THÀNH DUY THỨC LUẬN DIỄN BÍ
Sa-môn Trí Châu soạn
Việt dịch: Linh Sơn Pháp Bảo Đại Tạng Kinh
Hội Văn Hóa Giáo Dục Linh Sơn Đài Bắc Xuất Bản

 

QUYỂN 3

(PHẦN ĐẦU)

Sớ: Thế Thân thì thông.

Xét luận kia quyển 2 ghi: “Tất cả chủng tử lại có sáu nghĩa. Sátna diệt là hai chủng tử đều vô gián định diệt hoại, vì sao? Không phải pháp thường làm thể chủng tử, do tất cả thời tánh như ấy vốn không sai biệt”.

Giải thích rằng: Hai chủng tử là chủng trong ngoài. Nói câu hữu là chẳng phải quá khứ vị lai cũng chẳng lìa nhau được làm chủng tử, vì sao? Nếu lúc này chủng tử có, ngay lúc bây giờ quả sinh. Hằng tùy chuyển nghĩa là A-lại-da thức, nhẫn đến trị sinh, ngoài pháp chủng tử nhẫn đến căn trụ, hoặc nhẫn đến dị thục. Nói quyết định nghĩa là chủng tử này đều quyết định sai khác, không từ tất cả tất cả được sinh, từ vật chủng này lại sinh vật này. Đợi các duyên nghĩa là chủng tử này đợi tự các duyên mới có thể sinh quả, chẳng phải tất cả thời mới có thể sinh tất cả, nếu ở chỗ này là lúc tự gặp các duyên, tức ở chỗ này lúc này tự quả được sinh. Chỉ có thể dẫn tự quả, nghĩa là tự chủng tử chỉ dẫn tự quả, như A-lại-da thức chủng tử chỉ có thể dẫn sinh A-lại-da thức, như lúa gạo chỉ có thể dẫn sinh các quả lúa gạo. Còn lại không nói pháp chủng bên ngoài vì dễ cho nên không nói, nêu vặn hỏi để hiển bày, lại văn ban đầu nêu nên nói tất cả chủng.

Sớ: Cũng hiển bày Đại chúng v.v…

Lược có hai giải thích:

1. Nói mười hai duyên khởi là không đúng, vì chẳng phải chủng tử. Nói Vô vi vô thủ v.v… là giải thích lý do.

2. Nói không đúng là thuộc ở câu sau, hiển bày duyên khởi kia thể chẳng phải Vô vi. Nói vô thủ v.v… là giải thích lý do.

Giải thích trước là chính, vốn hiển Vô vi chẳng phải là chủng tử, vì không muốn phá nghĩa Vô vi ấy.

Hỏi: Nhân luận sinh luận, nếu họ chống chế rằng, Vô vi thể tánh tuy chẳng phải duyên sinh, mà có thể cách nó lập tên duyên sinh kia, đây cũng có lỗi gì? Cũng như các nghĩa tưởng thọ Vô vi?

Đáp: Lẽ ra nên vặn hỏi họ rằng, vả lại Vô vi của ông là có công năng, hay là không có công năng? Nếu có công năng chẳng phải Vô vi, có công năng cho nên như pháp ngăn cách, nếu không có công năng tại sao có thể ngăn cách?

Hỏi: Nếu vậy Vô vi Đại thừa cũng vậy, tất cả Hiền thánh đều do Vô vi mà có sai biệt, hai lỗi cũng đồng chăng?

Đáp: Chỉ do Hiền thánh chứng có sâu cạn mà có sai khác, lẽ nào do Vô vi mà có công năng, khiến Hiền thánh sai khác? Nên không thể cùng nêu bày. Nếu nói Vô vi thể tức là duyên sinh, lỗi ấy lại quá nặng, suy nghĩ có thể biết.

Có nghĩa cũng ngăn Thượng tọa hiện tại một niệm tâm tâm sở pháp mà có trước sau, trước sinh sau diệt, sắc pháp bốn thời sinh, trụ, dị, diệt và cổ Tát-bà-đa hiện tại một niệm trụ, dị, diệt ba pháp thứ lớp trước sau.

Biện rằng: Lý chưa chắc như vậy, các pháp tuy chấp hai bốn ba pháp đồng thời mà có, đều chỉ có một niệm gọi là sát-na diệt, nếu nói một niệm có nhiều pháp đồng thời nên không thừa nhận, khi chủng sinh hiện có ba pháp đồng thời, chủng lẽ ra chẳng phải chủng. Nếu nói chấp ấy có thứ lớp cho nên chẳng phải chủng, chấp nhận lựa chọn Thượng tọa, Hữu tông một niệm lẽ nào phân thời ư? Đâu được lựa chọn. Lại luận chỉ ngăn thường không chuyển pháp; hai, bốn, ba kia lẽ nào là thường không chuyển? Do đây chưa chắc ngăn pháp sinh, nhưng theo nghĩa khác lựa chọn, lý lẽ ra cũng thông.

Sớ: Ngay nêu bày hiện hành lựa chọn thứ bảy kia.

Nghĩa là người vô tánh khi hiện hành thứ bảy huân thành chủng, tuy quả cùng có, do quả chủng tử thể tánh trầm ẩn nên hiện hành thứ bảy không gọi là chủng tử.

Hỏi: Luận nói là cùng hiện hành quả pháp, lựa chọn các hiện thức không gọi là chủng, luận lại làm sao dùng chữ hiện ở sau, sao phiền sớ nói nêu bày hiện lựa chọn ư?

Đáp: Nếu không có hiện ở sau, nghi nhân không có tự thể và quá khứ vị lai cũng được gọi là chủng, vì ngăn việc này nên nói hiện.

Hỏi: Nếu vậy trong hiện chỉ nhiếp hai nghĩa, trước hiện hành nói rồi lựa chọn hiện thức, trong chữ hiện sau lẽ ra trừ hiển hiện?

Đáp: Ngay hiển hiện nói giải thích thứ bảy chẳng phải lý do chủng. Nếu không như vậy sao có lý do vô tánh hiện Thức thứ bảy không gọi 35 là chủng ư?

Hỏi: Nếu vậy luận tại sao không nói hiển hiện?

Đáp: Nếu nói hiển hiện chỉ có được một nghĩa, mất hai nghĩa khác nên không nói hiển hiện.

Hỏi: Hiển hiện bèn ngăn tất cả hiện hành, tại sao chỉ là vô tánh?

Đáp: Các hiện khác thiếu, còn lại chẳng phải một nghĩa này, vô tánh thứ bảy chỉ có thiếu một nghĩa này, nên riêng lựa chọn.

Sớ: Hiện có chỉ ở nhân.

Hỏi: Quả pháp sở sinh, thể đã chẳng phải không, không chẳng phải nhân khởi, vì sao hiện có chỗ riêng ở nhân?

Đáp: Chẳng phải chỗ sinh quả tất cả đều có, như Độc ảnh cảnh cùng kiến đồng chủng nhân có thể chẳng phải không, nên hiện có nói chỉ trên chỗ nhân, hoặc thông ở quả. Trong sớ căn cứ biệt tổng phối hợp với pháp, cũng không trái nhau.

Sớ: Đồng ở hiện tại cũng không trái nhau.

Tuy nhân ở sinh quả ở nơi diệt, nhưng đồng hiện tại, nên cũng không trái, nghĩa là quả đều có, chuẩn theo thứ ba ở sau, nhân ở diệt, quả ở sinh, ở đây sớ nhầm.

Sớ: Nếu vậy chủng mong chủng v.v…

Nhân chủng ở diệt, quả chủng ở sinh, nên đồng chủng hiện, gọi là quả cùng có, giả sử như vậy nào có lỗi gì. Nếu vậy chủng tử sinh hiện hành, chủng sinh chủng cả hai rốt ráo nào có sai biệt, vì đều có quả, cho nên trong sớ kết làm sao làm liệu giản? Lại trái với Du-già.

Luận: Hiện chủng dị loại.

Hỏi: Vì sao trước vặn hỏi phân biệt luận, tánh tướng đồng ư?

Đáp: Đứng về lậu Vô lậu mà nói tánh tướng đồng, chẳng phải căn cứ tất cả, hoặc căn cứ tông ấy, tâm thể tông ấy gọi đó là chủng tử, tướng gọi là hiện hành, không đồng tự tông hiện hành, chủng tử.

Sớ: Kiến phần duyên kiến v.v…

Tức tự chứng phần duyên với kiến phần, là thể kiến phần cũng gọi là kiến phần.

Sớ: Tức chẳng phải thuộc nhân duyên.

Kiến kiến đồng thời tuy gọi là nhân quả, không phải nhân duyên.

Sớ: Nếu vậy chủng mong hiện khởi v.v…

Là loại đồng chủng chủng, chỉ là nhân quả không gọi là nhân duyên.

Sớ: Không thừa nhận chủng sau sinh quả.

Kết không có nhân duyên, nếu trước sau kia sau có thể sinh quả, nên có nhân quả, đã nhiều đồng khởi, đã không có sau, nên không có nhân duyên.

Sớ: Chủng vọng đối với chủng, loại cũng nên như vậy.

Loại đồng hiện hành, không có hai tự thể một niệm được như nhau.

Hỏi: Bản, tân hai chủng lẽ nào không đồng ư?

Đáp: Nếu làm nhân duyên đồng tức không được, bản tân chẳng phải nhân nên đều không có lỗi.

Hỏi: Nếu vậy tân chủng đều sinh hiện hành, cùng bản chủng hiện cũng chẳng phải nhân duyên, sao không thừa nhận đồng?

Đáp: Ngay trong một sát-na có hai tâm đều lỗi.

Hỏi: Nếu vậy sắc chủng tân lẽ ra sinh hiện, mong không chướng sắc có nhiều loại như nhau?

Đáp: Vì duyên chưa đủ. Lại nếu sinh hiện có không có lỗi cùng tột.

Sớ: Hỏi nếu vậy thể trái nhau.

Ý vặn hỏi này nói cũng nên kiến đạo nương theo sinh tân chủng, không do đồng thời vốn có chủng tử làm nhân mà sinh, vì trái nhau.

Sớ: “Đây không đồng thời” đến “lỗi chủng sinh chủng”.

Ý giải thích ở đây cho rằng: Đây nương theo sinh chủng, do Thế đệ nhất đồng thời Vô lậu chủng tử dẫn sinh, không do đồng thời Vô lậu chủng khởi, cho nên không đồng chủng khởi, nên không đồng niệm chủng sinh chủng.

Hỏi: Nương theo sinh chủng này sao gọi là tân huân?

Đáp: Sức Thế đệ nhất huân tập cho nên tăng Vô lậu chủng, Vô lậu chủng tử dẫn sau nương theo sinh, nương theo sinh sở dĩ được gọi là tân huân.

Sớ: “Tức chủng bản hữu” đến “chỉ có ba pháp”.

Bản chủng, tân hiện cùng làm nhân duyên sinh tân huân chủng, đây chẳng phải chánh giải thích, bản chủng mong tân vì chẳng phải nhân duyên, nếu căn cứ sơ lược duyên lý cũng không có lỗi.

Sớ: Do biệt thoát này v.v…

Do đồng niệm này không nương sinh chủng, lại chứng ở trước biệt giải thoát giới dụng tăng là thù thắng.

Sớ: Giải thích trước tức thể tăng v.v…

Tức là nghĩa bốn pháp đồng thời.

Luận: “Tuy nhân cùng quả” đến “không có tự thể”.

Có nghĩa vặn hỏi rằng: Nhân hiện có dụng, quả chẳng phải không, có thể nói quả do nhân hiện tại khởi, quả ở vị lai thể chẳng phải có, tại sao nói quả do nhân sinh?

Đáp: Chánh do quả sau không có mới nói từ nhân khởi, vặn hỏi nhân thể lạc tạ dụng thường còn, có thể nói quả do nhân dụng khởi, nhân thể rơi mất, dụng tùy theo dó cũng mất, quả sau không có nhân nên không sinh khởi.

Có giải thích như ở sau nói: Quán pháp hiện tại dẫn dụng sau, giả lập đương quả đối nói nhân hiện, thế nên nhân hiện năng dẫn quả sau.

Phá rằng: Không đúng. Nghĩa chủng tử này trước sau sinh nhau, nhân quả đều thật, họ nói hiện thức giả gọi là nhân quả, không nên lấy đó mà chứng nghĩa này.

Biện rằng: Các giải thích khác có trái lý, như trước phá nhân sinh quả sau, nay lược đáp rằng: Do nhân rơi mất sinh quả sau, nhân không có quả sau nên không sinh, nhân hiện tại thể dụng đã chẳng phải không, quả sau có nhân khởi nào lỗi gì? Các vặn hỏi khác nên suy nghĩ.

Sớ: Vì nhân đã thông chủng cùng có chủng.

Chủng trước mong cùng hiện hành làm nhân, chủng sau mong cùng chủng tử làm nhân, chủng năng chủng sinh gọi là hữu chủng. Hoặc trái lại hiện năng huân chủng kia gọi là hữu chủng, chủng tử cùng hữu chủng này làm nhân, ý nói chủng tử cùng hiện và chủng cả hai làm nhân.

Hỏi: Xét trong luận Vô Tánh quyển 2 giải thích dẫn tự quả nói: Nay chủng chủng tử này là chủng tử gì?

Đáp: Chỉ năng dẫn tự quả, nói “chỉ” là nếu vào lúc này năng sinh tự quả, tức lúc bấy giờ gọi là chủng tử, chủng cùng hữu chủng đều từ vô thỉ.

Giải thích: Chủng nghĩa là chủng tử, hữu chủng tức là A-lại-da thức, A-lại-da thức hay có chủng nên gọi là hữu chủng. Lại nhân gọi chủng, giải thích trước là thù thắng. Chủng, hữu chủng này trước khi chưa sinh quả cùng có từ vô thỉ, đối dẫn tự gọi là chủng tử, trong sớ đã nói đâu không trái với đây?

Đáp: Sớ tuy dùng tên gọi chủng, hữu chủng kia nhưng ý có sai khác, nên cũng không trái.

Sớ: Vì năng huân sinh.

Chủng tử là năng hiện sinh kia.

Hỏi: Nếu vậy nghĩa bản hữu kia thế nào?

Đáp: Cũng vì do tăng hoặc tướng từ lời nói tổng gọi là sinh.

Sớ: Thắng Quân tại sao giải thích như vậy.

Luận nói không có lỗi, sinh diệt hai tướng, tuy đồng một đời, là hai sát-na, dùng làm nhân quả nên cũng không phải tức là sát-na.

Sớ: Lại vì sao giải thích không có chủng đã sinh.

Thắng Quân giải thích chủng tùy theo chuyển lý, chẳng phải nghĩa Đại thừa lại nào có lỗi, ở sau sẽ giải thích đầy đủ.

Sớ: Tát-bà-đa cùng thiện pháp v.v… cùng ác Vô ký làm Đồng loại nhân.

Hỏi: Xét trong luận Câu-xá ghi: Nghĩa là pháp tương tợ cùng pháp tương tợ làm Đồng loại nhân, ba tánh năm uẩn tự bộ tự địa, chỉ có cùng tự bộ tự địa làm nhân, tại sao nay nói thiện mong bất thiện làm đồng loại ư?

Đáp: Sớ văn nói chung, ý cho rằng bất thiện được cùng Hữu phú Vô ký làm nhân, do vì đồng bộ.

Sớ: Các Biến hành nhân là quả dị tánh.

Chuẩn theo nghĩa Hữu tông, thân kiến biên kiến là Biến hành nhân, thể là Vô ký, biến cùng đồng địa năm bộ nhiễm pháp mà làm nhân ấy, trong năm bộ nhiễm đã có bất thiện, cho nên được nhân quả thành dị tánh, nếu vậy tại sao được Đẳng lưu quả? Đều là nhiễm nên gọi là Đẳng lưu.

Sớ: Câu hữu nhân lấy quả dị thục.

Cho nên Câu-xá quyển nói, nghĩa là nó cùng với tâm một quả dị thục và một Đẳng lưu.

Hỏi: Vì sao ở sau nói Câu hữu, tương ưng được quả Sĩ dụng?

Đáp: Trong quả Sĩ dụng lại có chung riêng, riêng quả Sĩ dụng chỉ là Câu hữu, và Tương ưng nhân được, nếu thông Sĩ dụng sáu nhân đều được, mà chỉ dùng lực quả sở đắc đều gọi là Sĩ dụng, nên không trái nhau, trong sớ căn cứ nói chung.

Sớ: Đây thiếu nghĩa gì v.v…

Hỏi và đáp, Thức thứ tám chẳng phải năng huân nên thiếu quả đồng thời.

Sớ: Người vô tánh ấy.

Nhân trước mà hỏi, Thức thứ tám không huân, không có nghĩa quả đồng thời, Thức thứ bảy đã huân sáu nghĩa đầy đủ, cho nên gọi là chủng.

Sớ: Trong môn Thức thứ tám.

Nói lại nhân tướng gồm có mười môn, nghĩa của chủng tử tức môn Thức thứ tám.

Hỏi: Nói dẫn tự quả tức sắc tâm v.v… đều tự chủng sinh, tướng phần Thức thứ bảy làm sao sinh Thức thứ tám?

Đáp: Là vì tâm tướng nên năng sinh tâm.

Hỏi: Sở huân chủng là một hay là hai?

Đáp: Giả sử như vậy nào có lỗi gì.

Hỏi: Nếu chỉ có một chủng làm sao sinh lự chẳng phải lự?

Đáp: Vì bảy tướng tám kiến có sai khác.

Hỏi: Nếu huân hai chủng, năng huân đã một, chủng tại sao có hai?

Đáp: Tuy năng huân có một, do có bản chất huân hai cũng không có lỗi, các vặn hỏi khác nên suy nghĩ lựa chọn.

Luận: Lúa gạo bên ngoài v.v…

Hỏi: Chủng tử trong ngoài đều có thể làm nhân, vì sao chỉ nói ngoài giả chẳng phải thật chủng?

Đáp: Xét Nhiếp luận của Vô Trước nói hai bài tụng giải thích, đủ như trong sớ đã dẫn.

Vô tánh giải thích rằng, lại chủng tử ngoài nếu lúa gạo v.v… hoặc có tuy chủng nhưng là mất hoại. Nếu cỏ kê cỏ đề v.v… hoặc có không chủng mà lại được sinh, tại sao chủng bên trong chẳng phải như chủng bên ngoài có lỗi tác bất tác được mất? Nên kế đáp rằng: Nên thành tương vi, do chủng tử bên trong cùng chủng tử bên ngoài không đồng pháp nên gọi là tương vi, nếu chủng tử bên trong cùng chủng tử bên ngoài có sai biệt, tại sao văn trước nói A-lại-da thức là Nhất thiết pháp chân thật chủng tử? Vì tránh vặn hỏi này nên nói ngoại chủng nội chủng làm các duyên, do lúa gạo v.v… đều là chúng sinh cảm thọ dụng nghiệp huân tập chủng tử, y sức A-lại-da biến hiện, thế nên ngoại chủng lìa nội chủng không có chủng nào khác.

Lại Thế Thân nói, nghĩa là chủng tử ngoài chỉ có căn cứ thế tục nói thành chủng tử. Vì sao? Vì chủng tử cũng đều là A-lại-da thức biến hiện.

Sớ: Do nhiều lần biến.

Chủng tử căn ấy Thức thứ tám biến rồi sinh hiện căn, lại biến hiện căn.

Luận: Thế lực chủng này sinh quả gần v.v…

Hỏi: Tại sao phải dẫn ra?

Đáp: Xét Nhiếp luận của Vô Tánh quyển 2 nói đủ, đại lược rằng nếu hai chủng tử chỉ làm nhân sinh chẳng phải dẫn nhân, gồm thâu nhiếp để các loại chủng tử lúa gạo vào kho, không nên để thời gian lâu

dài tương tợ tương tục, sau khi mai táng, thi hài như mụt ứ máu các phần tùy theo đó chuyển lẽ ra cũng có, tại sao vừa chết liền phải hoại diệt? Tại sao thí như mặc tình sau diệt, thí như tên bắn buông dây cung sức bay đi làm nhân năng sinh, khiến tên lìa dây cung, không phải rơi xuống ngay, sức bay đi dây cung là nhân dẫn tên, khiến tên đi trước xa đến chỗ cần đến, không chỉ buông dây cung sức bay đi năng sinh, lẽ ra rơi liền, cho nên cũng chẳng phải thế lực khởi động, lần lựa đẩy nhau nên không rơi liền. Đã lìa dây cung đi xa có chỗ đến, cho nên biết trong này có hai sức bay đi năng sinh năng dẫn.

Sớ: “Nếu vậy hư không” đến “giả pháp không luận”.

Ý này cho rằng, nếu giả là không nên không cần lựa chọn, Vô vi lẽ ra cũng không cần lựa chọn, Chân như Vô vi khéo nói nhiếp chẳng phải trạch diệt v.v… đồng sinh, tuy các thiện nhiếp cũng lại lựa chọn sai khác, giả pháp tuy không ngăn cũng có lỗi gì.

Sớ: Do đây cho nên thứ nhất nói thiện.

Tức trước nói y tha nhiếp giả, giải thích này là thù thắng.

Sớ: Vô minh huân Chân như v.v…

Từ xưa Cổ đức phần nhiều làm chấp này, luận này nói lựa chọn, nên biết xưa trái. Bồ-tát Mã Minh cũng nói Chân như thọ huân trì chủng, sợ rằng người dịch lầm.

Sớ: Người vô tánh ấy.

Hỏi: Giả sử không nói nhiễm cũng chẳng phải thọ huân, tại sao phải nhọc công lựa chọn?

Đáp: Chánh thủ tâm vương gọi là có thể huân tự thể, Thức thứ bảy lẽ nào chẳng phải là tâm vương ư? Do đây chỉ dùng nhiễm ô lựa chọn.

Sớ: Tức thành lỗi một chủng sinh hai mầm.

Như một thức chủng sắc tâm hai chỗ thảy đều trì, huân đã đồng thời, thế lực lại đồng, sau gặp sinh duyên hai chỗ đều sinh, cho nên có hai thức đồng thời mà khởi, chỗ tuy có hai là một thức nên gọi là một chủng.

Hỏi: Nếu vậy vì sao ở sau vặn hỏi luận ấy nói tức có nhiều lỗi chủng sinh?

Đáp: Lý thật mà có một chủng sinh nhiều, lỗi nhiều sinh một, trước sau xen nêu cũng không có lỗi.

Luận: Cả hai có thắng dụng là năng huân v.v…

Có thuyết nói, nghiệp cảm trong sáu thức có mạnh có yếu, yếu thì không năng huân. Luận nói không huân là căn cứ yếu kém, nếu do văn luận không lựa chọn chung riêng mà nói không huân, lẽ ra pháp chấp chẳng phải thuộc năng huân, gọi là dị thục, nên biết nghiệp cảm thù thắng là năng huân. Thắng là sao? Nghĩa là thọ ba phần, xả thọ đồng thời chỉ là yếu kém cho nên chẳng phải năng huân; khổ, lạc thọ đồng thời gọi là hành tướng thù thắng, là năng huân. Hoặc trong xả thọ lại phân ra ba loại là trái, thuận và trung dung, trung dung không huân, hai loại còn lại năng huân.

Lại có thuyết nói, ở đây chỉ ngăn tâm phẩm của Thức thứ tám, dị thục của sáu thức chẳng phải không năng huân, không riêng Thánh giáo nói không năng, Thức thứ tám không có sở huân có thể chẳng phải năng huân, sáu thức có sở huân, vì sao có tâm pháp chẳng phải năng, sở huân?

Biện rằng: Cả hai đều chẳng phải lý, nghĩa của sư thứ nhất phân tích như trong Nghĩa Đăng, lại đứng về ba thọ, để biện mạnh yếu, đã chẳng phải Thánh giáo, chẳng phải ý của ông sao? Nếu sư sau nói, chỉ ngăn Thức thứ tám, còn lại đều năng huân. Luận này nên kết chỉ có bảy chuyển thức có thể là năng huân, vì sao mượn nói có thế dụng thù thắng? Đã nói thù thắng là rõ ràng có ngăn lựa chọn, lại sáu thức có sở huân cho nên đều khiến năng huân, Thức thứ tám tâm sở lẽ ra cũng năng huân, vì có sở huân.

Lại nói vì sao có tâm pháp chẳng phải năng, sở huân? Thức thứ tám tương ưng lẽ ra chẳng phải tâm sở, chẳng phải năng sở huân, đã có nhiều lỗi nên không thể nương.

Sớ: Hai chủng sở sinh v.v…

Tự gọi là chủng, và nghiệp chủng.

Sớ: Hoặc pháp nhĩ này v.v…

Không cần đứng về hai chủng sở sinh kia, chỉ do không có dụng nên không năng huân.

Sớ: Như Da kiến v.v…

Hỏi: Phẩm loại tuy đồng tăng giảm có khác lẽ nào chỉ có tăng trưởng tức gọi năng huân?

Đáp: Luận nói tăng giảm gọi là năng huân, cả hai tùy theo có một tức là năng huân. Nếu không như vậy thì kiến đạo trở đi sở sinh Vô lậu chỉ có tăng mà không giảm nên không có năng huân, họ còn có năng huân, ở đây vì sao không thừa nhận?

Sớ: Trước đốn đoạn có được nghĩa chăng?

Thập địa trở về trước trong các địa có thể đốn đoạn chăng? Đây giả sử lập lời hỏi vậy, dễ biết nên không đáp, lý chuẩn theo Bồ-tát có lực nên đoạn, một là cố ý lưu, hai là không chướng địa, cho nên ắt chẳng phải không có Kim cang đoạn hoặc tu đạo.

Sớ: Mỗi mỗi địa thông sở đoạn ba cõi.

Đây nói ngược, ý nói trong mỗi mỗi địa năng đoạn sở tri chướng trong ba cõi.

Sớ: Nếu có chín phẩm.

Ba cõi chín địa hợp thành chín phẩm, chẳng phải mỗi mỗi địa riêng có chín phẩm.

Sớ: Giải thích trước mới thành.

Tức giải thích thứ nhất chỉ có nghĩa tăng mà được thành, nên trong sớ tự nói: Ngay nay vì tăng, rõ ràng không kết thành giải thích thứ hai ở trước.

Hỏi: Tuy sinh trong ba cõi sở duyên không khác, hành tướng năng duyên chỉ là một là thường, vì sao có nhân sai khác được thành chín phẩm?

Đáp: Vô minh lần tăng ba cõi pháp nhĩ chín phẩm sai khác, đây cũng đâu có lỗi gì?

Sớ: Nếu do vô tánh hữu tình Thức thứ bảy v.v…

Hiển bày giải thích thứ hai ở trước phi lý.

Biện rằng: Xem giải thích thứ hai, không do hữu tánh vô tánh cùng nêu bày, còn có các giải thích này nên nêu bày sai lý.

Hỏi: Trong giải thích thứ hai của sớ, cái gì là ưu?

Đáp: Giải thích trước thù thắng có thêm nghĩa hiển bày, nếu giải thích thứ hai nghĩa giảm khó biết, tuy ba cõi sai khác năng sở duyên v.v… vì sao nhất định có hình tướng giảmư? Cho nên giải thích thứ nhất thù thắng.

Sớ: Nếu tướng phần huân nhau tại sao pháp bị ngăn ngại.

Có pháp gì ngăn mà không khiến biến, vì tướng phần huân ư?

Pháp chướng đã không, cho nên được huân.

Sớ: Như tự chứng phần v.v…

Hỏi: Nếu vậy vì sao nói kiến tướng huân? Đáp: Đứng về dụng mà nói.

Sớ: Tức là bản thức đồng này không ngại.

Nói trong bản thức chủng sinh hiện hành gọi là chung có nhân, đồng với Duy thức này.

Sớ: Như Câu hữu nhân thể không có năng huân.

Kết nhân thể Tiểu thừa chẳng phải Câu hữu nhân. Nói không huân là giải thích lý do, lại do tự nghĩa mà hiển bày lỗi của họ.

Sớ: Chẳng phải hiện mong hiện làm nhân duyên nhiếp Đồng loại nhân.

Không phải hiện hành mà mong ở hiện làm Đồng loại nhân.

Sớ: Nương nghĩa làm lời hỏi.

Nghĩa là nghĩa của thể, do không thể biết mà không có thể riêng cho nên không hỏi.

Sớ: Kế trong giải thích nương tụng mà lập lại.

Giải thích ở sau lời hỏi gọi đó là kế. Nói không thể biết tức bản tụng vậy.

Sớ: “Đối Pháp chỉ có căn cứ” đến “nên lược không nói”.

Thế nên luận ấy ghi: Nghĩa gì quán chấp thọ? Nghĩa là thọ sinh sắc sở y nên là nghĩa chấp thọ. Nếu y sắc thọ này được sinh gọi là chấp thọ.

Sớ: Chẳng lìa thanh do đại phát.

Bốn đại đã là Thức thứ tám sở chấp, nên chỗ phát kia không lìa tiếng của đại, cũng gọi là chấp thọ.

Sớ: Cũng như mao luân.

Sở duyên huyễn hóa, Hữu vi không thật, nên vị dụ mao luân. Có thuyết nói, nói cảnh vi tế, hoặc nhiều cảnh, nên so sánh mao luân.

Sớ: Nếu không như vậy v.v… tâm tương ưng là sở duyên ấy.

Nếu cũng không thủ như trước khế hội tên của bốn uẩn, tâm đã do danh nhiếp, lẽ ra tức là Lê-da sở duyên, các tướng cũng vậy, hoặc là lầm chữ, lẽ ra phải là chữ “lẽ nào”, giải thích trước là chính.

Sớ: Nhân chấp tâm sở chấp v.v…

Tâm thiện, Vô ký là năng biến kế, là tâm vọng chấp pháp sở chấp, từ năng chấp ấy dùng lập tên kia, sở chấp tự do kiến tướng huân chủng, cũng được gọi là biến kế sở chấp vọng chấp tập khí, hoặc năng biến kế trong tướng phần huân sở chấp chủng tử, sở chấp chủng tử gọi là chấp tập khí, giải thích trước là thù thắng.

Sớ: “Tất cả sắc” đến “lẽ ra không duyên”.

Sắc chẳng phải năng huân, cũng chẳng phải năng chấp, Thức thứ tám lại không chấp, trong sắc tướng này lại không có chủng tử, lẽ ra Thức thứ tám cũng không duyên tướng này. Do thuyết ấy nói duyên chấp chủng, nếu nói tuy thật mà được duyên sắc, lại căn cứ chủng luận nói duyên chấp tập, đã vậy nào ngại thật duyên ba tánh chủng, lại nương nhiễm chủng mà nói.

Sớ: Đã vậy Thức thứ tám lẽ ra cũng năng huân.

Đây phá phục chấp. Chấp, có thuyết nói, đã nói Thức thứ tám duyên chấp tập khí, sao không chấp ư? Nên có vặn hỏi này.

Sớ: Tức lấy đây làm chứng.

Hỏi: Sở huân chủng tử gọi là chấp tập khí, chứng thức năng huân làm chấp nên như vậy, tạng thức nếu không như vậy, ở đây vì sao làm chứng?

Đáp: Các thiện tâm v.v… do hai phần nên gọi là chấp, tạng thức cũng vậy vì sao không chấp có? Nên được làm chứng.

Hỏi: Nếu vậy tạng thức cũng năng huân, đồng bảy thức khác?

Đáp: Không có sở huân khác chẳng phải thuộc năng huân.

Sớ: “Nay ý của sư này” đến “như ở sau tự biết”. giải thích trước tự chứng, kiến, tướng đồng chủng, sau giải thích

chủng sai khác, có nhiều cách hỏi đáp, như ở sau trình bày đủ.

Sớ: “Nếu vậy Vô sắc giới” đến “nghĩa này nên suy nghĩ”.

Hỏi: Xét luận ấy ghi: Ở trong Dục giới duyên nhỏ hẹp chấp thọ cảnh, ở trong sắc giới duyên rộng lớn chấp thọ cảnh. Ở Vô sắc giới, Không vô biên xứ, Thức vô biên xứ duyên vô lượng chấp thọ cảnh, ở Vô sở hữu xứ duyên vi tế chấp thọ cảnh, ở Phi tưởng phi phi tưởng xứ duyên cực vi tế chấp thọ cảnh, tại sao duyên Vô sắc rộng lớn?

Đáp: Xét văn là lầm. Ý sớ chủ lấy Vô sắc làm vặn hỏi, do Vô sắc giới chỉ có duyên chủng, đã nói thức duyên vô lượng đẳng chấp thọ cảnh, rõ biết Thức thứ tám duyên chủng.

Hỏi: Tại sao chủng ấy gọi là vô lượng?

Đáp: Duyên vô lượng cảnh tâm sở huân nên gọi là vô lượng. Hoặc vô lượng v.v… công năng trên chủng năng sinh vô lượng hiện hành, giải thích trước là thù thắng.

Sớ: “Tức là năng sinh” đến “không trái bản thức”.

Tuy trên chủng ấy có nhiều công năng sai khác, tức là thiện và rộng lớn. Công năng rộng lớn đồng thức Vô ký, nên năng duyên. Rộng lớn tức công năng, tức chủng tử.

Sớ: Lại dụng Vô sắc giới rộng lớn.

Giải thích này lẽ ra là thiện, vì lược các lỗi. Có nghĩa chỉ duyên chủng thể tùy theo có công năng đều năng duyên, vì sao? Nếu thiện chủng tử công năng sai biệt, do tánh sai khác nên nói không duyên, lẽ ra Vô lậu thiện ác sở huân thành chủng đều thông hai tánh, thể là phần của dụng thiện ác Vô ký, đã nếu không như vậy, sao nói thể đồng bản thức Vô ký nói là sở duyên, dụng thông các thiện chẳng phải sở duyên? Nếu nói một chủng thể dụng sai khác nên thông hai tánh, nếu vậy luận nói nhân quả đều thiện, lẽ nào là chỉ đứng về dụng. Lại thể không lìa thức, thể các thiện chủng gọi là Vô ký, dụng không lìa thể tùy thể Vô ký, nên chủng thể dụng cùng thức sở duyên, thể dụng đều là các thiện sở sinh, năng sinh các thiện đều thuộc các thiện.

Hỏi: Nếu vậy Vô tưởng định v.v… há đều là sở duyên?

Đáp: Nó chẳng phải sở duyên.

Hỏi: Đã vậy tại sao chỉ từ công năng đều nói là sở duyên?

Đáp: Trên chủng của tâm nhàm chán, công năng phòng tâm chẳng phải vô tưởng định, nhưng đứng về năng giả lập này định ấy, tuy chỉ có chủng tử công năng sai biệt không duyên giả. Nhưng giả pháp ấy không lìa thật, khi duyên chủng cũng duyên giả, tức không có lỗi.

Biện rằng: Lý không một đường, sao không có nghĩa này? Tùy tìm ý chỉ sớ vốn cũng không trái, lại vặn hỏi thành tợ. Lý do ấy, nói tùy bản thức và đối nhân quả để phán phân tánh, nương chủ thể luận không nương dụng mà nói, dụng thiện ác hai tánh tự thành, sao đợi nhân quả mới gọi là thiện ác? Lại thể của chủng tùy thức nhân quả, tánh đã không hằng, đâu được vặn hỏi khiến các loại thiện ác định chỉ có hai tánh? Lại do chủng thể không lìa thức nên gọi là Vô ký, liền vặn hỏi chủng dụng không lìa chủng thể thành Vô ký, lẽ ra sắc chủng không lìa thức nên không có chất ngại, sắc chủng hiện quả không lìa chủng cho nên phải không có chất ngại, thể dụng nhân quả chẳng phải tức, chẳng phải lìa, đây đã không như vậy, họ đâu thể nói vậy.

Lại nói: Chỉ duyên công năng nhàm chán chủng Vô tưởng định v.v… giả không duyên, nếu vậy định thể ấy hoàn toàn không có. Công năng nhàm chán chủng chẳng phải định chẳng phải giả, trước luận nói giả cũng có thể ngăn, giả gọi là pháp gì? Giả đứng về ngăn năng lập định ấy là vì định tức năng vì nương ở năng mới giả lập định. Định nếu tức năng định tại sao giả? Nếu nương năng lập cùng tột lỗi có không, nên biết định ấy tức chủng phòng năng, chẳng phải cảnh biệt định, định cho nên gọi là giả bản thức không duyên chẳng phải là giả.

Lại nói: Duyên chủng cũng duyên giả, nếu vậy bản thức lẽ ra phân biệt biến, do sớ này đạo lý sớ bèn thông.

Sớ: Lại chủng có ba phẩm.

Các loại tâm sắc ba tánh đồng sai khác đều có ba phẩm, hoặc ba cõi chủng gọi là ba phẩm.

Sớ: Tức thể của chính mình.

Tướng không lìa thức gọi là thể của chính mình.

Sớ: Hoặc đoạn chưa đoạn tùy theo tăng giảm.

Đoạn giảm chưa tăng thêm, Phàm thánh Thức thứ tám sở duyên sai khác.

Luận: Có căn thân.

Tức thể của năm căn gọi là hữu căn gọi là có căn, không riêng năng hữu, như nói hữu sắc, sắc sở y các thể tuy chẳng phải căn mà căn năng hữu cũng gọi là hữu căn, căn và hữu căn hòa hợp tích tụ nên gọi là thân.

Sớ: Do căn vi tế v.v…

Ý biện căn thân trong thể đều nêu, căn vi tế cho nên không chỉ nói căn, thân lẫn lộn ngoại trần không chỉ nói thân, nên gồm nói hai lỗi đều trừ.

Sớ: Tức năm chỗ các căn.

Tức năm phù trần.

Sớ: Duyên năm cảnh khác.

Tức là năm phù trần khác.

Sớ: Đây có lượng.

Lượng rằng, từ Thức thứ tám không thể chấp tha phù trần, vì chẳng phải tự nơi thân như năm cảnh bên ngoài.

Luận: Hai pháp này đều là sở chấp thọ v.v…

Nghĩa chấp thọ này thông Đại thừa Tiểu thừa, trong đó lớn nhỏ chẳng phải không sai khác. Đối Pháp quyển 5 chỉ có đứng về sinh thọ. Du-già quyển 53 thông y cứ nương trì sinh thọ mà nói, nên Đối Pháp nói nghĩa là thọ sinh sắc sở y nên là nghĩa chấp thọ, nếu y sắc thọ này được sinh nên gọi là chấp thọ.

Luận Du-già ghi: “Nếu thức nương chấp gọi là chấp thọ sắc”, điều này lại thế nào? Thức thức đã dựa vào việc an nguy, đồng hòa hợp sinh trưởng. Lại đây vì nương năng sinh các thọ, cùng tương vi này chấp thọ sắc, trước hẹp sau rộng, hai luận sai khác. Hiện chủng căn cảnh đủ như trong sớ tổng hợp. Nếu theo Tiểu thừa, Câu-xá quyển 2 nói năm căn hiện tại, phù căn bốn trần gọi là có chấp thọ, các loại khác chẳng phải chấp thọ. Nghĩa chấp thọ, tức luận ấy nói tâm tâm sở pháp cùng sở chấp thọ, nhiễm là chỗ nương gọi là có chấp thọ, tổn ích triển chuyển lại tùy nhau, tức các thế gian nói có giác xúc, vì các duyên đã xúc giác lạc. Đây đồng với Du-già có hai nghĩa. Căn cảnh v.v… chín loại lại như Đối Pháp.

Hỏi: Đại thừa tại sao ý chỉ có Thức thứ tám gọi là năng chấp thọ?

Đáp: Xét luận Du-già 51, do vì năm nhân:

1. A-lại-da thức đời trước tạo nghiệp hành làm nhân, nhãn v.v… chuyển thức hiện duyên làm nhân, nghĩa là căn cảnh v.v…

2. Sáu thức ba tánh có thể được.

3. Sáu thức Vô phú Vô ký dị thục sở nhiếp loại không thể được.

4. Sáu thức riêng nương nó, nó nương các chuyển thức kia, tức sở y kia lẽ ra có chấp thọ, còn lại không chấp thọ, giả sử thừa nhận chấp thọ cũng không đúng lý, vì thức xa lìa.

5. Lại sở y ngăn, lẽ ra thành thường thường, là lỗi chấp thọ, vì sao? Do nhãn thức kia đồng thời không chuyển, các thức cũng vậy, Thức thứ tám dị thục nên năng chấp thọ.

Sớ: Biến tức chuyển biến.

Tức là sinh biến, ở sau sớ kết rằng, cho nên năng sinh nhân gọi là năng biến.

Sớ: Duyên Vô lậu chủng chuẩn theo đây nên biết.

Trong nhân Thức thứ tám mong Vô lậu chủng hai biến đều không có, không duyên, không huân như thứ lớp không gọi là duyên sinh hai biến, quả vị bản thức duyên nên gọi là biến, nhân vị Vô lậu thứ sáu, thứ bảy hai thức có đủ hai biến, trong quả Thức thứ bảy chỉ duyên gọi là biến, nghĩa suy nghĩ có thể biết.

Sớ: Tức căn chủng v.v… đủ hai nghĩa biến v.v…

Hiện hành Thức thứ tám mong căn cùng chủng đủ duyên và chấp, khí bên ngoài chỉ duyên, chủng tử thức ấy đối hiện Thức thứ bảy chỉ có sinh một biến, hiện mong hiện bảy ba biến đều không, nếu chủng tử thức mong hiện căn khí, tức sinh gọi là biến, khí cũng là thức, cùng chủng sinh. Sớ chỉ bày phương góc lại nêu hiện thức, hiện thức và chủng hợp lại mà nói, căn đủ ba biến, ngoại khí hai biến.

Sớ: “Kinh bộ” đến “đã lược giải xong”.

Tức sư Kinh bộ đều không khởi v.v… như trong sớ quyển 1 giải thích.

Sớ: Nhưng chỉ có giải thích trướci v.v…

Lược có hai giải thích:

1. Như nhân Thức thứ tám duyên tự ba cảnh, nhưng tướng vô chất, tâm sở nương Thức thứ tám cùng làm chất duyên, hoặc lại xen nương gá làm chất khởi, nên không thể nói bản chất là đồng, gọi là đồng một, do đây nên nói tướng gọi là hành tướng, hành tướng tương tợ gọi là đồng sở duyên.

2. Sớ sai lầm, lẽ ra nói là đúng, nhưng chỉ có giải thích thứ hai, không có giải thích ban đầu, còn lại nói đồng với trước.

Biện rằng: Giải thích sau thù thắng.

Hỏi: Làm sao để rõ?

Đáp: Kiến gọi là hành tướng, tướng chỉ tương tợ gọi là đồng sở duyên, không gọi hành tướng, rốt cuộc có lỗi gì.

Lại trong sớ ở sau kết hợp với luận Du-già, Du-già căn cứ chất gọi là đồng sở duyên, đây đứng về ảnh tượng gọi là sở duyên v.v… lẽ nào có thể trước sau tự làm kia đây? Lại xét trong sớ chủ Du-già sao rằng: Nếu ảnh tượng gọi là hành tướng, tức do bản chất làm sở duyên, thể một gọi là đồng, thể hình tướng sai khác nên gọi là không đồng. Nếu do kiến phần gọi là hành tướng, tức thể của thân tướng phần tuy đều sai khác, tợ gọi là đồng một, thể kiến phần phải mỗi mỗi đều sai khác nên gọi là không đồng. Do đây nên biết, kiến gọi là hình tướng, Thức thứ tám tâm vương sở tướng phần tương tợ gọi là đồng sở duyên, kiến phần đều sai khác gọi là hành không đồng. Nếu vậy tướng phần gọi là hành tướng, tức hành tướng đồng, tại sao nói không đồng một hành? Thức thứ tám chẳng phải nhất định duyên cảnh bản chất, lại làm sao nói đồng một sở duyên? Nếu nói tướng phần tương tợ gọi là đồng, nếu vậy sở duyên hành tướng là một, tại sao nói đồng, không đồng? Do đây nên biết trong sớ đảo lộn.

Sớ: Không có tâm tâm sở tự năng duyên.

Tông ấy không thừa nhận tâm tâm sở pháp mà có thể tự duyên.

Luận: “Nếu tâm tâm sở” đến “tự sở duyên cảnh”.

Các sư đều nói, lượng trước phá Chánh lượng và An Tuệ, không phá các bộ khác, nay giải thích rằng không đúng. Nghĩa mười chín bộ tuy khi tâm tâm sở duyên cảnh có hành cảnh tướng, hành cảnh tướng ấy là tướng năng duyên chẳng phải là sở duyên, tại sao lượng trước chỉ có phá Chánh lượng? Thế nên nói lượng đầu phá chung hai mươi bộ.

Biện rằng: Tuy tướng kèm theo chấp thuộc về năng duyên, nhưng nói tương tợ sở duyên này, nên sở duyên tức tướng, tướng sở duyên gọi là tướng sở duyên, không đồng chánh lượng, tợ này cũng không, do đó nghĩa của các bậc cổ đức cũng không lỗi.

Luận: Nếu tâm tâm sở không có năng duyên.

Các sư đều nói phá sư An Tuệ và nghĩa Thanh Biện. Nay giải thích phá chung nghĩa Chánh lượng bộ, nói tâm ấy v.v… là khi tâm duyên cảnh, lại không riêng nói ở tâm năng duyên có hành tướng.

Biện rằng: Đây nói hai phần, nói tướng năng duyên tức tâm kiến phần, chẳng phải đứng về kiến phần nương trên tâm mà lập. Nếu riêng lập thì ba phần tại sao sai khác? Như kiến phần trước gọi là hành tướng lẽ nào trên kiến phần mà riêng nói ư? Do Chánh lượng này có tướng năng duyên, nên biết các cổ đức nói không trái luận.

Sớ: Thanh Biện cũng nói v.v…

Do Thắng nghĩa đế không những không có tướng năng duyên mà tâm thể cũng không. Trong văn luận đã nói có tâm tâm sở, nhưng khi duyên cảnh không có tướng năng duyên, nên biết chỉ căn cứ Thế tục để phá. Các sư đều nói, Thanh Biện nói có hữu tướng mà không có kiến phần, đây không nương tông, kiến phần nương thế tục nói chỉ có thức, ở trong thế tục tuy có tâm, cảnh, ẩn liệt hiển thắng gọi là Duy thức.

Biện rằng: Chẳng khéo phá, trong không có lỗi lại nói có lỗi. Sớ đã nói, nếu đứng về thế tục kiến tướng đều có. Nay ông nói tất cả chỉ có cảnh, đây lẽ nào không thừa nhận cảnh có kiến chấp ư? Nếu nói phá các thứ khác, sớ không bài xích, phá tha có thể thông, tự lập nếu không như vậy, đã căn cứ thế tục kiến tướng đều còn, lý nào riêng trừ tướng năng duyên kia? Lại nói tâm thể là hiện chủng ư? Nếu hiện hành, là đã không có năng duyên sao gọi là hiện thức, nên xét rõ.

Sớ: Thứ hai hợp phá An Tuệ.

Lại nói, ở đây phá nghĩa của An Tuệ, tuy giải thích ở đây là hai phần chẳng phải văn ba phần, tại sao nói không năng duyên kia ư? Tự chứng tức là dụng năng duyên, nên đối với hai phần chỉ có thể phá không có tướng sở duyên kia, hoặc có thể, văn này chẳng phải nghĩa hai phần, tức là ba phần.

Biện rằng: Đây nói hai phần kiến tướng tương đối gọi là năng sở duyên, do phá An Tuệ thì làm gì có lỗi! Lại luận tự kết nên tâm tâm sở ắt có hai tướng, nên không thể phán phân thuộc về ba phần.

Sớ: Lại Đại chúng bộ cùng với đây đồng.

Đây giải thích ở trước ý nêu mười chín bộ.

Sớ: Tự duyên thể tức không như vậy.

Hiển bày đoạn trên nói trừ Đại chúng ra.

Sớ: Do không từng làm duyên tướng phần.

Như các sắc v.v… từng làm tướng phần, bị kiến phần duyên, nên sau mới có thể nhớ, tâm đã không như vậy, sau làm sao có thể nhớ? Nên sau có thể nhớ nói do lúc trước tự chứng duyên.

Sớ: Phật địa thứ ba v.v…

Xét luận ấy dẫn Tập Lượng luận nói, Tập Lượng luận cho rằng các tâm tâm pháp đều chứng tự thể gọi là hiện lượng. Nếu không như vậy thì như không từng thấy, không nên nhớ nghĩ.

Sớ: “Trong này có hành tướng” đến “gọi là tướng tợ”.

Lập lại giải thích ý của Du-già kia. Nói trong này là luận Du-già, tức dùng tướng phần gọi là hành tướng. Nói cảnh căn cứ tổng, tướng

phần tương tợ, như duyên màu xanh tướng phần đều xanh, nên gọi là tổng. Do luận này nói đồng một sở duyên, nói kiến phần căn cứ biệt gọi là tương tợ. Tương tức tức là nghĩa không đồng, nên luận nói không đồng hành tướng.

Hỏi: Phàm nói tương tợ tuy thể không đồng có chút so sánh, nay kiến phần nói tự có tướng loại gì?

Đáp: Như duyên các màu xanh v.v… tâm vương tâm sở đều như vậy nên gọi là tương tợ. Có thuyết nói cảnh căn cứ tổng, bốn câu sau ở sau văn đều khế hội với Du-già, Duy thức.

Biện rằng: Không đúng. Giải thích trước là chính, tìm xem có thể rõ.

Sớ: Khi tâm tâm sở đây thừa nhận nương đồng.

Luận này quyển 3 nói các sở duyên, đẳng cũng là nghĩa tương tợ, các văn khác cũng thế.

Sớ: Hiện lượng là so sánh quả, hỏi đáp cũng vậy.

Hỏi: Hỏi đáp này cùng với trước nào có sai khác mà cần phải nêu?

Đáp: Trước nương phần vặn hỏi, nay căn cứ lượng vặn hỏi.

Sớ: Như chương Mạt-na.

Đây chỉ Nhiếp luận nói chỗ Mạt-na gọi là chương Mạt-na, do họ rộng dùng nghĩa môn mà biện nên gọi là chương. Ý sớ vặn hỏi: Năm thức hiện lượng tại sao có trình bày? Nên trong sớ đáp, vì phiền não này bị tướng nhiễm ô nên có ràng buộc. Người ngoài vặn hỏi: Làm sao biết được? Cho nên chỉ chương ấy. Nay xét Vô Tánh luận quyển 1 ghi: “Đây tức là thức, lìa nhiễm sở y, ở định bất định trong các thiện vị đều không trái nhau vì hằng hiện hành”. Hiện hành như thế nào? Nghĩa là khi thiện tâm cũng chấp ngã, do năm thức này có ràng buộc nhau. Nói sớ chủ nói Mạt-na chướng là sai.

Sớ: Tức do tự chứng làm duyên tướng phần.

Vì dụng không lìa thể nên nói như vậy.

Sớ: Đắc được pháp đắc và phi đắc.

Đại đắc tiểu đắc nên nói lại là đắc. Pháp sở đắc thể chẳng phải là đắc gọi là pháp phi đắc.

Hỏi: Ý vặn hỏi thế nào?

Đáp: Như đại kia đắc năng đắc bản pháp, lại được tiểu đắc, không lập thứ tư, sinh cũng như vậy, nêu bày kiến phần đồng với họ, duyên tướng, tự chứng không cần thứ tư.

Sớ: Không có chủng khác sinh.

Tùy theo tướng kiến kia, sư đồng chủng giải thích, hoặc đứng về độc ảnh chẳng phải tận lý mà nói.

Luận: Hoặc nội hoặc ngoại đều có sở thủ v.v…

Như trong sớ có nói đủ, có nghĩa đồng như sớ mà lập lý rằng: Trước trong Trường hàng nói là phần thứ hai chỉ duyên phần thứ nhất, Phật tâm kiến phần không chỉ duyên ban đầu, vì cũng thông ở sau. Lại trong nêu bày tông giải thích Hữu lậu thức vì chẳng phải Vô lậu. Lại ba phần vị Vô lậu đều năng duyên ba phần khác, tại sao trong ngoài xen nhau hệ thuộc?

Sớ: Tuy duyên Chân như cũng không được duyên.

Tuy có chỗ nói kiến phần duyên Như, kiến đã ngoài dụng, thật không được duyên.

Biện rằng: Lại y nghĩa kiến phần không duyên Như, vì thuận ở đây kiến gọi là bên ngoài, chẳng phải tận lý.

Sớ: Nếu vậy trong tâm lẽ ra chẳng phải quả bên ngoài,

Ý vặn hỏi này cho rằng, trong ngoài có sai khác, ngoài chẳng phải quả pháp trong, nghĩa trong ngoài không đồng, trong cũng chẳng phải quả ngoài?

Đáp: Chỉ đồng với nghĩa lượng, phi lượng ở trước, suy nghĩ có thể biết. Nay lại đáp rằng: Một kiến thông duyên trong ngoài ngăn ngại, cho nên ngoài không làm pháp quả, tự chứng phần duyên hai lỗi không có, cho nên trong được làm quả ngoài.

Sớ: Tâm nếu tự duyên không có lỗi sai biệt.

Tức tự chứng phần mà duyên kiến phần, căn cứ này thành vặn hỏi, năng sở tác v.v… thảy đều là tâm, nên không có sai biệt. Có thuyết nói, đứng về Duy thức mà vặn hỏi không đứng về bốn phần, đã chỉ là thức thì có các nhân quả nào sai biệt ư?

Biện rằng: Không đúng. Vốn duyên bốn phần mà vặn hỏi này sinh, sau sớ kết rằng, ykiến phần mà nói, nên biết không phải y Duy thức mà vặn hỏi.

Luận: Tức ngoài đại chủng.

Nói ngoài là lựa chọn khác với trong, nghĩa trong ngoài sai khác có năm giải thích:

1. Sở chấp gọi là ngoài, nghĩa là ngoài tâm, còn lại gọi là trong, vì không lìa thức.

2. Bản chất gọi là ngoài cũng là ngoài tâm, ảnh tượng gọi là trong, vì trong tự tâm.

3. Nghĩa lý các pháp sai biệt gọi là trong, thể sự tự tánh các pháp gọi là ngoài, nên mê lý là nói y nội môn, phát ra thân ngữ v.v… gọi là y ngoại.

4. Tự tại tương tục gọi đó là trong, tha thân phi tình gọi là ngoài, do các chất đều là ngoài tự thân.

5. Trong mười hai xứ các tâm nương sáu căn gọi là trong, do vì thân cận, các tâm sở duyên sáu cảnh gọi là ngoài, do vì thưa xa. Nay luận nói ngoài nương môn thứ tư, nhưng trong sớ nói tuy chẳng phải ngoài thức xứ ngoài gọi là ngoài, giải thích này không đúng. Căn và căn nương nhau, phần sau luận tự nói: đều gọi là trong. Nếu đứng về xứ môn căn có thể gọi là trong, phù căn y xứ nên gọi là ngoài.

Biện rằng: Tự xác quyết có lẫn lộn, trong sớ giải thích không trái, chỉ nói khí sắc do ngoại xứ nên được tên gọi bên ngoài, thì ai nói nhiếp phù trần sắc kia? Đây là do biệt xứ của tưởng thanh chuyển. Xác quyết y thứ tư, tha thân lẽ nào được đồng ngoại khí ư? Ý của luận chỉ nói khí sắc bên ngoài. Nếu nói chỉ lấy một phần thứ tư sao bỏ thứ năm? Không lựa chọn thứ năm cho nên tự xác quyết là sai.

Sớ: Du-già quyển nói có hai thứ cộng trung.

Xét luận ấy nói, do thiện bất thiện Vô ký tác ý dẫn phát nghiệp trước, có thể dẫn các hành khiến trụ không dứt, nghĩa là do nghiệp cộng bất cộng ngoại phần sinh khởi.

Giải thích rằng: Nói hữu tình trụ do ba nghiệp này hay cảm khí giới, khí giới vì nương hữu tình được trụ.

Sớ: Bất cộng trong cộng như ruộng vườn mình v.v…,

Có nghĩa chỉ ở trong câu đầu, phần nhiều là tự thọ dụng, nhưng cũng có nghĩa tha thọ dụng.

Lại như phù trần chỉ có ở tự thân có chút phần làm nghĩa tha dụng, cũng gọi là cộng, tại sao ruộng v.v… lại gọi là bất cộng?

Biện rằng: Không thể, nếu vậy phù trần lẽ ra cũng ở trong câu đầu, có nghĩa tha dụng, như ruộng vườn v.v… Nếu nói thuộc tự chẳng phải câu đầu, ruộng vườn v.v… lẽ ra như vậy cũng thuộc tự, nên nếu nói phù trần thuộc tự nội thân nên không nêu bày, thì chỉ do nghĩa này phù trần gọi là cộng trong bất cộng, nhà v.v… gọi là bất cộng trong cộng, vì trong ngoài sai khác. Lại không thuộc tha, nên thuộc về ban đầu.

Hỏi: Tịnh độ mà Phật, Bồ-tát biến hiện không lìa chỗ uế, tướng tịnh uế mong nhau lẽ ra là câu thứ hai chăng?

Trong truyện có hai cách giải thích:

1. Hữu lậu bất tịnh do đồng xứ, nghiệp lại ít đồng, thọ dụng có sai khác gọi là câu thứ hai, Phật chỉ có Vô lậu, Bồ-tát cực tịnh đồng xứ, 3 nghiệp tịnh bất tịnh có sai khác, cho nên chẳng phải câu thứ hai.

2. Tịnh uế chỗ ấy đã đồng, tức là thứ hai bất cộng trong cộng.

Biện rằng: Giải thích trước là thiện, lại đồng với địa khí hữu tình cùng biến, do có biệt nghiệp, ở đây lại phân ruộng vườn v.v… các cảnh, dị sinh Phật v.v… tức không bằng, sao được mong nhau mà thuộc câu thứ hai?

Sớ: Duyên lúc dài đều là duyên màu xanh v.v…

Có nghĩa, duyên dài v.v… là chính. Luận Phật Địa nói mười tám viên tịnh chỗ hiện Tịnh độ hiển bày hình sắc đầy đủ, chuẩn theo biết cõi uế tùy theo thức sở biến rộng hẹp phân lượng có hình sắc. Luận trước cũng nói, tùy lượng lớn nhỏ đốn hiện một tướng.

Biện rằng: Nói duyên dài v.v… là căn cứ biệt duyên, vì đứng về dài v.v… không lìa các màu xanh, khi duyên các màu xanh nghĩa nói là duyên. Nếu nghĩa nói duyên, trong sớ đã nói xong. Nếu biệt duyên tại sao Thức thứ tám nhân duyên biến ư? Cũng không thể lấy Phật Địa làm chứng vì tịnh uế khác nhau.

Luận: “Tuy các hữu tình” đến “biến tợ một”.

Hỏi: Lại như một cây, hữu tình cộng biến, mà khi một hữu tình thay dụng thành dụng tự biến, vì bao gồm dụng tha, nếu chỉ có tự, những người khác biến lẽ ra còn hoài không mất, cây tại sao không thấy? Nếu cũng dụng tha sao gọi là Duy thức?

Đáp: Cây v.v… đã là cộng tướng chủng sinh, đều tùy thuận nhau xen có tăng ích, một hữu tình tự sở biến là sở duyên thân dụng, tha sở biến là cùng với tự sở biến làm tăng thượng duyên, cũng duyên dụng thưa xa, tất cả mong nhau tự làm sở thuận, tha là năng thuận, do sở thuận không có nên năng thuận cũng diệt, do đó cây này chết thì Duy thức cũng thành.

Hỏi: Vì sao được biết cùng nhau tăng ích?

Đáp: Đối Pháp quyển nói có cộng nghiệp là tăng thượng duyên, như thứ lớp ở sau có dẫn.

Hỏi: Nếu vậy trong Nghĩa Đăng nói nghĩa dụ không thành, ánh sáng một ngọn đèn tắt các ánh sáng khác vẫn còn, pháp không tương tợ sao được làm dụ?

Đáp: Dụ lấy ít phần nên không trái nhau.

Sớ: Năm mươi bốn các hữu đối pháp v.v…

Sớ văn dẫn lược, nay lại nói đủ, vì nhân duyên gì các hữu đối pháp đồng ở một chỗ không xa lìa nhau mà không nói tên vô đối tánh ư?

Đáp: Vì tùy thuận chuyển, do tánh triển chuyển tương tùy thuận sinh không ngăn ngại nhau, lại do chủng loại như vậy, ba nghiệp tăng thượng chiêu cảm như vậy mà sinh, vì sao? Tất cả sắc tụ tất cả sắc căn cùng thọ dụng.

Giải thích rằng: Ý vặn hỏi, như một sắc tụ các hương nhẹ khác cũng đồng xứ ấy nên gọi là vô đối. Ý đáp nói, trong các sắc có trái hay không trái, trái là ở khác, thuận là đồng xứ. Lại nghiệp lực gây nên, do đâu được biết một chỗ có nhiều? Như một sắc tụ, mắt thấy là sắc, mũi ngửi có hương, lưỡi nếm tức vị, thân giác có xúc, nên nói sắc căn cùng thọ dụng.

Sớ: Lại khi thành khí, tam thiền phương khác.

Do Tứ thiền không hoại không thành nên chỉ nêu thành hoại ấy đồng xứ.

Luận: Do đây giả sử sinh tự giới phương khác.

Hỏi: Khí chủng đều có cảnh, vì sao duyên không đồng?

Đáp: Khí là y trì nhưng biến đồng địa, chủng thì không như vậy vì cảnh duyên chung. Lại chủng ba cõi tùy cõi sở sinh do thức năng biến nên được duyên, khí thì không như vậy, làm sao được cùng nêu bày?

Sớ: Như Đại Phạm biến.

Tức kinh Duy-ma, Phạm Thiên Vương nói: Ta thấy cõi này như Tự tại cung, tức việc ấy. Lại từ trời ở cõi trên mà đến cõi này, ắt biến tịnh khí làm xứ tự nương, do cõi này thô nên không trì nó.

Sớ: “Đối Pháp quyển 5” đến “nghiệp chủng tùy theo”.

Xét quyển 5 kia không có văn nói, trong quyển nói có cộng nghiệp, nên nói như kinh nói có cộng nghiệp, thế nào là cộng nghiệp? Nếu nghiệp hay khiến các chủng loại khí thế gian sai biệt, hoặc lại có nghiệp khiến các hữu tình triển chuyển tăng thêm, do nghiệp lực này nói các hữu tình lại xen nhau mong làm tăng thượng duyên, do hữu tình cùng nhau có sức tăng thượng nên cũng gọi là cộng nghiệp. Sợ trong sớ viết lầm cho quyển là quyển 5, ý dẫn Đối Pháp cũng đồng với luận này nhưng có kinh để minh chứng, việc cộng nghiệp nên suy nghĩ lại.

Sớ: Đây hiển sinh Vô sắc v.v…

Sớ giải thích ý kia do căn cứ nghiệp chủng nói khiến khí giới các loại sai biệt gọi là cộng nghiệp, không tóm ước tất cả khởi ở hiện hành biến các khí giới mới gọi là cộng nghiệp.

Sớ: Nếu không như vậy lại không có nghĩa bốn phần.

Không biến ảnh, kiến đã thân chứng phần thứ ba rồi, cần gì thứ tư làm quả chứng lượng? Nên không có bốn phần.

Sớ: “Ba tánh chủng trong này” đến “tùy thức chẳng phải phiền não”.

Có thuyết nói ba tánh tuy có khác, tùy theo nương nói Vô ký, phiền não tức đồng các bất thiện, nên không gọi là phiền não.

Biện rằng: Tánh do nghĩa của thể loại, tùy y có thể Vô ký, phiền não nghĩa sai biệt tăng thêm nên chủng gọi là phiền não.

Hỏi: Phiền não chẳng phải nhiễm ô, có thể tùy theo chỗ nương mà gọi, đã thuộc về hai tánh, tùy tánh chẳng phải phiền não chăng?

Đáp: Giới chủng tánh tuy đồng, căn cứ biệt dị nương tựa, hoặc chủng loại cũng như vậy nên không theo chỗ nương mà gọi, trong hai giải thích mặc tình lấy bỏ.

Sớ: “Tức thiên nhãn nhĩ” đến “lẽ ra chẳng phải hữu tình”.

Do nếu không thừa nhận duyên cảnh giới khác, thiên nhãn nhĩ căn cùng Thức thứ tám trói buộc sai khác, Thức thứ tám không trì cho nên cho nên phải hư hoại, nếu vậy sao gọi là hữu tình?

Sớ: Tức chúng sinh có các lỗi tăng giảm.

Thiên nhãn nhĩ căn tức số hữu tình, một thân riêng khởi mà không thuộc ở đây nên gọi là tăng, lại nếu hư hoại lại gọi là giảm.

Hỏi: Nghĩa thật thừa nhận trì, tại sao chẳng phải lỗi tăng thêm, trói buộc không đồng?

Đáp: Tuy trói buộc không đồng, nhưng không lìa thức năng trì của cõi này, có sở y thuộc nên gọi là tăng thượng.

Sớ: Vặn hỏi sư thứ nhất.

Là ở sau trong căn thân là sư thứ nhất. Sớ nhân sơ hở ấy dự định vặn hỏi nghĩa này.

Sớ: Người mù bẩm sinh cũng vậy.

Người nào con ngươi không thụt sâu thì căn vẫn còn, nhưng vật bên ngoài che mờ nên không thể thấy, người có con ngươi thụt sâu thì không như vậy.

Sớ: Cựu bản bài tụng thứ tư v.v…

Hỏi: Cựu tân hai bài tụng, cảnh và thức trước sau không đồng, đại ý tương tợ, tại sao riêng vặn hỏi?

Đáp: Cựu bản nói bản thức hạn cuộc ở một, nói tợ ở kia nên thành lỗi ấy. Tân bản nói thức sinh, thức thông tám thức, tùy duyên ngã v.v… nên không có lỗi, Tân luận giải thích rằng: Nghĩa biến tợ là tợ sắc v.v… các cảnh tánh hiện. Biến tợ tình nghĩa là tợ tự tha thân năm căn tánh hiện. Biến tợ ngã, nghĩa là nhiễm Mạt-na cùng ngã si v.v… vì hằng tương ưng. Biến tợ liễu là sáu thức, vì rõ tướng thô.

Luận: Nên sinh tha địa v.v…

Hỏi: Ở đây chứng nghĩa gì?

Đáp: Có hai giải thích:

  1. Chứng tự biến tha phù trần
  2. Chứng tự bất biến tha căn.

Phù trần cùng thừa nhận không đợi nói, nhưng ý chứng rằng: Nếu tự năng biến tha y và căn, nó đến tha, các căn y hợp còn, đều là sở biến, đã chỉ nương ở mà căn diệt không còn, trở lại chứng các thời khác đều là y xứ của biến.

Hỏi: Nếu vậy tại sao chỉ có nêu sinh tha địa và Niết-bàn? Há các trường hợp chết khác còn có căn sao?

Đáp: Lý đều không có căn, lại căn cứ hiển mà nói, nếu sinh tự địa sợ họ chống chế nói do tự thức biến. Giải thích trước là chính.

Hỏi: Y xứ tha trái lại, nghĩa của tự dẫn nhân lẽ ra không lập, cũng năng biến đến cuối kiếp mới có, thi hài sở biến lẽ ra đồng hay trái lại?

Đáp: Như nói Duy thức thừa nhận cảnh thân sơ, để hài cốt đợi biến, tự tha lỗi gì? Thế phần của hữu vi dài ngắn không đồng, không đồng năng biến, chỉ có mất đi mà không có lỗi.

Sớ: Nhờ thức khởi.

Hỏi: Cùng sức định và thần thông có hai sai biệt chăng?

Đáp: Thân ở cõi trên không khởi định và thần thông cõi dưới v.v… cho nên như sớ khởi tán thức ở cõi dưới nên có sai khác.

Hỏi: Khởi tán thức ở cõi dưới lẽ nào không nương định, thần thông cõi trên dẫn ư? Nếu thừa nhận như vậy tức thuộc định và thần thông, tại sao khai sai khác?

Đáp: Do không như vậy cho nên khai riêng.

Hỏi: Giả sử định thần thông làm duyên dẫn lẽ nào không được sao?

Đáp: Giả sử định, thần thông dẫn nhưng là tha địa, do đây khai riêng nên suy nghĩ lại.

Sớ: Thân ở địa dưới ở trên thiên nhãn v.v…

Hỏi: Thiên nhãn nhĩ căn đã cùng dị thục nhãn nhĩ đồng xứ, đồng lấy cảnh chăng? Nếu đồng lấy thì làm sao dị thục mà năng lấy xa? Lại tại sao năng phát nhãn nhĩ thông? Nếu không phát tại sao đồng lấy? Nếu không đồng lấy hai căn đồng xứ, làm sao có được lấy và không lấy?

Đáp: Có hai giải thích:

1. Đồng lấy, sức thần thông dẫn sinh lấy xa có lỗi gì? Như Dục giới căn có trưởng dưỡng v.v… đã đồng phát thức, đây cũng như vậy.

2. Không đồng lấy, nói định v.v… lực căn cứ thức duyên cảnh.

Lại nếu dị thục năng phát thần thông ấy đâu cần khởi thiên nhãn nhĩ căn ấy cũng đồng một chỗ nghiệp lực không đồng, kiến v.v… đều sai khác, đồng xứ riêng phát cũng lại có lỗi gì? Xét trong Trí Độ luận, tu được thiên nhãn ở trong nhục nhãn, dẫn dắt nhục nhãn ấy cũng có thể thấy xa.

Sớ: Đức Phật phóng hào quang v.v…

Hỏi: Phạm thiên cũng nhân ánh sáng ấy mà được thấy cõi dưới, vì sao không nói?

Đáp: Phạm thiên quán cõi dưới tự lực cũng có thể, nên không nói. Nếu cũng thấy khắp một vạn tám ngàn cõi, cũng do Phật lực, tự lực không kịp, lại căn cứ trên dưới nên không nói Phạm thiên.

Sớ: “Tuy Thức thứ tám biến” đến “văn nội thân”.

Tuy nói Thức thứ tám nhân sức của định và thần thông mà đều năng biến, ở định không thấy văn nói biến nhục thân.

Sớ: Cũng chẳng phải là thân do vì không có căn.

Hỏi: Đã không có căn làm sao được nói ở bên Phật nghe pháp?

Đáp: Thức thứ sáu nghe không đợi ở căn, cho nên trong Du-già ghi: Nghe nghĩa là tỷ lượng.

Sớ: Địa Thức thứ tám trở đi thần thông và định không sai khác.

Thông trí, định định, thể thật có khác, đứng về tánh không sai khác, khởi không có trước sau, sở tác tương tợ, căn cứ một bên mà nói.

Sớ: “Do đây cho nên biết” đến sở duyên duyên xa.

Như ở cõi dưới thiên nhãn nhĩ khởi duyên sắc cõi trên, Thức thứ tám cõi dưới lại không duyên cõi trên, tức thiên nhãn nhĩ không có cảnh Thức thứ tám làm chỗ nương chất, nên thiếu duyên xa.

Hỏi: Địa trên mắt thấy khắp tam tai cõi dưới, Thức thứ tám cõi trên cũng duyên tam tai chăng?

Đáp: Thật không duyên, Hộ Pháp không thừa nhận Thức thứ tám cõi khác biến khí giới.

Hỏi: Nếu vậy nhãn trên không có sở duyên xa, lỗi tại sao còn?

Đáp: Do Thức thứ tám cõi dưới sở biến, cũng có lỗi gì?

Hỏi: Nhân ở định và thần thông khiến Thức thứ tám duyên tha, địa khác thân khí được chăng?

Đáp: Sớ phán phân không nhất định. Trong Xu Yếu và ý của Nghĩa Đăng thừa nhận. Có nghĩa giải thích nói, biến tự thân tha địa có thể như vậy. Địa dưới năng dẫn thiên nhãn nhĩ, tha địa tha thân và tha địa khí, giả sử sức định tại sao năng biến? Biến để làm gì? Thô tế ngăn cách không nương trì, nếu vậy tại sao nói sức của định v.v… liền không quyết định? Điều này cũng không trái. Nghiệp lực sở biến thân khí trong ngoài quyết định đồng địa, nếu sức của định biến tự nội thân tức không quyết định. Cõi dưới năng dẫn thiên nhãn nhĩ cõi trên, khí biến và tha thân này thuần là định. Nói biến thân khí, bất định v.v… là nói chung mà ý riêng, không nói thân khí đều có bất định. Sớ nói cõi trên khởi thần thông đến cõi dưới khiến cõi dưới được thấy gọi là nhân, thông là nương tha thông, định thì không như vậy, cõi trên đến cõi dưới giáo hóa Dục giới, cõi dưới thấy tức là tự địa.

Biện rằng: Như Bồ-tát v.v… biến thân làm cá, đất, biển, vàng, lạc tô, hữu tình cõi dưới được thọ chăng? Nếu không thọ thì biến có ích gì? Nếu thừa nhận dụng hữu tình Thức thứ tám lẽ nào không duyên biến ư? Không duyên mà thọ chẳng phải Duy thức, nên biết nhân sức thần thông của họ mà dẫn năng biến dị địa, thân khí v.v… tức phù trần ấy gọi là thân; cá, vàng, lạc tô v.v… chẳng phải Dục giới. Giả sử chống chế rằng: Sáu thức hữu tình nương gá Bồ-tát v.v… sở biến, dùng làm bản chất biến mà bèn dùng, cũng như nhãn cõi trên duyên tam tai cõi dưới, nương Thức thứ tám sở biến cõi dưới làm chất, điều này cũng không đúng, dù duyên tự Thức thứ sáu sở biến, Thức thứ tám từ bản nói do sức thần thông cũng nào tổn hại, cùng lúc thường khác cảnh không đồng. Trước nói nhãn cõi trên nương gá Thức thứ tám cõi dưới, do Thức thứ tám cõi trên không được duyên cõi dưới, tại sao như vậy? Nếu Thức thứ tám cõi trên tự biến tam tai cõi dưới, thô tế đã ngăn cách, đối với nó không có lực dụng, nếu nương tam tai của Thức thứ tám sở biến cõi dưới làm chất mới biến, thì biến có tác dụng gì? Lại chẳng phải sở dẫn của định và thần thông cho nên do đó không biến. Nếu biến gạo, cá mà có dụng, lại sức thần thông dẫn đâu được cùng nêu bày? Nếu thô tế sai biệt không thừa nhận biến, tức sáu thức khác lẽ ra cũng không duyên, vì thô tế ngăn cách.

Hỏi: Nếu vậy nhân tám duyên Vô lậu có lỗi chăng?

Đáp: Cũng không trái, vì không thân duyên, nếu nói thân dụng nên mới biến, thì Thức thứ tám không nên biến tha phù trần, sáu thức cũng không biến Bồ-tát, cá v.v… vì chẳng phải thân dụng. Nếu thừa nhận thân dụng liền chẳng phải Duy thức. Lại luận nói sức định và thần thông giới địa tự tha mà không quyết định, sao gượng phân biệt đến nỗi có trái nhiều? Có thể nói vẽ rắn thêm chân. Lại nói từ cõi trên đến giáo hóa Dục giới, cõi dưới thấy tự địa, lý cũng không đúng. Nói giáo hóa Dục giới, vì tợ Dục giới, thật ra địa trên trói buộc, Dục giới địa pháp 380 không tu được giáo hóa, như ở sau biện rõ.

Sớ: Được định uy đức.

Có uy đức sở khởi thắng định gọi là định uy đức, đây có hai giải thích:

1. Tự tại Bồ-tát và Nhị thừa là định sở đắc, nên trong Du-già ghi: Chẳng phải là tất cả định tâm sở hữu, đều có năng sinh công năng của sắc này, chỉ có một loại, nên biết tuy có bậc Thánh.

2. Cũng thông dị sinh, y định tập lâu dài được tự tại là lựa chọn chẳng phải tự tại gọi là có một loại, cũng không có lỗi ấy.

Giải thích trước là thù thắng.

Sớ: Lại giải thích do sơ thiền nhãn nhĩ v.v…

Đây không thiếu, hợp ở cảnh thiên nhãn nhĩ trước trở xuống mà nói.

Hỏi: Trước nói nhãn nhĩ bản chất có không, ý nào nói thiếu đồng dị nhãn nhĩ duyên cõi trên trói buộc?

Đáp: Trước tuy nói chất, chưa luận tướng sai biệt trói buộc nên kế đó mới nói. Tướng chất tuy khác, do vì chung cảnh, nên nói lại giải thích.

Hỏi: Sơ thiền nhãn v.v… kiến địa trên sắc có bản chất chăng?

Đáp: Tuy không nói lý hợp có, do tha Thức thứ tám biến làm chất.

Sớ: Do ba thức sở tri này ắt đồng v.v…

Nhãn nhĩ thân ba thân thức tướng phần đã chỉ có sơ thiền, nên nhãn nhĩ hai tướng chẳng phải cõi trên trói buộc.

Sớ: “Năm mươi bốn” đến “sinh nhân thiếu”.

Nghĩa nhân thiếu lược có hai giải thích:

1. Chủng tử gọi là nhân, vì không có chủng ấy nên gọi là nhân thiếu.

2. Nhân là nghĩa của lý do, là các đạo lý của hương vô sinh ấy.Hỏi: Giả sử thừa nhận cũng đâu có trái lý?

Đáp: Nếu thừa nhận định tâm mà hiện hương vị, hương vị tùy tâm địa trên trói buộc, ở đây tức địa trên mà có hương vị, có lỗi trái với các giáo, do định tâm này chẳng biến hương vị, kết hợp trong sớ thành ba giải thích. Nói tâm gia hành tức là nhân, hoặc trong sớ đã giải thích không khác hai cách trước. Nhân gia hành, nhân tức hai pháp trước, lại không có sai khác.

Sớ: Lại không có dụng.

Hương vị nương ở đoạn thực thi thiết, hương vị không có đoạn thực, giả sử có hương vị thì dùng để làm gì?

Sớ: Hoặc là căn bản và sở biến v.v…

Như thứ lớp đã khởi gọi là sắc của định và thần thông, thần thông nương định sinh nên thần thông gọi là quả.

Sớ: Đều thông biến và hóa.

Biến nghĩa là nghĩa là chuyển biến, cải đổi thật kia. Hóa nghĩa là hóa hiện không mà bỗng có, sức định và thần thông của Phật đều hay làm được.

Sớ: Thần thông có thể dẫn khởi căn cùng các trần.

Hỏi: Nếu ở Phật hai vị tâm sở đã hằng tương ưng làm sao thần thông và định dẫn căn trần sai biệt.

Đáp: Tuy đồng thời khởi, lực dụng không đồng sở biến có sai khác, cũng đâu có lỗi gì?. Lại tâm Vô lậu ắt có định đạo đồng thời khởi, tương ưng với một tư, đối với hai loại này gọi là định đạo giới, do hai pháp trợ giúp tư có ngăn ngại. Nay định và thần thông hai pháp tuy lại đồng thời, chỗ khởi các sắc đối năng khởi cả hai gọi là định và thần thông đồng giới cũng đâu có lỗi gì?

Sớ: Do sức định biến dị thân khí.

Trước tuy lược nói ý chánh nói thông, lại chưa dẫn chứng, nay đủ dẫn cứ nên nêu ra lại.

Sớ: Biến thân vạn ức v.v…

Xét luận ấy ghi: Tâm tự tại chuyển tánh vi tế, nghĩa là các sắc hai cõi sắc Vô sắc, như trong kinh ghi: Chư thiên có tâm bình đẳng, từng ở trong loài người cứ thế giúp huân mài sáng tâm mình, tùy theo sức tu này trụ một đầu mảy lông, lượng như hư không, ở khắp địa xứ, triển chuyển hỗ tương không ngăn ngại nhau.

Giải thích rằng: Hai sắc của Sắc giới gọi là tự tại. Một là định tâm hiện, hai là tự tại định chỗ chiêu cảm báo sắc. Vô sắc chỉ một định tâm sở hiện, sắc định của hai cõi nhân định tự tại mà khởi gọi là tự tại vi tế tánh. Như trong kinh đã dẫn, trong truyện giải thích chỉ chứng báo sắc ở sắc giới, tức Tịnh cư thiên gọi là Đẳng tâm thiên, đích thân đến Phật nghe pháp là thân một vạn sáu ngàn do tuần, mỗi mỗi thân đều trụ đầu mảy lông, lượng nhiều như đất, cũng như ánh sáng đèn không ngăn ngại nhau. Lại cõi Tịnh cư hàng Bồ-tát Thập địa trở lên gọi là Đẳng tâm thiên.

Biện rằng: Y định Vô sắc cũng có thể khởi thân mà đến chỗ Phật gọi là Đẳng tâm thiên, điều này cũng đâu có lỗi gì? Vì trong kinh không lựa chọn. Lại trong luận đều nói hai cõi trên, vì sao dẫn chứng chỉ chứng Sắc giới? Nên biết thông chứng lý không tổn hoại. Lại trong luận Du-già không nói cộng lập, hoặc bản không đồng, hoặc là sớ chủ chuẩn theo các văn nên nói cộng. Cho nên trong Trí Độ luận quyển 3 ghi: “Biến tịnh thiên có sáu mươi người ngồi ở một đầu cây kim”. Lại sắc Vô sắc đều có tự loại không ngăn ngại nhau, chẳng phải là hai cõi xen nhau không ngại, thoạt xem văn kia mà nói hai cõi xen nhau không ngại.

Sớ: Sắc giới cũng nói có, cũng khiến thấy nhau.

Trong Du-già đã nói chư thiên Sắc giới cũng biến thân v.v… nên biết không chỉ Vô sắc giới, mà có sớ bản viết chữ “giả sử” là nhầm, theo đó nói là chánh.

Sớ: Lẽ ra cũng không duyên các sắc Đẳng lưu có gián đoạn.

Hỏi: Trừ nghiệp chiêu cảm sắc dị thục, ngoài ra tức các thiện ác và ngoại khí v.v… đều gọi là Đẳng lưu, nhân gián đoạn lẽ nào chẳng phải một phần cả hai đều bất thành?

Đáp: Sớ lược chỉ bày pháp, đầy đủ lẽ ra nói lựa chọn, lựa chọn lý nên biết. Lại ý sớ chỉ bày lượng trước bất định chẳng phải lập lượng phá.

Luận: “Lược nói Thức này” đến “sắc sở hiện biến”.

Hỏi: Thức thứ tám đã duyên pháp xứ thật sắc, ngã thức cũng duyên chăng? Nếu không duyên là Thánh biến ra cá v.v… người phàm lẽ ra không thấy. Nếu thừa nhận duyên thì năm mươi bốn thuyết pháp xứ nhiếp sắc, gọi là vô kiến đối, lại làm sao thông?

Đáp: Như trong Nghĩa Đăng quyển 2 đã phân biệt. Lại có thuyết giải thích, các sắc biến dịch mà không có kiến đối, nhưng cùng với nhãn v.v… làm tăng thượng duyên gọi là thấy vàng v.v…

Sớ: Ở đây có vặn hỏi nên như lý nên suy nghĩ.

Vặn hỏi rằng: Do nhân từ quả tùy hiện pháp giới thâu nhiếp, do cảnh đối với tâm thuộc về thức pháp giới chăng?

Đáp: Nhân duyên gần biện thể, chủng tùy theo hiện thâu nhiếp, làm cảnh dẫn tha thưa sơ cho nên chẳng phải thuộc pháp xứ.

Sớ: Cực lược cực quýnh sắc.

Phân tích căn khí v.v… làm cực vi gọi là cực lược, phân tích các sắc tượng làm cực vi gọi là cực quýnh.

Sớ: Nếu chỉ có ý duyên v.v…

Độc đầu ý thức duyên căn trần v.v… do phân biệt sinh, cũng gọi là thuộc về Biến kế sở khởi.

Sớ: Do tối theo sáng.

U ẩn hiển che mờ gọi là tối sáng, mười xứ nghiệp xứ gọi là sáng tối, là nghĩa có thể xác quyết.

Sớ: “Cũng chẳng phải do nói” đến “cũng duyên có”. ý nói Thức thứ sáu cùng Thức thứ năm đồng duyên, tuy gọi là

phân biệt, nhưng duyên cảnh có dụng.

Luận: Ban đầu ắt có dụng, sau ắt có cảnh.

Sớ giải thích nhân duyên, phân biệt, cả hai biến tổng có bốn giải thích, lấy giải thích thứ tư, tìm xem có thể rõ. Có nghĩa có ba giải thích:

1. Chỉ có tâm hiện lượng gọi là nhân duyên kiến, các tỷ lượng phi lượng đều phân biệt kiến.

2. Thức thứ tám tâm vương, tâm sở gọi là nhân duyên biến, các tâm tâm sở khác gọi là phân biệt biến.

3. Chỉ có Thức thứ tám tâm vương là nhân duyên biến, tương ưng tâm sở cũng là phân biệt biến, đây là nghĩa của Hộ Pháp, trì chủng thọ huân chỉ có tâm vương, tự phán phân hai pháp trước có nhiều lỗi lầm, thư ba có thể thông.

Hỏi: Nếu nói nhãn v.v… sắc sở duyên đều không có thật dụng, lẽ nào nhãn v.v… các thức đều duyên giả pháp?

Đáp: Giả có danh chủng tự có ước lược về nghĩa, nương thật nói giả chẳng phải năm thức duyên, là tâm phân biệt, vì nói nghĩa sai khác, các sắc ảnh tượng tuy không ngại nên được gọi là giả sắc. Nhưng nói chủng sinh tức gọi là thật, nên không có lỗi.

Biện rằng: Không những hai pháp trước có nhiều lỗi lầm mà giải thích thứ ba cũng đồng lỗi trước, vì sao? Như Thức thứ tám mặc tình mà khởi, cảnh sở biến từ thật chủng sinh gọi là nhân duyên biến, tức năm chuyển thức một phần Thức thứ sáu cùng ngã đồng thời khởi. Mặc tình duyên là cũng nhân, nhân duyên khởi cảnh thật chủng sinh, vì sao phán phân thành phân biệt biến? Nên nay nương trong sớ lấy giải thích thứ tư.

Sớ: Nhưng trong một niệm tâm được thành hai chủng v.v…

Duyên căn trần v.v… gọi là nhân duyên biến, duyên bảy tâm giới thuộc phân biệt biến.

Sớ: Trái lại hiển Thức thứ tám đều có đủ hai biến.

Tâm vương tâm sở như nhân duyên và phân biệt hai biến kế tiếp thâu nhiếp.

Luận: “Nếu biến tâm” đến “vì không thể duyên”.

Trong kinh Giải Thâm Mật ghi: “Tâm biến hóa không tự nương tâm, có tâm y tha”. Xét luận Phật Địa quyển giải thích rằng: “Nghĩa là hóa tâm v.v… nương thật tâm hiện”, nhưng tướng phần trên thật tâm, tợ có các tâm duyên lự, như lửa trong gương, không có tự thể khác. Ý giải thích này nói, không tự nương thật tâm kiến phần gọi là không có tự nương, nhueng có tợ lự gọi là hữu y tha. Lại kiến, tự chứng, chứng tự chứng phần gọi là tâm tự nương, hóa tâm sai khác gọi là không có tự nương tâm có y tha tâm, đồng với trước nên biết.

Sớ: “Tức hiện tỷ hai lượng” đến “có thể nên phân biệt”.

Như Thức thứ sáu ý duyên cảnh từng thật, huân chủng thành thật, sau sinh thật hiện. Đây tuy thuộc về tỷ lượng phân biệt biến, nhưng dung chứa có thật dụng, hiện lượng Thức thứ sáu cùng Thức thứ năm đồng duyên cũng có thật dụng. Nếu định tâm duyên mười tám giới, dụng thông giả thật như trước nên biết.

Sớ: Trong này là gồm đứng về thân khí là tiểu.

Thân tức là khí, chẳng phải khí ngoài khí, trong quyển 51 phần y thân khí khí đã nói có rộng hẹp. Có nghĩa sớ nói thông nương thân khí để giải thích, nay không nương ở đây, luận ấy chỉ nương cảnh chấp thọ nói hẹp nhỏ rộng lớn.

Biện rằng: Không lãnh hội được ý chỉ sớ, luống làm mai một, xin xét rõ vậy.

Sớ: Đây cũng lập đồng.

Đồng với diệt định trước ở trong sở lập.

Sớ: Hai chấp mỗi tông giải thích không đồng.

Kinh bộ, Hữu tông giải thích có sai khác, đến sau sẽ biết.

 

THÀNH DUY THỨC LUẬN DIỄN BÍ

QUYỂN 3

(PHẦN CUỐI)

Sớ: Khiến cùng tùy thuận v.v…

Đây là Tùy chuyển môn, nên trong Câu-xá luận quyển 10 ghi: Ba hòa có ba:

1. Đồng ở một đời nên gọi là ba hòa.

2. Nhân quả thuận nhau không trái phản nhau nên gọi là ba hòa, nghĩa là căn cùng cảnh tuy ở quá khứ vị lai, thức ở hiện tại, nghĩa nhân quả thành.

3. Xen nhau tùy thuận đồng được một quả, nghĩa là căn cảnh thức tuy mỗi một đời đồng một quả xúc, nên gọi là hòa hợp.

Một nghĩa ban đầu nương năm thức nói, hai nghĩa sau là ý thức.

Sớ: Hoặc nương tăng thượng v.v…

Nương nghĩa Đại thừa, do Thức thứ bảy đồng thời có.

Luận: Xúc tợ nó khởi nên gọi là phân biệt.

Hỏi: Căn v.v… có khả năng sinh tâm, sai khác ở trước gọi là biến dị, xúc đã tợ nó có công năng nên đồng các căn gọi là biến dị?

Đáp: Các căn vì nương vô sở tợ nên căn cứ sinh năng gọi là biến dị, xúc là năng y tợ sở y, chỉ gọi là phân biệt chẳng phải biến dị.

Sớ: Lẽ ra nói xúc xúc làm duyên v.v…

Như mười hai chi xúc sinh ở thọ gọi là xúc duyên thọ, đã xúc sinh xúc sao không nói xúc duyên ở xúc?

Sớ: Nếu tự không tợ v.v…

Xúc gọi là tợ nó, tợ nó sinh thọ, xúc gọi là tợ nó, cũng nên tợ nó mà sinh ở xúc, vì sao nói tợ có sinh, không sinh, xúc không sinh xúc, xúc lẽ ra chẳng phải tợ.

Sớ: Như thọ v.v… các pháp.

Thọ v.v… tâm sở hoàn toàn không thể sinh các tâm sở khác, nên không gọi phân biệt, xúc khác thọ v.v… được tên phân biệt.

Sớ: Lại như thọ lãnh xúc, không lãnh các tác ý.

Đây nói tâm sở tuy có công năng nhưng có phần hạn nhất định, thọ chỉ lãnh xúc và tướng vừa ý mà không lãnh xúc sinh tác ý, xúc chỉ tợ ba mà không tự tợ. Lại thọ nói lãnh xúc, xúc này nhận lấy những việc vừa ý mà không tợ xúc để sinh ở thọ và tác ý v.v…

Sớ: Lại nói đối với thứ ba có sáu chuyển.

Chữ “ba” ắt lầm, chữ “nó” mới thích hợp, trong luận nói “nó” mà không nói ba.

Luận: Tư đối với hành uẩn làm chủ thù thắng.

Đại tiểu Thánh giáo đều có nghĩa này, nên trong Câu-xá luận quyển 1 ghi: “Trừ trước và sau sắc thọ tưởng thức, còn tất cả hành đều gọi là hành uẩn”. Nhưng Bạt-già-phạm ở trong Khế kinh nói sáu tư thân gọi là hành uẩn, do vì tối thắng. Tại sao? Hành gọi là tạo tác, tư là nghiệp tánh, nghĩa tạo tác mạnh nên gọi là tối thắng, thế nên Phật nói nếu hay tạo tác Hữu lậu Hữu vi gọi là hành thủ uẩn.

Luận: Nghĩa là các tướng xúc sở thủ vừa ý.

Hỏi: Tướng sở thủ ấy nếu căn cứ bản chất tâm vương tâm sở đều đồng. Nếu y tướng phần Du-già v.v… nói hành tướng tương tợ, tại sao chỉ nói tướng xúc thọ sở thủ làm lân cận ư?

Đáp: Sớ có hai cách giải thích, có nghĩa tuy nói tâm tâm sở duyên tương tợ, xúc thọ sở duyên nhưng rất tương tợ.

Biện rằng: Trong cảnh sở thủ đã có tương tợ, rất tương tợ sai biệt, đây chính là sở duyên lại không đồng. Nói thật nghĩa, tuy là cảnh chất sở duyên đồng ảnh tợ, nhưng năng duyên mà đối với cảnh thủ chẳng phải không sai biệt, nêu cảnh sở thủ hiển bày năng duyên.

Luận: Nhưng xúc tự tánh là thật chẳng phải giả.

Sư Kinh bộ chấp xúc giả, luận lập tự tánh này có, nên trong Câuxá luận quyển 10 nêu bày nghĩa Kinh bộ có hai sư. Có thuyết nói ba hòa hợp tức gọi là xúc, như trong Khế kinh nói, ba pháp tụ tập hòa hợp như vậy gọi là xúc. Có thuyết nói biệt pháp cùng tâm tương ưng, ba hòa hợp phát sinh gọi là xúc. Nay phá sư trước.

Sớ: Nay lấy giới thân đủ.

Biện rằng: Lấy chung Câu-xá lý cũng không trái, tánh tâm sở nói lựa chọn thức, căn, cảnh, không có lỗi bất định.

Sớ: “Sáu ái Kinh bộ” đến “không đồng giả xúc”.

Đã không có tự thể khác từ tha phần khác, làm sao gọi là thật? Tuy không đồng xúc do nhiều pháp thành, nương thật lập ái gọi là định giả, nên biết nhân đầu đối với giới thân đủ, cũng có bất định, chẳng phải chánh nhân.

Biện rằng: Nghĩa giả thật hình đợi bất định. Như chủng Đại thừa, chân tục tương đối, chủng chẳng phải chỉ có chân, tức gọi là giả, có không tương đối, chủng chẳng phải hoàn toàn không, lại gọi là thật. Ái cũng đồng, làm dụ có lỗi gì? Đối sở lập ba hòa hợp ấy giả xúc, ái được gọi là thật, nhân đầu không có lỗi.

Sớ: Lượng rằng, xúc riêng có tự thể.

Biện rằng: Họ đã thừa nhận ái nương tư phần lập, lẽ nào chẳng phải dụ có sở lập không thành? Nên như trong luận nói là thật chẳng phải giả, tức không có lỗi ấy. Tuy tư phần lập nhưng được gọi là thật.

Luận: Là thuộc về thực.

Sớ có hai giải thích, giải thích sau dễ biết. trong giải thích trước nói thừa nhận thật, lựa chọn trên dụ, lỗi của sở lập, trong Kinh bộ thô sắc nói đều là giả, nên nhân thứ hai cũng không có lỗi. Có nghĩa nói nhân thứ hai ấy nếu bao gồm ba cách ăn làm đồng dụ là sở lập không thành, ba cách thô của đoạn thực là giả có, riêng dùng thức và tư hai pháp làm đồng dụ nhân thành bất định. Sớ vì sao nói đoạn thực thật có?

Biện rằng: Pháp Nhân Minh, tông nhân dụ cả ba nếu có lỗi là do chấp nhận dẫn đến nói lựa chọn, vì văn luận sơ lược, trong sớ nói thừa nhận. Lại nói tâm sở cũng thông ở sau, nói lỗi ngăn dụ nhân mới hết, vì sao lại bị vặn hỏi?

Luận: Vì làm duyên.

Có nghĩa nhân thứ ba đồng với nhân ban đầu ở trước cũng có bất định.

Biện rằng: Ái chẳng phải hoàn toàn giả, như trước đã giải thích, nên không có bất định.

Luận: Chẳng phải tức là ba hòa hợp.

Ba nhân trước thảy đều thành, đây chẳng phải ba hòa hợp thì tông không có lỗi ấy, chẳng phải tức ba hòa hợp, tông nếu thành thì thật ra Hữu tông ấy tự nhiên thành, không cần lập nhiều lần để làm tông.

Biện rằng: Giả sử thành xúc ấy chẳng phải ba hòa hợp, tại sao lý thật có tự nhiên được thành? như ái kia tuy chẳng phải ba hòa hợp cũng chẳng phải thật có, bốn tướng cộng, rốt ráo, vô sinh v.v… cũng chẳng phải ba hòa hợp, lẽ nào thật có ư? Nên biết không thể chẳng phải ba hòa hợp thành thật có tự lập.

Luận: Nghĩa là cảnh tỉnh này lẽ ra khởi tâm chủng.

Có nghĩa nương trong sớ ban đầu nói tác ý chủng tử, cảnh tỉnh rồi gặp duyên lẽ ra khởi tâm chủng, do cảnh tỉnh chủng thì chỉ có nghĩa của 388 chủng tử này không tương ưng, nay giải thích tương ưng vì hiện tác ý.

Giải thích: Do hiện tác ý hành tướng khó biết, đây nêu chủng để giải thích thể tánh. Tuy làm lời giải này nhưng lý ấy rất khó, nên nay chỉ nương giải thích thứ hai. Nghĩa là hiện tác ý cảnh giác hiện khởi tâm chủng tương ưng, lấy đó làm tánh, hiện hành khiến khởi chủng tử, gọi là ưng khởi chủng, chẳng phải đương khởi chủng gọi là ưng khởi.

Biện rằng: Lý nào được biết nói hiện tác ý? Nếu nói bản nói pháp tương ưng nên biết hiện, nếu vậy tâm sở cùng tâm tương ưng gọi là tương ưng, lẽ ra nên biện đủ hiện, tại sao Thức thứ tám trước cũng nói chủng? Lại nếu cảnh giác hiện khởi chủng, phàm nói chủng tử sinh quả làm nghĩa, hiện quả đã sinh tại sao ý phải cảnh giác? Nếu khiến thú hướng cảnh, từ hiện năng này luận bàn lập nói cảnh lẽ ra khởi hiện. Nếu nói do chủng hiện mới được sinh, tuy ở hiện vị chỉ nói cảnh chủng, nếu vậy trước xúc nêu bày cũng nên như vậy, trước tại sao không nói hòa hợp ba chủng? Nó đã không như vậy, ở đây tại sao như vậy? Cho nên trong sớ ban đầu giải thích lý vốn không có lỗi, còn lại như trong Nghĩa Đăng nên hiểu.

Sớ: “Chất bất định này” đến “lại nên suy nghĩ lựa chọn”.

Đây sinh v.v… D ụ có tùy theo một lỗi, trong Đại thừa không thừa nhận có tiểu sinh, giả sử có sinh v.v… các sinh lại là giả, nên không có bất định.

Luận: “Chỉ có tự tánh thọ” đến cùng các tướng khác.

Xét trong Hiển Tông luận quyển 2 ghi: “Tại sao thọ này lãnh nạp tùy xúc? Nghĩa là thọ là lân cận quả của xúc”, đây tùy theo xúc chạm với thanh để hiển nghĩa nhân, vì hay thuận thọ, thọ hay lãnh nạp, hay thuận với nhân xúc, thế nên nói thọ lãnh nạp tùy xúc. Lãnh nạp tùy xúc gọi là tự tánh thọ, lãnh nạp sở duyên tuy cũng là thọ, tất cả thảy đều cảnh lãnh nạp, thế nên chỉ nói lãnh nạp tùy xúc gọi là tự tánh thọ, biệt tướng định nên lãnh nạp sở duyên gọi là chấp thủ thọ, chẳng phải là điều ở đây biện, vì tướng bất định.

Luận: Nếu tợ súc sinh gọi là lãnh xúc.

Xét trong Thuận Chánh Lý ghi: Như cha sinh con, lông mày của con đẹp đều giống ở cha, cũng như quả từ hạt sinh, quả tợ ở nhân, thọ từ súc sinh nên biết cũng vậy.

Sớ: Hoặc ngay nhân là quả v.v…

Nếu nói không có, sợ có người chấp nhân tức là quả, phàm nhân quả thì không tức không lìa, vì lựa chọn lẫn lộn đó nên luận nêu ra.

Luận: Lại đã thọ nhân.

Không từ người khác mà chỉ căn cứ ở tự mình mới có thể gọi là tự tánh, nay đã tợ tha sao gọi là tự tánh? Lẽ ra phải gọi là thọ tợ nhân mà không thể nói thọ tự tánh.

Luận: Nếu là thức ăn trong quốc ấp của vua.

Chánh Lý luận nêu đủ như trong sớ đã dẫn, thức ăn trong quốc ấp là nêu nhân để hiển quả.

Luận: Thi thiết chủng chủng danh ngôn làm nghiệp.

Hỏi: Đã thi thiết danh, đâu chẳng phải nói nhân?

Đáp: Như trong Xu Yếu, Nghĩa Đăng có biện rõ.

Có nghĩa nói, nhân có hai: Một là ý thi thiết, hai là ngôn thi thiết. Có các cảnh tượng tướng trạng không đồng, ý giải thích thi thiết danh sai khác, tầm tứ so lường pháp nghĩa cạn sâu, tùy nghĩa tùy cơ mà khởi thuyết, tưởng tư chỉ có danh mà không khởi thuyết.

Đáp: Có nghĩa khiến tâm tổng quát ở trong các pháp thiện mà tạo tác, tánh của tư này ở trong ba tánh cải chuyển tạo tác gọi là nghiệp, nên nghiệp dụng này cũng chẳng phải có khắp trong nhân. Sớ nói ba biến nên chưa tận lý.

Biện rằng: Phàm nói cải chuyển dễ đổi tên khác. Nếu cũng là một loại việc thỉ chung lẽ ra không có tư nghiệp, vì không có cải chuyển, nên nay giải thích là tánh chỉ khiến tạo tác, nghiệp sai khiến tạo tác, đơn kép lần rộng lược hành tướng có khác. Đã nói các thiện các ác Vô ký, Vô ký thông ở tám thức đều có, nói tư gọi là biến thì lý cũng đâu có lỗi. Nếu chuẩn theo Du-già quyển 3, hành tướng của tư là biệt chẳng phải biến khắp, như trong sớ đã thuật, điều đó nên biết.

Luận: “Các xúc này có năm” đến “nên gọi là tương ưng”.

Sớ có hai giải thích, trừ hành tướng là thuận giáo lý. Trong Dugià nói có bốn, luận này tự nói hành tướng tuy khác, làm sao được chọn lấy?

Hỏi: Lựa chọn các pháp, nghĩa trước không hết, cần pháp sau lựa chọn trước, nếu ngăn hết thì cần pháp sau làm gì? Như khi luận bốn nghĩa, thời và y hai pháp ngăn lựa chọn đã khắp, có liên quan gì đến hai pháp sau? Lẽ nào thời và y đồng cảnh và sự chăng?

Đáp: Có hai giải thích:

1. Luận này có bốn nghĩa không có thứ lớp, kế đó lẽ ra nói cảnh, thời, y sự, lựa chọn ý là sao?

Đáp: Phàm nói tương ưng, tuy tâm tâm sở chẳng phải tâm tâm sở bao gồm cộng tương ưng nên phải lựa chọn. Nếu tâm tâm sở tổng gọi là tương ưng, sở duyên sai khác nên gọi là tương ưng, nên lựa chọn các cảnh, trước sau các tâm sở duyên các cảnh nên gọi là tương ưng, nên thời đồng lựa chọn, các thức chung khởi nên gọi là tương ưng, nên nương đồng lựa chọn, sáu thức tám thức nương đồng nên gọi là tương ưng, nên lựa chọn các việc.

2. Luận nói y thứ lớp, tuy có y đồng chẳng phải tương ưng.

Nếu nương đồng nên liền gọi là tương ưng, Thức thứ sáu, thứ tám hai thức lẽ ra gọi là tương ưng, nên lựa chọn sở duyên. Thức thứ sáu, thứ tám đồng thời duyên cảnh lẽ ra là tương ưng, nên lựa chọn sự. Giải thích sau là chính.

Sớ: Hành lựa chọn y đồng v.v…

Tức cùng duyên lựa chọn sai biệt thấy tương tợ, do sớ này xác quyết chỉ có bốn nghĩa, nên lại không nói, lựa chọn sơ lược khởi phục như trước đã nêu đủ.

Sớ: Cực bất minh liễu là tướng xả thọ.

Hỏi: Quả vị cũng xả, lẽ nào bất minh liễu?

Đáp: Phàm nói xả là trong đó dung chứa tịch tĩnh và bất minh liễu, quả tuy minh liễu nhưng là tịch tĩnh nên được gọi là xả.

Sớ: “Nếu có thể phân biệt” đến “thủ cảnh định”.

Hỏi: Vì không duyên cảnh trái thuận ấy gọi là không phân biệt, vì duyên ở cảnh không khởi phân biệt gọi là không phân biệt?

Đáp: Trái thuận có nhiều, nếu oán ái v.v… cảnh trái thuận thì nó không duyên. Nếu cảnh tổn ích, như ấm lạnh, nóng, đánh vỗ, mài ấn, bức bách, vui thích gọi là trái thuận. Tuy duyên ở cảnh mà không phân biệt tướng trái thuận gọi là không phân biệt.

Hỏi: Nếu vậy tại sao gọi là thủ cảnh định.

Đáp: Nhân theo đó mà duyên thường không phân biệt, gọi là thủ cảnh định.

Hỏi: Nếu vậy sao gọi là trong thủ chứa cảnh?

Đáp: Tuy cảnh trái thuận, tâm năng duyên một loại mà duyên không phân biệt trái thuận, do cảnh từ tâm gọi là cảnh bên trong dung chứa, nếu không như vậy tại sao ở sau nói do thức chấp thọ lúc sau thân thọ sai biệt mà sinh? Nên biết bản thức duyên cảnh ấy. Có nghĩa, sớ giải thích không duyên thủ cảnh định. Nếu nói duyên không định, lý này không đúng.

Biện rằng: Thủ cảnh định ngữ ý như trước đã giải thích, không đâu mà không nói duyên, tại sao được thêm vào vọng thành bài xích?

Sớ: “Như trong tám chứng” đến “mặc tình sinh hiểu”.

Đầu tiên chấp thọ chứng mà có năm nhân, điều mà ở đây nói là nhân thứ nhất trong năm nhân ấy. Cho nên Đối Pháp ghi: “A-lại-da thức trước hành nhân cảm, nhãn v.v… chuyển thức hiện duyên nhân phát, như nói sức tác ý của căn cảnh nên các chuyển thức sinh, đây gọi là nhân đầu”.

Luận: Thức này mặc tình sát-na duyên riêng.

Hỏi: Hằng duyên ba cảnh, sao gọi là duyên riêng?

Đáp: Cảnh của ảnh tượng luôn luôn khởi mới, trước sau chẳng phải một nên gọi là duyên riêng, đủ như trong sớ giải thích.

Có nghĩa chẳng phải là sở duyên trước sau dễ bỏ, nhưng chẳng phải như định chuyên chú sở duyên, nghĩa là nói riêng.

Biện rằng: Nói không đồng định chuyên chú sở duyên lý liền có thể như vậy. Nói chẳng phải dễ thoát thì đạo lý khó tường, lẽ nào tám sở duyên chẳng phải thuộc Hữu vi? Nếu pháp Hữu vi, pháp Hữu vi thì sinh diệt trong sát-na, tại sao không gọi là dễ thoát trước sau?

Sớ: Đại thừa cũng có tự tánh thiện, như trong bản có giải thích.

Trong luận Đối Pháp, bản luận của ngài Vô Trước, Sư Tử Giác giải thích đều nói đủ ở sau sẽ dẫn đủ.

Sớ: Cả ba đồng khởi các thiện.

Hỏi: Chuẩn theo Đối Pháp nói tùy theo thiện, nghĩa là ngay các pháp tập khí ấy. Phát khởi thiện nghĩa là chỗ khởi thân nghiệp ngữ nghiệp ấy, chuẩn theo chủng tử kia tùy theo thiện thâu nhiếp nhiếp, tại sao phán phân nó thuộc đồng khởi thiện?

Đáp: Luận khai sớ hợp, mong nghĩa không đồng cũng không có lỗi.

Sớ: Thắng nghĩa Vô ký là hư không trạch diệt phi trạch diệt.

Đáp: Sao chỉ có hai tên Vô ký này ư?

Đáp: Tánh Chân như tịnh, các trạch diệt ấy đồng đoạn hoặc hiển bày, do tịch tịnh nên thuộc về Thắng nghĩa thiện, hư không trạch diệt phi trạch diệt thể không thật có, không đồng với Chân như, lại chẳng phải trí tuệ đoạn hoặc đồng được không đồng ba pháp khác, do hai nghĩa này nên thuộc Vô ký.

Hỏi: Cũng nương thức biến lập hư không, vì sao không tùy theo ba tánh thức nhiếp?

Đáp: Lại y như lập các thuyết giả không, nếu y thức biến thật thông ba tánh.

Luận: Lưu chuyển hoàn diệt nên không được thành.

Hỏi: Khổ tập hai Đế gọi là lưu chuyển, giả sử thường sinh trong cõi người cõi trời, chưa vượt qua khổ tập, nghĩa lưu chuyển việc gì 32 không thành?

Đáp: Nói lưu chuyển bao quát năm đường, nếu chỉ có trời người lưu chuyển không đủ nên nói không thành, chẳng phải căn cứ hoàn toàn không có gọi là không thành.

Sớ: Các vặn hỏi khác cũng vậy.

Lược có hai nghĩa:

  1. Khác ở đây chỉ cho thọ v.v… bốn pháp.
  2. Khác là chỉ cho các hành tướng, đã không nêu bày cũng nên vặn hỏi, vặn hỏi suy nghĩ có thể rõ.

Sớ: Lẽ ra thọ v.v… nêu bày thành lỗi.

Biện rằng: Nay quán chất này không đồng với vặn hỏi. Ý của vặn hỏi trước cho rằng xúc không cùng tự xúc tương ưng, có các tương ưng khác nêu bày tương ưng môn, hành tướng tuy lại liễu biệt, nhưng cũng mỗi mỗi tự có hành tướng, cũng lại thiếu nghĩa hành tướng, sao không nêu bày hành tướng môn của tâm vương ư? Nay thì thọ tâm sở hoàn toàn không cùng thọ mà được tương ưng, nghĩa rộng hẹp có sai khác, sao được ở đây mà chất ở kia?

Hỏi: Chất này không thành, lập vặn hỏi ấy để làm gì?

Đáp: Xúc v.v… tuy lại không tự tương ưng, nhưng còn bốn pháp khác cũng là pháp tương ưng của tâm vương ấy, vì thế nên được nêu bày tương ưng môn, hành tướng cùng tâm vương giao thiệp không ít, lẽ nào được cùng nêu bày!

Sớ: Liền có ba mươi sáu loại kiến tướng phần chủng v.v…

Kiến phần, tướng phần mỗi phần đều có ba mươi sáu loại, suy nghĩ có thể biết.

Sớ: Đốn sinh sáu quả.

Hỏi: Sáu xứ thọ huân, năng huân tâm vương tâm sở đều huân bản thức, bản thức hợp có ba mươi sáu loại đồng thời đốn sinh, vì sao chỉ nói sáu?

Đáp: Tuy sáu sở huân đều có sáu loại đồng xứ cộng sinh một quả, quả cho nên chỉ có sáu đốn sinh ngăn ngại.

Sớ: Không thể luận bản chất ấy sinh cùng không sinh v.v…

Không thể nói năng tâm vương sở huân mà sinh bản chất, tâm sở sở huân thì không sinh, vì sao? Tâm vương sở sáu món đều là sở huân.

Sớ: Chợt bàn luận bản chất ảnh tượng ấy.

Thức năng huân tạm có thể luận, tâm vương năng huân ấy sinh ở bản chất, tâm sở năng huân sinh ở ảnh tượng. Sớ: Sở huân ấy không như vậy,

Không được luận vương sở sở huân ấy sinh khác đối với bản chất, ảnh tượng.

Sớ: “Nếu vậy, Tạp Tập” đến “thọ báo trong một thời kỳ”.

Xét luận ấy ghi: Nếu nói một đời đốn thọ tất cả sở đắc dị thục cũng không có lỗi, vì sao? Nếu tạo rất nhiều nghiệp vô gián, thân hình sở cảm rất mềm mại, sở cảm khổ đủ quá nhiều lanh lợi, do đây đốn thọ các thứ đại khổ.

Sớ: Luận Thành Nghiệp tự giải thích ngăn ngại này.

Xét luận ấy ghi: Tại sao mỗi mỗi tâm tâm sở pháp, từ hai chủng tử sai biệt tương tục mà sinh, không thấy các mầm từ chủng sinh pháp? Có việc như vậy, có thể mượn nhiều duyên sinh ở một quả, không từ hai chủng sinh có một quả sinh.

Sớ: Nay thêm đoạn xả.

Có nghĩa năm tâm sở được gọi là nhân quả không khác, tại sao nêu bày tâm có tên xả ư? Cho nên chỉ như sư thứ hai trước đã nói.

Biện rằng: Nói đoạn xả là căn cứ xả ràng buộc mà nói, tuy lại không chấp xúc v.v… làm ngã, nhưng là pháp phiền não tạp nhiễm, tâm vương xả tàng, tâm sở năng tạp nhiễm cũng lại không có, căn cứ đây nêu bày xả, nên quyển 8 luận này nói, pháp không nhiễm ô có hai nghĩa nói đoạn. Ly phược đoạn, nghĩa là đoạn duyên, tạp, phiền não ấy, Lại-da tức là đoạn duyên hoặc ấy, gọi đó là xả, xúc v.v… tức là đoạn tạp hoặc ấy, gọi đó là xả, tại sao lý không thuận mà không thừa nhận mà nói tên xả? Tên gọi Lại-da là căn cứ ràng buộc mà lập, cho nên chỉ ràng buộc không được tên xả, do tên gọi của xúc v.v… không nương ràng buộc mà lập, tên ràng buộc xả còn, thật ra không có trái.

Lại giải thích: Lại-da chưa xả các tên như xúc v.v.. là A-lại-da thức tương ưng tâm sở, tâm xả chấp tàng xúc v.v… không gọi là A-lại-da tương ưng tâm sở, căn cứ tên xả này lý cũng nên thông. Giải thích sau thù thắng hơn giải thích trước.

Luận: “Như dòng nước chảy xiết” đến “tùy dòng không xả”.

Có thuyết nói, điều này bao gồm có ba dụ, như thứ lớp so sánh, nghĩa là ái chẳng phải ái, thọ dụng, tự tánh ba loại duyên khởi. Ban đầu dụ hiển bày do Thức thứ tám, năm đường lưu chuyển; thứ hai hiển bày sinh nhẫn v.v… thức thọ dụng cảnh giới, thứ ba hiển bày tự tánh tương tục mà không đoạn tuyệt.

Sớ: Quả pháp vị lai lẽ ra không đợi nhân.

Hỏi: Quả hiện tại đợi nhân mới sinh, lẽ nào chẳng phải dụ thiếu tông sở lập ư?

Đáp: Tuy từng đợi nhân, nay đã sinh xong lại không đợi nhân. Nói đã sinh quả, ý lựa chọn ở đây.

Sớ: Tức quá khứ có nửa tác dụng.

Tâm tâm sở pháp có lấy quả dụng, sắc pháp thì không như vậy, nên gọi là nửa. Nếu vậy tác dụng là quá khứ đã có, làm sao được nhất định nói chỉ có nương hiện tại ư?

Sớ: Nó cùng quả dụng diệt lại diệt lỗi.

Hiện tại cùng quả mà do ở diệt, quá khứ đã cùng quả nên lại phải diệt, nếu không diệt là chướng quả ấy sinh, sao gọi là cùng quả? Lại cùng hiện có lỗi cùng nêu bày. Nếu thừa nhận có diệt, diệt lại diệt lỗi, nên trong Thành Nghiệp nói nên diệt lại diệt.

Sớ: Thủ dụng của quả sinh lại sinh lỗi.

Khi hiện thủ quả sinh tướng sinh rồi mới có thể thủ, quá khứ đã thủ quả lại phải đợi sinh mới có thể thủ, nếu thừa nhận như vậy sinh lại sinh lỗi, nếu không thừa nhận tức hiện thủ quả nên không đợi sinh, kia đây nhân khác không thể được.

Sớ: “Như trong luận Du-già” đến “nương chủng tử lập”.

Trong Du-già, Trung Biên như trong Nghĩa Đăng đã dẫn Đối Pháp, Hiển Dương, nay lược dẫn. Xét trong luận Đối Pháp ngài Sư Tử Giác nói: Nhân quả đã thọ dụng, nghĩa là đã sinh nên đã diệt, công dụng nhiễm tịnh đã hết, nghĩa là như hiện tham, tín v.v… khiến tâm nhiễm tịnh, công năng không có. Nhiếp nhân đã hoại, đặt tập khí rồi mới diệt. Quả và tự tướng có chẳng phải có, nghĩa là nay đã dẫn tập khí có, năng dẫn thật sự không. Tướng nhớ nghĩ phân biệt, là nói chỉ có sở duyên cảnh tướng ấy, tất cả một phần là quá khứ, trừ vị lai hiện tại và Vô vi. Nói vị lai có nhân chẳng phải đã sinh, là lựa chọn Vô vi, nó tuy chẳng phải đã sinh là vì không có nhân. Chưa được tự tướng, là tự thể chưa sinh, nhân quả chưa thọ dụng, nghĩa là chủng tử ấy chưa làm sở tác, tánh ấy chưa sinh, tất cả một phần là vị lai. Nói nhân quả hiện tại thọ dụng chưa thọ dụng, nghĩa là nhân đã diệt, quả vẫn còn. Hay hiển tướng quá khứ vị lai, là đời hiện tại là hay thi thiết tướng đời quá khứ, vì sao? Nương hiện tại giả lập quá khứ vị lai, đứng về vị sẽ được giả lập vị lai, đứng về vị từng được giả lập quá khứ. Tác dụng hiện tiền, nghĩa là nhãn v.v… chánh làm thức các việc sở y, tất cả một phần là hiện tại.

Lại Hiển Dương luận quyển ghi: “Nói có nghiệp quá khứ, do vì nghiệp này cho nên chúng sinh có thọ tổn hại, thọ không tổn hại”, đây cũng nương tập khí ấy, mật ý giả nói pháp ấy là có, là ở trong các hành từng có nghiệp tịnh, bất tịnh sinh diệt, do nhân này cho nên hành thắng ấy dị tương tục mà chuyển đây gọi là tập khí, do tương tục này sở nhiếp tập khí nên ái không ái quả sinh. Lại nói ba đời sắc nhẫn đến thức, đây cũng nương ba chủng hành tướng mật ý cho nên nói, nương nhân tướng mật ý nói nói có vị lai, nương tự tướng ấy mật ý nói có hiện tại, nương quả tướng kia mật ý nói có quá khứ.

Sớ: “Sáu mươi sáu” đến “đều nói sáu thông”.

Lại trong luận Du-già quyển 3, kinh Đại Bát-nhã quyển , kinh Giá-ni-càn Tử quyển , kinh Anh Lạc quyển , kinh Thanh Tịnh Tỳni Phương Quảng, kinh Tịch Điều Âm Thiên Tử Vấn, Thập Địa Luận quyển 5, Tạp Tập luận quyển 1, Nhiếp luận Vô Tánh quyển thảy đều nói, đủ như trong chương đã dẫn.

Sớ: Trong này cũng đồng luận sư Thắng Quân v.v…

Hỏi: Thượng tọa, Thắng Quân tất cả đồng sao?

Đáp: Có đồng dị, Thắng Quân sắc tâm đồng có ba tướng. Thượng tọa thì không như vậy, nghĩa đồng có thể rõ. Có nghĩa Thượng tọa, Thắng Quân có sai khác, Thượng tọa ấy chấp tâm tâm sở pháp sinh diệt hai thời, thời hai thể một sắp diệt gọi là diệt, lý mà Thắng Quân nói nương Du-già v.v… đã diệt gọi là diệt, nếu sắc và tâm đều có ba tướng, ba tướng tuy sai biệt mà thể đồng một.

Luận: “Hiện tại” đến sinh diệt hai thời.

Hỏi: Ý ấy như thế nào?

Đáp: Do kinh chỉ nói là pháp sinh diệt nên lập hai thời.

Hỏi: Nếu vậy tại sao sắc có ba tướng?

Đáp: Sắc pháp trì độn thật có ba thời, kinh nương quyết định chỉ nói sinh diệt, do trụ tướng ấy có không bất định nên không nói.

Sớ: “Khi pháp sinh nhân thù báo” đến “hai pháp làm hai thời”.

Ảnh nêu hai pháp thời nhân quả, đối hiển một pháp hai thời nhân quả, đối hiển một pháp hai thời nhân quả, mong khiến tỏ ngộ một và hai sai biệt.

Sớ: Làm thời của quả cùng pháp trước chung cùng.

Hỏi: Khi làm nhân quả đã là trước sau, tại sao gọi là một pháp biện?

Đáp: Khi làm nhân quả tuy trước sau đều như vậy, căn cứ tự thể mà ở hiện tại sinh diệt có hai. Không mong pháp khác để phân hai thời nên gọi là một pháp.

Hỏi: Một pháp này khi làm nhân quả, là mong ở tự mình, hay đối tha ư?

Đáp: Đối tha làm, do tự sinh tha pháp đến diệt đối diệt gọi là quả, từ trôi đến diệt, tha pháp đến sinh, đối sinh gọi là nhân.

Hỏi: Nếu vậy cùng hai pháp sau nào có khác?

Đáp: Sau đối tự tha hợp thành sinh diệt, đây chỉ có mong tự phân làm hai thời, sau nêu tự tha làm sinh diệt có hai, ẩn tự một pháp hai thời không luận, trước chỉ có nêu tự một pháp hai thời, ẩn tự tha hai sinh diệt không nói, văn nêu bày sơ lược.

Luận: Sinh diệt trái nhau lẽ nào đồng với hiện tại.

Hỏi: Nếu họ chống chế rằng: Sinh diệt chẳng phải nhân quả trái nhau không đồng đời, diệt sinh nhân quả bao gồm tương thuận, nên đồng đời chăng?

Đáp: Nếu nói sinh diệt mà tương thuận, lại có thế gian, tự giáo trái nhau.

Sớ: Trừ Nhị thừa Kim cương v.v…

Hàng Nhị thừa Kim cương cũng không có Lại-da, thời phần giảm bớt chỉ nói vô học.

Hỏi: Vì sao không nói Tam thừa Kim cương.

Đáp: Đại thừa Địa thứ tám đã xả Lại-da, không đồng với Nhị thừa nên không nói.

Sớ: Nếu nói bốn vị tập khí không thành.

Nếu nói tập khí gọi là thô trọng. Hàng Nhị thừa vô học, Bồ-tát Địa thứ tám thảy đều có, liền không được nói tên Lại-da, bốn vị xả.

Luận: Làm sao biết như vậy.

Trong sớ giải thích ý hỏi có hai loại, có nghĩa nay không nương đây, vì sao? Trước chỉ giải thích tên A-la-hán, đã chưa giải thích xả tại sao trước hỏi, nên đây chỉ hỏi tên chung của Tam thừa vô học, lý do của A-la-hán.

Biện rằng: Trước nói La-hán mới xả rốt ráo, xa nương lời hỏi ấy làm gì có lỗi? Lại nếu không hỏi Tam thừa xả, vì sao nêu Quyết trạch phần nói nghĩa Tam thừa để đáp vặn hỏi ở trước? Nếu nói tuy nói xả tên A-lại-da, ý giải thích Tam thừa đều gọi là A-la-hán cũng không thành chống chế. Luận tự nói các bậc A-la-hán Độc giác Như Lai, lý nào có thể chứng đồng là La-hán? Lại nếu lấy bản văn Du-già cũng không thể, luận ấy chỉ nói Tam thừa vô học, không nói Tam thừa đồng gọi là Lahán. Lại bản ấy nói đoạn A-lại-da, nên biết sớ văn hạn hẹp, trước sau thâm ngộ bản chỉ.

Sớ: “Nhị thừa thì không như vậy” đến “khiến thông Nhị thừa”.

Hỏi: Nếu Như Lai gọi là không thông Nhị thừa, vì sao trong Dugià nói Như Lai gọi là cộng đức?

Đáp: Thông hết chín hiệu khác gọi là cộng đức, chẳng phải là tất cả có nghĩa tương ưng, đều gọi là Như Lai, gọi là cộng đức.

Sớ: Nếu một phần hiện hành không có v.v…

Đây là sư thứ nhất lấy ý sư thứ hai kế ở sau để nêu ra nghiên cứu, có lập lại có vặn hỏi, suy nghĩ có thể hiểu.

Sớ: Do chưa xả hoàn toàn.

Sư thứ hai đáp, do ở sau hợp có sư thứ nhất vặn hỏi, vặn hỏi rằng: Bảy pháp trước chưa xả hoàn toàn không gọi là xả, Địa thứ tám chủng chưa trừ, đây do Lại-da còn. Trong sớ không nói là do ý sư thứ nhất như vậy nên lược không nêu đủ.

Sớ: “Nếu vậy” đến “không thể xả Lại-da”.

Đây là sư thứ hai gạn hỏi.

Sớ: “Nếu vậy” đến “chưa xả Lại-da”.

Tức sư thứ nhất nêu bày chất. Hàng Sơ địa Thánh giáo gọi là bất thối, nên biết bất thối không căn cứ Lại-da xả hay không xả.

Sớ: Du-già quyển 8, sơ kiếp gọi là Ba-la-mật-đa v.v…

Xét trong quyển 8 không có, quyển 8 có, bốn và bảy lẫn lộn, xét văn lầm.

Lại trong kinh Giải Thâm Mật quyển cũng đồng, kinh ghi: “Thế nào là Ba-la-mật-đa? Thế nào là cận Ba-la-mật-đa? Thế nào là Đại Bala-mật-đa? Này thiện nam tử! Nếu các Bồ-tát ở vô lượng thời tu hành bố thí v.v… thành tựu thiện pháp, mà các phiền não vẫn cố hiện hành, nhưng có thể chế phục những thứ chưa chế phục ấy, nghĩa là ở Giải hành địa, khi ở trong thắng giải chuyển này gọi là Ba-la-mật-đa. Lại khi ở vô lượng thời tu hành bố thí lần lần tăng thêm thành tựu pháp thiện, mà các phiền não vẫn cố hiện hành, nhưng có thể chế phục mà chẳng phải chỗ phục ấy, nghĩa là từ Sơ địa trở lên, gọi là cận Ba-la-mật-đa. Lại khi ở vô lượng thời tu hành bố thí v.v… chuyển lại tăng thêm, thành tựu pháp thiện, tất cả phiền não đều không hiện hành, nghĩa là từ Bát địa trở lên, đây gọi là Đại Ba-la-mật-đa”.

Giải thích rằng: Sơ độn Hữu lậu cách xa không có trái nhau, đới tướng tu tập do đây chỉ gọi là Ba-la-mật-đa. Kế thông Vô lậu thân cận vô tướng nên được tên cận, vị sau vô tướng mặc tình lâu dài nên gọi là đại. Hoặc nói cận là cận không có Gia hạnh. Tuy có hai giải thích, giải thích sau là thù thắng.

Hỏi: Vì sao?

Đáp: Trong Địa thứ bảy cũng có vô tướng mà sao nói cận vô tướng nên gọi là cận ư, nên ở giải thích sau hay hơn.

Luận: “Nhưng A-la-hán” đến “làm tự nội ngã”.

Có nghĩa giải thích tụng xả nói, trong sớ nói giải thích tên La-hán này chẳng phải lý.

Biện rằng: Trước tuy phá tha, nay lại nêu bày chánh lý cũng đâu có gì thiên lệch, đâu chỉ bài xích tha không nêu tự nghĩa? Lại trong văn sau mà tự nói xả, nên nay văn này đối với phá tha nêu bày nghĩa chánh, nếu không như vậy khi biện về xả có lỗi nói trùng lập.

Sớ: Trong Nhiếp luận nói: Tâm thể thứ ba v.v…

Xét Vô Tánh luận quyển 1 giải thích rằng: Tâm thể thứ ba nếu lìa thức A-lại-da không sai khác có thể được, nghĩa là như ý thanh nói ý nhiễm ô ý vô gián diệt, thức thanh thì nói sáu loại chuyển thức, như vậy tâm thanh lìa hai loại ấy không có tự thể để có được. Chẳng phải không có tự thể mà có năng thuyên, cũng chẳng phải dị môn, ý thức hai thanh sở thuyên sai khác, thể thanh trong này ý thủ sở thuyên, thế nên thành tựu A-lại-da thức v.v… Hiển bày A-lại-da thức là tâm thanh sở thuyên đạo lý quyết định.

Sớ: Đối Pháp quyển 2 cũng có nghĩa các tâm.

Xét luận ấy nói, tâm nghĩa là uẩn xứ giới tập khí sở huân tất cả chủng tánh.

Biện rằng: Xem ý luận ấy cũng do tích tập mà nói nghĩa tâm, nêu ba khoa tập khí sở huân kia, hiển bày năng tập thức ấy là tâm. Luận này cũng chỉ có nghĩa tích tập mà nói tâm, văn sau mới dùng tích tập khởi hai nghĩa để giải thích tâm.

Luận: Hoặc gọi là sở tri y v.v…

Xét trong Nhiếp luận nói, chỉ ở trong Đại thừa là đều có nói, nghĩa là A-lại-da thức gọi là thể sở tri y; y tha, biến kế, viên thành thật v.v… ba loại tự tánh gọi là tướng sở tri. Vô Tánh giải thích rằng: Những điều được biết nên gọi là sở tri, y nghĩa là sở y, thanh sở y này chọn lấy năng y tạp nhiễm thanh tịnh các pháp hữu vi, không thủ Vô vi, do sở tri không có nghĩa sở y, sở y tức là A-lại-da thức là vì nhân sở y, vì thức năng dẫn.

Luận: Hoặc gọi chủng tử thức.

Đối Pháp cũng nói tất cả chủng tử thức, nghĩa là năng sinh các uẩn các pháp chủng tử đã tích tập, trong Đại luận cũng đồng.

Sớ: Trước sau mà luận v.v…

Phàm phu là trước, Phật là sau.

Sớ: Trong này gọi là tàng không lấy năng tàng v.v…

Không lấy nhiễm pháp dùng làm năng tàng, ý nói không lấy Thức thứ tám làm sở tàng, nhiễm pháp làm năng tàng.

Chỉ có các nhân, là giải thích lý do. Văn này trước do chấp tàng năng tàng hai nghĩa giải thích tàng.

Sớ: Là Vô lậu Niết-bàn, trong sớ ghi chữ “như”, nên nói như Niếtbàn v.v…

Luận: Như Lai vô cấu thức v.v…

Có nghĩa nay ý tụng chứng Thức thứ tám ở Như Lai địa gọi là Vô cấu thức.

Biện rằng: Chứng vô cấu thức gọi đó là sở tùng, thông sớ hợp thành ba giải thích, hơn kém nên suy nghĩ.

Sớ: A-lại-da làm tánh.

Xét luận ấy nói như vậy sở tri y nói A-lại-da thức làm tánh, A-đàna thức làm tánh, tâm làm tánh, A-lại-da làm tánh, căn bản thức làm tánh, cùng sinh tử uẩn làm tánh.

Giải thích rằng: Luận ấy rộng nói A-lại-da thức cùng sinh tử uẩn sáu loại gọi đó là thể sở tri y, nên mỗi mỗi đều nói là tánh, ý sớ lập lại tên của ba pháp sau dùng làm lời hỏi, các văn khác đồng có, do ba tên ở trên trước đã nêu xong, không hạn cuộc ở lời hỏi.

Sớ: Một là chủng sinh hiện đồng thời v.v…

Các loại nhiễm khác, Vô gián đạo phát khởi nó đã xả rồi, Thức thứ tám chủng hiện với tâm Kim cương đồng thời, dị thục Vô ký dung chứa đồng thời cũng không có lỗi.

Sớ: Bồ-đề đứng về thành tựu v.v…

Ý ngăn người ngoài vặn hỏi. Ý người ngoài vặn hỏi, nếu Vô gián đạo xả dị thục thức, thì lúc này sao không gọi là Phật? Nên đứng về thành tựu để giải thích mối nghi ấy, lúc ấy mới được chứ chưa thành viên mãn nên không gọi là Phật.

Sớ: Khi chủng sinh hiện khác nhau, đồng với sư thứ nhất ở trước.

Hỏi: Sư thứ nhất chủng hiện mà được cùng thời, nay ở đây thì không như vậy đâu được đồng với sư thứ nhất?

Đáp: Lấy Vô gián đạo có Dị thục thức chút phần không đồng, không nói chủng hiện đồng thời gọi là đồng, nếu chủng hiện đồng thời tức không được nói chủng hiện dị thời.

Sớ: “Chẳng phải Vô sắc giới” đến “duyên tất cả”.

Không thể duyên đủ sắc tâm tâm sở và địa dưới v.v… điều này không tận lý. Thánh giáo có nói, Vô sắc giới tâm liễu tất cả, nên thứ hai nói không thể niệm niệm biến duyên tất cả, giải thích này là thù thắng.

Sớ: Ắt không hiện khởi, như ba loại trí sở hữu khác.

Đây do Hữu tông lấy các trí làm dụ. Ba loại trí, nghĩa là khổ tập diệt ba loại đế trí, khởi loại trí này hiện quán hậu biên mà có thể gồm tu Hữu lậu biết khổ, đoạn tập, chứng diệt sở hữu tục trí, tức tục trí này nhân ba loại trí hiện quán hậu biên mà tu tập nên gọi là hiện quán. Thế nên trong Câu-xá luận quyển 2 ghi: Chỉ có khổ tập diệt ba loại trí thì có thể gồm tu hiện quán biên tục trí vị lai. Ở trong mỗi mỗi đế hiện quán hậu biên mới có thể gồm tu nên lập tên gọi này.

Hỏi: Khi Đạo loại trí vì sao không gồm tu trí?

Đáp: Do thế tục vô thỉ đến nay thường từng biết khổ, đoạn tập, chứng diệt, ba loại cũng vậy, sự nghiệp đồng cho nên gồm tu. Lại khổ v.v… ba biến tri đoạn chứng, nên được gồm tu, đạo trí thì không như vậy. Đạo trí hiện quán mà chỉ có Vô lậu, vô thỉ chưa khởi, lại chưa biến tu, nên trừ đạo trí. Trong Câu-xá nói, từng ở đạo vô sự hiện quán, lại ắt không ở đạo biến sự hiện quán, nghĩa là đối với khổ tập diệt có thể biến tri đoạn chứng.

Hỏi: Tu đạo phiền não và chỗ hiển diệt cũng chưa đoạn chứng, tại sao được nói biến tri đoạn, chứng?

Đáp: Ngay tự đế ở sau các trí đều biến, trong Câu-xá nói tuy tập diệt biên chưa biến đoạn chứng mà ở đương vị đoạn chứng đã khắp.

Hỏi: Đạo vì sao không như vậy?

Đáp: Do đạo không có biến sự quán này, lại tu bất biến, như sáu loại tánh khi nhập kiến đạo, tu ngay tự tánh không thể tu khắp. Trong Câu-xá nói, đạo thì không như vậy, vì chủng tánh nhiều.

Hỏi: Chỗ tu tục trí sau khởi chăng?

Đáp: Chuẩn theo Hữu tông nghĩa rốt ráo không khởi, chánh lập kiến đạo, không dung chứa mà khởi, được hơn xả kém, sau cũng không khởi. Trong Câu-xá nói, Thế tục trí này là pháp bất sinh, ở tất cả thời không dung chứa khởi.

Hỏi: Trí sở tu này trở về trước khởi chăng? Nếu nói khởi thì tại sao luận nói gồm tu vị lai quán hiện tục trí? Nếu chưa từng khởi tại sao lại cùng với ba loại trí biết đoạn chứng nên gồm tu ư?

Đáp: Chưa từng khởi, căn cứ đồng loại ấy trở về trước khởi gọi là đồng.

Hỏi: Nó từng khởi lúc này tu chăng?

Đáp: Căn cứ thật cũng tu do chẳng phải mong kỳ lạ nên luận không nói, như trong Câu-xá phân biệt rộng.

Sớ: “Đây hiển bày nương ban đầu” đến “thông các vị”.

Đây tức vị đoạn và thường. Nói kia là đến chuyển y vị và tên gọi Thức thứ tám.

Sớ: Đây lìa cùng thừa nhận năm thủ uẩn ngoài không có tự thể riêng.

Chỉ tâm sở, sắc, bất tương ưng kia, tức là hai nhà cùng thừa nhận thuộc về năm uẩn.

Sớ: Đây lìa thức uẩn vì không cùng thừa nhận

Đây tức Thức thứ tám này, ngoài cùng thừa nhận uẩn riêng có thể gọi đó là lìa, chẳng phải tha thừa nhận gọi là bất cộng.

Luận: Giới là các nghĩa như nhân v.v…

Có thuyết nói giới có ba nghĩa: Một là nhân, hai là tánh, ba là chủng. Nay nương nghĩa nhân để giải thích giới. Sớ chỉ lấy chủng, nay lấy hiện hành cùng thể sở trí chủng không khác. Nói hiện thân sinh gọi đó là nhân, hiện thức cũng gọi chủng tử thức, nhân tướng chỉ có lấy thức hiện hành, nên ở sau nương dụng chỉ nói hiện y, không nói chủng.

Biện rằng: Giới nếu hiện thức tức y không khác, luận chủ vì sao riêng giải thích có hai ư? Giới thì nói thân sinh, nói các pháp vì sao không nói y? Xét nói thân là nghĩa nhân duyên, Thức thứ tám hiện hành tại sao khéo làm nhân duyên mà không thể năng huân? Lại hiện cùng chủng tuy không gọi là dị, cũng không được là một, một đã không thành, lấy chủng nào có lỗi gì? Lại nhân tướng trước cũng chẳng phải chỉ có hiện, lại nghĩa không đồng, không thể làm chứng, đã có nhiều lỗi, nay lại y sớ.

Sớ: Đây đã tùy theo một.

Nếu trước thành Mạt-na dùng nhân chuyển thức, trong nhân lại có sở y tùy theo một và hai không thành lỗi, hoặc chữ “sở” là viết nhầm, lẽ ra phải là chữ “nhân”. Giải thích trước là chính, do Mạt-na thức họ không thừa nhận, nên có hai lỗi.

Sớ: “Hoặc nếu không như vậy” đến “có lỗi bất định”.

Biện rằng: Đây chính là phòng kỹ sai lầm nhân minh, sợ thấy nhân trước có thức nên liền cho là bất định. Lại lý chân thật, Thức thứ tám có nương nhân này mà lập, lý thật nhân trước không có lỗi bất định, trong nhân nói thuộc chuyển thức.

Sớ: Đây giải thích cùng với trước có sai khác.

Đây giải thích chỉ có quả báo trong năm đường gọi đó là nẻo, trước sau đều thông hoặc nghiệp khổ v.v… đều gọi là nẻo.

Luận: Thuận pháp hoàn diệt.

Hỏi: Vì sao Đạo đế gọi đó là hoàn?

Đáp: Hoàn là thú hướng, do đạo mà thú hướng đến chỗ chứng Niết-bàn nên gọi là hoàn, hoặc xả mong về chân là nghĩa hoàn, cũng còn có nghĩa phản phát hoàn thuần.

Luận: Trong này chỉ nói năng chứng đắc đạo.

Đồng với Vô Tánh luận, quyển 1 luận ấy ghi: “Sở tri y là lựa chọn lấy năng y tạp nhiễm thanh tịnh các pháp Hữu vi, không lấy Vô vi, do Vô vi Hữu vi ấy là nghĩa sở y”.

Giải thích rằng: Pháp Hữu vi đều y thức sinh nên gọi là y. Niếtbàn Vô vi chẳng phải thức sinh nên gọi là vô y.

Luận: Hoặc đây chỉ nói sở chứng Niết-bàn v.v…

Đồng với Nhiếp luận của Thế Thân, quyển 1 luận ấy ghi: Cũng do đây nên chứng đắc Niết-bàn. Vô Tánh cũng nói sinh v.v… tạp nhiễm rốt ráo ngừng dứt gọi là Niết-bàn, nếu lìa A-lại-da không nên chứng đắc.

Giải thích rằng: Niết-bàn tuy không y thức này sinh nhưng do thức này trì hoặc, đạo chủng. Đạo sinh đoạn hoặc chứng đắc Niết-bàn, triển chuyển nói cũng y ở thức mới có thể chứng đắc.

Sớ: Hoặc cùng nghĩa hiện hành giới tánh nhân.

Giải thích lại câu đầu, ban đầu đồng với thứ hai gọi là câu hiện hành, nói giới tánh v.v… là giải thích lý do.

Sớ: Lại trong Đại thừa có khổ chẳng phải tập v.v…

Đây là pháp dị thục, nhân thù báo là khổ, chẳng phải huân chẳng phải tập, nếu y Hữu tông khổ tập là một vật, nhân quả nên nói hai.

Sớ: Đây do khổ tập khởi v.v…

Đây nói biến kế, khổ tập nghĩa là các nẻo, từ sở biến kế mà có tên các nẻo.

Sớ: Bốn pháp thanh tịnh là thành thật tánh.

Như trong Pháp Uyển, Quyết Trạch giải thích.

Sớ: Không chỉ có năng tàng để giải thích Lại-da v.v…

Chánh dùng chấp tàng để nói rõ Lại-da, nếu dùng năng tàng làm Lại-da, thì Địa thứ tám cũng có nghĩa năng tàng, làm sao được nói tên Lại-da? Nói Địa thứ tám v.v… đồng các vô học, Như Lai cũng có nghĩa năng tàng.

Sớ: “Hoặc làm chủng y” đến “gọi là chấp thủ”.

Hỏi: So với trước có gì khác nhau?

Đáp: Trong này cùng với trước đồng, ban đầu và sau có khác, suy nghĩ có thể biết.

Luận: Trong kinh Giải Thâm Mật.

Hỏi: Kinh này đến nay trải qua bốn lần dịch, bản dịch đời Ngụy gọi là Tương Tục Giải Thoát, hai bản đời Lương đời Tùy tên là Giải

Tiết kinh, nay bản đời Đường dịch lấy tên là Giải Thâm Mật, tại sao không đồng?

Đáp: Kinh này, Phạm bản là San-địa Niết-mộ-chiết-na, Niết-mộchiết-na, Hán dịch là Giải. San-địa bao gồm có ba nghĩa:

  1. Các vật tương tục.
  2. Đốt xương liền nhau.
  3. Nghĩa của Thâm Mật.

Phong tục phương Tây gọi ba loại này tên là San-địa, cũng như tiếng Tát-đạt-ma bao gồm ở hai nghĩa, Tiên-đà-bà gồm bốn tên, người dịch trước sau đều lấy một nghĩa để lập đề kinh, đều không trái nhau, nhưng căn cứ ý chỉ của kinh, tên gọi Giải Thâm Mật là lý là tối ưu.

Luận: Cũng năng chấp thủ kết sinh tương tục.

Hỏi: Tại sao chấp thủ? Lúc nào kết sinh? Kết sinh nghĩa gì?

Đáp: Thủ có ba nghĩa:

1. Thủ nghĩa là nhân, tức ngay nhân sinh quả năm uẩn, nay do Thức thứ tám trì ngay quả nhân mới có kết sinh ngay quả tương tục, nên nói Thức thứ tám gọi là chấp thủ, kết sinh tương tục tức thủ chấp gọi là chấp thủ.

2. Do vì chủng tử hiện hành, Thức thứ tám thọ một thời kỳ sinh gọi là chấp thủ, cho nên Nhiếp luận quyển 1 của Thế Thân ghi: Do trong A-lại-da thức một thời kỳ tự thể huân tập vị nên thể ấy khởi gọi là nó sinh, thọ sinh ấy nên gọi là nó sinh.

3. Thủ nghĩa là năng thủ, do nay Thức thứ tám hiện hành chấp nó đương sinh nhân quả, nên có kết sinh ngay nghĩa tương tục, chấp tức là thủ gọi là chấp thủ, nên trong Nhiếp luận ghi: “Lại đối tương tục, ngay khi kết sinh thủ sinh ấy nên chấp thọ tự thể, thế nên thức này gọi là A-đà-na”. Thế Thân giải thích như thứ hai dẫn. Kinh là một đoạn văn nhưng nghĩa thông cả hai, thứ hai thứ ba giải thích chung dùng làm chứng, ý chứng nên rõ.

Nói lúc kết sinh có bốn giải thích:

1. Kết sinh là nhuận sinh, nếu sinh cõi Vô sắc khi mạng chung gọi là kết sinh, nếu sinh trong cõi Dục giới sắc giới, mạt tâm của Trung hữu gọi là kết sinh, nên trong Nhiếp luận nói: Nương vị Trung hữu khởi nhiễm ý thức kết sinh tương tục. Lại nói, tâm chết của Trung hữu gọi là kết sinh tâm.

2. Ngay khi thọ sinh gọi là kết sinh, cho nên trong Du-già quyển 1 ghi: Ở trong lúc này nói thức đã trụ kết sinh tương tục, tức đây gọi là Yết-la-lam vị.

3. Hợp hai nghĩa trước gọi là kết sinh, thiếu một không được.

4. Tức tâm mạng chung và mạt tâm của Trung hữu đều gọi là kết sinh, đều có thể nhuận sinh, tâm Trung hữu như trong Nhiếp luận đã nói. Lại trong luận Du-già quyển nói, nếu kết sinh tương tục tâm vô gián cũng là dị thục.

Giải thích rằng: Tâm kết sinh tức tâm trung hữu, tâm vô gián tức là sinh hữu, tâm sinh hữu chỉ là dị thục, tâm mạng chung như Đối Pháp quyển 5 nói, nghĩa là từ Dục giới sinh trở lại Dục giới, tức do tự thể Dục giới ái tương ưng tâm mạng chung kết sinh tương tục, các cõi khác chuẩn theo đây mà biết.

Hỏi: Chuẩn theo luận Du-già quyển nói khi sắp mạng chung, tâm niệm sau cùng là pháp dị thục, vì sao Đối Pháp gọi là ái tương tục?

Đáp: Đã nói sau cùng là pháp dị thục, không chướng ban đầu chặng giữa mà được ái đồng thời, ý của hai luận sai khác nên không trái nhau. Lại khởi ái nên hay kết sinh. Mạng chung, Trung hữu đều có khả năng khởi ái, nên lấy hai vị cũng không có lỗi. Tuy có bốn giải thích, giải thích ban đầu và sau là thù thắng, hai giải thích giữa lý trái. Ý nhiễm kết sinh, ngay khi thọ sinh Yết-la-lam vị không có ý nhiễm. Du-già quyển 1 nương đã kết sinh nên làm thuyết này, chẳng phải ngay khi kết sinh nên không có lỗi, tức Du-già luận quyển 5 nói, lại khi sắp thọ sinh ở trên tự thể tham ái hiện hành, người nam người nữ hoặc ái hoặc sân cũng xen hiện hành, do nhân duyên này nên biết tất cả phiền não đều được kết sinh tương tục.

Nói sắp thọ sinh và khởi các ái là chẳng phải sinh Hữu vi kết sinh vị. Nghĩa kết sinh là do nhân thủ quả, như hoa kết hạt gọi là kết sinh, nên Nhiếp luận Vô Tánh quyển 3 nói, nhiếp thọ sinh nên gọi là kết sinh, hậu báo tiếp theo ở trước khiến sinh không đoạn, như con nối nghiệp cha nên gọi là tương tục, tức luận ấy nói liên tục trì sinh nên gọi là tương tục.

Luận: Đây đồng các kinh Vô Lượng Đại thừa.

Trong các kinh khác gọi là Lại-da, như luận Hiển Dương dẫn kinh nói: Làm sao biết có thức này? như Bạt-già-phạm nói: “Vô minh che lấp, ái kết ràng buộc ngu phu chiêu cảm thân hữu thức”. Ý này nói có dị thục A-lại-da thức.

Giải thích rằng: Kinh đã nói phát nghiệp, nhuận sinh hai loại phiền não mà cảm được thức, nói thức sở cảm quyết định chỉ có A-lại-da chân dị thục. Lại nói, như năm chủng tử, đây gọi là có thủ thức, ý này hiển bày có tất cả chủng tử A-lại-da thức. Xét trong kinh Niết-bàn có năm chủng tử: Một là rễ, hai là cành, ba là trái, bốn là đốt, năm là hạt. Lấy năm pháp bên ngoài so sánh chủng tử bên trong nên nói “như”. Năm chủng tử bên trong, nghĩa là thức, danh sắc, lục xứ, xúc, thọ. Lại có năm đạo chủng, chủng này đều nương A-lại-da làm thủ v.v… thấm nhuần, hay có đương quả, cho nên nói có thức thủ.

Sớ: Bốn nhân trước làm tông.

Hỏi: Thuận vô ngã v.v… đã có tám câu mà làm tám tông, rốt cuộc có lỗi gì? Hợp thành bốn ư?

Đáp: Vô ngã ngã v.v… đối đãi nhau mà lập, nên hợp làm bốn.

Biện rằng: Lý thật vô ngã, ngã v.v… nghĩa khác nhau, mỗi câu làm tông lẽ ra cũng không lỗi, làm tông đã có tám, làm nhân cũng vậy, tông nhân đều có hai và ba hợp đồng, tỷ lượng ấy thường làm tông biệt tổng có ba mươi sáu, làm nhân biệt tổng có bốn mươi lăm, tổng cộng có tám mươi mốt lượng, nếu đứng về siêu vượt chặng giữa, một và hai đồng làm lượng mới nhiều, nghĩa chuẩn theo nên biết, sợ dài dòng nên không chép đủ.

Sớ: “Lại trong Phát Trí luận” đến “chẳng phải như ghét một v.v…”.

Nhưng chẳng phải Phật nói mà có nhiều nghĩa. Một là ngoại đạo các giáo gọi là chẳng phải Phật nói, Tam tạng nội giáo đều gọi là Phật nói, luận Đại thừa Tiểu thừa tuy chẳng phải Phật nói, mà do các bậc Thánh sau này kết tập lời Phật mà thành, nên gọi là Phật nói. Hai là đích thân Phật nói gọi là Phật nói, luận Đại thừa Tiểu thừa tuy kết tập lời Phật, nhưng chẳng phải Phật nói, nên đều chẳng phải Phật nói.

Nếu chuẩn theo nghĩa trước, Phật nói làm tông, luận Đại thừa Tiểu thừa đều làm dị phẩm, nhân họ chuyển nên thành bất định. Nếu nói Phật nói tức là Phật nói không có bất định, lý cũng không có đúng, chẳng phải luận Đại thừa Tiểu thừa đều là Như Lai ở đời đích thân diễn nói, đích thân ấn chứng, dù kết tập ít lời mà Như Lai ngày xưa nói, nhưng nay làm huyền luận, chẳng phải Phật đích thân nói, gọi là phi Phật thuyết, cuối cùng thành dị phẩm, vì sao chẳng phải bất định?

Lại giả sử người lập thừa nhận đều Phật nói, hàng Tiểu thừa chống lại như Phát Trí luận một phần không thừa nhận, nay đối với tha dị dụ nhân chuyển sao không có lỗi ư? Nương nghĩa sau nhân ở dị phẩm một phần chuyển, do Phát Trí luận, Bà-sa hai thuyết cho rằng Phát Trí là Phật nói và một thuyếta cho rằng không phải, là do Ca-tha-diên-ni tử tạo. Đối với sư trước nhân ở thức chuyển nên cũng bất định, trong sớ 0 nương nghĩa sau.

Hỏi: Tiểu thừa có người nói kinh Đại thừa là do những người hoại chánh pháp nói ra, so với đây tức là thuộc về chẳng phải Phật nói, nhân nói không nhiếp lẽ nào chẳng phải tùy theo một?

Đáp: Nói ý của hai cực thành lựa chọn tùy theo một, người chống đối tuy nói Đại thừa chẳng phải Phật nói, người lập không thừa nhận nên không được nói cả hai đều cực thành chẳng phải Phật nói, người chống đối cũng thừa nhận cả hai đều cực thành, chẳng phải trong Phật nói không nhiếp Đại thừa, người lập đã thừa nhận sao thành tùy theo một? Nghĩa này nên suy nghĩ kỹ.

Hỏi: Nói cả hai đều đối lập và chống đối nói, ngoại đạo chẳng phải chống đối nói, sao được nói Đại thừa ngoại đạo là cả hai?

Đáp: Các ngoại đạo nói các Tiểu thừa, tuy nêu ngoại đạo ý lấy một phần sở đẳng Tiểu thừa gọi là cả hai, do ngoại đạo ấy lập các luận này, nhân đó mà nói như vậy.

Sớ: Nhân phạm cả hai bất thành v.v…

Nhân, tông đều phạm lỗi một phần, trong nhân cũng phạm một phần cả hai sở y bất thành, nhân không có khắp, trong tông ấy và Phát Trí cả hai gọi là đồng nên trong sớ không khai.

Hỏi: Sở y không thành, hữu pháp ắt không có, Phát Trí đã có, sao thành lỗi này?

Đáp: Một phần Phát Trí không thừa nhận Đại thừa là Phật nói, làm sao có sở y? Cho nên thành một y phần sở y bất thành, nhưng cả hai không có lỗi sở y, lý như trước đã biện.

Sớ: Mỗi một niệm uẩn gọi là pháp sát-na sinh diệt.

Hỏi: Pháp Hữu vi đều diệt trong sát-na, hai uẩn sau cần gì lập riêng?

Đáp: Có hai giải thích:

1. Tùy theo hai uẩn sau diệt trong sát-na, trước căn cứ theo tương tục, đứng về nghĩa mà chia ra cho nên có ba uẩn.

2. Phương tiện phát khởi thiện ác sắc tâm, do trong ba tánh nên gọi là một niệm.

Biện rằng: Giải thích trước là thù thắng, lẽ nào trong ba tánh chỉ có một niệm ư?

Sớ: Hai là một thời kỳ sinh uẩn.

Chỉ căn cứ dị thục một thời kỳ phần hạn tương tục nói, hoặc đồng Chánh lượng thời gian dài bốn tướng, như mạng căn v.v… ban đầu sinh gọi là sinh, sau cùng chết gọi là diệt, trung gian lại không có tướng sinh diệt.

Sớ: Ba là cùng sinh tử uẩn.

Đến Kim cương định, đoạn phiền não hết, sinh tử hằng dứt gọi là cùng sinh tử.

Hỏi: Vì sao luận đời Lương nói “đến Vô dư” gọi là cùng sinh tử?

Đáp: Hoặc tận lý chứng đều cùng sinh tử. Hai luận cùng nói nên không có lỗi, hoặc nhân quả sinh tử đều gọi là sinh tử, nhân Kim cương cùng, quả Vô dư hết, đây cũng có hai luận cùng nói.

Luận: Nghĩa là A-lại-da là tổng biệt của tham.

Nhiếp luận và Luận thích đủ như trong sớ dẫn. Lại xét trong kinh Đại Bát-nhã quyển nói các pháp ái lạc, kinh ấy tuy lại không nói Lại-da mà lấy nó để giải thích các tên ái lạc kia, nhưng giải thích đối với ái này, A-lại-da lẽ ra cũng không có lỗi, nên kinh ấy ghi: Nói pháp ái nghĩa là pháp này khởi ham muốn mong cầu. Nói pháp lạc nghĩa là công đức xưng tán đối với pháp này. Nói ưa thích pháp, nghĩa là đối với pháp này, hoan hỷ tin thọ. Nói hỷ pháp, nghĩa là đối với pháp này trông mong tu tập nhiều. Lại xét trong Du-già quyển 2 ghi: “Đối với cảnh ba đời sinh ái lạc v.v…”, cũng có thể lấy đồng loại ấy để giải thích, cho nên luận ấy ghi: Nghĩa là đối với trời người trụ cảnh giới ái nương đời hiện tại, trụ cảnh giới lạc nương đời quá khứ, trụ cảnh giới ưa thích đời hiện tại nương cảnh quá khứ sinh ái lạc, trụ cảnh giới hỷ ở đời vị lai nương cảnh hiện tại sinh ái lạc, nếu ở trong cảnh ba đời như vậy trụ ở nhiễm ô, phải biết đó gọi là xưng tán ham muốn, có khổ thiếu hụt”. Theo luận Du-già giải các ái lạc, giải thích bốn A-lại-da cũng có hành tướng của một nhà, gồm chánh hợp nói tổng thành bốn giải thích.

Hỏi: Nói A-lại-da là nghĩa chấp tàng, vì Thức thứ bảy chấp gọi là Lại-da? Nhiếp luận đứng về ba đời để giải thích, tức chỉ có Thức thứ sáu, lẽ nào trái ngược?

Đáp: Có ba giải thích:

1. Tên gọi A-lại-da chỉ nương ngã ái Thức thứ bảy mà được, luận chỉ có nương Thức thứ sáu giải thích là đối với tha tông.

2. Thông ngã ái Thức thứ sáu, thứ bảy mà có tên, ngã ái chấp tàng không lựa chọn sai khác, dù có chỗ nói chỉ nương Thức thứ bảy, nên biết nương tương tục ấy mà nói, trong Địa thứ tư không bỏ tên ấy, phải đến Địa thứ tám mới xả, y chỗ cứu cánh cùng tận ấy mà nói. Nhưng hai luận ấy y đối tha mà giải thích.

3. Được tên như sư thứ hai trước đã nói. Trong hai luận, thông nương Thức thứ sáu thứ bảy. Vả lại Vô Tánh giải thích ái A-lại-da không nói về ba đời, do tổng nói tức thông Thức thứ bảy. Giải thích sau của Thế Thân giải thích tên ái ấy cũng thông Thức thứ bảy, duyên hiện tạng thức làm ngã, đối với lý không trái.

Luận: Là sinh một khổ ái xứ.

Hỏi: Nếu Hữu tông nói ái chấp căn cứ nẻo thiện mà nói, nói khổ thọ không ái chấp bèn có lỗi tương phù chăng?

Đáp: Trong kinh ấy ghi: Chúng sinh thế gian ái A-lại-da v.v… lẽ nào chỗ khổ ấy chẳng phải thế gian sao? Đã là thế gian sao không có các pháp sở chấp, cho nên khổ xứ tức ngã A-lại-da làm chỗ chân chấp.

Sớ: Trong Nhiếp luận không nói các trừ chấp.

Do Hữu tông ấy nói các Thánh đều là vô ngã kiến không chỉ có vô học, là đối với tông ấy, nên không riêng trừ người vô học, tức Vô Tánh luận quyển 2 ghi: Tuy đối với chánh pháp tín giải vô ngã nhàm chán nghịch ngã kiến, nhưng tánh hằng ấy đối với A-lại-da thức ngã ái tùy chuyển.

Sớ: Thức thọ tưởng uẩn hoàn toàn v.v…

Trong hành uẩn không tương ưng chẳng phải các tâm sở, chẳng phải sở v.v… nên nói ít phần.

Hỏi: Nói chuyển thức rõ ràng lựa chọn Lại-da, tại sao được nói thức uẩn hoàn toàn ư? Nếu có Lại-da thức uẩn tại sao không phải chấp chỗ?

Đáp: Nêu thức uẩn cực thành ấy để nói.

Sớ: Ở trên tổng lấy trong uẩn sai biệt lạc thọ thân kiến ba pháp v.v…

Tổng chỉ văn trước, đối Nhiếp luận ấy biện ít nhiều. Tổng biệt hợp nói có ba loại, tức luận trên nói không nên chấp năm thủ uẩn gọi là tổng thủ uẩn, năm dục trở xuống ở trong tổng uẩn nhưng riêng lìa khỏi gọi là trong biệt.

Sớ: Ở sau riêng ngăn năm pháp v.v…

Nay nói các thức, các sở tâm sở cùng lạc thọ và thân kiến ở trước có rộng hẹp. Suy nghĩ có thể rõ.

Sớ: Nhưng ở đây tổng nêu bày các bộ v.v…

Đủ như trong Nghĩa Đăng có biện rõ, nên không nói lại.

Sớ: “Lại tâm tương tục” đến “lưu chuyển không dứt”.

Xét Đối Pháp luận quyển 2 ghi: Lại tâm tương tục, thời gian dài gián đoạn trải qua lưu chuyển lâu không dừng, thế nên chuyển thức năng trì chủng tử không đúng đạo lý. Nay trong sớ nói không đúng với văn kinh, hai chữ “không đúng” là văn viết nhầm.

Hoặc là sớ chủ lấy ý luận ấy, thêm vào hai chữ “không đúng” để nói văn kinh. Văn giải thích luận ấy ghi: Tâm tương tục là tạng thức, thời gian dài gián đoạn tức diệt định v.v…, lưu chuyển không dừng tức chủng tử. Lại xét trong luận Du-già quyển 51 ghi: “Lại các thức ấy thời gian dài gián đoạn, không nên tương tục, thời gian dài lưu chuyển”.

Sớ: Nhiếp luận Vô Tánh quyển 2 giải thích v.v…

Xét luận ấy ghi: Lại các chuyển thức quyết định chẳng phải sở huân, do sáu thức ấy không quyết định tương ưng, vì sao? Vì lấy ba sai biệt cùng trái nhau. Nếu sáu chuyển thức quyết định đồng thời có, không lẽ sở y sở duyên, tác ý ba loại đều sai khác? Do mỗi mỗi sai biệt nên sáu món chuyển thức không nhất định câu sinh, không câu sinh nên không quyết định tương ưng, không tương ưng vì sao có nghĩa sở huân năng huân?

Sớ: “Trong đây nói” đến “hỗ tương trái nhau”.

Trong này luận nói căn căn tác ý tức là Nhiếp luận do ba sai biệt hỗ tương trái nhau, lời khác mà ý đồng, trong sớ nói cùng huân nhau, chữ “trái” mới đúng.

Sớ: Nhiếp luận chỉ có một nhân trong đây.

Nhân luận này có bốn, trong Nhiếp luận chỉ có căn cảnh tác ý nhân sai biệt.

Hỏi: Xét ý luận ấy, do không tương ưng mà làm nghĩa nhân, lẽ nào không trái nhau sao?

Đáp: Không tương ưng là chánh nhân đó, căn cảnh đồng biệt là nhân của thành nhân, ngay chánh nhân này căn cứ nhân của thành nhân cũng không có lỗi.

Sớ: “Giải thích trước” đến “đồng thời thọ huân”.

Trước nêu rằng, đây phá Kinh bộ, giả sử thừa nhận sáu thức đồng thời, đến khiến không được hỗ tương huân nhau, tổng giải thích trước, đồng với Nhiếp luận, trong đó dẫn Nhiếp luận làm chứng, vặn hỏi sáu thức ấy, không hỗ tương huân nhau.

Sớ: Nay giải chỉ ngăn thể của sáu thức, chẳng phải thọ huân v.v…

Tức trước nói hoặc như tha tự thân v.v… trở xuống vậy, chỉ có nương luận này không lấy Nhiếp luận, nên trong sớ kết rằng, không đồng Vô Tánh.

Sớ: Không khởi kiến giải này tự làm bất định.

Hỏi: Tám thức ba sai biệt, thể của Thức thứ tám lẽ ra chẳng phải thọ huân, lẽ nào chẳng phải lỗi ư?

Đáp: Do có lỗi này nên ở sau sớ nói, lại Thức thứ sáu và thứ tám chẳng phải thuần khác, ý lựa chọn lỗi trước. Nếu chuẩn theo lựa chọn này, cũng bèn ngăn hỗ tương huân ấy, lượng có lỗi bất định. Do hai giải thích này lý đều thông, nên trong sớ không phán phân hai cách giải hơn kém.

Đáp: Tám thức làm sao hỗ tương huân nhau?

Đáp: Năng sở giúp nhau gọi đó là hỗ, chẳng phải làm năng huân sở huân, gọi là hỗ.

Luận: Các loại thiện sai biệt dễ thoát khởi.

Xét trong luận Du-già quyển 51 ghi: “Nếu không có A-lại-da thức có tánh chủng tử, không hợp đạo lý”, nghĩa là sáu thức thân triển chuyển khác, vì sao? Từ thiện vô gián bất thiện tánh sinh, từ hai vô gián Vô ký tánh sinh, liệt giới vô gián giới sinh, trung giới vô gián diệu giới sinh, diệu giới vô gián nhẫn đến liệt giới sinh, Hữu lậu vô gián Vô lậu sinh, Vô lậu vô gián Hữu lậu sinh, thế gian xuất thế gian sinh, xuất thế vô gián thế gian sinh chẳng phải tướng như vậy, có tánh chủng tử đúng chánh đạo lý.

Giải thích rằng: Ba tánh, ba giới mỗi mỗi làm đầu đối hai pháp khác, hai pháp có nghĩa vô gián. Trong luận chỉ bày pháp làm không đủ, suy nghĩ có thể biết.

Hỏi: Hữu lậu thế gian, Vô lậu xuất thế, rốt cuộc có gì sai khác mà phân làm hai đối?

Đáp: Nghĩa thế gian rộng, nghĩa Hữu lậu hẹp, Vô lậu hậu trí Thánh giáo cũng gọi là trí thế gian, Vô lậu cũng rộng, nghĩa xuất thế hẹp, Vô lậu thông ở Căn bản và Hậu đắc trí, xuất thế phần nhiều thuộc Căn bản, rộng hẹp đã khác cho nên phân làm hai.

Luận: Vì không trụ chắc.

Hỏi: Không trụ chắc này cùng với trước gián đoạn dễ đổi các nhân có gì sai khác.

Đáp: Không bền chắc tổng mong nghĩa không có tương tục, gián đoạn dễ đổi riêng đứng về năm vị ba tánh v.v… để nói. Do đối với nhân bền trụ của Thức thứ tám nên nói riêng.

Luận: “Sắc không tương ưng” đến “lẽ nào là năng trì chủng”.

Nếu Tùy chuyển lý thì thừa nhận sắc trì chủng, nếu chân thật lý thì kiến lập Lại-da rồi, tức chỉ có Thức thứ tám năng trì chủng, nên trong luận Du-già quyển 51 ghi: “Thế nào là nhân duyên? Nghĩa là các sắc căn, căn y và thức, hai pháp này lược nói năng trì, tất cả các pháp chủng tử tùy theo sắc căn, có các sắc căn chủng tử và các sắc pháp chủng tử,

tất cả tâm tâm pháp v.v… làm chủng tử, nếu tùy theo thức có tất cả thức chủng tử, và Vô sắc pháp chủng tử khác, các sắc căn tu, nhưng sắc pháp chủng tử khác, nên biết những sắc pháp tự tánh chỉ có tự chủng tử đã tùy theo, trừ đại chủng sắc, do đại chủng sắc hai loại chủng tử đã tùy theo, nghĩa là đại chủng chủng tử và tạo sắc chủng tử”. Tức sở lập này tùy theo sai biệt chủng tử tương tục, tùy theo sở ưng kia mong chỗ thuyết pháp này gọi là nhân duyên. Nếu các sắc căn và tự đại chủng, chẳng phải tâm tâm pháp chủng tử, nhập Diệt tận định, nhập Vô tưởng định, sinh Vô tưởng thiên, lúc sau không hợp các thức lại sinh. Nếu các thức chẳng phải sắc chủng tử đã tùy theo, là sinh Vô sắc giới dị sinh, từ thọ tận nghiệp hết không sinh trở lại thời sau. Sắc không có chủng tử lẽ ra không sinh trở lại, tâm sắc ấy v.v… nhưng ắt sinh lại, thế nên phải biết các loại tâm sắc chủng tùy theo tâm sắc lấy đây làm duyên tâm, sắc sinh lại. Chỗ kiến lập này đạo lý chủng tử, phải biết lại nương cái chưa kiến lập A-lại-da thức Thánh giáo mà nói, nếu đã kiến lập A-lại-da thức phải biết lược nói các pháp chủng tử tất cả đều nương A-lại-da.

Luận: “Có thuyết nói sáu thức” đến “nhưng không sai biệt”.

Nhưng chuẩn theo các giáo, sư Kinh bộ chấp tổng cộng có bốn loại:

1. Bản Kinh bộ thừa nhận sáu căn bên trong là tánh sở huân, như trong luận Du-già quyển 51 phần cuối nói: Sắc trì chủng, tùy theo lời nói kia như trước đã dẫn. Lại Thuận Chánh Lý quyển 18 ghi: Đây là xưa tùy theo thể không thể nói, chỉ nên nói là nghiệp phiền não sở huân sáu xứ, cảm quả khác sinh.

Giải thích: Tùy theo giới tức là tên khác của chủng tử, tân cựu sư riêng gọi là cựu tùy giới.

2. Sáu thức triển chuyển mà hỗ tương huân nhau.

3. Niệm trước huân niệm sau.

4. Cùng loại thọ huân.

Cho nên Vô Tánh luận quyển 2 ghi: “Lại có chỗ huân tập dị chấp như vậy, hoặc nói sáu thức triển chuyển huân nhau. Hoặc nói niệm trước huân ở niệm sau, hoặc nói huân thức chủng loại mạt-na”.

Hỏi: Luận này ở sau nói: Sáu thức thân hoặc sự, hoặc loại, hai niệm trước sau đã không cùng có, chẳng phải hỗ tương huân, chuẩn theo đây tha thừa nhận việc trước sau so sánh lại hỗ tương huân, nếu không phải như vậy thì phá tha có lỗi tương phù, đã không tương phù chấp vì sao chẳng phải năm?

Đáp: Có ba giải thích:

1. Căn cứ đây quả thật có năm loại, nói bốn pháp là không đúng.

2. Luận này cùng phá chấp thứ ba, thứ tư ở trước, chẳng phải là biệt chấp.

3. Lập ngăn chẳng phải là bản chấp.

Biện rằng: Thứ ba thù thắng, còn lại thì Đại thừa Tiểu thừa không có nói, nếu nói cùng phá ba và bốn chấp làm sao vặn hỏi nói chẳng phải hỗ tương huân? lẽ nào là ba và bốn chấp thừa nhận hỗ tương huân ư?

Luận: Thức chuyển biến.

Có thuyết nói chuyển biến nhưng có ba nghĩa:

  1. Tự loại không đồng thời, trước sau chuyển biến.
  2. Tự tha không đồng thời, trước sau chuyển biến.
  3. Tánh, giới, địa v.v… trước sau chuyển biến.

Cho nên thể sự của thức không thể trì chủng, nếu thừa nhận trì chủng, tâm sở y diệt, chủng cũng mất theo, niệm sau quả khởi lẽ ra không có nhân, nên ở trên thức giả lập một loại, thể của thức tuy khác mà loại của thức thì đồng, quán thông trong hai niệm trước sau, ở trong hai niệm không có chuyển biến trì chủng thọ huân, như Thượng tọa bộ nhân quả sinh diệt, như thức của niệm ban đầu khi ở trong sinh tướng, loại của nó cũng vậy. Đến niệm thứ hai thức ở diệt tướng, không cóa tự thể, chẳng phải nhân, loại ở dị tướng năng sinh hậu thức và loại sinh tướng, cùng với niệm sau này thể của thức đồng thời có hai loại ấy, nhân ở dị tướng, quả ở sinh tướng, thức đồng thời này huân sinh tướng loại, loại trước lực kém chỉ trì chủng cũ không thể thọ huân, như vậy loại này niệm niệm tương tục, trước đến dị tướng, sau đến sinh tướng, trì chủng không đoạn, nếu đối với năm chủng, không có tâm vị, tuy không sinh tâm nhưng loại khoong đoạn. Văn sau phá rằng: Lại vô tâm vị loại này quyết định không có, y tự tông phá, hoặc có tâm vị như sinh tướng trước, hoặc vô tâm vị loại ấy cũng không, giả ắt nương thật vì không có sở y.

Biện rằng: Căn cứ kinh Đại thừa Tiểu thừa các luận tạng và cổ đức xưa nay biên chép đều không nói Kinh bộ hiện đang thừa nhận có hai thời, sợ tự xuyên tạc do ý định. Chuẩn theo tông chấp ấy, trước sau hai thức đồng một loại thức, không nói hiện đang phân hai thời. Cho nên Vô Tánh luận quyển 2 ghi: “Sáu loại chuyển thức hoặc hai sát-na đồng một loại thức”. Nếu nói tợ là nương ít phần ấy mà nói, nhưng không nói hiện đang đồng với hai phần ấy. Nếu lập chống chế này, lý có thể thông chút ít, nhưng lập không rõ ràng, cho nên vặn hỏi chuẩn theo đây.

Luận: Nếu là thiện ác lẽ ra không thọ huân v.v…

Hỏi: Nếu pháp thiện ác, không thể thọ huân nên không trì chủng, tại sao Du-già thừa nhận pháp ba tánh hỗ tương trì chủng? Cho nên quyển 51 ghi: “Nếu khởi tâm thiện, hoặc tâm nhiễm ô, hoặc tâm Vô ký, tất cả tâm này đều thiện chủng tử, nhiễm ô chủng tử, Vô ký chủng tử đã tùy theo kiến lập này”.

Đáp: Tùy chuyển lý môn, chẳng phải nghĩa chân thật, trong Dugià tự hiểu, văn như trước có dẫn.

Luận: “A-la-hán” đến “pháp Vô lậu huân v.v…”.

Hỏi: Chuẩn theo trong sớ phán phân, hoặc căn cứ tự thân thứ lớp của phàm thánh, hoặc đứng về tha tự phàm thánh huân nhau, do đâu làm vặn hỏi này?

Đáp: Do bản chấp thức hai niệm không đồng thời, không có nghĩa tương ưng, bị Đại thừa phá huân tập không thành, cho nên chưa chấp loại hai thức trước sau mà so sánh là một, nên thức trước huân loại, năng huân sở huân không có lỗi không đồng thời, năng sở y sai khác, cũng được gọi là năng sở huân cả hai. Đoạn loại lìa thức mà không có thự thể khác, cũng được gọi là do trước huân sau, cho nên Vô tánh luận quyển 2 ghi: “Nếu nói y chỉ chủng loại cú nghĩa, sáu loại chuyển thức hoặc hai sát-na đồng một thức loại, do dị phẩm nên có tướng huân tập, chẳng phải tất cả”.

Giải thích rằng: Thức trước sau sai khác, năng sở huân khác gọi là dị phẩm. Lại nói gần kế trước sau tương huân không nói tất cả, nói chẳng phải tất cả.

Hỏi: Nhưng thức huân loại sao gọi là hỗ tương?

Đáp: Giả thật năng sở hình đối đãi gọi là hỗ, cũng như ở đời nói cha con tương sinh. Lại loại đã một thức sau huân lúc bấy giờ cũng được gọi là huân niệm trước, như trước huân thức sau ý nghĩa đồng. Hoặc có thể họ thừa nhận loại, thức huân nhau, đồng với luận này nói, nếu không như vậy sao gọi là hỗ tương? Đã thừa nhận trước sau nhiều thức tuy khác mà loại là đồng, cho nên trước huân sau, trước phàm sau Thánh, loại đồng thức khác, sao không đồng họ trước huân sau?

Hỏi: Nếu vậy chỉ có thể vặn hỏi tự trước sau, tại sao vặn hỏi khiến dị thân huân nhau?

Đáp: Tự thức trước sau dị loại đồng được huân nhau, tha thân loại cũng đồng nên vặn hỏi lại huân tập, nên trong Vô Tánh luận ghi: Tâm A-la-hán không phát ra thức loại, nó cũng phải là bất thiện sở huân, cùng với đây đồng.

Sớ: Do bản chấp ấy là bản ý này.

Phán phân ý này rằng, trước sau thức khác mà thức loại đồng, thức loại thọ huân, thức gọi căn, phá; căn, pháp khác đồng với căn và pháp của thức, cũng được gọi là thức loại đồng. Loại pháp này lẽ ra hỗ tương huân nhau, đồng với loại của thức trước sau ấy.

Hỏi: Trước sau đều là thức đồng loại có thể huân, còn căn pháp chẳng phải thức đồng loại, sao được nêu bày huân?

Đáp: Loại là tương tợ, thức có căn pháp, các căn pháp tợ khác đã tợ đối với thức sao chẳng phải thức loại? Thức loại đã đồng, vì sao chẳng phải huân lẫn nhau?

Sớ: Hoặc hợp ý căn thành tạo sắc tánh v.v…

Xét luận ấy quyển 2 ghi: Nghĩa là nhãn v.v… căn thanh tịnh sắc tánh đều là chỗ tùy theo của căn chủng loại, ý căn cũng lẽ ra thành tạo sắc tánh, vì các nghĩa căn.

Hỏi: Loại thuộc đồng phần, tức thuộc hành uẩn, vì sao ý vặn hỏi khiến thành tạo sắc?

Đáp: Vả lại năm căn tợ giả thật nếu luận riêng thì thuộc về pháp đồng phần, nhiếp giả từ thật gồm thâu nhiếp sắc giới, thức loại cũng vậy. Luận căn cứ nhiếp giả tùy thật môn mà nói, cũng không có lỗi. Nhưng ý vặn hỏi rằng: Hai tâm trước sau thức dị loại đồng, đều đồng thời với thức uẩn, sắc tâm hai pháp khác căn đồng loại, đều đồng thời với sắc uẩn, nếu nói sắc tâm sai biệt, không được đồng tạo sắc, cũng có thể sắc tâm sai khác căn loại không nên đồng, rộng phá như các luận.

Sớ: Hậu Vô ký có thể như vậy.

Đây giả sử thừa nhận, trong Vô ký rõ ràng rước huân sau, lý thật không đúng, huân tập cùng thời, không được trước sau. Hậu Vô ký chẳng phải đều là Thức thứ tám, nên biết giả sử thừa nhận.

Luận: Cũng không nên chấp sắc tâm triển chuyển hỗ tương làm chủng sinh.

Như quyển 51 rộng nêu bày chấp ấy, đủ như trước đã dẫn.

Luận: Y tợ tỷ lượng v.v…

Như trong sớ, Xu Yếu, Nghĩa Đăng nói đủ.

Hỏi: Như Phật pháp là đối Thanh luận sư lập thanh vô thường, thanh tông hữu pháp không lập lỗi ấy, chân tánh Hữu vi đã là hữu pháp, vì sao các sớ phán phân thành lỗi? Do trong hữu pháp không nói không chăng?

Đáp: Như Số luận sư đối với Phật pháp nói ngã là tư, tuy trong Phật pháp thừa nhận có giả ngã, trong luận nói không phân biệt, ý bàn tư ngã nên có lỗi sở biệt, loại này cũng vậy, cho nên có lỗi của pháp.

Hỏi: Nếu vậy tông thanh cũng không phân biệt tông đối thanh thường, nên có lỗi sở biệt?

Đáp: Tạm nói thanh lập, đối phương đều thừa nhận, chân tánh Hữu vi đạo lý sai biệt, lập đối phương bèn có sai khác, nên có lỗi của pháp, không đồng tông thanh. Chuẩn theo Chưởng Trân luận có rộng phân tranh, như trong Nhân Minh có dẫn.

Luận: “Ngoại đạo” đến “thành đại tà kiến”.

Có nghĩa, nếu nói phá này họ chống chế khiến đồng ngoại đạo, là tự tông y tha cũng chẳng phải thật có, hai lỗi đã đồng tại sao riêng vặn hỏi? Nên nay riêng giải thích. Ngoại đạo hủy báng chỉ nói chẳng phải thật, chứ không phải vì nêu bày nên đều là đại tà kiến, nay ông nói không thành đại tà kiến, giải thích thành đại tà kiến không phải phá chống chế.

Biện rằng: Thật nói chỉ có thuộc pháp thường tịch, có thể như đã phán phân, nếu nhân chiêu cảm đạo lý chẳng phải lầm gọi đó là thật, tự tông y tha sao không gọi là thật? Tức đoạn sau nói, thể của thú sinh là phải thật có, thể thú sinh này lẽ nào chẳng phải y tha? Trong Thánh giáo nói chỗ thật chẳng phải một. Do đây phá chống chế đạo lý không trái, lại nếu không chống chế, tại sao luận nói ngoại đạo hủy báng, cũng không nói hoàn toàn không, cũng nói cũng là ai, cho nên biết sớ giải thích thâm đắc diệu chỉ.

Luận: “Nếu tất cả pháp” đến “tư lương của Bồ-đề”.

Hỏi: Xét luận Chưởng Trân ghi: Y thế tục phước trí tư lương hai loại chẳng phải không có, y tha cũng có, nay vặn hỏi y tha lẽ nào tông không có lỗi sao?

Đáp: Có hai giải thích:

1. Vặn hỏi chẳng phải thật không trách cái không kia, tức luận kế nói không nói hoàn toàn không có, nhưng chấp chẳng phải thật, nên biết tông ấy thế tục tuy có mà chẳng phải thật, nếu không như vậy lại có tha tùy theo một lỗi.

2. Căn cứ Thắng nghĩa, bản được tư lương cực quy về chân đế, chân đế tức không, tư lương dùng làm gì.

Sớ: “Và Nhiếp luận quyển 2” đến “nghĩa trong quyển 3”.

Nhiếp luận Vô Tánh quyển 2 rộng nói huân tập, trong huân tập mà biện nghĩa nhiễm tịnh do tâm.

Lại nói: An lập tướng Thức thứ tám lược có ba loại:

  1. Tự tướng.
  2. Nhân tướng.
  3. Quả tướng.

Trong quả tướng cũng nói rõ tạp nhiễm thanh tịnh do tâm, như ở sau trong phần sớ sao có dẫn, nên ở đây không nói đủ.

Luận: Mạng căn ấy v.v… vì không có việc này.

Hỏi: Các căn như nhãn v.v…, nhãn v.v… căn đoạn, Hữu tông chánh nghĩa không thừa nhận lại tương tục, dựa vào đâu nói?

Đáp: Xét luận Đại Bà-sa quyển 150 ghi: “Nếu khi thiên nhãn hiện tiền sinh đắc nhãn là đoạn chăng? Nếu đoạn tại sao không nói dị thục sinh sắc đoạn rồi sau tương tục, nếu không đoạn thì cả hai đều thấy sắc vì sao không lẫn lộn?”

Đáp: Nên nói không đoạn, do dị thục sắc đoạn rồi lại không tương tục, có thuyết nói khi thiên nhãn khởi sinh đắc nhãn đoạn. Đoạn có hai loại: Một là tạm thời đoạn, hai là rốt ráo đoạn. Tạm thời đoạn là có thể tương tục, rốt ráo đoạn là không tương tục, nên không có lỗi. Có thuyết nói sinh đắc thiên nhãn cùng nhau tương tục vì sinh chưa từng không có, nên không thể nói đoạn. Có thuyết nói khi nhãn sinh đắc nhãn đoạn cũng không có lỗi, cũng có dị thục sắc đoạn rồi mà tương tục, tại sao biết như vậy? Như trong Khế kinh ghi: “Vua trong tất cả hành bố thí tự móc hai mắt bố thí cho Bà-la-môn, do tư nguyện thù thắng khiến mắt bình phục”. Lại như trong kinh ghi: “Ác Hành lúc đó do Kiệt-địa-la-câu lấy con mắt thiện hành, cũng do thắng tư nên lại được nhãn căn”. Giả sử luận nói, địa ngục có núi đè ép khiến hữu tình thân thể hư hoại, sau đó không bao lâu các căn sinh lại, trong các địa ngục loại này chẳng phải một, nên biết dị thục sắc đoạn rồi lại tương tục.

Biện rằng: Nói như vậy, khi khởi thiên nhãn sinh đắc không diệt, dị thục sắc đoạn cũng không có nghĩa tương tục.

Hỏi: Trước đã dẫn sự tại sao nói thông?

Đáp: Thật chưa móc mắt, việc ấy thế nào? Nghĩa là Phật ngày xưa khi làm Bồ-tát, từng làm Quốc vương gọi Nhất thiết thí, hay do làm mãn nguyện cho tất cả người đến cầu, người trên trời gọi là lưu bố, lúc bấy giờ Thiên Đế Thích liền đến suy nghiệm biết ý thí ấy, lại tự hóa thành thân Bà-la-môn, đi đến trước vua chú nguyện rằng:

– Nguyện thường tôn thắng.

Vua hỏi:

– Phạm Chí đến đây muốn cầu việc gì?

Phạm Chí đáp:

– Ta đang cần mắt vua.

Vua dùng bốn báu làm mắt để cúng thí, Phạm Chí không chịu nhận lời và nói ta cần mắt vua, không cần lấy thứ này. Vua nghe việc này lại đưa hai tay sắp tự móc mắt, Đế Thích biết tâm bố thí của vua quyết định ngăn lại và hỏi vua:

– Ông muốn cầu gì?

Vua nói:

– Chỉ có các Đức Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác là mong cầu của ta.

Đế Thích nghe rồi hiện trở lại thân hình cũ, khen ngợi vua rằng:

– Thật là Bồ-tát không bao lâu quyết định được Vô thượng Bồđề.

Nói lời này rồi bỗng nhiên ẩn mất, cho nên lúc bấy giờ vua thật chưa móc mắt. Lại họ dẫn trong Thiện Ác Hành kinh, trong các địa ngục có các chủng tử khác, nếu không như vậy thì đoạn rồi lại không sinh.

Giải thích rằng: Đây nói chủng tử, như quyển 1, tức luận kia nói, nếu trong địa ngục tháo các chi tiết, nhẫn đến mài nát cũng có thân căn. Có thuyết nói lúc bấy giờ cũng có nhãn v.v…, dị thục đoạn rồi lại không tương tục. Có thuyết nói nhãn v.v… đoạn rồi lại tương tục, do nghiệp dẫn cho nên các nẻo pháp vốn như vậy. Thân căn ắt không đoạn lại tương tục, các sắc căn này là chỗ nương dừng. Các sư khác nói trong các địa ngục tuy tháo chi tiết thành trăm ngàn phần, nhưng trong các phần đều có thân căn, trong các phần nối nhau liên tục, như đập dập cây đỗ trọng và gốc cọng ngó sen. Lại như đập dập dây dưa bị gãy mà không đứt lìa, nếu lìa nhau thì thân căn cũng không có. Chẳng phải mười hữu tình có hai thân, nhưng ở đời hiện thấy các thân côn trùng đứt nhiều đoạn mà vẫn còn ngọ nguậy là do sức của phong chuyển, chẳng phải có thân căn.

Giải thích rằng: Đây chính là nhà luận chủng tử. Nếu y Kinh bộ, dị thục sắc pháp đoạn rồi lại tương tục, nay y Đại thừa, các dị thục sắc tuy đoạn rồi lại tương tục, nếu lìa các căn lại không chấp thọ, cũng gọi là không tương tục, nhưng sau khi căn đoạn rồi từ chủng sinh cũng gọi là tục, vua bố thí các việc ấy lý không trái. Nhưng đối với địa ngục, trong truyện có hai thuyết:

1. Tất cả các căn như nhãn v.v… ở trong địa ngục ắt không có nghĩa đoạn, vì tương tục thọ khổ không có gián đoạn.

2. Vô gián địa ngục các căn không đoạn, sáu thức sáng suốt lanh lợi vì khổ tương tục. Trong các địa ngục khác cũng có gián đoạn, tùy đoạn tùy sinh, vì trong Khế kinh nói, có nghĩa là tuy chưa thấy văn nhưng thuyết sau là thù thắng.

Biện rằng: Đã không có văn phán phân, thuyết trước sao lại không thù thắng? Do đây lấy bỏ tùy ý.

Luận: Lại ở trong định v.v…

Xét luận Du-già quyển 51 ghi: Nghĩa là như lý suy nghĩ đến định và tán loạn bao gồm có sáu vị, đủ như trong sớ nói. Hành tướng ấy là suy lường an lập, phi an lập đế. Chánh tư duy gọi là như lý tư duy, các loại ngoại đạo lẽ nào sánh kịp chăng? Tư duy lường xét là không như lý mà tư duy. Các duyên mặc tình và vô tâm vị gọi là không tư duy. Nếu tâm tư duy lựa chọn gọi là suy cầu. Nghĩa của hai vị định và tán nên biết. Luận này chỉ có bốn, rộng lược có sai khác, nhưng nhiếp nhau với lý kia, suy nghĩ có thể biết.

Luận: Lý có rất nhiều thân sinh khởi.

Thân này thọ tức là trong các định là xúc cảnh sở duyên Thức thứ tám, là hậu thân thức sở thủ bản chất, như trong sớ giải thích. Lại có thuyết nói, nhập các vị của định có năm thức thân, thân thọ sinh khởi, chứng có Thức thứ tám, nghĩa là do Thức thứ tám biến xúc của bản chất, thân thức nương khởi xúc ảnh tượng ấy, nếu không có bản chất ảnh tượng cũng không, tại sao ở định được có thân thức? Nghĩa là thọ cảnh ấy, việc làm lao nhọc hay vừa ý liền thành. Xác quyết rằng, sớ giải thích là chính, khiến thân nhọc tổn vì chẳng phải ảnh tượng, các thời khác cũng có tướng ảnh tượng, cho nên ở trong tất cả vị lẽ ra đều nên nói.

Biện rằng: Các giải thích khác và xác quyết, lý đều có thừa, lẽ nào khi vô tâm hậu thân thức khởi không biết lao nhọc hay vừa ý? Nếu vậy tại sao chỉ có đứng về trong định có thức mà nói? Lý năm thức được nhân duyên biến thâu nhiếp, xúc ảnh tượng tại sao vô dụng? Nếu nói năm thức là phân biệt biến, liền trái chánh lý, như trước biện đủ.

Sớ: Thân sở thọ nên trái nghĩa là thọ tâm sở.

Các xúc như lao nhọc hay vừa ý là thân sở thọ, sở thọ gọi là thọ, chẳng phải thọ của năng thọ.

Sớ: “Đây lựa chọn khởi tâm dị thục” đến “không có đồng dụ”.

Nếu không nói lựa chọn các tâm dị thục mà chỉ nói chẳng phải thật hữu tình nên khởi dị thục, đây liền tương phù, tha cũng có khởi tâm dị thục, lại do không lựa chọn các tâm dị thục, lại ở trong tông không thể lấy tông mà dùng làm dụ, nên thiếu lỗi dụ.

Sớ: Nếu không như vậy lại có sở lập không thành v.v…

Nếu cũng không có thừa nhận như vậy, thì dụ của luận chủ có lỗi tự sở lập, do tự không thừa nhận sáu loại chuyển thức chân dị thục.

Sớ: Họ nói không có nên không có câu bất thành.

Tiểu thừa ấy không thừa nhận Thức thứ tám, Thức thứ tám đã không có, lại không có tự thể của dụ, do không có dụ y, cả hai lập liền không, gọi là không có câu bất thành.

Luận: Chẳng phải pháp dị thục thú sinh tạp loạn v.v…

Lựa chọn sắc, tâm, tâm sở, biện đủ như trong Nghĩa Đăng.

Hỏi: Chiêu lấy nghiệp trong ba đường, khởi ắt trong cõi người, nghiệp hoặc này thuộc nẻo nào? Nếu thuộc ở cõi người lẽ nào có thể người chiêu cảm nghiệp ba đường ác ư? Nếu thuộc về ba đường, cảm nghiệp trong ba đường phân biệt hoặc phát khởi, nó không phân biệt làm sao được thuộc về nó?

Đáp: Trong truyện có hai giải thích:

1. Trong loài người tạo nghiệp nẻo ác mà cảm quả báo ấy, hay chiêu nghiệp cảm nên thuộc ở cõi người, do ba đường ác không phân biệt.

2. Tuy ở cõi người khởi hoặc nghiệp ấy, hoặc nghiệp lại thuộc chiêu cảm báo thú, không thể nghiệp hoặc cõi khác chiêu cảm quả cói khác, nhưng nói nẻo ác không phân biệt hoặc, căn cứ không hiện nói, không chướng thành tựu.

Biện rằng: Cả hai đều có lý, lại nương giải thích sau. Như ở trong loài người khởi nghiệp cõi trên nghiệp thuộc cõi trên. Lại trong loài người, nghiệp làm duyên xa, cũng không có lỗi, như do muốn thiện được định trên, nếu y giải thích trước thì thiếu nhân của định dị.

Sớ: Trong dị thục sắc có chín xứ trừ thanh.

Do tha không thừa nhận thanh là dị thục, nay lựa chọn cùng thừa nhận cho nên trừ thanh.

Sớ: Nhưng đây tuy nói bất cộng nhân.

Tức nhân hằng, sinh đắc thiện v.v… không gọi là bất cộng.

Sớ: Cũng nói cộng v.v…

Tức biến không tạp, sinh đắc thiện v.v… tự tha đều có gọi là cộng.

Sớ: Có tự thể thông, ở trên cũng có.

Kỳ thật có nhân thông, ở trước đã nói chẳng phải dị thục v.v…, và sắc dị thục năm thức nghiệp cảm, cho nên nay không nêu.

Luận: Cũng chẳng phải thuộc về giới vì chẳng phải Hữu lậu.

Hỏi: Thú sinh hữu lậu lấy chứng thứ tám, giới chẳng phải Vô lậu sao không nói có Thức thứ tám?

Đáp: Giới tuy Hữu lậu, nhưng thông ba tánh và tình phi tình, cho

nên không thể chứng đối với hữu tình dị thục thức.

Sớ: Năm căn ở tự thân.

Hiển tự năm căn là tự tám tướng, Thức thứ tám chấp thọ.

Sớ: Chẳng phải tướng phần, tha thân năm căn khác nương v.v…

Đây nói tha thân năm căn và y, không phải tự Thức thứ tám tướng phần từ Thức thứ tám không chấp.

Sớ: Tát-bà-đa chẳng phải quá khứ vị lai.

Đời quá khứ vị lai không gọi là chấp thọ, gọi là chẳng phải quá khứ vị lai, không nói quá khứ vị lai nhưng không có tự thể nên gọi là chẳng phải quá khứ vị lai. Thế nên Câu-xá ghi: Trong mười tám giới có chín giới không có chấp thọ, nghĩa là bảy tâm giới, thanh giới, pháp giới, còn chín giới khác đều thông hai loại, nghĩa là nhãn v.v… căn trụ đời hiện tại gọi là có chấp thọ, quá khứ vị lai gọi là không chấp thọ. Sắc hương vị xúc trụ đời hiện tại không lìa năm căn gọi là có chấp thọ, nếu trụ hiện tại chẳng phải không lìa căn, quá khứ vị lai gọi là không chấp thọ. Như ở trong thân trừ cùng căn hợp, tóc lông móng răng, đại tiểu tiện lợi, đàm dãi máu v.v… và ở ngoài thân như sắc hương vị xúc trong đất nước v.v…, tuy cũng hiện tại mà không chấp thọ.

Trong Chánh Lý luận ghi: Các sư khác nói không lìa căn thanh cũng có chấp thọ.

Hỏi: Trụ vô tâm vị hiện tại, năm căn sao gọi là chấp thọ?

Đáp: Chấp thọ loại cho nên cũng gọi là chấp thọ. Nếu vậy quá khứ vị lai nên gọi là chấp thọ, vặn hỏi này nếu không đúng, năm căn hiện tại dung chứa có phát thức gọi là có chấp thọ, quá khứ vị lai thì không như vậy. Lại giải thích hiện căn thức khi không khởi gọi là không chấp thọ, y hiện phát thức nói có chấp thọ, không nói hiện tại chỉ có chấp thọ. Như định đạo giới hay tạo đại chủng, tuy không lìa thân cũng là hiện tại mà không chấp thọ, năm căn cũng vậy. Sư trước giải thích rằng: Định đạo đại chủng tại định liền có, xuất định liền không gọi là không chấp thọ, năm căn tương tục cùng thức không đồng. Sớ y nghĩa trước, có xác quyết cho rằng giải thích sau là thù thắng.

Biện rằng: Đã chưa có văn, cả hai đều có lý, mặc tình lấy bỏ.

Sớ: Giả sử Thức thứ bảy cũng hiện duyên khởi.

Đây giải thích chiết phục vặn hỏi, vặn hỏi rằng: Nếu mặc tình sinh tức năng chấp thọ thứ bảy lẽ ra như vậy, nên văn này sinh. Do Thức thứ bảy Hữu phú Vô ký, chẳng phải nghiệp trước dẫn, nên hiện duyên sinh, không gọi là năng chấp.

Luận: “Chỉ có tâm dị thục” đến “không có nghĩa như vậy”.

Xét luận Du-già quyển 51, do năm nhân nên hiển năng chấp thọ là A-lại-da. Sớ tuy đã dẫn nhưng cùng bản văn có khác nhiều ít, thoạt bị vặn hỏi nên dẫn lại. Luận ghi: Nghĩa là A-lại-da thức đời trước đã tạo nghiệp hành làm nhân, nhãn v.v… chuyển thức ở đời hiện tại, các duyên làm nhân, như nói căn và cảnh giới do sức tác ý nên chuyển thức sinh, nhẫn đến rộng nói, đây gọi là nhân đầu. Lại sáu thức thân có các tánh thiện và bất thiện có thể được, đây là nhân thứ hai. Lại sáu thức thân Vô phú Vô ký dị thục thuộc sở nhiếp không thể được, đây là nhân thứ ba. Lại sáu thức thân đều riêng y chuyển ở nơi bỉ bi y bỉ bỉ thức chuyển, tức bỉ sở y nên có chấp thọ, còn không chấp thọ không đúng đạo lý, giả sử thừa nhận chấp thọ cũng không đúng lý, vì thức xa lìa, đây là nhân thứ tư. Lại sở y lẽ ra thành thường, thường là lỗi chấp thọ, vì sao? Do nhãn thức ấy ở trong một thời chuyển, một thời không chuyển, các thức cũng vậy, đây là nhân thứ năm.

Luận: “Ý đây nói” đến “chấp thọ v.v…”.

Hỏi: Trước chánh chấp đủ lựa chọn lời nói này lẫn lộn sao chỉ có ba?

Đáp: Đủ như trong sớ và Nghĩa Đăng. Có nghĩa, lựa chọn lẫn lộn trong văn nên trước nêu vặn hỏi. Nghĩa là người ngoài vặn hỏi rằng: Nếu chỉ có dị thục năng chấp thọ thì báo thân chư Phật lẽ ra không chấp thọ, không có dị thục, nên đáp như trong luận. Chỉ có ba nghĩa trước hiển chấp thọ Hữu lậu, nên năm nghĩa lựa chọn, nay hiển chấp thọ Vô lậu căn thân nên chỉ nói ba, Phật tịnh Thức thứ tám chẳng phải nghiệp sở dẫn, là thiện tánh nên không có hai nhân đầu. Nếu y sớ nói, đây chỉ nên nói nhãn v.v… chuyển thức không có nghĩa như vậy, cần gì nêu lại. Một loại đồng ba, so với Nghĩa Đăng, đại ý tương tợ, nhưng có khác chút ít, suy nghĩ có thể biết.

Luận: Chẳng phải các sắc căn v.v…

Đối phá hai tông đủ như trong sớ đã nói. Có nghĩa, sớ nói sắc căn, chánh phá Kinh bộ bản chấp sắc căn cũng năng trì chủng và thọ huân, bất tương ưng hành riêng nói mạng căn và chúng đồng phần, chánh phá Nhất thiết hữu bộ, Kinh bộ không khác bất tương ưng, nên nay giải không đúng. Kinh bộ sắc tuy năng trì chủng, đã không có sở duyên, lý không đúng vì là năng chấp thọ, tông Nhất thiết hữu chỉ nói sắc căn, và căn y xứ, là có chấp thọ, mạng căn, đồng phần chẳng phải năng sở thọ cũng không nói là năng chấp thọ, nên nay riêng nói sắc căn chẳng phải chấp là ngăn phá Kinh bộ, bất tương ưng hành là ngăn Tát-bà-đa.

Lại giải thích văn này thông ngăn hai bộ, chỉ là chẳng phải chánh phá, đều không có lỗi.

Biện rằng: Sớ chỉ nói phá Kinh bộ, Hữu bộ mà không chánh nói, đây bèn vọng nói ra lỗi, lại giả sử chánh nói, lý nào có lỗi, do sư Kinh bộ thừa nhận sắc căn trì chủng thọ huân, sắc căn v.v… đối với luận gọi là chánh, không nói tha thừa nhận sắc căn chấp thọ, đối với luận gọi là chánh, trong Hữu bộ chuẩn theo đây. Lại nói ngăn chung cũng là không thể, việc của bất tương hành trì chủng hai bộ không sai khác, sao lại giả ngăn hết? Lời nói vô nghĩa sợ phiền bút nghiên.

Sớ: Thân cúi ngước.

Ngước là ngửa lên, cúi là gập xuống.

Sớ: “Dụ này có lỗi” đến “chẳng phải thức năng trì”.

Hỏi: Dụ làm sao có lỗi?

Đáp: Sở lập không thành, y luận lượng rằng: Dị thục thức là tông Hữu pháp, có thể lập thành trì thọ, noãn thức là pháp, cũng như thọ, noãn là dụ của nó, nhân pháp có thể biết. Trên dụ thọ, noãn không có pháp có thể trì thọ noãn thức, do thọ noãn ấy mà thể không phải trì thọ noãn thức nên thành lỗi. Trong sớ giải thích, do thọ noãn chẳng phải trì thọ noãn thức.

Sớ: “Trước ta đã nói” đến “dùng noãn làm lý”.

Trước nếu ta nói chuyển thức không khắp mà không năng trì, ông có thể nêu noãn không khắp làm ví dụ, mà chỉ nói chuyển thức gián đoạn không trì, đâu được dùng noãn không khắp làm ví dụ.

Sớ: “Đây cũng không đúng” đến “và chẳng phải Vô lậu”.

Ý người ngpài vặn hỏi, nếu thức thọ noãn đều năng trì, vặn hỏi thức đồng, còn lại không thông ba tánh, và ở Vô lậu cũng nên thọ noãn, đều năng trì, noãn đồng với thọ, noãn không phải noãn, noãn tuy năng trì không đồng với thọ, mà được gọi là noãn, thức tuy năng trì không còn hai mà thông ba tánh và với Vô lậu.

Sớ: “Ý này không đúng” đến “nêu bày thành lỗi”.

Ý giải thích này nói: Ý vặn hỏi trước là không thể Vô lậu năng trì Hữu lậu, còn hai pháp năng trì pháp Hữu lậu, đã là Hữu lậu thức lẽ ra đồng với Vô lậu. Vặn hỏi ba tánh ý nghĩa cũng đồng với trước, lẽ nào có thể đem các vặn hỏi ba tánh, nương vặn hỏi thọ v.v… tất cả hợp đồng.

Sớ: Nếu không trì thì liền mất hoại.

Chủng nếu không có hiện thức trì, tức lại mất hoại.

Sớ: Tâm mê mờ ám muội tánh yếu kém.

Có nghĩa vị vô tâm này tại sao mê mờ yếu kém? Giải thích rằng: Tức ở vị trước, thân tâm hôn muội nên niệm sau các tâm không hiện hành, sở nhân ở đây nói chẳng phải vô tâm vị, nhưng lập nhân này lẽ ra nói thân tâm rất mê mờ, nếu không như vậy thì bất định, có tâm thùy miên cũng mê mờ.

Biện rằng: Chẳng phải không có nghĩa ấy, nhưng đối với hữu tâm nói vị thù thắng, vô tâm tâm gọi là mê mờ yếu kém. Yếu kém nghĩa là không có sức lực, không sinh hiện hành, như nói mặt trời lặn gọi là tối tăm, lý cũng đâu có lỗi. Nếu nói niệm sau mới vô tâm, dụ thiếu năng lập, trong văn đã nói khi cực muộn tuyệt, cực nghĩa là thông ở trên, văn phương tiện khéo léo, không phiền nêu ra.

Sớ: Văn này có thể như vậy vì nói không khác.

Văn Duy thức này mong giải thích thứ nhất, lý có thể như vậy. Nói không khác là giải thích có thể đúng lý, tức luận này nói nghĩa là khi sinh khi tử hiển bày không có chuyển thức, nhưng có sớ bản nói tông không khác, chữ tông là nhầm, lẽ ra phải là chữ “nói” mới đúng.

Sớ: Tức dùng văn này chứng minh có Thức thứ sáu.

Đối Pháp luận lấy văn của tâm Vô ký mạng chung mà làm chứng. Hoặc có thể, do đây làm dẫn kinh mà làm chứng. Kinh ghi: Sinh tử ắt trụ tán tâm, nói tán tâm mà gọi là Thức thứ sáu, nếu không như vậy thì Thức thứ tám vốn có, nhọc gì nói lại? Thuyết trước là chính, thuận với văn sớ. Nếu giải thích riêng thì giải thích sau cũng không trái.

Sớ: “Kế là Nan-đà” đến “tiếng khen ngày nay”.

Đây nói tin nó là nhân làm người mê muội. Đối chư hiền ở trên nên gọi là “kế đến”.

Sớ: Không thức để trù tính v.v…

Đây bèn sinh ở sau, người tin dị thuyết của Đại thừa, hoặc Nanđà v.v… ở sau nói chung là tin dị thuyết Đại thừa, giải thích trước là chính.

Sớ: “Vô tâm riêng khởi” đến “ắt phải như vậy”.

Thân sơ hợp nói không lìa ba nhân, như các duyên nghe giáo đối với trần, tức sơ y ba, thân có thể biết.

Sớ nói: “Nếu họ ngầm nói” đến “không có tán ý”.

Tức ý này chống chế rằng, Thức thứ tám thọ sinh rồi không khởi tán ý, kế đến Thức thứ sau liền khởi định tâm, định tâm đã có, ý lại được sinh.

Sớ: Hoặc sinh đắc thiện dẫn sinh mới khởi.

Hỏi: Sinh đắc thiện này lẽ nào chẳng phải tư v.v… cần gì nói riêng?

Đáp: Sinh đắc nhân tu, tư v.v… Gia hạnh làm sao được đồng? Lại có rộng hẹp sai khác, sinh đắc thiện tâm thông ở trong ba cõi, tư v.v…

không biến khắp.

Sớ: Tức lấy nhân của ông trở lại phá ông.

Họ nói ý thức hành, duyên khó hiểu, nay lấy nghĩa của họ vặn hỏi phá sở chấp kia, mà chẳng phải ý thức.

Luận: Lẽ ra biết tức là Thức thứ tám này.

Nhiếp luận của Vô Trước có ba nhân để phá, luận này chỉ có một. Quyển 3 của luận ấy ghi: Lại tức cùng với thức hòa hợp là tánh ý thức không hợp lý, vì y nhiễm ô, lúc bấy giờ không đoạn, ý thức sở duyên không thể được.

Vô tánh giải thích rằng: Y nhiễm ô là do lập tông môn, ý nói cùng pháp ấy tự tướng trái nhau, nghĩa là cộng quyết định nên có ba giải thích:

1. Y nhiễm ô mà lập tông pháp, nay dùng làm nhân cùng ý thức tông pháp Tiểu thừa, lỗi tác pháp tự tướng tương vi.

2. Đại thừa lập hòa hợp thức chẳng phải là ý làm tông pháp môn, Tiểu thừa sở lập là ý thức tánh làm pháp tự tướng y nhân nhiễm ô trái với tự tướng ấy.

3. Y nhiễm ô thật là nhân môn làm tông môn, do luận chủ lập trước hòa hợp thức, y nhiễm ô chỉ bày người ngoài, người ngoài tức thừa nhận lại không lập nhân, do sở lập này y tông môn nhiễm ô, cùng người ngoài ấy khởi lỗi ý thức tông pháp tự tướng tương vi, y chánh đạo lý, trước hòa hợp thức trên Hữu tông pháp có hai loại pháp: một là y nhiễm ô, hai là chẳng phải ý thức. Có chỗ nhiễm ô ắt có chẳng phải ý tông pháp tánh tùy theo, người ngoài tuy thừa nhận trước hòa hợp thức hằng y nhiễm ô, nhưng hòa hợp thức tức là ý thức, cũng như trên thanh có nhân sở tác, tông vô thường tùy theo tức cùng trên thanh pháp của thường tông tư tướng tương vi.

Hỏi: Nếu y nhiễm ô làm tông trong pháp lập lượng thế nào?

Đáp: Lập lượng rằng: Trước hòa hợp thức định y nhiễm ô, do năng chấp trì danh sắc v.v… cũng như mạng căn, đây do nhiễm ô ấy mà nói, mong ở luận chủ tự lập tức tông. Nếu mong phá tha tức là nhân.

Hỏi: Phá tha thì thế nào?

Đáp: Lập lượng rằng: Trước hòa hợp thức chẳng phải là ý thức, vì y nhiễm ô, cũng như mạng căn.

Biện rằng: Lý thứ hai thù thắng, do bản luận nói, lại tức cùng thức ấy hòa hợp là ý thức tánh không đúng đạo lý vì y nhiễm ô, nên biết y nhiễm chỉ gọi là nhân, tánh ý thức này không đúng lý chính là tông pháp. Nhưng giải thích ở văn, nói cũng chưa đủ, cho nên nay giải thích, do trước hai nhà lập tông pháp, rõ biết nhiễm ô cùng tông pháp của định tự tướng tương vi. Vì sao như vậy? Phàm nhân tương vi cùng tông pháp tương vi làm nhân. Nếu cũng không thấy hai pháp tông sai khác, nhân mong ở đâu gọi là tương vi? Do đây nên nói do lập tông mà nói. Lại nhân tương vi lập đối phương cùng thừa nhận, nếu không như vậy nhân ấy tức tùy theo một pháp để nhiếp, vì lựa chọn tùy theo một pháp nói cộng quyết định, nên Bản luận nói: Thức Yết-la-lam lại cùng hòa hợp như là ý thức. Đây là nêu lại tha tông. Lại nói, nếu hòa hợp thức này là tất cả chủng thức, tức A-lại-da thức, đây tức phá tha tự lập tông, nên biết Vô Tánh nói lập tông môn, không nói nhiễm ô là tông pháp. Lại trong Vô Tánh ghi: Như vậy khi kết sinh tướng tục, thức đối với tất cả xứ, chủng loại, thời phần đều y nhiễm ô, tức Trung hữu nhiếp hậu tâm làm y, tâm sở y này sinh cảnh Hữu vi, đối với tất cả xứ, chủng loại, thời phần là nhiễm ô, thức năng y chẳng phải là ý thức, do đây vượt qua pháp ý thức. Hoặc có thuyết nói, cùng bốn phiền não hằng tương ưng tâm gọi là y nhiễm ô.

Giải thích rằng: Khi mới thọ sinh cùng thức Yết-la-lam hòa hợp, đối với ba cõi, bốn loài chủng loại, ba đời thời phần đều nương nhiễm ô. Nói Trung hữu v.v… đây đưa ra thể sở y nhiễm ô.

Hỏi: Sinh Vô sắc giới đã không có Trung hữu tại sao làm y?

Đáp: Trong đây lại căn cứ sắc mà nói, nếu sinh Vô sắc lấy tâm mạng chung câu sinh ngã ái làm sở y xa, do nhân nhiễm này vượt qua sở lập ý thức tông pháp ấy, do ý thức đó chẳng phải Nhất thiết xứ, chủng loại, thời phần đều nương nhiễm ô. Nghĩa của các sư khác, văn có thể biết.

Hỏi: Vì sao ý của hai sư không đồng?

Đáp: Vô gián, câu hữu hai y không đồng, mỗi người chọn lấy một.

Hỏi: Đã là dị loại, sao gọi là vô gián?

Đáp: Đứng về tông Hộ Pháp tức là không thể, các sư khác không trái, như ở sau tự giải thích.

Thời vô gián, trong Vô Tánh giải thích do dị thục tánh khi vô gián đoạn, do đây cũng ngăn tánh ý thức này.

Giải thích rằng: Không chỉ nhân trước ngăn ý thức, đây cũng là ngăn. Nếu khi ý thức này có gián đoạn, trước hòa hợp thức tức không như vậy, nếu thức ban đầu có gián đoạn, lúc sau nếu khởi lẽ ra nên gọi là sinh lại, rộng như ở sau có dẫn.

Ý thức sở duyên không thể biết được, Vô Tánh giải thích rằng: Nghĩa này lại tăng thêm ngăn nhân ý thức. Nếu ý thức quyết định có thể được tự cảnh sở duyên, nghĩa là có thể liễu tri, như vị Trung hữu ý thức rốt sau đã tương tục tâm sở duyên cảnh giới không thể liễu tri, nên chẳng phải ý thức.

Giải thích rằng: Nhân ban đầu nhiễm ô, không đoạn nhân thứ hai, là thứ nhất tăng nên không thể biết là thứ hai tăng nên gọi là tăng thêm, vị hòa hợp đầu nếu là ý thức, tự cảnh sở duyên liền liễu tri, đã không thể biết thì rõ ràng vị thức ấy chẳng phải là ý thức. Văn luận chỉ bày pháp, suy nghĩ có thể biết.

Biện rằng: Xem bản luận, thích, lượng không có văn nói rõ, cho nên sớ chủ bỏ hai nhân trước chỉ vặn hỏi thẳng. Cổ đức lấy mạng căn ấy làm dụ mà lập lượng của nó, lượng như trước đã biện, dụ luận đã không có, không mượn làm lượng. Lại tự Thức thứ tám cũng không được thành, tha lượng phá rằng: Thức khi mới sinh chẳng phải là Thức thứ tám vì y nhiễm ô, cũng như mạng căn, kia đây đã đồng làm sao có thể sai lầm? Do đây nên biết vặn hỏi thẳng là hay. Hoặc có thể, làm lượng luận chỉ bày phương góc, sơ lược không nói dụ, tông ta mạng căn bất định khác Thức thứ tám, mạng căn của ông dụ sở lập không thành, do đây làm lượng lý cũng nên thông. Nghĩa đã nhiều đường mặc tình lấy bỏ, thời nhân không đoạn cũng có thể lấy mạng căn ấy làm dụ.

Sớ: Lại sở y này là chủng tử thức v.v…

Nhiếp luận của Vô Trước ghi: Lập hòa hợp thức tức là ý thức, vì ý thức này hòa hợp tức là tất cả chủng tử thức, làm y chỉ thức này chỗ sinh ý thức khác là tất cả chủng tử thức, nếu hòa hợp thức này là tất cả chủng tử thức, tức là A-lại-da thức, ông lấy tên khác lập làm ý thức.

Luận: Lại lúc sắp chết v.v…

Xét trong Nhiếp luận của Vô Trước ghi: Lại lúc sắp mất tạo thiện tạo ác, hoặc dưới hoặc trên sở y lạnh dần.

Vô Tánh giải thích: Nếu tạo thiện ác, tức đối phần dưới của thân ấy lạnh dần, nếu tạo thiện ác cùng với đây trái nhau.

Thiên Thân giải thích rằng: Do tạo thiện quyết định thăng lên, nếu tạo ác quyết định đọa xuống.

Giải thích rằng: Nêu tạo thiện ác sinh cõi trên cõi dưới, cho nên cảm giác lạnh trên dưới có khác.

Hỏi: Luận Du-già ghi: Chỗ thức gá đầu tiên gọi là nhục tâm, tức từ chỗ này sau cùng xả mạng, tại sao không đồng?

Đáp: Có hai giải thích:

1. Tướng bên ngoài lạnh, trên dưới không đồng, thức đối với chỗ tâm cùng trên dưới ấy đồng thời đốn xả.

2. Nếu người tạo thiện, từ dưới dần xả đến nhục tâm tạng, sau từ trên xả, người tạo ác thì trái lại, do nhục tâm thật sau cùng xả, trên dưới căn cứ tướng trước khi xả mạng, lý cũng không trái.

Hỏi: Chúng sinh chưa hẳn như vậy, kinh Tam Giới ghi: “Người khi lâm chung, sắp sinh địa ngục, thần thức từ chân xuất ra, sinh loài súc sinh là từ đầu gối xuất ra, đọa làm ngạ quỷ thì từ bụng xuất ra, sinh loài người thì từ tim xuất ra, sinh cõi trời từ mắt xuất ra, làm Thánh nhân từ đảnh đầu xuất ra”, cùng Du-già v.v… vì sao sai khác?

Đáp: Có thuyết nói, kinh đứng về tướng ngoài da, trong Nhiếp luận căn cứ ngoài da, trong Du-già thì căn cứ tâm tạng rốt sau xả.

Biện rằng: Chuẩn theo đâu được biết kinh y tướng bên ngoài? Luận nói xúc trên dưới bên ngoài cũng chẳng phải không có, tại sao Nhiếp luận chỉ có căn cứ trong da? Lại trong kinh nói tim, nào khác Du-già nói tâm tàng? Xác quyết chỉ có ngoài da, cho nên biết chỗ hiểu khó có thể nương chuẩn. Nay lại giải thích rằng: Kinh đứng về Thánh phàm mạnh yếu có phần sai khác mà chia ra xả tướng, lý thật tâm xứ tối hậu xả. Không căn cứ trong ngoài da sai khác, tướng thứ ba xả xuống, tướng thứ hai thăng lên, tướng thứ nhất là nơi chánh xả, đồng Du-già lên xuống dần, chỉ là kinh luận khai hợp có khác, nhưng nghĩa không trái.

Luận: Gá khắp trong thân.

Trong truyện có hai giải thích:

1. Hiển bày Thức thứ sáu tương tục gá khắp, chẳng phải như Thức thứ tám, nói hằng tương tục lẽ ra ở trong thuyết đầu, vì pháp vốn như vậy.

2. Đây nêu hành tướng Lại-da trái nhau, hiển Thức thứ sáu không có hành tướng này, cho nên không thể nương cảm giác lạnh dần khởi. Có nghĩa ngăn trong chuyển thức gồm có sáu nhân. Trong nhân thứ sáu, các bậc Cổ đức có hai giải thích, giải thích trước là chánh, phá bản sớ rằng, gặp cảnh liền duyên là nhân thứ năm, gặp nương liền dừng là nhân thứ tư, lìa nhân thứ tư, thứ năm tại sao lại nói riêng?

Biện rằng: Nếu giải thích thứ tư, thứ năm cùng thứ sáu đồng, có thể như đã vặn hỏi, giải thích đã có sai khác, nghĩa liền không đồng, nói sai khác có lỗi gì? Giả sử đồng thứ tư thứ năm, trước riêng sau chung, giải thích kết không đồng, lại cũng có lỗi gì? Nếu chuẩn theo các giải thích không đứng về nương cảnh, lại căn cứ lý nào mà nói gá nương khắp? Nếu căn cứ căn, cảnh, so với sớ nào có khác? Vì thích hay ghét khác nhau.

Sớ: Bảy ngày sau các thân thức sinh.

Hỏi: Năm, bảy ngày rồi mới gọi đủ căn, trước đó không có căn tại sao có thức?

Đáp: Năm, bảy ngày trở đi, năm căn đầy đủ, trước đó chưa đủ, có được thân căn, cho nên bảy ngày sau có được thân thức, không nói bảy ngày sau các thức thảy đều đủ.

Sớ: “Đồng thức lùi lại” đến “đều thuộc trong đây”.

Đồng thức lùi lại, đủ như trong Nghĩa Đăng. Lại có khác và đồng như trong kinh Pháp Hoa có giải thích. Không đoạn hoại v.v… xét Vô Tánh Nhiếp luận quyển 3 ghi: “Lại như trong kinh nói, A-nan-đà, hoặc nam hoặc nữ, thức nếu đoạn hoại diệt, danh sắc được tăng trưởng rộng lớn chăng? Không”. Thế Tôn đã nói như vậy, nay nếu muốn lìa A-lạida thức, lý không thể thành.

Giải thích rằng: Đã nói thức hoại danh sắc không tăng, rõ ràng là duyên thức ắt tương tục, thức tương tục là tức ngã Lại-da, các văn nghĩa này nay nghĩa của Chứng thứ bảy thâu nhiếp.