PHÁP YẾT MA TỨ PHẦN TỲ KHEO NI
Hán dịch: Đời Lưu Tống, Tam tạng Cầu Na Bạt Ma, người nước Kế Tân
Việt dịch: Linh Sơn Pháp Bảo Đại Tạng Kinh
Hội Văn Hóa Giáo Dục Linh Sơn Đài Bắc Xuất Bản

Phần 1: PHÁP KẾT GIỚI

(Các pháp Yết-ma kết giới trong đây đều giống với pháp của Đại Tăng, chỉ khác là gọi Ni Đại Sư).

Phần 2: PHÁP THỌ GIỚI

Văn Yết-ma Tỳ-kheo-ni xin nuôi chúng:

(Nếu Tỳ-kheo-ni muốn độ người, nên đến trong Tỳ-kheo Ni Tăng, để lộ vai bên phải, cởi bỏ giày dép đảnh lễ Tăng rồi, quỳ gối xuống đất yết-ma xin nuôi chúng, tác bạch như vầy:)

Đại tỷ Tăng lắng nghe. Tôi Tỳ-kheo-ni tên là… nay đến Tăng xin được độ người trao giới cụ túc. Cúi xin Tăng cho tôi được độ người thọ giới cụ túc (Thưa ba lần như vậy).

Văn Yết-ma cho nuôi chúng:

Đại tỷ Tăng lắng nghe. Tỳ-kheo-ni này tên là… nay đến Tăng xin độ người trao giới cụ túc. Nếu thời gian thích hợp đối với Tăng, Tăng đồng ý. Nay Tăng cho Tỳ-kheo-ni tên là… độ người trao giới cụ túc. Đây là lời tác bạch.

Đại tỷ Tăng lắng nghe. Tỳ-kheo này tên là… nay đến Tăng xin độ người trao giới cụ túc. Nay Tăng cho Tỳ-kheo-ni tên là… độ người trao giới cụ túc. Các Đại tỷ nào đồng ý Tăng cho Tỳ-kheo-ni tên là… độ người trao giới cụ túc thì im lặng. Vị nào không đồng ý thì nói ra.

Tăng đã đồng ý cho Tỳ-kheo-ni tên là… độ người trao giới cụ túc rồi. Tăng đã đồng ý vì im lặng. Việc ấy, nay tôi xin ghi nhận như vậy.

Văn độ Sa-di-ni:

(Nếu muốn xuống tóc cho xuất gia ở trong chùa thì phải thưa với tất cả Tăng để biết. Nếu Tăng không hòa hợp thì nên dẫn đương sự đi từng phòng thưa để quý vị biết. Nếu Tăng hòa hợp thì tác bạch rồi sau mới cho cạo đầu. Văn tác bạch như sau:)

Đại tỷ Tăng lắng nghe. Người này tên là… muốn đến cầu tôi tên là… xuống tóc. Nếu thời gian thích hợp đối với Tăng, Tăng đồng ý cho người tên là… xuống tóc. Đây là lời tác bạch. (Tác bạch rồi, vì người xuống tóc muốn xuất gia ở trong chùa thì phải thưa tất cả Tăng để biết. Nếu Tăng không hòa hợp thì nên dẫn đương sự đi từng phòng thưa để quý vị biết. Nếu Tăng hòa hợp thì tác bạch rồi sau đó mới cho xuất gia. Văn tác bạch như sau:)

Đại tỷ Tăng lắng nghe. Người này tên là… muốn theo Tỳ-kheo-ni tên là… cầu xuất gia. Nếu thời gian thích hợp đối với Tăng, Tăng đồng ý cho người tên là… xuất gia. Đây là lời tác bạch. (Tác bạch xuất gia rồi, dạy người xuất gia mặc cà sa để lộ vai bên phải, cởi bỏ giày dép, quỳ gối phải xuống đất, chấp tay, hướng dẫn họ tác bạch như sau:)

Con tên là… quy y Phật, quy y Pháp và quy y Tăng. Nay con theo Phật xuất gia, Tỳ-kheo-ni hiệu là… làm Hòa thượng. Đức Như Lai bậc Vô Sở Trước Đẳng Chánh Giác là Thế Tôn của con (Thưa ba lần như vậy).

Con tên là… đã quy y Phật, quy y Pháp và quy y Tăng. Nay con đã theo Phật xuất gia rồi, Tỳ-kheo-ni hiệu là… làm Hòa thượng. Đức Như Lai bậc Vô Sở Trước Đẳng Chánh Giác là Thế Tôn của con (Thưa ba lần như vậy rồi, cho thọ giới).

1. Suốt đời không được sát sinh là giới của Sa-di-ni. Ngươi có thể giữ được không?

Đáp: Được.

2. Suốt đời không được trộm cắp là giới của Sa-di-ni. Ngươi có thể giữ được không?

Đáp: Được.

3. Suốt đời không được dâm dục là giới của Sa-di-ni. Ngươi có thể giữ được không?

Đáp: Được.

4. Suốt đời không được nói dối là giới của Sa-di-ni. Ngươi có thể giữ được không?

Đáp: Được.

5. Suốt đời không được uống rượu là giới của Sa-di-ni. Ngươi có thể giữ được không?

Đáp: Được.

6. Suốt đời không được đeo vòng hoa, xức dầu thơm trên thân là giới của Sa-di-ni. Ngươi có thể giữ được không?

Đáp: Được.

7. Suốt đời không được ca múa, xướng hát, cũng không được cố ý xem nghe là giới của Sa-di-ni. Ngươi có thể giữ được không?

Đáp: Được.

8. Suốt đời không được ngồi nằm giường tòa cao rộng lớn là giới của Sa-di-ni. Ngươi có thể giữ được không?

Đáp: Được.

9. Suốt đời không được cầm nắm sinh tượng, vàng bạc, bảo vật là giới của Sa-di-ni. Ngươi có thể giữ được không?

Đáp: Được.

10. Suốt đời không được ăn phi thời là giới của Sa-di-ni. Ngươi có thể giữ được không?

Đáp: Được.

Đó là mười giới của Sa-di-ni, suốt đời không được phạm. Ngươi có thể giữ được không?

Đáp: Được.

Ngươi đã thọ giới rồi, nên cúng dường Tam bảo: Phật bảo, Pháp bảo và Tăng bảo, nên tu tập ba nghiệp tọa thiền, tụng kinh và siêng năng làm việc chúng (cho phép đồng nữ mười tám tuổi học giới trong hai năm, đủ hai mươi tuổi đến hai bộ Tăng thọ đại giới. Nếu mười tuổi mà đã từng có chồng, cho hai năm học giới, đủ mười hai tuổi cho thọ đại giới. Cho thọ hai năm học giới như sau:)

Văn Thức-xoa-ma-na thọ sáu pháp:

(Sa-di-ni nên đến trong chúng Tỳ-kheo-ni, để lộ vai bên phải, cởi bỏ giày dép, đảnh lễ Tỳ-kheo Ni Tăng rồi, quỳ gối xuống đất chấp tay tác bạch như sau:)

Đại tỷ Tăng lắng nghe. Con Sa-di-ni tên là… nay đến Tăng xin hai năm học giới, Hòa thượng Ni hiệu là… Cúi xin Tăng thương xót cứu độ con (Thưa ba lần như thế. Nên bảo Sa-di-ni đến chỗ mắt thấy mà tai không nghe rồi, trong chúng nên sai một vị có khả năng tác pháp Yếtma, dựa theo sự việc trên tác bạch:)

Đại tỷ Tăng lắng nghe. Sa-di-ni này tên là… nay theo Tăng xin hai năm học giới, Hòa thượng Ni hiệu là… Nếu thời gian thích hợp đối với Tăng, Tăng đồng ý. Nay Tăng cho Sa-di-ni tên là… hai năm học giới, Hòa thượng Ni hiệu là… Đây là lời tác bạch.

Đại tỷ Tăng lắng nghe. Sa-di-ni này tên là… nay đến Tăng xin hai năm học giới, Hòa thượng Ni hiệu là… Nay Tăng cho Sa-di-ni tên là… hai năm học giới, Hòa thượng Ni hiệu là… Các Đại tỷ nào đồng ý Tăng cho Sa-di-ni này tên là… hai năm học giới, Hòa thượng Ni hiệu là… thì im lặng. Vị nào không đồng ý thì xin nói ra. Đây là lần Yết-ma thứ nhất (Thưa ba lần như vậy).

Tăng đã đồng ý cho Sa-di-ni tên là… hai năm học giới, Hòa thượng Ni hiệu là… Tăng đã đồng ý vì im lặng. Việc ấy, nay tôi xin ghi nhận như vậy (Tiếp theo trao cho Sa-di sau pháp như vậy:)

Này Sa-di-ni hãy lắng nghe! Đức Như Lai bậc Vô Sở Trước Đẳng Chánh Giác đã nói sáu pháp không được phạm.

1. Không được hành pháp dâm dục. Nếu Thức-xoa-ma-na hành pháp dâm dục thì chẳng phải Thức-xoa-ma-na, chẳng phải Thích chủng nữ. Cùng người nam có tâm nhiễm ô hai thân xúc chạm nhau là phạm giới nên phải thọ giới lại. Trong giới này suốt đời không được phạm, ngươi có thể giữ được không?

Đáp: Được.

2. Không được trộm cắp cho đến cộng cỏ lá cây. Nếu Thức-xoama-na lấy của người năm tiền hoặc hơn năm tiền, hoặc tự mình lấy, hoặc dạy người lấy, hoặc tự mình đoạn, hoặc dạy người đoạn, hoặc tự mình phá, hoặc dạy người phá, hoặc đốt, hoặc chôn, hoặc làm cho hoại sắc thì người đó chẳng phải Thức-xoa-ma-na, chẳng phải Thích chủng nữ. Nếu lấy dưới năm tiền thì phạm giới phải thọ giới lại. Trong giới này suốt đời không được phạm, ngươi có thể giữ được không?

Đáp: Được.

3. Không được cố ý đoạn mạng sống của chúng sinh, cho đến loài kiến. Nếu Thức-xoa-ma-na cố ý tự tay giết người, tìm dao trao cho người, dạy cách chết, khuyến khích sự chết, hoặc cho người uống thuốc độc, hoặc làm đọa thai, dùng bùa chú, nguyền rủa, tự mình làm dạy người làm thì người đó chẳng phải Thức-xoa-ma-na, chẳng phải Thích chủng nữ. Nếu đoạn mạng sống của súc sinh, loài không thể biến hóa thì bị phạm giới phải thọ lại. Trong giới này suốt đời không được phạm, ngươi có thể giữ được không?

Đáp: Được.

4. Không được nói dối, cho đến nói đùa giỡn. Nếu Thức-xoa-mana không chân thật, thực sự mình không chứng đắc mà tự xưng là tôi đã đạt được pháp Thượng nhân nói: Tôi đắc thiền, đắc giải thoát, đắc Tam-muội chánh thọ, đắc quả Tu-đà-hoàn, đắc quả Tư-đà-hàm, đắc quả A-na-hàm, đắc quả A-la-hán nói rằng, trời, rồng, quỷ thần đến cúng dường tôi thì người đó chẳng phải là Thức-xoa-ma-na, chẳng phải Thích chủng nữ. Nếu ở trong chúng cố ý nói dối là phạm giới phải thọ giới lại. Trong giới này suốt đời không được phạm, ngươi có thể giữ được không?

Đáp: Được.

5. Không được ăn phi thời. Nếu Thức-xoa-ma-na nào ăn phi thời thì phạm giới phải thọ giới lại. Trong giới này suốt đời không được phạm, ngươi có thể giữ được không?

Đáp: Được.

6. Không được uống rượu. Nếu Thức-xoa-ma-na nào uống rượu là phạm giới phải thọ giới lại. Trong giới này suốt đời không được phạm, ngươi có thể giữ được không?

Đáp: Được.

Thức-xoa-ma-na nên học tất cả giới của Tỳ-kheo-ni, trừ Tỳ-kheoni quá thực tự lấy thức ăn để ăn.

Pháp Thức-xoa-ma-na thọ đại giới:

(Nếu Thức-xoa-ma-na học giới đã xong, đủ hai mươi tuổi, hoặc đủ mười hai tuổi nên cho thọ đại giới. Trước hết đến trong Tỳ-kheo Ni Tăng thỉnh Hòa thượng, nên thưa như vậy:)

Đại tỷ nhất tâm niệm. Con tên là… nay cầu A di làm Hòa thượng, cúi xin A di vì con làm Hòa thượng, con nương nơi A di được thọ đại giới (Lần thứ hai, lần thứ ba cũng thưa như vậy. Vị Hòa thượng nên trả lời: Được! Nên thọ trì như vậy. Dẫn người thọ giới đến đứng chỗ mắt thấy mà tai không nghe. Trong khi đó hành giới sư nên sai một vị giáo thọ hỏi rằng:) Trong đại chúng này ai có khả năng làm giáo thọ cho người tên là… (Nếu cho người trả lời tôi có thể. Khi ấy giới sư nên tác bạch:)

Đại tỷ Tăng lắng nghe. Người này tên là… theo Hòa thượng Ni hiệu là… cầu thọ đại giới. Nếu thời gian thích hợp đối với Tăng, Tăng đồng ý cho Tỳ-kheo tên là… làm giáo thọ sư. Đây là lời tác bạch (Thầy giáo thọ nên đến chỗ người thọ giới nói:)

Này cô! An-đà-hội, Uất-đa-la-tăng, Tăng-già-lê này. Tăng-già-chi, Phú-kiên-y này. Những Y bát này ngươi đã có chưa? (Trả lời đã có).

Thiện nữ hãy lắng nghe! Nay chính là lúc chân thành cần nói lên sự thật. Nay ta hỏi ngươi. Có thì ngươi nói có, không thì ngươi nói không:

Ngươi không phạm biên tội chứ? Ngươi không phạm tịnh hạnh Tỳ-kheo-ni chứ? Ngươi không phải với tâm giặc thọ giới chứ? Ngươi không phá nội ngoại đạo chứ? Ngươi chẳng phải Huỳnh môn chứ? Ngươi không phải là ngươi giết cha chứ? Ngươi không phải là ngươi giết mẹ chứ? Ngươi không phải là ngươi giết bậc chân nhân A-la-hán chứ? Ngươi không phá Tăng chứ? Ngươi không có tâm ác làm thân Phật chảy máu chứ? Ngươi không phải phi nhân chứ? Ngươi chẳng phải súc sinh chứ? Ngươi không phải người hai căn chứ? Ngươi tên gì? Hòa thượng của ngươi hiệu gì? Ngươi đủ hai mươi tuổi chưa? Y bát đầy đủ không? Cha mẹ và phu chủ có cho phép ngươi không? Ngươi không mắc nợ ai chứ? Ngươi không phải là tôi tớ chứ? Ngươi là người nữ chứ? Người nữ có các chứng bệnh như là hủi, lác trắng, ung thư, càn tiêu, điên cuồng, hai căn, hai đường hiệp lại, đại tiểu tiện thường rỉ chảy, đàm dãi thường tiết ra. Cô có các chứng bệnh như vậy không? Trả lời là không, nên nói: Như ta vừa hỏi ngươi, lát nữa trong Tăng cũng sẽ hỏi ngươi như vậy. Những gì ngươi trả lời với ta thì ở trong Tăng ngươi cũng trả lời như vậy (Vị giáo thọ sư hỏi xong, trở lại trong Tăng với oai nghi bình thường, đứng chỗ có thể đưa tay đụng các Tỳ-kheo-ni, tác bạch:)

Đại tỷ Tăng lắng nghe! Người này tên là… theo Hòa thượng Ni hiệu là… cầu thọ đại giới. Nếu thời gian thích hợp đối với Tăng, Tăng đồng ý, tôi đã giáo thọ xong, cho phép kêu họ vào. Đây là lời tác bạch (Vị kia nên gọi đương sự vào, vào rồi cầm y bát hướng dẫn họ đảnh lễ Tăng rồi, quỳ trước mặt giới sư chấp tay tác bạch xin).

Đại tỷ Tăng lắng nghe. Con tên là… theo Hòa thượng Ni hiệu là… cầu thọ đại giới. Con tên là… nay đến Tăng xin thọ đại giới, Hòa thượng Ni hiệu là… cúi xin Tăng rủ lòng thương xót cứu độ con! (Lần thứ hai, thứ ba cũng thưa như vậy. Khi ấy, giới sư nên tác bạch:)

Đại tỷ Tăng lắng nghe. Người này tên là… theo Hòa thượng Ni hiệu là… cầu thọ đại giới. Người này tên là… nay đến Tăng xin thọ đại giới, Hòa thượng Ni hiệu là… Nếu thời gian thích hợp đối với Tăng, Tăng đồng ý, cho phép. Tôi đã hỏi các nạn sự. Đây là lời tác bạch:

Ngươi hãy lắng nghe. Nay chính là lúc chân thành, lúc cần nói lên sự thật. Nay tôi hỏi ông, có thì nói có, không thì nói không.

Ngươi có phạm biên tội không? Ngươi không phạm tịnh hạnh Tỳkheo-ni chứ? Ngươi không phải với tâm giặc thọ giới chứ? Ngươi không phá nội ngoại đạo chứ? Ngươi chẳng phải huỳnh môn chứ? Ngươi không phải là người giết cha chứ? Ngươi không phải là người giết mẹ chứ? Ngươi không phải là người giết bậc chân nhân A-la-hán chứ? Ngươi không phá Tăng chứ? Ngươi không có tâm ác làm thân Phật chảy máu chứ? Ngươi chẳng phải phi nhân chứ? Ngươi chẳng phải súc sinh chứ? Ngươi không phải là người hai căn chứ? Ngươi tên gì? Hòa thượng của ngươi hiệu gì? Ngươi đã đủ tuổi chưa? Y bát có đầy đủ không? Cha mẹ và phu chủ có cho phép ngươi không? Ngươi không mắc nợ ai chứ? Ngươi không phải tôi tớ chứ? Ngươi là người nữ phải không? Người nữ có những căn bệnh như hủi, lác trắng, ung thư, càn tiêu, điên cuồng, hai căn hai đường hiệp lại, đường đại tiểu tiện thường rỉ chảy, đàm dãi thường tiết ra. Ngươi có những căn bệnh như thế không? (Nếu đương sự trả lời là không thì nên tác bạch).

Đại tỷ Tăng lắng nghe. Người này tên là… theo Hòa thượng Ni hiệu là… cầu thọ đại giới. Người này tên là… nay đến Tăng xin thọ đại giới, Hòa thượng Ni hiệu là… người này tự nói thanh tịnh không có các nạn sự, đủ hai mươi tuổi, y bát đầy đủ. Nếu thời gian thích hợp đối với Tăng, Tăng đồng ý, nay Tăng cho người tên là… thọ đại giới, Hòa thượng Ni hiệu là… Đây là lời tác bạch.

Đại tỷ Tăng lắng nghe. Người này tên là… theo Hòa thượng Ni hiệu là… cầu thọ đại giới. Người này tên là… nay đến Tăng xin thọ đại giới, Hòa thượng Ni hiệu là… người này tự nói thanh tịnh, không có các nạn sự, đủ hai mươi tuổi, y bát đầy đủ. Nay Tăng cho người tên… thọ đại giới, Hòa thượng Ni hiệu là… các Đại tỷ nào đồng ý, nay Tăng cho người tên là… thọ đại giới, Hòa thượng Ni hiệu là… thì im lặng. Vị nào không đồng ý thì nói ra. Đây là lần yết-ma thứ nhất (Lần thứ hai, thứ ba cũng thưa như vậy).

Tăng đã đồng ý cho người tên là… thọ đại giới, Hòa thượng Ni hiệu là… rồi. Tăng đã đồng ý vì im lặng. Việc ấy, nay tôi xin ghi nhận như vậy.

Pháp ni đến trong Tỳ-kheo Tăng thọ đại giới:

(Người thọ giới cùng Tỳ-kheo Ni Tăng đến trong Tỳ-kheo Tăng đảnh lễ đại Tăng rồi, đầu gối phải quỳ xuống đất chấp tay tác bạch:)

Đại đức Tăng lắng nghe. Con tên là… theo Hòa thượng Ni hiệu là… cầu thọ đại giới. Con tên là… Nay đến Tăng xin thọ đại giới, Hòa thượng Ni hiệu là… cúi xin Tăng rủ lòng thương xót cứu độ con. (Thưa ba lần 6 như vậy. Giới sư ở đây nên hỏi các nạn sự rồi tác bạch như sau:)

Đại đức Tăng lắng nghe. Người này tên là… theo Hòa thượng Ni hiệu là… cầu thọ đại giới. Người tên là… nay đến Tăng xin thọ đại giới, Hòa thượng Ni hiệu là… Nếu thời gian thích hợp đối với Tăng, Tăng đồng ý cho phép tôi hỏi các nạn sự. Đây là lời tác bạch.

Thiện nữ nhân hãy lắng nghe. Nay chính là lúc chân thành, lúc nói lên sự thật. Nay ta hỏi ngươi, có thì ngươi nói có, không thì nói không:

Ngươi không phạm biên tội chứ? Ngươi không phạm tịnh hạnh Tỳkheo chứ? Ngươi không phải với tâm giặc thọ giới chứ? Ngươi không phá nội ngoại đạo chứ? Ngươi chẳng phải huỳnh môn chứ? Ngươi không phải là người giết cha chứ? Ngươi không phải là người giết mẹ chứ? Ngươi không phải là người giết bậc chân nhân A-la-hán chứ? Ngươi không phá Tăng chứ? Ngươi không có tâm ác làm thân Phật chảy máu chứ? Ngươi chẳng phải phi nhân chứ? Ngươi chẳng phải súc sinh chứ? Ngươi chẳng phải người hai căn chứ? Ngươi tên gì? Hòa thượng của ngươi hiệu gì? Ngươi đủ hai mươi tuổi chưa? Y bát đầy đủ chưa? Cha mẹ và phu chủ có cho phép ngươi không? Ngươi không mắc nợ ai chứ? Ngươi không phải tôi tớ chứ? Ngươi là người nữ phải không? Người nữ không có những căn bệnh như hủi, lác trắng, ung thư, càn tiêu, điên cuồng, hai căn hai đường hiệp lại, đường đại tiểu tiện thường rỉ chảy, đàm dãi thường tiết ra. Ngươi có những chứng bệnh như vậy không? (Nếu đương sự trả lời là không thì nên hỏi)

Ngươi đã học giới chưa? Có thanh tịnh không? (Nếu đương sự trả lời là đã học giới và thanh tịnh thì nên hỏi các Tỳ-kheo khác).

Người tên là… đã học giới và thanh tịnh không? (Đáp là đã học giới và thanh tịnh).

Đại đức Tăng lắng nghe. Người này tên là… theo Hòa thượng Ni hiệu là… cầu thọ đại giới. Người này tên là… nay đến Tăng xin thọ đại giới, Hòa thượng Ni hiệu là… Người tên là… tự nói thanh tịnh, không có các nạn sự, đủ hai mươi tuổi, y bát đầy đủ, đã học giới và thanh tịnh. Nếu thời gian thích hợp đối với Tăng, Tăng đồng ý. Nay Tăng cho người tên là… thọ đại giới, Hòa thượng Ni hiệu là… Đây là lời tác bạch.

Đại đức Tăng lắng nghe. Người này tên là… theo Hòa thượng Ni hiệu là… cầu thọ đại giới. Người này tên là… nay đến Tăng xin thọ đại giới, Hòa thượng Ni hiệu là… Người này tự nói thanh tịnh, không có các nạn sự, đủ hai mươi tuổi, y bát đầy đủ, đã học giới và thanh tịnh. Nay Tăng cho người tên là… thọ đại giới, Hòa thượng Ni hiệu là… các Trưởng lão nào đồng ý Tăng cho người tên là… thọ đại giới, Hòa thượng Ni hiệu là… thì im lặng. Vị nào không đồng ý thì nói ra. Đây là lần yết-ma thứ nhất (Thưa ba lần như vậy).

Tăng đã đồng ý cho người tên là… thọ đại giới, Hòa thượng Ni hiệu là… rồi. Tăng đã đồng ý vì im lặng. Việc ấy, nay tôi xin ghi nhận như vậy.

Thiện nữ nhân hãy lắng nghe! Đức Như Lai bậc Vô Sở Trước Đẳng Chánh Giác nói tám pháp Ba-la-di. Nếu Tỳ-kheo-ni nào phạm thì chẳng phải Tỳ-kheo-ni, chẳng phải Thích chủng nữ:

1. Không được phạm hạnh bất tịnh, hành pháp dâm dục. Nếu Tỳkheo-ni nào làm hạnh bất tịnh, hành pháp dâm dục cho đến loài súc sinh thì người ấy chẳng phải Tỳ-kheo-ni, chẳng phải Thích chủng nữ. Trong giới này suốt đời không được phạm, ngươi có thể giữ được không?

Đáp: Được.

2. Không được trộm cắp, cho đến lá cây, cộng cỏ. Nếu Tỳ-kheoni nào ăn cắp của người năm tiền, hoặc hơn năm tiền. Nếu tự lấy hoặc dạy người lấy, hoặc tự phá, hoặc dạy người phá, hoặc tự chặt, hoặc dạy người chặt, hoặc thiêu, hoặc chôn, hoặc làm hoại sắc thì người đó chẳng phải Tỳ-kheo-ni, chẳng phải Thích chủng Tử. Trong giới đây trọn đời không được phạm, ngươi có thể giữ được không?

Đáp: Được.

3. Không được đoạn mạng sống của chúng sinh cho đến loài kiến. Nếu Tỳ-kheo-ni nào hoặc tự tay giết người, hoặc cầm dao trao cho người, hướng dẫn cách chết, khuyến khích sự chết, khen ngợi sự chết, hoặc cho người uống thuốc độc, làm đọa thai, dùng chú thuật trù cỏ, nguyền rủa, hoặc làm phương tiện hay dạy người làm phương tiện thì người đó chẳng phải Tỳ-kheo-ni, chẳng phải Thích chủng nữ. Trong giới đây suốt đời không được phạm, ngươi có thể giữ được không?

Đáp: Được.

4. Không được nói dối, cho đến nói đùa giỡn. Tỳ-kheo-ni nào không chân thật, chẳng phải mình có chứng đắc mà tự xưng mình có chứng đắc pháp thượng nhân, đắc thiền, đắc giải thoát, đắc Tam-muội chánh thọ, đắc quả Tu-đà-hoàn, đắc quả Tư-đà-hàm, đắc quả A na hàm, đắc quả A-la-hán, nói rằng trời, rồng và quỷ thần đến cúng dường tôi thì người đó chẳng phải Tỳ-kheo-ni, chẳng phải Thích chủng nữ. Trong giới đây suốt đời không được phạm, ngươi có thể giữ được không?

Đáp: Được.

5. Không được để hai thân xúc chạm nhau, cho đến cùng súc sinh. Nếu Tỳ-kheo-ni nào có tâm ô nhiễm cùng với người nam có tâm ô nhiễm hai thân xúc chạm nhau từ nách trở xuống, từ đầu gối trở lên, hoặc xoa, hoặc bóp, hoặc rờ ngược, hoặc rờ xuôi, hoặc kéo, hoặc xô, hoặc bồng lên, hoặc thả xuống, hoặc nắm gấp, hoặc trì hoãn thì người đó chẳng phải là Tỳ-kheo-ni, chẳng phải là Thích chủng nữ. Trong giới này suốt đời không được phạm, ngươi có thể giữ được không?

Đáp: Được.

6. Không được phạm tám việc cho đến cùng với loài súc sinh. Nếu Tỳ-kheo-ni nào có tâm nhiễm ô cho người nam có tâm nhiễm ô nắm tay, nắm y, đứng nơi chỗ vắng, cùng đứng, nói chuyện nơi chỗ vắng, cùng đi, hai thân kề nhau và cùng phạm tám việc này thì chẳng phải Tỳ-kheo-ni, chẳng phải Thích chủng nữ. Trong giới đây suốt đời không được phạm, ngươi có thể giữ được không?

Đáp: Được.

7. Không được che giấu trọng tội của người, cho đến Đột-kiết-la thuyết ác. Tỳ-kheo-ni nào biết Tỳ-kheo-ni phạm Ba-la-di mà không tự cử tội cũng không bạch với Tăng, không nói với ai. Vào một thời gian khác sau đó, Tỳ-kheo-ni này thôi tu, hoặc bị diệt tẫn (đuổi đi), hoặc tác pháp không cho ở chung, hoặc vào ngoại đạo. Lúc đó, vị ấy mới nói: Trước đây, tôi biết người này như vậy, như vậy thì vị ấy chẳng phải Tỳ-kheo-ni, chẳng phải Thích chủng nữ, vì che giấu trọng tội của người khác. Trong giới này suốt đời không được phạm, ngươi có thể giữ được không?

Đáp: Được.

8. Không được tùy thuận theo Tỳ-kheo bị cử tội nói chuyện, cho đến Sa-di. Nếu Tỳ-kheo-ni nào biết Tỳ-kheo bị Tăng cử tội đúng như pháp, như Tỳ-ni, như lời Phật dạy, phạm oai nghi chưa sám hối, không tác pháp cong trú mà tùy thuận theo Tỳ-kheo kia để nói chuyện. Các Tỳ-kheo-ni can gian Tỳ-kheo-ni này: Đại tỷ! Tỳ-kheo kia bị Tăng cử tội như pháp, như Tỳ-ni, như lời Phật dạy, phạm oai nghi chưa sám hối, không tác pháp cong trú, cô đừng tùy thuận theo Tỳ-kheo kia để nói chuyện. Khi các Tỳ-kheo-ni can gián Tỳ-kheo-ni này kiên trì không bỏ. Các Tỳ-kheo-ni nên can gián cho đến ba lần để bỏ việc này. Cho đến ba lần can gián bỏ thì tốt. Nếu không bỏ thì vị này không phải Tỳ-kheoni, không phải Thích chủng nữ vì đã tùy thuận theo kẻ bị cử tội. Trong giới này suốt đời không được phạm, ngươi có thể giữ được không?

Đáp: Được.

Này thiện nữ hãy lắng nghe! Đức Như Lai bậc Vô Sở Trước Đẳng Chánh Giác nói pháp tứ y. Tỳ-kheo-ni nương nơi đây, xuất gia thọ đại giới, đó là pháp của Tỳ-kheo-ni.

1. Nương nơi áo phấn tảo xuất gia thọ đại giới là pháp của Tỳkheo-ni. Trong điều này trọn đời cô có thể giữ được không?

Đáp: Được.

Nếu được lợi dưỡng, hoặc đàn-việt cúng y, hoặc được y rẻ tiền, hoặc được y đã cắt rọc may thành thì nên nhận.

2. Nương nơi khất thực xuất gia thọ đại giới là pháp của Tỳ-kheoni. Trong điều này suốt đời ngươi có thể giữ được không?

Đáp: Được.

Nếu được lợi dưỡng, Tăng sai thọ trai, hay đàn-việt dâng cúng thức ăn vào những ngày mồng tám, mười lăm và mồng một, hoặc thường thọ trai của chúng Tăng, hay đàn-việt mời thì nên nhận.

3. Nương nơi gốc cây để ngồi, xuất gia thọ đại giới là pháp của Tỳ-kheo-ni. Trong điều này suốt đời ngươi có thể giữ được không?

Đáp: Được.

Nếu được lợi dưỡng cho phòng riêng, lầu gác, phòng nhỏ, hang đá, hai phòng có một cửa thông thì nên nhận.

4. Nương nơi dược hư lạn xuất gia thọ đại giới là pháp của Tỳkheo-ni. Trong điều này suốt đời ngươi có thể giữ được không?

Đáp: Được.

Nếu được lợi dưỡng như sữa, dầu, đề hồ, mật, đường phèn thì nên nhận.

Ngươi đã thọ giới rồi, bạch tứ yết-ma như pháp thành tựu, đúng cách, Hòa thượng như pháp, A-xà-lê như pháp, hai bộ Tăng đầy đủ. Ngươi khéo thọ giáo pháp, nên siêng năng cúng dường Phật, Pháp và Tăng. Hòa thượng A-xà-lê dạy bảo những điều như pháp ngươi không được chống trái, nên học hỏi, tụng kinh siêng cầu phương tiện để ở trong pháp Phật đạt quả vị Tu-đà-hoàn, quả Tư-đà-hàm, quả A na hàm và quả A-la-hán. Có như vậy thì tâm mới xuất gia của ngươi mới không uổng phí, quả báo không đoạn tuyệt. Những gì ngươi chưa biết nên hỏi Hòa thượng, A-xà-lê (Khi giải tán nên bảo người thọ giới đi trước).

Phần 3: PHÁP TRỪ TỘI

Pháp ni sám hối Tăng tàn:

(Ni là người nữ yếu ớt, sự việc cần phải nhờ vào bạn bè giúp nhau. Nếu để họ giữ điều ác thì tự hại mình thì phạm tội không nhẹ. Ni che giấu Tăng tàn trị tội Tăng thêm hành nửa tháng Ma-na-đỏa, không có pháp phú tàng điều phục riêng. Tỳ-kheo-ni sám hối Tăng tàn, cần phải ở trong hai bộ Tăng tác pháp yết-ma Ma-na-đỏa. Hai bộ đại Tăng và Ni Tăng mỗi bên phải có đủ bốn người. Nếu tác pháp yết-ma xuất tội, hai bộ Đại Tăng và Ni Tăng mỗi bên phải có đủ hai mươi người, không được thiếu).

Văn Yết-ma xin Ma-na-đỏa:

(Nếu Tỳ-kheo-ni phạm tội Tăng tàn nên đến trong hai bộ Tăng hành nửa tháng Ma-na-đỏa. Khi hành Ma-na-đỏa nên đến trong hai bộ Tăng, để lộ vai bên phải, cởi bỏ giày dép đảnh lễ Tăng, rồi quỳ gối phải xuống đất, chấp tay tác bạch xin như sau:)

Đại đức Tăng lắng nghe. Con Tỳ-kheo-ni tên là… phạm… chừng ấy tội Tăng tàn, nay đến hai bộ Tăng xin nửa tháng Ma-na-đỏa. Cúi xin Tăng rủ lòng thương xót cho con nửa tháng Ma-na-đỏa (Thưa ba lần như vậy).

Văn Yết-ma cho Ma-na-đỏa:

Đại đức Tăng lắng nghe. Tỳ-kheo-ni này tên là… phạm… chừng ấy tội Tăng tàn, nay đến hai bộ Tăng xin nửa tháng Ma-na-đỏa. Nếu thời gian thích hợp đối với Tăng, Tăng đồng ý. Nay Tăng cho Tỳ-kheo… này nửa tháng Ma-na-đỏa. Đây là lời tác bạch.

Đại đức Tăng lắng nghe. Tỳ-kheo-ni này tên là… phạm… chừng ấy tội Tăng tàn, nay đến hai bộ Tăng xin nửa tháng Ma-na-đỏa. Nay Tăng cho Tỳ-kheo-ni tên là… nửa tháng Ma-na-đỏa. Các trưởng lão nào đồng ý Tăng cho Tỳ-kheo-ni tên là… nửa tháng Ma-na-đỏa thì im lặng. Vị nào không đồng ý thì nói ra. Đây là lần yết-ma thứ nhất (Thưa ba lần như vậy ).

Tăng đã đồng ý cho Tỳ-kheo-ni tên là… nửa tháng Ma-na-đỏa. Tăng đã đồng ý vì im lặng. Việc ấy, nay tôi xin ghi nhận như vậy (Pháp Tỳ-kheo-ni hành Ma-na-đỏa đều giống với đại Tăng ở trên, chỉ có khác là mỗi ngày phải đến trong hai bộ Tăng tác bạch. Tác bạch như sau:)

Đại đức Tăng lắng nghe. Con Tỳ-kheo-ni tên là… phạm… chừng ấy tội Tăng tàn, đã đến hai bộ Tăng xin nửa tháng Ma-na-đỏa. Tăng đã cho con nửa tháng Ma-na-đỏa. Con Tỳ-kheo-ni tên là… đã hành được chừng ấy ngày, còn có chừng ấy ngày nữa. Bạch Đại đức Tăng để quý ngài biết con đang hành Ma-na-đỏa.

Văn Yết-ma xin xuất tội:

(Tỳ-kheo-ni hành nửa tháng Ma-na-đỏa xong, nên đến trong hai bộ Tăng tác bạch xin như sau:)

Đại đức Tăng lắng nghe. Con Tỳ-kheo-ni tên là… phạm… chừng ấy tội Tăng tàn, đã đến trong hai bộ Tăng xin hành nửa tháng Ma-na-đỏa. Tăng đã cho con nửa tháng Ma-na-đỏa. Con đã ở trong hai bộ Tăng hành nửa tháng Ma-na-đỏa xong, nay đến Tăng xin yết-ma xuất tội. Cúi xin Tăng rủ lòng thương xót cho con yết-ma xuất tội (Thưa ba lần như vậy).

Văn Yết-ma cho xuất tội:

Đại đức Tăng lắng nghe. Tỳ-kheo-ni này tên là… phạm… chừng ấy tội Tăng tàn, đã đến trong hai bộ Tăng xin nửa tháng Ma-na-đỏa. Tăng đã cho Tỳ-kheo-ni tên là… nửa tháng Ma-na-đỏa. Tỳ-kheo-ni… này đã ở trong hai bộ Tăng hành nửa tháng Ma-na-đỏa xong, nay đến Tăng xin yết-ma xuất tội. Nếu thời gian thích hợp đối với Tăng, Tăng đồng ý. Nay Tăng cho Tỳ-kheo-ni tên là… yết-ma xuất tội. Đây là lời tác bạch.

Đại đức Tăng lắng nghe. Tỳ-kheo-ni này tên là… phạm… chừng ấy tội Tăng tàn, đã đến hai bộ Tăng xin nửa tháng Ma-na-đỏa. Tăng đã cho Tỳ-kheo-ni tên là… nửa tháng Ma-na-đỏa. Tỳ-kheo-ni… này đã ở trong hai bộ Tăng hành nửa tháng Ma-na-đỏa xong, nay đến Tăng xin yết-ma xuất tội. Nay Tăng đã cho Tỳ-kheo-ni tên là… yết-ma xuất tội. Các Trưởng lão nào đồng ý, nay Tăng cho Tỳ-kheo-ni tên là… yết-ma xuất tội thì im lặng. Vị nào không đồng ý thì nói ra. Đây là yết-ma lần thứ nhất (Thưa ba lần như vậy).

Tăng đã đồng ý cho Tỳ-kheo-ni tên là… yết-ma xuất tội rồi. Tăng đã đồng ý vì im lặng. Việc ấy, nay tôi xin ghi nhận như vậy.

Phần 4: PHÁP THUYẾT GIỚI

(Pháp thuyết giới của Tỳ-kheo-ni đều giống với Đại Tăng) Văn Yết-ma Ni Tăng sai người thỉnh giáo thọ:

(Ni Tăng mỗi nửa tháng đến Đại Tăng thỉnh giáo thọ. Nay cần phải sai một người trong đây làm sứ giả vì Ni Tăng thỉnh giáo thọ, sai như sau:)

Đại tỷ Tăng lắng nghe. Nếu thời gian thích hợp đối với Tăng, Tăng đồng ý. Nay Tăng sai Tỳ-kheo-ni tên là… vì Tỳ-kheo Ni Tăng, nửa tháng đến trong Tỳ-kheo Tăng cầu giáo thọ. Đây là lời tác bạch.

Đại tỷ Tăng lắng nghe. Nay Tăng sai Tỳ-kheo-ni tên là… vì Tỳkheo Ni Tăng, nửa tháng đến trong Tỳ-kheo Tăng cầu giáo thọ. Các Đại tỷ nào đồng ý, Tăng sai Tỳ-kheo-ni tên là… vì Tỳ-kheo Ni Tăng nửa tháng đến trong Tỳ-kheo Tăng cầu giáo thọ thì im lặng. Vị nào không đồng ý thì nói ra.

Tăng đã đồng ý sai Tỳ-kheo-ni tên là… vì Tỳ-kheo Ni Tăng, nửa tháng đến trong Tỳ-kheo Tăng cầu giáo thọ. Tăng đã đồng ý vì im lặng. Việc ấy, nay tôi xin ghi nhận như vậy (Lại sai thêm một người nữa làm bạn vào trong đại Tăng, đến đảnh lễ cửu trú Tỳ-kheo rồi, quỳ xuống, cúi đầu, chấp tay tác bạch như sau)

Đại đức nhất tâm niệm. Tỳ-kheo Ni Tăng tên là… hòa hợp, đảnh lễ Tăng cầu giáo thọ (Thưa như vậy ba lần. Người nhận lời dặn dò khi Tỳ-kheo thuyết giới, nên thưa như vậy).

Chúng… Tỳ-kheo Ni Tăng hòa hợp đảnh lễ Đại đức Tăng cầu giáo thọ (Thưa ba lần như vậy). Sáng mai, Tỳ-kheo-ni nên hỏi quý Đại đức có chấp thuận không. Tỳ-kheo giáo thọ sư nên hẹn thời gian đến. Tỳkheo-ni đúng thời gian đó ra đón rước Tỳ-kheo. Nếu hẹn thời gian đến mà không đến phạm Đột-kiết-la, Tỳ-kheo Ni Tăng đúng thời gian mà không ra nghinh đón phạm Đột-kiết-la. Nếu Tỳ-kheo Ni Tăng nghe giáo thọ đến nên ra nửa do-tuần nghinh đón vào chùa, cung cấp những đồ cần dùng rửa ráy, cháo, nước uống, thức ăn, trái cây để cúng dường. Nếu không như vậy thì phạm Đột-kiết-la. Nếu Tỳ-kheo Tăng bệnh kết, hoặc chúng không hòa hợp, hoặc chúng không đủ thì nên sai người tin cậy đến đảnh lễ thăm hỏi. Nếu Tỳ-kheo Ni Tăng bệnh kết, hoặc chúng không hòa hợp, chúng không đầy đủ cũng nên sai người tin cậy đến đảnh lễ thăm hỏi. Nếu không như vậy phạm tội Đột-kiết-la.

Phần 5: PHÁP AN CƯ

(Pháp an cư của Tỳ-kheo-ni đều giống pháp của Đại Tăng)

Phần 6: PHÁP TỰ TỨ

Văn Yết-ma Ni Tăng sai người đến trong đại Tăng thọ tự tứ:

(Tỳ-kheo Ni Tăng ba tháng mùa hạ an cư xong nên đến trong đại Tăng thọ tự tứ. Nay cần sai một người làm sứ giả vì Tỳ-kheo Ni Tăng đến trong đại Tăng cầu thọ tự tứ nên sai như sau:)

Đại tỷ Tăng lắng nghe. Nếu thời gian thích hợp đối với Tăng, Tăng đồng ý. Nay Tăng sai Tỳ-kheo-ni tên là… vì Tỳ-kheo Ni Tăng đến trong Đại Tăng nói ba việc tự tứ thấy, nghe và nghi. Đây là lời tác bạch.

Đại tỷ Tăng lắng nghe. Nay Tăng sai Tỳ-kheo-ni tên là… vì Tỳkheo Ni Tăng đến trong Đại Tăng nói ba việc tự tứ thấy, nghe và nghi. Các Đại tỷ nào đồng ý Tăng sai Tỳ-kheo-ni tên là… vì Tỳ-kheo Ni Tăng đến trong đại Tăng nói ba việc tự tứ thấy, nghe và nghi thì im lặng. Vị nào không đồng ý thì nói ra.

Tăng đã đồng ý sai Tỳ-kheo-ni tên là… vì Tỳ-kheo Ni Tăng đến trong Đại Tăng nói ba việc tự tứ thấy, nghe và nghi rồi. Tăng đã đồng ý vì im lặng. Việc này nay tôi xin ghi nhận như vậy.

Văn đến trong đại Tăng thọ tự tứ:

(Nên sai một người nữa đi làm bạn, đến trong Tăng, đảnh lễ Tăng rồi, quỳ xuống, cúi đầu chấp tay thưa như sau:)

Tỳ-kheo Ni Tăng ba tháng hạ an cư đã xong. Tỳ-kheo Tăng ba tháng hạ cũng an cư đã xong, Tỳ-kheo Ni Tăng thưa ba việc tự tứ thấy, nghe và nghi. Cúi xin Đại đức Tăng rủ lòng thương xót nói cho con. Nếu con thấy có tội thì sẽ sám hối như pháp (Thưa ba lần như vậy). Trong ngày đó những người kia vừa tự tứ trong Tỳ-kheo Tăng lại về tự tứ nữa nên rất mệt nhọc. Đức Phật dạy: Không được như vậy. Nếu Tỳ-kheo Tăng tự tứ vào ngày mười bốn thì Tỳ-kheo Ni Tăng Tự tứ vào ngày mười lăm. Nếu Đại Tăng bệnh, hoặc chúng không hòa hợp, hoặc chúng không đủ, Tỳ-kheo-ni nên sai người tin cậy đến đảnh lễ thăm hỏi. Nếu không thì phạm Đột-kiết-la. Nếu Tỳ-kheo Ni Tăng bệnh, hoặc chúng không hòa hợp, hoặc chúng không đủ Tỳ-kheo Ni Tăng nên sai người tin cậy đến đảnh lễ thăm hỏi. Nếu không thì phạm Đột-kiết-la (Người kia đến trong Đại Tăng thọ tự tứ rồi trở về cùng Ni Tăng tự tứ. Pháp tự tứ cũng giống như Đại Tăng ở trên).

Phần 7: PHÁP CHIA Y

(Pháp của Tỳ-kheo-ni cũng giống pháp của Đại Tăng).

Phần 8: PHÁP Y THỰC TỊNH

(Tỳ-kheo-ni không tác pháp dư thực. Trừ điều này ra, những điều còn lại đều giống của Đại Tăng).

Phần 9: PHÁP LINH TINH

Pháp Yết-ma nội hộ giúp cho Tăng chúng phạt đuổi:

Luật Tạng nói rõ chánh pháp của Tăng, tổng quát có ba, cho nên kết tập gọi là pháp, là Tỳ-ni, là lời Phật dạy.

Pháp là năm hạnh viễn ly:

1. Pháp xuất ly phi thế gian. . Pháp vượt qua chẳng phải thọ. . Pháp vô dục chẳng phải có dục. . Vô kiết chẳng phải có sự kiết. .

Không thân cận sinh tử chẳng phải thân cận sinh tử.

Tỳ-ni là năm hạnh cốt yết xuất ly:

2. Thiểu (ít) dục chẳng phải nhiều dục. . Biết đủ chẳng phải không biết đủ. . Dễ bảo hộ chẳng phải khó bảo hộ. . Dễ nuôi dưỡng chẳng phải khó nuôi dưỡng. . Trí huệ không phải ngu si.

Lời Phật dạy có năm hạnh giáo giới:

3. Người có tội thì ngăn. . Người không có tội thì cho phép. Hoặc pháp ngăn hoặc cho phép, người có khuyết giảm đều như pháp cử tội. . Người luôn luôn phạm thì chiết phục cho nhớ nghĩ. . Công đức chân thật thì thường nhớ khen ngợi cho nên trong kinh nói: Chánh pháp trụ, chánh pháp diệt, nghĩa là người truyền pháp này cũng có ba điều kiện, cho nên lời Thánh gọi là biết pháp, biết luật và biết Ma di. Biết pháp nghĩa là khéo thọ trì Tạng Tu-đa-la, như A-nan v.v… Biết luật nghĩa là khéo thọ trì Tạng Tỳ-ni như Ưu-ba-ly v.v… Biết Ma di nghĩa là người khéo dẫn đường cầm cân nảy mực như Đại Ca-diếp. Cho nên, phàm lúc ấy muốn làm rạng rỡ Thánh tích để xiển dương đạo giáo tiếp tục làm phép tắc cho đời sau không tuyệt chẳng phải các vị ấy thì ai đây?

Tám pháp nhập chúng:

4. Nên có tâm từ. . Nên tự hạ mình như cái khăn lau bụi. . Nên ngồi đứng khéo léo, oai nghi trên dưới. . Không nói tạp nhạp chuyện thế tục, thuyết pháp cho chúng, hoặc thỉnh người khác thuyết. . Nếu thấy trong Tăng có những việc không hay xảy ra, tâm không khiên nhẫn được thì nên im lặng.

Có năm sự im lặng như pháp:

5. Thấy người khác phi pháp mà vẫn im lặng. . Không được bạn mà im lặng. . Phạm tội nặng mà im lặng. . Đồng trụ im lặng. . Chỗ đồng trú im lặng.

Có năm sự im lặng phi pháp:

6. Yết-ma như pháp mà tâm bất đồng, im lặng mặc nhiên. . Được đồng ý bạn cũng im lặng mặc nhiễm. . Hoặc thấy tội nhỏ mà im lặng.

7. Vì tác pháp biệt trụ mà im lặng.

8. Ở trên giới trường ma im lặng.

Có năm loại pháp bỏ:

9. Tỳ-kheo phạm tội, Tỳ-kheo khác hỏi: Ông có thấy mình phạm tội không? Đáp: Không thấy. Vị kia nói: Nếu ông thấy tội nên sám hối. . Tỳ-kheo phạm tội, Tỳ-kheo khác hỏi: Ông có thấy mình phạm tội không? Đáp: Không thấy. Người kia nói: Nếu ông thấy tội nên sám hối ở trong Tăng. . Tỳ-kheo phạm tội, Tỳ-kheo khác hỏi: Ông có thấy mình phạm tội không? Đáp: Không thấy. Người kia hỏi: Nếu ông thấy tội thì sám hối ở trong Tăng này. . Tỳ-kheo phạm tội, Tỳ-kheo khác hỏi: Ông có thấy mình phạm tội không? Đáp: Không thấy. Chúng Tăng nên bỏ đi nói: Ông không thấy mình có tội thì tùy ý đi đâu thì đi, không cho ông bố-tát, như ngựa chứng bỏ roi, bỏ giây cương, ông cũng như vậy. . Tỳ-kheo phạm tội, Tỳ-kheo khác hỏi: Ông có thấy mình phạm tội không? Đáp: Không thấy. Người kia ở trong Tăng tác pháp yết-ma cử tội không thấy.

Có năm vấn đề tác pháp yết-ma:

10. Hiện tiền. . Tự nói. . Không thanh tịnh. . Như pháp. . Hòa hợp.

Tư nghĩa là biết bệnh, biết thuốc và biết đối trị. Thiện là đối nghi của phế, hưng, thông, tắc, tồn và hộ, nên cuối cùng mặc tình giữ nghĩa công đức đã nêu ra ở đây.

Ba pháp điều phục:

Yết-ma quở trách, yết-ma đuổi đi và yết-ma y chỉ.

Ba loại diệt pháp:

Chỗ phạm tội, nhiều người nói và như cỏ che đất.

Ba pháp bất cộng trụ:

Ba lần yết-ma, yết-ma trị đuổi đi ngựa chứng.

Văn yết-ma quở trách:

(Trước hết cử tội tác pháp nhớ nghĩ để định tội rồi sau đó tác pháp yết-ma:)

Đại tỷ Tăng lắng nghe. Tỳ-kheo-ni này tên là… thích cùng nhau tranh chấp mạ nhục nhau, buông ra những lời như dao kiếm, xoi bói sở trường sở đoản của nhau, tự mình cùng nhau tranh chấp rồi, nếu lại có Tỳ-kheo khác tranh cãi liền đi đến chỗ họ khuyến khích: Các người mạnh mẽ, đâu phải giống như họ. Các vị đa văn, trí huệ và giàu có, có nhiều tri thức hơn họ. Chúng tôi sẽ làm bạn với các vị, để khiến cho Tăng chưa có sự tranh chấp thì khởi lên tranh chấp, đã có tranh chấp rồi thì không thể nào diệt trừ được. Nếu thời gian thích hợp đối với Tăng, Tăng đồng ý cho Tỳ-kheo-ni tên là… yết-ma quở trách. Nếu sau đó lại cùng nhau tranh cãi, cùng nhau nhục mạ nữa thì chúng Tăng sẽ tăng thêm tội để trị. Đây là lời tác bạch.

Đại tỷ Tăng lắng nghe. Tỳ-kheo-ni này tên là… thích cùng nhau tranh cãi, nhục mạ lẫn nhau, buông ra những lời như dao kiếm, xoi bói sở trường, sở đoản của nhau, tự mình cùng nhau tranh chấp rồi, nếu lại có Tỳ-kheo khác tranh chấp nhau thì liền đến chỗ họ khuyến khích: Các vị mạnh mẽ, đâu phải giống như họ. Các vị đa văn, trí huệ, giàu có cũng có nhiều tri thức hơn họ, chúng tôi sẽ làm bạn với các vị để khiến cho Tăng chưa có sự tranh chấp thì khởi lên tranh chấp, đã có tranh chấp thì không thể diệt trừ được. Tăng cho Tỳ-kheo-ni… này yết-ma quở trách. Các Đại tỷ nào đồng ý Tăng cho Tỳ-kheo-ni tên là… yết-ma quở trách. Nếu sau này lại cùng nhau tranh chấp, nhục mạ lẫn nhau thì chúng Tăng sẽ tăng thêm tội để trị thì im lặng. Vị nào không đồng ý thì nói ra. Đây là lần yết-ma thứ nhất (Thưa ba lần như vậy).

Tăng đã đồng ý cho Tỳ-kheo-ni tên là… pháp yết-ma quở trách rồi. Tăng đã đồng ý vì im lặng. Nay tôi xin ghi nhận như vậy (Sau khi cho yết-ma rồi, tước đoạt ba mươi lăm việc để khiến cho người kia chiết phục. Nếu sau đó tùy thuận hối cải Tăng nên trả lại và cho yết-ma giải).

Văn Yết-ma chỉ cho chỗ phạm tội:

(Trước hết cử tội tác pháp nhớ nghĩ để định tội, sau đó tác pháp yết-ma).

Đại tỷ Tăng lắng nghe. Tỳ-kheo-ni tên là… không biết hổ, không biết thẹn, phạm nhiều tội có thấy, nghe và nghi. Trước tự nói phạm sau nói không phạm, lời nói trước sau đều trái nhau. Nếu thời gian thích hợp đối với Tăng, Tăng đồng ý. Nay Tăng cho Tỳ-kheo-ni tên là… yết-ma

chỗ phạm tội. Đây là lời tác bạch.

Đại tỷ Tăng lắng nghe. Tỳ-kheo-ni này tên là… không biết hổ, không biết thẹn, phạm rất nhiều tội có thấy, nghe và nghi. Trước tự nói phạm, sau nói không phạm, lời nói trước sau hoàn toàn trái nhau. Nay Tăng cho Tỳ-kheo-ni tên là… yết-ma chỗ tội lỗi. Các Đại tỷ nào đồng ý, nay Tăng cho Tỳ-kheo-ni tên là… yết-ma chỗ phạm tội thì im lặng. Vị nào không đồng ý thì nói ra. Đây là lần yết-ma thứ nhất (Thưa ba lần như vậy).

Tăng đã đồng ý cho Tỳ-kheo-ni tên là… yết-ma chỗ phạm tội rồi. Tăng đã đồng ý vì im lặng. Nay tôi xin ghi nhận như vậy (Cho yết-ma rồi, lấy đi ba mươi lăm việc để làm cho người kia chiết phục. Nếu sau đó tùy thuận hối cải, Tăng nên trao lại và cho yết-ma giải).

Văn cho Yết-ma diệt tẫn (Đuổi đi):

(Trước hết cử tội tác pháp nhớ nghĩ để định tội rồi, sau đó tác pháp yết-ma).

Đại tỷ Tăng lắng nghe. Tỳ-kheo-ni tên là… phạm tội Ba-la-di. Nếu thời gian thích hợp đối với Tăng, Tăng đồng ý. Nay Tăng cho Tỳkheo-ni tên là… phạm tội Ba-la-di yết-ma diệt tẫn (đuổi đi), không được sống chung, không được làm việc chung. Đây là lời tác bạch.

Đại tỷ Tăng lắng nghe. Tỳ-kheo-ni tên là… phạm tội Ba-la-di. Nay Tăng cho Tỳ-kheo-ni tên là… phạm tội Ba-la-di yết-ma diệt tẫn (đuổi đi), không được sống chung, không được làm việc chung. Các Đại tỷ nào đồng ý, Tăng cho Tỳ-kheo-ni tên là… phạm tội Ba-la-di yết-ma diệt tẫn (đuổi đi), không được sống chung, không được làm việc chung thì im lặng. Vị nào không đồng ý thì nói ra. Đây là lần yết-ma thứ nhất (Thưa ba lần như vậy).

Tăng đã đồng ý cho Tỳ-kheo-ni tên là … phạm tội Ba-la-di yết-ma diệt tẫn (đuổi đi), không được sống chung, không được làm việc chung rồi. Tăng đã đồng ý vì im lặng. Việc ấy, nay tôi xin ghi nhận như vậy (Pháp này vĩnh viễn không giải).

Ba yết-ma sau đây đều là pháp trị phạt, nhưng lỗi thì có nặng, có nhẹ nên chia làm ba bậc: Những yết-ma quở trách trước là pháp điều phục. Những yết-ma chỗ phạm tội là pháp chiết phục. Những pháp yếtma diệt tẫn là pháp đuổi đi. Cho nên, trong kinh dạy: Người đáng điều phục thì nên điều phục họ, người đáng chiết phục thì nên chiết phục họ, người đáng phạt đuổi đi thì nên phạt đuổi họ đi.

Nếu theo sự mà nói thì yết-ma chẳng phải một. Nói đầy đủ luật điển thì làm dung tập được kết, cho nên mỗi phần của nó chỉ nêu ra một yết-ma, nghi thức cố định để chỉ dạy. Còn những loại khác thì chuẩn theo đây có thể biết.