây là lời tác bạch.

Đại đức Tăng lắng nghe! Tỳ-kheo ở trụ xư này đồng một trụ xư, đồng một thuyết giới, nay giải giới. Các Trưởng lão đồng ý Tăng đồng một trụ xư, đồng một thuyết giới, giải giới thì im lặng. Vị nào không đồng ý thì nói ra.

Tăng đã đồng ý đồng một trụ xứ, đồng một thuyết giới giải giới rồi. Tăng đã đồng ý vì im lặng. Việc này, nay tôi xin ghi nhận như vậy.

Văn yết-ma kết giới không mất y:

(Giới không mất y tức là kết nương theo tướng của đại giới, không có tướng riêng biệt. Trong văn lại gọi là trụ xứ này. Nếu có thôn làng thì trừ thôn xóm ra. Nếu không có thôn xóm thì không cần xướng từ thôn và ngoài thôn).

Đại đức Tăng lắng nghe! Trụ xứ này đồng một trụ xứ, đồng một thuyết giới. Nếu thời gian thích hợp với Tăng. Nay Tăng đồng ý kết giới mất y, trừ sinh giới của thôn và ngoài thôn. Đây là lời tác bạch.

Đại đức Tăng lắng nghe! Trụ xứ này đồng một trụ xứ, đồng một thuyết giới. Nay Tăng kết giới không mất y, trừ sinh giới của thôn và ngoài thôn. Các Trưởng lão nào đồng ý, Tăng ở trong trụ xứ này đồng một trụ xứ, đồng một thuyết giới kết giới không mất y trừ sinh giới của thôn và ngoài thôn thì im lặng. Vị nào không đồng ý thì nói ra.

Tăng đã đồng ý nơi đây đồng một trụ xứ, đồng một thuyết giới kết giới không mất y, trừ sinh giới của thôn và ngoài thôn. Tăng đã đồng ý vì im lặng. Việc ấy, nay tôi xin ghi nhận như vậy.

Văn yết-ma giải giới không mất y:

(Đại giới và giới không mất y đã là một chỗ, vì kết lại nên trước sau giải kết đều hoàn toàn khác nhau. Nếu người muốn giải thì trước giải giới không mất y, rồi sau đó giải đại giới.)

Đại đức Tăng lắng nghe! Tỳ-kheo ở trụ xứ này đồng một trụ xứ, đồng một thuyết giới. Nếu thời gian thích hợp đối với Tăng, Tăng đồng ý. Nay Tăng giải giới không mất y. Đây là lời tác bạch.

Đại đức Tăng lắng nghe! Tỳ-kheo ở trụ xứ này đồng một trụ xứ, đồng một thuyết giới. Nay Tăng giải giới không mất. Các Trưởng lão nào đồng ý Tăng đồng một trụ xứ, đồng một thuyết giới giải giới không mất y thì im lặng, vị nào không đồng ý thì nói ra.

Tăng đã đồng ý đồng một trụ xứ, đồng một thuyết giới, không mất y rồi. Tăng đã đồng ý vì im lặng. Việc ấy, nay tôi xin ghi nhận như vậy.

Văn yết-ma kết tiểu giới:

(Nếu ngày bố-tát, các Tỳ-kheo đang ở trong thôn hoặc đi trên đường vắng. Muốn thuyết giới mà chúng đông khó tập họp, không được hòa hợp. Đức Phật cho phép tùy ý cùng thầy hoặc thiện hữu tri thức, xuống bên đường riêng tập họp một chỗ, kết tiểu giới, thuyết giới, không cần xướng tiêu tướng chỉ đếm người kết).

Đại đức Tăng lắng nghe! Nay có số Tỳ-kheo chừng ấy tập họp, kết tiểu giới. Các Trưởng lão nào đồng ý số Tỳ-kheo chừng ấy tập họp kết tiểu thì im lặng. Vị nào không đồng ý thì nói ra.

Tăng đã đồng ý số Tỳ-kheo chừng ấy tập họp kết tiểu giới rồi. Tăng đã đồng ý vì im lặng. Việc ấy, nay tôi xin ghi nhận như vậy (Bốn người thì nói bốn người, năm người thì nói năm người, không định số lượng, chỉ nói chừng ấy Tỳ-kheo tập họp).

Văn yết-ma giải tiểu giới:

Đại đức Tăng lắng nghe! Nay có số Tỳ-kheo chừng ấy tập họp. Nếu thời gian thích hợp với Tăng, Tăng đồng ý giải chỗ tiểu giới này. Đây là lời tác bạch.

Đại đức Tăng lắng nghe! Nay có số Tỳ-kheo chừng ấy tập họp giải chỗ tiểu giới này. Các Trưởng lão nào đồng ý Tăng giải chỗ Tiểu giới này thì im lặng. Vị nào không đồng ý thì nói ra.

Tăng đã đồng ý giải chỗ tiểu giới này rồi. Tăng đã đồng ý vì im lặng. Việc ấy, nay tôi xin ghi nhận như vậy.

Pháp kết tiểu giới Tự Tứ:

(Chẳng phải thôn A-lan-nhã, đang đi trên đường đi muốn tự tứ bất đồng ý kiến, không được hòa hợp mà tự tứ. Nên cùng thầy, hoặc bạn ở chỗ khác kết tiểu giới tự tứ. Đây là chỗ ngươi ngồi đã đủ, giới không cần không tiêu tướng)

Đại đức Tăng lắng nghe! Chỗ ngồi của các Tỳ-kheo đã đầy đủ và số Tỳ-kheo chừng ấy đã ngồi đầy đủ. Nếu thời gian thích hợp với Tăng, Tăng đồng ý. Nay Tăng ở nơi này kết tiểu giới. Đây là lời tác bạch.

Đại đức Tăng lắng nghe! Chỗ ngồi chừng ấy và số Tỳ-kheo ấy đã ngồi đầy đủ, Tăng ở chỗ này kết tiểu giới. Các Trưởng lão nào đồng ý chỗ ngồi chừng ấy và số Tỳ-kheo có chừng ấy đã ngồi đầy đủ, Tăng ở trong ấy kết tiểu giới thì im lặng. Vị nào không đồng ý thì nói ra.

Tăng đã đồng ý chỗ ngồi chừng ấy và số Tỳ-kheo chừng ấy đã ngồi đầy đủ kết tiểu giới. Tăng đã đồng ý vì im lặng. Việc ấy nay tôi xin ghi nhận như vậy.

Văn yết-ma kết đồng một thuyết giới, đồng một lợi dưỡng:

(Nếu trụ xứ này và trụ xứ kia riêng biệt nay muốn cùng một thuyết giới cùng một lợi dưỡng. Trước kết hai trụ xứ này giải giới của mình, sau đó lại trụ xứ mới dựng chung một tiêu tướng, hợp làm một giới. Tăng tập họp hết một chỗ Yết-ma kết giới)

Đại đức Tăng lắng nghe! Tiêu tướng của giới như đã nói, nếu thời gian thích hợp với Tăng, Tăng đồng ý ở trong trụ xứ này và trụ xứ kia kết chung đồng một thuyết giới đồng một lợi dưỡng. Đây là lời tác bạch.

Đại đức Tăng lắng nghe! Tiêu tướng của giới như đã nói. Nay Tăng ở trong hai trụ xứ đây và kia kết chung đồng một thuyết giới, đồng một lợi dưỡng. Các Trưởng lão nào đồng ý Tăng ở trong trụ xứ này và trụ xứ kia đồng một thuyết giới, đồng một lợi dưỡng kết giới thì im lặng. Vị nào không đồng ý thì nói ra.

Tăng đã đồng ý ở trong trụ xứ này và trụ xứ kia đồng một thuyết giới, đồng một lợi dưỡng kết giới rồi. Tăng đồng ý vì im lặng. Việc ấy, nay tôi xin ghi nhận như vậy.

Văn yết-ma đồng một thuyết giới, khác lợi dưỡng:

(Trước tiên, trụ xứ này và trụ xứ kia cũng phải giải giới của mình, rồi sau đó hai giới dựng chung một tiêu tướng, hợp làm một giới, Tăng tập họp kết một chỗ tác pháp Yết-ma để kết.)

Đại đức Tăng lắng nghe! Như phương tướng của giới đã nói. Nếu thời gian thích hợp đối với Tăng, Tăng đồng ý. Nay Tăng ở trong chỗ này kết đồng một thuyết giới khác lợi dưỡng riêng. Đây là lời tác bạch.

Đại đức Tăng lắng nghe! Phương tướng giới như đã nói. Nay Tăng ở trong chỗ này kết đồng một thuyết giới mà khác lợi dưỡng riêng. Các Trưởng lão nào đồng ý Tăng ở trong tiêu tướng bốn phương này kết đồng một thuyết giới mà khác lợi dưỡng riêng thì im lặng. Vị nào không đồng ý thì nói ra.

Tăng đã đồng ý ở bên trong tiêu tướng của bốn phương này kết đồng một thuyết giới mà lợi dưỡng riêng. Tăng đã đồng ý vì im lặng. Việc ấy nay tôi xin ghi nhận như vậy. (Nếu hai trụ xứ, trước đây cùng đồng thuyết giới đồng lợi dưỡng, hoặc đồng thuyết giới mà khác lợi dưỡng. Sau đó muốn kết riêng, nên trước hết phải giải giới rồi sau đó 0 mỗi giới tự xướng tiêu tướng, giống như kết riêng biệt cũ).

Văn yết-ma kết thuyết giới riêng, đồng một lợi dưỡng:

Đại đức Tăng lắng nghe! Nếu thời gian thích hợp đối với Tăng, Tăng đồng ý. Nay Tăng ở trong trụ xứ này và trụ xứ kia kết thuyết giới riêng mà đồng một lợi dưỡng, vì để giữ gìn trụ xứ. Đây là lời tác bạch.

Đại đức Tăng lắng nghe! Nay Tăng ở trong trụ xứ này và trụ xứ kia kết thuyết giới riêng mà đồng một lợi dưỡng vì giữ gìn trụ xứ. Các Trưởng lão nào đồng ý, Tăng ở trong trụ xứ này và trụ xứ kia kết thuyết giới riêng mà đồng một lợi dưỡng, vì giữ gìn trụ xứ thì im lặng. Vị nào không đồng ý thì nói ra.

Tăng đã đồng ý ở trong trụ xứ này và trụ xứ kia kết thuyết giới riêng mà đồng một lợi dưỡng, vì giữ gìn trụ xứ rồi. Tăng đã đồng ý vì im lặng. Việc ấy, nay tôi xin ghi nhận như vậy.

Phần 2: PHÁP THỌ GIỚI

(Nếu muốn cạo tóc ở trong Tăng-già-lam nên bạch tất cả Tăng. Nếu Tăng không hòa hợp thì đến từng phòng thưa để các vị biết, rồi sau đó cho cạo tóc. Nếu Tăng hòa hợp thì nên tác bạch, tác bạch rồi sau đó cho cạo tóc. Tác bạch như sau:)

Đại đức Tăng lắng nghe! Người này tên là… muốn cầu Tỳ-kheo hiệu là… cho xuất gia. Nếu thời gian thích hợp đối với Tăng, Tăng đồng ý cho người tên là… xuất gia. Đây là lời tác bạch (Nếu muốn độ cho xuất gia ở trong Tăng-già-lam nên bạch tất cả Tăng. Tác bạch xong sau đó cho phép xuất gia. Tác bạch như vậy).

Đại đức Tăng lắng nghe! Người này tên là… muốn cầu xuất gia từ Tỳ-kheo hiệu là… Nếu thời gian thích hợp với Tăng, Tăng đồng ý cho người tên là xuất gia. Đây là lời tác bạch. (Tác bạch như vậy rồi cho xuất gia. Nên dạy họ đắp y, để lộ vai bên phải, cởi bỏ giày dép, quỳ xuống đất chấp tay thưa như vầy).

Con tên là… quy y Phật, quy y Pháp và quy y Tăng, theo Đức Như Lai xuất gia, Tỳ-kheo hiệu là… làm Hòa thượng. Đức Như Lai bậc Chí Chân Đẳng Chánh Giác là Thế Tôn của con (Lần thứ hai, thứ ba cũng thưa như vậy).

Con tên là… quy y như Phật, quy y Pháp, quy y Tăng rồi, theo Đức Như Lai xuất gia, Tỳ-kheo hiệu là… làm Hòa thượng. Đức Như Lai bậc

Chí Chân Đẳng Chánh Giác là Thế Tôn của con (Lần thứ hai, thứ ba cũng thưa như vậy).

1. Suốt đời không được sát sinh là giới của Sa-di, người giữ được không?

Đáp: Được.

2. Suốt đời không được trộm cắp là giới của Sa-di, ngươi giữ được không?

Đáp: Được.

3. Suốt đời không được dâm dục là giới của Sa-di, ngươi giữ được không?

Đáp: Được.

4. Suốt đời không được nói dối là giới của Sa-di, ngươi giữ được không?

Đáp: Được.

5. Suốt đời không được uống rượu là giới của Sa-di, ngươi có giữ được không?

Đáp: Được.

6. Suốt đời không được đeo tràng hoa, hay xức dầu thơm vào mình là giới của Sa-di, ngươi có giữ được không?

Đáp: Được.

7. Suốt đời không được ca múa, xướng hát và cố ý đến xem nghe là giới của Sa-di, ngươi có giữ được không?

Đáp: Được.

8. Suốt đời không được nằm ngồi trên giường cao rộng lớn là giới của Sa-di, ngươi có giữ được không?

Đáp: Được.

9. Suốt đời không được ăn phi thời là giới của Sa-di, ngươi có giữ được không?

Đáp: Được.

10. Suốt đời không được nắm sinh tượng, vàng bạc, vật báu là giới của Sa-di, ngươi có giữ được không?

Đáp: Được.

Đây là mười giới của Sa-di suốt đời không được phạm. Ngươi có thể giữ được không?

Đáp: Được.

Ngươi đã thọ giới rồi, nên cúng dường Tam bảo: Phật bảo, Pháp bảo và Tăng bảo, siêng năng tu tập ba nghiệp, tụng kinh ngồi thiền và siêng làm việc chung.

Văn thọ đại giới pháp thỉnh Hòa thượng:

Đại đức nhất tâm niệm! Con tên là… thỉnh Đại đức làm Hòa thượng. Cúi xin Đại đức vì con làm Hòa thượng, con nương theo Đại đức được thọ giới túc từ bi! (Lần thứ hai, lần thứ ba cũng thưa như vậy. Hòa thượng nên nói tốt, hoặc nói được. Bấy giờ, chúng Tăng nên sắp xếp cho người muốn thọ giới đứng chỗ không nghe mà chỉ thấy, rồi Giới sư nên hỏi:)

Trong chúng vị nào có thể làm thầy giáo thọ cho người tên là… Nếu có người trả lời là: Tôi có thể làm Giới sư thì nên tác bạch.

Pháp sai giáo thọ:

Đại đức Tăng lắng nghe! Người này tên là… theo Hòa thượng hiệu là… cầu thọ giới Cụ túc. Nếu thời gian thích hợp đối với Tăng, Tăng đồng ý vị Tỳ-kheo hiệu là… làm Giáo thọ sư. Đây là lời tác bạch. (Thầy giáo thọ nên đến chỗ người thọ giới hỏi):

Đây là An-đà-hội, đây là Uất-đa-la-tăng, đây là Tăng-già-lê, đây là bát. Y bát này ông đã nói có chưa?

Đáp: Có rồi.

Thầy giáo thọ nên nói:

Thiện nam lắng nghe! Nay chính là lúc chân thành, chính là lúc phải nói đúng sự thật, sự thật thì nói thật, không thật thì nói không thật.

Ngươi không phạm biên tội chứ? Ngươi không phạm tịnh hạnh của Tỳ-kheo-ni chứ? Ngươi không phải với tâm giặc thọ giới chứ? Ngươi không phải là người phá nội đạo và ngoại đạo chứ? Ngươi không phải là huỳnh môn chứ? Ngươi không phải là người giết cha chứ? Ngươi không phải là người giết A-la-hán chứ? Ngươi không phải là người phá Tăng chứ? Ngươi không phải với tâm ác làm thân Phật ra máu chứ? Ngươi chẳng phải phi nhân chứ? Ngươi không phải là súc sinh chứ? Ngươi không phải là người hai căn chứ? Ngươi tên gì? Hòa thượng của ngươi hiệu gì? Ngươi đủ hai mươi tuổi chưa? Ngươi có đủ ba y và bát chưa? Cha mẹ có cho phép ngươi không? Ngươi không phải là người mắc nợ chứ? Ngươi không phải đầy tớ chứ? Ngươi không phải quan chức chứ? Ngươi có phải là trượng phu không? Trượng phu có những chứng bệnh như bệnh hủi, ung thư, hủi trắng, càn tiêu, điên cuồng, ngươi không có những chứng bệnh ấy chứ? (Đương sự trả lời không thì nên nói với họ).

Như tôi vừa hỏi ông, lát nữa ở trong Tăng cũng sẽ hỏi ông như vậy. Vừa rồi ông trả lời với tôi như thế nào thì giữa Tăng ông cũng trả lời như vậy. (Vị giáo thọ hỏi như vậy rồi, trở vào trong chúng Tăng, với oai nghi như thường lệ, đứng trước chúng khoảng cách vừa tầm tay, tác bạch:)

Đại đức Tăng lắng nghe! Người này tên là… theo Hòa thượng hiệu là… cầu thọ giới cụ túc. Nếu thời gian thích hợp đối với Tăng, Tăng đồng ý. Tôi đã hỏi xong, cho phép họ vào. Đây là lời tác bạch (Giáo thọ sư gọi người thọ giới vào. Ngươi vào đi! Rồi cầm y bát cho họ, giới sư dạy họ đảnh lễ Tăng, ở trước giới sư quỳ gối phải xuống đất, chấp tay và giáo thọ sư nên hướng dẫn họ tác bạch xin giới như sau:)

Đại đức Tăng lắng nghe! Con tên là… theo Hòa thượng hiệu là… cầu thọ giới cụ túc. Con tên là… nay đến trong chúng Tăng xin thọ giới cụ túc. Hòa thượng hiệu là… xin chúng Tăng rủ lòng thương cứu vớt con. (Lần thứ hai, lần thứ ba cũng thưa như vậy. Bây giờ giới sư nên tác bạch:)

Đại đức Tăng lắng nghe! Người này tên là… theo Hòa thượng hiệu là… cầu thọ giới cụ túc. Nay người này tên là… theo chúng Tăng xin thọ giới cụ túc, Hòa thượng tên là… Nếu thời gian thích hợp đối với Tăng, Tăng đồng ý cho phép tôi hỏi các nạn sự. Đây là lời tác bạch. (Tác bạch như vậy rồi nên hỏi:)

Thiện nam! Nay chính là lúc chân thành, là lúc nói lời chân thật. Nay ta hỏi ngươi. Ngươi nên trả lời đúng như sự thật:

Ngươi không phạm biên tội chứ? Ngươi không phạm giới thanh tịnh của Tỳ-kheo-ni chứ? Ngươi không phải với tâm giặc xuất gia chứ? Ngươi không phá hoại nội đạo ngoại đạo chứ? Ngươi không phải huỳnh môn chứ? Ngươi không phải là người giết cha chứ? Ngươi không phải là người giết A-la-Hán chứ? Ngươi không phải là người phá Tăng chứ? Ngươi không phải với tâm ác làm thân Phật ra máu chứ? Ngươi chẳng phải phi nhân chứ? Ngươi không phải là súc sinh chứ? Ngươi không phải là người hai căn chứ? Ngươi tên gì? Hòa thượng của ngươi là ai? Ngươi đủ hai mươi tuổi chưa? Ba y và bát đã đầy đủ chưa? Cha mẹ ngươi có cho phép ngươi không? Ngươi không phải là người mắc nợ chứ? Ngươi không phải Nô Tỳ chứ? Ngươi có phải là người của quan không? Ngươi có phải trượng phu không? Trượng phu có những chứng bệnh như hủi, ung thư, hủi trắng, càn tiêu, điên cuồng. Hiện tại ngươi có những căn bệnh như vậy không? (Nếu nói đương sự không thì bạch tứ Yết-ma như sau:)

Đại đức Tăng lắng nghe! Người này tên là… theo Hòa thượng hiệu là… cầu thọ giới cụ túc. Người này tên là… nay đến trong Tăng xin thọ giới cụ túc, Hòa thượng hiệu là… Người này tên là… tự nói thanh tịnh không có các nạn sự, tuổi đủ hai mươi, ba y và bát đều đầy đủ. Nếu thời gian thích hợp đối với Tăng, Tăng đồng ý. Nay Tăng trao cho người tên là… giới cụ túc. Tỳ-kheo hiệu là… làm Hòa thượng. Đây là lời tác bạch.

Đại đức Tăng lắng nghe! Người này tên là… theo Hòa thượng hiệu là… cầu thọ giới cụ túc. Người này tên là… nay đến Tăng xin thọ giới cụ túc với Hòa thượng hiệu là… Người này tên là tự nói thanh tịnh, không có các nạn sự, đủ hai mươi tuổi, y và bát đều đầy đủ. Nay Tăng trao cho người này tên là… giới cụ túc, Tỳ-kheo hiệu là… làm Hòa thượng. Các Trưởng lão nào đồng ý Tăng trao cho người tên là… giới cụ túc, Tỳ-kheo hiệu là… làm Hòa thượng thì im lặng. Vị nào không đồng ý thì nói ra. Đây là lần yết-ma thứ nhất. (Lần thứ hai, thứ ba cũng thưa như vậy.)

Chúng Tăng đã đồng ý cho người tên là… thọ giới cụ túc, Tỳ-kheo hiệu là… làm Hòa thượng rồi. Tăng đã đồng ý vì im lặng. Việc ấy, nay tôi xin ghi nhận như vậy.

Thiện nam lắng nghe! Đức Như Lai bậc Vô Sở Trước Đẳng Chánh Giác nói bốn pháp Ba-la-di. Nếu Tỳ-kheo nào phạm một trong bốn pháp này thì chẳng phải Sa-môn, chẳng phải Thích chủng tử.

1. Đối với tất cả, ngươi không được phạm dâm dục, làm hạnh bất tịnh. Nếu Tỳ-kheo phạm hạnh bất tịnh, theo pháp dâm dục, cho đến cùng với loài súc sinh thì chẳng phải Sa-môn, chẳng phải Thích chủng tử, như cục đá bị đập vỡ không thể gắn lại được. Đây là điều mà suốt đời không được phạm. Ngươi có thể giữ được không?

Đáp: Được.

2. Đối với tất cả, ngươi không được trộm cắp, cho đến một lá cây cộng cỏ. Nếu Tỳ-kheo ăn trộm của người năm tiền hoặc hơn năm tiền. Tự mình lấy hoặc dạy người lấy; tự mình phá hoặc dạy người phá; tự mình chặt hoặc dạy người chặt; tự mình đốt hoặc dạy người đốt hoặc chôn hoặc làm hoại sắc thì người ấy chẳng phải Sa-môn, chẳng phải Thích chủng tử, như người bị chặt đầu không thể sống được. Trong điều này suốt đời ngươi không được phạm. Ngươi có thể giữ được không?

Đáp: Được.

3. Đối với tất cả, ngươi không được đoạn mạng sống của chúng sinh, cho đến loài kiến. Nếu Tỳ-kheo cố ý tự tay mình đoạn mạng người, hoặc cầm dao trao cho người, dạy cách chết, khen ngợi sự chết, khuyến khích sự chết, cho người uống thuốc độc; hoặc làm đọa thai, hoặc nguyền rủa trù ẻo cho chết; tự mình tạo phương tiện thì người ấy chẳng phải Sa-môn, chẳng phải Thích chủng tử. Như cây Đa-la cắt tim

thì không thể sống lại được. Trong điều này suốt đời ngươi không được phạm. Ngươi có thể giữ được không?

Đáp: Được.

4. Đối với tất cả, ngươi không được nói dối, cho đến nói đùa giỡn. Nếu Tỳ-kheo chẳng phải chân thật, chẳng phải mình có chứng mà tự nói: Tôi được pháp thượng nhân, đắc thiền, đắc giải thoát, đắc định, đắc bốn định không; đạt được quả Tu-đà-hoàn, quả Tư-đà-hàm, quả A-Nahàm, quả A-la-Hán. Nói rằng trời, rồng, quỷ thần đến cúng dường tôi thì người đó chẳng phải Sa-môn, chẳng phải Thích chủng tử, giống như cái kim bị hư lỗ không sử dụng lại được. Trong điều này suốt đời ngươi không được phạm. Ngươi có thể giữ được không?

Đáp: Được

Thiện nam lắng nghe! Đức Như Lai bậc Vô Sở Trước Đẳng Chánh Giác nói pháp tứ y. Tỳ-kheo y nơi pháp này xuất gia thọ giới cụ túc.

Nương nơi y phấn tảo là pháp của người xuất gia làm Tỳ-kheo.

Trong pháp này suốt đời ngươi có thể thọ trì được không?

Đáp: Được.

Nếu được lợi dưỡng do đàn-việt bố thí y, y cắt hư hoại thì được nhận. Tỳ-kheo nương nơi y này đi khất thực, đây là pháp của người xuất gia làm Tỳ-kheo. Trong pháp này suốt đời ngươi có thể thọ trì được không?

Đáp: Được.

Nếu được lợi dưỡng, hoặc Tăng sai đi thọ trai nay đàn-việt dâng cúng thức ăn vào những ngày mồng tám, rằm, mồng một, hoặc chúng Tăng thường thọ trai, đàn-việt thỉnh thọ trai thì được nhận. Nương ngồi dưới gốc cây là pháp của người xuất gia làm Tỳ-kheo. Trong pháp này suốt đời ngươi có thể giữ được không?

Đáp: Được.

Nếu được lợi dưỡng phòng riêng, nhà nóc nhọn phòng nhỏ, hang đá, hai phòng một cửa thì được nhận. Nương nơi thuốc Hủ lạn là pháp của người xuất gia làm Tỳ-kheo. Trong pháp này, suốt đời ngươi có thể thọ trì được không?

Đáp: Được

Nếu được lợi dưỡng như sữa, dầu, đề hồ, mạch và đường phèn thì được thọ nhận.

Ngươi đã thọ giới rồi, bạch tứ Yết-ma như pháp thành tựu, được đúng cách, Hòa thượng như pháp; A-xà-lê như pháp, chúng Tăng đầy đủ, ngươi nên khéo thọ nhận giáo pháp, nên siêng năng giáo hóa, làm việc phước đức, tu sửa tháp, cúng dường chúng Tăng, Hòa thượng, Axà-lê và những gì quý vị dạy như pháp, không được chống đối lại. Nên học hỏi, tọa thiền, tụng kinh, siêng năng cầu phương tiện thì ở trong pháp Phật đắc quả Tu-đà-hoàn, quả Tư-đà-hàm, quả A-na-hàm, và quả A-la-hán. Có như vậy mới khỏi uổng phí công đức ngươi mới phát tâm xuất gia ban đầu và quả báo cũng không cùng tận. Còn những việc khác chưa biết thì nên hỏi Hòa thượng, A-xà-lê (Nên bảo người thọ giới đi ra trước.)

Văn thọ y bát:

Trưởng lão nhất tâm niệm! Tôi tên là… y Tăng-già-lê này với chừng ấy điều đã cắt may thành. Nay tôi xin thọ trì không lìa ngủ (Thưa như vậy ba lần. Hai y kia cũng như vậy.)

Trưởng lão nhất tâm niệm! Tôi tên là… Bát Đa La ứng lượng khí này, nay tôi xin thọ trì sử dụng hàng ngày. (Thưa ba lần như vậy) Văn thỉnh y chỉ:

Đại đức nhất tâm niệm! Tôi tên là… thỉnh Đại đức làm y chỉ A-xàlê cho tôi. Nguyện xin Đại đức vì tôi làm y chỉ A-xà-lê. Tôi nương Đại đức sống đúng chánh pháp. (Thưa như vậy ba lần. Thầy nên nói: Chớ buông lung, hoặc nói tốt. Người kia trả lời: Xin vâng)

Phần 3: PHÁP TRỪ TỘI

Pháp sám hối tội Tăng tàn:

(Thiên thứ hai này, tội ấy đã nặng cho nên cần phải đến chúng sám hối, hành pháp điều phục. Nhưng pháp điều phục có hai:

1. Trị lỗi.

2. Trị tội.

Pháp Yết-ma che giấu đầu tiên là trị lỗi, không phải trị tội. Khi cho Yết-ma phú tàng thì trước phải sám hối tội Đột-kiết-la che giấu, sau đó mới cho pháp trị Yết-ma phú tàng, sáu đêm xuất tội. Chính sám hối Tăng tàn, người có che giấu thì phải đủ ba loại Yết-ma, người không che giấu chỉ cho đêm xuất tội.

Văn xin Yết-ma Phú Tàng:

Đại đức Tăng lắng nghe! Tôi Tỳ-kheo tên là… phạm tội Tăng tàn… đã che giấu. Tôi Tỳ-kheo tên là… phạm tội Tăng tàn tùy theo số ngày che giấu. Nay tôi đến Tăng xin Yết-ma che giấu. Cúi xin Tăng cho tôi

Yết-ma tùy theo số ngày che giấu (Thưa như vậy ba lần).

Văn cho Yết-ma che giấu:

Đại đức Tăng lắng nghe! Tôi tên là… phạm tội Tăng tàn… đã che giấu. Tỳ-kheo tên là… này phạm tội Tăng tàn tùy theo số ngày che giấu đã đến Tăng xin Yết-ma che giấu. Nếu thời gian thích hợp đối với Tăng, Tăng đồng ý. Nay Tăng cho Tỳ-kheo tên là… Yết-ma tùy theo số ngày che giấu. Đây là lời tác bạch.

Đại đức Tăng lắng nghe! Tỳ-kheo tên là… phạm tội Tăng tàn… đã che giấu. Tỳ-kheo tên là… này phạm tội Tăng tàn tùy theo số ngày che giấu đã đến Tăng xin Yết-ma che giấu. Nay Tăng cho Tỳ-kheo tên là… Yết-ma tùy theo số ngày che giấu. Các Trưởng lão nào đồng ý Tăng cho Tỳ-kheo tên là… Yết-ma tùy theo số ngày che giấu thì im lặng. Vị nào không đồng ý thì nói ra. Đây là lần yết-ma đầu tiên (Lần thứ hai, thứ ba cũng thưa như vậy.)

Tăng đã đồng ý cho Tỳ-kheo tên là… Yết-ma tùy theo số ngày đã che giấu rồi. Tăng đã đồng ý vì im lặng. Việc ấy, nay tôi xin ghi nhận như vậy.

(Người hành phú tàng (che giấu) nên tu đầy đủ bốn pháp Yết-ma và giáo pháp ấy nên khắc ghi ở trong lòng quyết định ba mươi lăm việc là pháp chiết phục chớ có vi phạm, phải hạ mình làm những việc khổ cực của chúng, cung phụng Tỳ-kheo thanh tịnh, pháp điều phục mỗi mỗi phải thực hành theo. Thưa tám việc là pháp lồ sám hối, phải có tâm rất hổ thẹn, trong lòng tự nghĩ trách mình rồi y theo pháp để thưa, chớ nên để thiếu đêm. Nếu thiếu một đêm thì phạm một tội Đột-kiết-la.

Tám việc đó là:

1. Đến chùa khác không bạch.

2. Có khách Tỳ-kheo đến không bạch.

3. Có duyên sự tự đi ra ngoài không bạch.

4. Trong chùa những vị đi thong thả không bạch.

5. Bệnh không sai người tin cậy bạch.

6. Hai ba người ngủ chung một phòng.

7. Ở chỗ không có Tỳ-kheo.

8. Mỗi nửa tháng lúc thuyết giới không bạch. Đó là tám việc mất đêm.

Đức Phật cho phép nửa tháng khi thuyết giới thưa như vậy. Người thực hành phú tàng (che giấu) kia nên đến trong Tăng, để lộ vai bên phải, cởi bỏ giày dép, quỳ gối phải xuống đất, chấp tay tác bạch như vậy:)

Đại đức Tăng lắng nghe! Tôi Tỳ-kheo tên là… phạm tội Tăng tàn đã che giấu. Tôi Tỳ-kheo tên là… phạm tội Tăng tàn tùy theo số ngày che giấu. Nay đến Tăng xin Yết-ma che giấu. Tăng đã cho tôi Yếtma tùy theo số ngày che giấu. Tôi Tỳ-kheo tên là… đã thực hành được chừng ấy ngày, còn chừng ấy ngày chưa hành. Tôi thưa với Đại đức để Đại đức biết tôi hành phú tàng (Có ba việc thấp nhất: . Đi sau chót các đại Tỳ-kheo. . Được nhận ngọa cụ xấu nhất. Có ba việc tùy theo thứ tự mỗi việc, khi Tăng được thí vật, khi tự tứ và khi khất thực.) Văn Yết-ma xin Ma-na-đỏa:

Đại đức Tăng lắng nghe! Tôi Tỳ-kheo tên là… phạm tội Tăng tàn… đã che giấu. Tôi Tỳ-kheo tên là… phạm tội Tăng tàn tùy theo số ngày che giấu đã đến Tăng xin Yết-ma che giấu. Tăng đã cho tôi Yết-ma tùy theo số ngày che giấu. Tôi Tỳ-kheo tên là… đã hành pháp phú tàng xong, nay đến Tăng xin sáu đêm Ma-na-đỏa. Cúi xin Tăng cho tôi sáu đêm Ma-na-đỏa. (Thưa ba lần như thế).

Văn Yết-ma cho Ma-na-đỏa:

Đại đức Tăng lắng nghe! Tỳ-kheo tên là… phạm tội Tăng tàn… đã che giấu. Tỳ-kheo này tên là… phạm tội Tăng tàn tùy theo số ngày che giấu đã đến Tăng xin Yết-ma che giấu. Tăng đã cho Tỳ-kheo tên là… Yết-ma tùy theo số ngày che giấu. Tỳ-kheo này tên là… đã hành pháp phú tàng xong, nay đến Tăng xin sáu đêm Ma-na-đỏa. Đây là lời tác bạch.

Đại đức Tăng lắng nghe! Tỳ-kheo tên là… phạm tội Tăng tàn… đã che giấu. Tỳ-kheo này tên là… phạm tội Tăng tàn tùy theo số ngày che giấu đã đến Tăng xin Yết-ma che giấu. Tăng đã cho Tỳ-kheo tên là… Yết-ma tùy theo số ngày che giấu. Tỳ-kheo này tên là… đã hành pháp phú tàng xong, đến Tăng xin sáu đêm Ma-na-đỏa. Nay Tăng cho Tỳkheo tên là… sáu đêm Ma-na-đỏa. Các Trưởng lão nào đồng ý Tăng cho Tỳ-kheo tên là… sáu đêm Ma-na-đỏa thì im lặng, vị nào không đồng ý thì nói ra. Đây là lần Yết-ma thứ nhất (Lần thứ hai, thứ ba cũng thưa như vậy).

Tăng đã cho Tỳ-kheo tên là… sáu đêm Ma-na-đỏa rồi. Tăng đã đồng ý vì im lặng. Việc ấy, nay tôi xin ghi nhận như vậy.

(Đức Phật dạy: Cho phép Tỳ-kheo hành Ma-na-đỏa cũng thực hành giống như trên. Người hành Ma-na-đỏa nên thường ngủ trong Tăng để hàng ngày tác bạch. Vị ấy để lộ vai bên phải, cởi bỏ giày dép, đầu gối bên phải quỳ xuống đất, chấp tay, tác bạch như vậy:)

Đại đức Tăng lắng nghe! Tôi Tỳ-kheo tên là… phạm tội Tăng tàn…đã che giấu. Tôi Tỳ-kheo tên là… phạm tội Tăng tàn, tùy theo số ngày che giấu đã đến Tăng xin Yết-ma. Tăng đã cho tôi Yết-ma tùy theo số ngày che giấu. Tôi Tỳ-kheo tên là… đã hành pháp phú tàng xong, đến Tăng xin sáu đêm Ma-na-đỏa. Tăng đã cho tôi sáu đêm Ma-na-đỏa. Tôi Tỳ-kheo tên là… đã thực hành chừng ấy ngày, còn chừng ấy ngày chưa thực hành. Nay thưa với Đại đức để Đại đức biết cho tôi đang hành pháp Ma-na-đỏa. (Thưa ba lần).

Văn Yết-ma xin xuất tội:

Đại đức Tăng lắng nghe! Tôi Tỳ-kheo tên là… phạm tội Tăng tàn… đã che giấu. Tôi Tỳ-kheo tên là… phạm tội Tăng tàn tùy theo số ngày che giấu đã đến Tăng xin Yết-ma che giấu. Tăng đã cho Yết-ma tùy theo số ngày che giấu. Tôi Tỳ-kheo tên là… đã thực hành pháp phú tàng xong, đến Tăng xin sáu đêm Ma-na-đỏa. Tăng đã cho tôi sáu đêm Mana-đỏa. Tôi Tỳ-kheo tên là… hành sáu đêm Ma-na-đỏa xong, nay đến Tăng xin Yết-ma xuất tội. Cúi xin Tăng cho tôi Yết-ma xuất tội. (Lần thứ hai, thứ ba cũng thưa như vậy).

Văn Yết-ma cho xuất tội:

Đại đức Tăng lắng nghe! Tỳ-kheo tên là… phạm tội Tăng tàn… đã che giấu. Tỳ-kheo này tên là… phạm tội Tăng tàn tùy theo số ngày che giấu đã đến Tăng xin Yết-ma che giấu. Tăng đã cho Tỳ-kheo tên là… Yết-ma tùy theo số ngày che giấu. Tỳ-kheo này tên là… đã hành pháp phú tàng xong, đã đến Tăng xin sáu đêm Ma-na-đỏa. Tăng đã cho Tỳkheo tên là… sáu đêm Ma-na-đỏa. Tỳ-kheo này tên là… đã hành sáu đêm Ma-na-đỏa xong, nay đến Tăng xin Yết-ma xuất tội. Đây là lời tác bạch.

Đại đức Tăng lắng nghe! Tỳ-kheo tên là… phạm tội Tăng tàn đã che giấu. Tỳ-kheo này tên là… phạm tội Tăng tàn tùy theo số ngày che giấu đã đến Tăng xin Yết-ma che giấu. Tăng đã cho Tỳ-kheo tên là… Yết-ma tùy theo số ngày che giấu. Tỳ-kheo này tên là… đã hành pháp phú tàng xong, đã đến Tăng xin Yết-ma sáu đêm Ma-na-đỏa. Tăng đã cho Tỳ-kheo tên là… Yết-ma sáu đêm Ma-na-đỏa. Tỳ-kheo này tên là… đã hành sáu đêm Ma-na-đỏa xong, đến Tăng xin Yết-ma xuất tội. Nay, Tăng cho Tỳ-kheo tên là… Yết-ma xuất tội. Các Trưởng lão nào đồng ý Tăng cho Tỳ-kheo tên là… Yết-ma xuất tội thì im lặng. Vị nào không đồng ý thì nói ra. Đây là lần Yết-ma lần thứ nhất (Lần thứ hai, thứ ba cũng thưa như vậy).

Tăng đã đồng ý cho Tỳ-kheo tên là… Yết-ma xuất tội rồi. Tăng đã đồng ý vì im lặng. Việc ấy, nay tôi xin ghi nhận như vậy.

Pháp sám hối Xả đọa:

(Thiên thứ ba này là lỗi Ni-tát-kỳ Ba-dật-đề. Phạm hai thiên tăng thiên pháp chiết phục, cần phải xả ở trong Tăng. Nếu như ở trụ xư không có Tăng thì xả trước ba người, hai người hay một người cũng được. Nhưng không được xả chúng riêng không thành).

Văn mang y xả đọa đến xả ở trong Tăng:

Đại đức Tăng lắng nghe! Tôi Tỳ-kheo tên là… cố ý chứa chừng ấy y dư, đã quá mười ngày phạm tội xả đọa. Nay tôi xin trả cho Tăng. (Lần thứ hai, thứ ba cũng thưa như vậy. Khi xả xong liền đến trong Tăng sám hối).

Văn đến Tăng xin sám hối:

Đại đức Tăng lắng nghe! Tôi Tỳ-kheo tên là… cố ý chứa chừng ấy y dư, đã quá mười ngày phạm tội xả đọa. Y này tôi đã xả cho Tăng, còn phạm tội… nay đến chúng Tăng xin sám hối. Cúi xin Tăng cho phép tôi Tỳ-kheo tên … sám hối. (Lần thứ hai, thứ ba cũng thưa như vậy. Trong Tăng thỉnh riêng một người vì người sám hối đến chỗ Tỳ-kheo thanh tịnh. Tác bạch như vậy).

Tôi Tỳ-kheo tên là… thỉnh Đại đức sám hối. (Người nhận sám hối nên bạch Tăng, rồi sau đó nhận sám hối).

Văn người nhận sám hối bạch trong Tăng:

Đại đức Tăng lắng nghe! Tỳ-kheo tên là… cố ý chứa chừng ấy y dư, quá mười ngày phạm tội xả đọa. Y này đã xả cho Tăng, còn có tội… nay đến trong Tăng sám hối. Nếu thời gian thích hợp đối với Tăng, Tăng đồng ý. Tôi nhận sự sám hối của Tỳ-kheo tên là… Đây là lời tác bạch.

Văn sám hối với một người ở trong Tăng:

Đại đức nhất tâm niệm! Tôi Tỳ-kheo tên là… cố ý chứa chừng ấy y dư, quá mười ngày phạm tội xả đọa. Y này tôi đã xả cho Tăng, nay có tội nên đến Đại đức sám hối không dám che giấu. Sám hối thì được an lạc, không sám hối thì không an lạc. Tôi nhớ nghĩ lại có phạm nên mới phát lồ, biết nên không dám che giấu nữa. Đại đức ghi nhớ tôi thanh tịnh, thân giới đầy đủ, thanh tịnh bố-tát. (Lần thứ hai, thứ ba cũng thưa như vậy. Thưa xong, người nhận sự sám hối nên nói:)

Ông tự trách mình, tâm sinh nhàm chán xa lìa. (Người kia nên đáp)

Văn yết-ma Tăng trả y lại cho Tỳ-kheo này:

(Pháp xả đọa trả y, nếu người có chứa y nhuộm thì nên để trả qua một đêm mới Yết-ma trả. Nếu có viền cho phép Yết-ma ngày đó, nhưng cần phải gọi người khác chuyển giao, không nên trực tiếp trả lại. Nếu không nhuộm đều trả ban ngày. Nay chứng y dư phạm xả đọa trả y này là văn Yết-ma trải qua đêm rồi hoàn trả lại.)

Đại đức Tăng lắng nghe! Tỳ-kheo tên là… cố ý chứa chừng ấy y dư, quá mười ngày phạm tội xả đọa. Y này đã xả cho Tăng. Nếu thời gian thích hợp đối với Tăng, Tăng đồng ý. Nay Tăng mang y này trả lại cho người tên là… Đây là lời tác bạch.

Đại đức Tăng lắng nghe! Tỳ-kheo tên là… cố ý chừa chừng ấy y dư, quá mười ngày phạm tội xả đọa. Y này đã xả cho Tăng. Nay Tăng đem y này trả lại cho Tỳ-kheo tên là… Các Trưởng lão nào đồng ý Tăng đem y này trả lại cho Tỳ-kheo tên là… thì im lặng. Vị nào không đồng ý thì nói ra.

Tăng đã đồng ý mang y này trả lại cho Tỳ-kheo tên là… rồi. Tăng đã đồng ý vì im lặng. Việc ấy nay tôi xin ghi nhận như vậy.

Văn xả đọa trước ba người, hai người và một người:

(Nếu pháp xả trước ba người, hai người, một người đều giống như trên, chỉ khác là không xưng Tăng. Pháp sám hối với ba người, hai người hay một người, người nhận sự sám hối nên nói với người bên cạnh rồi sau đó nhận sư sám hối. Còn đối với một người thì xả trực tiếp ngay người ấy rồi sám hối.)

Văn người nhận sám hối trong hai, ba người nói với người bên cạnh:

Trưởng lão nhất tâm niệm! Tôi nhận sự sám hối của Tỳ-kheo tên là… (Người kia nói: Vâng. Pháp sám hối giống như trên) Pháp sám hối tội khác:

(Nói tội khác trừ hai thiên trên và Ni-tát-kỳ ra, từ các tội khác Ba-dật-đề trở xuống hai thiên Thâu-lan-giá và Đột-kiết-la. Trong khác này thì Ba-dật-đề và Đề-xá-ni đều là đối thứ sám hối. Tội thiên thứ năm đều tâm niệm sám hối. Tội Thâu-lan-giá nặng thì sám hối ở trong chúng, còn tội nhẹ thì đối diện sám hối. Cho nên, rút cuộc pháp sám hối thứ bậc bất đồng).

Văn sám hối với một Tỳ-kheo:

(Nên đến một Tỳ-kheo thanh tịnh trạch vai bên phải, đảnh lễ Thượng tọa, quỳ gối xuống đất chấp tay nói tên tội, nói loại tội tác bạch như vậy:)

Đại đức nhất tâm niệm! Tôi Tỳ-kheo tên là… phạm tội là… Nay đến Trưởng lão sám hối, không dám che giấu. Sám hối thì được an lạc, không sám hối thì không an lạc, tôi nhớ nghĩ có phạm nên phát lồ, biết 8 nên không che giấu. Trưởng lão nhớ cho tôi thanh tịnh, thân giới đầy đủ, Bố-tát thanh tịnh. (Lần thứ hai, thứ ba cũng thưa như vậy. Người nhận sự sám hối nên nói:)

Ông nên tự trách mình, sinh tâm nhàm chán xa lìa. (Đương sự liền đáp: Xin vâng).

Văn sám hối với hai Tỳ-kheo:

(Nên đến hai Tỳ-kheo thanh tịnh thỉnh hai vị ấy cho mình sám hối. Một vị Tỳ-kheo đối sám hối. Người nhận sám hối trước nên hỏi người kia. Tỳ-kheo thứ hai nên thưa:)

Trưởng lão lắng nghe! Tôi nhận sự sám hối của Tỳ-kheo tên là…

(Người đáp: Xin vâng. Cách sám hối cũng giống như trên.) Văn sám hối với ba Tỳ-kheo:

(Nên đến chỗ ba Tỳ-kheo thanh tịnh, cũng thỉnh một vị Tỳ-kheo trong ba vị ấy đối sám hối. Còn những cách thức khác cũng giống như pháp sám hối với hai người ở trên.) Văn sám hối trong Tăng:

(Nên đến trong Tăng để lộ vai bên phải, cởi bỏ giày dép, đảnh lễ dưới chân Tăng, rồi quỳ gối phải xuống đất chấp tay thưa:)

Đại đức Tăng lắg nghe. Tôi Tỳ-kheo tên là… đã phạm tội… Nay đến Tăng xin sám hối. (Thưa như vậy ba lần. Trong Tăng thỉnh riêng một vị đối sám hối đến Tỳ-kheo thanh tịnh thưa:)

Tôi Tỳ-kheo tên là… thỉnh Đại đức sám hối. (Người nhận sám hối nên thưa Tăng trước rồi sau mới nhận sám hối. Thưa như vầy)

Đại đức Tăng lắng nghe! Tỳ-kheo kia tên là… phạm tội… nay đến Tăng sám hối. Nếu thời gian thích hợp đối với Tăng, Tăng nhận sự sám hối của Tỳ-kheo này. Đây là lời tác bạch. (Thưa như vậy rồi nhận sám hối. Còn cách sám hối ở đây cũng giống như trên.)

Văn tất cả Tăng cùng phạm liền đến trong Tăng sám hối:

(Ở trụ xư khi gần đến ngày thuyết giới mà tất cả Tăng cùng phạm nhưng những người đồng phạm không được hướng đến nhau sám hối. Đã gần đến giờ thuyết giới, lại không cho phép ra ngoài cầu Tỳ-kheo thanh tịnh được. Lấy việc thuyết giới làm trọng, cho phép chúng dùng đơn bạch mà sám hối, nếu được thì mới thuyết giới nên tác bạch như vậy.)

Đại đức Tăng lắng nghe! Tất cả Tỳ-kheo này phạm tội. Nếu thời gian thích hợp đối với Tăng, Tăng đồng ý tất cả Tăng này sám hối. Đây là lời tách bạch. (Thưa như vậy rồi sau đó mới thuyết giới) Văn phát lồ nghi có tội:

(Đến một Tỳ-kheo thanh tịnh, để lộ vai bên phải, cởi bỏ giày dép, đảnh lễ dưới chân Tăng, rồi quỳ gối xuống đất, chấp tay, tự xưng tên giới mình đã phạm. Thưa như vậy.)

Đại đức Tăng nhớ nghĩ! Tôi phạm tội… nhưng lại sinh nghi, nay thưa với Đại đức. Sau khi tôi không còn nghi ngờ nữa thì sẽ sám hối đúng như pháp.

Văn phát lồ ở trong Tăng tất cả Tăng đồng phạm sinh nghi

(Ngay vào lúc sắp thuyết giới phạm tội mà sinh nghi ngờ phát lồ cách sám hối đều giống như cách sám hối ở trên. Nên tác bạch như vậy.)

Đại đức Tăng lắng nghe! Tất cả Tăng này phạm tội có nghi ngờ. Nếu thời gian thích hợp đối với Tăng, Tăng đồng ý chúng Tăng đây tự nói tội. Đây là lời tác bạch. (Thưa như vậy rồi sau mới được nói giới).

Phần 4: PHÁP THUYẾT GIỚI

Văn gởi dục và thanh tịnh:

(Nếu có việc Phật, Pháp, Tăng, bệnh, hoạn nạn và nuôi bệnh thì cho pháp gởi dục thanh tịnh)

Đại đức nhất tâm niệm! Hôm nay là ngày chúng Tăng bố-tát thuyết giới. Tôi tên là… vì duyên sư… nên như pháp Tăng sự gởi dục thanh tịnh. (Có năm trường hợp gởi dục: Hoặc nói cho ngài dục, hoặc nói tôi nói dục, hoặc nói cho tôi nói dục, hoặc biểu hiện thân tướng, hoặc nói rộng cuối cùng thành gởi dục. Nếu không có người thì gởi dục không thành. Khi tự tứ gởi dục cũng giống như vậy. Chỉ có khác là nói tôi gởi dục tự tứ)

Văn nhận dục thanh tịnh:

(Tùy theo khả năng nhớ tên thì được nhận bấy nhiêu đến Tăng nên thưa như vậy.)

Đại đức nhất tâm niệm! Nhiều Tỳ-kheo trong chúng vì duyên sự như thế tôi nhận dục thanh tịnh cho số đông Tỳ-kheo trong chúng Tăng như pháp sự gởi dục thanh tịnh

Văn chuyển gởi dục thanh tịnh:

(Nhận dục thanh tịnh của vị kia rồi, nhưng sau đó mình có việc xảy ra nên phải đem dục thanh tịnh của mình và người kia chuyển lại cho người khác, thưa:)

Trưởng lão nhất tâm niệm! Tôi Tỳ-kheo tên là… nhận dục thanh tịnh cho nhiều Tỳ-kheo trong chúng. Nay có duyên sự nên những vị kia và tôi như pháp Tăng sự gởi dục thanh tịnh.

Văn bố-tát thuyết giới:

(Đến ngày Bố-tát hoặc vào bữa ăn sáng, hoặc vào bữa ăn trưa vị Thượng tọa xướng)

Hôm nay là ngày Bố-tát, vào thời gian… chúng Tăng hòa hợp, tập họp ở giảng đường thuyết giới. (Nếu có bốn người hoặc bốn người trở lên thì nên tác bạch trước rồi sau mới thuyết giới. Người tác bạch như trong giới đã nói. Nếu chỉ có hai người hoặc ba người thì hướng đến nhau nói ba lần Bố-tát, nói:)

Trưởng lão nhất tâm niệm! Hôm nay là ngày mười lăm chúng Tăng thuyết giới, tôi tên là… thanh tịnh. (Nói như vậy ba lần. Nếu chỉ một người thì tâm niệm nói:)

Hôm nay là ngày mười lăm chúng Tăng thuyết giới. Tôi tên là … thanh tịnh. (Nói như vậy ba lần)

Văn báo cho biết thanh tịnh:

(Có ba ngày Bố-tát, hoặc ngày thứ mười sáu, ngày thứ mười lăm và ngày thứ mười bốn. Nếu có khách, cựu Tỳ-kheo đã nói, chưa nói người đến có trước sau. Chúng có số lượng bao nhiêu hay bằng nhau. Hoặc khách đã nói, sau có cựu Tỳ-kheo đến, số ấy nhiều hay bằng nhau đều phải thuyết giới lại. Nếu số cựu Tỳ-kheo ít thì nên xuất giới ra ngoài thuyết giới. Nếu cựu Tỳ-kheo đã nói giới, sau đó Tỳ-kheo khách đến nhiều hơn số cựu Tỳ-kheo thì phải thuyết giới lại. Nếu số Tỳ-kheo khách ít hơn hay bằng thì nên tự xuất giới ra ngoài thuyết giới. Hoặc thuyết giới cùng ngày mà thời gian thì khác. Số Tỳ-kheo khách và số cựu Tỳ-kheo trước sau hoặc bằng nhau. Nếu sau khi cựu Tỳ-kheo thuyết giới xong Tỳ-kheo khách mới đến với số lượng nhiều thì đợi, đều phải thuyết giới lại. Nếu số khách Tỳ-kheo ít nên bảo thanh tịnh. Nếu sau khi khách Tỳ-kheo thuyết giới cựu Tỳ-kheo đến số nhiều thì đợi, rồi khách Tỳ-kheo cũng thuyết giới lại, còn ít thì bảo thanh tịnh. Theo thứ tự ngồi nghe. Nếu cả chúng đứng dậy, hoặc số nhiều nói hay không nói ý nghĩa đều giống với pháp bảo thanh tịnh ở trên, nói:)

Đại đức Tăng lắng nghe! Tôi tên là… thanh tịnh. (Nói như vậy ba lần rồi ngồi theo thứ tự.)

Văn lược thuyết giới vì có nạn sự và các nhân duyên khác:

Tám nạn sự: Nạn vua, nạn giặc, nạn lửa, nạn nước, nạn bệnh, nạn người, nạn phi nhân và nạn trùng độc. Các nhân duyên khác: Đại chúng tập họp giường tòa bị thiếu, hoặc trong chúng có nhiều người bệnh, đại chúng tập họp chỗ che không đủ, hoặc trời mưa, hoặc Bố-tát nhiều, hoặc xảy ra sự tranh chấp, luận A-tỳ-đàm-tỳ-ni, hoặc đêm thuyết pháp đã lâu, mặt trời chưa mọc nên tác pháp Yết-ma thuyết giới, nên tùy theo sự việc gần hay xa, có thể nói rộng giới thì nói rộng, nếu không làm thì như pháp mà trị tội. Có thể nói lược thì lại nói lược, nếu không làm thì như pháp mà trị tội. Nếu nạn sự xảy ra gần quá thì nên đứng dậy đi ngay. Lược thuyết giới là nói lời tựa của giới, còn các việc khác nên nói Tăng thường nghe; hoặc nói lời tựa của giới và bốn trọng tội rồi, còn những việc khác nên nói, Tăng thường nghe. Như vậy cho đến Đề-xáni, còn các việc khác cũng nói, Tăng thường nghe.

Pháp giáo giới Tỳ-kheo-ni:

(Khi Tăng thuyết giới, người tụng giới nên hỏi: Có ai sai Tỳ-kheoni đến thỉnh giáo giới Ni không? Người nhận giáo thọ nên bạch Tăng:)

Đại đức Tăng lắng nghe! Tỳ-kheo Ni Tăng những vị tên là… hòa hợp đảnh lễ Đại đức Tăng cầu giáo thọ. (Nói ba lần như thế, trong chúng nếu có người giáo thọ nên sai. Nếu không có người thì Thượng tọa nên làm pháp giáo giới cho họ).

Văn yết-ma sai người giáo thọ Tỳ-kheo-ni:

Đại đức Tăng lắng nghe! Nếu thời gian thích hợp đối với Tăng, Tăng đồng ý. Tăng sai Tỳ-kheo tên là… giáo thọ Tỳ-kheo-ni. Đây là lời tác bạch.

Đại đức Tăng xin lắng nghe! Tăng sai Tỳ-kheo tên là… giáo thọ Tỳ-kheo-ni. Các Trưởng lão nào đồng ý Tăng sai Tỳ-kheo tên là… giáo thọ Tỳ-kheo-ni thì im lặng. Vị nào không đồng ý thì nói ra.

Tăng đã đồng ý sai Tỳ-kheo tên là… giáo thọ Tỳ-kheo-ni. Tăng đã đồng ý vì im lặng. Việc ấy nay tôi xin ghi nhận như vậy.

(Người được Tăng sai, khi đến chùa Ni nên dạy tập họp Ni Tăng.)

Trước hết nói tám pháp không nên trái lại:

1. Dù cho Tỳ-kheo-ni trăm tuổi hạ, nhưng khi thấy Tỳ-kheo mới thọ giới nên đứng dậy đón tiếp đảnh lễ và trải tòa thỉnh ngồi. Đây là pháp nên tôn trọng và tán thán, suốt đời không được vi phạm.

2. Tỳ-kheo-ni không nên chửi mắng Tỳ-kheo, trách móc Tỳ-kheo, không nên nhục mạ Tỳ-kheo rằng phá giới, phá kiến, phá oai nghi. Pháp này nên tôn trọng và tán thán, suốt đời không được vi phạm.

3. Tỳ-kheo-ni không được vì Tỳ-kheo tác cử, tác ức niệm, tác tự ngôn, không được ngăn người khác tìm tội, ngăn nói giới, ngăn tự tứ.

Tỳ-kheo-ni không được quở trách Tỳ-kheo mà Tỳ-kheo có quyền quở trách Tỳ-kheo-ni. Pháp này nên được tôn trọng và khen ngợi, suốt đời không được vi phạm.

4. Thức-xoa-ma-na học giới xong, nên đến Tỳ-kheo Tăng xin thọ đại giới. Pháp này nên được tôn trọng và tán thán, suốt đời không được vi phạm.

5. Tỳ-kheo-ni phạm tội Tăng tàn phải mỗi nửa tháng ở trước hai bộ Tăng hành Ma-na-đỏa. Pháp này nên được tôn trọng và tán thán, suốt đời không được vi phạm.

6. Mỗi nửa tháng, Tỳ-kheo-ni phải đến Tăng cầu thỉnh giáo thọ. Pháp này nên được tôn trọng và tán thán, suốt đời không được vi phạm.

7. Tỳ-kheo-ni không được an cư vào mùa hạ ở chỗ không có Tỳkheo. Pháp này phải được tôn trọng và tán thán, suốt đời không được vi phạm

8. Sau khi an cư xong Tỳ-kheo Ni Tăng nên đến Tỳ-kheo Tăng cầu ba việc tự tứ thấy, nghe và nghi. Pháp này nên tôn trọng và tán thán, suốt đời không được vi phạm. (Nói tám điều không được vi phạm xong, sau đó mới tùy ý thuyết pháp)

Văn Thượng tọa giáo thọ chỉ dạy:

Nơi này không có người giáo thọ, Ni chúng nên Bố-tát như pháp, cẩn thận chớ buông lung. (Ngày mai, khi Ni đến tập họp, người nhận lời chỉ dạy nên trả lại theo như văn này).

Phần 5: PHÁP AN CƯ

Văn yết-ma tăng sai người chia phòng xá, ngọa cụ:

Đại đức Tăng lắng nghe! Nếu thời gian thích hợp đối với Tăng, Tăng đồng ý sai Tỳ-kheo tên là… chia ngọa cụ, phòng xá. Đây là lời tác bạch.

Đại đức Tăng lắng nghe! Tăng sai Tỳ-kheo tên là… chia phòng xá, ngọa cụ. Các Trưởng lão nào đồng ý Tăng sai Tỳ-kheo tên là… chia phòng xá, ngọa cụ thì im lặng. Vị nào không đồng ý thì nói ra.

Tăng đã đồng ý sai Tỳ-kheo tên là… chia ngọa cụ, phòng xá rồi. Tăng đã đồng ý vì im lặng. Việc ấy, nay tôi xin ghi nhận như vậy. (Cách chia phòng, trước hết sai người trị sự chọn nhận một phòng rồi, còn các phòng khác thì bạch với các Thượng tọa theo thứ tự nhận phòng, tác bạch)

Đại đức Thượng tọa! Phòng xá, ngọa cụ tốt như vậy, tùy ý theo sở thích của quý ngài mà thọ nhận. (Trước hết cấp phòng cho Thượng tọa lớn, tiếp theo Thượng tọa thứ hai, thứ ba, thứ tư cho đến bậc Hạ tọa.

Nếu còn phòng dư nên giữ lại cho Tỳ-kheo khách.) Văn an cư:

Trưởng lão nhất tâm niệm! Tôi Tỳ-kheo tên là… nương phòng xá ở nơi xóm làng… hay Tăng-già-lam… tiền an cư ba tháng mùa hạ, phòng xá bị hư hỏng phải sửa chữa lại. (Lần thứ hai, thứ ba cũng thưa như vậy.) Nương theo vị trì luật tên là… Nếu có nghi ngờ điều gì nên đến hỏi. (Pháp an cư ba tháng sau của mùa hạ cũng như vậy. Chỉ nói khác là từ hậu an cư)

Văn thọ pháp bảy ngày:

Trưởng lão nhất tâm niệm! Tôi Tỳ-kheo tên là… thọ pháp bảy ngày để đi ra ngoài lo công việc như vậy… Khi công việc này xong sẽ trở về trong giới an cư. Tôi thưa với Trưởng lão để Trưởng lão biết. (Lần thứ hai, thứ ba cũng thưa như vậy)

Pháp yết-ma thọ quá bảy ngày:

(Pháp Yết-ma này rút ra từ Chiêm Ba Kiền Độ của luật này. Căn cứ theo đây để kiểm tra thì bản cũ gọi văn Yết-ma không đủ, cho nên

phải sửa đổi để được rõ ràng và chính xác hơn.) Văn Yết-ma xin thọ quá bảy ngày:

Đại đức Tăng lắng nghe! Tôi Tỳ-kheo tên là… ở trú xứ này an cư ba tháng hạ, thọ pháp quá bảy ngày hoặc mười lăm ngày hay một tháng để ra ngoài giới vì công việc như vậy. Sau khi xong công việc sẽ trở về trong giới an cư. Nay đến Tăng xin thọ pháp quá bảy ngày Yết-ma mười lăm ngày hoặc một tháng. Cúi xin Tăng cho tôi Tỳ-kheo tên là… thọ pháp quá bảy ngày, Yết-ma mười lăm ngày hay một tháng, từ bi!

(Lần thứ hai, thứ ba cũng thưa như vậy).

Văn yết-ma cho quá bảy ngày:

Đại đức Tăng lắng nghe! Tỳ-kheo tên là… ở trụ xư này an cư ba tháng hạ thọ pháp quá bảy ngày, mười lăm ngày hoặc một tháng để ra ngoài vì công việc như vậy… Sau khi công việc xong sẽ trở về trong giới này an cư. Nay đến Tăng xin pháp thọ quá bảy ngày Yết-ma mười lăm ngày hay một tháng. Nếu thời gian thích hợp đối với Tăng, Tăng đồng ý. Nay Tăng cho Tỳ-kheo tên là… pháp thọ quá bảy ngày Yết-ma mười lăm ngày hoặc một tháng. Đây là lời tác bạch.

Đại đức Tăng lắng nghe! Tỳ-kheo tên là… ở trụ xư này an cư ba tháng hạ thọ pháp quá bảy ngày hoặc mười lăm ngày hay một tháng để đi ra ngoài vì công việc như vậy. Sau khi công việc xong sẽ trở lại trong giới này an cư. Nay đến Tăng xin thọ pháp quá bảy ngày Yết-ma mười lăm ngày hay một tháng. Nay Tăng cho Tỳ-kheo tên là… Yết-ma thọ pháp quá bảy ngày hoặc mười lăm ngày hay một tháng. Các Trưởng lão nào đồng ý nay Tăng cho Tỳ-kheo tên là… Yết-ma thọ pháp quá bảy ngày hoặc mười lăm ngày hay một tháng thì im lặng. Vị nào không đồng ý thì nói ra.

Tăng đã đồng ý cho Tỳ-kheo tên là…Yết-ma thọ pháp quá bảy ngày hoặc mười lăm ngày hay một tháng. Tăng đã đồng ý vì im lặng. Việc ấy nay tôi xin ghi nhận như vậy.

Phần 6: PHÁP TỰ TỨ

Văn Yết-ma Tăng sai người Tự Tứ:

Đại đức Tăng lắng nghe! Nếu thời gian thích hợp đối với Tăng, Tăng đồng ý sai Tỳ-kheo tên… làm người thọ tự tứ. Đây là lời tác bạch.

Đại đức Tăng lắng nghe! Tăng sai Tỳ-kheo tên là… làm người thọ tự tứ. Các Trưởng lão nào đồng ý Tăng sai Tỳ-kheo tên là… làm người thọ tự tứ thì im lặng. Vị nào không đồng ý thì nói ra.

Tăng đã đồng ý sai Tỳ-kheo tên là… làm người thọ tự tứ. Tăng đã đồng ý vì im lặng. Việc ấy, nay tôi xin ghi nhận như vậy.

Văn bạch Tăng Tự Tứ:

Đại đức Tăng lắng nghe! Hôm nay chúng Tăng tự tứ. Nếu thời gian thích hợp đối với Tăng, Tăng đồng ý hòa hợp tự tứ. Đây là lời tác bạch. (Tác bạch xong rồi mới tự tứ.)

Văn chúng Tăng Tự Tứ:

Đại đức nhất tâm niệm! Tôi Tỳ-kheo tên là… cũng tự tứ. Nếu thấy, nghe, nghi tôi có tội. Xin Đại đức Trưởng lão thương xót chỉ bảo cho tôi. Nếu tôi thấy có tội sẽ như pháp sám hối. (Lần thứ hai, thứ ba cũng thưa như vậy.)

Văn hoặc bốn người tự tứ với nhau:

Trưởng lão nhất tâm niệm! Hôm nay chúng Tăng tự tứ, tôi Tỳkheo tên là… cũng tự tứ. (Thưa ba lần như vậy. Nếu hai người hoặc ba người cũng thưa như vậy. Nếu chỉ một người thì tâm niệm nói tự tứ.)

Hôm nay chúng Tăng tự tứ, tôi Tỳ-kheo tên là… cũng tự tứ (Thưa ba lần như vậy. Pháp tự tứ, nếu năm người hoặc dưới năm người thì không được thọ dục)

Văn có tám nạn sự xảy ra bạch Tăng mỗi vị nói ba lần Tự Tứ:

Đại đức Tăng lắng nghe! Nếu thời gian thích hợp đối với Tăng, Tăng đồng ý, nay Tăng mỗi vị nói ba lần tự tứ. Đây là lời tác bạch. (Thưa như vậy rồi, mỗi vị nói ba lần tự tứ. Lại nói một lần cũng như vậy. Nếu nạn sự xảy ra quá gần không đủ thời gian cùng nhau nói ba lần tự tứ thì cũng không được tác bạch với Tỳ-kheo kia, nên đi khỏi nạn sự này.)

Văn Yết-ma sai người trì công đức Y:

(Trước Tăng nên hỏi, vị nào có khả năng giữ y công. Nếu có người nói có khả năng thì nên sai.)

Đại đức Tăng lắng nghe! Nếu thời gian thích hợp đối với Tăng, Tăng đồng ý sai Tỳ-kheo tên là… giữ y công đức cho Tăng. Đây là lời tác bạch.

Đại đức Tăng lắng nghe! Tăng sai Tỳ-kheo tên là… giữ y công đức cho Tăng. Các Trưởng lão nào đồng ý Tăng sai Tỳ-kheo tên là… giữ y công đức cho Tăng thì im lặng, vị nào không đồng ý thì nói ra.

Tăng đã đồng ý sai Tỳ-kheo tên là… giữ y công đức cho Tăng rồi.

Tăng đã đồng ý vì im lặng. Việc ấy, nay tôi xin ghi nhận như vậy.

Văn yết-ma đem y cho người trì y công đức:

Đại đức Tăng lắng nghe! Tăng ở trú xứ này được chia y, nên chia cho Tăng hiện tiền. Nếu thời gian thích hợp đối với Tăng, Tăng đồng ý. Nay Tăng đem y này giao cho Tỳ-kheo tên là… Tỳ-kheo này tên là… sẽ giữ y này vì Tăng thọ làm y công đức ở trong trụ xứ này. Đây là lời tác bạch.

Đại đức Tăng lắng nghe! Tăng ở trụ xứ này được chia y, nên chia cho Tăng hiện tiền. Nay Tăng đem y này giao cho Tỳ-kheo tên là… Tỳ-kheo tên là… sẽ giữ y này thọ nhận làm y công đức cho Tăng, giữ ở trong trụ xứ này. Các Trưởng lão nào đồng ý, Tăng đem y này giao cho Tỳ-kheo tên là… Tỳ-kheo tên là… sẽ giữ y này thọ nhận làm y công đức cho Tăng, giữ ở trong trụ xứ này thì im lặng, vị nào không đồng ý thì nói ra.

Tăng đã đồng ý cho Tỳ-kheo tên là… y. Tỳ-kheo tên là… này giữ y này ở trong trụ xư này rồi, Tăng đã đồng ý vì im lặng. Việc ấy, nay tôi xin ghi nhận như vậy.

Pháp bạch Tăng thọ y công đức:

Đại đức Tăng lắng nghe! Hôm nay chúng Tăng thọ y công đức. Nếu thời gian thích hợp đối với Tăng, Tăng đồng ý. Nay Tăng hòa hợp thọ y công đức. Đây là lời tác bạch.

Pháp người thọ trì Y công đức mang Y đến trước chúng Tăng thưa:

(Đem y công đức để dài ra, từ Thượng tọa trở xuống đều lấy tay đặt lên y. Mỗi người đều nắm vào y. Sau khi đặt tay vào y rồi thì nói: Xin vâng.)

Y này chúng Tăng sẽ thọ nhận làm y công đức, y này nay chúng Tăng thọ nhận làm y công đức, y này chúng Tăng đã thọ nhận làm y công đức. (Thưa như vậy ba lần)

Pháp của người nắm Y thọ Y công đức:

(Người thọ y đưa tay nắm vào y, theo thứ tự đều nói: Người thọ y nên nói như thế này: Người thọ y đã thọ tốt đẹp. Trong này đã có nghĩ công đức gì tôi đều dự phần. Người trì y nói: Vâng! Theo như vậy đều nói kết. Sau đó chuyển y công đức đến các vị dưới, đều đưa tay nắm y và nói pháp thọ như trước, như vậy cho đến vị cuối cùng.

Phần 7: PHÁP CHIA Y

Pháp yết-ma chia phi thời Tăng được thí:

(Tăng được thí có hai trường hợp: . Đúng thời Tăng được thí là trong an cư vào mùa hạ pháp đúng thời cho nên tùy theo trụ xứ an cư mà thọ trì. . Phi thời Tăng được thí là không phải trong mùa an cư nên phải tác pháp Yết-ma chia:)

Đại đức Tăng lắng nghe! Trụ xứ này hoặc y, hoặc phi y nên chia cho Tăng hiện tiền. Nếu thời gian thích hợp đối với Tăng, Tăng đồng ý, Tăng giao cho Tỳ-kheo tên là… vị… kia sẽ giao lại cho Tăng. Đây là lời tác bạch.

Đại đức Tăng lắng nghe! Trụ xứ này hoặc y hoặc phi y nên chia cho Tăng hiện tiền. Tăng giao cho Tỳ-kheo tên là… Tỳ-kheo… kia sẽ trả lại cho Tăng. Các Trưởng lão nào đồng ý trụ xứ này, hoặc y hoặc phi y nên chia cho Tăng hiện tiền, Tăng giao cho Tỳ-kheo tên là… Tỳ-kheo kia sẽ trả lại cho Tăng thì im lặng. Vị nào không đồng ý thì nói ra.

Tăng đã đồng ý giao cho Tỳ-kheo tên là… Tỳ-kheo… kia sẽ trả lại cho Tăng rồi. Tăng đã đồng ý vì im lặng. Việc ấy, nay tôi xin ghi nhận như vậy. (Nếu trụ xứ chỉ có hai người, hay ba người được thí y vậy thì mỗi người tự hướng đến nhau nói:)

Trưởng lão nhất tâm niệm! Trụ xứ này được chia y nên chia cho Tăng hiện tiền. Nhưng trong đây không có Tăng, nên y vật này thuộc về tôi và Trưởng lão. Tôi và Trưởng lão thọ dụng. (Nói ba lần như thế. Nếu chỉ có một người thì nên tâm niệm nói:)

Trụ xứ này được chia y vật nên chia cho Tăng hiện tiền. Nhưng trong đây không có Tăng nên y vật này thuộc về tôi. Tôi nên thọ dụng

(Nói ba lần như vậy)

Pháp yết-ma chia y vật của người mất:

(Người xuất gia cùng tuân theo lệnh xuất ly, những hành động của thân đều được sự quản lý của Tăng pháp. Cho nên những đồ dùng của Tăng pháp, những đồ dùng của vị ấy sau khi chết đều thuộc của Tăng tứ phần. Ý nghĩa đồ dùng của nó giống với phi thời Tăng được thí. Lại nữa, Tăng được thí sử dụng có hai: Tùy theo trú xứ, tùy theo người. Vì thế tùy theo thí chủ xác định. Y vật của vị Tỳ-kheo qua đời theo trọng lượng hoặc khinh để phân chia. Vật trọng thì tùy theo đó mà nhập vào trụ xứ, thì Tăng tác pháp Yết-ma chia)

Pháp người nuôi bệnh mang y vật và dụng cụ của người chết đến xả cho Tăng:

Đại đức Tăng lắng nghe! Tỳ-kheo tên là… qua đời ở trụ xư này, những đồ dùng hoặc phi y đều chia cho Tăng hiện tiền ở trụ xứ này.

(Thưa như vậy ba lần)

Văn yết-ma đem y bát của người chết giao cho người nuôi bệnh:

Đại đức Tăng lắng nghe! Tỳ-kheo tên là… qua đời ở trụ xư này, những đồ dùng y bát, tọa cụ, ống đựng kim, đãy đựng y và bình đựng nước nên chia cho Tăng hiện tiền. Nếu thời gian thích hợp đối với Tăng, Tăng đồng ý. Nay Tăng giao cho Tỳ-kheo tên là… người nuôi bệnh. Đây là lời tác bạch.

Đại đức Tăng lắng nghe! Tỳ-kheo tên là… qua đời ở trụ xư này, những đồ dùng y bát, tọa cụ, ống đựng kim, đãy đựng y và bình đựng nước nên chia cho Tăng hiện tiền. Nay Tăng giao cho Tỳ-kheo tên là… người nuôi bệnh. Các Trưởng lão nào đồng ý, Tăng giao cho Tỳ-kheo tên là… người nuôi bệnh y bát, tọa cụ, ống đựng kim, đãy đựng y và bình đựng nước thì im lặng. Các vị nào không đồng ý thì nói ra.

Tăng đã đồng ý giao cho Tỳ-kheo tên là… người nuôi bệnh y bát, tọa cụ, ống đựng kim, đãy đựng y và bình đựng nước. Tăng đã đồng ý vì im lặng. Việc này nay tôi xin ghi nhận như vậy.

Văn yết-ma chia vật khinh của người đã qua đời cho Tăng hiện tiền:

Đại đức Tăng lắng nghe! Tỳ-kheo tên là… qua đời ở trụ xư này, những đồ dùng hoặc y hoặc chẳng phải y nên chia cho Tăng hiện tiền. Nếu thời gian thích hợp đối với Tăng, Tăng đồng ý. Nay Tăng giao cho tên là… Tỳ-kheo tên là… sẽ trả lại cho Tăng. Đây là lời tác bạch.

Đại đức Tăng lắng nghe! Tỳ-kheo tên là… qua đời ở trụ xư này, những đồ dùng hoặc y hoặc chẳng phải y nên chia cho Tăng hiện tiền. Nay Tăng giao cho tên là… Tỳ-kheo tên là… sẽ trả lại cho Tăng. Các Trưởng lão nào đồng ý, Tỳ-kheo tên là… qua đời ở trụ xư này, những đồ dùng hoặc y hoặc chẳng phải y nên chia cho Tăng hiện tiền. Nay Tăng cho Tỳ-kheo tên là… Tỳ-kheo tên là… sẽ trả lại cho Tăng thì im lặng. Vị nào không đồng ý thì nói ra.

Tăng đã đồng ý cho Tỳ-kheo tên là… Tỳ-kheo tên là… sẽ trả lại cho Tăng rồi. Tăng đã đồng ý vì im lặng. Việc ấy, nay tôi xin ghi nhận như vậy.

Văn chia y vật của người chết cho hai người hoặc ba người:

(Nếu trụ xư chỉ có hai người hay ba người, muốn chia y vật của người chết thì một người nên tác pháp, còn các việc khác thì không cần. Tác pháp như vầy:)

Trưởng lão nhất tâm niệm! Tỳ-kheo tên là … qua đời ở trụ xư này, những đồ dùng hoặc y hoặc chẳng phải y nên chia cho Tăng hiện tiền. Nhưng trụ xư này không có Tăng nên y vật đó thuộc về tôi và Trưởng lão. Tôi và Trưởng lão thọ dụng. (Thưa ba lần như thế).

Nếu chỉ có một người thì tâm niệm, miệng nói: Tỳ-kheo tên là… qua đời ở trụ xư này, những đồ dùng hoặc y hoặc chẳng phải y nên chia cho Tăng hiện tiền. Nhưng ở trụ xư này không có Tăng nên y vật đó thuộc về tôi. Tôi nên thọ dụng. (Nói như vậy ba lần)

Phần 8: TỊNH PHÁP Y DƯỢC

Văn chân thật tịnh trí:

Trưởng lão nhất tâm niệm! Tôi Tỳ-kheo tên là… có y dư này tác tịnh. Nay vì để thanh tịnh nên xả cho Trưởng lão làm chân thật tịnh thí.

Văn lần lượt tịnh thí:

Trưởng lão nhất tâm niệm! Tôi Tỳ-kheo tên là… có y dư này chưa tác tịnh. Vì muốn trở thành vật thanh tịnh nên tôi thí cho Trưởng lão. (Người thọ thỉnh nên nói:)

Trưởng lão nhất tâm niệm! Đại đức có y dư này chưa tác tịnh. Vì muốn trở thành vật thanh tịnh nên bố thí cho tôi. Tôi đã thọ nhận. (Thọ nhận rồi nên hỏi người kia: Đại đức thí cho ai? Vị kia nên trả lời: Tôi thí cho Tỳ-kheo tên là… (Người thọ thỉnh nên nói như vầy:)

Trưởng lão nhất tâm niệm! Đại đức có y dư này chưa tác tịnh, vì muốn trở thành vật thanh tịnh nên đã thí cho tôi. Tôi đã thọ nhận rồi. Là y… đã có. Đại đức vì vị… ấy khéo hộ trì và sử dụng tùy ý. (Người thực hiện chân thật thí nên hỏi chủ rồi, sau đó được sử dụng. Người lần lượt tịnh thí hoặc hỏi, hoặc không hỏi cứ tùy ý sử dụng.

Văn ăn đủ rồi làm phép dư thực:

(Nên mang thức ăn đến trước Tỳ-kheo kia nói:)

Đại đức! Tôi đã ăn đủ rồi, Trưởng lão xem như vậy, biết như vậy tác pháp dư thực. (Người kia nên lấy một ít ăn, ăn rồi, nói:) Tôi đã làm phép dư thực rồi (đã ăn). Đại đức nên dùng thức ăn này. (Nếu thọ thỉnh thức ăn đủ thì tác pháp dư thực cũng như vậy, chỉ xưng thọ thỉnh là khác.)

Văn dặn dò đã nhận lời mời bữa ăn trước bữa ăn sau đi vào thôn

Trưởng lão nhất tâm niệm! Tôi Tỳ-kheo tên là… đã nhận lời mời của người tên là… nhưng có duyên sự muốn vào xóm làng… đến nhà… nên thưa với Trưởng lão để biết cho.

Văn nhận thuốc bảy ngày:

(Trước đến tịnh nhân nhận rồi mang đến chỗ Đại Trưởng lão thưa:)

Trưởng lão nhất tâm niệm! Tôi Tỳ-kheo tên là… có bệnh duyên. Đây là thuốc bảy ngày, phải ngủ chung với thuốc bảy ngày để dùng.

Nay được nhận trực tiếp từ Trưởng lão. (Nói như vậy ba lần) Văn kết tịnh địa:

(Có bốn thứ tịnh địa: . Khi bắt đầu xây dựng Tăng-già-lam nên phân định chỗ. . Tăng-già-lam phân nửa có rào ngăn. . Xây cất Tănggià-lam mới mà chưa ở. Ba trường hợp này không cần Yết-ma kết. .Tăng đã ở rồi thì phải tác pháp Yết-ma kết. Nếu Tăng-già-lam cũ, nghi trước đã có tịnh địa, nên giải rồi sau mới kết lại.)

Đại đức Tăng lắng nghe! Nếu thời gian thích hợp đối với Tăng, Tăng đồng ý. Nay Tăng kết chỗ… làm tịnh địa. Đây là lời tác bạch.

Đại đức Tăng lắng nghe! Nay Tăng kết chỗ… làm tịnh địa. Các Trưởng lão nào đồng ý Tăng kết chỗ… làm tịnh địa thì im lặng. Vị nào không đồng ý thì nói ra.

Tăng đã đồng ý kết chỗ… làm tịnh địa rồi. Tăng đã đồng ý vì im lặng. Việc ấy, nay tôi xin ghi nhận như vậy.

Phần 9: PHÁP PHÒNG XÁ LINH TINH

Văn yết-ma xin làm phòng nhỏ:

Đại đức Tăng lắng nghe! Tôi Tỳ-kheo tên là… tự xin làm phòng, không có chủ tự mình làm. Nay đến Tăng xin ấn định cho chỗ này không có nạn, chỗ không có sự trở ngại. (Lần thứ hai, thứ ba cũng thưa như vậy. Tăng nên xem xét Tỳ-kheo này, nếu có thể tin tưởng thì nên cho phép, nếu không thể tin tưởng thì tất cả Tăng nên đến chỗ đó xem. Nếu xa thì sai người có thể tin tưởng đến xem rồi tác pháp Yết-ma.)

Đại đức Tăng lắng nghe! Tỳ-kheo tên là… tự xin làm phòng, không có chủ tự làm. Nay đến Tăng xin ấn định chỗ không có nạn, không có sự chướng ngại. Nếu thời gian thích hợp đối với Tăng, Tăng đồng ý. Nay Tăng ấn định cho Tỳ-kheo tên là… chỗ không có nạn sự, không có trở ngại. Đây là lời tác bạch.

Đại đức Tăng lắng nghe! Tỳ-kheo này tên là… tự xin làm phòng, không có chủ tự mình làm. Nay đến Tăng xin ấn định chỗ không có nạn sự, chỗ không có trở ngại. Nay Tăng ấn định cho Tỳ-kheo tên là… chỗ không có nạn sự, chỗ không có chướng ngại. Các Trưởng lão nào đồng ý Tăng ấn định cho Tỳ-kheo tên là… chỗ không có nạn sự, chỗ không có trở ngại thì im lặng. Vị nào không đồng ý thì nói ra.

Tăng đã đồng ý ấn định cho Tỳ-kheo tên là… chỗ không có nạn sự, chỗ không có trở ngại. Tăng đã đồng ý vì im lặng. Việc ấy, nay tôi xin ghi nhận như vậy. (Tiếp theo là Yết-ma phòng lớn, tất cả đều giống với trên đây, chỉ xưng có chủ là khác)

Văn kết phòng làm kho chứa:

Đại đức Tăng lắng nghe! Nếu thời gian thích hợp đối với Tăng, Tăng đồng ý kết phòng… làm nhà kho. Đây là lời tác bạch.

Đại đức Tăng lắng nghe! Tăng kết phòng… làm nhà kho. Các Trưởng lão nào đồng ý, Tăng kết phòng… làm nhà kho thì im lặng. Vị nào không đồng ý thì nói ra.

Tăng đã đồng ý kết phòng… làm nhà kho rồi. Tăng đã đồng ý vì im lặng. Việc ấy, nay tôi xin ghi nhận như vậy.

Văn yết-ma sai người giữ kho vật:

Đại đức Tăng lắng nghe! Nếu thời gian thích hợp đối với Tăng, Tăng đồng ý, Tăng sai Tỳ-kheo tên là… làm người giữ vật. Đây là lời tác bạch.

Đại đức Tăng lắng nghe! Tăng sai Tỳ-kheo tên là… làm người giữ vật. Các Trưởng lão nào đồng ý, Tăng sai Tỳ-kheo tên là… làm người giữ vật thì im lặng. Vị nào không đồng ý thì nói ra

Tăng đã đồng ý sai Tỳ-kheo tên là… làm người giữ vật. Tăng đã đồng ý vì im lặng. Việc ấy, nay tôi xin ghi nhận như vậy. (Sai làm suy na, sai là cơm, trái cây, tăm xỉa răng, trải ngọa cụ cho Tăng, chia cháo cho Tăng, chia bánh, chia áo tắm mưa, phân chia Sa-di giữ vườn cho Tăng như pháp. Văn yết-ma các pháp trên đều giống nhau, chỉ khác là khi xưng sự việc.)

Văn yết-ma xin Tỳ-kheo già bệnh được dùng gậy và túi đựng:

Đại đức Tăng lắng nghe! Tôi Tỳ-kheo tên là… già bệnh đi lại cần phải có gậy và túi đựng. Nay đến Tăng xin được sử dụng gậy và túi đựng. Cúi xin Tăng cho phép tôi Tỳ-kheo tên là… sử dụng gậy và túi đựng. (Thưa như vậy ba lần)

Văn yết-ma cho Tỳ-kheo già bệnh được dùng gậy và túi đựng:

Đại đức Tăng lắng nghe! Tôi Tỳ-kheo tên là… già bệnh đi lại cần phải có gậy và túi đựng. Nay đến Tăng xin được sử dụng gậy và túi đựng. Nếu thời gian thích hợp đối với Tăng, Tăng đồng ý Tỳ-kheo tên là… sử dụng gậy và túi đựng. Đây là lời tác bạch.

Đại đức Tăng lắng nghe! Tỳ-kheo tên là… già bệnh khi đi lại cần phải sử dụng gậy và túi đựng. Nay đến Tăng xin được sử dụng gậy và túi đựng. Nay Tăng cho phép Tỳ-kheo này sử dụng gậy và túi đựng. Các Trưởng lão nào đồng ý Tăng cho phép Tỳ-kheo tên là… sử dụng gậy và túi đựng thì im lặng. Vị nào không đồng ý thì nói ra.

Tăng đã đồng ý cho Tỳ-kheo tên là… sử dụng gậy và túi đựng.

Tăng đã đồng ý và im lặng. Việc ấy, nay tôi xin ghi nhận như vậy.

Văn dặn dò phi thời vào thôn xóm:

Trưởng lão nhất tâm niệm! Tôi Tỳ-kheo tên là… phi thời vào thôn xóm… đến nhà… vì công việc… Tôi thưa với Trưởng lão để Trưởng lão biết cho.

 

PHÁP YẾT MA TỲ KHEO NI

Phần 1: PHÁP KẾT GIỚI

(Tất cả các tác pháp Yết-ma kết giới đều giống với pháp Yết-ma của Đại Tăng, chỉ xưng Ni đại tỷ là khác)

Phần 2: PHÁP THỌ GIỚI

Văn yết-ma Tỳ-kheo-ni xin nuôi chúng:

(Nếu Tỳ-kheo-ni muốn độ người nên đến trong Tỳ-kheo Tăng, để lộ vai bên phải, cởi bỏ giày dép, đảnh lễ dưới chân Tăng rồi quỳ xuống đất chấp tay Yết-ma xin nuôi chúng. Tác bạch như vầy:)

Đại tỷ Tăng lắng nghe! Tôi Tỳ-kheo-ni tên là… nay đến Tăng xin độ người thọ giới cụ túc. Cúi xin Tăng cho phép tôi được độ người thọ giới cụ túc. (Thưa như vậy ba lần)

Văn yết-ma cho nuôi chúng:

Đại tỷ Tăng lắng nghe! Tỳ-kheo-ni tên là… nay đến Tăng xin độ người thọ giới cụ túc. Nếu thời gian thích hợp đối với Tăng, Tăng đồng ý. Nay Tăng cho phép Tỳ-kheo-ni tên là… độ người cho thọ giới cụ túc. Đây là lời tác bạch.

Đại tỷ Tăng lắng nghe! Tỳ-kheo-ni này tên là… nay đến Tăng xin độ người xuất gia cho thọ giới cụ túc. Nay Tăng cho phép Tỳ-kheo-ni tên là… được độ người thọ giới cụ túc. Các Đại tỷ nào đồng ý Tăng cho phép Tỳ-kheo-ni tên là… độ người thọ giới cụ túc thì im lặng. Vị nào không đồng ý thì nói ra.

Tăng đã đồng ý cho Tỳ-kheo-ni tên là… độ người thọ giới Cụ túc rồi. Tăng đã đồng ý vì im lặng. Việc ấy, nay tôi xin ghi nhận như vậy.

Văn độ Sa-di-ni:

(Nếu muốn xuống tóc cho người ở trong chùa nên thưa tất cả Tăng biết. Nếu Tăng không hòa hợp nên đi từng phòng thưa để cho các ngài biết. Nếu Tăng hòa nên thưa rồi sau mới cho xuống tóc, nên thưa như vầy.)

Đại tỷ lắng nghe! Người này tên là… muốn theo vị Tỳ-kheo tên là… cầu xuất gia. Nếu thời gian thích hợp đối với Tăng, Tăng đồng ý cho người tên là… xuất gia. Đây là lời tác bạch. (Thưa rồi cho xuống tóc. Nếu muốn xuất gia ở trong chùa thì nên thưa với tất cả Tăng. Nếu Tăng không hòa hợp thì nên đi từng phòng thưa để cho quý thầy biết. Nếu Tăng hòa hợp thì nên tác bạch rồi sau đó cho xuất gia, tác bạch:)

Đại tỷ Tăng lắng nghe! Người có tên là… này muốn theo vị hiệu là… cầu xuất gia. Nếu thời gian thích hợp đối với Tăng, Tăng đồng ý cho người này xuất gia. Đây là lời tác bạch. (Thưa như vậy rồi sau mới cho xuất gia. Hướng dẫn họ mặc cà sa để lộ vai bên phải, cởi bỏ giày dép, quỳ gối xuống đất chấp tay dạy họ thưa:)

Con tên là… quy y Phật, quy y Pháp và quy y Tăng. Nay con đã theo Phật xuất gia, Hòa thượng Ni hiệu là… Đức Như Lai bậc Vô Sở Trước Đẳng Chánh Giác là Thế Tôn của con. (Lần thứ hai, thứ ba cũng thưa như vậy. Trao giới cho họ)

1. Suốt đời không được sát sinh là giới của Sa-di, ngươi có thể giữ được không?

Đáp: Được.

2. Suốt đời không được trộm cắp là giới của Sa-di, ngươi có thẻ giữ được không?

Đáp: Được.

3. Suốt đời không được dâm dục là giới của Sa-di, ngươi có thể giữ được không?

Đáp: Được.

4. Suốt đời không được nói dối là giới của Sa-di, ngươi có thể giữ được không?

Đáp: Được.

5. Suốt đời không được uống rượu là giới của Sa-di, ngươi có thể giữ được không?

Đáp: Được.

6. Suốt đời không được đeo tràng hoa, xức dầu thơm trên thân là giới của Sa-di, ngươi có thể giữ được không?

Đáp: Được.

7. Suốt đời không được ca múa xướng hát, cũng không được cố ý đến xem nghe là giới của Sa-di, ngươi có thể giữ được không?

Đáp: Được.

8. Suốt đời không được nằm ngồi trên giường cao rộng lớn là giới của Sa-di, ngươi có thể giữ được không?

Đáp: Được.

9. Suốt đời không được ăn phi thời là giới của Sa-di, ngươi có thể giữ được không?

Đáp: Được.

10. Suốt đời không được cầm nắm sinh tượng, vàng bạc, vật báu là giới của Sa-di, ngươi có thể giữ được không?

Đáp: Được.

Đây là mười giới của Sa-di suốt đời không được phạm, ngươi có thể giữ được không?

Đáp: Có thể.

Ngươi đã thọ giới rồi, nên cúng dường Tam bảo: Phật, Pháp, Tăng, nên tu tập ba nghiệp, tọa thiền, tụng kinh, làm việc cho chúng. (Đồng nữ mười tám tuổi cho phép hai năm học giới, đủ hai mươi tuổi đến trong hai bộ Tăng thọ đại giới. Nếu mười tuổi mà đã từng có chồng cho phép hai năm học giới, khi đủ mười hai tuổi cho thọ đại giới. Nên cho hai năm học giới như sau:)

Văn Thức-xoa-ma-na thọ sáu pháp:

(Sa-di-ni nên đến trong chúng Tỳ-kheo-ni để lộ vai áo bên phải, cởi bỏ giày dép, đảnh lễ Tỳ-kheo Ni Tăng rồi quỳ gối phải xuống đất, chấp tay thưa như vậy:)

Đại tỷ Tăng lắng nghe! Con Sa-di tên là… nay đến Tăng xin hai năm học giới, Hòa thượng Ni hiệu là… Cúi xin Tăng cứu độ con, rủ lòng thương xót cho con hai năm học giới. (Lần thứ hai, lần thứ ba cũng thưa như vậy. Nếu dẫn Sa-di đến chỗ không nghe mà chỉ thấy rồi sai một người trong chúng có khả năng Yết-ma được như trên, tác bạch:)

Đại tỷ Tăng lắng nghe! Sa-di-ni này tên là… nay đến Tăng xin hai năm học giới, Hòa thượng Ni hiệu là… Nếu thời gian thích hợp đối với Tăng, Tăng đồng ý. Nay Tăng cho Sa-di-ni tên là… hai năm học giới, Hòa thượng Ni hiệu là… Đây là lời tác bạch.

Đại tỷ Tăng lắng nghe! Sa-di-ni này tên là… nay đến Tăng xin hai năm học giới, Hòa thượng Ni hiệu là… Nay Tăng cho Sa-di-ni tên là… hai năm học giới, Hòa thượng Ni hiệu là… Các Đại tỷ nào đồng ý Tăng cho Sa-di-ni tên là… hai năm học giới, Hòa thượng Ni hiệu là… thì im lặng. Vị nào không đồng ý thì nói ra. Đây là lần Yết-ma thứ nhất. (Thưa ba lần như vậy)

Tăng đã đồng ý cho Sa-di-ni tên là… hai năm học giới, Hòa thượng Ni hiệu là… Tăng đã đồng ý vì im lặng. Việc ấy, nay tôi xin ghi nhận như vậy (Nên cho sáu pháp như vậy.)

Người kia hãy lắng nghe! Đức Như Lai bậc Vô Sở Trước Đẳng Chánh Giác nói sáu pháp:

1. Không được phạm hạnh bất tịnh, hành pháp dâm dục. Nếu Thức-xoa-ma-na hành pháp dâm dục thì chẳng phải Thức-xoa-ma-na, chẳng phải Thích chủng nữ. Nếu cùng với người nam có tâm nhiễm ô hai thân xúc chạm nhau thì giới bị thuyết nên phải thọ giới lại. Trong giới này suốt đời không được phạm, ngươi có giữ được không?

Đáp: Được.

2. Không được trộm cắp cho đến một lá cây, cộng cỏ. Nếu Thứcxoa-ma-na lấy của người năm tiền hoặc hơn năm tiền, tự mình lấy hoặc dạy người lấy, tự mình phá hoặc dạy người phá, tự mình chặt hoặc dạy người chặt, hoặc đốt, hoặc chôn, hoặc làm cho hoại sắc. Người ấy chẳng phải Thức-xoa-ma-na, chẳng phải Thích chủng nữ. Nếu lấy dưới năm tiền thì bị khuyết giới nên cho thọ giới lại. Trong giới này suốt đời không được phạm, ngươi có thể giữ được không?

Đáp: Được.

3. Không được cố ý giết chúng sinh cho đến loài kiến. Nếu Thứcxoa-ma-na cố ý tự tay giết người, hoặc cầm dao đưa cho người, dạy chết, khuyến khích sự chết, khen ngợi sự chết; hoặc cho người uống thuốc độc, hoặc làm đọa thai, hoặc nguyền rủa, dùng bùa chú, hoặc tự làm hoặc dạy người làm thì chẳng phải Thức-xoa-ma-na, chẳng phải Thích chủng nữ. Nếu giết những loài súc sinh không thể biến hóa thì bị khuyết giới nên cho thọ giới lại. Trọng giới này suốt đời không được phạm, ngươi có thể giữ được không?

Đáp: Được.

4. Không được nói dối cho đến nói đùa giỡn. Nếu Thức-xoa-mana chẳng phải đều chân thật, chính mình không có mà tự nói: Tôi đắc pháp thượng nhân, nói đạt được thiền, đạt được giải thoát, đạt được Tam-muội chánh thọ, đắc quả Tu-đà-hoàn, đắc quả Tư-đà-hàm, đắc quả A na hàm, đắc quả A-la-hán. Rồi nói, trời, rồng, quỷ thần đến cúng dường tôi thì người ấy chẳng phải Thức-xoa-ma-na, chẳng phải Thích chủng nữ. Nếu ở trong chúng cố tình nói dối thì bị khuyết giới nên cho thọ lại. Trong giới này suốt đời không được phạm, ngươi có thể giữ được không?

Đáp: Được.

5. Không được ăn phi thời. Nếu Thức-xoa-ma-na ăn phi thời thì phạm giới nên cho thọ giới lại. Trong giới này suốt đời không được phạm, ngươi có thể giữ được không?

Đáp: Được.

6. Không được uống rượu. Nếu Thức-xoa-ma-na uống rượu thì phạm giới nên cho thọ giới lại. Trong giới này suốt đời không được phạm, ngươi có thể giữ được không?

Đáp: Được.

Thức-xoa-ma-na nên học tất cả giới của Ni, trừ ra vì quá thực của Tỳ-kheo-ni nên tự nhận thức ăn để ăn.

Pháp Thức-xoa-ma-na thọ đại giới:

(Nếu Thức-xoa-ma-na học giới xong, đủ hai mươi tuổi hoặc đủ mười hai tuổi thì cho thọ đại giới. Trước hết đến trong Tỳ-kheo Ni Tăng thỉnh Hòa thượng. Thưa như vầy:)

Đại tỷ nhất tâm niệm! Con tên là… cầu A Di làm Hòa thượng. Cúi xin A Di làm Hòa thượng của con. Con nương theo A Di nên được thọ đại giới. (Lần thứ hai, thứ ba cũng thưa như vậy. Hòa thượng Ni nên đáp:) Vâng. (Ngươi nên thọ giới như vậy. Dẫn người thọ giới đến chỗ không nghe chỉ thấy, nên sai người làm giáo thọ sư thì ở trong ấy giới sư nên hỏi như vầy:)

Trong chúng này ai có khả năng làm giáo thọ sư cho người tên là… (Nếu có người trả lời! Tôi có thể. Khi ấy giới sư liền tác bạch.)

Đại tỷ Tăng lắng nghe! Người này tên là… đến Hòa thượng Ni hiệu là… cầu thọ đại giới. Nếu thời gian thích hợp đối với Tăng, Tăng đồng ý vị tên là… làm giáo thọ sư. Đây là lời tác bạch. (Giáo thọ sư nên đến nói với người thọ giới.)

Đây là y An-đà-hội, Uất-đa-la-tăng, Tăng già-lê, Tăng-kỳ-chi, Phá-kiên và bát. Y Bát này ông đã có chưa?

Đáp: Có.

Thiện nữ hãy lắng nghe! Nay chính là lúc cần sự chân thành. Nay ta hỏi ngươi, có thì nói có, không thì nói không:

Ngươi không phạm biên tội chứ? Ngươi không phạm tịnh hạnh Tỳkheo chứ? Ngươi không phải với tâm giặc thọ giới chứ? Ngươi không phá nội ngoại đạo chứ? Ngươi không phải huỳnh môn chứ? Ngươi không giết cha, giết mẹ, giết chân nhân A-la-hán chứ? Ngươi không phá Tăng chứ? Ngươi không với tâm ác làm thân Phật chảy máu chứ? Ngươi không phải phi nhân chứ? Ngươi không phải là người hai căn chứ? Ngươi tên gì? Hòa thượng của ngươi là ai? Ngươi đủ hai mươi tuổi chưa? Y bát có đầy đủ không? Cha mẹ và phu chủ có cho phép ngươi không? Ngươi không phải là người mắc nợ chứ? Ngươi không phải là nô tỳ chứ? Ngươi là người nữ chứ? Người nữ có những căn bệnh hủi, ung thư, lác trắng, càn tiêu, điên cuồng, hai căn, hai đường hợp lại, đường đại tiểu tiện thường rỉ chảy, đàm dãi thường chảy ra. Ngươi có những căn bệnh như vậy không? (Nếu trả lời là không thì nên nói:) Như ta vừa hỏi ngươi. Lát nữa ở trong Tăng cũng sẽ hỏi ngươi như vậy. Vừa rồi ngươi trả lời với ta như thế nào thì ở trong Tăng ngươi cũng trả lời như vậy. (Vị giáo thọ sư nói như vậy rồi, trở vào trong chúng với oai nghi như thường lệ, đứng chỗ vừa tầm tay trước chúng, tác bạch.)

Đại tỷ Tăng lắng nghe! Người này tên là… đến Hòa thượng Ni hiệu là… cầu thọ đại giới. Nếu thời gian thích hợp đối với Tăng, Tăng đồng ý. Tôi đã hỏi xong, cho phép họ vào. Đây là lời tác bạch. (Người kia nên nói họ vào. Khi đương sự vào rồi, cầm y bát cho họ, bảo họ đảnh lễ Tăng, quỳ trước giới sư, chấp tay bảo họ tác bạch xin)

Đại tỷ Tăng lắng nghe! Con tên là… theo Hòa thượng Ni hiệu là…

cầu thọ đại giới. Nay con đến Tăng xin thọ đại giới, Hòa thượng Ni hiệu là… Cúi xin Tăng thương xót cứu độ con. (Thưa ba lần như vậy rồi, trong đó vị giới sư nên tác bạch:)

Đại tỷ Tăng lắng nghe! Người này tên là… theo Hòa thượng Ni hiệu là… cầu thọ đại giới. Nay người này đến Tăng xin thọ đại giới, Hòa thượng Ni hiệu là… Nếu thời gian thích hợp đối với Tăng, Tăng đồng ý. Tôi đã hỏi các nạn sự. Đây là lời tác bạch.

(Vị Yết-ma hỏi giới tử) Thiện nam hãy lắng nghe! Nay chính là lúc chân thành, cần nói lên sự thật. Nay ta hỏi ngươi. Nếu có thì ngươi trả lời có, không thì trả lời không. Ngươi không phạm biên tội chứ? Ngươi không phạm tịnh hạnh Tỳ-kheo chứ? Ngươi không phải với tâm giặc thọ giới chứ? Ngươi không phạm tội phá nội ngoại đạo chứ? Ngươi chẳng phải huỳnh môn chứ? Ngươi không giết cha, giết mẹ, giết chân nhân A-la-hán chứ? Ngươi không phá Tăng chứ? Ngươi không phải với tâm ác làm thân Phật chảy máu chứ? Ngươi không phải phi nhân chứ? Ngươi chẳng phải súc sinh chứ? Ngươi không phải người hai căn chứ? Ngươi tên gì? Hòa thượng của ngươi hiệu gì? Ngươi đủ hai mươi tuổi chưa? Y bát đã đủ chưa? Cha mẹ và phu chủ có cho phép ngươi không? Ngươi không mắc nợ ai chứ? Ngươi chẳng phải nô tỳ chứ? Ngươi là người nữ chứ? Người nữ có các chứng bệnh: hủi, ung thư, lác trắng, càn tiêu, điên cuồng, hai căn, hai đường hợp lại, đường đại tiểu tiện thường rỉ chảy, đàm dãi thường chảy ra. Ngươi có những căn bệnh như vậy không? (Nếu đương sự trả lời không nên tác bạch.)

Đại tỷ Tăng lắng nghe! Người này tên là… theo Hòa thượng hiệu là… cầu thọ đại giới. Nay người… này đến Tăng xin thọ giới, Hòa thượng Ni hiệu là… Người này tự nói thanh tịnh không có các nạn sự, đủ hai mươi tuổi, y bát đầy đủ. Nếu thời gian thích hợp đối với Tăng, Tăng đồng ý. Nay Tăng cho người tên là… thọ đại giới, Hòa thượng Ni hiệu là… Đây là lời tác bạch.

Đại đức Tăng lắng nghe! Người này tên là… theo Hòa thượng Ni hiệu là… cầu thọ đại giới. Nay người… này đến Tăng xin thọ đại giới, Hòa thượng Ni hiệu là. Người tên là… tự nói thanh tịnh không có các nạn sự, đủ hai mươi tuổi, y bát đầy đủ. Nay Tăng cho người tên… này thọ đại giới, Hòa thượng Ni hiệu là… Các Đại tỷ nào đồng ý, nay Tăng cho người tên là… thọ đại giới, Hòa thượng Ni hiệu là… thì im lặng. Vị nào không đồng ý thì nói ra. Đây là lần Yết-ma thứ nhất. (Thưa ba lần như vậy).

Tăng đã đồng ý cho người tên là… thọ đại giới, Hòa thượng Ni hiệu là… Tăng đã đồng ý vì im lặng. Việc ấy, nay tôi xin ghi nhận như vậy.

Pháp Ni đến trong Tỳ-kheo Tăng thọ đại giới.

(Người thọ đại giới kia cùng Tỳ-kheo Ni Tăng đến trong Tỳ-kheo Tăng đảnh lễ dưới chân Tăng rồi, quỳ gối phải xuống đất chấp tay thưa:)

Đại đức Tăng lắng nghe! Con tên là… theo Hòa thượng hiệu là… cầu thọ đại giới. Con tên là… nay đến Tăng xin thọ đại giới, Hòa thượng hiệu là… Cúi xin Tăng rủ lòng thương xót cứu độ con. (Thưa ba lần như vậy. Ở trong đây giới sư hỏi các nạn sự)

Đại đức Tăng lắng nghe! Người này tên là… theo Hòa thượng Ni hiệu là… cầu thọ đại giới. Nay người này đến Tăng xin thọ đại giới, Hòa thượng Ni hiệu là… Nếu thời gian thích hợp đối với Tăng, Tăng đồng ý. Tôi hỏi các nạn sự. Đây là lời tác bạch.

Thiện nữ hãy lắng nghe! Nay chính là lúc chân thành, cần nói lên sự thật. Nay ta hỏi ngươi. Nếu có thì ngươi trả lời có, không thì trả lời không.

Ngươi không phạm biên tội chứ? Ngươi không phạm tịnh hạnh Tỳkheo chứ? Ngươi không phải với tâm giặc thọ giới chứ? Ngươi không phá nội ngoại đạo chứ? Ngươi chẳng phải huỳnh môn chứ? Ngươi không giết cha, giết mẹ, giết chân nhân A-la-hán chứ? Ngươi không phá Tăng chứ? Ngươi không phải với tâm ác làm thân Phật chảy máu chứ? Ngươi không phải phi nhân chứ? Ngươi chẳng phải súc sinh chứ? Ngươi không phải người hai căn chứ? Ngươi tên gì? Hòa thượng của ngươi hiệu gì? Ngươi đủ hai mươi tuổi chưa? Y bát đã đủ chưa? Cha mẹ và phu chủ có cho phép ngươi không? Ngươi không mắc nợ ai chứ? Ngươi chẳng phải nô tỳ chứ? Ngươi là người nữ chứ? Người nữ có các chứng bệnh: hủi, ung thư, lác trắng, càn tiêu, điên cuồng, hai căn, hai đường hợp lại, đường đại tiểu tiện thường rỉ chảy, đàm dãi thường chảy ra. Ngươi có những căn bệnh như vậy không? ( Đương sự trả lời không, nên hỏi:)

Ngươi đã học giới chưa? Có thanh tịnh không? (Đương sự trả lời là đã học giới và thanh tịnh, nên hỏi các Tỳ-kheo-ni khác:)

Ngươi tên là… đã học giới chưa? Có thanh tịnh không? (Nếu trả lời là đã học giới và thanh tịnh thì nên tác bạch:)

Đại đức Tăng lắng nghe! Người này tên là… theo Hòa thượng Ni hiệu là cầu thọ đại giới. Nay người tên… này đến Tăng xin thọ đại giới, Hòa thượng Ni hiệu là… Người này tự nói thanh tịnh, không có các nạn sự, đủ hai mươi tuổi, y bát đầy đủ đã học giới và thanh tịnh. Nếu thời gian thích hợp đối với Tăng, Tăng đồng ý. Nay Tăng cho người tên là… thọ đại giới, Hòa thượng Ni hiệu là… Đây là lời tác bạch.

Đại đức Tăng lắng nghe! Người này tên là… theo Hòa thượng Ni hiệu là… cầu thọ đại giới. Nay người… này đến Tăng xin thọ đại giới, Hòa thượng Ni hiệu là… Người này tự nói thanh tịnh, không có các nạn sự, đủ hai mươi tuổi, y bát đầy đủ, đã học giới và thanh tịnh. Nay Tăng cho người… này thọ đại giới, Hòa thượng Ni hiệu là… Các Trưởng lão nào đồng ý Tăng cho người tên là… thọ đại giới, Hòa thượng Ni hiệu là… thì im lặng. Vị nào không đồng ý thì nói ra. Đây là lần Yết-ma thứ nhất. (Thưa ba lần như vậy)

Tăng đã đồng ý cho người tên là… thọ đại giới, Hòa thượng Ni hiệu là… Tăng đã đồng ý vì im lặng. Việc ấy, nay tôi xin ghi nhận như vậy.

Thiện nữ hãy lắng nghe! Đức Như Lai bậc Vô Sở Trước Đẳng Chánh Giác nói tám pháp Ba-la-di. Nếu Tỳ-kheo-ni nào phạm thì chẳng phải là Tỳ-kheo-ni, chẳng phải Thích chủng nữ.

1. Không được làm hạnh bất tịnh, hành pháp dâm dục. Nếu Tỳkheo-ni nào làm hạnh bất tịnh, hành pháp dâm dục, cho đến cùng vơi loài súc sinh thì vị ấy chẳng phải là Tỳ-kheo-ni, chẳng phải Thích chủng nữ. Trong giới này suốt đời không được phạm. Ngươi có thể giữ được không?

Đáp: Được.

2. Không được trộm cắp cho đến cộng cỏ lá cây. Nếu Tỳ-kheo-ni nào ăn cắp lấy của người năm tiền hoặc hơn năm tiền, hoặc tự lấy hoặc dạy người khác lấy, hoặc tự đoạn hoặc dạy người khác đoạn, hoặc tự phá hoặc dạy người khác phá, hoặc đốt, hoặc chôn, hoặc làm hoại sắc thì vị ấy chẳng phải Tỳ-kheo-ni, chẳng phải Thích chủng nữ. Trong giới này suốt đời không được phạm, ngươi có thể giữ được không?

Đáp: Được

3. Không được đoạn mạng sống của chúng sinh cho đến loài kiến. Nếu Tỳ-kheo-ni nào tự tay giết người, cầm dao đưa cho người, hoặc hướng dẫn cách chết, khen ngợi sự chết, khuyến khích sự chết, cho uống thuốc độc, làm đọa thai, nguyền rủa, dùng chú thuật, hoặc tự làm, dùng phương tiện dạy người làm thì vị ấy chẳng phải Tỳ-kheo-ni, chẳng phải Thích chủng nữ. Trong giới này, suốt đời không được phạm, ngươi có thể giữ được không?

Đáp: Được.

4. Không được nói dối cho đến nói đùa giỡn. Tỳ-kheo-ni nào không chân thật, chẳng phải mình có chứng đắc mà tự nói: Tôi đạt được pháp thượng nhân, đắc thiền, đắc giải thoát Tam-muội chánh thọ, đắc quả Tu-đà-Hoàn, đắc quả Tư-đà-hàm, đắc quả A-na-hàm, đắc quả Ala-hán. Rồi nói, trời, rồng, quỷ thần đến cúng dường tôi, thì vị ấy chẳng phải Tỳ-kheo-ni, chẳng phải Thích chủng nữ. Trong giới này suốt đời không được phạm, ngươi có thể giữ được không?

Đáp: Được.

5. Không được hai thân xúc chạm nhau, cho đến cùng với loài súc sinh. Nếu Tỳ-kheo-ni nào có tâm nhiễm ô cùng với người nam có tâm nhiễm ô hai thân xúc chạm nhau từ nách trở xuống, từ đầu gối trở lên, hoặc sờ, hoặc bóp, hoặc rờ xuôi, rờ ngược, hoặc kéo, hoặc xô, hoặc bồng lên, hoặc để xuống, hoặc chà nhanh, hoặc chà chậm thì vị ấy chẳng phải Tỳ-kheo-ni, chẳng phải Thích chủng nữ. Trong giới này suốt đời không được phạm, ngươi có thể giữ được không?

Đáp: Được.

6. Không được phạm tám việc, cho đến cùng với loài súc sinh. Nếu Tỳ-kheo-ni nào có tâm nhiễm ô cho người nam có tâm nhiễm ô nắm tay, nắm y, cho đến nơi chỗ vắng, đứng nơi chỗ vắng, nói chuyện nơi chỗ vắng, hoặc cùng đi, hoặc hai thân gần sát nhau, hoặc cùng hẹn. Phạm tám việc này thì vị ấy chẳng phải Tỳ-kheo-ni, chẳng phải Thích chủng nữ. Trong giới này suốt đời không được phạm, ngươi có thể giữ được không?

Đáp: Được.

7. Không được che giấu tội của người khác, cho đến Đột-kiết-la ác thuyết. Tỳ-kheo-ni nào biết Tỳ-kheo-ni phạm Ba-la-di mà không tự cử tội cũng không bạch Tăng, không nói với ai để biết. Sau đó, vào một thời gian khác, Tỳ-kheo-ni này thôi tu, hoặc bị đuổi, hoặc không cho sống chung, hoặc vào ngoại đạo. Rồi vị ấy nói: Trước đây tôi biết người này phạm tội như vậy, như vậy thì vị ấy chẳng phải Tỳ-kheo-ni, chẳng phải Thích chủng nữ vì che giấu trọng tội của người khác. Trong giới này suốt đời không được phạm, ngươi có giữ được không?

Đáp: Được.

8. Không được tùy tiện theo Tỳ-kheo bị cử tội, cho đến Sa-di. Nếu Tỳ-kheo-ni nào biết Tỳ-kheo bị Tăng cử tội đúng pháp, đúng Tỳni, đúng với lời Phật dạy, phạm oai nghi chưa sám hối, không tác pháp cộng trú mà tùy thuận theo Tỳ-kheo kia để nói chuyện. Tỳ-kheo-ni phải can gián Tỳ-kheo-ni này: Đại tỷ! Tỳ-kheo kia bị Tăng cử tội đúng như pháp, đúng Tỳ-ni, đúng lời Phật dạy, phạm oai nghi chưa sám hối, không tác pháp cộng trú, cô đừng tùy thuận theo Tỳ-kheo kia nói chuyện. Khi Tỳ-kheo-ni kia can gián Tỳ-kheo-ni này mà vẫn kiên trì không bỏ, các Tỳ-kheo-ni nên can gián cho đến ba lần để bỏ việc này. Cho đến ba lần can gián bỏ thì tốt, nếu không bỏ thì vị ấy chẳng phải Tỳ-kheo-ni, chẳng phải Thích chủng nữ, vì đã tùy thuận theo kẻ bị cử tội. Trong giới này suốt đời không được phạm, ngươi có thể giữ được không?

Đáp: Được.

Thiện nữ hãy lắng nghe! Đức Như Lai bậc Vô Sở Trước Đẳng Chánh Giác nói pháp tứ y. Tỳ-kheo-ni nương nơi đây xuất gia thọ đại giới. Đó là pháp của Tỳ-kheo-ni.

1. Nương nơi y phấn tảo xuất gia thọ đại giới là pháp của Tỳkheo-ni. Trong điều này suốt đời ngươi có thể giữ được không?

Đáp: Được

Nếu được lợi dữơng, hoặc đàn-việt cúng y, hoặc được y rẻ, hoặc được y cắt rọc may thành thì nhận.

2. Nương nơi việc khất thực xuất gia thọ đại giới là pháp của Tỳkheo-ni. Trong điều này suốt đời ngươi có thể thọ trì được không?

Đáp: Được.

Nếu được lợi dưỡng, hoặc Tăng sai thọ trai, hoặc đàn-việt cúng thức ăn vào những ngày mồng tám, mười lăm, mồng một, hoặc chúng Tăng thường thọ trai, hai đàn-việt mời thì nên nhận.

3. Nương ở dưới gốc cây để ngồi, xuất gia thọ đại giới là pháp của Tỳ-kheo-ni. Trong điều này suốt đời ngươi có thể giữ được không?

Đáp: Được.

Nếu được lợi dưỡng hoặc phòng riêng, lầu gác, phòng nhỏ, hang đá, hai phòng có một cửa thông thì nên nhận.

4. Nương nơi thuốc hư nát xuất gia thọ đại giới là pháp của Tỳkheo-ni. Trong điều này suốt đời ngươi có thể giữ được không?

Đáp: Được.

Nếu được lợi dưỡng như tô, dầu, sinh tô, mạch, đường phèn thì nên nhận.

Ngươi đã thọ giới rồi, bạch tứ Yết-ma như pháp thành tựu, đúng cách, Hòa thượng như pháp, A-xà-lê như pháp có đầy đủ hai bộ Tăng. Ngươi nên khéo thọ nhận giáo pháp, siêng năng cúng dường Phật, Pháp, Tăng, Hòa thượng A-xà-lê dạy bảo ngươi tất cả những điều như pháp, nhất quyết không được chống trái. Nên học hỏi, tụng kinh, siêng cầu phương tiện mới ở trong Pháp Phật đắc quả Tu-đà-hoàn, đắc quả Tư-đàhàm, quả A na hàm và quả A-la-hán thì tâm xuất gia ban đầu của ngươi mới không uổng phí, quả báo không bị đoạn dứt. Còn những gì ngươi chưa biết nên đến hỏi Hòa thượng, A-xà-lê (Khi giải tán, bảo người thọ giới đi trước)

Phần 3: PHÁP TRỪ TỘI

Pháp sám hối tội Tăng tàn của Ni:

(Vì Ni là người nữ yếu đuối, sự việc gì cũng nhờ vào duyên mạnh mẽ, nên cho họ số ngày. Nếu như họ tự còn giữ việc ác, thời tự hoại và hoại người khác thì phạm tội không nhẹ.) Ni che giấu tội Tăng tàn chỉ tăng thêm tự tội, nửa tháng hành Ma-na-đỏa, không riêng pháp che giấu điều phục. Ni sám hối Tăng tàn cần phải ở trong hai bộ Tăng tác Yết-ma Ma-na-đỏa. Cả hai bộ đại Tăng và Ni phải có đủ bốn người. Nếu tác pháp Yết-ma xuất tội hai bộ đại Tăng và Ni mỗi bộ phải đủ hai mươi người, không được thiếu.)

Văn yết-ma xin Ma-na-đỏa:

(Tỳ-kheo-ni phạm tội Tăng tàn, nên ở trong Tăng nửa tháng hành Ma-na-đỏa. Khi hành Ma-na-đỏa nên đến trong hai bộ Tăng để lộ vai bên phải, cởi bỏ giày dép, đảnh lễ dưới chân Tăng rồi quỳ gối xuống đất, chấp tay tác bạch xin:)

Đại đức Tăng lắng nghe! Con Tỳ-kheo-ni tên là… phạm… chừng ấy tội Tăng tàn, nay đến hai bộ Tăng xin nửa tháng Ma-na-đỏa. Cúi xin Tăng rủ lòng thương xót cho con nửa tháng Ma-na-đỏa. (Thưa ba lần như vậy)

Văn yết-ma cho Ma-na-đỏa:

Đại đức Tăng lắng nghe! Tỳ-kheo-ni này tên là… phạm… chừng ấy tội Tăng tàn, nay đến hai bộ Tăng xin nửa tháng Ma-na-đỏa. Nếu thời gian thích hợp đối với Tăng, Tăng đồng ý. Nay Tăng cho Tỳ-kheo-ni tên là… nửa tháng Ma-na-đỏa. Đây là lời tác bạch.

Đại đức Tăng lắng nghe! Tỳ-kheo này tên là… phạm… chừng ấy tội Tăng tàn, nay đến hai bộ Tăng xin nửa tháng Ma-na-đỏa. Nay Tăng cho Tỳ-kheo-ni tên là… nửa tháng Ma-na-đỏa. Các Trưởng lão nào đồng ý Tăng cho Tỳ-kheo-ni tên là… nửa tháng Ma-na-đỏa thì im lặng. Vị nào không đồng ý thì nói ra. Đây là lần tác bạch thứ nhất. (Thưa ba lần như vậy)

Tăng đã đồng ý cho Tỳ-kheo-ni tên là… nửa tháng Ma-na-đỏa. Tăng đã đồng ý vì im lặng. Việc ấy, nay tôi xin ghi nhận như vậy. Tỳkheo-ni hành pháp Ma-na-đỏa giống như pháp của Đại Tăng ở trên, chỉ khác là hàng ngày đến trong hai bộ Tăng tác bạch như vậy.)

Đại đức Tăng xin lắng nghe! Con Tỳ-kheo-ni tên là… phạm… chừng ấy tội Tăng tàn, đã đến hai bộ Tăng xin nửa tháng Ma-na-đỏa. Tăng đã cho con nửa tháng Ma-na-đỏa. Con Tỳ-kheo-ni tên là… đã thực hành qua chừng ấy ngày, còn có chừng ấy ngày nữa. Bạch Đại đức Tăng để quý vị biết con đang hành Ma-na-đỏa.

Văn yết-ma xin xuất tội:

(Tỳ-kheo-ni hành nửa tháng Ma-na-đỏa, nên đến trong hai bộ Tăng tác bạch xin như vậy.)

Đại đức Tăng lắng nghe! Con Tỳ-kheo-ni tên là… phạm… chừng ấy tội Tăng tàn, đã đến hai bộ Tăng xin nửa tháng Ma-na-đỏa. Tăng đã cho con nửa tháng Ma-na-đỏa. Con đã ở trong hai bộ Tăng hành nửa tháng Ma-na-đỏa xong, nay con đến Tăng xin Yết-ma xuất tội. Cúi xin Tăng rủ lòng thương xót cho con Yết-ma xuất tội. (Thưa ba lần như vậy.)

Văn yết-ma cho xuất tội:

Đại đức Tăng lắng nghe! Tỳ-kheo-ni tên là… phạm… chừng ấy tội Tăng tàn, đã đến hai bộ Tăng xin nửa tháng Ma-na-đỏa, Tỳ-kheo-ni… này đã ở trong hai bộ Tăng hành nửa tháng Ma-na-đỏa xong, nay đến Tăng xin Yết-ma xuất tội. Nếu thời gian thích hợp đối với Tăng, Tăng đồng ý. Nay Tăng cho Tỳ-kheo-ni tên là… Yết-ma xuất tội. Đây là lời tác bạch.

Đại đức Tăng lắng nghe! Tỳ-kheo-ni… này… phạm chừng ấy tội Tăng tàn, đã đến hai bộ Tăng xin nửa tháng Ma-na-đỏa. Tăng đã cho Tỳ-kheo-ni tên là… nửa tháng Ma-na-đỏa. Tỳ-kheo-ni… này đã ở trong hai bộ Tăng hành nửa tháng Ma-na-đỏa xong, nay đến Tăng xin Yếtma xuất tội. Nay Tăng đã cho Tỳ-kheo-ni tên là… Yết-ma xuất tội. Các Trưởng lão nào đồng ý nay Tăng cho Tỳ-kheo-ni tên là… Yết-ma xuất tội thì im lặng. Vị nào không đồng ý thì nói ra. Đây là lần Yết-ma thứ nhất. (Lần thứ hai, thứ ba cũng thưa như vậy.)

Tăng đã đồng ý cho Tỳ-kheo-ni tên là… Yết-ma xuất tội rồi. Tăng đã đồng ý vì im lặng. Việc ấy, nay tôi xin ghi nhận như vậy.

Phần 4: PHÁP THUYẾT GIỚI

(Pháp thuyết giới của Tỳ-kheo-ni hoàn toàn giống với pháp của đại Tăng)

Văn Ni Tăng yết-ma sai người thỉnh giáo thọ:

(Mỗi nửa tháng Ni Tăng phải nên đến trong đại Tăng thỉnh giáo giới. Cho nên nay cần phải sai người sứ này. Nếu Ni Tăng thỉnh giáo giới, sai như vậy:)

Đại tỷ Tăng lắng nghe! Nếu thời gian thích hợp đối với Tăng, Tăng đồng ý. Nay Tăng sai Tỳ-kheo-ni tên là… Vì Tỳ-kheo Ni Tăng nửa tháng đến trong Tỳ-kheo Tăng cầu giáo thọ. Đây là lời tác bạch.

Đại tỷ Tăng lắng nghe! Nay Tăng sai Tỳ-kheo-ni tên là… vì Tỳkheo Ni Tăng nửa tháng đến trong Tỳ-kheo Tăng cầu giáo thọ. Các Đại tỷ nào đồng ý, Tăng sai Tỳ-kheo-ni tên là… vì Tỳ-kheo Ni Tăng nửa tháng đến trong Tỳ-kheo Tăng cầu giáo thọ thì im lặng. Vị nào không đồng ý thì nói ra.

Tăng đã đồng ý sai Tỳ-kheo-ni tên là… vì Tỳ-kheo Ni Tăng, nửa tháng đến trong Tỳ-kheo Tăng cầu giáo thọ rồi. Tăng đã đồng ý vì im lặng. Việc ấy, nay tôi xin ghi nhận như vậy. (Lại sai thêm hai người nữa để làm bạn, vào trong đại Tăng, đến chỗ Tỳ-kheo cửu trụ đảnh lễ rồi, quỳ xuống cúi đầu, chấp tay tác bạch như vậy:)

Đại đức nhất tâm niệm! Tỳ-kheo Ni Tăng hòa hợp, đảnh lễ Tỳkheo Tăng cầu giáo thọ. (Lần thứ hai, thứ ba cũng thưa như vậy. Tỳkheo nhận lời tác bạch, khi thuyết giới nên thưa như vậy.)

Đại đức Tăng lắng nghe! Tỳ-kheo Ni Tăng chúng hòa hợp, đảnh lễ Đại đức Tăng cầu giáo thọ. (Thưa ba lần như vậy.)

Sáng mai Tỳ-kheo-ni nên đến hỏi Tăng có chấp thuận không. Tỳkheo giáo thọ sư nên hẹn thời gian đến. Tỳ-kheo-ni đúng thời gian đó ra đón rước Tỳ-kheo. Tỳ-kheo hẹn thời gian đến mà không đến phạm Đột-kiết-la, Tỳ-kheo-ni đúng lúc nghinh đón không ra nghinh đón phạm tội Đột-kiết-la. Nếu Tỳ-kheo-ni khi nghe thầy giáo thọ đến thì nên ra nửa do-tuần đón rước vào chùa, cung cấp những đồ cần dùng tắm rửa, cháo, đồ uống, thức ăn, trái cây để cúng dường vị giáo thọ. Nếu không như vậy thì phạm Đột-kiết-la. Nếu Tỳ-kheo Tăng bệnh hết, hoặc chúng không hòa hợp, hoặc chúng không đủ thì nên sai thiện tính đến đảnh lễ thăm hỏi. Nếu Tỳ-kheo Ni Tăng đều bệnh hết, hoặc không hòa hợp, hoặc chúng không đủ cũng nên sai thiện tính đến đảnh lễ thăm hỏi, nếu không như vậy phạm Đột-kiết-la.

Phần 5: PHÁP AN CƯ

(Pháp An Cư của Ni đều giống với pháp của đại Tăng ở trên.)

Phần 6: PHÁP TỰ TỨ

Văn yết-ma sai người đến trong đại Tăng thọ tự tứ:

(Tỳ-kheo Ni Tăng mùa hạ an cư xong phải đến trong đại Tăng thọ tự tứ, nên sai người đại diện này vì Ni Tăng đến trong đại Tăng xin thọ tự tứ. Văn tác bạch sai như vầy:)

Đại tỷ Tăng lắng nghe! Nếu thời gian thích hợp đối với Tăng, Tăng đồng ý. Nay Tăng sai Tỳ-kheo-ni tên là… vì Tỳ-kheo Ni Tăng đến trong Đại Tăng nói ba việc tự tứ thấy, nghe và nghi. Đây là lời tác bạch.

Đại tỷ Tăng lắng nghe! Nay Tăng sai Tỳ-kheo-ni tên là… vì Tỳkheo Ni Tăng đến trong Đại Tăng nói ba việc tự tứ thấy, nghe và nghi. Các Đại tỷ nào đồng ý Tăng sai Tỳ-kheo-ni tên là… vì Tỳ-kheo Ni Tăng đến trong Đại Tăng nói ba việc tự tứ thấy, nghe và nghi thì im lặng. Vị nào không đồng ý thì nói ra.

Tăng đã đồng ý sai Tỳ-kheo-ni tên là… vì Tỳ-kheo Ni Tăng đến trong đại Tăng nói ba việc tự tứ rồi, Tăng đã đồng ý vì im lặng. Việc ấy, nay tôi xin ghi nhận như vậy.

Văn đến trong đại Tăng thọ tự tứ:

(Sai thêm hai người nữa đi làm bạn, đến trong Tăng đảnh lễ Tăng, khom người, cúi đầu, chấp tay thưa như vậy.)

Tỳ-kheo Ni Tăng an cư ba tháng hạ đã xong, Tỳ-kheo Tăng an cư ba tháng hạ đã xong, Tỳ-kheo Ni Tăng nói ba việc tự tứ thấy, nghe và nghi. Đại đức Tăng rủ lòng thương xót nói cho con. Nếu con thấy có tội sẽ như pháp sám hối. (Nói ba lần như thế)

Tỳ-kheo Ni Tăng kia ngày đó tự tứ rồi lại tự tứ nữa nên đều rất mệt. Phật dạy: Không nên như vậy. Nếu Tỳ-kheo Tăng tự tứ ngày mười bốn thì Tỳ-kheo Ni Tăng tự tứ ngày mười lăm. Nếu Đại Tăng bị bệnh hoặc không hòa hợp, hoặc chúng không đủ thì Tỳ-kheo-ni nên sai thiện tín đến đảnh lễ hỏi thăm, nếu không phạm tội Đột-kiết-la. Nếu Tỳ-kheo Ni Tăng bệnh, hoặc chúng không hòa hợp, hoặc chúng không đủ, Tỳkheo Ni Tăng cũng nên sai thiện tín đến đảnh lễ thăm hỏi, nếu không như vậy thì phạm tội Đột-kiết-la (Người ấy đến trong Đại Tăng thọ tự tứ xong, trở lại cùng với Ni Tăng tự tứ. Pháp tự tứ của Ni Tăng cũng giống như Đại Tăng.)

Phần 7: PHÁP CHIA Y

(Giống như pháp của Đại Tăng ở trên)

Phần 8: PHÁP Y THỰC TỊNH

(Ni không tác pháp dư thực, từ đây ra, tất cả còn lại đều giống với pháp của Đại Tăng.)

Phần 9: PHÁP LINH TINH

(Ni không có pháp xin chỉ chỗ làm phòng. Còn các pháp khác đều giống với pháp của Đại Tăng.)

Pháp yết-ma nội hộ giáp cho Tăng chúng tẫn phạt:

Luật Tạng đã nói chánh pháp của Tăng, cốt yếu có ba nên kết lập gọi là pháp, là Tỳ-ni, là lời Phật dạy.

– Pháp có năm loại hạnh viễn ly:

1. Pháp xuất ly chẳng phải thế gian.

2. Pháp vượt qua chẳng phải thọ nhập.

3. Vô dục chẳng phải hữu dục.

4. Không kết chẳng phải có kết.

5. Không thân cận sinh tử chẳng phải thân cận sinh tử.

-Tỳ-ni có năm loại cốt yếu xuất ly:

1. Thiểu dục chẳng phải đa dục.

2. Biết đủ chẳng phải không biết đủ.

3. Dễ hộ trì chẳng phải khó hộ trì.

4. Dễ nuôi dưỡng chẳng phải khó nuôi dưỡng.

5. Trí hụê chẳng phải ngu si.

– Lời của Đức Phật dạy có năm hạnh giáo giới:

1. Người có tội thì cấm.

2. Người không có tội thì cho phép.

3. Hoặc cấm hoặc cho phép mà có người giới bị khuyết thì như pháp cử tội họ.

4. Người luôn luôn vi phạm thì nên chiết phục và ức niệm.

5. Công đức chân thật thích nghĩ gọi là tốt.

Cho nên, trong kinh dạy: chánh pháp tục, chánh pháp diệt, nghĩa là người truyền pháp này cũng có ba điều, nên lời bậc Thánh gọi là biết pháp, biết luật, biết Ma-di (Luận).

Biết pháp, nghĩa là khéo thọ trì Tạng Tu-đa-la, như A-nan v.v…

Biết luật, nghĩa là khéo thọ trì Tạng Tỳ-ni, như Ưu-ba-ly v.v…

Biết luận, nghĩa là khéo lãnh đạo cầm cân nảy mực như Đại Cadiếp v.v…. cho nên, phàm muốn làm rạng rỡ con đường của bậc Thánh, để hưng thịnh đạo giáo, kế thừa phép tắc, đời sau không bị đoạn tuyệt lúc đó chẳng phải các vị ấy thì ai!

– Năm pháp nhập chúng:

1. Nên thể hiện tâm từ.

2. Nên tự hạ mình xuống như cái thân lau bụi.

3. Khéo biết lúc đứng ngồi phải có oai nghi trên dưới.

4. Không nói lung tung chuyện thế tục, vì chúng thuyết pháp, hoặc thỉnh người khác nói.

5. Nếu trong Tăng có việc không thể cung kính tâm không an nhẫn thì nên im lặng.

– Năm việc im lặng như pháp:

1. Thấy người khác phi pháp im lặng.

2. Không có người hỗ trợ im lặng.

3. Phạm tội nặng im lặng.

4. Đồng túc im lặng.

5. Đồng túc ở chỗ khác im lặng.

– Năm việc im lặng phi pháp:

1. Yết-ma như pháp tâm bất đồng mà vẫn mặc tình im lặng.

2. Được bạn đồng ý mà vẫn mặc tình im lặng.

3. Hoặc thấy tội nhỏ mà vẫn im lặng.

4. Vì làm biệt trú mà im lặng.

5. Ở trên giới trường mà im lặng.

– Có năm loại pháp bỏ:

1. Tỳ-kheo phạm tội, Tỳ-kheo khác hỏi: Ông có thấy mình phạm tội không? Đáp: Không thấy. Vị kia nói: Nếu ông thấy tội thì nên sám hối.

2. Tỳ-kheo phạm tội, Tỳ-kheo khác hỏi: Ông có thấy mình phạm tội không? Đáp: Không thấy. Người kia nói: Nếu ông thấy tội nên sám hối trong Tăng.

3. Tỳ-kheo phạm tội, Tỳ-kheo khác hỏi: Ông có thấy mình phạm tội không? Đáp: Không thấy. Người kia nói: Nếu ông thấy mình có tội thì nên ở trong Tăng này sám hối.

4. Tỳ-kheo phạm tội, Tỳ-kheo khác hỏi: Ông có thấy mình phạm tội không? Đáp: Không thấy. Chúng Tăng nên bỏ không nói nữa, ông không thấy tội lỗi thì tùy ý muốn đi chỗ nào thì đi, không cho ông bốtát, như ngựa chứng khó điều phục, hàm, cương, nộc đều bỏ. Ông cũng giống như vậy.

5. Tỳ-kheo phạm tội, Tỳ-kheo khác hỏi: Ông có thấy mình phạm tội không? Đáp: Không thấy! Người kia nên ở trong chúng tác pháp Yết-ma cử tội không thấy.

– Có năm loại tác pháp Yết-ma:

1. Hiện tiền.

2. Tự nói.

3. Không thanh tịnh.

4. Như pháp.

5. Hòa hợp.

Tư nghĩa là biết bệnh, biết thuốc, biết đối trị. Thiện ở trong nghi phế, lập, thông, tắc, tồn hộ. Cho nên, cuối cùng đưa đến công giữ gìn, nghĩa rõ ở đây.

– Ba loại pháp điều:

1. Yết-ma quở trách.

2. Yết-ma khu tẫn (đuổi).

3. Yết-ma y chỉ.

– Ba loại pháp diệt:

1. Chỗ phạm tội.

2. Nhiều người nói.

3. Như cỏ che đất.

– Ba pháp bất cộng tục:

1. Yết-ma ba cử.

2. Trị ngữa chứng.

3. Yết-ma diệt tẫn.

Pháp Yết-ma quở trách:

(Trước hết nêu tội phạm, tác pháp nhớ nghĩ để định tội rồi sau đó mới tác pháp Yết-ma.)

Đại đức Tăng lắng nghe! Tỳ-kheo này tên là… thích tranh chấp lẫn nhau, cùng nhau nhụcmạ, nói lời hung dữ, nhau nhau hơn thua. Các Tỳ-kheo kia tự cùng nhau tranh chấp rồi. Nếu lại có Tỳ-kheo khác tranh chấp nhau mà người kia liền đến khuyến khích: Các ông khỏe mạnh, không giống như họ. Các ông học nhiều, trí huệ, giàu có, cũng có trí thức hơn họ nhiều. Chúng tôi sẽ làm bạn với các ông để làm cho trong Tăng chưa có sự tranh cãi thì sinh ra sự tranh cãi, đã có sự tranh cãi thì không chấm dứt được. Nếu thời gian thích hợp đối với Tăng, Tăng đồng ý vì Tỳ-kheo tên là… tác pháp Yết-ma quở trách. Nếu sau cùng họ tranh chấp lại, nhục mạ với nhau lại, Tăng chúng sẽ tăng thêm tội để trị họ. Đây là lời tác bạch.

Đại đức Tăng lắng nghe! Tỳ-kheo này tên là… thích tranh chấp với nhau, cùng nhục mạ lẫn nhau, miệng toàn nói lời hung dữ, tranh nhau hơn thua. Các Tỳ-kheo kia tự tranh chấp lẫn nhau rồi, nếu lại có Tỳ-kheo khác tranh chấp thì người đó đến khuyến khích vị kia: Các ông khỏe mạnh, không giống như họ. Các ông học nhiều, có trí huệ, và giàu có, lại cũng có tri thức hơn họ nhiều. Chúng tôi sẽ làm bạn với các ông để làm cho trong Tăng chưa có sự tranh cãi thì sinh ra sự tranh cãi, đã có sự tranh cãi thì không chấm dứt được. Tăng vì Tỳ-kheo tên là… tác pháp Yết-ma quở trách. Các Trưởng lão nào đồng ý Tăng cho Tỳ-kheo tên là… Yết-ma quở trách. Nếu sau này họ lại tranh chấp nhau, nhục mạ nhau, chúng Tăng sẽ tăng thêm tội để trị họ thì im lặng. Vị nào không đồng ý thì nói ra. Đây là lần Yết-ma đầu tiên. (Thưa ba lần như vậy.)

Tăng đã đồng ý cho Tỳ-kheo tên là… tác pháp Yết-ma quở trách rồi. Tăng đã đồng ý vì im lặng. Việc ấy, nay tôi xin ghi nhận như vậy. (Khi cho Yết-ma rồi, đoạt ba mươi lăm việc để khiến họ chiết phục. Sau đó, nếu họ tùy thuận hối cải thì Tăng nên trả lại và Yết-ma giải cho họ.

Văn yết-ma cho chỗ phạm tội:

(Trước nêu tội phạm, tác pháp nhớ nghĩ định tội họ rồi, sau đó mới tác pháp Yết-ma)

Đại đức Tăng lắng nghe! Tỳ-kheo này tên là… không hổ không thẹn, phạm nhiều các tội có thấy, nghe và nghi. Trước tự nói phạm, sau nói không phạm, lời nói trước sau đều trái ngược nhau. Nếu thời gian thích hợp đối với Tăng, Tăng đồng ý, nay Tăng Yết-ma định chỗ tội của Tỳ-kheo tên là… Đây là lời tác bạch.

Đại đức Tăng lắng nghe! Tỳ-kheo này tên là… vô tâm, vô quý phạm nhiều tội lỗi có thấy, nghe và nghi, trước tự nói phạm, sau nói không phạm, lời nói trước sau đều trái ngược nhau. Nay Tăng Yết-ma định chỗ tội của Tỳ-kheo… này. Các Trưởng lão nào đồng ý, nay Tăng Yết-ma định chỗ tội của Tỳ-kheo tên là… thì im lặng. Vị nào không đồng ý thì nói ra. Đây là lần Yết-ma thứ nhất. (Thưa ba lần như vậy.)

Tăng đã đồng ý cho Tỳ-kheo tên là…. Yết-ma định chỗ tội rồi. Tăng đã đồng ý vì im lặng. Việc ấy, nay tôi xin ghi nhận như vậy. (Cho Yết-ma rồi tước đoạt ba mươi lăm việc để cho người này về sau điều phục. Nếu tùy thuận hối cãi, Tăng nên trả lại và cho y giải.

Văn yết-ma cho diệt tẫn:

(Trước hết nêu tội phạm, tác pháp nhớ nghĩ, định tội rồi, sau đó mới tác pháp Yết-ma.)

Đại đức Tăng lắng nghe! Tỳ-kheo này tên là… phạm tội Ba-la-di. Nếu thời gian thích hợp đối với Tăng, Tăng đồng ý. Nay Tăng cho Tỳkheo tên là… phạm tội Ba-la-di yết-ma diệt tẫn (đuổi đi) không được cùng sống chung và không được cùng làm việc. Đây là lời tác bạch.

Đại đức Tăng lắng nghe! Tỳ-kheo này tên là… phạm tội Ba-ladi. Nay Tăng cho Tỳ-kheo tên là… phạm tội Ba-la-di Yết-ma diệt tẫn, không được ở chung và không được làm việc chung. Các Trưởng lão nào đồng ý, Tăng cho Tỳ-kheo tên là… phạm tội Ba-la-di Yết-ma diệt tẫn, không được sống chung, không được làm việc chung thì im lặng. Vị nào không đồng ý thì nói tra. Đây là lần Yết-ma thứ nhất. (Thưa ba lần như vậy.)

Tăng đã đồng ý cho Tỳ-kheo tên là… phạm tội Ba-la-di Yết-ma diệt tẫn (đuổi đi) không được ở chung, không được làm việc chung.

Tăng đã đồng ý vì im lặng. Việc ấy, nay tôi xin ghi nhận như vậy. (Pháp này đuổi đi vĩnh viễn không giải)

Ba Yết-ma sau này đều là pháp tự phạt. Nhưng vì lỗi có nặng có nhẹ, nên thứ bậc chia làm ba: Trước Yết-ma quở trách là pháp điều phục, Yết-ma chỉ chỗ tội là pháp chiết phục, Yết-ma diệt tẫn là pháp khu xuất (đuổi đi). Vì thế, trong kinh có dạy: Người nên điều phục thì điều phục, người nên chiết phục thì chiết phục, người nên đuổi đi thì đuổi đi. Nếu nói theo sự việc thì Yết-ma chẳng phải chỉ có một, nói đủ ở trong luật điển, làm sao sưu tập đầy đủ được, nên mỗi cái đều phân ra. Nay chỉ nêu một Yết-ma để thấy, còn các loại khác thì chuẩn theo đây có thể biết.