Thư trả lời cư sĩ Huệ Minh

Cụ già tám mươi ba tuổi tháng ngày chẳng còn mấy. Vận nước của Trung Hoa Dân Quốc nguy ngập như trứng chồng. Gặp nhằm hai chuyện này (tức tuổi đã tám mươi ba và vận nước nguy ngập), hãy nên miệt mài niệm Phật để cầu vãng sanh. Lại còn phải suất lãnh người nhà nhất trí niệm Phật để dự bị khi ông qua đời bọn họ có thể trợ niệm. Lại còn phải dặn đi dặn lại lúc ông lâm chung họ chớ nên tắm rửa, thay quần áo sẵn, hỏi chuyện (những điều này hãy nên giao phó sẵn), an ủi, khóc lóc v.v… Mặc cho khi ấy ngồi chết cũng được, nằm chết cũng xong, mọi người đồng thanh niệm Phật; niệm mãi cho tới hơn ba tiếng đồng hồ sau khi tắt hơi rồi mới sắp đặt hậu sự, muôn phần đừng làm quá sớm. Không riêng gì người già chết nên như thế mà ngay người trẻ tuổi chết cũng nên như thế. Đấy chính là một đại sự khẩn yếu nhất lúc cuối cùng. Nếu chẳng tập luyện sẵn và nói sẵn lẽ lợi – hại, chưa có ai chẳng bị quyến thuộc vì phô trương mù quáng mà làm hỏng chuyện.

Một pháp Niệm Phật chính là pháp môn lớn nhất để Phật phổ độ hết thảy chúng sanh. Nếu gặp nguy hiểm, hễ niệm liền có thể gặp dữ hóa lành. Lúc vô sự mà niệm sẽ tiêu tai, tăng phước, nhưng cần phải cầu sanh Tây Phương thì mới là lợi ích lớn lao rốt ráo. Chín trang pháp danh được viết trong một tờ giấy khác. [Những pháp danh] như Tông Viễn, Tông Trì v.v… đều nhằm dạy [người quy y] sùng phụng, noi theo các vị tổ sư hoằng dương Tịnh Độ thuở trước. Tông (宗) là gốc, là chủ. Viễn (遠) chính là Viễn Công đại sư đời Tấn (tên là Huệ Viễn), là Sơ Tổ của Liên Tông. Trì (持) chính là em của ngài, tức Huệ Trì[1]. Vĩnh (永) là Huệ Vĩnh[2]. Xước (綽) chính là Đạo Xước. Chiếu (照) là Pháp Chiếu. Loan (巒) là Đàm Loan, [chữ Loan (巒)] cũng [có khi] viết là Loan (鸞). Đạo (道) là ngài Thiện Đạo. Tức là dạy họ nương theo các vị đại tổ sư trong Liên Tông để tu trì. Đứa cháu nội bé có tên là Phước Hà: Phước đã cao xa, thọ ắt dài lâu! Những tên khác không cần phải giảng giải. Vương Ấu Nông chưa hề quy y, vợ và đứa con thứ tư đều quy y. Đứa con thứ hai và một cô con gái chưa quy y. Nay gởi mười gói Cảm Ứng Thiên Trực Giảng, gồm một trăm mấy chục cuốn, bảo những đứa trẻ ngây thơ đọc tụng, lại còn giải nói cho chúng, sau này chúng sẽ chẳng đến nỗi không biết nhân quả, dấn mình vào lối mòn của hạng người trộm cướp.

***

[1] Huệ Trì (337-412) sống vào đời Đông Tấn, người xứ Lâu Phiền, huyện Nhạn Môn (Sơn Tây), em trai ngài Huệ Viễn, thông minh mẫn tiệp từ bé, có văn tài. Năm 18 tuổi theo anh xuất gia với ngài Đạo An, học trọn khắp Tam Tạng và ngoại điển. Sau theo anh về Lô Sơn. Sư rất được Lang Nha Vương là Tư Mã Tuần coi trọng. Khi ấy, do ngài Tăng Già La Xoa khéo tụng bộ Tứ A Hàm, Vương liền sai Ngài giảo duyệt kinh văn, giảng nói kinh Pháp Hoa, A Tỳ Đàm Luận. Năm Long An thứ ba (399), Sư nghe nói núi Nga My ở Ba Thục rất thù thắng, ý muốn sang thăm, bèn đi sang phương Tây đến Thành Đô, nghỉ tại Long Uyên Tinh Xá, hoằng dương Phật pháp, đại chúng khâm phục nên mỗi khi Ngài lên pháp tòa giảng mọi người đều gọi là Đăng Long Môn. Lúc Sư thị tịch, dạy đệ tử rằng: “Kinh dạy: ‘Giới như đất bằng, mọi điều thiện đều do đấy mà sanh!’ Các ông đi, đứng, nằm, ngồi đều phải cẩn thận!”

[2] Huệ Vĩnh (332-414), sống vào thời Đông Tấn, người xứ Hà Nội (tỉnh Hà Nam), xuất gia năm 12 tuổi, theo học với ngài Trúc Đàm Hiện, về sau theo ngài Huệ Viễn đến học với ngài Đạo An. Sư muốn cùng ngài Huệ Viễn sang núi La Phù, nhưng ngài Huệ Viễn bị Đạo An giữ lại, nên đến niên hiệu Thái Nguyên đời Đông Tấn, Huệ Vĩnh đi sang La Phù trước. Đến Tầm Dương, Sư được người trong quận ấy là Đào Phạm giữ lại trụ trì chùa Tây Lâm tại Lô Sơn. Không lâu sau, ngài Huệ Viễn cũng đến. Đại chúng nghe danh, tụ tập về quá đông, phải lập thêm Đông Lâm tinh xá. Sư bèn lập riêng một thảo am trên đảnh núi để tiện thiền quán, tu trì. Những người đến bên am tranh đều ngửi thấy mùi hương lạ, bèn gọi nơi ấy là Hương Cốc. Sư sống cùng một con hổ trong am ấy; hễ có ai đến, Sư bèn đuổi hổ chạy lên núi. Người đi rồi, hổ lại về chầu hầu bên cạnh. Sư rất thích nghiên cứu kinh điển, giảng nói rất giỏi, vẻ mặt tươi cười, chưa hề nói lời thương tổn ai. Cơm xoàng, áo vải, siêng năng tinh tấn, khổ hạnh, nguyện sanh Tây Phương. Năm Nghĩa Hy thứ mười (414), Sư thị hiện bị bệnh nhưng trì giới không xao nhãng, khi lâm chung tự đắp y, chắp tay, bảo đại chúng: “Phật đến rồi đó!” Nói xong, tươi cười qua đời, thọ 83 tuổi. Đại chúng trong núi đều ngửi thấy mùi hương lạ, bảy ngày mới tan.