THÀNH DUY THỨC LUẬN DIỄN BÍ
Sa-môn Trí Châu soạn
Việt dịch: Linh Sơn Pháp Bảo Đại Tạng Kinh
Hội Văn Hóa Giáo Dục Linh Sơn Đài Bắc Xuất Bản

 

QUYỂN 5

(PHẦN ĐẦU)

Luận: Hằng y tâm khởi v.v…

Có nghĩa vặn hỏi rằng: Thọ y tâm khởi thọ gọi là tâm sở. Tâm y thọ v.v… sinh nên gọi là thọ đẳng sở. Lại thọ v.v… bốn nghĩa gọi là tâm sở, tâm cũng có bốn nghĩa đủ nên gọi là thọ đẳng sở, như trong sớ dùng hai ba nghĩa ấy lựa chọn, nhưng trong sớ nói lẽ ra gọi là tâm sở, điều này không đúng, đã dùng tâm vương mong thọ mà nói, vì sao vẫn nói là làm tâm sở.

Biện rằng: Tâm sở là gọi chung, do y đối với tha bốn nghĩa khác lập đủ. Sớ lấy tên chung tâm vương, tâm sở để nêu bày, do tâm y tha đủ bốn nghĩa, không căn cứ biệt biệt thọ v.v… làm vặn hỏi.

Hỏi: Luận đã tự nói hằng y tâm v.v… gọi là tâm sở, tâm không y

tâm vì sao vặn hỏi nói nên gọi là tâm sở?

Đáp: Y nơi tâm hiển bày y chẳng phải mình y chẳng phải mình nên được tên tâm sở, tâm y cũng vậy, vì sao chẳng phải tâm sở? Trong sớ y lý trách, nếu không như vậy tổng tâm, mà thọ v.v… sai khác, biệt tổng không đồng, vặn hỏi không đồng. Nay thêm một vặn hỏi thọ v.v… y tâm khởi, từ y gọi là tâm sở, tâm y tâm sở sinh nên gọi là tâm sở, còn các vặn hỏi khác chuẩn theo đây. Điều này không trái với luận, cũng không có chung riêng, không có lỗi đồng.

Luận: Tức các tâm sở sở thủ biệt tướng.

Hỏi: Du-già chỉ nói tác ý rõ chỗ này, tướng chưa rõ vì sao biết được? Sở chưa rõ là các tâm sở sở thủ biệt tướng?

Đáp: Các tâm sở v.v… sở thủ biệt tướng, đều là tâm vương sở chưa liễu tướng, đã nói tác ý liễu đây chưa liễu, rõ biết các sở sở thủ biệt tướng đều năng liễu.

Sớ: Luận Hiển Dương quyển 18 có bài tụng v.v…

Xét bài tụng ấy ghi: Y nhiều cảnh liễu biệt, đều là tự nghiệp sinh, tâm pháp không ưng tư, vì cảnh tương tợ chuyển. Luận nói tâm sở hữu

pháp y chỉ năng duyên nhiều cảnh vì tám loại thức, mỗi mỗi tạo tác tự nghiệp mà khởi, y tâm mà có nên gọi là tâm sở hữu pháp, không nên lại suy nghĩ cảnh sở duyên kia, do nó cùng thức duyên chuyển.

Giải thích: Chỉ dùng một nghĩa lập tên tâm sở, nói đồng duyên chuyển, rõ ràng tâm sở ấy cũng là duyên tổng tướng.

Luận: “Chỗ khác lại nói” đến “các tướng lỗi của đức”.

Luận Trung Biên quyển 1 chỉ nói tâm sở cũng duyên biệt tướng, trong Du-già quyển 3 chỉ nói duyên biệt cảnh có thể vui v.v… mà không có chữ “cũng”. Hai luận hợp dẫn cho nên nói cũng năng liễu có thể vui đồng.

Hỏi: Tâm lấy tổng tướng, sở thông tổng biệt, vì sao nói được đồng một sở duyên?

Đáp: Có nghĩa nói đồng sở duyên, tổng luận cảnh này, không nói cảnh này biệt tướng cũng đồng. Lại tâm vương, tâm sở thủ nghĩa tổng biệt tổng mà làm bốn giải thích:

1. Tâm chỉ có lấy tổng, tâm sở chỉ có biệt, các luận đều nói thức liễu tổng tướng, trong Du-già chỉ nói tâm sở liễu này chưa liễu tướng, không nói liễu tổng, luận này tuy nói biểu tâm sở đây cũng duyên tổng tướng, ý của người giải thích luận là không nương.

2. Tâm vương chỉ có lấy tổng tướng, sở thủ tổng biệt, trong Đại luận, luận Trung Biên như luận chủ giải thích đã có nói lý thành thật không thể trái.

3. Tâm sở đồng với sư thứ hai ở trước, tâm vương cũng duyên hai tướng tổng biệt, cho nên ở sau luận nói: Thọ năng lãnh nạp cảnh thuận, nghịch, không thuận không nghịch, khiến các tâm khởi vui thích xả tướng, nếu cũng rõ cảnh nghịch, thuận, không nghịch không thuận, vì sao có thể khởi xả tướng ưa thích? Giải thích các tâm sở đều có khiến tâm lấy nghĩa biệt tướng, văn luận trên dưới có rất nhiều, nên biết tâm vương cũng duyên biệt tướng. Các thuyết trong Đại luận đều đứng về tự lực tâm vương mà nói, giả như không có tự lực tâm sở thì không thể lấy biệt tướng, như vua nhân nơi bề tôi mà có thể biết được việc khác, nếu không nhờ bề tôi tức không thể biết.

4. Tâm vương đồng với sư thứ ba trước, tâm sở chẳng phải chỉ duyên tự biệt tướng, như tâm năng duyên tất cả biệt tướng, các pháp tương ưng, pháp nhĩ đồng duyên chỉ có một việc của cảnh, nếu không như vậy vì sao nói khiến các tâm khởi ưa thích? Đã nói các lỗi, cho nên biết biệt tướng tâm sở đều lấy. Tuy có bốn cách giải thích khiến y nơi thuyết sau, các pháp tướng tương ưng sức mong nhau đồng, vì có duyên, không duyên, không đúng lý. Luận nói các thọ sở thủ sai biệt, hơn nữa đứng về tự hành sở thủ mà nói, dùng thật mà nói, do sức tương ưng hỗ tương lấy sở duyên, đều không trái lý.

Hỏi: Do sức tương ưng, cùng lấy sở duyên, cũng do hành tướng tương ưng hỗ tương khởi, các thọ lẽ ra khởi các hành lấy tượng?

Đáp: Các tâm cảnh đồng sức tương ưng, hành tướng nói biệt, các thọ không đồng. Lại giải thích do sức tương ưng năng khởi các hành thọ khiến các tâm khởi vui mừng, lại nương thù thắng mà nói, nhưng nói khiến tâm, lý thật cũng khiến các thọ ghi nhớ rõ ràng.

Hỏi: Đã vậy đồng tụ tâm tâm sở hành, hành tướng đều đồng nên thành tạp loạn?

Đáp: Hành tướng, cảnh tướng bao gồm chánh không đồng cho nên không trái lý. Quyển 2 ghi: Tâm tâm sở pháp hành tướng đều sai biệt. Quyển 3 ghi: Chớ đụng chạm năm thức năng liễu biệt, y nơi chánh hành mà nói, đều không trái nhau.

Biện rằng: Nay căn cứ quyển 2, luận Du-già, Trung Biên, các văn Duy thức có nói đủ, còn ba giải thích khác đã không phải nói đúng, vốn là vặn hỏi nương chuẩn theo, không thể phàm tình gượng khế hội ý chỉ bậc Thánh, văn sau tự nói: Thọ năng lãnh nạp cảnh thuận, nghịch, không thuận không nghịch, không nói tâm lấy cảnh thuận nghịch. Các tâm sở nói, khiến cho tâm đồng, đến văn đó sẽ hiểu. Lại chuẩn theo đâu để biết căn cứ chánh hành? Thứ hai, thứ ba trước nói: hành tướng tâm tâm sở đều sai biệt, không có xúc v.v… năm thúc năng liễu ư? Trong bản giáo không nói, lẽ nào chẳng phải ý sao? Xin xét rõ điều này, đừng làm mê lầm cho hậu học!

Luận: “Lãnh tướng thuận cảnh” đến “không khổ không vui”.

Hỏi: Thân thức đồng thời lãnh thọ cảnh thuận nghịch, vì sao thọ tương ưng?

Đáp: Trong truyện nói có hai giải thích:

1. Không có đồng thời năng lãnh thọ hai cảnh, cho nên tùy theo một mà đồng thời.

2. Tức trong một thời năng lãnh thọ hai cảnh cảnh đều đến, tùy theo cảnh thù thắng ấy chỉ có một thọ chung, như năm thức đồng thời với ý tùy theo cảnh nào thù thắng mà thọ đồng thời, cho nên đây lẽ ra cũng vậy.

Hỏi: Thọ có năm thọ, ý nào hợp.

Đáp: Hỷ, lạc ưu, khổ vui thích tương tợ, cho nên hợp thành ba.

Hỏi: Nếu vậy vì sao không nói hỷ ưu xả?

Đáp: Do khinh theo trọng, do hẹp theo rộng, vui khổ thông ở nhiều địa thức.

Sớ: “Đối Pháp” đến “tập sắc sở y”.

Xét luận ấy ghi: Tập sắc sở y kiến lập thân thọ, tập Vô sắc sở y kiến lập tâm thọ.

Giải thích: Thân tâm đều do tích tập làm nghĩa, cho nên Sắc vô sắc đều nói tập. Từ hai sở y được xứng hợp thân tâm.

Hỏi: Thức thứ sáu y Thức thứ bảy, Thức thứ bảy vì sao gọi là tâm mà không có nghĩa tập?

Đáp: Sát-na tương tục trước sau rất nhiều gọi là tích tập, hoặc căn cứ bản thức, hoặc trong ý căn thông Thức thứ bảy, thứ tám nên gọi là tập tâm.

Sớ: Thọ rộng căn hẹp.

Như ba thọ môn, khổ lạc hai thọ bao hàm ưu hỷ, mà nói căn thì liền không như vậy, hai mươi hai căn hỷ, lạc, ưu, khổ đều lập riêng, cho nên rộng hẹp có sai khác.

Sớ: Không câu khởi cho nên không thuộc Vô lậu.

Hỏi: Phàm tâm Vô lậu ắt có khinh an, khinh an đều vui thích, đồng thời năm thức vì sao được có khổ?

Đáp: Thức tương ưng vui thích mà khổ không có, năm thức không tương ưng thì khổ nào có lỗi.

Sớ: Nếu hỗ tương hiển tùy theo thích ứng kia.

Bảy sắc, mạng căn cứ không sinh đoạn, do hiển tín v.v… cũng thông kiến đoạn mà vặn hỏi, Địa tiền tín v.v… tám kiến đạo đã hằng không sinh, tín v.v… duyên trói buộc mà hiển bày bảy sắc, nhưng không gọi là kiến đoạn, hay trói buộc hữu.

Sớ: “Không thể nói sáu” đến “Vô học thân có”.

Lập lại người ngoài để nói rõ, ý nói rằng: Vô học học viên mãn được gọi là phi đoạn, mạng ở nơi thân ấy chẳng phải đoạn thì đâu có lỗi gì.

Sớ: Năm căn lẽ ra cũng như vậy v.v…

Sớ chủ chất vấn, Vô học cũng có sắc v.v… năm căn, năm căn lẽ ra cũng thông với bất đoạn, đây đã không như vậy, kia vì sao như vậy.

Hỏi: Chẳng phải sở đoạn, lý có hai nghĩa: Một là có tánh trong thân Vô học, trong thân Vô lậu gọi là Vô lậu, cũng gọi là phi đoạn. Hai là thể Vô lậu cũng là Vô lậu, mà chẳng phải là đoạn, Vô học sắc căn thừa nhận chẳng phải đoạn, điều này có lỗi gì?

Đáp: Căn cứ thể Vô lậu và thuận Vô lậu gọi là phi đoạn, không y nghĩa ban đầu.

Hỏi: Phật sắc, mạng căn lẽ nào chẳng phải là Vô lậu, vì sao tám căn không thông phi đoạn?

Đáp: Thông ba Thừa để nói rõ, cho nên chẳng phải phi đoạn.

Luận: Lại học Vô học chẳng phải hai mà là ba.

Xét luận Du-già quyển 5 ghi: Có bao nhiêu học học làm nghĩa.

Giải thích: Trong hai mươi hai căn có bao nhiêu học, lại dùng học v.v… mà làm nghĩa cảnh. Luận đáp: chín học, vô học, phi học phi Vô học, do ba loại thành nghĩa.

Giải thích: Tín v.v… năm căn ý hỷ lạc xả lại do học v.v… ba loại thành nghĩa, một thông ba loại phi học phi Vô học thành nghĩa.

Giải thích: Một là khổ căn, năm thức tương ưng cho nên không do học Vô học thành nghĩa, chuẩn theo đây nên biết ba thọ thông tam học.

Hỏi: Khổ v.v… thể lậu, vì sao gọi là học Vô học?

Đáp: Ở các học thân có chỗ tiến đến cũng gọi là học, cho nên quyển ghi: Thế nào là học pháp? Nghĩa là Dự lưu v.v… hữu học Bổđặc-già-la, nếu xuất thế pháp Hữu vi hoặc thiện pháp thế gian này gọi là học pháp, vì sao nương pháp này ở trong đó thường thường tinh tấn tu học các giới v.v.. tam học? Thế nào là Vô học? Nghĩa là A-la-hán các lậu đã hết nếu xuất thế pháp Hữu vi hoặc thiện pháp thế gian này gọi là Vô học pháp, nghĩa là trước trừ chỗ nói học Vô học pháp, còn Dự lưu nhẫn đến pháp La-hán, nếu đọa vào tất cả dị sinh các pháp sở hữu, phải biết đây gọi là phi học phi Vô học pháp.

Lại Đối Pháp quyển 2 ghi: Cầu giải thích thoát là tất cả thiện pháp là nghĩa học, đối với các học xứ đã được cứu cánh, tất cả thiện pháp là Vô học, nghĩa là các pháp dị sinh tất cả ba tánh và các học nhiễm ô Vô ký, các Vô học là các pháp Vô ký và pháp Hữu vi, là phi học phi Vô học. Đối Pháp thông ở trước nói cầu giải thích thoát, Du-già căn cứ thù thắng nói trên kiến đạo, người làm luận ý cũng không trái.

Hỏi: Pháp thế gian trong thân Vô học, nghĩa nào cũng gọi là Vô lậu ư?

Đáp: Căn cứ không phiền não, cho nên quyển hỏi: Thế Thiện La-hán, do nhân duyên nào gọi là Vô lậu? Đáp: Đọa trong ba cõi nên gọi là hữu sở nhiếp, các lậu tùy miên hằng giải thích thoát nên gọi là Vô lậu.

Sớ: Các chỗ khác không phát khởi ác hạnh.

Luận ấy chỉ nói các chỗ khác là hữu phú Vô ký không phát khởi ác hạnh, thân biên v.v… như sớ giải thích.

Sớ: “Quyển 58” đến “chuẩn theo không phát nghiệp”.

Xét luận ấy ghi: “Câu sinh Tát-ca-da-kiến chỉ có tánh Vô ký vì thường hiện hành, chẳng phải rất tổn não ở tự tha”. Trong luận Đối Pháp ghi: “Các Vô ký là phát các nghiệp, câu sinh thân kiến đã là tánh Vô ký, rõ ràng thuộc về chỗ khác. Không thể phát nghiệp, thân kiến đã vậy, biên kiến cũng vậy, định tùy theo có, cho nên không luận đến.

Sớ: “Ý thức bấy giờ” đến “bất thiện vô phú”.

Hỏi: Nếu đã dẫn năm thức phải cùng năng dẫn Thức thứ sáu đồng tánh, vì sao năm thức ba tánh thừa nhận đồng thời?

Đáp: Nay trong này ý không được sở dẫn cùng ý năng dẫn thuần là dị tánh, chẳng phải là quyết định khiến cho ý đồng tánh, hoặc thuận ba tánh không đồng với sư.

Luận: “Do không phân biệt” đến “có phân biệt”.

Sớ đã giải thích, ý nói đứng về thức bức bách vui thích sai biệt, cho nên thành lạc hỷ khổ, ưu v.v… sai biệt, không chướng ý thức có vô phân biệt, nhẹ nhàng, chỉ có động gọi là khổ vui.

Có không hiểu liền vặn hỏi: Sư sau giải thích, không chỉ năm thức bức bách vui thích, càng nặng không phân biệt, trong ý khổ vui cũng không phân biệt vì rất nặng, như ở sau luận có nói rõ, cho nên tổng nói phân biệt rất nặng gọi là ưu hỷ. Không phân biệt, nhỏ nhẹ gọi là khổ lạc.

Biện rằng: Tìm sớ trước có nói rõ, biết ở sau phá lỗi.

Luận: “Không khổ không vui” đến “bình đẳng chuyển”.

Hỏi: Vả có trái thuận tức thành bức bách vui thích, vì sao gọi là bình đẳng?

Đáp: Lý thật đều là nghĩa sai biệt, tướng vi tế ẩn, cho nên không khai.

Sớ: “Du-già cuối quyển 5” đến “mười một căn”.

Xét luận ấy ghi: Vị chí địa mấy căn có thể được?

Đáp: Mười một.

Giải thích: Nghĩa là tín v.v… năm pháp, ba Vô lậu căn, và ý hỷ xả. Có thuyết nói: Trừ ý lấy lạc, lý thật nên nói có mười hai căn, cũng có ý, nhưng không nói ý căn thông hiển tám thức tự tánh, trong Vị chí địa chỉ có Thức thứ sáu, cho nên lược không nói.

Biện rằng: Nay lấy giải thích trước, phàm có tâm sở như có tâm vương, nếu không nói ý, sợ rằng nghi có tâm sở mà không có tâm vương, dù không có lạc nhưng lý vẫn không ngăn ngại.

Hỏi: Vì sao không nói có nhãn v.v… và mạng?

Đáp: Không nương nó sinh nên không nói có.

Hỏi: Chỉ nói mười một, vì sao biết được hỷ có tám?

Đáp: Tức luận ấy ghi: Hỷ đối với nó mà có.

Hỏi: Giáo nào làm chứng?

Đáp: Như Thế Tôn nói: Như vậy Bi-sô Ly sinh hỷ lạc tư nhuận thân mình, tư nhuận khắp, biến khắp vui khắp, không có chút phần nào mà không đầy đủ, như vậy gọi là Ly sinh hỷ lạc. Trong này môn đầu nói vị Vị chí, môn sau nói Căn bản vị.

Giải thích: Trong kinh đều nói chưa có căn bản, Ly sinh hỷ lạc tư nhuận thân là môn đầu, cùng khắp v.v… ở sau là môn sau. Cho nên biết trong mười một, hỷ là một, luận Hiển Dương, Đối Pháp rất đồng nên không chép.

Hỏi: Căn bản định ban đầu vì sao một thọ phân thành hỷ lạc?

Đáp: Như trong Nghĩa Đăng có chép đủ, có nghĩa lẽ ra khi trước sau khởi sai biệt, nghĩa là có lúc thân vui không khắp chỉ gọi là hỷ, lúc bấy giờ cùng khắp gọi là lạc.

Biện rằng: Luận này tự nói vì thân tâm vui, biện rõ hai việc hỷ lạc đã trái sở học cho nên không nương.

Hỏi: Căn bản ban đầu và thứ hai, thân tâm cả hai vui thích phân thành hỷ lạc, lìa khổ thọ xứ bức bách thân tâm nên phân ra ưu não?

Đáp: Như trong Nghĩa Đăng ghi: Nghịch thuận khác nhau, chủng loại có đồng và biệt, nên giải thích nghi này.

Lại giải thích căn bản thư nhất và thứ hai năm thức vui thích căn phát động ý phân ra làm hai, tạp thọ năm thức hoàn toàn ý bức ép, ý ưu nên không không phân làm hai.

Luận: Tĩnh lự thứ ba v.v…

Hỏi: Thứ ba phân bản lẽ nào không có căn vui thích, căn nếu vui thích vì sao không nói ư?

Đáp: Hai định trước sẽ động khởi cho nên căn ưa thích mới lạc, thế nên nêu nói, thứ ba an tịnh, không chỉ có đối căn mới gọi là lạc, cho nên mới nói. Tĩnh lự thứ ba không chỉ đối với căn mới gọi là lạc, cho nên không nói, lý thật căn ưa thích còn ở trước.

Sớ: “Quyển có thông luận này”.

Trong quyển cũng nói bàng sinh khổ ưu tương tục, cho nên luận ấy ghi: Sinh loại hữu tình Na-lạc-ca, dị thục vô gián có dị thục sinh khổ ưu tương tục, như vậy nếu sinh một phần ngạ quỷ và trong bàng sinh, phải biết cũng như vậy.

Sớ: “Quyển 5 nói cùng địa ngục đồng”.

Tức luận ấy nói, còn ba hiện hành khác cho nên không thành tựu, chủng tử cho nên thành thục, như sinh đường Na-lặc-ca một bề khổ, bàng sinh, ngạ quỷ phải biết cũng vậy. Lại quyển nói dị thục vô gián v.v… cũng có ba đường không đồng, như trước đã dẫn.

Sớ: “Một căn thiện bất thiện v.v… ”.

Xét luận ấy ghi: Tám thức chỉ có thiện. Thiện, bất thiện, Vô ký thành nghĩa. Năm thiện, bất thiện, Vô ký. Thiện, bất thiện, Vô ký thành nghĩa. Một thiện, bất thiện; thiện, bất thiện, Vô ký làm nghĩa. Năm Vô ký, Vô ký làm nghĩa. Hai Vô ký, thiện, bất thiện, Vô ký làm nghĩa.

Giải thích: Tám nghĩa là tín v.v… và ba Vô lậu. Năm nghĩa là năm thọ trừ ưu lấy ý. Một nghĩa là ưu căn. Lại năm nghĩa là thân, nam, nữ, tỷ, thiệt. Một nghĩa là nhãn nhĩ. Căn cứ biểu nghiệp mà nói, mạng bất tương ưng cho nên không nói nghĩa.

Luận: “Luận nói ưu căn chẳng phải Vô ký” đến “bàng sinh cũng vậy”.

Có nghĩa nay trợ giúp sư trước chống chế vặn hỏi thứ nhất rằng: Luận tùy chuyển lý, nói thiện bất thiện, thật thông Vô ký. Sau chống chế vặn hỏi rằng: Ưu là thứ tám, xả là thứ ba, nói ưu định thành là nương phần nhiều mà nói, nghĩa là trừ sinh tử, các vị khác ưu căn hằng tương tục.

Biện rằng: Nay trợ giúp sư sau vặn hỏi sư trước rằng, luận căn cứ việc gì phải tùy theo thiếu ý, lại chủ bỏ khách nào không thủ, lẽ nào không chủ ý mà nêu bày nhau ư? Lại xả chủ vì sao bỏ mà không lấy, lẽ nào không chủ ý mà cùng ví dụ chăng? Lại bảy pháp khác thành không căn cứ phần nhiều, vì sao riêng ưu căn đứng về phần nhiều? Cho nên chống chế chưa được.

Sớ: Tám căn hiện chủng đều thành tựu.

Hỏi: Mạng căn, y Thức thứ tám chủng mà lập, vì sao nói Thức thứ tám đều hiện chủng thành?

Đáp: Hiện Thức thứ tám gọi là mạng, tám chủng gọi là căn hợp lại mà nói mạng căn, cho nên thông chủng hiện.

Sớ: Vì thuần ánh sáng của khổ.

Xét luận ấy ghi: Nếu Na-lặc-ca v.v… thì trong đó đã đoạt mất ánh sáng, không khổ không lạc thọ cùng thuần khổ không xen tạp, thọ đồng thời mà chuyển, phải biết thọ này bị ánh sáng đoạt mất nên khó có thể rõ biết, như Na-lặc-ca trong đó một bề khổ thọ đồng thời chuyển.

Giải thích: Đẳng là nói đồng với thuần khổ quỷ súc kia, Lại-da trong ấy tuy có xả thọ, vì trong các thức khổ thọ rất thạnh, đoạt mất ánh sáng không hiện cho nên nói khổ thọ, một bề khổ thọ căn cứ thừa nhận thọ mà nói, lược không nói xả.

Luận: Không có dị thục lạc gọi là thuần khổ.

Đây giải thích chiết vặn hỏi, ý vặn hỏi nói: Có Đẳng lưu lạc vì sao gọi là thuần khổ, nên nay đáp rằng: Mong vô dị thục được tên thuần khổ.

Sớ: Cho nên trong Du-già quyển 5 nói quyển 58 ấy v.v…

Hiển bày quyển 5 khế hội với quyển 58. Nói trong ý giận lo tương ưng y theo tùy chuyển v.v… Xét quyển 58 ghi: Lại mười phiền não, bảy chỉ có ý địa, tham, khuể, vô minh cũng thông năm thức, lại đối với Dục giới tham lạc hỷ xả tương ưng, khuể khổ ưu xả tương ưng.

Giải thích: Khổ căn cứ năm thức, ưu chỉ có Thức thứ sáu, xả thông sáu thức. Lại quyển 5 ghi: Nếu mặc tình sinh tất cả phiền não, đều ở ba thọ hiện hành có thể được, thế nên thông tất cả thức thân là cùng tất cả căn tương ưng, không thông tất cả thức thân là cùng ý địa tất cả căn tương ưng, không mặc tình sinh tất cả phiền não, tùy theo thích ứng ấy mà các căn tương ưng. Trước biện phiền não các căn tương ưng, nhưng đứng về tướng thô đạo lý kiến lập, khiến hành giả mới tu tập hiểu mà không bị loạn, nay đứng về thô tế kiến lập đạo lý, khiến người thực hành đã lâu rõ được tự tha thân chủng chủng hành giải thích sai biệt chuyển, rộng làm pháp ấy đại đồng luận này quyển nói rõ, cho nên không chép. Sớ chỉ văn này cho rằng quyển 58 nói y tùy chuyển và tướng thô.

Sớ: Quyển nói địa ngục cũng có thực.

Xét luận ấy ghi: Nếu thô đoạn thực ở trong năm đường Dục giới đều hiện có thể được, đây đối một phần đều sai khác Na-lạc-ca, chẳng phải đại Na-lạc-ca.

Hỏi: Văn đã nói lựa chọn, thừa nhận có lỗi gì?

Đáp: Quyển 5 ghi: Trong Na-lạc-ca không có đoạn thực, định địa các cõi trời cũng lại như vậy, các Na-lạc-ca phần nhiều do nghiệp đời trước đã nhậm trì mà được trụ lâu. Tuy có các căn rộng lớn nhân duyên tổn hại đại chủng, mà không thể chết, sau đó có các gió nhẹ theo vào phần thân, lấy đó làm thức ăn, khó có thể rõ biết thế nên không nói. Văn này đã nói: Các Na-lạc-ca, nên biết văn sau giả nói, nếu không như vậy trước sau có trái ư? Nói các gió v.v… ăn là phải biết là giả nói.

Sớ: Nghĩa là Đại chúng bộ các thức đều sinh.

Do vì thức đều sinh, hậu dị thục năm thức khổ ý ưu được tương tục,

còn lại chuẩn theo nên biết.

Sớ: Tổng khen ngợi giáo hưng khởi.

Luận nói nay nên nói rộng là lời khuyên. Có sớ thì nói hiển bày, hiển bày hay khuyên đều được.

Hỏi: Luận đã tự thuật vì sao tự nói khuyên?

Đáp: Mượn phát khởi tân chủ, hoặc tự khen để tấn phát.

Luận: “Như trong Khế kinh” đến “bốn biến hành này”.

Có nghĩa ban đầu là kinh Khởi Tận và sở dẫn này, đều nói nhẫn đến rộng nói là rộng nói việc gì, do thành thật này chứng minh biết tâm vương cũng duyên biệt tướng, nếu không như vậy vì sao tâm vương do tư lấy chánh nhân v.v… Do định thuyết này cũng duyên biệt tướng, mà vô tâm sở tự không thể duyên, cho nên các luận nói chỉ duyên tổng tướng. Tâm sở duyên biệt, chuẩn theo đây nên biết, vì có nói.

Biện rằng: Trong kinh chỉ bày phương góc, nêu nhãn thức sinh không nói các thức cho nên nói nhẫn đến, hoặc luận lược dẫn nên nói nhẫn đến, cho nên luận Hiển Dương quyển 1 cũng dẫn kinh này nói, như vậy nên biết nhẫn đến thân thức. Trong này sai biệt, nghĩa là đều nương tự căn, đều duyên tự cảnh đều biệt liễu biệt tất cả, nên dẫn như hai kinh trước. Chẳng phải nói nhẫn đến là hiển bày tâm vương duyên biệt, lại tướng có tà chánh ấy và chung cho nên đồng nói v.v… Cho nên luận tự nói vô tâm khởi vị không có pháp này tùy theo một pháp, nên biết “vân vân” không biểu đạt tâm vương mà cũng lấy biệt. Lấy biệt trước sau liền thành sông khe. Lại khi tâm khởi chưa từng không có sở, đâu được căn cứ vô tâm đã nói tổng, nếu không có tâm sở tổng cũng không duyên, vì sao chỉ có biệt tướng? Thuận lý giáo là tâm vương lấy tổng tướng có thể làm khéo bàn, tà chánh v.v… tức tổng tướng.

Luận: Thánh giáo này thành chứng chẳng phải một.

Xét luận Du-già quyển 55 cũng có thuyết này gọi là biến hành, tức luận ấy nói:

Hỏi: Khi các thức sinh, cùng bao nhiêu biến hành tâm pháp câu khởi?

Đáp: Năm, nghĩa là tác ý v.v…

Luận: “Lý nghĩa là” đến “ắt có tư”.

Hỏi: Vì sao biết được, xúc nghĩa là tam hòa, nhẫn đến tư khiến tâm tạo tác?

Đáp: Xét luận Du-già quyển 55 ghi: Tác ý vì sao gọi là năng dẫn phát tâm pháp? Xúc vì sao gọi là tam hòa hợp? Cho nên có nghĩa năng nhiếp thọ. Thọ vì sao gọi là tam hòa hợp? Cho nên có nghĩa năng lãnh nạp. Tưởng vì sao gọi là tam hòa hợp? Cho nên thi thiết sở duyên giả hợp mà thủ. Tư vì sao gọi là tam hòa hợp? Nên khiến tâm tạo tác, ở cảnh sở duyên, cùng tùy theo lãnh nạp hòa hợp trái lìa.

Sớ: Trong luận Hiển Dương quyển 1 dẫn chứng nói có.

Chứng có biến hành, tức luận ấy ghi: Như trong kinh nói khổ đối với tác ý này v.v… Lại nói: Do chỗ sinh tác ý kia chánh khởi, như vậy chỗ sinh nhãn các thức sinh, như trong kinh nói có sáu xúc thân. Lại nói, nhãn sắc làm duyên năng khởi nhãn thức, như vậy ba pháp tụ tập hợp cho nên hay có sở xúc. Lại nói: Xúc làm thọ duyên, như trong kinh nói có sáu thọ thân. Lại nói thọ là ái duyên, như trong kinh nói có sáu tưởng thân. Lại nói như tưởng ấy mà khởi ngôn thuyết, như trong kinh nói có sáu tư thân. Lại nói phải biết sáu xứ xúc hiện nay của ta, tức là nghiệp cũ do tư đã tạo trong đời trước.

Luận: Kế đến đến biệt cảnh v.v…

Luận Du-già quyển 55, luận Hiển Dương quyển 1 nói năm thể nghiệp, cùng với đây đại khái giống, cho nên không chép. Nhưng luận Hiển Dương dẫn kinh để làm chứng, luận này không có, nên dẫn rằng: Như trong kinh nói, muốn làm căn bản của tất cả pháp, như trong kinh nói, chúng ta ngày nay tâm sinh thắng giải thích, là sáu xứ bên trong quyết định vô ngã.

Giải thích: Do vô ngã quán duyên cảnh vô ngã mà sinh thắng giải thích, nhất định biết sáu xứ đều là vô ngã, cho nên như trong kinh nói các niệm cùng tùy niệm, biệt niệm niệm và ức không quên không mất pháp, tâm minh ký là tánh.

Giải thích: Nhớ lại cảnh qua gọi là tùy niệm, ức biệt biệt cảnh gọi là biệt niệm, hoặc trước tổng tướng niệm, sau biệt tướng niệm, nhớ không quên là tên gọi khác của niệm. Như trong kinh nói khiến các tâm trụ cùng đẳng trụ an trụ cận trụ và định trụ, không loạn không tán nhiếp tịch chỉ, đẳng trì tâm trụ một duyên tánh.

Giải thích: Buộc tâm trụ bên trong không dong ruổi bên ngoài gọi là khiến tâm trụ. Ngăn chế tâm kia lần lần vi tế khác trước khắp nhiếp khiến trụ gọi là cùng đẳng trụ. Nhưng vì thất niệm tán động bên ngoài trở lại thu nhiếp mà trụ nội cảnh gọi là an trụ. Trước thân cận niệm trụ tức do niệm này, thường thường làm ý nội trụ tâm kia không khiến tâm kia ở ngoài trụ gọi là cận trụ. Các tướng năm trần khiến tâm tán loạn, trước ở tướng ấy thành tướng lỗi, sức tướng tăng thượng bẻ dẹp tâm kia không khiến cho trôi nổi gọi là định trụ. Dục sân hại v.v… khiến tâm nhiễu động, cho nên trước ở tưởng lỗi lầm, vì sức của tưởng cho nên ở đối với tầm tư các tùy hoặc v.v… chánh trực tâm kia mà không lưu diệt gọi là bất loạn. Do cực tịnh tịnh nên tâm không tán loạn, tức chánh nhiếp trì gọi là nhiếp tịch chỉ. Bình đẳng trì tâm gọi là đẳng trì. Rõ các tâm trước đều ở một cảnh buộc tâm khiến trụ gọi là trụ sở duyên. Như trong kinh ghi: Giản trạch các pháp tối cực giản trạch, cực giản trạch pháp biến liễu, cận liễu, điểm liễu, thâm đạt, thẩm sát, thông duệ, giác, minh, tuệ hành, Tỳ-bát-xá-na.

Giải thích: Hay chánh suy nghĩ lựa chọn tịnh sở duyên, thiện xảo sở duyên, hoặc hai sở duyên gọi là giản trạch pháp. Đối với ba cảnh trước mà giản trạch Chân như thật tánh ấy gọi là tối cực trạch. Nghĩa đối với khổ đế và sai biệt khổ tướng giản trạch, Khế kinh thể tánh các khổ gọi là cực giản trạch pháp. Đối với cảnh sở duyên cùng khắp tầm tư gọi là biến liễu. Đối với biến liễu trước cảnh sở duyên, suy xét tìm cầu tiệm chân tiệm cận gọi là cận liễu. Liễu tâm tâm pháp gọi là điểm liễu. Tri tâm tâm pháp việc sở duyên gọi là thông đạt. Năng định lấy hết sở hữu ấy gọi là thẩm sát. Trước sau tiệm thứ ở trong nghĩa ấy, không quên sót nên gọi là thông duệ. Có thể tuệ giản trạch câu sinh gọi đó là giác. Tập sở đắc tuệ gọi là minh. Tụng hỏi luận quyết trạch, mà nghĩa ấy chuyển tăng minh liễu nên gọi là tuệ hành. Tỳ-bát-xá-na Hán dịch là quán, như trong Đại luận giải thích rộng đủ.

Sớ: “Nếu nói như ái” đến “là gốc của các pháp”.

Lập lại người ngoài vặn hỏi sinh khởi văn sau. Ý người ngoài vặn hỏi: ông đã dùng ái ví dụ, dục chẳng phải biến khắp, vì sao trong kinh nói dục là gốc.

Luận: Đây lại phải đợi các duyên khác, có lỗi không cùng tận.

Có nghĩa trong luận ở giải thích sau niệm khiến tâm ghi nhớ rõ ràng, tông ấy cũng nói có thể minh ký, là đứng về tâm; đã minh ký là vì ngay các pháp, nếu do đây cho nên các tâm minh ký, đây lại phải đợi duyên khác, lại có lỗi không cùng tận. Người thích luận tông phải khéo tư duy lựa chọn.

Biện rằng: Thù thắng ấy phát khởi vốn là nghiệp dụng của tác ý căn, nhưng lại đợi các thắng giải thích có dụ cho nên lỗi không cùng, ngã tông minh ký chẳng phải gốc nghiệp của tâm cho nên tuy đợi các niệm vô loại ấy không có lỗi nào mà không cùng tột.

Sớ: Tâm thừa nhận trước có trên thể lại lập các dụng.

Hỏi: Tâm thể lập dụng tự thừa nhận chẳng phải tha đâu được làm chứng.

Đáp: Trước đã rộng thành làm chứng không có lỗi.

Luận: Căn lực giác chi chẳng phải tức tâm.

Hỏi: Phá vì sao thừa nhận ư? Nếu phá bản sư, bản sư tâm sở đều thể là tâm, tuệ v.v… đồng dụ sở lập không thành, nếu phá mạt chấp có lỗi tương phù, chưa thừa nhận tâm sở lìa tâm có.

Đáp: Chuẩn theo sớ phá trong mạt chấp lập ba bốn tâm sở, tuệ v.v… y tư vì chẳng phải tức tâm, dụ không có lỗi ấy. Có nghĩa chỉ phá bản chấp, nhưng dụ không có lỗi, trước lại thành lập tuệ đẳng biệt có cho nên được làm dụ. Lại giải thích tông ấy lấy kinh làm lượng, nói định tức tâm các biệt có tự thể.

Biện rằng: Trước tuy thường nói các tâm sở, mà chưa thành lập lìa tâm có thể, vì sao chẳng phải lỗi dụ? Lại chưa thấy Kinh bộ không lập nhất định thừa nhận các tâm sở. Hai giải thích vặn hỏi chung, cho nên sớ nói trội hơn.

Luận: “Như vậy” đến “ba mươi mốt câu”.

Nói tổng biệt trong truyện có hai giải thích:

1. Hai và hai đến năm gọi đó là tổng, mỗi mỗi riêng khởi gọi là biệt.

2. Khởi một đến bốn gọi đó là biệt, hợp khởi năm loại gọi là tổng.

Biện rằng: Giải thích sau là chính.

Hỏi: Lại hợp duyên, cảnh hai hoặc bốn, lẽ nào không trái đồng tụ tâm pháp một sở duyên?

Đáp: Cảnh bản chất một, đối với năng duyên nghĩa phân ra bốn gọi là sở lạc v.v… , lý vốn không trái, lại như một cảnh, nghĩa là muốn quán sát tức gọi là sở lạc, thắng giải thích ấn trì tức gọi là quyết định, khi niệm minh ký tức gọi là từng tập, định duyên chú tuệ giản trạch tức gọi là sở quán, do đồng tụ tâm pháp một cảnh này.

Sớ: Sư này dùng thiên nhãn thông thiên nhĩ thông là ý thức tương ưng tuệ v.v…

Chuẩn theo ý của sư này không có hai thần thông, tức thành sự trí, cũng chẳng phải năm thức tương ưng tuệ, nhân quả năm thức đều không có tuệ, hoặc chỉ nhân không, quả vị thừa nhận có, thế nên sư sau dùng năm thức của Phật thành vặn hỏi của sự trí. Giải thích sau thích lý trội hơn.

Luận: “Ngăn đẳng dẫn” đến “cho nên khách có quyết định”.

Định sai biệt mà có nhiều loại, như trong Nghĩa Đăng đã biện đủ, lại có đồng dị, như luận luận Du-già sao giải thích.

Sớ: Trong luận Phật Địa nói trừ lậu tận thông v.v…

Xét luận ấy quyển 3 ghi: Như vậy các Tĩnh lự giải thích thoát không tranh cãi nguyện trí thông vô ngại, nhiều phần nhiếp ở trong diệu quan sát trí, thần cảnh trí thông nhiều phần nhiếp ở Thành sở tác trí, Lậu tận trí thông, Lậu tận trí lực. Nếu nói lậu tận tương tục trong đó có bốn trí sở nhiếp. Nếu nói duyên lậu tận Niết-bàn ấy, nhiều phần nhiếp ở Đại viên cảnh trí, Bình đẳng tánh trí.

Giải thích: Tác dụng của Quán sát trí rất thù thắng nhiếp nhiều công đức, Thần cảnh trí thông duyên ngoại trần phát, có đồng với năm thức phần nhiều ở thành sự. Tương tục là thân ở lậu tận thân gọi là lậu tận, cho nên bốn trí gồm thâu nhiếp. Nếu duyên lậu tận Niết-bàn pháp nên gọi là lậu tận, cho nên thuộc Bình đẳng, Cảnh trí. Hai duyên rất mạnh, lại được hai trí đủ Niết-bàn. Văn trong sớ dẫn do người kiểm xét nhầm, nên y ngày nay để nêu bày.

Luận: Thiện nghĩa là tín tàm v.v…

Hỏi: Các pháp thiện này là luận tự đưa ra, là luận hay kinh nói?

Đáp: Trong bản kinh đã nói, luận sau đó dẫn giải thích, cho nên luận Hiển Dương quyển 1 dẫn kinh để dẫn chứng rằng: Như trong Khế kinh nói, đối với Như Lai khởi tin kiên cố, tàm đối với sở tàm, quý đối với sở quý, vô tham sân si ba loại thiện căn khởi tinh tấn trụ, có thế ân cần thích hợp với ý thân và tâm an, tất cả vô lượng thiện pháp sinh khởi, tất cả đều nương tướng bất phóng dật, lại trừ tham ưu tâm y chỉ xả do vì không hại, nên biết nó rất thông tuệ.

Sớ: “Đây căn cứ về lập y” đến “lý phải hợp nhau”.

Ba căn, tinh tấn bài tụng gần kế đến gọi là hợp nói. Bốn đồng thời là y lập xả v.v… , nếu không như vậy, thì không ngộ bốn pháp đều làm y, gọi là lý phải hợp.

Sớ: Trừ vô si.

Họ nói vô si lấy tuệ làm tánh, chẳng phải tự tánh thiện cho nên chỉ có mười.

Sớ: Sư Chánh Lý luận nói có mười hai v.v…

Tức luận ấy nói, tụng thuyết và nói tổng nhiếp hân yếm, yếm nghĩa là nhàm trái bỏ, như duyên khổ tập. Hân nghĩa là ưa thích, như duyên diệt đạo, hai pháp này hỗ tương khởi ắt ở một tâm không được câu sinh, tuy chỉ là thiện chẳng phải khắp thiện tâm, cho nên trong pháp thiện đại địa không nêu bày riêng.

Sớ: Luận Bà-sa nói riêng có hân yếm.

Luận ấy quyển 28 ghi: Có biệt pháp gọi là yếm, chẳng phải tuệ chẳng phải vô tham, là tâm sở pháp cùng tâm tương ưng. Có biệt pháp gọi là hân, chẳng phải tham dục chẳng phải không sân, là tâm sở pháp cùng tâm tương ưng. Nhưng kiến đạo nói khổ tập nhẫn trí gọi là năng yếm, diệt đạo nhẫn trí gọi là năng hân, do nhẫn trí yếm ấy, hân tương ưng gọi là năng hân yếm, nhẫn trí thật chẳng phải hân yếm tự tánh.

Luận: Chỉ có thiện.

Cũng ngăn Kinh bộ tín, tinh tấn hai thông ba tánh, cho nên Thành Thật luận phẩm Tín ghi: Tín thông ba tánh, tinh tấn cũng vậy.

Sớ: Là cảnh Thức thứ bảy.

Hỏi: Đã là tín y vì sao chẳng phải y Thức thứ bảy?

Đáp: Tuy tín y khởi, nhưng tín sở duyên, gọi là cảnh Thức thứ bảy.

Luận: Lạc thiện là nghiệp.

Xét luận Hiển Dương quyển 1, tín nghiệp có năm, xác quyết bất tín chướng là nghiệp, năng đắc Bồ-đề tư lương viên mãn là nghiệp, lợi ích tự tha là nghiệp, năng thú thiện đạo là nghiệp tăng trưởng tịnh tín là nghiệp. Bốn loại sau thuộc lạc thiện này, vì lạc đối với thiện mới khởi bốn.

Sớ: Tức là tín kiên cố trong luận này.

Tức nhiếp Đại thừa Thức thứ bảy tụng rằng: Sức tăng thượng thanh tịnh, tâm kiên cố thắng tấn, là Bồ-tát mới tu, vô số ba đại kiếp.

Lại xét trong Du-già quyển 5 ghi:

Hỏi: Thế Tôn y căn cứ vào đâu mà nói như vầy: đối với Như Lai tịnh tín sâu kiên cố căn sinh kiến lập, tất cả thế gian như các Sa-môn, hoặc Bà-la-môn hoặc Thiên ma, Phạm, không có như pháp năng dẫn?

Đáp: Y tín căn mà nói, đây là hiển bày tín ấy ở văn tư tu thắng giải thích kiên cố.

Luận: Một tín có thật v.v…

Đủ như trong sớ có nói. Có nghĩa vặn hỏi: Hoặc như cổ sư nói thật sự là nhân quả thế sự, như sự bốn đế, nói thật lý, là chân lý bốn đế, tức lý nhân quả, cho nên ngũ uẩn nói nghĩa là ở nghiệp quả chắc thật, rất phù hợp gọi là tín nghiệp quả.

Đại thừa hư không diệt đế tổng thâu nhiếp, chẳng phải như Hữu tông, nên không có lỗi. Trong sớ nói là nhiếp hư không nhưng bao tổng nói thật, đây chẳng phải Đại thừa không thể y cứ.

Biện rằng: Sớ nói bản không, hư không không có cho nên chẳng phải thuộc đế, không nói thức biến, y Chân như lập đế không thâu nhiếp, cho nên trong sớ quyển 2 nói, thức biến hư không ba đế sở nhiếp. Lại y nơi thức, Chân như lập hư không tạm gọi là hư không, chẳng phải

thật không, lập căn cứ y Chân như thức biến hư không nói để nhiếp, cũng không tận lý, tùy theo tâm năng biến, vì sao không có khổ tập đạo đế ba nhiếp? Lại thức thứ bảy Chân như thừa nhận bốn đế nhiếp, y Chân như lập không, vì sao chỉ có diệt đế? Lại bản không vốn không, vì sao được tên là lý nhân quả? Nếu nói chẳng phải là lý nhân quả, vì sao nói chân lý bốn đế tức là lý nhân quả, do nó từ rộng nên không nói đế, đối với lý không ngại, luận này bàn chung, năm uẩn riêng bày, cũng không trái nhau.

Hỏi: Cảnh sở y vì sao thứ lớp khởi nhẫn, lạc, mong cầu?

Đáp: Cần phải quyết mới mong cầu. Lại nhân quả có thứ lớp như vậy.

Hỏi: Đối với thật v.v… ba tín có khởi, không thể như đã nói, đã tin đều khởi, nhân nêu nhân quả mà để rõ, vì sao nhẫn, dục lại có không có?

Đáp: Ban đầu căn cứ tổng biết pháp thể lý sự cho nên chỉ tín nhẫn, sau riêng quán đức tự tha có năng lực cho nên tin ưa muốn. Lại ban đầu trong thật cũng bao gồm bốn đế, khổ tập, bất lạc nên tổng nói là nhẫn.

Luận: Ba tín có khả năng v.v…

Tín có lực bao gồm có hai giải thích:

  1. Y người biện rõ, như trong sớ đã nói.
  2. Đứng về pháp mà nói.

Cho nên có nghĩa, hoặc có lực nói tức thiện sở tín, nghĩa là tín thiện pháp năng đắc năng thành Hữu vi Vô vi quả thể xuất thế, khởi hy vọng cho nên tu tập, tuy chẳng phải văn luận cũng không trái lý.

Luận: Nhẫn nghĩa là thắng giải thích v.v…

Hỏi: Nhân quả của tín này là đồng thời hay khác thời?

Đáp: Giải thích đủ như trong Nghĩa Đăng và sớ. Chuẩn theo ở sau câu khởi, sư thứ nhất ắt đồng thời, suy tìm sự lý khi chưa quyết định thời tín không sinh, do đây tín v.v… ắt dục và giải thích đồng thời, nếu y theo sư sau cũng thừa nhận dị thời. Giả sử đối với sự lý khi chưa quyết định tín cũng sinh.

Biện rằng: Sư sau nhân quả đồng dị không trái, sư trước ắt đồng, lý làm sao có? Vì sao như vậy? Hễ nói quyết định mới có tín sinh, không nói dục, giải thích phải đồng thời khởi, trước quyết sau tin, lẽ nào mất ở quyết mới sinh nghĩa tin? Giả sử y văn ấy chỉ có thể nhân đồng, chuẩn theo đâu nói quả cũng câu sinh ư? Do đây mà nói không che thì có thể thấy.

Luận: Tàm v.v… tuy có thiện chẳng phải tịnh làm tướng.

Hỏi: Nếu tàm chẳng phải tịnh vì sao trước vặn hỏi nếu khiến tâm tịnh tàm v.v… vì sao sai khác?

Đáp: Tàm đã gọi là thiện, vì sao được phi tịnh? Nhưng không tợ tịnh ấy làm tướng, cùng tín không đồng, do vặn hỏi này, đáp mong nghĩa không đồng nên không có lỗi.

Luận: Dứt các ác hành làm nghiệp.

Chuẩn theo luận Hiển Dương quyển 1, nghiệp có năm loại, một là đoạn không có tàm chướng làm nghiệp, thứ năm là tăng trưởng tàm làm nghiệp, ba loại ở giữa đồng ba loại trong tín, cho nên luận ấy nói chỉ đồng với tín trước.

Sớ: Tức là hai duyên.

Luận Hiển Dương tự pháp v.v… hai pháp là duyên tàm.

Luận: Dừng dứt ác là nghiệp.

Luận Hiển Dương nghiệp có năm: Ban đầu đoạn vô quý, sau là tăng trưởng vô quý, ba pháp giữa đồng với trước. Nghiệp của các thiện khác đều có năm loại, nhưng ban đầu và sau nghiệp mong trừ tự chướng có thể tự tăng trưởng, ba pháp ở giữa đều đồng nên không chép, chuẩn theo trước có thể hiểu.

Luận: Nghĩa là y theo thế gian nhàm trách tăng thượng. Có nghĩa nói, trách nghĩa là quở trách, nhàm nghĩa là nhàm lìa, thấy người thế gian và pháp thế gian, quở trách người bạo ác nảy nhàm lìa ác pháp, cho nên đối với bạo ác mà sinh khinh chống. Trong sớ nói, nghĩa là tự mình nhàm ác, đây nhất định không đúng. Tự mình nhàm ác tức là khinh chống, tự tánh hổ thẹn vì chẳng phải thế gian, nay đã hiển bày thế gian quở nhàm, nên giải thích trước là chính.

Biện rằng: Ác pháp trái mình được tên thế gian, là trước nhàm sau mới khinh chống, lý nào không được. Cho nên văn sau nói, đối với mình càng tổn gọi là tự tha, nên ác gọi là tha gọi là thế gian, mà không có lỗi, lại nhàm khinh chống hai nghĩa không đồng. Nếu trước không nhàm, vì sao chống?

Sớ: Do một lý hai giáo trước, tức trước nêu tông là lý này, hai giáo nên biết.

Luận: “Nhưng tập luận nói” đến “lý ấy ắt phải như vậy”.

Đây nói luận căn cứ nhân quả, chẳng phải luận tự đứng về nhân quả để biện, luận ấy đã nói như trong sớ có dẫn ở trước.

Sớ: Nếu vậy tức ba niệm trụ v.v… cũng vậy.

Ý chất vấn này cho rằng, niệm trụ cũng dùng không sân làm thể, nên đồng với đại bi chẳng phải căn sở nhiếp.

Sớ: Niệm trụ y tuệ nên căn sở nhiếp.

Sư này lấy Đối Pháp là chính, xét luận ấy quyển 1 nêu thể của niệm trụ nói: Đối với tất cả chủng ái, khuể, phiền não và tập khí không hiện hành đầy đủ trong ấy đã có định tuệ v.v… làm thể.

Giải thích: Tổng dùng năm pháp, không tham, không sân, đại xả, định, tuệ mà làm thể.

Sớ: Lại y đứng về ảnh hiển chẳng phải văn chân lý.

Hợp với luận Du-già, xét luận ấy quyển 5 ghi: “Niệm trụ chẳng phải căn nhiếp, không tham sân sở nhiếp”, kết hợp lại nói hiện bày chẳng phải thật, nêu các đức của Phật y tuệ căn thâu nhiếp, hiển niệm trụ này lý cũng như vậy.

Sớ: Điều này cũng không đúng.

Sau sư bắt lỗi sư trước, chưa đưa ra lý do.

Sớ: “Như năm kiến” đến “ở đây không si cũng vậy”.

Sư trước nêu kiến chứng không có thật si.

Sớ: “Hoặc làm việc thiện” đến “chẳng phải cần Thánh quả”.

Tùy theo vị nhân quả sở tu, việc xong tức gọi là mãn, không chỉ có bậc Thánh phương Tây được tên mãn.

Sớ: “Nếu nói cần” đến “nhưng trong này”.

Hỏi: Khởi sinh ở sau, nói nhưng trong này là ý nói cần trong này là cần nào? Văn tỉnh lược.

Sớ: Vừa có thể gọi là thuần.

Tuy chẳng phải là tinh cũng là pháp thắng nhiễm, gọi là vừa có thể thuần.

Luận: Nhị thừa rốt ráo đạo vui thích Đại Bồ-đề.

Có nghĩa nói vui thích đại Bồ-đề gọi là không đủ. Lại y Thắng nghĩa mà nói, lý thật thường thường nhập Vô lậu quán, khiến quán tăng thêm rõ ràng, cũng gọi là không đủ, nếu không như vậy định tánh không đâu mà không đủ.

Sớ: Và trước hợp làm năm cách giải thích.

Trước là luận, kinh đã nêu bày năm tên.

Hỏi: Bốn nghĩa sau giải thích năm vị trước, vì sao giải thích được để làm năng giải thích ư?

Đáp: Tức đã nêu bày năm vị tức là giải thích nghĩa tinh tấn ấy, cho nên hợp làm năm.

Sớ: Hỏi vì sao trong này dùng vô tham làm đầu.

Ý vặn hỏi ấy nói, trước nêu bất phóng dật lấy cần làm đầu, vì sao sau kết vô tham làm đầu.

Sớ: “Đáp trở về trước” đến “từ gần mà kết”.

Ý đáp này nói: Y nơi thứ lớp trước nói, nếu văn kết thiện y trì, không tham làm đầu.

Luận: Tịnh trụ làm nghiệp.

Có nghĩa, hỏi tịch tịnh trụ chỉ có thể gọi là tánh vì sao gọi là nghiệp, do tánh hiển bày trước sau không có, cho nên trong Tập luận ghi: “Không cho tạp nhiễm sở y làm nghiệp”, nên luận chủ lẽ ra là lầm.

Biện rằng: Nếu khiến tâm bình đẳng ba loại mà làm nghiệp ấy có thể như đã trách, tịnh trụ đã chẳng phải bình đẳng đồng với ba, vì sao vặn hỏi rằng: Dùng tánh làm nghiệp. Lại tịnh trụ tức là nghĩa không chấp nhận nhiễm, Đối Pháp vì sao chỉ riêng trách luận này? Do các văn luận này, tuy nghĩa lý hơi khác đại khái đồng may mắn không đến nỗi mê hoặc. Lại tánh hiển bày nghiệp cũng đâu trái, như Thức thứ bảy, thứ sáu tư lương liễu biệt làm tánh tướng. Nếu nói tâm sở không như vậy, lý cũng không đúng, như trong luận này nhẫn lấy giận phát mà làm tánh của nó, trong Đối Pháp tức do giận phát làm nghiệp, lẽ nào chẳng phải tánh, nghiệp đồng giận phát? Cho nên hai luận cùng nêu. Lại đây nói não, bộc v.v… làm tánh, giòi rỉa làm nghiệp; luận Ngũ Uẩn nói: Phát ra lời ác lại càng hơn giòi làm tánh, cũng là tánh, nghiệp, hai luận hỗ tương nói rõ, đây vì sao không thừa nhận? Do đây mà xét thì luận thật không nhầm.

Sớ: Chẳng phải nói hạnh.

Chữ hành chẳng phải bình thanh, lẽ ra phải đọc theo khứ thanh.

Luận: Trong vị ban đầu, giữa, sau biện xả sai biệt.

Hiển bày lý do bình đẳng ba sai biệt, cho nên Tạp Tập quyển 1 ghi: Tâm bình đẳng tánh, nghĩa là do ngôi vị ban đầu chặng giữa sau biện xả sai biệt, vì sao? Do xả cùng tâm tương ưng lìa chìm đắm v.v… không có tánh bình đẳng, ban đầu chứng đắc tâm tánh bình đẳng, do tâm bình đẳng xa lìa Gia hạnh tự nhiên tương tục. Kế đến lại chứng đắc tâm tánh chánh trực, do tâm chánh trực ở các tạp nhiễm không có suy nghĩ, sau cùng chứng đắc tâm không tánh Vô công dụng trụ.

Sớ: “Đối Pháp quyển 10” đến “là tham ưu”.

Xét luận ấy, trong giải thích bảy Giác chi, Xả giác chi nói, xả là thể không nhiễm ô, hằng trừ tham ưu không có vị nhiễm ô làm tự tánh.

Có bản sớ nói, Đối Pháp quyển 18 phần Đạo chi nói là nhầm.

Sớ: Do ưu căn cũng có xả.

Nghĩa là vì ưu thông thiện.

Luận: “Tuy có nghĩa sai biệt” đến “nên không có lập riêng”.

Chuẩn theo Du-già quyển 5, y sân tham v.v.. lập các pháp nhiễm, nên ngược lại là tịnh, vì không có khác, nên đây không nói. Tức luận ấy ghi: Phần nhiều tùy theo sân giận tự tại nghĩa chuyển tất cả một phần là có tranh cãi, phần nhiều tùy theo ái kiến tụ tại chuyển nghĩa tất cả một phần là có vị ái, phần nhiều tùy theo tham tự tại chuyển nghĩa tất cả một phần là y nơi ham muốn. Những chỗ khác có văn như thế này nên không dẫn.

Luận: Hân nghĩa là ham muốn đồng thời v.v…

Hỏi: Vì sao căn bản, tùy hoặc không có thứ lớp mà trái lại?

Đáp: Đồng loại nên dễ rõ, hân, không nhẫn v.v… không có phần sân, cho nên kế đến nói hân thích, sau nói không nhẫn v.v… Nhàm, không xan tham v.v.. đều không có tham phần, cho nên sau hân yếm nói không xan tham v.v… còn lại chuẩn theo có thể biết.

Luận: Không hận não tật v.v…

Chuẩn theo luận Du-già quyển 8, y theo sân mà lập bảy pháp sai biệt, cũng hợp và trái với nó, y nơi không sân mà lập ở thiện pháp, cho nên nói đồng v.v…, tức luận ấy nói, nếu phiền não ràng buộc hay khiến phát khởi cầm nắm dao gậy đánh nhau tranh giành gọi là giận phát. Đối với không thuận ngôn tánh không kham nhẫn nên gọi là ác thuyết, đối với mắng mắng trở lại, đối với sân sân trở lại gọi là bất nhẫn, là tánh não tha nên gọi là để-đột, tánh ưa cơ hiềm nên tỷ-tý, ôm lòng oán ghét, đối với người khác phan duyên không nhiêu ích, cùng khởi phát ý ngôn tùy thuận tùy chuyển gọi là khuể tầm tư, ôm lòng tổn não, đối với người khác phan duyên não loạn cùng khởi phát ý ngôn. Còn lại như trước đã nói gọi là hại tầm tư.

Luận: Không xan tham kiêu mạn v.v…

Cũng đồng với Du-già quyển 8 nói y tham sở lập các pháp phiền não trái lập trong thiện, tức luận ấy ghi: Hiện hành ngăn bức, có chỗ khất cầu nên gọi là nghiên cứu tìm tòi, đối với sở đắc lợi không sinh vui mừng đầy đủ, dù được tha lợi liền cầu lợi thù thắng, gọi là lấy lợi cầu lợi. Đắm trước tài lợi hiển bày đức không có thật, muốn khiến người biết, nên gọi là ác dục. Đối với đại nhân muốn cầu lợi dưỡng cung kính rộng lớn, nên gọi là đại dục. Ôm lòng nhiễm ô hiển bày đức không có thật, muốn khiến người biết gọi là tự mong cầu dục. Đối với các dục của mình sinh tham ái nặng gọi là đắm mê. Đối với các dục khác sinh tham đắm nặng gọi là đắm vị khắp. Đối với các cảnh giới sinh đắm trước nặng gọi là tham. Đối với các ác hạnh sinh đắm trước nặng gọi là tham phi pháp. Đối với các tài bảo của cha mẹ tự mình thọ dụng bất chánh gọi là chấp trước. Đối với tài vật người khác gởi cho mình muốn đoạt lấy gọi là ác tham. Đối với cảnh sở duyên ràng buộc, cũng như ngủ mê che lấp tâm ấy gọi là không xứng lý chuyển. Tâm ôm ái nhiễm, phan duyên các dục phát khởi ý ngôn, tùy thuận tùy chuyển gọi là dục tầm tư. Tâm ôm lòng nhiễm ô phan duyên thân cảm phát khởi ý ngôn, còn lại như trước đã nói gọi là thân lý tầm tư. Tâm ôm lòng nhiễm ô phan duyên quốc độ phát khởi ý ngôn, còn lại như trước đã nói gọi là quốc độ tầm tư. Tâm ôm nhiễm ô phan duyên tự nghĩa suy tìm nương gá dời đổi, lúc sau mong được phát khởi ý ngôn, còn lại như trước đã nói gọi là bất tử tầm tư. Tâm ôm nhiễm ô phan duyên tự tha, hoặc kém hoặc hơn khởi phát ý ngôn, còn lại như trước đã nói gọi là khinh miệt tương ưng tầm tư. Tâm ôm nhiễm ô phan duyên thí chủ, qua lại nhà quyền thế khởi phát ý ngôn, tùy thuận tùy chuyển gọi là gia thế tương ưng tầm tư.

Hỏi: Trong đây nói tham và căn bản tham vì sao lại khác?

Đáp: Căn bản tham ấy gọi là bất thiện căn, đây thì không như vậy, nên có sai khác.

Luận: Không che giấu dối nịnh v.v…

Tức luận Du-già quyển 2 và quyển 8 thừa nhận kiêu mạn dối trá cũng ở trong trái ngược. Quyển 2 ghi: Thế nào là kiêu mạn? Nghĩa là ở trên giới tăng thượng hủy phạm Thi-la, do thấy nghe nghi khi người khác nêu bày bèn nương gá các việc, nhờ các việc khác ấy giới lập ngoại ngôn mà dẫn dụ lẫn nhau. Thế nào là thừa nhận? Nghĩa là vì sợ họ, hoặc lại ở nơi họ có chỗ trông mong, tuy có phạm giới trọng mà không phát lộ, cũng không hiện hành, chẳng phải ý lạc thật, dối trá với người trí đồng phạm hành hiện hành, thân ái cung kính, khôn khéo hai nghiệp thân ngữ”. Quyển 8 ghi: “Tâm ôm nhiễm ô vì hiển đức mình giả hiện oai nghi nên gọi là kiêu, tâm ôm nhiễm ô vì hiển đức của mình, hoặc hiện thân sự, hoặc thực hành ngữ nghiệp khôn khéo, nên gọi là dối”.

Hỏi: Hai văn vì sao sai khác?

Đáp: Ban đầu đứng về che giấu tội, sau vì hiển đức, nên hai văn sai khác.

Sớ: Đối Pháp giải thích mạn.

Xét sớ giải thích rằng: Bất kính nghĩa là đối với sư trưởng và bậc có đức mà sinh ra cao ngạo. Khổ sinh nghĩa là sinh hậu hữu.

Sớ: Hợp căn bản hai mươi sáu tùy phiền não.

Ý nói, căn bản và tùy tổng có hai mươi sáu, trong đó có mười một loại ngược với thiện. Văn sớ đảo ngược, lẽ ra nói hợp căn bản và tùy phiền não có hai mươi sáu.

Luận: Tướng dụng sai biệt nên lập nó.

Hỏi: Bất phóng dật v.v… tướng dụng sai biệt làm thế nào lập được?

Đáp: Trước nói vô dụng, không có bốn dụng biệt thể bên ngoài, nay nói hữu dụng là có dụng đồng thể sai biệt.

Hỏi: Tuy dụng có thể biệt nhưng thể tướng lại đồng vì sao lập riêng?

Đáp: Tướng cùng dụng tùy theo có một khác nhau, tức lập trong thiện, chẳng phải tướng dụng cả hai đều khác nhau mới lập.

Sớ: Tám pháp sau hoặc lại có mười pháp.

Tám nghĩa là đại tùy, mười là thêm tà dục, giải.

Luận: Luận nói mười một khởi trong sáu vị.

Hỏi: Đối với sư này, thiện pháp rất nhiều, có bao nhiêu pháp đồng thời?

Đáp: Như trong sớ có nói đủ. Có nghĩa ở vị Vô lậu cho chín pháp câu khởi, khinh an Hữu lậu, tàm quý khởi một, vì không có pháp thứ hai, Hữu lậu định tâm chấp nhận tám pháp câu khởi, trừ xả, bất phóng dật, tàm, quý tùy một, tán thiện chấp nhận có bảy, trong tám pháp trước trừ khinh an.

Biện rằng: Đây căn cứ sớ bàn, tùy hiển nêu nghĩa hơi sai khác không vượt quá. Nhưng ý sớ nói, do sư này dẫn sáu vị làm chứng, sợ người mê lầm nói sư này thừa nhận quyết định đẳng vị, chỉ có người tin một mới cho rằng sư này đều thừa nhận đồng thời, tức hiển bày sáu vị mỗi mỗi chấp nhận cùng các tâm sở đều gọi là đều thừa nhận, chẳng phải nói mười một câu khởi gọi là đều. Chín tám, bảy đồng thời, lý chuẩn theo nên biết, cho nên không nói cặn kẽ, cũng không có lỗi.

Có thuyết nói, sớ chủ thừa nhận mười một đồng thời, điều này trái với ý chỉ của bản sớ, lẽ nào có thể sớ chủ không hiểu tàm v.v… của sư trước đều không nói mười một đồng thời?

Sớ: “Tuy tàm cùng với quý” đến “hợp thuộc một vị”.

Đây là giải thích vặn hỏi. Ý vặn hỏi rằng, tàm quý hai pháp khởi đã không đồng thời, vì sao sáu vị hợp ở một chỗ, cho nên phát sinh câu trả lời này.

Luận: “Lẽ ra nói tín v.v…” đến “mười biến khắp thiện tâm”.

Hỏi: Phẫn v.v… là y sân lập, sân vị phần v.v… không có, hành xả nương y tha, bốn pháp không có phương hướng khởi chăng?

Đáp: Giả sử như vậy cũng đâu có lỗi gì? Nếu vậy vì sao mười biến

khắp thiện tâm?

Có nghĩa hỏi đáp lần lượt giải thích, văn nhiều nên không dẫn, nhưng ý người viết cho rằng phẫn v.v… là sân phần, cùng với sân không đồng thời, xả v.v… nghĩa khác nhau nên được câu khởi.

Hỏi: Xả v.v.. nghĩa sai biệt nên gọi là giả, phẫn đã sinh riêng nên chẳng phải giả nhiếp?

Đáp: Do thể tức sân không khác nên gọi là giả.

Hỏi: Sân đã không đồng thời vì sao là thể sân?

Đáp: Tức nói thể sân gọi là phẫn v.v…

Hỏi: Đã phẫn tức sân, như sân chẳng phải giả?

Đáp: Nói sân làm phẫn, phẫn vì sao không giả.

Hỏi: Khi phẫn không có sân, vì sao nói sân lấy đó làm phẫn?

Đáp: Từ sân chủng sinh nên nói sân làm phẫn.

Hỏi: Thọ thọ chủng sinh gọi là thọ phi tưởng, phẫn sân chủng sinh gọi sân là phi phẫn chăng?

Đáp: Phẫn sân chủng khởi, nghĩa khác nhau gọi là khởi, thọ thọ chủng sinh, lãnh nạp phi tưởng.

Biện rằng: Phẫn sân chủng sinh giả không đồng thời, bất hại thì lẽ ra như vậy, lìa không có, sân không có, cả hai lẽ ra không như nhau, lẽ nào có thể bất hại riêng có chủng sinh? Do đây không được nói sân phẫn hai chủng đều không đồng thời, nên phải nói phẫn v.v… y cảnh sân hành thô trái mà không câu khởi, bất hại thì không như vậy, tùy theo thiện vị nào đều không tổn vật, nên được câu sinh, hành xả v.v…chuẩn theo đây nên biết.

Luận Du-già quyển 5 nói:

Hỏi: Các pháp nào tương ưng?

Đáp: Tha tánh tương ưng, chẳng phải tự tánh.

Hỏi: Đã không tương ưng vì sao câu khởi?

Đáp: Hễ là tương ưng thì ắt câu khởi, tự có câu khởi thì không phải tương ưng. Sắc, bất tương ưng tuy có tâm đồng thời nhưng chẳng phải tương ưng.

Hỏi: Bốn sự thiếu sự nào?

Đáp: Bốn nghĩa tương ưng thiếu sự v.v… bất hại, vô sân không có sự biệt thể; xả, bất phóng dật đối với cần, ba căn cũng chuẩn theo đây để biết. Đứng về tín v.v… nên gọi là tương ưng, dụng không lìa thể, bất hại xả v.v… cũng đủ bốn nghĩa.

Luận: Có nghĩa định Gia hạnh, cũng được tên định địa.

Hỏi: Vì sao luận Du-già quyển 5 ghi: Nghĩa là khinh an đồng thời Tam-ma-địa và quyến thuộc của nó, và quả pháp ấy không nhiếp nghĩa, là Dục giới ràng buộc. Đã nói khinh an không nhiếp nên mới gọi là Dục giới. Vì sao nói dục được có khinh an?

Đáp: Như trong sớ đã giải thích.

Sớ: Nhưng tự có tầm tứ v.v… có dài ngắn v.v…

Có khắp Tam-ma-địa gọi là dài, tuy Tam-địa có nhưng không biến khắp nên nói là ngắn, tức như khinh an sơ tầm tứ địa không có biến khắp nên gọi là ngắn.

Sớ: Thứ hai lại giải thích định dẫn thiện v.v…

Đây giải thích định dẫn để chứng nhân của năm thức, thành sự trí đồng thời, chứng chung nhân quả.

Sớ: Đây căn cứ nhân vị.

Tổng kết định dẫn nhân.

Sớ: Nếu ở Phật quả, đây là nghĩa chánh.

Đoạn thứ hai từ “nhân thành sự trí” trở xuống, chánh nghĩa thừa nhận thành sự trí ở Phật mới có.

Sớ: Hoặc khi Sơ địa v.v…

Đây là hiển nhân thành sự cũng chứng nhân có năm.

Sớ: “Nếu làm giải thích này” đến “vì có khinh an”.

Đây là hiển bày giải thích sự ở nhân vị sai và nói rõ phi lý.

Sớ: “Trước đó chỉ căn cứ” đến “chẳng phải là tận lý”.

Giải thích vặn hỏi trước và kết hợp lý do dục không có khinh an trong giải thích trước.

Sớ: Thứ ba lại giải thích v.v…

Ý giải thích này cho rằng văn tuy tổng nói năm thức có khinh an, ý bàn ba thức, khinh an ở sắc, tỷ thiệt chỉ có dục, cho nên chỉ có ba thức.

Nghĩa là tổng ý sai biệt nên không trái với trước.

Hỏi: Ba cách giải thích cách nào chánh?

Đáp: Có thuyết xác quyết rằng thứ ba là chánh. Giải thích thứ nhất trái văn, quả vị chỉ có thiện, tự tha cùng thừa nhận, cần gì lại nói định sở dẫn? Giải thích thứ hai trái lý, trước nói Dục giới không có khinh an, nay lại nói cho có nên trái lý. Có nghĩa, giải thích rằng cả ba đều không trái. Ban đầu nêu tông, chưa luận nhân quả nên nói thiện. Đại địa Bồ-tát sinh trong Dục giới Vô lậu dẫn sinh cũng không có lỗi. Kết hợp văn trước như trong sớ có nói đủ.

Biện rằng: Ttong giải thích thứ hai, định dẫn thiện, ở nhân có thể như vậy, Thành sở tác trí không chỉ có quả là trái với nghĩa của Hộ Pháp. Ba giải thích hơn kém, suy nghĩ có thể biết.

Sớ: Các thọ có thể có tức thông quả tâm.

Các lạc xả thọ khác được có khinh an, nói tức thông quả là chỉ cho tâm của hữu.

Sớ: “Nếu vậy tỷ thiệt” đến “làm sao thông”.

Hiển bày thông quả mới có khinh an, lý chẳng phải khéo đúng, có lỗi nêu bày nhau.

Sớ: “Khổ căn tuy gọi là Vô lậu” đến năm thức không đồng thời”.

Năm thức không đồng thời, có hai nghĩa: Một là cả năm không cùng khinh an đồng thời, do vì có khổ. Hai là chỉ có khổ thọ tương ưng, không đồng thời chẳng phải các xả lạc không chấp nhận đồng thời. Giải thích trước trội hơn. Cho nên sớ ở sau nói, nhưng thật ra Bồ-tát chỉ trừ khổ thọ. Nếu chuẩn theo giải thích sau để hiển bày Bồ-tát cả năm đều có đã xong, nhưng đoạn văn nói “thật ra” lẽ nào không phải dài dòng dư thừa? Nên biết giải thích trước hay hơn.

Sớ: Bất đoạn trái văn.

Trái với báo ác thú của Đối Pháp luận đều là văn kiến đạo.

Sớ: Thiện nhiễm hai nhân đều gọi là đoạn.

Tổng đứng về nhân quả đều được tên đoạn. Đứng về bốn nghĩa đoạn có nói riêng rất ro. Như ở sau, và trong Nghĩa Đăng nên ở đây không dẫn.

Sớ: Không sinh gọi là đoạn nhân ấy cũng đoạn.

Căn cứ không sinh cho nên dùng giải thích nghĩa đoạn, nhân của Vô tưởng thiên nhập kiến gọi là đoạn vì hằng không sinh.

Sớ: Bách Pháp v.v… nói.

Bách pháp hiển si thông với lợi độn, cho nên để độn lợi hai hoặc trung gian, trong Duy thức nói si là bất thiện căn, cho nên tham, sân ở sau, mạn đồng với trên nêu bày.

Sớ: Ái Phật tham diệt đều nhiễm ô tổng thâu nhiếp.

Có nghĩa nay giải thích chẳng phải là pháp chấp. Nếu không chấp chặt chỉ khởi hân cầu, đây đã là thiện tâm không thể gọi chấp, có thể đồng với Hữu bộ gọi là thiện pháp dục. Nếu khởi nhiễm ái là phiền não tham.

Biện rằng: Như gọi là khởi nghĩa, đã nói tham Phật lẽ nào có pháp tham chẳng phải là nhiễm chấp gọi là thiện ư? Nếu chỉ hân cầu không khởi nhiễm chấp, thì ai nói các tên này là tham? Lại ai không biết là thiện pháp muốn lao nhọc thành phân biệt?

Luận: Nghĩa là do sức ái thủ uẩn sinh.

Giải thích tham này, Thánh giáo chẳng phải một, đại ý Vô Trước chỉ rộng lược có hơi khác. Bởi ý tác giả ý lấy bỏ không đồng, nay dẫn có khác muốn đồng ràng buộc không thủ. Hiển Dương quyển 1 ghi: Nghiệp có năm năng chướng, không tham làm nghiệp. Chướng đắc Bồ-đề tư lương viên mãn là nghiệp, tổn hại tự tha là nghiệp, năng thủ ác đạo là nghiệp, tăng trưởng tham dục là nghiệp. Các sân các nghiệp đều có năm loại, trước sau hai pháp sai biệt, trong ba pháp đều đồng, suy nghĩ nên rõ. Trong quyển 55, tham do mười việc sinh.

  1. Thủ uẩn
  2. Các kiến
  3. Chưa được cảnh giới
  4. Đã được cảnh giới
  5. Đã thọ dụng cảnh giới quá khứ
  6. Ác hành
  7. Nam nữ
  8. Thân hữu
  9. Tư cụ
  10. Hậu hữu, vô hữu

Luận: Thế nào là sân v.v…

Trong quyển 55, do mười việc sinh.

  1. Thân mình.
  2. Thương yêu hữu tình
  3. Không thương yêu hữu tình
  4. Oán thân quá khứ
  5. Oán thân vị lai
  6. Oán thân hiện tại
  7. Không thể nhớ cảnh
  8. Ganh ghét
  9. Quen tập từ trước
  10. Tha kiến.

Lại trong quyển 58 nói, nghĩa là có bốn loại, đủ như trong sớ có nêu bày, lược làm hai giải thích:

  1. Tổn tự tha kiến.
  2. Tổn tự tha hữu tình.

Trong tổn tự có hai: một là tổn mình, hai là tha kiến tha hữu tình.

Hai pháp còn có thể biết.

Sớ: Độc đầu vô minh mê lý v.v…

Hỏi: Quyển 5 trước nói, Độc hành vô minh có hai loại: nghĩa là

chủ, phi chủ, phi chủ vô minh thông ở kiến tha, vì sao nay phán phân chỉ có mê lý ư?

Đáp: Cũng đúng, Du-già là chủ giả thuyết. Trong quyển 58 ghi: Lại vô minh này bao gồm có hai loại: một là phiền não triền tương ưng, hai là độc hành, nếu vô tham v.v.. các phiền não ràng buộc nhưng khổ ở trong các đế cảnh, lực không như lý tác ý cho nên sĩ phu độn tuệ không lựa chọn như thật. Tánh của tâm sở ngăn che trói buộc, ám muội v.v.. gọi là độc hành vô minh. Lại phi chủ là phần nhiều mê lý, từ phần nhiều mà nói, do trong sớ này không nói “duy chỉ”.

Sớ: “Bác không tà kiến” đến “các tạp nhiễm”.

Có thuyết nói, tà kiến bao gồm hiển bày năm kiến. Nếu nói tà định chỉ có hiển bày tà kiến, còn bốn kiến vì sao không nói? Nếu nói, vì sao sau tà kiến nêu độn lợi?

Lại trong Tạp Tập ghi: Tà quyết định nghĩa là trí điên đảo, mà tổng tướng nói thì không nói tà kiến, nên biết tà định đồng với luận thông cả năm pháp. Có nghĩa chống chế rằng: Sớ không có lỗi, tà kiến phần nhiều do nghi hoặc sinh, nên tà định nói chỉ nói tà kiến, còn các kiến đồng. Giới cấm thủ v.v… lập vô si nhưng cũng sinh, cho nên ở đây không nói.

Biện rằng: Lại chống chế thêm: Sớ nói tà kiến nói thông bao hàm năm kiến, kiến không chánh cho nên có tên tà. Hỏi: Giáo nào làm chứng? Đáp: Luận Du-già quyển 58 ghi: Tà kiến là tất cả đảo kiến ở việc sở tri điên đảo mà chuyển được tên tà kiến, phải biết kiến này lược có hai loại: một là Tăng ích, Tát-ca-da v.v… bốn kiến; hai là Tổn diệt, các chấp chê bai nhân quả, cũng như Tạp Tập điên đảo trí nói bao quát ở năm kiến. Sớ nếu không đặt để tà kiến mà nói, thì sợ hoặc là không biết tà định nhân ở nơi kiến. Nếu năm cách nói sai khác lại ràng buộc ở ngôn luận, chỉ nói là tà kiến. Văn đứng về yếu chỉ để nói, lý vốn không có lỗi. Lại quyển 58 ghi: Có bốn loại vô minh, nếu ở trong nghĩa không thấy nghe hay biết, những điều không biết gọi là vô giải ngu. Nếu ở trong nghĩa thấy nghe hay biết sở tri, tán loạn thất niệm đã không có trí gọi là phóng dật ngu. Đối với tâm điên đảo không có trí gọi là nhiễm ô ngu, tâm sở hữu không điên đảo vô trí gọi là bất nhiễm ô ngu.

Giải thích: Bốn thứ điên đảo các hoặc tương ưng vô minh gọi là nhiễm ô, sở tri chướng gọi là bất nhiễm ô. Đối với Nhị thừa nói lại có các giải thích khác, như Du-già sao.

Sớ: Hoặc xa từ căn bản mà nói.

Đối Pháp luận nói, y chỉ Tát-ca-da-kiến tâm cao ngạo làm thể, là

căn cứ gốc mà nói.

Luận: “Mạn này sai khác” đến “ngã đức xứ sinh”.

Hỏi: Ba phẩm, ngã, đức hợp có năm việc. Xét luận Du-già quyển 55, bảy mạn y sáu sự, bốn pháp trước đồng với đây, năm đã được hay chưa được điên đảo? Sáu công đức điên đảo, vì sao không đồng?

Đáp: Đây thì hợp, kia thì khai, đức phân làm hai loại nên không trái nhau.

Hỏi: Lại luận ấy ghi: Phải biết hai mạn y thắng hữu tình sự sinh, còn lại mỗi loại y một sự. Giải thích rằng, hai nghĩa là ty mạn và mạn quá mạn, năm uẩn đối với nó vì sao lại khác?

Đáp: Trình bày năm uẩn, trong Du-già chỉ bày sơ lược. Lại mạn có hai, cho nên quyển 58 ghi: Mạn lược có hai, nghĩa là loạn, không loạn. Không có hoặc loạn nghĩa hạ liệt chấp mình là thù thắng, đối với ngang bằng lại chấp ngang bằng mà sinh kiêu mạn, hoặc loạn mạn nghĩa là sáu mạn khác. Lại do thọ dụng thấp kém tư cụ tự cho rằng tôn quý gọi là hoặc loạn mạn, hoặc do thọ dụng thắng diệu tư cụ tự cho phú lạc gọi là không mạn loạn, cũng do tà hạnh nghĩa là sau có thù thắng gọi là hoặc loạn, hoặc do chánh hạnh nghĩa là sau có thù thắng gọi là không hoặc loạn.

Hỏi: Đối với liệt cho là thắng, đối với ngang bằng cho là bằng, đây là xứng với cảnh biết, không có cao ngạo, vì sao gọi là mạn?

Đáp: Thuận Chánh Lý ghi: Như vậy tuy thật liệt v.v… xứ sinh nhưng hay khiến tâm cao ngạo nhiễm não gọi là mạn phiền não, đối với lý có lỗi gì? Lại trong Chánh Lý luận ta, tăng thượng mạn đều làm hai giải thích, tăng thượng có hai:

1. Chưa chứng được thù thắng, trong đức cho là đã chứng đắc.

2. Đối với chứng ít, trong đức cho là đã chứng nhiều.

Tà mạn có hai:

1. Các ác hành gọi là không đức, họ thành pháp này cho là đã có công đức thù thắng rất ghét cao ngạo.

2. Tức như trước đều không nói có.

Nhưng tức nghĩa Đại thừa không đồng suy nghĩ có thể biết, mạn

v.v… các nghĩa đủ như trong Nghĩa Đăng.

Luận: Thế nào là nghi?

Hỏi: Du-già quyển 58 nói, phải biết nghi này lược do năm tướng sai biệt kiến lập, nghĩa là ở đời khác, tác dụng nhân quả, các đế, trong thật ôm lòng do dự, trong này vì sao chỉ nói đế lý?

Đáp: Tức trong đế này nhiếp hết năm pháp ấy.

Hỏi: Tướng nhiếp thế nào?

Đáp: Thật diệt đạo tổng thâu nhiếp. Tác dụng nghĩa là nghiệp tức là nhân ấy, cho đến quá khứ tập đế nhiếp. Tổng tướng mà nói quá khứ là nhân hiện tại, vị lai và quả khổ đế sở nhiếp, nên Tạp Tập luận quyển 1 ghi: Đế do dự cũng thuộc về thật do dự, tùy sở ứng mà diệt đạo đế nhiếp.

Luận: Do dự giản trạch nói là nghi.

Tức luận Du-già quyển 8 ghi: Nghĩa là thân cận trượng phu bất thiện, nghe phi chánh pháp, tức đối với việc sở tri chỉ có dụng phân biệt dị giác làm thể.

Luận: Nghĩa là người ác kiến thọ khổ nhiều.

Có nghĩa là thọ khổ nhiều thông với khổ của năm nẻo, tất cả khổ quả không đâu mà không do ác kiến sinh. Cho nên trong luận Phật Địa ghi: Nghiệp hoặc và quả tất cả đều do ngã kiến sinh, khắp nơi đều nói, do sức ác kiến nên sinh tử luân hồi không ngừng nghỉ.

Biện rằng: Nếu thông năm nẻo, làm nhân xa của ba khổ, nhưng không có lỗi. Nếu y theo các khổ tam đồ trong Dục giới là cận nhân phát, nay y theo sớ để biện. Nhưng xem luận này, sớ nói là thù thắng, luận nói chiêu lấy khổ, người chiêu lấy khổ là khác.

Sớ: Phân biệt câu sinh như luận Hiển Dương quyển 1 nói.

Ý hiển câu sinh, phân biệt hai ngã đều duyên năm uẩn, tức luận ấy ghi: Một Tát-ca-da-kiến, nghĩa là đối với năm lấy uẩn chấp ngã, ngã sở niệm tuệ làm thể, hoặc là câu sinh, hoặc phân biệt khởi.

Luận: Kiến này sai biệt có hai mươi câu.

Như trong Đối Pháp, sớ, Nghĩa Đăng tuy dẫn nhưng người đọc vẫn còn khó hiểu, nay lược nói lại. Luận ấy hỏi rằng: Vì sao mười lăm là ngã sở kiến, vì tương ưng ngã sở, tùy chuyển ngã sở, vì không lìa ngã sở. Tương ưng ngã sở, nghĩa là ngã có sắc, do ngã cùng với nó tương ưng nên nói có nó. Tùy chuyển ngã sở, nghĩa là sắc thuộc ngã, nếu nó do sức tự tại chuyển này, hoặc xả hoặc chuyển, thế gian nói nó là ngã sở. Không lìa ngã sở, nghĩa là ngã ở trong sắc chấp ấy thật ngã xứ ở trong uẩn biến thể tùy hành. Các uẩn khác đều như vậy.

Hỏi: Ngã cùng ngã sở hành tướng không đồng, vì sao là ngã lại tức là sở?

Đáp: Có hai giải thích:

1. Như căn trần trong sắc uẩn v.v… sai biệt, vả lại thân làm ngã các sắc là sở.

2. Bàn mỗi mỗi uẩn đều có một ngã ba sở sai biệt, không nói ba sở tức là đương uẩn sở của ngã, mà là biệt uẩn sở của ngã. Giải thích sau là chính.

Hỏi: Nếu vậy vì sao ngã trụ trong đó biến thể tùy hành?

Đáp: Lại sắc làm sở là thọ v.v… ngã ở trong đó mà trụ.

Hỏi: Sắc thọ v.v… sai biệt vì sao biến thể gọi là tùy hành?

Đáp: Như thuốc ở ống đồng tùy theo hành thể mà lý khắp cũng đâu có lỗi, do đây nói phân biệt hành duyên uẩn v.v…, hiển bày hai mươi câu, sáu mươi lăm câu có sai biệt.

Hỏi: Phân biệt hành v.v… ai nói?

Đáp: Là Phật pháp bàn, ngoại đạo ấy chấp ngã sai biệt, có bất đồng này khiến học giả biết nói lời đây, cũng chẳng phải ngoại đạo tự nói chấp ngã có hai mươi câu sai biệt, đây là nội bàn ngoại đạo vì khiến biết khắp có xả bỏ.

Sớ: Sáu mươi hai kiến v.v…

Xét trong Đại Trí Độ luận quyển 15 ghi: Thân biên kiến lấy đây làm căn bản, năm uẩn đều có bốn ngã, ngã sở kiến ba đời đều thành hai mươi câu kiến, và thân kiến, biên kiến gốc hai loại hợp thành sáu mươi hai.

Sớ: Lấy gì làm chứng?

Xét quyển 58 ghi: Ngu phu ở trong năm uẩn này khởi hai mươi câu Tát-ca-da-kiến, năm câu ngã kiến, các kiến ngã sở khác, đây gọi là mê khổ Tát-ca-da-kiến. Lại tổng kết rằng: Mười phiền não này đều mê khổ đế kiến khổ sở đoạn. Đã nói mê khổ kiến khổ sở đoạn, nên phân biệt hoặc, lý ấy cực thành.

Sớ: Có mười bốn sự không thể nhớ.

Như có người hỏi, mười bốn việc ấy không nên làm giải thích, không có nghĩa lợi nên gọi là không thể nhớ. Mười bốn việc ấy là xét trong kinh Đại Bát-nhã ghi: “Thế giới thường hay vô thường? Vừa thường vô thường hay chẳng thường chẳng vô thường” làm bốn cách. “Thế gian hữu biên hay vô biên” bốn câu. “Như lai sau khi diệt độ là có hay không có, vừa có vừa không, chẳng có chẳng không” làm bốn câu.

“Mạng cùng thân một là một, hay khác là một” hợp thành mười bốn.

Sớ: Sáu mươi hai kiến này chỉ có phân biệt khởi.

Xét luận ấy ghi: Biên chấp kiến nghĩa là sáu mươi hai kiến trong các nẻo chấp so lường đời trước các biến thường các luận, một phần thường luận và chấp đời sau các hữu tưởng luận, vô tưởng luận. Vô tưởng luận, phi tưởng phi phi tưởng luận, đoạn kiến sở nhiếp. Biên chấp kiến, nghĩa là bảy việc đoạn luận, biên chấp kiến này chỉ có phân biệt 52 khởi, tà kiến phân biệt không đợi nói thành cho nên không chép.

Sớ: Văn ấy lại nói, Phạm vương thường v.v…

Luận ấy quyển 58 ghi: Có các kiến vọng chấp Tự tại, Thế chủ, Thích phạm, và các vật loại là thường là hằng, không có biến đổi, tà kiến như vậy cũng mê khổ đế.

Sớ: Y hiện tại đến quá khứ.

Tức luận Du-già quyển 8 ghi: Vì sao phải có đời trước sau câu hành? Nghĩa là như có một người khởi tư duy như vầy: Ta từng có ai, ai sẽ có ta? Nay hữu tình này từ chỗ nào đến, ở đây chết rồi sẽ đi về đâu? Lại luận Tỳ-bà-sa quyển 1 nói, nếu y hiện tại khởi chấp phân biệt hoặc gọi là đời trước, hoặc gọi là đời sau, là trước vị lai sau quá khứ, hoặc nhân vị lai, quả quá khứ.

Luận: Bốn biến thường.

Hỏi Du-già quyển ghi: Nghĩa là hoặc y ba phẩm Tĩnh lự khởi túc niệm trụ, hoặc y thiên nhãn, không nói kiếp số, Hiển Dương, Phạm Võng cũng vậy. Xét trong kinh Trường A-hàm ghi Hoặc có Sa-môn Bà-la-môn v.v… Dùng sức Tam-muội có thể nhớ bốn mươi tám kiếp sự của thành hoại, chúng sinh trong ấy không tăng không giảm thường trụ thường tán. Thứ tư thẳng dùng trí kiến lanh lợi nói tất cả thường vì sao không đồng?

Đáp: Tông chấp đã khác, không phiền hòa hợp, hoặc ngoại đạo chấp phẩm loại không đồng, một nêu bày một chấp, cho nên trong Dugià ghi: “Hoặc y thiên nhãn”, đã đặt để hoặc nói chấp chẳng phải một lại nêu bày một. Trong luận Bà-sa đồng biệt chuẩn theo đây nên biết, không đồng không có lỗi. Các luận Du-già không nói kiếp số chỉ lược cho nên nói như vậy. Thế nên quyển ghi: “Như trong kinh rộng nói” nên biết tóm lược. Nói các kiến sai biệt khác, ở đây đã rõ.

Có nghĩa tổng hợp rằng: Trong các luận Du-già y kinh Phạm Võng, nghĩa là sư bản chấp nói y định tâm, do Y sư ca v.v… vốn là tiên thượng cổ, do được ngũ thông không như thật biết mà khởi chấp. Luận Tỳ-bà-sa y kinh A-hàm thông bản mạt chấp nói y tán tâm. Các hàng hậu học y theo trước truyền thọ riêng khởi chấp. Hai kinh nêu lược, nghĩa không có lỗi.

Sớ: Đại chủng thường vô thường v.v…

Hỏi: Đã không nói ngã, vì sao thuộc biên mà chẳng phải sau ngã?

Đáp: Văn tuy không nói, lý thật là chấp uẩn ngã ấy nên khởi chấp này, vì vậy thuộc về biên.

Sớ: “Toàn thường” đến “vì sao toàn thường”.

Cũng có bản nói, như toàn thường trước, sớ đã không đồng, lược có ba giải thích:

1. Nên nói như thế nào? Như thế nào tức là nghĩa tùy chỗ nào, tùy chỗ nào toàn thường đều có tự ngã.

2. Nên nói như bốn, như bốn trong toàn thường đều có tự ngã.

3. Nên nói như trước, như trước thường nói tổng kết chỉ như trước.

Cả ba đều có lý nên theo nhiều bản.

Sớ: “Một biên kiến” đến “là kiến nào”.

Có giải thích rằng, một biên kiến duyên trên dưới sinh, thuộc về văn trước là không đúng, đây thuộc văn sau, lập lại để làm lời hỏi duyên trên là thường, dưới là vô thường, từ nhiều phần mà nói. Trong bốn phần thường, đại chủng cùng với tâm chẳng phải trên dưới, hoặc y Phạm bản mà nói là trên không có lỗi, nhưng thiếu nghĩa dưới.

Sớ: “Đây tuy phi đoạn” đến “là nhiễm tuệ”.

Giải thích chẳng phải vô thường đều gọi là đoạn kiến, bác ở sau hằng không có mới gọi là đoạn kiến, nên đây là phi đoạn.

Hỏi: Duyên vô thường dưới cùng duyên thường trên, hai kiến đồng thời ư?

Đáp: Không đồng thời, không có trong một tâm mà có hai tuệ.

Sớ: Đây đều là ngã v.v…

Tổng chấp năm uẩn mà làm một ngã, lại không có sai khác, uẩn không đâu mà không biến khắp, như kế đến gọi là kiến mãn, không hai, không khác, không thiếu.

Sớ: Ngã có sắc v.v…

Tức có sắc ngã có tưởng ấy nên gọi là hữu tưởng.

Hỏi: Đã nói sau khi chết nhưng có ở tưởng, lại đứng về địa vì sao được nói là ngã có đối với tưởng gọi là có tưởng ư?

Đáp: Do sau khi ngã có tưởng tùy theo sinh xứ gọi là có tưởng, chẳng phải thời nay không có sau mới có, nếu không như vậy vô tưởng đều chẳng phải nói có tám, không nên mỗi thứ đều có tám.

Sớ: Hai ngã Vô sắc v.v…

Hỏi: Bốn Vô sắc uẩn đều làm một ngã, là biệt là đồng?

Đáp: Biệt chấp có bốn.

Hỏi: Nếu vậy tưởng uẩn làm ngã vì sao được nói ngã có tưởng, ắt có ở nơi khác mới gọi là có?

Đáp: Có tưởng dụng ấy gọi là có tưởng.

Sớ: Một tưởng ở trước ba Vô sắc v.v…

Hỏi: Vì sao gọi là một?

Đáp: Chỉ có một ý thức, còn năm loại khác không có. Nên luận Bà-sa ghi: Do các tưởng ấy một môn chuyển cho nên gọi là một tưởng.

Sớ: Các loại tưởng ở Dục sắc giới v.v…

Thế nên luận Bà-sa ghi: Do các tưởng ấy bốn sáu môn chuyển và duyên các loại cảnh giới để khởi.

Sớ: “Thuần có khổ” đến “tầm tứ đều là khách được khởi”.

Do y Đẳng chí mà có thể khởi thông, thấy khổ vui v.v… mà sau khởi chấp, người y tầm tứ nương giáo thuyết của tà sư, thích những việc vui ở chỗ sai biệt, đồng chấp mà sinh, hoặc thấy những khổ vui hiện đời, nhân này họa vẽ luận chấp mà khởi, đời này đã khổ, đời khác cũng vậy, những việc vui cũng vậy.

Luận: Vô tưởng đều chẳng phải mỗi loại có tám luận.

Hỏi: Vì sao hữu tưởng có đủ mười sáu, vô tưởng đều chẳng phải đồng thời, trừ tám pháp sau?

Đáp: Tám loại sau ít lạc, nói đều là hữu tưởng, cho nên vô tưởng không có, tưởng lại minh lợi, đều chẳng phải cũng thiếu.

Sớ: Thấy người khác đắc định v.v…

Hỏi: Vì sao hữu tưởng không nói thấy người khác đắc định sinh v.v…

Đáp: Vô tưởng xứ có một, cho nên cần phải thấy người khác thì mình mới sinh chấp, hữu tưởng thì không như vậy, đâu được làm ví dụ, hoặc ảnh hiển, không bằng giải thích trước.

Sớ: Đẳng chí, tầm tứ đều khách đồng khởi.

Xét luận Bà-sa ghi: Các tầm tứ là chấp sắc làm ngã, thấy hoặc có lúc ngủ say, muộn tuyệt, khổ thọ bức bách hoàn toàn không có tưởng, lại khởi niệm như vầy: “Ta tuy có sắc, mà không có tưởng ấy, như ở đời này đời khác cũng vậy, do đây nên nói sau khi chết không có vô tưởng”, chuẩn theo đây chưa hẳn chấp sinh vô tưởng mới gọi là vô tưởng, cùng với đắc định trước chấp vô tưởng sai biệt, trước có các khổ cũng chuẩn theo đây nên biết.

Luận: Đều chẳng phải tám.

Nêu bày như trong sớ. Xét luận Bà-sa lược lấy cốt yếu nói:

Các Tầm từ chấp sắc làm ngã, thấy hữu tình ấy tưởng không rõ ràng lại khởi niệm như vầy: “Ta có chẳng phải có tưởng chẳng phải vô tưởng, như ở đời này đời khác cũng vậy”, chẳng phải do họ nhất định có thể khởi chấp này vì sao? Muốn lìa nhiễm vô sở hữu xứ, mới chấp phi tưởng phi phi tưởng xứ các uẩn làm ngã, nó đã Vô sắc, lý chấp này không, có nghĩa y biệt nói được định ấy cũng có chấp này, nghĩa là sinh ham muốn sắc đã lìa nhiễm vô sở hữu xứ, chấp phi tưởng phi phi tưởng xứ ấy các uẩn làm ngã, sở chấp ngã ấy thể tuy chẳng phải sắc, nhưng cùng sắc hợp gọi là có sắc ngã. Như nói người giống nhau, thể của mỗi người có giống nhau, nó tuy không chấp dùng sắc làm ngã, nhưng sở chấp ngã chưa lìa sắc, nhẫn đến mạng chung vẫn còn tùy thân, nên nói có sắc. Do chỗ nhập định tưởng không rõ ràng, nên chấp ngã hiện, chẳng phải hữu tưởng chẳng phải vô tưởng, sau khi chết cũng vậy, thừa nhận Vô sắc giới cũng là có sắc. Họ thừa nhận có chấp phi tưởng phi phi tưởng xứ, ngã thật có sắc mà chẳng phải có tưởng cũng chẳng phải vô tưởng, cả hai được định ấy, chấp phi tưởng phi phi tưởng xứ ấy các Vô sắc uẩn lấy đó làm ngã, hoặc làm ngã sở sở chấp ngã ấy Vô sắc làm tánh hoặc có ngã Vô sắc. Do nhập định tưởng không rõ ràng, chấp ngã hiện chẳng phải hữu tưởng chẳng phải vô tưởng, sau khi chết cũng vậy. Các tầm tứ chấp Vô sắc là ngã, nó thấy hữu tình tưởng không rõ ràng, lại khởi niệm như vầy: “Ta không có sắc, chẳng có tưởng, chẳng phải vô tưởng”. Trong câu thứ ba có ba đoạn, ban đầu chỉ có trong tầm tứ thừa nhận y định, sau thừa nhận có sắc, tất cả dụ đều đồng câu đầu.

Sớ: Một là do khi định ấy thời phần ngắn.

Do thời ngắn nên tùy duyên một uẩn gọi là mỗi mỗi, nên sau khởi mới được tên hữu biên, còn lại chuẩn theo đây nên biết.

Luận: Bảy đoạn diệt.

Đủ như trong sớ có nói. Lại trong kinh A-hàm ghi: Có vị Sa-môn, Bà-la-môn thấy như vậy, khởi luận như vầy:

1. Thân ta là bốn đại từ cha mẹ sinh, bú mớm nuôi dưỡng nhưng là vô thường.

2. Nay ta không được gọi là đoạn diệt, ngã Dục giới và chư thiên đoạn diệt không còn.

3. Đây chẳng phải đoạn diệt, Sắc giới hóa sinh, các căn đầy đủ, đoạn diệt không còn, bốn pháp này chẳng phải đoạn diệt, ngã Vô biên không xứ đoạn diệt nhẫn đến Phi tưởng đều là sau chẳng phải trước lập làm đoạn diệt.

 

THÀNH DUY THỨC LUẬN DIỄN BÍ

QUYỂN 5

(PHẦN CUỐI)

Luận: Ba tà kiến v.v…

Phỉ báng nhân quả, luận Du-già quyển , quyển 55, quyển 58; Đối Pháp quyển 1 hỗ tương không đồng, như trong Du-già sao tổng hợp.

Hỏi: Quyển 58 nói, tà kiến là tất cả cái thấy điên đảo đều gọi là tà kiến, phải biết kiến này lược có hai loại, trừ tà kiến còn có bốn, tất cả đều gọi là tăng ích tà kiến, phỉ báng nhân quả tất cả các kiến đều gọi là tổn diệt. Đối Pháp quyển 1 nói, bốn pháp tăng ích, đối với cảnh sở tri tăng ích tự tánh và sai biệt, tức bốn kiến ngoià tà kiến. Một phần nhiều phần là tổn diệt kiến, một nhiều phần do tà phân biệt chưa hẳn tổn giảm. Một thì nói toàn tổn, một thì nói nhiều phần, đâu không trái nhau?

Đáp: Trong quyển 58 riêng chỉ phỉ báng nhân quả tà kiến mà nói là đều tổn giảm, trong Đối Pháp nói chung tất cả tà kiến, nên nói nhiều phần, như chấp Thích Phạm thường hằng không biến đổi là vật, chẳng phải tổn giảm vì đối vọng không đồng nên không có lỗi. Lại có dị đồng, như hai luận sao tổng hợp.

Luận: Không có hai nhân luận.

Y túc trụ chấp như trong sớ đã nói, y tầm tứ là xét luận Bà-sa ghi: Hai do tầm tứ hư vọng suy cầu, nay thân đều có thể nhớ, thân trước nếu có những việc ấy, thì nay lẽ ra cũng nhớ, đã không thể nhớ nên biết nó không có. Còn lại như chương có biện rõ.

Hỏi: Đã nói túc thông vì sao không thể nhớ việc trước khi ra khỏi tâm?

Đáp: Ngoại đạo biết nhiều nhất không vượt quá tám mươi, tâm lúc nhập mong tâm sau xuất cách năm trăm kiếp nên không thể nhớ. Trong năm trăm kiếp mà vô tâm thì làm sao nhớ được, do đây vẫn còn chấp sinh.

Hỏi: Tâm ấy tuy không, sắc thân là có, lẽ nào không thấy? Nếu

nói không thấy, lại trái với nghĩa túc trụ nhớ tám sự, nếu thừa nhận thấy là nhân đó thân sinh, đây vì sao không có nhân?

Đáp: Tuy thấy sắc thân nhưng không biết nguyên nhân mà thân ấy có, do thấy không quá năm trăm kiếp, đã có thân ấy không thấy nhân sinh, cho nên thân ngày nay cũng không có sở nhân, ngay thân mà khởi. Có người mê lầm cho rằng túc mạng, tầm tứ đều không thể nhớ, sau khi ở vô tưởng chết mới ra khỏi việc trước của tâm gọi là hai không nhân. Điều này trong phần hỏi đáp của sớ lập làm hai nghĩa, chỉ có đứng về vô tưởng để đáp vặn hỏi trước, vì thế dẫn đến mê lầm nó, người học nên biết.

Luận: Hoặc chấp Tự tại v.v…

Hỏi: Các tà kiến này và ngã ngã sở, kiến giới hai thủ đều chẳng phải sáu mươi hai kiến nhiếp, lẽ nào không trái với kinh ư? Cho nên trong kinh A-hàm ghi: Có các Sa-môn, Bà-la-môn v.v… bản kiến, mạt kiến vô số các thứ tùy ý nói hết trong sáu mươi hai kiến, đều là không có lỗi, cũng như người thợ khéo bắt cá, do mắt lưới nhỏ che trên nước ít, phải biết những loài thủy tộc trong ao đều vào trong lưới không chỗ trốn tránh?

Đáp: Có nghĩa giải thích: Lý thật riêng mê bốn đế tà kiến, tùy theo ứng nhiếp vào trong toàn thường, nhưng luận này ở trong biên kiến nói toàn thường v.v… cho nên toàn thường không nhiếp tà kiến. Do đây nên biết chỉ có biên kiến toàn thường v.v… nhiếp, chẳng phải toàn thường đều do biên kiến nhiếp. Bốn đế tà kiến ở trong toàn thường v.v… vì chẳng phải biên kiến.

Biện rằng: Giải thích cũng chưa hết, lý cũng khó rõ. Kinh nói bản mạt vô số kiến, vào trong sáu mươi hai kiến, lẽ nào là ngã ngã sở kiến giới thủ v.v… lại chẳng phải tà kiến? Vì sao không rõ? Lại nói, luận này ở trong biên kiến nói toàn thường v.v…, điều này cũng không đúng. Xem trong kinh ấy, bốn kiến thường v.v… cũng y biên kiến, vì sao chỉ có đoạn luận y nơi biên kiến mà nói? Nay có hai giải thích:

1. Ngoài sáu mươi hai, các biên kiến tà kiến y theo đời trước sau, do sáu mươi hai tà kiến mà khởi chấp, cũng đều nhiếp nhập trong sáu mươi hai kiến, như bốn pháp toàn thường. Kinh v.v… chỉ đứng về y định v.v… khởi, cũng có loại không nương Đẳng chí khởi chấp, tuy y tầm tứ lại có nhiều sai biệt. Những loại này đều vào trong bốn pháp toàn thường, còn lại chuẩn theo đây nên biết. Trong kinh căn cứ lý này gọi là nhiếp các kiến, đây tức là nghĩa ít phần tất cả, cũng như bốn đế nhiếp tất cả pháp, khổ nhiếp các khổ, các đức cũng vậy. Nói nhiếp các kiến, cũng căn cứ đồng loại nhiếp nhau mà nói.

2. Y phẩm loại do khinh theo trọng gọi là nhiếp tất cả, các kiến là sáu mươi hai kiến loại đồng, trong đồng loại kiến lại có đồng dị, ngã kiến tức là loại biên kiến vì biên kiến y khởi, tà kiến chấp tự tại thường là loại thường kiến biên kiến, tuy chẳng phải sau ngã mới chấp vì đối với thường thường tương tợ, còn lại chuẩn theo nên biết.

Hai thủ tùy theo chấp, làm sao thấy pháp v.v… tức là loại đó? Do hai loại ấy, và ngã ngã sở, lẽ ra đều nhiếp nhập trong sáu mươi hai, cũng như năm kiến gọi chung là tà kiến, lại khinh từ trọng, như nói vua bề tôi, bề tôi cũng gọi là vua, trong kinh tác pháp chỉ căn cứ trọng mà nói.

Sớ: Đã không có trong biên kiến, văn nhiếp đế đoạn.

Trong quyển 58 thì có văn nói, chỉ là người kiểm văn sơ lược nên có xác quyết này, nên luận ấy ghi: “Tức dụng Tát-ca-da-kiến” lấy làm y chỉ, ở trong năm uẩn kiến ngã đoạn thường, cho nên biên chấp kiến cũng mê đối với khổ.

Luận: Bốn kiến thủ v.v…

Nhưng chuẩn theo Hữu tông chỉ chấp biệt pháp cho là thù thắng, tức gọi là kiến thủ, không chỉ có chấp kiến và uẩn đồng thời. Cho nên Câu-xá Luận quyển 1 ghi: Đối với liệt cho là thắng gọi là kiến thủ, chấp liệt là thắng gọi chung là kiến thủ, lý thật lẽ ra lập kiến v.v… tên là thủ, lược bỏ “vân vân” chỉ gọi là kiến thủ.

Luận: Năm giới cấm thủ v.v…

Lại chuẩn theo Hữu tông chỉ chấp chẳng phải nhân làm nhân tức gọi là giới thủ, không chỉ có chấp giới và uẩn đồng thời. Cho nên luận Câu-xá ghi: Đối với chẳng phải nhân, đạo cho là nhân đạo kiến, tất cả tổng gọi là giới cấm thủ, chẳng phải giải thoát đạo vọng khởi chấp đạo, lý thật lẽ ra nên lập tên thủ của giới cấm, lược bỏ “vân vân” chỉ gọi là giới cấm thủ.

Sớ: “Nhưng ở một tụ” đến “nói vân vân cũng được”.

Tuy thấy quyến thuộc mà không có biệt chấp, nhưng trong một tụ kiến là thù thắng nhất, nêu thắng so sánh với liệt để nói “đẳng” cũng không có lỗi, không đồng với Tiểu thừa mà lập chữ “đẳng”.

Luận: “Nhưng có chỗ nói” đến “gọi là giới thủ”.

Xét luận Hiển Dương quyển 1 ghi: Bốn kiến thủ nghĩa là ở ba kiến trước và kiến sở y uẩn, chấp tối thắng và Đệ nhất nghĩa. Đối Pháp quyển 1 ghi: Nghĩa là đối với các mục và sở y năm thủ uẩn v.v… tùy quán chấp làm tối thắng, làm thượng làm diệu, năm uẩn đồng sở y. Lại luận Hiển Dương quyển 1 ghi: Năm giới cấm thủ, nghĩa là các kiến và sở y uẩn trước chấp làm thanh tịnh giải thoát xuất ly. Đối Pháp quyển 1 ghi: Đối với các giới và giới cấm sở y năm thủ uẩn v.v… tùy theo quán chấp làm thanh tịnh, làm giải thoát xuất ly. Luận Ngũ Uẩn rất đồng, Du-già quyển 8 đại ý đồng luận Hiển Dương.

Luận: Nếu không như vậy vì sao chẳng phải diệt chấp diệt v.v…

Xét quyển 58 ghi: Lại các Sa-môn nói luận hiện pháp Niết-bàn tất cả tà kiến, lại có người hoành chấp các tà giải thoát chỗ có tà kiến, các chấp như vậy là mê diệt đế phát khởi tà kiến. Lại nói, ngoại đạo kia khởi chấp như vầy: sở hành của ngã v.v… hoặc hành hoặc đạo là chân hành đạo có thể hết, có thể ra khỏi tất cả khổ, như vậy cũng gọi là mê đạo tà kiến, chẳng phải pháp Niết-bàn chấp là Niết-bàn, gọi là phi thắng chấp thắng, chẳng phải Vô lậu đạo thật, chẳng phải lìa khổ, chấp làm chân đạo có thể ra khỏi khổ gọi là phi tịnh chấp tịnh,

Luận: Các tổng biệt như vậy, giải thích như trong sớ, Nghĩa Đăng. Nay thêm một giải thích nói tham v.v… sáu pháp gọi đó là tổng. Ác kiến khai ra năm gọi đó là biệt, nay nói cả hai, gọi là tổng biệt mười phiền não. Hoặc có thể, sớ nói hoặc tổng hoặc biệt ý cũng đồng với đây.

Sớ: “Nghĩa là phải không trái” đến “ngã chẳng thường”.

Mượn phát khởi vặn hỏi sinh dẫn giáo và văn thế sự ở sau.

Luận: Người học hiện quán khởi các sợ sệt như vậy v.v…

Quyển 8, Đối Pháp quyển , văn của hai luận này nói. Luận Dugià ghi: Lại do hai duyên y chỉ dục vô ngã thắng giải, ở Niết-bàn đó do kinh sợ nên tâm ấy lui sụt. Một là do đối với dục này không khéo tập quen, chưa đến cứu cánh. Hai là khi tác ý do nhân duyên ấy niệm quên mất, đương lúc như vậy ở trong các hành chỉ có hành trí, tâm ấy ngu muội, thường thường tư duy, ngã của ta lúc bấy giờ phải ở chỗ nào, tìm cầu ngã hành vi tế, câu hành chướng ngại mà chuyển. Do duyên này nên khởi suy nghĩ như vầy: ta sẽ không có, không khởi niệm này chỉ có các hành đương lai không có. Nó do như vậy tùy theo thân kiến làm chỗ y chỉ, phát sinh thức biến dịch tùy thức. Do nương sợ cho nên đối với tịch diệt tâm ấy lui sụt.

Giải thích: Tuy biết rõ chỉ có các hành vô ngã, do tâm duyên hành còn muội liệt, thường thường tư duy ngã ở chỗ nào, tức suy nghĩ tâm ta có thể làm chướng ngại, lại chấp ngã không, lại không có niệm nghĩ chỉ có các hành, cho nên đối với Niết-bàn mà sinh kinh sợ. Luận Đối Pháp ghi: Câu sinh biên kiến là thuộc về đoạn kiến, do kiến này nên đối với cõi Niết-bàn tâm ấy lưu chuyển sinh khiếp sợ lớn, cho rằng ngã của ta hiện giờ ở đâu?

Nhưng sớ nói trong quyển 88 có hai nghĩa: một là nhầm sáu thành tám, hai là nêu tám đồng với sáu. Sáu chính là sở dẫn, trong tám cũng có văn đoạn kiến, nên nói cả hai, tổng nêu chánh hiển mà không nói sáu.

Hỏi: Dẫn chứng câu sinh, Đối Pháp có thể như vậy, luận Du-già thì như thế nào?

Đáp: Văn của quyển 88 như trong Nghĩa Đăng đã giải thích.

Hỏi: Quyển 8 cũng nói câu sinh, làm sao để rõ?

Đáp: Luận nói tìm cầu ngã hành vi tế câu hành. Lại nói, do ngã như vậy tùy theo thân kiến làm y chỉ nên biết là câu sinh, hoặc thông cả hai kiến, tìm văn thì có thể rõ.

Hỏi: Hai luận câu sinh là phàm thánh khởi chăng?

Đáp: Chung cả thông phàm thánh.

Hỏi: Nếu vậy, vì sao quyển 8 ghi: “Lại nữa vì đoạn kinh sợ như vậy, có hai loại pháp, có nhiều sở tác”, nhẫn đến nói “nếu đã dẫn phát Thánh đế hiện quán, do chánh kiến nên mới được xuất ly”. Trong Đối Pháp lại ghi: “Nay ngã của ta ở chỗ nào”, chuẩn theo luận Du-già này, chỉ có phàm khởi, Đối Pháp chỉ có bậc Thánh?

Đáp: Trong Du-già vả lại căn cứ đoạn phàm khởi, hoặc tổng đoạn phàm thánh kia khởi, Thánh đế hiện quán lời này được thông. Lại nói, do đối với dục này không khéo quen tập, chưa được rốt ráo mà khởi kinh sợ, tức Thánh hữu học cũng chưa rốt ráo, khởi cũng đâu có lỗi gì. Đối Pháp nói “nay ta ở đâu”, Phàm thánh khi khởi vô ngã giải đều được gọi là nay. Lại giải thích, luận Du-già căn cứ phàm, Đối Pháp đứng về Thánh, hai cách giải thích mặc tình lấy, lại nên suy nghĩ kỹ.

Luận: Mười phiền não này, có bao nhiêu loại tương ưng.

Các luận biện tương ưng này không đồng, nay lược dẫn. Quyển 55 ghi: Vô minh tương ưng tất cả, nghi đều không có, tham sân không tương ưng, đây hoặc cùng mạn kiến, nghĩa là khi nhiễm ái hoặc cống cao hoặc suy cầu, như nhiễm ái ghét giận cũng vậy. Mạn và kiến ngã lại tương ưng, nghĩa là khi cống cao, tà lại suy tìm. Quyển 58 ghi: Năm kiến là tuệ tánh nên không cùng tương ưng, tự tánh tự tánh vì không tương ưng. Tham, khuể, mạn, nghi lại trái nhau nên không cùng tương ưng. Tham nhiễm khiến tâm thấp hèn, ngã mạn khiến tâm cao ngạo, thế nên tham mạn lại trái nhau. Đối Pháp quyển ghi: Tham không tương ưng với sân, thuần là trái nhau pháp ắt không đồng thời. Lại tham không tương ưng với nghi, do tuệ đối với cảnh không quyết định ắt không có nhiễm trước, còn lại được tương ưng. Như tham sân cũng vậy, nghĩa là tham không cùng sân mạn kiến tương ưng, nếu đối việc này khởi giận ghét, tức không đối với nó sinh cao ngạo và suy cầu, các loại khác tương ưng như lý nên biết. Mạn không tương ưng với sân, nghi. Vô minh có hai là tương ưng và bất cộng, bất cộng không cùng sân nghi tương ưng, nghi không cùng tham mạn kiến tương ưng. Tổng hợp như luận và sớ này, ở đây không nói lại.

Luận: Nghi trái thuận v.v…

Khổ, tập do nhân y xứ này nên hữu tình nhiễm trước, nghi có không sân diệt đạo là chỗ sợ sệt ấy, nên hữu tình không ái, có nghi liền có khuể, nghi không trái với đây, lý chuẩn theo đây mà biết.

Luận: Đây cùng ba kiến hoặc được tương ưng v.v…

Có nghĩa phân biệt thân, biên hai kiến nhưng cùng sân đồng thời, do câu sinh chỉ có tánh Vô ký, sân chỉ có bất thiện nên chẳng phải đồng thời với nó. Luận nói, khổ uẩn chỉ ở nẻo thiện có khổ thọ đồng thời gọi là có khổ uẩn, trong sớ nói khổ lại thông hai kiến, điều này nhất định không đúng.

Biện rằng: Thoạt xem văn sớ, thật ra như vẫn còn, xét kỹ lý ấy, lý tức không trái.

Hỏi: Vì sao không trái lý?

Đáp: Chỗ có khổ tức gọi là khổ xứ, ai nói phải ở trong ba đường mới là khổ xứ? Lại ở sau môn hai kiến năm thọ đồng thời, sư thứ nhất tam đồ có phân biệt hoặc, nay y thuyết ấy cũng không trái nhau. Đây thông ở sau hiển bày luận này nói chỗ cực khổ thông, có phân biệt, câu sinh hai hoặc, cho nên chỉ như ở sau, chẳng phải nói câu sinh, phân biệt hai kiến đều cùng sân đồng thời, do khổ xứ này phân biệt hai kiến đồng thời với sân đều không ngăn ngại. Nếu không như vậy, lại do nghĩa gì mà nói như ở dưới?

Luận: Năm thức chỉ có ba v.v…

Hỏi: Xứng lượng, suy cầu năm thức không có, nói kiêu mạn không, thức thứ bảy lẽ ra như vậy?

Đáp: Xứng lượng giải thích mạn, thứ bảy đồng thứ năm không, mạn sinh nên Thức thứ bảy thừa nhận có. Nghĩa của kiến chuẩn theo đây mà biết.

Hỏi: Năm kiến đoạn hoặc, sáu dẫn đắc sinh, mạn v.v… do năm pháp khác lẽ ra cũng khởi chăng?

Đáp: Hạnh không trái, trái cho nên khởi, không khởi.

Luận: “Tham sân si ba pháp” đến “năm thọ đồng thời”.

Trong quyển 5, phân biệt tham, lạc v.v… tương ưng riêng riêng tác pháp, tức luận này nói tham gặp nghịch duyên, sân gặp thuận cảnh lược đã nhiếp nó, còn lại chuẩn theo nên tìm, nên không dẫn ra.

Luận: Dục không có khổ v.v…

Có nghĩa lựa chọn luận Tát-bà-đa dục và nghi chỉ có ưu, cho nên Hiển Dương luận quyển 2 ghi: Vì sao hai nghi đều không quyết định mà trên được cùng hỷ lạc tương ưng? Chẳng phải Dục giới nghi cùng hỷ câu khởi, do các phiền não ở ly dục địa, tuy không quyết định cũng không ưu diệt, tuy tâm ôm lưới nghi nhưng không có biếng nhác, như ở nhân gian cầu được sở ái, tuy nhiều mệt nhọc mà sinh tưởng ưa thích. Sớ nói cõi trên không có dục nghi có hỷ thọ, dục tợ như không được, ý văn ở đây địa trên vì sao không cùng hỷ đồng thời?

Biện rằng: Ý sớ nói nghi không có quả khổ mới cùng hỷ đồng thời, trên không có nghi này, do trên không tạo ác hành ấy, nên si khổ không mới có hỷ đồng thời. Hễ trong Dục giới không chướng cõi thì si mới được đồng thời với hỷ. Trong tướng thô ở sau sớ nói cõi trên si có hỷ. Tự nghĩa đã lập tha chấp liền ngăn, không nói thành. Đây tự được bản ý trong sớ, chẳng phải sớ không được ý của luận.

Luận: “Hai thủ” đến “ưu tương ưng”.

Quyển 5 ghi: Kiến thủ, giới thủ lấy kiến ấy, tùy theo sở ưng kia như tương ưng ấy, như thân biên hai kiến tương ưng trở xuống thọ mà nói.

Luận: Đây y thật nghĩa.

Hỏi: Sở y giáo nào? Vì sao cần có thô tế hai thuyết?

Đáp: Nói một cách gãy gọn gọi là thật nghĩa, tức quyển 5, nói một cách thẳng thắn gọi là tướng thô, tức quyển 58, Đối Pháp quyển . Cho nên quyển 5 tổng kết mười phiền não thọ tương ưng rằng: Trước biện phiền não, các căn tương ưng, chỉ đứng về đạo lý tướng thô mà kiến lập, khiến ban đầu hành giả hiểu không loạn, nay tức đứng về đạo lý thô tế kiến lập, khiến hành giả rõ tự thân tha thân các thứ hành giải sai biệt chuyển.

Luận: Tham si đồng thời với lạc v.v…

Trong Đối Pháp có nói đủ, đại ý trong sớ nêu lại đã xong, nhưng nói rõ ý thức xả tương ưng rằng, ở ý thức thân xả tương ưng, ở tất cả chỗ tương tục chưa có vị.

Giải thích: Do lạc, hỷ, xả thông Thức thứ sáu, sáu thức lạc hỷ khi chưa có vị nhưng cũng có xả, nên nói tất cả chưa có vị v.v… Lại nói, si ở

Dục giới chẳng phải hỷ tương ưng, tâm không quyết định nếu chưa dứt diệt thì hỷ không sinh. Lại nói, vì sao phiền não đều tương ưng với xả? Do trong tất cả tùy phiền não vị trung dung mới dứt hết, vì sao? Vì phiền não sinh khởi lần lượt tương tục lần lần nhẹ mỏng, thế lực sắp hết, tùy vị trong xứ, đối với vị này ắt xả tương ưng.

Luận: Phải biết câu sinh thân biên hai kiến v.v…

Hỏi: Vì sao biết như vậy?

Đáp: Xét trong quyển 58 ghi: Lại nữa câu sinh Tát-ca-da-kiến chỉ có tánh Vô ký, vì thường hiện hành, chẳng phải cực tổn não tự tha xứ, tuy luận không nói câu sinh biên kiến, lý đồng ngã kiến cũng là tánh Vô ký.

Sớ: “Nếu như ở giải thích sau” đến “thể có chín phẩm”.

Ở đây có hai ý:

1. Hiển sau là sai, như sắc giới v.v… phiền não Vô ký, thể có chín phẩm, chín phẩm đoạn riêng, ngã kiến có chín phẩm vì sao trừ một phẩm? Đã trừ một phẩm rõ ràng không có chín loại.

2. Nói sau là đúng, như cõi trên mê hoặc thể tuy Vô ký, có được chín phẩm, ngã kiến chín phẩm cũng đâu trái nhau? Lại nay sớ xác quyết lại tùy theo một tướng, văn trên dưới trong sớ đều lấy chín phẩm làm loại thuyết.

Sớ: “Không có nhiễm ô” đến “mới tự tại”.

Ắt không có dục nhiễm, phẩm thứ chín còn, có thể nhập căn bản khởi Vị chí hoặc, cần phải dục nhiễm hết mới vào căn bản định, mới chấp nhận khởi Vị chí hơạc kia.

Sớ: “Do đây” đến “cũng không thể khởi”.

Không thể khởi Vị chí định hoặc kia.

Hỏi: Đắc căn bản định rồi, Vị chí định hoặc là thật khởi chăng?

Đáp: Có hai giải thích:

1. Thừa nhận được khởi, nếu vậy vì sao quyển 2 các pháp địa dưới hoặc sinh ở địa trên không hiện ở trước? Đáp: Địa khác thì không như vậy, đồng địa chấp nhận khởi, Vị chí cũng là sơ thiền nhiếp, lại địa sau thân được sơ căn bản khởi Vị chí hoặc cũng lại không trái.

2. Không được khởi, không có những điều cần, được thắng xả liệt, nếu vậy rốt ráo không có nghĩa khởi cần gì Hữu vi? Đáp: Như ba cõi Vô sắc có được kiến đạo Vô lậu thứ tám, chín địa khác thì có, tuy không có nghĩa khởi địa pháp vẫn được có, điều này lẽ ra cũng như vậy, mặc tình lấy bỏ, nhưng phần nhiều thừa nhận khởi

Sớ: Chỉ có định chẳng phải sinh phiền não v.v…

Khi nhuận sinh khởi gọi là sinh phiền não, hoặc sinh địa ấy đã khởi cũng gọi là sinh hoặc, chẳng phải nay nói, trừ các thời này duyên định khởi đều gọi là định sinh, như biến thường kiến, nhân định sau đó mới khởi gọi là định phiền não, còn lại chuẩn theo đây để biết. Nhưng sớ nói như biến thường, mới xem qua giống như chứng sinh phiền não, nhưng lý là chứng định hoặc.

Luận: Các Hữu lậu đạo tuy không thể phục phân biệt hoặc v.v…

Hỏi: Ở sau quyển ghi: Tư lương Gia hạnh có thể phục phân biệt, hai vị lẽ nào chẳng phải Hữu lậu đạo?

Đáp: Sau đứng về Bồ-tát, nay căn cứ nơi Nhị thừa và ngoại đạo v.v… có nghĩa có hai giải thích: một là nghĩa đồng với trước, hai là sau căn cứ lý quán. Nay y theo sự quán Hữu lậu sáu hành gọi là sự quán quán vô ngã v.v… gọi là lý quán. Lại phân biệt hoặc có mê sự, thế đạo cũng phục, vì hay chướng định. Luận đứng về mê lý mà nói không phục, nếu không phục thì câu sinh phải như vậy, vì là câu mê sự. Nếu chấp sự hoặc chấp lý hoặc dẫn cho nên không phục, nên tu sự hoặc tu lý hoặc dẫn đồng nó không phục. Lại thấy sự hoặc tán loạn thô động vượt hơn câu sinh, chướng định lẽ ra thù thắng, vì sao không phục? Nên biết luận lại căn cứ mê lý mà nói không phục.

Biện rằng: Lý sợ chua hẳn như vậy, tu hoặc làm ví dụ có lỗi tương phù, cho nên luận Du-già quyển 58 ghi: Nếu các dị sinh lìa dục cõi Dục hoặc sắc giới, chỉ do tu đạo không có kiến đạo, ở cõi Dục khi được ly dục, tham dục sân giận, và tùy pháp ấy lân cận kiêu mạn, nếu các phiền não tương ưng vô minh, không hiện hành cho nên đều gọi là đoạn. Chỉ có nói các pháp tham lân cận dị sinh, không nói chấp các pháp lân cận cũng năng đoạn. Cho nên biết thế đạo không thể phục mê lý ấy dẫn tất cả sự hoặc, nếu không như vậy ý nào Du-già không nói? Tu đạo đã như vậy kiến hoặc nhất định như vậy, lẽ nào không tương phù? Nhưng hãy xét rõ văn.

Sớ: Nay giải thích cũng đoạn.

Có nghĩa vặn hỏi rằng: Chưa phục nói đoạn. Người thứ lớp ở kiến đạo lẽ ra cũng đoạn nó, cũng không thể nói trước phục trợ bạn. Luận nói câu sinh vi tế khó đoạn, vị tu đạo mới trừ, nói kiến đạo trừ lý ắt chưa được, do vi tế ấy không chướng kiến đạo mà tự chống chế rằng: người thứ lớp đạo y Vị chí, do đạo liệt cho nên không thể đoạn tu, người siêu việt căn bản nhập, nói tùy sở phục đều có thể đoạn hẳn.

Biện rằng: Nếu lấy Vị chí để giải thích vặn hỏi sợ chưa trừ, thứ lớp không trở lại năng y Vị chí đoạn tu hoặc. Nếu nói ngã y kiến đạo, Bồ-tát kiến đạo y căn bản định lẽ ra cũng đoạn tu. Nếu nói chỉ căn cứ tiểu Thánh, vượt qua hàng sơ quả, sáu phẩm dục hoặc lẽ ra không thể đoạn trừ, vì y Vị chí. Nếu nói từng phục cho nên năng đoạn, đây tức do phục không phục có khác. Vì sao thiếu căn bản. Vị chí y biệt? Do đây phục kiến đạo nào có lỗi. Luận nói, tu trừ căn cứ thứ lớp, nhưng y định nêu bày lý ấy cũng thông, căn cứ bạn để nói là thù thắng, suy nghĩ có thể biết.

Sớ: “Nếu vậy kiến hoặc” đến “là khởi, không khởi”.

Trong Nghĩa Đăng quyển , tâm tướng khởi nêu bày có hai giải thích. Nay xét luận Du-già quyển 58 lẽ ra thừa nhận được khởi, cho nên luận ấy ghi: Do các hoặc ấy trụ ở trong thân này, từ định mà khởi có khi hiện hành, chẳng phải sinh cõi trên nó lại hiện khởi.

Giải thích: Hoặc chưa đoạn kiến đạo trước kia, thân ở địa dưới mà được khởi, nếu sinh địa trên, thì kiến hoặc địa dưới không khởi. Chuẩn theo ý văn này thừa nhận khởi, nên khéo suy nghĩ lại.

Luận: Sinh định thứ tư trong Trung hữu.

Đây là văn kinh. Luận của Đại thừa Tiểu thừa giải thích sai khác. Kinh bộ, Đại thừa thừa nhận Trung hữu cõi trời có chuyển sinh địa ngục, Hữu tông thì không như vậy. Cho nên Đối Pháp ghi: Hoặc có khi dời chuyển, nghĩa là ở vị này thường sinh ở các chỗ duyên mạnh hiện tiền, như được Tĩnh lự thứ tư khởi A-la-hán tăng thượng mạn Tỳ-kheo, khi Trung hữu sinh trong địa ấy, do phỉ báng giải thoát tà kiến, chuyển sinh địa ngục.

Sư Kinh bộ trong luận Bà-sa ghi: Thí dụ là nói Trung hữu có thể chuyển, do tất cả nghiệp đều có thể chuyển. Hữu Tông chấp, như luận Bà-sa quyển ghi: Hỏi: Nếu trung hữu đối với cõi không chuyển, không nghe việc Bí-sô vì sao thông? Ở trong Phật pháp vừa xuất gia xong, tu định thế tục, lúc sơ Tĩnh lự cho là được sơ quả, nhẫn đến thứ tư nói được A-la-hán, khởi tăng thượng mạn chưa được nói được. Lúc nó mạng chung Tĩnh lự thứ tư Trung hữu hiện tiền, lại khởi niệm như vầy: tất cả ràng buộc ta đã dứt hết nên nhấp Niết-bàn, không còn sinh xứ, vì sao có Trung hữu này hiện tiền? Bèn khởi tà kiến bác không giải thoát, do sức phỉ báng kiến kia nên Trung hữu diệt, Trung hữu vô gián địa ngục hiện tiền, sinh trong ngục vô gián? Đáp: Lúc trụ bản hữu có dời chuyển này, chẳng phải vị Trung hữu, nói ní sắp chết do thế lực của nghiệp Tĩnh lự thứ tư sinh tướng hiện tiền nên khởi tà kiến sinh ngục vô gián

Luận: Nhưng nói sinh lên trên, không khởi xuống v.v…

Xét luận Du-già quyển 58 ghi: Các phiền não ràng buộc chưa lìa dục tự địa phiền não là tự địa hiện khởi, đã lìa dục tức không hiện khởi, nếu ở địa dưới địa trên các trói buộc cũng được thành tựu, chẳng phải ở địa trên được nói thành tựu các trói buộc địa dưới.

Lại quyển 2 ghi: Các pháp địa dưới hoặc sinh địa trên không hiện ở trước. Các pháp địa trên nếu sinh địa dưới, lìa dục ấy là hoặc hiện ở trước, có trái với văn này nên luận thông.

Hỏi: Nói nhiều phần là căn cứ thời mà nói hay đứng về hoặc số?

Đáp: Lý bao gồm ở hai.

Hỏi: Thời thì làm sao như vậy? Nếu đứng về hoặc mà nói, vì sao trước nói chấp nhận hiện tiền, lại có bao nhiêu loại không khởi?

Đáp: Khởi thông kiến tu gọi là đều, khởi số tăng giảm, lược có ba loại:

  1. Khởi ba: Nghĩa là tà kiến, tham và vô minh.
  2. Khởi sáu: Như trong sớ đã nói.
  3. Khởi mười.

Nên luận nói các hoặc, phân biệt, câu sinh của địa dưới đều chấp nhận hiện khởi. Có nghĩa xác quyết rằng đối với thứ hai nói vậy, lại suy cầu khởi năm thù thắng, trừ một ngã kiến, không thấy thế gian chấp địa pháp khác cho là ngã, cho nên phân biệt kiến chẳng phải duyên địa khác, sắc của xứ đương sinh vẫn còn chưa khởi, ái của nhuận sinh duyên xứ đương sinh, tăng thượng quả sinh, đã chỉ có mê sự, cũng không thể nói cùng lý hoặc đồng thời.

Biện rằng: Nhuận sinh ngã kiến căn cứ tổng duyên mà nói. Lại nhuận sinh này chẳng phải một sát-na, lý sự hai hoặc, trước sau gián đoạn khởi, nhưng nói nhuận sinh mê tăng thượng quả, căn cứ vị chánh nhuận của cảnh ái ấy mà nói, lý lẽ ra không lỗi. Trong Xu Yếu, Nghĩa Đăng có ý này, cho nên năm sáu giải thích mặc tình lấy bỏ.

Luận: Phiền não địa dưới cũng duyên địa trên v.v…

Xét luận Du-già quyển 58 ghi: Mười loại phiền não đã nói như vậy, cũng duyên sự chuyển, cũng duyên phiền não, phiền não địa dưới năng duyên phiền não và sự địa trên. Quyển 2 nói ái duyên trên, như Xu Yếu dẫn.

Luận: “Nhưng có chỗ nói” đến “hoặc y duyên riêng v.v…”.

Xét trong Tập luận ghi: Dục giới phiền não trừ vô minh, kiến, nghi, còn lại không thể duyên địa trên làm cảnh. Các vô minh này tuy cũng có thể duyên địa trên, nhưng nó không thể thân gần năng duyên địa trên. Tạp Tập giải thích, nói vô minh duyên địa trên, nghĩa là cùng các kiến tương ưng. Kiến là trừ Tát-ca-da-kiến, không thấy thế gian

duyên các pháp địa khác chấp làm ngã. Lại luận Du-già quyển 58 ghi:

Chẳng phải hoặc địa trên hay duyên phiền não và sự địa dưới.

Sớ: Trong này nêu biên kiến đồng với ngã kiến vì ắt nương khởi.

Do toàn thường kiến được duyên địa khác, ví dụ ngã kiến ấy cũng được duyên khác, không có biên kiến không y ngã kiến, biên kiến duyên tha, ngã kiến cũng vậy.

Sớ: Chấp Dục giới văn tư xưa khởi.

Có nghĩa xác quyết rằng văn tư Dục giới đã chẳng phải ba kiến và giới sở khởi, vì sao hai thủ nói duyên địa dưới, cho nên không duyên lấy đó là thù thắng.

Biện rằng: Ý nói hai thủ nhớ giới sau, nhân văn tư khởi hai thủ sở hữu gọi là duyên địa dưới, không nói văn tư là hai thủ sở chấp kiến giới.

Còn các vặn hỏi khác như Nghĩa Đăng giải thích.

Luận: Phân biệt khởi chỉ có kiến sở đoạn v.v…

Đối Pháp quyển cũng đồng với đây, nên luận ấy ghi: Phân biệt sở khởi nhiễm ô kiến, nghi, kiến xứ, nghi xứ là kiến sở đoạn. Trong Tạp Tập giải thích rằng: Kiến xứ nghĩa là các kiến tương ưng cộng hữu pháp và chủng tử, nghi xứ cũng vậy.

Luận: Kiến sở đoạn mười thật đồng thời đốn đoạn v.v…

Xét luận Du-già quyển 5 ghi: Kiến đoạn phiền não đốn đoạn chẳng phải tiệm, vì sao? Do vì hiện quán trí đế hiện quán, năng đoạn kiến đạo sở đoạn phiền não, nhưng hiện quán này và hoại duyên đế tác ý tương ưng, thế nên ba tâm đốn đoạn tất cả mê khổ đế các kiến đoạn phiền não.

Giải thích: Tổng duyên bốn đế cộng tướng tác ý gọi là hoại duyên đế, biến duyên các đế khởi vô ngã quán mới có thể đoạn hoặc.

Hỏi: Vô phân biệt trí lẽ nào có duyên tổng các hành vô ngã?

Đáp: Giải thích như trong sớ. Lại có thuyết giải thích, căn cứ cộng tướng phương tiện sở dẫn, gọi là duyên các đế, tác quán vô ngã, chẳng phải chân kiến đạo có hành tướng này.

Sớ: Như hoại niệm trụ.

Hoại còn xen tạp, thân thọ tâm pháp, hai ba bốn pháp hợp thành để quán gọi là hoại niệm trụ.

Sớ: Đối Pháp quyển v.v…

Xét luận ấy ghi: Lại mười phiền não đều mê khổ tập khởi các tà hành, là nhân duyên và sở y xứ ấy, vì sao? Khổ tập hai đế đều là mười loại nhân duyên phiền não, lại là y xứ, thế nên tất cả mê nhân duyên và y xứ này khởi các tà hành. Lại mười phiền não đều mê diệt đạo khởi các tà hành, do vì năng sinh này sợ sệt các pháp ấy, vì sao? Do sức phiền não ưa chấp sinh tử, đối với pháp thanh tịnh khởi tưởng phập phồng sinh quá sợ sệt. Lại các ngoại đạo đối với diệt đạo đế vọng khởi các thứ phân biệt điên đảo, thế nên mười hoặc đều mê diệt đạo khởi các tà hành.

Sớ: Phiền não ấy khởi đều đủ hai duyên này.

Nhân y và sợ sệt là hai duyên.

Sớ: Chấp thấy các giới quyến thuộc.

Xét quyển 58 ghi: Nếu tùy thuận thấy giới cấm sở thọ của các pháp này, lấy làm Đệ nhất năng đắc thanh tịnh giải thoát xuất ly, là mê tập đế giới cấm thủ.

Luận: Riêng nghĩa là riêng mê v.v…

Có nghĩa hỏi: Kiến tu đạo hoặc một trăm hai mươi tám y đâu mà nói? Có thuyết nói y mê riêng nói, do tổng mê là thể đã là một, không thể riêng ghi bốn đế khác y tướng thô mà nói. Tùy chuyển lý môn nói thân kiến, biên kiến chỉ có mê khổ đế, uyển chuyển mà nói là cũng mê ba đế, tuy không đích thân mê, duyên ba đế hoặc làm ngã ngã sở và đoạn thường. Hoặc có thể, đây y tổng mê mà nói, thể tuy là một, tuy theo chỗ mê cảnh bốn đế cũng sai khác, nên không có lỗi. Nhưng trong sớ nói chỉ y nơi số tổng duyên riêng mà nói, nghĩa này không đúng. Nếu duyên riêng là số ấy cũng riêng, số ấy tổng là duyên cũng chẳng phải riêng, đã không có số tổng mà duyên riêng, vì sao căn cứ luận ở đây để rõ số ấy? Lại trong sớ ghi: Đối Pháp quyển , Du-già quyển 8 đứng về tổng mê đế nói mười bốn mê, quyển 58 đứng về riêng mê đế, cả hai chỉ có mê khổ, tám thông bốn mê, một trăm hai mươi tám tức là Đối Pháp, Du-già quyển 8 nói, vì sao nói đứng về duyên riêng nói có số như vậy? Cho nên văn sở lập tự trái nhau.

Biện rằng: Nếu thừa nhận mê riêng dùng là chính. Đã nói mê riêng làm căn cứ số chung hành riêng gọi là riêng, vì căn cứ số hành đều riêng gọi là riêng. Nếu số chung hành riêng tức đồng với số đã nói. Vì sao lấy xả ái tăng không đồng? Nếu số hành riêng một trăm hai mươi tám số vì sao được có? Lại cần gì nói uyển chuyển tướng thô? Nếu nói đứng về chung cũng không có lỗi, lẽ nào là hai ba hợp duyên chẳng phải chung ư? Nếu là tổng thì một trăm hai mươi tám số cũng có tăng giảm, nếu chẳng phải là chung nên thuộc về riêng, tức trước riêng mê một trăm hai mươi tám số lại tăng giảm, tấn thối có trái, vì sao xác quyết riêng chung không có lỗi? Lại nếu nói riêng y mười mỗi mỗi đều duyên riêng đế nói, tổng đứng về mười thông duyên bốn đế, không căn cứ tự các chung riêng nói, lý cũng không đúng. Giải thích trước cùng sớ rốt ráo có khác gì? Sau nói số ấy chỉ là giả lập, bỏ thật lấy giả cũng chưa thể được. Lại trong ghi: Lý cũng chưa được, lại đế mỗi mười mươi, số lẽ nào chẳng phải chung? Đều duyên tự đế vì sao chẳng phải hành riêng? Cho nên Đối Pháp nói, Dục giới thấy khổ sở đoạn có đủ mười phiền não, như kiến sở đoạn, tập diệt đạo sở đoạn cũng vậy, đây nói để chứng minh, vì sao phá nói không có số chung mà duyên riêng ư? Lại phá tổng hợp trái cũng không được ý. Nói Đối Pháp v.v… là đứng về mê chung là số chung gọi là chung, trong quyển 58 căn cứ mê riêng là số riêng gọi là riêng, do đây mà nói mâu thuẫn đâu có uổng chấp bác bỏ.

Các nghĩa còn lại như Nghĩa Đăng giải thích.

Luận: Hai thủ chấp nó.

Các dụng này duyên ba kiến đồng khởi, đứng về khổ tập, lý có ngăn cách nên gọi đó là thưa xa, là chú trọng duyên hoặc.

Sớ: Tức bốn kiến khác và nghi không có pháp chấp v.v…

Nghi cùng bốn kiến ngã kiến không đồng thời, ông nói ngã kiến nhiếp pháp chấp hết, tức bốn kiến, nghi lại không có pháp chấp lại thành lỗi lớn, lẽ nào có phiền não không y pháp chấp mà được khởi ư?

Sớ: Nếu trừ ngoài ảnh v.v…

Có nghĩa nói, nay không y nơi này, ngoài ảnh gá nương chưa hẳn đồng thời, như trước nghe có quá khứ, vị lai gọi là sau mới duyên, vì tâm sau sinh không có danh tướng. Lại lựa chọn các cảnh không có tên, giả sử xa mượn danh nhưng có thể thừa nhận gọi là tăng thượng duyên, làm sao thành bản chất? Đồng thời phát ảnh gọi là chất, trước tâm duyên danh, tùy danh phân biệt, tâm sau duyên nghĩa ảnh tượng mới sinh, năng thuyên sở thuyên đều không tương tợ, lẽ nào được gọi là hậu nghĩa chất? Nên biết ảnh tượng cũng có chất hoàn toàn không gá nương, nếu không như vậy lại trái với quyển 1 ở trước nói uẩn ngoài tự tâm hoặc có hoặc không.

Biện rằng: Sớ này hỏi ý đáp lựa chọn Hữu tông, Hữu tông tâm sinh không đâu mà không nương chất, dù duyên hoa đốm trong hư không, lông rùa sừng thỏ cũng dùng tên làm chất sinh khởi. Dù cho lựa chọn, do các tên ấy là tâm năng duyên, xa gần nương gá tương tợ với chân thật. Nói tức không không có bản chất, chẳng phải thừa nhận các tên đồng thật các trần thể bản chất nói không là không? Vì sao được dùng thật chất làm vặn hỏi? Lại năng thuyên sở thuyên hỗ tương không tương tợ v.v… điều này cũng không đúng, lẽ nào là các chất, tướng đều tương tợ ư? Như ngại, không ngại, lự, không lự v.v… chẳng phải một. Các vặn 5 hỏi khác chuẩn theo đây lỗi của đức có thể biết, không đợi phải nói.

Sớ: Nay trong duyên Vô lậu không được làm giải thích sau.

Lậu, Vô lậu duyên chất ảnh đều nói, nêu bày sự vô sự không chỉ có mong chất.

Sớ: Du-già nói mười phiền não v.v…

Đây là văn quyển 58.

Sớ: Diệt đạo Phật pháp rộng lớn v.v…

Phân biệt diệt đạo, duyên an lập đế. Phật pháp rộng lớn, duyên chẳng phải an lập Chân như làm cảnh.

Sớ: Đối Pháp quyển 5” đến “đồng văn đầu quyển 5”.

Có nghĩa sớ nói là đồng, nay giải thích có khác. Mạn kiến sáu pháp đồng, tham sân hai loại, văn quyển 5 từ nhiều phần cho nên chỉ nói hữu sự. Trong Đối Pháp tận lý, cùng kiến mạn đồng thời cũng gọi là vô sự, nhưng nghi một loại Du-già tận lý nói thông hai loại. Trong Đối Pháp đã nói kiến mạn đồng thời mới gọi là vô sự, nghi chẳng phải câu ấy không thông vô sự nên lý không tận, vô minh một loại hai luận không trái.

Biện rằng: Sớ bao quát các văn, khảo xét lý nó, lý văn thuận là nói không trái nhau, nếu văn sai lệch lấy ý chỉ để khế hội. Ban đầu quyển 5 văn có trái, do như trước đã khế hội. Đối Pháp quyển 5 lý cũng có thiếu, bàn lý đồng bất tận gọi là đồng, chẳng phải căn cứ văn ấy mỗi mỗi đồng. Lại như lý sở đoạn cũng còn thừa, trong Đối Pháp tham sân đâu được tận lý, tà kiến, kiến giới lẽ nào chỉ có vô sự? Nói kiến tương ưng đều gọi là vô sự, vì sao chẳng phải là lỗi lớn? Lỗi thái quá còn thì lý tận ở đâu? Nếu nói căn cứ kiến vô sự mà nói, nếu vậy văn lẫn lộn vì sao gọi là tận lý? Do đây mà nói thì sớ không trái.

Luận: Thân sở duyên ấy tuy đều Hữu lậu.

Xét luận Đối Pháp quyển ghi: Lại duyên Diệt đạo đế các phiền não, không thể thân duyên diệt đạo làm cảnh, do diệt đạo đế xuất thế gian trí và Hậu đắc trí nội sở chứng, chỉ là y vọng khởi phân biệt ấy nói là sở duyên, vì cảnh phân biệt sở chấp không lìa phân biệt.

Sớ: Cùng hữu sự duyên khác nhau, không thể làm ví dụ.

Ở đây có hai ý: một là thành hữu sự duyên giải thích thứ nhất, hai là thành Vô lậu ắt đứng về ảnh chất không được, do trong hữu sự duyên kia ban đầu giải thích cùng nêu bày.

Hỏi: Vì sao gọi là khác?

Đáp: Hữu sự duyên hoặc năng sở hai duyên nhưng đều là Hữu lậu, có nghĩa thuận nhau, nên căn cứ thẳng vào chất để nói, Vô lậu duyên hoặc, năng sở hai duyên chỉ có trái không thuận, nên không chỉ có chất được duyên này.

Luận: “Duyên tự địa” đến “sở khởi gọi là cảnh”.

Tướng, danh, phân biệt cả ba gọi là sự. Sự y phân biệt mà sở khởi, y chủ thọ mà gọi. Diệt đạo v.v… gọi là y phân biệt khởi, y chủ đồng với trước làm cảnh nên biết. Cho nên luận Du-già quyển 58 ghi: Nếu duyên khổ tập sự cảnh tất cả các lậu, là duyên tà phân biệt sở khởi sự cảnh. Duyên diệt đạo cảnh và duyên không đồng phân giới cảnh tất cả các lậu, là duyên tự phân biệt sở khởi gọi là cảnh. Vì sao? Chẳng phải phiền não năng duyên này diệt đạo cũng không thể năng duyên không đồng phân giới, chẳng phải không có sở duyên.

Giải thích: Nói không thể duyên, là hiển bày chẳng tương tợ, chẳng phải không có sở duyên, hiển bày tuy không tương tợ nhưng nương gá ở danh, cũng lại duyên nó.

Luận: Chỉ là phần vị phiền não Đẳng lưu tánh.

Hỏi: Mỗi phần vị nào là Đẳng lưu nào?

Đáp: Xét luận Du-già quyển 58 ghi: Các tùy phiền não phải biết đều là phẩm loại phiền não, lại như phóng dật, là tất cả phẩm loại phiền não, vì sao? Lúc ở nhiễm ái phần nhiều sinh phóng dật, nhẫn đến lúc nghi cũng có phóng dật, tham chấp xan lận, kiêu mạn trạo cử v.v… đều là phẩm loại tham, đều là Đẳng lưu tham. Phẫn hận, não, tật, hại v.v… là phẩm loại sân là Đẳng lưu sân. Siểm, cuống là phẩm loại tà kiến, là Đẳng lưu tà kiến. Phú là phẩm loại siểm, nên biết tức phẩm loại Đẳng lưu ấy, các tùy phiền não là phẩm loại si là Đẳng lưu si. Các luận không đồng như ở sau tùy theo văn sớ tự giải thích, nên không nói lại.

Luận: Hai mươi loại này, riêng có ba.

Có nghĩa phẫn v.v… mười loại chỉ có ý thức đồng thời gọi là tiểu. Vô tàm v.v… cả hai thông sáu thức nên gọi là trung, trạo cử v.v… tám loại này có khắp bảy thức nên gọi là đại.

Biện rằng: Cũng có lý này, nhưng không có chỗ nương, lại y luận giải thích.

Luận: Năng chướng không phẫn, cầm gậy là nghiệp.

Trong luận Hiển Dương quyển 1, hai mươi tùy hoặc đều đủ năm nghiệp, phẫn nghiệp có năm, năng chướng không sân thành nghiệp, nhẫn đến tăng trưởng phẫn thành nghiệp.

Giải thích: Ba nghiệp ở giữa cùng bản hoặc đồng nên nói “nhẫn đến”, còn lại chuẩn theo đây nên biết, sau bỏ không nói.

Sớ: Nhân này bất định cũng không biến khắp.

Dị phẩm thiếu nó vì biến khắp vô tánh.

Luận: “Tạp sự v.v…” đến “nhiều tùy phiền não”.

Xét luận Du-già quyển 58 cũng dẫn. Nếu trong Tạp sự đức Thế Tôn trước nói các tùy phiền não rộng nói nhẫn đến sầu, than, ưu, khổ theo nhiễu não v.v… Lại quyển 8 ghi: Tên khác của tham phiền não có mươi lăm loại, si có bảy loại, đủ như luận kia nói.

Luận: Nghĩa là tên tùy phiền não cũng nhiếp phiền não.

Xét luận Đối Pháp quyển ghi: Tùy phiền não là tất cả các tùy phiền não đều là tùy phiền não, có tùy phiền não chẳng phải phiền não, nghĩa là trừ phiền não còn nhiễm ô hành uẩn đã nhiếp tất cả tâm pháp, đây lại thế nào? Nghĩa là trừ tham v.v… sáu thứ phiền não, còn các nhiễm ô khác hành uẩn đã nhiếp phẫn… các tâm pháp. Lại tham sân si gọi là tùy phiền não tâm pháp, do tùy phiền não này tùy phiền não ở tâm, khiến không lìa nhiễm, khiến không giải thoát, khiến không đoạn chướng cũng gọi là tùy phiền não.

Sớ: Thú hướng đến trước.

Xét luận ấy ghi: Nghĩa là thọ tăng-kỳ, hoặc lại người khác có các y phục, lợi dưỡng, hoặc thỉnh Tăng-kỳ và cùng người khác đều gọi là thú hướng. Nếu các Bí-sô đối với việc như vậy đầu tiên đi trước nên gọi là thú hướng đến trước.

Luận: Có nghĩa phẫn v.v… bốn pháp đồng thời trừ lạc.

Hỏi: Trong Na-lạc-ca mới có khổ thọ, vì sao nó có xan thông bốn thọ?

Đáp: Trong truyện có hai giải thích:

  1. Tuy không có tài vật v.v… đối với tự khổ cụ cũng có xan.
  2. Đối với pháp tự sở tri chấp nhận có xan.

Biện rằng: Giải thích trước hoàn toàn sai, ai đối với khổ cụ thấy luyến tiếc? Thứ hai lý thông. Xét trong Đại Bát-nhã Bồ-tát đối với họ dùng đạo Tam thừa giáo hóa hữu tình, rõ ràng thừa nhận nghe pháp, nên biết đối với pháp, xan cũng đâu có lỗi gì. Nay lại giải thích rằng: Chỉ nói xan pháp được khổ thọ đồng thời, chẳng phải nói có khổ đều có xan. Thuần khổ quỷ, súc khổ được xan đồng thời, không trái ý chỉ luận.

Sớ: “Chẳng phải nói bất cộng vô minh” đến “ác tuệ đồng thời”.

Bất cộng vô minh đã có không cùng ác kiến đồng thời, bất chánh tri của vị vô minh này nương đâu mà lập? Do đây nên biết, y vô minh mà lập bất chánh tri v.v… mới gọi là nhiễm khắp.

Sớ: Tụ vô minh này các pháp khác cùng với đây đồng thời.

Đây ngăn người ngoài vặn hỏi, ý người ngoài vặn hỏi rằng bất cộng vô minh ác tuệ không có, lẽ nào chỉ có một, cho nên nay đáp rằng tuy không có ác tuệ cùng các pháp đồng thời cũng không chỉ có mình nó.

Sớ: Tức đối với vô minh giả kiến lập.

Nghĩa này như trước luận quyển phần cuối, trong tám biến nhiễm thì sớ Nghĩa Đăng giải thích đủ, tìm xem có thể rõ, đây không ghi lại.

Luận: Phạm đối với Thích tử khởi siểm cuống.

Xét luận Bà-sa quyển 12 dẫn kinh ghi: Như Phật xưa ở trong thành Thất-la-phiệt rừng Thệ-đa, lúc bấy giờ có Bí-sô tên là Mã Thắng, là A-la-hán, khởi tư duy như vầy: “Các bốn đại chủng sẽ ở vị nào diệt hết không sót, phiền não ràng buộc vì muốn biết nên nhập thắng đẳng trì”, liền dùng định tâm ở rừng Thệ-đa chết, ở tứ đại Thiên vương từ trong định xuất mà hỏi Thiên chúng ấy: Các bốn đại chủng sẽ ở vị nào diệt hết không sót? Thiên chúng đáp: Không biết. Như vậy Dục giới Lục dục thiên v.v… cứ thế tìm cầu, nhẫn đến tìm khắp Tha hóa tự tại thiên. Mã Thắng lại khởi tâm suy tìm các chúng Phạm thiên, muốn đến Phạm thế lại nhập thắng định, lại dùng định tâm từ Tự tại cung chết, từ Phạm chúng thiên xuất định mà hỏi như trên. Phạm chúng đều nói: Chúng tôi không biết. Mã Thắng lại tìm đến Đại phạm. Mã Thắng hỏi như trước, Đại phạm chúng bị Mã Thắng bất ngờ hỏi, Phạm vương không biết nên đáp loạn rằng: “Tôi ở chúng này là Đại phạm, Tự tại, Tác giả, Hóa giả, Sinh giả, Dưỡng giả, là cha tất cả” nên biết có cuống. Nói xong, dẫn ra ngoài chúng, siểm khúc hổ thẹn trở lại hỏi Phật, nên biết có cuống.

Luận: “Nhưng phẫn v.v… mười” đến “mới được sinh”.

Có nghĩa giải thích riêng mười tên ở trước là hữu sự, chẳng phải là đại môn, trong sớ nói sai, Hữu lậu ở sau v.v…, mới là thứ mười ba.

Biện rằng: Nếu chẳng phải đại môn, đây thuộc môn nào? Nếu nói thuộc môn trước chỉ nói mê đế thân sơ, nghĩa môn hoàn toàn sai khác đâu thuộc nó. Lại hữu sự v.v… tự là một nghĩa. Văn nghĩa hữu sự tự làm môn ấy, rốt cuộc trái lý nào mà không thừa nhận? Không nói mười biến nhiễm ở sau. Mười biến nhiễm, tâm bất thiện ở sau tùy theo chỗ biến ấy thông sự vô sự, dễ cho nên không nói, duyên Hữu lậu v.v… đã nói chuẩn theo trên nên không lập pháp, tức phần thứ hai nêu bày các môn.

Sớ: Kế đến chữ “năm” là nêu bày tên.

Thứ nhất chữ “nghĩa là” nêu tên cần có, cũng gọi là nêu tên.

Sớ: Là ngã ác biên tác.

Nói ngã biên là hiển bày tự chỉ mình, nhưng văn sớ ngược, nên lẽ ra nói rằng: Ngã biên ác tác. Có bản giải thích, chữ “chỉ” viết nhầm thành chữ “thố”, nên luận Du-già quyển 11 ghi: Lại đối với việc nên làm, không nên làm, tùy theo thích ứng ấy hoặc đã từng làm, hoặc chưa từng làm tâm sinh hối hận rằng tại sao ta xưa nên làm, không nên làm, việc chẳng nên làm lại làm.

Luận: Như các cái triền khác.

Nói cái là xét trong Đối Pháp quyển nói, hay khiến thiện phẩm không được hiển bày là nghĩa của cái, che lấp tâm kia ngăn các thiện phẩm khiến không lưu chuyển.

Hỏi: Đối với những vị nào chướng các thiện pháp?

Đáp: Đối với vị ưa thích xuất gia, giác chánh hành, chỉ cử xả, nghĩa là khi ưa thích xuất gia, tham dục cái là chướng, tham cầu thọ dụng cảnh giới bên ngoài, vì đối với nó không ưa thích. Lúc ở giác chánh hành, sân khuể cái là chướng, ở chỗ phạm học xứ đồng với người có hạnh thanh tịnh ngay khi phát giác, do tâm sân khuể không chánh học. Đối với hai vị chỉ cử thì hôn trầm, thùy miên trạo cử, ác tác cái là chướng, như trước đã nói năng dẫn hôn trầm và tán loạn, ở vị xả nghi cái là chướng, xa lìa quyết định không thể xả. Trong sớ biện có khác chút ít, ý đồng ở đây.

Hỏi: Hôn trầm v.v… bốn pháp thành hai cái, ý ấy làm sao?

Đáp: Hôn trầm, thùy miên hành tướng tương tợ, thùy miên lại làm hôn trầm cận duyên sinh các phiền não nên hợp thành cái. Luận Du-già quyển 11 ghi: Không có tánh kham nhậm gọi là hôn trầm, tâm mê mờ cực lược tánh gọi là thùy miên, do hôn trầm này sinh các phiền não, tùy phiền não, không còn cận duyên như thùy miên là trạo cử, ác tác sở khởi xứ, giả sử xứ không đồng do trạo cử náo động, ác tác, tướng ưu biến tương tợ nên hợp lập một cái, tức luận Du-già ghi: Trạo cử ác tác đều do thân thuộc, tầm tư, quốc độ, xưa đã trải qua sự việc mà khởi, nên tổng kết rằng, do trước trạo cử cùng chỗ ác tác này đồng nên hợp nói một cái. Xứ sở không đồng nhưng như tướng kia nương tựa náo động, nay đây cũng lại là tướng ưu biến, thế nên cùng với nó tạp nói một cái.

Hỏi: Chỉ, cử, xả hành tướng thế nào?

Đáp: Xét Đại luận quyển ghi: Nếu tâm trạo cử, hoặc sợ trạo cử, lúc này các pháp đáng nhàm chán tác ý, và tâm vô gián kia tác ý gọi là tướng của chỉ. Nếu tâm chìm đắm hoặc khi sợ chìm đắm, các pháp đáng thích tác ý và tâm tướng ấy tác ý gọi là tướng của cử. Nếu một bề dứt đạo, hoặc một bề quán đạo, hoặc lúc song vận chuyển đạo hai tùy phiền não bị nhiễm ô, không có công dụng tác ý và tâm mặc tình chuyển, trong đó tất cả tác ý gọi là tướng xả.

Luận: Tùy phiền não và si phần.

Xét luận Du-già quyển 55 ghi: Tùy phiền não tự tánh nghĩa là phẫn đến ác tác, thùy miên, tầm tứ. Lại nói, thùy miên, ác tác là si phần nên đều là thế tục có.

Luận: Chẳng phải tư tuệ tưởng trói buộc tánh nó.

Đủ như sớ ấy biện. Lại nói, hoặc thùy miên kia lẽ ra đều nên nói trong nhiễm không nhiễm tùy theo một nhiếp. Hoặc nói nhân trước tự tùy theo một pháp không thành, tự nói chẳng phải là tư tuệ tưởng. Nếu nói nhân sau hữu pháp làm nhân là trái với lý môn.

Biện rằng: Xem trong sớ, nhiễm tịnh trước sau hai nhân thật không có lỗi. Lại hữu pháp trước không nói tư tuệ mà nói thẳng là thùy miên, có thể như đã trách, trước đã nói nhiễm tư tuệ, sau nhân đó nêu lại cũng đâu có lỗi gì. Lại nếu nhân sau toàn lấy hữu pháp nên trái với lý môn, nay hữu pháp cùng nhân tăng giảm toàn có không đồng vì sao có trái luận? Nếu như nhiễm sở lập chẳng phải nhiễm nhân mới là chẳng phải ý của luận, như trong sớ nói lý thông văn thuận. Lại thùy và hối đều có nhiễm tịnh, nhiễm tịnh khai riêng lại thành bốn lượng, trong sớ hợp nói hai.

Sớ: Tên không giống như Niết-bàn.

Nếu chỉ nói cảnh không đâu chẳng phải cảnh, nói tên duyên tên cảnh thì cảnh liền hạn cuộc, do tên không giống như Niết-bàn v.v… nay nói ý cảnh, ý cảnh bèn rộng, do trong ý chứng Chân như v.v…

Luận: “Hai pháp này đều lấy” đến “vì nghĩa loại sai biệt”.

Hỏi: Trong Đối Pháp quyển 1 ghi: Tầm y tư y tuệ, là đối với vị suy tìm không suy tìm, như thứ lớp ấy truy cầu hình tướng ý nói phân biệt. Tứ y tư y tuệ là đối với vị suy tìm không suy tìm, như thứ lớp kia quán sát hành tướng, ý nói phân biệt. Như vậy hai loại an, bất an trụ sở y làm nghiệp, nay nói suy tìm sâu xa, suy tìm không sâu xa, lẽ nào không trái nhau?

Đáp: Hiểu như trong sớ, Nghĩa Đăng.

Sớ: Sở đối khác nhau.

Tầm tứ đứng về tướng giả thật đối nhau. Hối, miên căn cứ ở hình tướng chân tục, nên tuy tổng giả lập gọi là hữu khác nhau.

Sớ: “Nhưng sở đối khác nhau” đến “tất cả định giả”.

Tuy thật có tự thể, chẳng phải Thắng nghĩa nên được tên thế tục.

Luận: Y nơi tầm tứ có nhiễm ly nhiễm v.v…

Đây đồng với Du-già quyển nói. Xét luận ấy ghi: Dục giới và Sắc giới sơ Tĩnh lự, trừ trung gian Tĩnh lự, hoặc định hoặc sinh gọi là Hữu tầm hữu tứ, tức trung gian Tĩnh lự, hoặc định hoặc sinh gọi là Vô tầm chỉ có tứ địa, tùy theo một hữu tình do tu đây cho nên được làm Đại phạm. Từ Tĩnh lự thứ hai, hữu sắc giới và vô sắc giới khác đều gọi là Vô tầm vô tứ địa. Trong này do lìa tầm tứ dục đạo lý gọi là Vô tầm vô tứ địa, không do đâu mà không hiện hành, vì sao? Chưa lìa dục của Dục giới, do tác ý dạy dẫn dắt sai biệt, ở một thời gian cũng có Vô tầm vô tứ ý hiện hành, đã lìa tầm tứ dục cũng có tầm tứ hiện hành, như xuất định ấy và sinh cõi ấy. Nếu cõi Vô lậu Hữu vi định nhiếp sơ Tĩnh lự cũng gọi là Hữu tầm hữu tứ địa, y tầm tứ xứ pháp duyên Chân như làm cảnh, vào định này nên không do phân biệt hiện hành. Còn lại như trước đã nói.

Luận: Luận nói năm thức có tầm tứ.

Tức luận Du-già quyển 5. Trong đó có hỏi đáp, lời hỏi dẫn trong sớ, văn đáp nay dẫn rằng, do Hữu tầm hữu tứ chủng tử các thức tùy theo Vô tầm vô tứ Tam-ma-địa, từ Tam-ma-địa khởi rồi, đây được hiện tiền. Lại ở đây khởi thức hiện hành lại là Vô tầm vô tứ Tam-ma-địa, chủng tử đã tùy theo, thế nên địa này chẳng phải là một bề Vô tầm vô tứ, do hữu tình ấy đối với các tầm tứ, do tánh ly dục mà ly dục. Địa ấy tuy gọi là Vô tầm vô tứ, này lại hiện hành cũng không có lỗi. Chuẩn theo hỏi đáp này cho nên năm thức có tầm tứ.

Sớ: “Tuy không có tự tánh” đến “cũng có tầm tứ”.

Tuy không có văn nói tự tánh ấy là tầm tứ, nhưng luận Đối Pháp nói tự tánh ấy tức là hữu tướng. Hữu tướng Du-già nói là tầm tứ, do đây triển chuyển mà bàn, nên biết năm thức có tầm tứ.

Luận: Hiển bày phần nhiều do nó khởi.

Sớ có hai giải thích. Có nghĩa giải thích thứ hai kia rằng: Sớ nói sinh trên ắt tầm tứ dẫn mới có thể khởi các thức ở sau như nhãn v.v…, lẽ nào khởi năm thức phải ý sau dẫn sinh? Địa dưới còn dùng định trên có thể dẫn ra năm thức, vì sao sinh trên mới khởi tầm tứ thức dẫn ở cõi dưới? Chưa hẳn tận lý, nhưng sắp khởi trên, các địa ý thức năng dẫn nhãn thức ở sau là thù thắng, như Đại Bồ-tát lẽ nào không thể dùng các địa tâm trên dẫn ở sau năm thức khởi? Cho nên quyển 5 nói, từ Vô tầm tứ Tam-ma-địa khởi rồi được hiện tiền này, không nói lại khởi tâm địa dưới. Luận này lại nương trước sau dẫn sinh mà nói, từ định khởi được hiện tiền này, lý thật ra từ Địa thứ tám trở đi Bồ-tát ở các địa tâm đủ năm thức, cho nên phần nhiều nói cũng còn sinh trên mà khởi dưới.

Biện rằng: Nếu thừa nhận ý trên dẫn nhãn dưới, hai định ý trên

tầm tứ không có, vì sao được nói hiển bày phần nhiều do nó khởi? Lại quyển 5 không nói xuất định liền khởi tâm dưới liền chứng tâm trên dẫn thức dưới. Sư thứ hai này căn cứ lý nào nói phần nhiều do nó khởi? Nếu nói địa dưới phần nhiều do nó khởi, đây không phải chống chế bản thông ở trên không khế hội cõi dưới. Nếu nói chỉ ngăn, sớ nói nhất định không chướng, có lúc thức sau dẫn. Nếu vậy vì sao dẫn “không khởi tâm dưới” trong quyển 5 lấy đó làm chứng? Bản khế hội văn ấy, phần nhiều do nó khởi, đã do nó chứng không do ở sau dẫn, vì sao mà có thể khế hội văn ấy ư? Lại lúc nào mà do nó khởi? Giả sử nói lúc khác vì không có nhân khác, lại nói sinh ở sau còn dụng định trên dẫn năm thức, dẫn năm thức nào? Nếu dẫn địa trên, lại bị tự hại trái lại chứng nghĩa khác, nếu dẫn thức sau, thức tự địa quán tập có thể như vậy, thân trên dẫn địa dưới đã không đồng đâu được cùng ví dụ. Lại ví dụ Bồ-tát cũng chưa hợp lý, nhưng khởi dưới có lỗi gì? Lẽ nào khởi thức dưới là đánh mất nghĩa tự tại? Sự trí của Như Lai không thân chứng lý, lẽ nào đánh mất nghĩa trí của Như Lai biến khắp? Lại sớ đối với chỗ tranh luận để rõ không nói tất cả, chưa thể dùng Bồ-tát làm ví dụ.

Sớ: Đây trái với trong định nghe tiếng v.v…

Biện rằng: Trong kinh Thâm Mật căn cứ tán phần nhiều mà nói, nên cũng không trái.

Luận: Hối chỉ chấp nhận cùng vô minh tương ưng.

Hỏi: Đồng thời vô minh này lẽ ra chỉ có bất cộng, bất cộng mê lý, đây mê hay không mê.

Đáp: Giả sử như vậy cũng đâu có trái.

Hỏi: Cả hai đều có lỗi, nếu không mê thì vì sao gọi là tương ưng?

Đáp: Vì sở duyên khác nhau.

Hỏi: Nếu nói mê nhưng nhân tà kiến dẫn sinh, nghĩa thân ở đâu?

Đáp: Trong truyện có ba giải thích:

1. Chỉ nói bất cộng có thân mê lý, chẳng phải đều thân mê.

2. Tuy sức tà kiến dẫn sinh, không duyên kiến khởi nên cũng thân mê.

3. Hối đồng thời vô minh cũng là phi chủ, do nhiễm hối này chẳng phải thuộc thân mê.

Xác quyết rằng, nhưng hối thân mê lý khéo chấp, nên nói bất cộng chẳng phải thân mê, tuy trái với văn luận, nhưng lý thuận nhau.

Biện rằng: Nhiễm hối là hối tu ở thiện, hối không làm ác, đây lẽ nào chẳng phải mê lý khổ đế ư? Tuy lại tà kiến trước sau dẫn sinh không duyên làm cảnh, thân mê cũng đâu có lỗi gì, vì không có văn ngăn.

Luận: Trong vị văn tư có hối miên.

Hỏi: Hối miên không có năm thức, vì sao được có văn?

Đáp: Có hai giải thích:

  1. Duyên cảnh sở thọ, nghe nói pháp cũng được gọi là văn.
  2. Miên chỉ có tư.

Trong văn tổng nêu chẳng phải hiển bày vị miên được gọi là văn, nay lấy giải thích trước.

Luận: Cũng chẳng phải như ưu thâm cầu giải thoát.

Ưu cầu giải thoát là căn Vô lậu, nên thông bất đoạn. Luận Đối Pháp quyển 11 ghi: Vị tri căn nghĩa là tín v.v… năm ý hỷ là ưu xả, Dĩ tri thể căn số cũng đồng.

Luận: Nếu đã đoạn nên chẳng phải thuộc sở đoạn.

Hỏi: Bất hoàn đoạn miên, vì sao chỉ có nói Vô học đoạn gọi là phi sở đoạn?

Đáp: Hất hoàn năng duyên trói buộc chưa hết nên không đồng Vô học.

Luận: “Chánh tư duy” đến “tìm cầu”.

Xét luận Hiển Dương quyển 2 nói là Vô lậu và tầm, tức luận ấy ghi: Hai là chánh tư duy, nghĩa là y chánh kiến cùng Vô lậu câu hành, ly dục tư duy, không sân giận tư duy, không hại tư duy, ở trong tu đạo tương tục tác ý tư duy các đế, cùng Vô lậu tác ý tương ưng khiến tâm thú nhập, cực thú nhập, tìm cầu cực tìm cầu.

Giải thích: Thú là hướng, nhập là giải, tầm nghĩa là suy tìm. Thú và tầm này đều có mạnh yếu nên nói “cực”, các văn khác nên rõ.

Hỏi: Tứ vì sao không nhập bát chánh đạo?

Đáp: Chưa thấy văn của Đại thừa nói. Vả lại y Hữu tông, luận Bà-sa quyển ghi: Tứ không có tướng ấy, cho nên không lập. Lại nữa, phần pháp Bồ-đề hành tướng nhanh mạnh, dụng của tứ kém liệt thế nên không lập. Lại nữa, dụng của tứ bị tầm ngăn che tổn hại, đối với cần chánh kiến dụng của tầm tăng thêm, nên tứ không lập phần pháp Bồ-đề. Luận Hiển Dương ghi: Tìm cầu cực tìm cầu, đây tức là tầm, thú nhập cực thú nhập đây tức là tứ, hai loại gọi chung là chánh tư duy, cùng Tiểu thừa sai biệt nên cũng không có lỗi. Lại trong Du-già quyển 2 ghi: Do sức tăng thượng của chánh kiến này khởi xuất ly, vô khuể vô hại phân biệt tư duy gọi là chánh tư duy, nếu tâm thú nhập vào các tầm tứ. Nó chỉ có tầm tư, tướng trạng như vậy có tầm tư, nếu tâm thú nhập vào các ngôn luận.

Luận: Lại nói nó là nhân ngôn thuyết.

Trong luận Đối Pháp ghi: Chánh tư chỉ là chỉ dạy chi khác, như sở chứng này phương tiện an lập phát ra lời nói, tức trong Du-già nói nếu tâm thú nhập vào các ngôn luận cũng là nhân ngôn thuyết.

Sớ: Thập địa thứ nhất” đến “tầm Vô lậu”.

Hỏi: Luận ấy không nói chánh tư duy, căn cứ ở đâu nói có?

Đáp: Luận ấy lập lại tụng của người tịnh giác. Y luận Phạm bản gọi là tư duy, sớ y Phạm văn nên không có lỗi.

Hỏi: Kinh nói tư duy, vì sao là chứng tầm thành Vô lậu?

Đáp: Nói tư duy là một trong Bát chánh đạo, thể tức là tầm, nên được làm chứng. Lại các chúng Bồ-tát như Giải Thoát Nguyệt thỉnh Kim Cương Tạng giải thích nghĩa Thập địa, chuẩn theo kinh Thập Địa khen ngợi đức của Bồ-tát. Kim Cương Tạng v.v… Địa thứ tám trở lên, thượng vị ý thức chỉ là Vô lậu. Giải thoát Nguyệt v.v… khen là Tịnh giác, Tịnh giác rõ biết thể chẳng phải Hữu lậu.

Sớ: “Hỏi đã dẫn Thập địa” đến “vì là nhân ngữ ngôn”.

Ý vặn hỏi cho rằng, nói tư duy là bản kinh tụng, luận gia giải thích rằng: Vì sao chỉ có khen Tịnh giác? Vì Tịnh giác là nhân ngôn thuyết. Giác gọi là giác quán là ngôn hành của miệng, chuẩn theo văn luận ấy cũng được làm chứng vì sao không dẫn ra?

Sớ: Nên dẫn không đồng, lẽ ra nên nói là Tịnh tư duy.

Hiển bày luận gia nay chỉ dẫn bản kinh không dẫn luận thích, không dẫn ý luận biện đủ như trong Nghĩa Đăng.

Hỏi: Nếu dẫn bản kinh, kinh tụng không nói chánh tư duy là nhân ngôn ngữ, đâu được dẫn chứng làm nhân của thuyết?

Đáp: Văn tuy không nói lý ắt có thể, nên kinh tụng ghi: “Vì sao người Tịnh giác niệm trí công đức đủ, nói các thượng diệu địa, có lực không giải thích”. Đã nói Tịnh giác nói thượng diệu địa nay vì sao không giải thích? Rõ biết Tịnh giác tức là nhân thuyết, nếu không như vậy vì sao nêu bày có Tịnh giác trách không giải thích?

Biện rằng: Xem văn xét lý bao gồm luận không tổn hại, vì sao? Hơn nữa nói Giác quán, nếu Phạm bản có, tức không nên trách dịch chủ tăng thêm. Nếu Phạm bản không, sư tưởng Duy thức không dẫn sự nhầm này, lấy nghĩa “tư duy” của chánh luận kia thông chứng nguyên do của nhân quả ngôn thuyết, rốt cuộc có lỗi gì? Luận nói nhân thuyết rất rõ ràng, nên suy nghĩ lại.

Luận: “Hậu đắc trí” đến “ắt nhờ tầm tứ”.

Hỏi: Trong căn bản trí có tầm tứ chăng?

Đáp: Không có, cho nên luận Du-già quyển 3 ghi: Hỏi: Nếu tư duy Chân như tức quán Chân như ư? Giả sử quán Chân như tức tư duy Chân như? Đáp: Nên làm bốn câu, có tư duy Chân như chẳng phải quán Chân như, nghĩa là do phân biệt sở nhiếp như lý tác ý tư duy Chân như, nhưng thấy tướng Chân như không thấy thật Chân như, nhẫn đến chưa được chánh thông đạt vị và thông đạt hậu tác ý tư duy an lập Chân như; có quán Chân như chẳng phải tư duy Chân như, nghĩa là khi thông đạt Chân như do Thắng nghĩa nên tư duy tướng ấy; có tư duy Chân như cũng là quán Chân như, nghĩa là sau khi thông đạt tương tục tư duy phi an lập Chân như; có không tư duy Chân như cũng không quán Chân như, nghĩa là lìa như lý sở dẫn các tướng tác ý tư duy.

Giải thích: Câu thứ hai ấy tức căn bản trí nói chẳng phải tư duy, rõ ràng không có tầm tứ.

Hỏi: Nếu vậy vì sao nói do Thắng nghĩa tư duy tướng kia?

Đáp: Không đồng với Gia hạnh, Hậu đắc trí v.v… nói chẳng phải tư duy. Nhưng thân chứng chân nói do Thắng nghĩa gọi là tư duy tướng ấy. Tư duy chính là tên khác của năng duyên, cũng như tên gọi Mạt-na xuất thế, chẳng phải nhiễm ý nên không gọi là tư lương. Vô lậu chánh tư cũng gọi là ý.