THÀNH DUY THỨC LUẬN DIỄN BÍ
Sa-môn Trí Châu soạn
Việt dịch: Linh Sơn Pháp Bảo Đại Tạng Kinh
Hội Văn Hóa Giáo Dục Linh Sơn Đài Bắc Xuất Bản

 

QUYỂN 7

(PHẦN ĐẦU)

Luận: “Vọng chấp này” đến “tự tánh sai biệt”

Hỏi: Trong pháp tự tánh sai biệt có thể biết, còn hai ngã thì thế nào?

Đáp: Chỉ chung là ngã gọi là tự tánh. Khắp thường đồng khác gọi là sai biệt, tức lìa uẩn v.v… đều chuẩn theo có thể biết, cũng tức Nhân Minh nói ngã là tự tánh sai biệt v.v…

Luận: Đều tợ hiện của sở thủ năng thủ.

Hỏi: Vì sao biết được tợ như năng thủ sở thủ đều gọi là chấp?

Đáp: Nhiếp luận của Vô Tánh quyển ghi: Y tha khởi nghĩa là y nghiệp, phiền não, sở thủ, năng thủ, Biến kế tùy niệm mà được khởi. Lại nói, như ở trước đã nói thân v.v… các thức sở thủ năng thủ hư vọng phân biệt an lập làm tánh.

Lại nói, thí như con nai do sức ái tự tương tục, an lập tợ như nước. Sở thủ năng thủ tánh tà biến kế phải biết đều gọi là y tha khởi tánh. Do đây nên biết có hai thủ đều gọi là chấp.

Hỏi: Hai tướng sở chấp là đồng thời hay không đồng thời?

Đáp: Nghĩa văn này là chung. Lý thật tùy tâm, khi chấp năng thủ có tướng năng thủ, sở thủ cũng vậy chẳng phải tất cả thời chấp hai thủ.

Luận: “Nói A-lại-da” đến “là sở duyên”.

Hỏi: Đây là nói muốn chứng gì?

Đáp: Có hai giải thích: Một là chứng năng huân, Hữu lậu bảy thức đều có chấp kia; hai là chứng chung thức tám thức, vì năng sinh nhân đều có chấp này.

Hỏi: Sư này, Thức thứ sáu thừa nhận có hai chấp, hay hai chấp đều không?

Đáp: Có hai giải thích: một là giống như Hộ Pháp, hai là không thừa nhận. Như ngã của Thức thứ bảy không có pháp chấp.

Luận: “Kế độ phân biệt năng biến kế”

Đây đồng với Nhiếp luận của Vô Trước nói. Vô Tánh giải thích rằng: Phải biết ý thức là năng biến kế vì có phân biệt. Do có hiển bày, tùy niệm phân biệt lẫn lộn.

Giải thích: Lẫn lộn tức là nghĩa tương ưng câu khởi. Ý thức do cùng với hai thứ phân biệt chung nên có thể phân biệt, ý nói đây là tên khác của kế độ, còn gọi là tư trạch.

Luận: Dùng tự danh ngôn huân tập làm chủng tử.

Từ vô thỉ sinh tử đã có ý thức hý luận danh ngôn huân tập chủng tử làm sinh nhân này.

Giải thích: Hiển tự kiến phần sở huân chủng tử này là tự hiện hành thể thân sinh nhân.

Luận: Và dùng tất cả thức danh ngôn huân tập chủng tử.

Nghĩa là vô biên sắc v.v… ảnh hiện danh ngôn của thức huân tập chủng tử làm nhân vì giống như kia sinh. Vì thế cho nên tất cả vô biên hình tướng phân biệt mà chuyển.

Giải thích: Duyên mười tám giới và thức khác v.v… trong tướng phần huân thành chủng tử, gọi chung là dụng tha. Do ý thức kia giống như tất cả sinh, vì thế có vô biên hình tướng chuyển, chẳng phải do năm thức, tám thức mà có điều này.

Luận: “Người chấp ngã pháp nhất định cho là tuệ”

Hỏi: Hộ Pháp nói năm thức được cùng với tuệ chung. Nay vặn hỏi khác lẽ nào không tự trái sao?

Đáp: Có hai giải thích: Một là năm thức không thắng tuệ cho nên yếu kém không thể chấp, hai là nhân này chỉ vặn hỏi thứ Thức thứ tám.

Biện rằng: Phàm có chấp thì quyết có tuệ chung, không nói có tuệ đều là chấp kia. Do Hữu lậu tâm kia đều chấp trước. Vì thế dùng không tuệ mà vặn hỏi có. Cho nên hai giải thích chưa phải là giải thích khéo, nhưng không lìa vặn hỏi, suy nghĩ có thể biết.

Sớ: “Chuẩn theo luận Nhị Thập Duy Thức giải thích” đến “cũng có pháp chấp”.

Nhị Thập Duy Thức nói Tha tâm trí thông Hữu lậu và Vô lậu. Giải thích Vô lậu Tha tâm trí có ba nghĩa. Sư thứ nhất giải thích Vô lậu Tha tâm trí của Bồ-tát thể cũng có pháp chấp. Luận nói không biết như Phật trí, rõ ràng nói biết có chấp, không biết tức là nghĩa vô tri. Do vô tri kia dụ như chưa đoạn nên che lấp tâm nên không bằng Phật.

Sớ: Nghĩa bài kệ của An-đà-sư.

Xét kinh kia ghi: “Như vô minh và các kiến chấp là một tướng

thì lẽ ra không có ràng buộc và giải thoát, phàm và thánh không hai, vì sao? Vì phiền não đồng một thể tướng. Vì sao vậy? Vì cùng một tâm sinh diệt, một thời không sai không khác. Này Phật tử! Nếu được ràng buộc và giải thoát một tướng thì bốn đại có thể là một, sáu vị lẽ ra không khác, mà trái lại rất khác nhau cho nên ràng buộc và giải thoát cũng vậy. Này Phật tử! Tất cả Bồ-tát khi còn phàm phu đầy đủ tất cả kiết sử, nhưng khi đoạn thì phần thô đoạn trước phần tế trừ sau. Nếu tâm phiền não là một thì không thể sáng tối có hai. Này Phật tử! Lại lấy gần để so sánh xa. Trong tâm thiện của phàm còn không đâu không thiện, huống gì trong tâm vô tướng mà có vô minh. Này Phật tử! Nói thiện và ác một tâm. Đây là trong nước của vua Bình Sa có bài kệ của ngoại đạo An-đà-sư rằng: “Sáng tối một tướng, hiện ác một tâm”.

Luận: “Thức phẩm tuy hai” đến “nên nói kia kia”.

Đây phân biệt giống như sớ đã nói. Luận cũng nói rộng nên ở đây không thể chép đủ. Nay tùy theo chỗ cốt yếu mà sơ lược. Hai biến kế trong quyển 3, xét luận kia ghi: Vô sai biệt nghĩa là Biến kế tất cả tên gọi của tất cả pháp. Hữu sai biệt nghĩa là biến kế, tên này là sắc v.v… các pháp, mỗi mỗi đều có tên khác.

Giải thích: Tổng chấp các tên là thật có nên gọi là vô sai biệt. Lại Gia hạnh chấp gồm:

Một là Gia hạnh chấp lại có năm tên: tham, sân, hợp hội, biệt ly và xả.

Giải thích: Do Gia hạnh này mà khởi chấp, tham sân như thứ lớp làm biệt ly và hợp hội hai Gia hạnh.

Hai là tên gọi thi thiết chấp lại có hai: không văn tự và có văn tự sở tác. Không văn tự sở tác nghĩa là chấp đây là vật gì? Thế nào là vật này? Vật này vì sao gọi là vật này? Văn tự sở tác nghĩa là chấp đây là vật này, vật này như thế này. Đó là năm uẩn, ba tánh, Hữu vi, Vô vi v.v… đồng vơi luận Hiển Dương.

Lại phân biệt tự thể, nghĩa là trong tám thứ phân biệt, nay nói tương nhiếp. Lại tùy giác v.v… giải thích rằng, như hiện và chủng là năng biến kế cảnh tâm sở chấp. Lại xét quyển 3, chấp tự tướng v.v… bốn thứ sai biệt, nghĩa là chấp ba khoa tự tánh các pháp gọi là chấp tự tánh. Đó là chấp sắc v.v… tất cả các pháp, có kiến vô kiến, Hữu lậu Vô lậu v.v… tất cả đạo lý sai biệt gọi là chấp sai biệt. Chấp sắc v.v… tất cả các pháp đây kia đều ba cõi ba tánh, Hữu lậu, Vô lậu v.v… tâm và tâm sở thủ gọi là chấp sở thủ. Chấp sắc v.v… năng thủ các sắc, và chấp tâm vương tâm sở năng thủ các pháp gọi là chấp năng thủ.

Lại y theo tên chấp nghĩa, xét Nhiếp luận của Vô Tánh quyển 5 ghi:

1. Y tên biến kế nghĩa tự tánh: Nghĩa là tên như vậy có nghĩa như vậy.

2. Y nghĩa biến kế tên tự tánh: Nghĩa là nghĩa như vậy có tên như vậy.

3. Y tên biến kế tên tự tánh: Nghĩa là biến kế độ tên chưa hiểu nghĩa.

Giải thích: Nghĩa là rõ được tên kia, chưa rõ được việc kia, chấp tên cho là thật. Vì thế luận Du-già ghi: sự bất liễu sắc phân biệt tên sắc.

4. Y nghĩa biến kế nghĩa tự tánh: Nghĩa là biến kế độ chưa rõ tên nghĩa.

5. Y hai biến kế hai tự tánh: Nghĩa là biến kế độ tên này nghĩa này như thể tánh này.

Lại xét quyển 3, biến kế nghĩa tự tánh v.v… năm thứ sai biệt:

1. Nghĩa tự tánh: có bốn sai biệt, tức trước dẫn biến kế năng thủ, sở thủ v.v… bốn loại.

2. Danh tự tánh: Tức trước dẫn sai biệt và vô sai biệt hai tên.

3. Nhiễm tự tánh: Chấp sắc này có tham, sân, si là không thể xa lìa sự ràng buộc của tham, sân, si. Lại cùng với tất cả pháp thiện không tương ưng, chấp các uẩn v.v… cũng như vậy.

4. Tịnh tự tánh: Trái với nhiễm tự tánh, nên biết.

5. Phi nhiễm tịnh: Chỉ chấp các pháp là năng sở thủ.

Lại trong Hiển Dương quyển 1, Gia hạnh thứ năm tức hai thứ Gia hạnh trước vậy. Gia hạnh thứ sáu không có văn, cũng giống hai thứ trước, vì thế không dẫn lại.

Xét luận Du-già quyển 3 nói tám thứ phân biệt. Phân biệt các thứ tự tánh của sắc v.v… gọi là Tự tánh phân biệt. Phân biệt sắc v.v… có kiến chấp không kiến chấp, ba tánh ba cõi ba đời đối với tất cả đạo lý, gọi là Sai biệt phân biệt. Tổng chấp tất cả tình cùng vô tình, các pháp giả và thật, nhân đó khởi phân biệt, gọi là Tổng chấp phân biệt. Y năm uẩn v.v… mà chấp là ngã và ngã sở, gọi là hai loại Ngã phân biệt và Ngã sở phân biệt. Duyên các tịnh diệu và cảnh vừa ý mà sinh phân biệt gọi là Ái phân biệt. Duyên pháp bất tịnh và cảnh không vừa ý mà khởi phân biệt gọi là Phi ái phân biệt. Duyên pháp tịnh và bất tịnh và lìa cảnh vừa ý không vừa ý mà sinh phân biệt gọi là Câu tương vi phân biệt.

Sinh có ba sự: Ba pháp phân biệt sinh sự thứ nhất, hai thứ phân biệt kế đến là sinh sự thứ hai, ba thứ phân biệt sau là sinh sự thứ ba.

Lại trong Nhiếp luận v.v… nói mười thứ phân biệt.

Giải thích: Mười thứ phân biệt là năng phân biệt. Mười thứ luận Đối Pháp là năng phân biệt và sở phân biệt đều gọi là phân biệt. Như phần sao của luận kia tổng hợp.

Xét luận Vô Tánh ghi: A-lại-da là phân biệt căn bản. Tự tánh cũng là phân biệt cho nên gọi là căn bản. Duyên tướng phân biệt là phân biệt sắc v.v… có tướng như vậy. Hiển tướng phân biệt, nghĩa là nhãn thức v.v… cùng sở y thức hiển hiện dường như tướng sở duyên kia. Giải thích: Các thức như nhãn v.v… đều lấy ý thức.

Sở y thức là Mạt-na, tức sáu chuyển thức có thể hiện dường như tướng sở duyên kia gọi là hiện tướng. Duyên tướng biến đổi phân biệt, nghĩa là tợ sắc v.v… ảnh thức biến đổi mà khởi phân biệt.

Giải thích: Tức tướng sở duyên mà có biến đổi. Năng duyên phân biệt từ nó lập tên, nghĩa là già bệnh ba thứ thọ, tham sân si v.v… làm duyên biến đổi, khiến cho thần sắc kia có sự biến đổi. Thể biến đổi tức là sắc thân v.v… như nói vui vẻ nên mặt đoan nghiêm. Hiển tướng biến đổi phân biệt, nghĩa là do nhãn v.v… làm sở y căn, khiến cho ảnh tượng của sắc v.v… hiển hiện. Các thức như nhãn v.v… có vô số biến đổi, tức đối trong này khởi các phân biệt, tức như trước đã nói lão v.v… biến đổi.

Giải thích: Do sở y căn thân biến đổi khiến thức năng y cũng có biến đổi. Nêu hiển hiện cảnh sắc của năm trần, ý lấy thức năng duyên phân biệt, nghĩa là lão v.v… là hiển duyên biến đổi giống như trước, còn lại như sớ dẫn, văn có thể biết.

Lại trong Nhiếp luận có mười thứ tán động:

  1. Không tướng
  2. Có tướng
  3. Tăng ích
  4. Tổn giảm
  5. Một tánh
  6. Dị tánh
  7. Tự tánh
  8. Sai biệt
  9. Như tên lấy nghĩ
  10. Như nghĩa lấy tên

Vì đối trị mười thứ tán động này, nên trong tất cả Bát-nhã Ba-lamật-đa nói trí vô phân biệt.

Giải thích: Tán động tức là tên khác của phân biệt.

Lại luận Đối Pháp quyển 12 nói kiến vô kiến mười loại, đây tức trong hai mươi tám kiến thâu nhiếp, cho nên nay không dẫn.

Lại trong quyển có mười thứ tướng, trừ ra mười tám thứ Không, luận kia nói rất rộng, nay dẫn tóm tắt, có mười thứ tướng Không, có thể trừ bỏ.

1. Liễu tri pháp nghĩa có tướng văn tự, tất cả pháp Không, có thể trừ bỏ.

2. Liễu an lập Chân như nghĩa, cho nên có các tướng sinh diệt tương tục chuyển. Đây là do tướng Không và trước sau không, có thể trừ bỏ.

3. Liễu năng thủ có luyến tiếc thân và tướng ngã mạn. Đây là do nội Không và vô sở đắc Không, có thể từ bỏ.

4. Liễu sở thủ có tướng mến tiếc tài. Do ngoài Không, có thể trừ bỏ.

5. Thọ dụng nam nữ thừa sự và tự cụ tương ưng, trong có an lạc, ngoài tướng tịnh diệu. Do bản tánh trong ngoài Không, trừ bỏ.

6. Liễu kiến lập có lượng tướng, đại Không, trừ bỏ.

7. Liễu Vô sắc, trong có tướng vắng lặng giải thoát pháp Hữu vi Không, trừ bỏ.

8. Liễu tướng Chân như có hai tướng vô ngã nhân và pháp và tướng thức Thắng nghĩa rốt ráo vô tánh, tự tánh vô tánh và thắng nghĩa Không, trừ bỏ.

9. Liễu rõ Chân như thanh tịnh có tướng Vô vi, không có tướng biến đổi, Vô vi và không biến đổi cả hai Không, trừ bỏ.

10. Tức đối với nó đối trị tánh Không, tác ý tư duy tướng tánh Không. Đây là do không Không, trừ bỏ.

Lại mười hai thứ phân biệt, xét trong kinh Lăng-già quyển ghi:

1. Ưa đắm trước các thứ ngôn ngữ, âm thanh tốt đẹp gọi là Ngôn ngữ phân biệt.

2. Khởi tư duy như vầy, lẽ ra có tướng thật sự của pháp trước. Thánh nhân tu hành biết y theo pháp kia sinh ngôn ngữ gọi là Khả tri phân biệt.

3. Họ có thể biết trong cảnh giới, nóng, ướt, động chắc thứ thứ tướng, chấp cho là thật gọi là Tướng phân biệt.

4. Ưa thích vàng, bạc v.v… các thứ cảnh giới thật, gọi là Nghĩa phân biệt.

5. Chuyên nhớ nghĩ hình tướng tự thể của pháp. Pháp này như vậy, như vậy, không khác, không chánh kiến phân biệt gọi là Tự thể phân biệt.

6. Những gì là nhân, những gì là duyên, có nhân tướng vô liễu biệt sinh tưởng liễu biệt gọi là Nhân phân biệt.

7. Có, không, một, khác, câu, bất câu, tà kiến, ngoại đạo chấp trước phân biệt, gọi là Kiến phân biệt.

8. Lấy tướng ngã và ngã sở, nói pháp hư vọng gọi là Kiến lập phân biệt.

9. Y các duyên trong pháp có không, sinh tâm chấp trước gọi là Sinh phân biệt.

10. Tất cả pháp xưa nay không sinh, do vốn không nên y nhân duyên có mà không nhân quả, gọi là Vô sinh phân biệt.

11. Những gì là pháp hòa hợp như sợi tơ bằng vàng, những gì là pháp hòa hợp gọi là Hòa hợp phân biệt.

12. Ràng buộc do chấp trước như bị ràng buộc, như người phương tiện cột dây làm gút, cột rồi mở ra, gọi là Phược bất phược phân biệt.

Này Đại Tuệ! Đây gọi là tướng hư vọng phân biệt pháp thể sai khác.

Lại có mười sáu loại. Mười sáu thứ Không bị trừ bỏ, không đã có thể trừ, rõ ràng pháp bị trừ cũng như vậy, sở trừ tức là pháp phân biệt. Phần sau nói pháp sở trừ đều chuẩn theo đây mà biết.

Lại có hai mươi tám kiến. Xét luận Đối Pháp có nói đủ, nay lược nói:

1. Tướng kiến: Nghe Đại thừa mật ý không giáo, chấp trước các tướng vô tánh như vậy, này gọi là Tướng kiến, do đây liền phỉ báng Đức Phật nói ba tánh, bèn khởi:

2. Tổn giảm thi thiết kiến.

3. Tổn giảm phân biệt kiến.

4. Tổn giảm chân thật kiến.

Lại muốn thành lập tà kiến, nhiếp một ít đạo lý y theo kinh liễu nghĩa, phương tiện chuyển biến, khiến thuận theo ý kiến của mình. Do đó lại khởi:

5. Nhiếp thọ kiến.

6. Chuyển biến kiến.

Lại khởi chấp trước, hoặc y theo kiến này mà làm việc thiện và không thiện đều không có tội. Tất cả chướng cấu đều được xa lìa. Do đây lại khởi:

7. Vô tội kiến.

8. Xuất ly kiến.

Chấp kiến tự mình rồi đối với kinh Thanh văn và bậc Thanh văn khinh chê, tật đố. Lại khởi:

9. Khinh hủy kiến.

10. Phẫn phát kiến.

Lại thuận theo ác kiến của mình, điên đảo lập không vô tướng, vô nguyện. Lại nghĩ tự mình ngộ và giác ngộ cho người khác. Pháp tánh sở lập tất cả đều sinh vô lượng công đức lại khởi:

11. Điên đảo kiến.

12. Xuất sinh kiến.

Do đây, dùng lý trách sở lập, không lập tự tông và dùng cơ lộng vọng lý trách người khác, nên khởi:

13. Bất lập tông kiến.

14. Kiêu loạn kiến.

Lại khởi tâm kiêu mạn cho là tu như vậy, chân thật cúng dường cung kính chư Phật như vậy, đây tức là:

15. Kính sự kiến.

Lại người thông suốt kiến bỏ ác kiến dùng lý chân thật, phương tiện khai ngộ, cố chấp không xả tâm, cho rằng chỉ đây là chân còn lại đều là tà vọng. Đây là:

16. Kiên cố ngu si kiến.

Trên đã nói tập khí thô trọng của kiến chấp, đây gọi là:

17. Căn bản kiến.

18. Kiến và vô kiến kiến, tức tướng kiến trước. Đây thật có chấp các tướng vô tánh mà khởi tưởng không chấp tất cả tướng.

19. Xả phương tiện kiến: tức ba kiến trước là tổn giảm, thi thiết, phân biệt và chân thật, kiêu mạn các pháp tánh đối với sự tinh tấn khởi tưởng vô dụng.

20. Bất xuất ly kiến: Tức hai kiến ở trước là nhiếp thọ và chuyển biến, không phương tiện tu và không chứng quả.

21. Chướng tăng ích kiến: Tức hai kiến trước là vô tội và xuất ly, sở hành tà ích không thừa nhận chướng ngại.

22. Sinh tội phước kiến: Tức từ hai kiến khinh hủy và phẫn phát, do đối với chánh pháp đồng phạm hành khởi môn tà hành liền phát sự tổn giảm.

23. Vô công quả kiến: Tức hai kiến điên đảo và xuất sinh lập pháp không có không có người trao, không có người nhận, đều không thể chứng quả thắng tấn.

24. Thọ nhục kiến: Tức từ hai kiến bất lập tông và kiêu loạn, không đúng lý khởi luận không được thù thắng.

25. Phỉ báng kiến: Tức từ kính sự kiến không nên nói tăng ích mạnh.

26. Bất khả dữ ngôn kiến: Tức kiên cố ngu si kiến. Người tà chấp không không nên cùng nói, vì cùng nói không có ích.

27. Quảng đại kiến: Tức căn bản kiến nói ở trước, do đây có kiến đời sau tăng nhiều.

28. Tăng thượng mạn kiến: Hai mươi bảy kiến trước đều gọi là tăng thượng, đều có thể phát khởi hư vọng, không có thật tăng thượng mạn.

Luận: Nhiếp Đại Thừa nói y tha khởi.

Luận kia ghi: Như Biến kế sở chấp tự tánh mà nương theo y tha khởi thì thật không có, dường như nghĩa hiển hiện. Lại nói y tha khởi tự tánh gọi là sở Biến kế.

Sớ: Nếu không đối tâm, vì sao lại phải biết.

Hỏi: Nói phải biết là giáo pháp gì để chứng?

Đáp: Luận Du-già quyển ghi: Hỏi: Ba thứ tự tánh có bao nhiêu loại biết khắp? Đáp: Có tất cả, vì thế biết biến kế cũng là pháp sở tri.

Luận: “Các Thánh giáo nói” đến “biến sở chấp”.

Xét tân Trung Biên luận tụng rằng: “Không có hai có không, không có cũng chẳng không, không khác cũng chẳng một, đây nói là không tướng”. Trường hàng giải thích rằng: không hai nghĩa là không sở thủ và không năng thủ. Có không nghĩa là có không của hai thủ. Đây tức là hiển không vô tánh tức là tánh.

Giải thích: Hai thủ không tánh gọi là vô tánh. Tánh này chẳng không nên gọi là có không.

Luận: Vì sao chẳng phải có, không hai có.

Giải thích: Vọng chấp năng thủ sở thủ là có, không có hai vọng chấp kia là không hai có.

Luận: Vì sao chẳng phải không, vì có hai không.

Giải thích: Hai lý thể của vô ngã không đâu chẳng không, nên gọi là có hai không. Không của luận này cùng với hư vọng phân biệt kia không khác, không đồng. Nếu khác thì lẽ ra thành pháp tánh, khác với pháp, liền trái với chánh lý, như khổ v.v… các tánh. Nếu đồng thì lẽ ra không có tịnh trí cảnh, cũng không có cộng tướng.

Giải thích: Khác không nên nói hai Không tánh, nghĩa là các pháp

tánh này cùng với pháp khác. Nếu đồng không nên nói hai Không lý là cảnh vô phân biệt tịnh trí cùng với sự là một.

Sớ: Kiến phần và tướng phần đều có vô số hình tướng.

Xét trong Nhiếp luận quyển , Vô Tánh giải thích rằng: Trong một thức, một phần biến dịch dường như tướng phần sở thủ, một phần biến dịch dường như kiến phần năng thủ. Hai phần này đều có vô số hình tướng sai biệt đồng thời khởi. Nếu không thừa nhận một thức cùng một lúc có các biết các thứ tướng sai biệt, lẽ ra không có cùng một lúc biết nhiều cảnh.

Luận: Mười một thức.

Đầy đủ như trong sớ đã nêu. Nay bèn vặn hỏi giải thích. Thân thức là A-lại-da, năm thức thân sở y gọi là thân, nếu như vậy thì Thức thứ sáu cũng y Thức thứ tám vì sao chỉ nói có năm? Đã có ngăn ngại này, nên liền giải thích Thức thứ tám chấp năm căn năm thức mới khởi. Năm căn gọi là thân chấp thân là thức, gọi thân là thức. Thức thứ sáu không nêu. Luận của Thiên Thân cho rằng nhiễm Mạt-na là thân, nghĩa là thức. Thọ và thức gọi là Mạt-na. Do vì Thức thứ sáu không cùng nương. Năm thức không nêu, thức của thọ giả gọi là thọ giả thức.

Hỏi: Vì sao không lấy sáu vô gián diệt ý là hai ba?

Đáp: Vì lìa sáu có thể thọ thức không khác, nên không lấy.

Sớ: “Trong này đã nói” đến “y tha khởi”.

Trong mười một thứ này, năm là tướng phần. Kia nói mười một đều y tha khởi, vì thế biết tướng phần không phải là Biến kế sở chấp.

Hỏi: Thế, số hai thứ vì sao không phải tướng phần? Vì sao luận kia nói vì ba thời toán số mà ảnh hiện?

Đáp: Nếu luận ảnh tượng thật như sở trách. Sớ căn cứ theo bản kia, cũng chỉ là cảnh tướng, nên chỉ nói năm. Như năm căn v.v… đều là tướng phần của Thức thứ tám, các đường thiện ác thể thật chỉ là báo thức. Thông năng thủ sở thủ tư cụ v.v… mà luận, cho nên các đường cũng là tướng. Thế và số không nêu, suy nghĩ có thể biết.

Sớ: Nếu không như vậy thì văn đây là nghĩa đuổi theo tha, không gọi là cực thành.

Nếu vặn hỏi hai phần khác không có tự thể thì lẽ ra không huân chủng. Đây không vặn hỏi như vậy. An Tuệ nói huân chủng không cần có tự thể. Hộ Pháp nay dùng nghĩa tự bức bách tha, không phải là nghĩa cực thành của hai nhà.

Sớ: Nhưng chẳng phải tướng phần.

Tuy tự chứng duyên chủng thể, nhưng không phải trong tướng

phần nhiếp, do đó như trong Nghĩa Đăng. Sớ trước sau nói tướng phần là do nghĩa của Hộ Pháp mà giải thích là tha.

Sớ: Thế nào là duyên tự chứng.

Tự duyên là hiện lượng, duyên chủng là Phi lượng.

Sớ: Giải thích hai câu là hai.

Biến kế và Y tha là hai câu. Hoặc tụng Y tha chỉ có hai câu, văn của khoa đầu ở trước có hai nghĩa: Một là do ba tánh riêng nêu có là ba, hai là do ba tánh chung nên phân làm hai. Biến kế và y tha hợp thành một. Do hai tánh này cần phải tương đối phân biệt.

Sớ: “Nếu là tánh ban đầu” đến “sư trước tổng kết”.

Y theo hai phần khoa, đây tức là đầu tiên do Nan-đà kết.

Hỏi: Nói sở biến kế, trong văn của Hộ Pháp nói rõ bốn. Kết thứ tư chính là văn này, vì sao nay nói là sư trước kết?

Đáp: Do Ngài Nan-đà, hai phần y tha kết văn thuận theo kia, không nói tự chứng phần và chứng tự chứng phần, có một ít giống như Hộ Pháp, ẩn từ tha nói rằng sư trước kết. Trước hiện tự nghĩa nói rằng bốn kết chính cho nên không trái nhau. Hoặc chữ “trước” là viết nhầm, lẽ ra là chữ “sau”, hiển rõ văn kết này không phải của An Tuệ. Đã thông hai nghĩa thì chắc là từ nhiều bản.

Luận: Lựa chọn tự cộng tướng hư không ngã.

Có nghĩa sớ nói cộng tướng như trong Nhân Minh nói, không có thể tánh riêng biệt, nên không thể nói thường, vì thế thường là lựa chọn. Nay giải thích y theo kinh Phật Địa nói khổ và vô thường v.v… Có nghĩa cộng tướng nên có thể gọi là biến. Do vì sinh diệt nên không gọi là thành tựu. Lại kinh Phật Địa nói cộng tướng chỉ ngăn mà không biểu lộ, khổ vô thường v.v… có đủ ngăn che và biểu lộ. Trước vô tánh nên sau sinh diệt, vì thế không thể thường, đều là ngăn lựa chọn.

Biện rằng: Sớ không có văn phán định, y theo Nhân Minh không y theo kinh Phật Địa, nhưng nói quán tâm cộng tướng vô thể. Vả lại luận nói không và vô ngã là hai khổ, vô tướng là ba. Luận nói “vân vân”, sớ không giải thích tùy luận tỉnh lược, chẳng phải không thừa nhận kia cũng là sở lựa chọn, thông lựa chọn cộng tướng mà kinh luận nói. Nếu nói chỉ có lựa chọn thì kinh nói cộng tướng. Luận nói cộng tướng, vì sao ý không lựa chọn? Há luận nói cộng tướng không phải là sở lựa chọn ư? Nếu không phải sở lựa chọn thường, lựa chọn cộng tướng có lỗi không cùng tận, vì thế sớ không trái, có nghĩa không đủ.

Sớ: Như sở biến kế không có như vậy.

Đây là dẫn tóm lược, nên nói như sở Biến kế rốt ráo không có như vậy.

Giải thích: Tục có vọng tình chấp có này hằng không gọi là Viên thành thật.

Sớ: Đây cùng với Thế Thân ở trước khác.

Trước hiển tâm năng sinh, năng biến kế, gọi là biến kế. Đây cùng với Biến kế sở chấp làm y gọi là Biến kế.

Sớ: “Lại y tha khởi” đến “gọi là Biến kế sở chấp”.

Đây cùng với giải thích sau của Thế Thân đồng.

Sớ: Kia gọi là Biến kế sở chấp.

Kia là Vô Tánh.

Hỏi: Chuẩn theo hai vị Bồ-tát cho rằng y theo y tha giả gọi là Biến kế, mà nói là không khác để giải thích bản luận. Nếu không giả nói hai tánh tướng mong nhau mà giải thích thì luận của Vô Trước có không lìa chăng?

Đáp: Lý cũng có thể thành. Nhưng bản luận nói do tướng Biến kế sở duyên này.

Giải thích: Do y tha khởi có thể khởi tâm, năng Biến kế thứ sáu mới chấp lìa thức thật có ngã pháp v.v… Nếu không có cảnh y tha này thì năng Biến kế không khởi. Năng Biến kế không khởi thì vì sao có tánh sở chấp Biến kế ư? Do hai tánh này, cho nên không khác, cũng giống như đối với sợi dây mới khởi sự biết là con rắn. Còn lại chuẩn theo đây có thể biết.

Luận: Dụ như huyễn sự không có mà dường như có.

Bản luận của Vô Trước nói những thí dụ này, đầy đủ như trong sớ đã nêu. Vô Tánh giải thích luận, nay ở đây sẽ dẫn.

Luận: Dụ về huyễn sự, như không có voi mà voi huyễn sở duyên cảnh giới. Tánh y tha khởi cũng như vậy. Tuy có sắc v.v… duyên sáu xứ, khi Biến kế độ tợ như có sáu xứ bị duyên hiển hiện.

Giải thích: Ngoài do trần v.v… tám thứ cho là thật có. Trong dùng tám dụ ngược lại kia là hư vọng, lẽ ra có tám lượng.

1. Sắc v.v… sáu trần không phải là thật có, hiển hiện rõ ràng là cảnh kế độ, dụ như voi huyễn. Chân như không có cảnh sở hành của Kế độ hiển hiện. Vì thế là Dị phẩm, vì không phải là Năng Biến kế và sở biến kế, nên không có bất định.

2. Như sóng nắng khi bị gió động, thật không có nước mà có cảm giác như có nước. Ngoại khí thế gian cũng như vậy. Lượng rằng: Ngoại khí thế gian hư dối không có thật có, năng sinh chấp thật có tâm vương và tâm sở, dụ như sóng nắng. Chân như không có dị chấp sinh y, vì thế không có bất định.

3. Lại như trong mộng ngủ say khởi tâm, tâm sở tụ cực thành muội lược. Tuy không có người nữ v.v… các cảnh nghĩa mà có cảnh giới ái phi ái thọ dụng, khi thức cũng vậy. Lượng rằng: Trong mộng không có cảnh ái và phi ái, hư giả không có thật có, vì đây là chỗ thọ của tâm thương ghét, dụ như giấc mộng.

4. Lại như ảnh tượng trong gương v.v… trở lại thấy bản chất mà nói ta nay riêng thấy ảnh tượng. Nhưng ảnh tượng này thật không có, chẳng phải đẳng dẫn địa thiện ác tư nghiệp bản chất làm duyên. Ảnh tưởng quả sinh cũng như vậy. Lượng rằng: Nghiệp của thiện ác hư giả chẳng phải thật có vì nương nhờ duyên mà hiện, dụ như ảnh tượng.

5. Lại như bóng sáng do bóng chiếu vào ánh sáng kia khởi các thứ hình ảnh. Trong Định đẳng địa các thức đối với nghĩa không có thật sai biệt mà chuyển.

Giải thích: Như trong ánh sáng thân múa động nhiều hình trạng. Bóng kia cũng vậy. Định ý phân biệt khởi các nghiệp chướng của thân vô sai biệt. Như thân trong ánh sáng kia nương theo thức khởi, vì thế nói thân kia gọi là chủng chủng thức. Hoặc hai cõi trên định tâm không phải một gọi là chủng chủng thức. Thức này dẫn nương gá, cảnh không có thật chuyển, nói tâm này là hư giả, y theo trước lượng rằng: Định khởi thân nghiệp hư dối không có thật có vì các thứ chuyển, dụ như bóng ánh sáng. Y theo sau lượng rằng: Định địa các thức hư dối chẳng phải thật có, nương vô số thứ khởi, như bóng ánh sáng vậy.

6. Lại như tiếng vang trong hang thật không có tiếng, nhưng người nghe giống như nghe nhiều cảnh giới ngôn ngữ, vô số ngôn ngữ. Ngữ nghiệp cũng vậy. Lượng rằng: Ngữ nghiệp không có thật vì nghe chỗ nghe, cũng như tiếng vang trong hang.

7. Như trăng trong nước, do tánh nước lắng trong, cho nên tuy không có mặt trăng mà mặt trăng có thể lấy. Duyên cảnh sở huân của cảnh thật nghĩa, lắng trong làm tánh, các Tam-ma-địa tương ưng, ý cũng như vậy, tuy không có cảnh giới sở duyên thật nghĩa mà dường như có chuyển. Đây cùng với ảnh tượng có gì sai khác, định bất định địa mà có sai khác.

Giải thích: Cảnh định có thể khiến thiện phẩm tương tục gọi là thật nghĩa. hoặc lựa cảnh Biến kế sở chấp cho đó là thật. Lượng rằng: Định cảnh sở hiện hư dối chẳng phải thật có, nương theo duyên lắng trong mà hiện, cũng như trăng trong nước.

8. Lại như biến hóa nương biến hóa này, gọi là biến hóa, tuy không có thật nhưng có thể biến hóa, nghĩa là không có điên đảo đối với việc bị biến hóa, riêng làm công dụng. Bồ-tát cũng vậy, tuy không Biến kế sở chấp hữu tình, nhưng đối y tha khởi các loài hữu tình. Do vì thương xót mà đến các chỗ sinh xứ kia nhiếp thọ tự thể.

Giải thích: Nghĩa là tức y theo tâm có thể biến hóa này khởi việc biến hóa. Hoặc y chỗ bị biến hóa khởi tâm biến hóa không có cảnh nghiệp sinh gọi là tuy không có thật. Lượng rằng: Bồ-tát thọ sinh hư giả không chân thật, không khởi tâm điên đảo, dụ như biến hóa.

Hỏi: Luận Trung Biên có bài tụng rằng: “Với bất động không đảo”, nghĩa là biết nghĩa chẳng có, chẳng không, như huyễn v.v… là dụ Biến kế sở chấp. Hai luận đã khác, đều có ý gì?

Đáp: Luận Trung Biên căn cứ các thể của huyễn sự kia và tâm năng chấp sở chấp, nước v.v… dụ chung hai tánh. Còn Nhiếp luận thì căn cứ sự nhưng đồng y tha, vì thế không trái nhau.

Luận: Lưu chuyển Chân như.

Văn của hai luận là luận này và luận Du-già không đồng nhau, như trong sớ tổng hợp. Có nghĩa Hữu vi có hai: Một là bốn nhân dời đổi nhau v.v… là sở vi, hai là phiền não sở vi. Nay nói Hữu vi là y theo nghĩa sau mà nói, cho nên Hữu vi chỉ nói duyên khởi. Thuyết này là thù thắng. Trong văn sau nhiếp vì hai tánh nhiếp. Nhưng Hiển Dương nói, đối với pháp nhiễm tịnh tư duy các hành lưu chuyển thật tánh. Căn cứ theo thế gian tịnh nên không trái nhau.

Biện rằng: Chẳng phải không có lý này. Nhưng sau nhiếp rằng: Tùy tướng nhiếp là lưu chuyển và khổ tập, hai tánh trước nhiếp. Đã nói tùy tướng, rõ ràng không trái lý. Căn cứ theo tăng mà bàn thì Hiển Dương lại nói đối với pháp nhiễm tịnh. Pháp tịnh không nói y thế gian tịnh. Do đây giáo lý và sớ nói không trái nhau. Lại sớ sau nói lưu chuyển chỉ đứng về Hữu lậu bàn về luận Du-già kia, rõ ràng là nói lưu chuyển.

Luận: Bốn đế an lập Chân như.

Hỏi: Bốn đế đều an lập, vì sao chỉ nói về khổ đế?

Đáp: Tuy nêu tên chung, nhưng do pháp riêng như sắc v.v… Lại bốn đế, đầu tiên từ tên chung mà gọi, còn ba đế sau từ riêng khác mà lập tên.

Luận: “Nghĩa là hoặc có chỗ” đến “không nhiếp năm sự” Xét luận Du-già quyển ghi:

Hỏi: Tự tánh đầu tiên trong năm pháp có bao nhiêu sở nhiếp?

Đáp: Đều không có sở nhiếp.

Hỏi: Tự tánh thứ hai có bao nhiêu sở nhiếp?

Đáp: Có bốn sở nhiếp.

Hỏi: Tự tánh thứ ba có bao nhiêu sở nhiếp?

Đáp: Có một sở nhiếp.

Luận: “Hoặc lại có chỗ” đến “Viên thành thật”.

Xét bài tụng luận Trung Biên ghi: “Là Biến kế sở chấp, tướng phân biệt y tha, Chân như và chánh trí, Viên thành thật sở nhiếp”.

Sớ: Nếu thể tướng nhiếp thành trái nhau.

Nếu theo Nhiếp luận thì danh nghĩa hai thể. Nhiếp thể danh nghĩa năm pháp thì liền thành trái nhau, vì sao? Vì trong năm pháp, nghĩa tức là tướng và phân biệt, còn thể tức là y tha. Nghĩa kia là tánh đầu tiên, do không nhiếp có, nay nói có nhiếp, lẽ nào không trái nhau sao?

Sớ: “Luận Trung Biên cho ba tánh cùng với mười Chân như nhiếp nhau”.

Luận kia, phần thứ hai rộng nói nhiếp nhau, nay chỉ nêu tên lược phân biệt về ý của mỗi tên.

1. Căn bản chân thật: Y theo đây lập các Chân như khác, vì thế nương ba tánh lập.

2. Tướng chân thật: Đây đối trong tướng căn bản Chân như không điên đảo.

3. Vô điên đảo chân thật: Có thể đối trị, bốn thứ đảo, vô thường, khổ, không vô ngã.

4. Nhân quả chân thật: Nghĩa là bốn Thánh đế, vì nhiễm tịnh nhân quả có sai khác.

5. Thô tế chân thật: Nghĩa là thế tục và Thắng nghĩa có hai có sai khác.

6. Cực thành chân thật: Thế gian và đạo lý cả hai cực thành.

7. Tịnh trí sở hành chân thật: Tịnh trí sở hành của hai chướng phiền não và sở tri có khác.

8. Nhiếp thọ Chân như: Tức ba tánh và năm sự nhiếp nhau.

9. Sai biệt chân thật: Bảy Chân như và ba tánh nhiếp nhau.

10. Thiện xảo chân thật: Đối trị mười ngã kiến, do tu uẩn, v.v… mười thứ thiện xảo.

Sớ: “Lấy phân biệt toàn” đến “là sở thuyên”.

Hỏi: Tâm chánh trí v.v… thông năng thuyên và sở thuyên, phân biệt vì sao chỉ là sở thuyên?

Đáp: Pháp Hữu lậu riêng khai danh, tướng và phân biệt. Phân biệt do đó chỉ gọi là sở thuyên. Pháp Vô lậu thì hợp chung, vì thế chánh trí năng thuyên sở thuyên đầy đủ. Có chỗ cho rằng tướng chỉ là sở thuyên, danh chỉ là năng thuyên, phân biệt thông cả hai năng và sở thuyên, tùy hai sở biến nên có sai khác. Tuy có nhiều giải thích nhưng thuyết nay trội hơn.

Biện rằng: Như gọi là năng thuyên, gọi là sở thuyên, lẽ nào chẳng phải là danh ư? Nếu là danh thì vì sao không phải là sở thuyên? Danh nương thức biến vì sao không gọi là tướng? Nếu thừa nhận là tướng, thì tướng tức năng thuyên. Nếu cho rằng thức là năng biến năng thuyên, thì lẽ ra phải tùy theo nhau. Vì thế tùy theo năng biến chỉ gọi là phân biệt, tùy theo sở biến chỉ có hai tướng và danh. Đây nếu đã không như vậy, kia vì sao nói như vậy? Cho nên theo sớ là hơn. Nay thêm một giải thích: Tướng và phân biệt chỉ là sở thuyên, danh tổng năng và sở thuyên. Tuy danh do thức biến nhưng cũng là tướng thâu nhiếp. Nhưng căn cứ nghĩa khác chỉ gọi là danh. Nếu không như vậy tức có nghĩa tùy theo nhau như trước nói là sai. Suy nghĩ có thể biết.

Sớ: Cũng gọi hòa hợp.

Xét luận Du-già ghi: Cũng gọi là Biến kế sở chấp, cũng gọi là hòa hợp sở thành, cũng gọi là sở tăng ích tướng, cũng gọi là hư vọng sở chấp, cũng gọi là ngôn ngữ sở hiển, cũng gọi là văn tự Gia hạnh, cũng gọi là chỉ có âm thanh, cũng gọi là vô hữu thể tướng.

Sớ: Vì thế thứ tư nói Biến kế sở chấp, tự tánh chấp.

Tức trong năm sự là chấp thứ tư.

Sớ: Bốn đạo lý.

Xét luận Đối Pháp quyển 11 ghi:

1. Quán đãi đạo lý: Các hành sinh phải đợi các duyên.

2. Tác dụng đạo lý: Như nhãn căn v.v… là sở y tác dụng của nhãn thức.

3. Chứng thành đạo lý: Chứng thành nghĩa sở ứng thành, tuyên nói các lượng bất tương vi ngữ.

4. Pháp nhĩ đạo lý: Từ vô thỉ đến nay pháp tướng pháp như vậy.

Như lửa có thể cháy, nước có thể thấm ướt.

Sớ: “Cũng lấy trí Vô lậu” đến “nếu không như vậy liền giảm”.

Không lấy trí Vô lậu là chân thật. Thể của bốn chân thật không nhiếp Đạo đế, nên nói là giảm. Chân thật thứ tư, chuẩn theo chân thật thứ ba thì biết, nên sớ không nêu.

Luận: “Hai chướng” đến “hai sự nhiếp”.

Hỏi: Căn cứ theo luận Du-già quyển 3 nói, hai thứ chân thật sau cùng bốn đế lý Chân như làm thể. Trong quyển 3 nói đều lấy chánh trí, ý vì sao không đồng?

Đáp: Có ba giải thích:

1. Giải thích như trong sớ.

2. Trong truyện Tam tạng giải thích rằng ngay khi chứng hai chướng sở hành cũng chứng trí tuệ. Dụ như khi kiến phần duyên Chân như, tức tự chứng phần cũng duyên kiến phần.

3. Hai trí Không quán có thể có sở hành, cũng gọi sở hành, không nên nói rằng hai chướng tịnh trí thông duyên chân và tục, vì thế trí Vô lậu cũng gọi là sở hành. Nói sau được duyên ấy, lý này không đúng, nhưng sau được thông duyên nhiễm tịnh và y tha, nên nói phần nhiễm cũng là sở hành Chân như của hai trí. Nếu như vậy, tức sở hành của hai trí nhiếp chung năm việc. Đã là hai sự nhiếp, cho nên có thể quán trí, có thể có sở hành gọi là sở hành.

Biện rằng: Sớ và truyện giải thích nghĩa kia hơi thông. Có chỗ nói sở đoạn sợ trái với ý chỉ của luận. Ý chỉ của luận nói gì? Luận nói cảnh sở duyên. Hiển cảnh không đồng có bốn thứ chân thật, vì thế quyển 3 ghi: Phẩm loại của chân thật nghĩa này sai khác, lại có bốn loại, nghĩa tức là cảnh. Nay lấy trí kia có thể có sở hành gọi là có sở hành, không đứng về cảnh, lẽ nào cùng bản luận không thành đây kia? Luận căn cứ một phần cảnh tịnh mà nói, không có nghĩa cảnh đồng dùng nhiễm y tha, liền nêu lời trách.

Nay thêm hai giải thích:

1. Căn bản trí sở hành Chân như, Chân như sở nhiếp, Vô lậu trí khác duyên an lập v.v… tướng sở biến.

2. Hai trí sở hành chân thật, chánh trí sở nhiếp, không đồng pháp Hữu lậu hư vọng phân biệt, không có tướng nhiếp. Vì thế trong quyển 3 nói Vô lậu, Hữu vi gọi chung là chánh trí.

Hỏi: Thế nào là chứng trí?

Đáp: Quyển 3 ghi: Tất cả cảnh giới sở hành của hàng Nhị thừa Vô lậu trí, hoặc Vô lậu Hậu đắc trí, thế gian trí, đây hoặc gọi là phiền não chướng tịnh trí sở hành chân thật. Lại trong Hiển Dương ghi: Trong này vì sao là chân thật? Đáp: Nghĩa là bốn Thánh đế đã là cảnh Hậu đắc trí cũng gọi chân thật, vì thế sở duyên của Hậu đắc trí là bốn đế chân thật v.v… Các tướng đều gọi là chân thật. Nhưng trong quyển 3, chân thật thứ ba nói đủ có ba trí. Chân thật thứ tư không đủ ba trí, chỉ ảnh hiển mà thôi, nếu không như vậy vì sao ý có đủ và không đủ? Hoặc lấy ý của sớ truyện và ý nay nói hợp làm một giải thích. Vì thế, Đại luận trước sau cũng không trái nhau, lại nên suy nghĩ.

Sớ: “Luận Trung Biên” đến “y Viên thành thật”.

Trong bốn câu, thứ nhất hiển thật y Biến kế đầu có một; thứ hai hiển y biến kế thứ hai có ba; thứ ba và thứ tư hiển ba thật cùng y Viên thành thật thứ tư.

Sớ: Đây là căn cứ thiên phần vị là cấu tịnh.

Do có nhiễm và tịnh, ẩn hiện hai vị. Căn cứ phần thuyết này hiển tợ như khổ kia sắp về sau tâm năng duyên không thường hành. Giả danh thì vô thường, thể thì thật thường.

Sớ: Hình tướng vô thường thật không duyên.

Hình tướng vô thường chỉ duyên ba đế Hữu vi làm nghĩa, không duyên diệt đế Vô vi làm cảnh.

Sớ: Lại y tất cả vô thường mà nói.

Nói hành vô thường duyên tánh đầu tiên và sau. Đây là hành năng duyên không phải là vô thường trong mười sáu hành. Mười sáu hành này ngoài duyên tâm vô thường. Vì sao vậy? Vì trong mười sáu hành, vô thường chỉ duyên ba đế làm cảnh. Tánh đầu tiên không phải Đế, tánh Vô vi, không phải là vô thường.

Sớ: Sáu vô thường.

Bốn là biệt ly vô thường, năm là đắc vô thường. Còn lại như sớ dẫn.

Sớ: Tâm chỉ ở nơi danh.

Không phải sắc, bốn uẩn gọi chung là danh.

Sớ: Mười lăm thứ vô thường.

Xét luận kia ghi: Trong sáu thứ vô thường, năm vô thường sau đều gọi là biến dị. Biến dị không đồng có mười lăm loại:

  1. Phần vị biến dị: Trẻ nhỏ v.v…
  2. Hiển biến dị: Từ sắc đẹp biến thành xấu v.v…
  3. Hình biến dị: Đói khát, mõi mệt v.v…
  4. Hưng thạnh biến dị
  5. Thân phần biến dị
  6. Lạnh nóng biến dị
  7. Tha tổn biến dị
  8. Mệt mỏi biến dị
  9. Oai nghi biến dị
  10. Xúc đối biến dị: Do khổ v.v… xúc.
  11. Nhiễm ô biến dị
  12. Bệnh v.v… biến dị
  13. Tử biến dị
  14. Xanh bầm v.v… biến dị
  15. Tất cả chủng không hiện tận biến dị: Nghĩa là xương cốt tiêu mòn, hư hoại, ly tán, tất cả các thứ đều không thấy.

Luận: Một tập khí huân tập.

Sớ có hai giải thích:

1. Do tâm năng chấp chấp nơi ngã pháp huân thành chủng tử, chủng tử tuy có tự thể, nhưng do vì Biến kế sở chấp ngã pháp, tâm năng chấp huân thành trong chủng tử. Chủng tử gọi là tánh đầu tiên, không phải là huân riêng chủng tử sở chấp. Hoặc năng Biến kế giả gọi sở chấp. Chủng tử sở huân từ tâm năng huân giả gọi tánh ban đầu.

2. Tâm năng chấp chấp tập khí kia là sở biến kế. Tập khí huân tập đây kia sở chấp sở y. Từ năng y kia giả gọi sở chấp.

Luận: Diệt Đế có ba.

Luận này và luận Trung Biên, các thuyết của An Tuệ và Hộ Pháp không đồng, như Nghĩa Đăng đã dẫn.

Sớ: “Nghĩa là duyên y tha” đến “tức là không cảnh”.

Đây nói ba tánh đều đủ lý do của Không cảnh. Biến kế thể

Không nên sớ không nói. Chỉ hiển Y tha và Viên thành thật là lý do của Không.

Sớ: Đều không đối với đây khởi nguyện.

Ba Không trước đều đứng về Biến kế. Đối với đây ba Không đều không nguyện nên gọi là đều chẳng nguyện.

Sớ: “Chẳng phải duyên Biến kế” đến “khởi nguyện cầu”.

Biến kế sở chấp Chân như vô thể, vì thế không đối với sở chấp như trên mà khởi nguyện cầu. Nhưng quyển 2 căn cứ thật Chân như không gọi là không nguyện, cũng không trái nhau.

Sớ: “Như Không duyên ba tánh này” đến “là cảnh vô tướng”.

Đây là nêu Không cảnh để thành vô tướng. Ba tánh là Không đều đứng về biến kế. Vô tướng cũng vậy. Do thể kia không có, vì sao có tướng của nó?

Sớ: Tướng thông ba loại.

Tướng trong năm sự. Nhưng ba thứ giải thoát có năng tri và sở tri. Tướng phần nhiều là sở tri, ít thông năng tri. Sở tri và năng tri đủ ba giải thoát.

Sớ: Tướng cũng nhiếp ba thứ cảnh.

Tướng cũng nhiếp sở tri ba thứ giải thoát kia, tức là cảnh.

Hỏi: Ý gì mà nói như vậy?

Đáp: Ý muốn nói Y tha và Viên thành thật cũng là ba giải thoát. Vì thế, trước dẫn văn sau mới thành lập. Kế đến sau sớ nói. Đã như vậy v.v… nghĩa là chánh thành lập.

Sớ: “Đã như vậy” đến “gọi là vô tướng”.

Đây là lập lý. Trong năm sự, tướng thông Hữu lậu và Vô lậu. Lại nói tướng là ba cảnh giải thoát. Vô lậu không khác Y tha và Viên thành.

Vì thế, biết Y tha và Viên thành đều gọi là ba cảnh.

Hỏi: Vô lậu Hữu vi vì sao gọi là vô tướng?

Đáp: Luận Hiển Dương quyển 2 ghi: Duyên trí vô tướng, Đạo tác đạo, như, hành, xuất hành, đây cũng là hành vô tướng.

Giải thích: Trí duyên vô tướng cũng gọi là vô tướng. Các giáo pháp khác nói không đồng, rộng như Nghĩa Đăng dẫn hợp giải thích.

Sớ: Khi chứng Viên thành thật hoặc khổ không khởi.

Có nghĩa giải thích rằng, khi chứng Viên thành thật không có Dị nhẫn. Vô sinh nhẫn nghĩa là ý hiện rõ chứng cảnh vô sinh kia nên gọi là Vô sinh nhẫn. Khi chứng Viên thành thật hoặc khổ không sinh, lẽ nào nương quán ư? Vì thế, nên nói quán Viên thành thật không có hoặc khổ. Không có hoặc khổ sinh nên gọi là Hoặc khổ Vô sinh nhẫn.

Biện rằng: Khi liễu tri chứng Viên thành thật kia hoặc khổ không khởi gọi là Vô sinh nhẫn. Không nói rằng đang lúc chứng Viên thành thật riêng khởi nhẫn này. Hoặc khổ không sinh cũng tức là cảnh. Vì thế sớ không trái. Có nghĩa đã nói lý cũng thông, tùy lý thù thắng đó.

Luận: Hai đắc Thắng nghĩa.

Đây gọi là Niết-bàn. Thể là thắng, quả lập dùng tên thắng, lại có thể thuận ích, lại là nghĩa lợi, vì thế cũng gọi là nghĩa, cũng thắng, cũng nghĩa, là Trì nghiệp thích, do hiển danh được Thắng nghĩa. Những giải thích khác như trong Nghĩa Đăng.

Sớ: Ba tánh năm nghiệp.

Xét luận Hiển Dương quyển ghi: Biến kế có năm nghiệp.

1. Năng sinh y tha khởi tự tánh: Do Biến kế sở chấp ngã pháp làm cảnh, tâm năng chấp huân thành chủng tử, lại sinh tợ như tướng ngã pháp kia, có chất không chất, kiến tướng đồng khác như lý có thể biết.

2. Tức trong này khởi các ngôn thuyết.

Giải thích: Do nó khởi năng thuyên ngã này v.v… các thứ ngôn thuyết.

3. Năng sinh chúng sinh chấp.

4. Năng sinh pháp chấp.

5. Có thể nhiếp thọ hai chấp tập khí thô trọng.

Giải thích: Do tướng phần của tâm sở chấp năng chấp huân tợ như chủng tử của ngã pháp v.v… Kiến phần lại huân thành chủng tử năng pháp. Chủng tử do nó khởi gọi là nhiếp tập khí, không phải nó vô thể có thể giữ tập khí gọi là nhiếp.

Y tha có năm nghiệp:

  1. Năng sinh các thể tạp nhiễm.
  2. Có thể làm sở y cho Biến kế sở chấp và Viên thành tự tánh.
  3. Có thể làm sở y cho chúng sinh chấp.
  4. Có thể làm sở y cho pháp chấp.
  5. Có thể làm sở y cho hai chấp tập khí thô trọng.

Viên thành thật có năm nghiệp, nghĩa là có thể làm sở duyên cho hai thứ năm nghiệp, Biến kế năm nghiệp và y tha năm nghiệp đối trị sinh khởi. Lại nói, tùy nghĩa ba thứ tự tánh giải thích tất cả kinh bất liễu nghĩa. Trong vô lượng kinh, đức Như Lai, Bồ-tát ẩn mật ngôn ngữ, đều tùy ba thứ tự tánh có thể làm tất cả phương tiện Thanh văn, Duyên giác, Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác.

Sớ: Nhiếp Đại Thừa nói.

Xét Nhiếp luận của Vô Tánh và Bản luận nói đức Thế Tôn y theo mật ngữ gì? Trong kinh Phạm Vấn nói đức Như Lai không được sinh tử, không được Niết-bàn.

Giải thích: Theo kinh mà hỏi Đức Phật lìa các cõi có thể không có sinh tử, nhưng hiện chứng viên tịch vì sao không có Niết-bàn? Luận đối trong y tha khởi tự tánh. Y Biến kế sở chấp tự tánh và Viên thành thật tự tánh và sinh tử Niết-bàn không có mật ý sai khác.

Giải thích: Do y tha khởi, Biến kế, Viên thành làm sở y. Phật chứng y tha khởi sinh tử Niết-bàn không có hai riêng được, do y thể là một mà thông hai phần, thật lý mà nói sinh tử và Niết-bàn có khác, không khác, chỉ đứng về không khác nên nói là mật ý.

Luận: Vì sao như vậy?

Giải thích: Là vặn hỏi thăng trầm đã khác vì sao lại nói không khác. Luận cho là y tha khởi tự tánh này, do Biến kế sở chấp thành sinh tử. Viên thành thật thành viên tịch v.v… năng thành không lìa thể sở thành nên không sai khác.

Hỏi: Thể của Biến kế không, vì sao do đó mà thành sinh tử?

Đáp: Do Biến kế sở chấp, y tha tương tục sinh tử không dứt, do ngộ Viên thành thật đoạn các phiền não, cho nên chứng Niết-bàn.

Lại nói trong kinh Đại thừa A-tỳ-đạt-ma nói Đức Phật thuyết pháp có ba phần: Một là phần tập nhiễm, hai là phần thanh tịnh, ba là cả hai phần đó. Y mật ý gì mà nói như vậy? Căn cứ trong kinh mà hỏi. Luận đối trong y tha khởi tự tánh. Biến kế sở chấp là phần tạp nhiễm, Viên thành thật hữu tánh là phần thanh tịnh, tức y tha khởi là hai phần kia. Y mật ý này nói lời như vậy. Dụ như kho vàng trong đât ở thế gian, ba pháp có thể được là địa giới, đất và vàng vàng. Trong địa giới, đất không có thật có mà hiện có thể được. Vàng là thật có mà không thể được, khi dùng lửa đốt luyện thì tướng đất không hiện mà tướng vàng hiện rõ. Thức cũng như vậy, trí vô phân biệt khi lửa chưa đốt, đối trong thức này có hư vọng Biến kế sở chấp tự tánh hiển hiện, Viên thành thật tự tánh không hiển hiện. Thức này nếu là trí vô phân biệt khi lửa này đã đốt, đối trong thức này chân thật Viên thành tự tánh hiển hiện, hư vọng Biến kế sở chấp tự tánh không thể hiện, vì thế cho nên thức hư vọng phân biệt y tha khởi tự tánh có hai phần kia, như tất cả địa giới trong kho vàng của đất.

Thích luận ghi: Địa dụ y tha, Đất dụ biến kế, vàng dụ Viên thành. Do quy thức tánh là y tha khởi, Biến kế và Viên thành là phần tánh này.

Lại nói Thế Tôn có chỗ nói tất cả pháp thường, có chỗ nói tất cả pháp vô thường, có chỗ nói tất cả pháp không thường, không vô thường. Y mật ý gì mà nói lời này? Đó là y tha khởi tự tánh, do Viên thành thật là thường, do Biến kế sở chấp tánh là vô thường, do hai phần kia không phải thường, không phải vô thường.

Thích luận ghi: Nghĩa là y tha khởi thể pháp tánh Chân như là thường trụ. Biến kế sở chấp tự tánh một phần thể là vô thường, không có sinh diệt nói là vô thường.

Sớ: “Thông đạt ba tánh” đến “vô tướng ư” Xét quyển ghi:

Hỏi: Nếu cho rằng trí thế gian khi thông suốt, phải nói hành đối với tướng. Như Biến kế sở chấp tự tánh, Y tha và Viên thành cũng như vậy. Lại nếu quán hành nghĩa là khi như thật ngộ nhập Biến kế sở chấp tự tánh, thì phải nói tùy nhập tự tánh gì?

Đáp: Viên thành thật tự tánh.

Hỏi: Nếu quán hành ấy tùy nhập Viên thành thật tự tánh, thì phải nói trừ bỏ tự tánh nào?

Đáp: Y tha khởi tự tánh.

Lại nói, Biến kế sở chấp y chỉ ba sự là tướng, danh và phân biệt. Tánh y tha khởi tức nương Biến kế sở chấp, tự tánh chấp và tự đẳngg lưu tánh, Viên thành thật không chỗ an trụ, không chỗ y chỉ.

Giải thích: Tự tánh chấp là tâm năng phân biệt, tức ở đây dẫn tâm và tâm sở Hữu lậu, và tự loại kia triển chuyển huân tập mà sinh. Lại nói, không có ba tánh thì nhiễm tịnh không thành. Như trong sớ đã dẫn đầy đủ.

Lại nói, Biến kế sở chấp phải nói rằng vi tế khó thấy khó hiểu. Tánh y tha khởi phải nói là thô nhưng cũng khó thấy rõ. Viên thành thật phải nói là cực vi tế, rất khó thấy, rất khó hiểu.

Giải thích: Tánh biến kế, trí thế gian không giác ngộ gọi là vi tế. Tánh y tha như tâm và tâm sở thường hiện tiền nên gọi là thô. Tánh Viên thành thật, tất cả dị sinh đều không rõ nên gọi là rất vi tế. Bậc Thánh Nhị thừa, dụ như chưa rõ nên gọi rất vi tế. Kiến là trước thấy, liễu tức sau hiểu.

Lại nói, một là vô thể năng chuyển hữu thể, hai là hữu thể chuyển thể của hữu vô, ba là hữu thể nhưngkhông thể chuyển.

Giải thích: Thể của Tánh Biến kế không. Là cảnh có thể khởi y tha chấp tâm gọi là chuyển hữu thể. Chuyển dụ như khởi, do tánh y tha có thể khởi y tha gọi là hữu chuyển hữu. Đây là sở chấp y gọi là chuyển đối với vô.

Hỏi: Vô pháp thể không có, vì sao được gọi là chuyển?

Đáp: Đối với vọng tình kia, cho nên gọi là chuyển.

Lại nói, một là bất sinh năng sinh đối với sinh, hai là sinh năng sinh sinh và bất sinh, ba là phi sinh không thể sinh sinh và bất sinh.

Giải thích: Biến kế không có thể nên gọi là bất sinh, làm cảnh năng sinh tâm năng chấp v.v… gọi là năng sinh. Y tha có thể duyên khởi gọi là sinh. Năng sinh y tha, gọi là sinh sinh. Tâm năng sinh chấp tâm không sinh kia gọi là sinh bất sinh.

Lại nói, Biến kế sở chấp tự tánh chấp hay không chấp, vì sao biết được? Đáp: Đây có hai trường hợp.

1. Giác ngộ chấp hoặc không chấp, như do ngôn thuyết giả lập danh tự. Biến kế các pháp quyết định tự tánh gọi là giác ngộ chấp. Nếu khéo rõ biết chỉ có danh nghĩa là biết chỉ có danh, không phải các pháp kia có tánh quyết định gọi là không chấp.

Giải thích: Hai chấp ngã và pháp hiện hành gọi là giác ngộ chấp. Các tâm Vô lậu, thiện, vô phú, Vô ký v.v… gọi là không chấp. Trong tâm không chấp đối với các danh có bất liễu và liễu, suy nghĩ có thể biết.

2. Tùy miên chấp gọi là không chấp. Nếu chưa trừ được tập khí tùy miên kia thì có chấp tùy miên. Nếu đoạn trừ rồi thì biết đây là không chấp.

Giải thích: Chủng gọi là tùy miên. Chưa đoạn và đã đoạn rồi gọi là chấp và không chấp. Luận nói Y tha khởi tự tánh chấp và không chấp vì sao biết được? Đáp: Như vì Biến kế sở chấp tự tánh giác ngộ chấp, lại Biến kế sở thành tự tánh gọi là chấp đầu tiên. Nếu khéo rõ biết chỉ có các tướng, không có Biến kế sở thành tự tánh gọi là không chấp.

Giải thích: Đây là giác ngộ chấp và không chấp hai thứ, sở thành tự tánh tức y tha khởi. Do hai chấp kia vọng chấp y tha cho là ngã và pháp, do Biến kế nhiễm sinh gọi là sở thành.

Luận: Đối với tướng ràng buộc vĩnh viễn chưa trừ.

Trong các tướng khi có sở đắc gọi là chấp lấy hai. Như đối với tướng ràng buộc đã hằng trừ, nghĩa là đối với cảnh giới vô tướng đã liễu tri. Đối với tướng vô đắc phải biết đây là không chấp.

Giải thích: Đây là hai chấp. Tùy miên chấp và không chấp, chủng tử ràng buộc nhau gọi là tướng ràng buộc.

Luận: Viên thành thật, tánh này không có chấp.

Vì cõi này không phải là cõi an túc. Nếu ở cõi này chưa được xúc thể khởi được xúc thể tăng thượng mạn tức trên chấp Biến kế sở chấp và y tha khởi tự tánh.

Lại nói, Biến kế tự tánh vì sao biết? Đáp: Ngay khi rõ biết chỉ có danh, chỉ có Biến kế sở chấp không tướng không tánh, không sinh, không diệt nhẫn đến như hư không. Y tha khởi tánh ngay khi rõ biết sở thuyên Hữu vi sự nhiếp. Viên thành thật tánh ngay khi rõ biết như tướng sai biệt đã nói ở trước, đó là pháp giới Chân như thật tế, các loại như vậy.

Lại nói, một là tự mình không nhiễm có thể khiến nó nhiễm, hai là chỉ tự nhiễm, ba là tự thanh tịnh khiến nó thanh tịnh. Khổ v.v… cũng như vậy.

Giải thích: Thể của tánh Biến kế không có, không gọi là nhiễm. Khiến hai chấp khởi gọi là nhiễm khác. Đứng về nhiễm y tha gọi là tự nhiễm. Do đối với tánh đầu tiên không căn cứ tự loại mà nhiễm nhau nên gọi là chỉ tự nhiễm. Hoặc pháp sở nhiễm tánh đồng không khác, gọi là chỉ tự nhiễm.

Lại nói, Biến kế sở chấp thí như hư không. Y tha khởi tánh như hại như oán. Viên thành thật tánh thí như kho báu lớn vô tận.

Giải thích: Nương y tha nhiễm nói là như oán v.v… Chân như là sở y của các công đức kia nên gọi là kho báu lớn.

Lại nói, Biến kế sở chấp do đâu mà Biến kế? Là do y tha tự tánh. Tánh y tha khởi do đâu mà y tha? Là do nhân duyên. Tánh Viên thành thật do đâu duyên thành? Là do không bị tất cả phiền não vì các khổ tạp

nhiễm, lại do tánh thường.

Luận: Gọi là pháp giới.

Xét luận Đối Pháp có bảy tên gọi:

1. Chân như: Do tự tánh kia không biến đổi. Thích luận ghi: Trong tất cả thời thật tánh vô ngã, không biến chuyển nên gọi là không biến đổi. Không cải chuyển là nói không biến đổi, tức là nghĩa Như này.

2. Tánh vô ngã: Vì lìa hai ngã.

3. Tánh không: Vì không thực hành tất cả tạp nhiễm. Thích luận ghi: Do duyên này nên có thể khiến tất cả việc tạp nhiễm đều vắng lặng.

Giải thích: Do trí vô phân biệt chứng Chân như kia khiến phiền não kia đều vắng lặng. Nhưng nói không thực hành nhiễm pháp nghĩa là không bị nhiễm pháp sở duyên chấp trước gọi là không thực hành.

4. Vô tướng: Như sớ đã dẫn.

5. Thật tế: Không có sở duyên điên đảo. Thích luận ghi: Thật nghĩa là không điên đảo, chỗ này rốt ráo nên gọi là tế. Quả vô ngại tánh lại không có sở cầu.

Giải thích: Do trong sở duyên được rốt ráo nên gọi là tế. Tế là cùng tột. Tỏ ngộ nó rồi lại không có pháp nào hơn nó để duyên cầu nên gọi thật tế. còn lại như trong sớ dẫn.

Luận: “Phải đầy đủ Đại thừa” đến “ngộ nhập Duy thức”.

Hỏi: Bản tánh không có tập, tánh tập chẳng phải bản vì sao đủ hai mới tỏ ngộ Duy thức?

Đáp: Có nghĩa y đời trước và sau nói đủ hai thứ, không phải đồng thời có đủ. Lại tánh tập lập không phải là không có bản tánh, tức một chủng tử được hai tên, vì bản chủng và huân tập có sai khác. Nếu y đây giải thích thì khi chưa phát tâm trở về trước gọi là Bản tánh trụ, khi đã phát tâm rồi cho đến khi thành Đẳng giác thì được hai tên. Giải thích này đều thù thắng.

Biện rằng: Giải thích trước thích hơi thông, lý vẫn chưa hiển, giải thích sau giáo lý đều không khế hợp. Một là vị tạp loạn, hai là kinh Nhân Vương, Anh Lạc, luận Du-già, Nhiếp luận đều nói cả hai vô số tánh ở trước Kiến đạo, phán phân chung đều được, lẽ nào không trái giáo? Lại luận này ghi: Bản nhân vô thỉ gọi là Bản tánh trụ. Nghe huân tập rồi sắp về sau mới gọi tánh tập tuy một chủng tử mà chưa từng tăng khác. Tăng vị không thể được lại tên của bản. Giải thích sau vặn hỏi về y, nay xem ý của luận ắt có hai tánh sau mới có thể ngộ. Nói “đủ” giống như nói “có”, chứ không pjải đồng thời gọi là đủ.

Sớ: Dụng và dụng đủ.

Tư và tu hai tuệ này là năng nhập đủ. Đủ này có thể hiện tợ pháp, tợ nghĩa. và có thể nhập công năng nghĩa của pháp sở tri, vì thế gọi là dụng. Đủ này và dụng ắt đợi năng chấp. Nói đủ kia giả, nghĩa là đủ mới có dụng. Do đây trước nói tư và tu đủ có rồi, nên nay hỏi tác giả năng chấp.

Sớ: Hai vị đầu này dùng đạo làm vị tức thể phần xuất.

Do trong năm đạo, hai đạo đầu nêu tên hai vị, đầy đủ Hữu lậu đạo. Trong Hữu lậu đạo tán và định thể khác nhau, phân làm hai. Phân là biệt vậy.

Sớ: Ba vi sau dùng phần làm vị.

Không dùng năm đạo mà bày tên vị, chỉ dùng tu v.v… ít phần nhiều phần, toàn phần không đồng, phân làm ba vị, thể bày đủ Vô lậu và Vô vi nhiếp, nên gọi là thông thể.

Sớ: Đối với hiện hành kia.

Nói các pháp thiện trước thừa nhận trong thân Bồ-tát được hiện hành.

Sớ: Cũng có hiển hiện do tánh nhân hiền.

Hiển rõ hiện hành trước chỉ so nhân hiền mà khởi, hoặc yếu hoặc mạnh riêng biệt mà phân hiện hành và hiển hiện cả hai.

Sớ: Tánh không thể khởi phiền não.

Hỏi: Kinh Lăng-già ghi: Đốt cháy tất cả căn lành, Xiển-đề thừa nhận thành Phật. Trong kinh Niết-bàn nghĩa kia cũng vậy, lẽ nào sau khi thành Phật trước không có chủng tánh? Chủng tánh đã có vì sao nói đoạn căn lành? Kinh và luận vì sao trái nhau?

Đáp: Luận căn cứ nhiều phần, còn kinh thì y lý cũng tận. Điều này nên tư duy.

Sớ: Chưa được, chưa tịnh.

Chưa phát tâm cầu, chưa đến vị kia gọi là chưa phát khởi và chưa được. Lại chưa vì các địa sau tu các chánh hành gọi là chưa thanh tịnh.

Sớ: Việc làm lâu xa và nói lâu xa nên có chỗ quên mất.

Nghĩa là việc làm và nói pháp nói kinh thời gian lâu xa nên quên không nhớ.

Sớ: Tại gia, xuất gia hai bậc Bồ-tát.

Trong hai bậc Bồ-tát hành này không thể đều tu đầy đủ hạnh kia gọi là không hiển hiện.

Sớ: “Ở đây nói” đến dần dần khinh vi”.

Ở trước đã nói tướng mạo của lỗi, đến khi hạ nhẫn có lỗi thượng

phẩm, khi trung thượng nhẫn có lỗi trung hạ phẩm.

Hỏi: Ba nhẫn vị thế nào?

Đáp: Có hai vị: một là như thứ lớp trong ba mươi tâm, hai là trong luận đã nói về nhẫn. Trong bốn thiện căn nhẫn có ba phẩm. Ngôi vị của ba nhẫn thì lỗi cũng thành ba phẩm. Nhưng ba mươi tâm đồng hạ nhẫn, Thế đệ nhất nhanh chóng nên không luận, hoặc đồng thượng nhẫn.

Sớ: Có năm Bổ-đặc-già-la.

Vô Tánh giải thích: Nên biết chỉ có một Bổ-đặc-già-la, vị sai khác nên kiến lập năm loại, như Dự lưu v.v…, văn còn lại như trong sớ giải thích.

Nhưng có chỗ giải thích rằng: Từ sơ phương tiện đến sơ Địa là thứ nhất. Từ Địa thứ hai đến địa thứ tư là thứ hai. Từ địa thứ năm đến địa thứ sáu là thứ ba. Địa thứ bảy là thứ tư. Địa thứ tám đến địa thứ mười là thứ năm. Sơ Địa tức thuộc về sơ kiếp.

Biện rằng: Luận đã nói rõ, nghĩa là thắng giải hành Bổ-đặc-giàla trải qua đại kiếp đầu tiên. Sơ địa lẽ nào là Giải hạnh địa? Lại kiếp thứ hai phân làm ba, nhân lại không có lý do. Nay giải thích riêng rằng: Hai kiếp trước sau là người trước và sau. Bắt đầu từ sơ Địa đến địa thứ bảy là kiếp thứ hai phân làm ba người. Ba Địa đầu đồng với người đời tu. Địa thứ tư, năm, sáu đồng Nhị thừa kia. Địa thứ bảy y Đại thừa. Ba loại không đồng phân làm ba người, vì thế hợp thành năm. Địa thứ tám trở lên đều thuần vô tướng, vì thế hợp làm một. Nói Dự lưu là nêu thí dụ để nói rõ. Xét Nhiếp luận đời Lương ghi: Như ba quả và ba vị trước cũng được thành lập năm nhân. Từ sơ hướng đến Tu-đà-hoàn là thứ nhất, tại gia xuất gia là thứ hai, Tư –đà-hàm là thứ ba, một chủng tử là thứ tư, A-na-hàm là thứ năm.

Hỏi: Trong thí dụ đã dùng phương tiện sơ quả hợp thành một, trong pháp vì sao không nói Sơ địa phương tiện hợp thành một?

Đáp: Trong thí dụ là y theo phần ít, chẳng phải tất cả đồng, vì thế không nên trách, tức quả thứ hai trước sau, đều tự cho là ba loại. Trong kiếp thứ hai, ba vị không đồng, ít giống với kia.

Hỏi: Nếu kiếp thứ hai khai làm ba, vì sao Vô Tánh nói như vậy hai thứ Bổ-đặc-già-la trải qua hai kiếp tu hành viên mãn?

Đáp: Trong kiếp thứ hai, sáu vị trước là hữu tướng, vị thứ bảy là vô tướng. Vả lại hữu tướng và vô tướng đối nhau gọi là hai. Trong phần hữu tướng lược không nói, chỉ nêu bày sơ lược mà thôi.

Sớ: Ở trong mộng nghĩa là nhiều năm.

Xét Nhiếp luận của Vô Tánh có bài tụng rằng: “Ở mộng là nhiều năm, thức dậy trong khoảnh khắc, thời gian tuy vô lượng, nhiếp trong một sát-na”.

Lại trong Tây vức truyện chép: Có ẩn sĩ, kết am giấu mình, rộng học kỹ nghệ, cùng tột thần lý, có thể khiến cho ngói đá thành vật báu, người và súc vật khác hình, nhưng chưa có thể cỡi mây gió đi theo xa giá của tiên nhân, bèn xem đồ thư, tìm sách cổ để cầu thuật của tiên. Trong phương thuật ấy nói thần tiên tức là thuật trường sinh, trước khi muốn cầu học, phải định được trí. Ông kiến lập đàn tràng, bảo một liệt sĩ cầm dao dài đứng ở một góc đàn, nín thở im lặng. Người cầu tiên ngồi trong đàn tràng, tay đè kiếm dài, miệng tụng chú, thâu cái nhìn, quay cái nghe để thông đạt lên tiên. Người này đã được tiên phương, bèn hỏi thăm tìm liệt sĩ. Ông tìm khắp nhiều năm vẫn chưa thỏa tâm nguyện, sau được liệt sĩ. Người liệt sĩ này trước đây từng giúp sức cho người, trải qua năm năm, sai trái một ngày liền bị đánh mắng, lại bản thân chẳng được gì nên lang thang buồn khóc. Ẩn sĩ thấy thế chu cấp trọng hậu, hạ mình kính phục. Liệt sĩ nhiều lần xin mệnh lệnh để đáp đền ân tri ngộ, ẩn sĩ nói:

– Ta tìm Liệt sĩ trải qua nhiều năm, may mắn được gặp một người dung mạo khác thường, ứng với đồ thư, ngoài ông ra thì chẳng còn ai khác nữa! Ta chỉ xin ông đừng lên tiếng trong một đêm mà thôi!

Liệt sĩ đáp:

– Tôi chết còn không từ chối, huống gì chỉ là nín thở im lặng!

Lúc bấy giờ, ẩn sĩ lập đàn tràng lãnh thọ pháp tiên. Y phương pháp mà hành sự, ngồi đợi đêm xuống. Sau khi ánh mặt trời lặn, ai nấy lo việc của mình. Ẩn sĩ tụng thần chú, liệt sĩ cầm dao nhọn. Trời sắp sáng, liệt sĩ bỗng phát một tiếng kêu lớn, lúc bấy giờ lửa trên hư không rơi xuống, khói mây mù mịt. Ẩn sĩ vội dẫn người này xuống ao tránh nạn, rồi hỏi:

– Ta dặn ông không được phát ra tiếng vì sao lại có tiếng kêu kinh hoàng đó?

Liệt sĩ đáp:

– Sau khi vâng lời dặn của ông, đến khoảng nửa đêm thì tôi mơ hồ như trong mộng, biến sự lại nổi lên. Thấy khi xưa, ông chủ đích thân đến an ủi cảm tạ, tôi cảm kích ân sâu dày kia, nhưng vẫn nhẫn chịu không mở lời báo đáp. Người kia nổi giận nên tôi liền bị giết. Lại thấy mình thọ thân trung ấm, nên tự thương tiếc, nhưng vẫn nguyện trải qua nhiều đời không nói, do vì báo đáp ân đức sâu dày. Tôi lại thấy mình thác sinh vào nhà đại Bà-la-môn ở Nam Ấn, nhẫn đến thọ thai, xuất thai, tu hành trải qua khổ ách, mang ân mang đức, nhẫn chịu không nói. Đến khi đi học, lớn lên cưới vợ, song thân đều mất, vì thường nhớ ân trước, nên tôi nhẫn chịu vẫn không nói năng. Tông thân quyến thuộc đều lấy làm lạ. Năm sáu mươi tuổi tôi mới có được đứa con trai, vợ tôi hỏi: “Ông có thể nói chăng? Nếu không nói thì tôi sẽ giết con của ông”. Lúc đó tôi nghĩ, mình sắp lìa đời, lại tuổi già nua mà chỉ có một đứa con trai, do vì muốn cấm người vợ không được giết hại con, nên tôi mới la lớn như vậy.

Ẩn sĩ nói:

– Đây là lỗi của ta. Đây là do ma nhiễu loạn mà thôi!

Liệt sĩ cảm ân kia, buồn cho việc không thành, ôm hận mà chết.

Sớ: Chỗ làm nhỏ hẹp.

Chí ưa thích không rộng, việc làm không lớn, lại không phải một hành có thể tu tất cả, gọi là nhỏ hẹp. Dù tu gián đoạn gọi là có thiếu. Các hành sở tu có thể bền vững, ý chí có lúc khởi, có lúc không khởi. Hoặc tùy lục độ mà tu, đối với đây kia không khuôn phép, gọi chung là bất định. Tùy chỗ tu thiện, hoặc lúc thối xả gọi là sở đắc thối.

Luận: Tư lương vị.

Trong vị có pháp tư lương này nên gọi là tư lương vị, tức Hữu tài thích.

Luận: Cũng gọi luận giải thoát phần.

Sớ có hai giải thích: Có nghĩa gạn hỏi giải thích thứ hai kia rằng: Lý này không đúng, lẽ nào cho là hữu tình cầu thắng giải? Cho nên giải thích trước là chính.

Biện rằng: Sớ tuy không xác quyết, nay dùng lý chuẩn theo giải thích trước là chính, giải thích sau cũng không trái. Các giáo đều nói Vô lậu thắng giải gọi là giải thoát. Tự mình chưa giải thoát thì đâu thể giải thoát cho người, nghĩa là vì hữu tình cầu có lỗi gì?

Sớ: Thứ bảy quán nghiệp, Thức thứ tám quán quả.

Xét phẩm Thập Trụ trong quyển 8 ghi: Bồ-tát này từ trong chánh giáo tất cả Thánh pháp sinh tu mười pháp. Đó là:

  1. Tin Phật không hoại
  2. Cứu cánh đối với pháp
  3. Tịch nhiên định ý
  4. Phân biệt chúng sinh
  5. Phân biệt cõi Phật
  6. Phân biệt thế giới
  7. Phân biệt các nghiệp
  8. Phân biệt quả báo
  9. Phân biệt sinh tử
  10. Phân biệt Niết-bàn.

Luận: “Cho nên đối với hai thủ”đến “hai thủ hiện hành”.

Kinh và luận trái nhau, sớ có bốn giải thích:

  1. Sớ ghi: “Nó y phục nhân” đến “câu sinh phiền não”
  2. Lại nói, công lực nói Phật pháp v.v
  3. Do tự phân biệt v.v… trở xuống
  4. Lại chỉ nói chung v.v… trở xuống

Xác quyết như trong Nghĩa Đăng đã biện rõ.

Luận: Sở tri chướng này không cùng Dị thục thức đồng thời.

Ba nhân trong này đồng với luận Phật Địa. Luận kia ghi: Tất cả Dị thục thức tâm phẩm Vô ký vì sức phân biệt kém không thể chấp. Như có chấp điên đảo thành chấp ngã chấp pháp, chấp kiến có vô minh v.v… không chỉ cùng năm pháp tương ưng, vì có kiến. Lại pháp Không quán khi mới hiện tiền, thức này lẽ ra đoạn, chướng trị trái nhau và không câu hành.

Giải thích: Phật Địa ban đầu do thông tất cả tâm Dị thục, không phải chỉ có Thức thứ tám, hoặc đây cũng tổng nói Dị thục khác.

Sớ: “Lại sau Dị thục tâm” đến “không thể làm thí dụ”.

Đây lập lời ngăn. Giả sử họ ví dụ rằng: Nếu các thức như nhãn v.v… là tâm Dị thục, không có pháp chấp, pháp không trí đầy đủ. Trong bốn Vô ký, Dị thục vô ký, tất cả lẽ ra cùng pháp không trí đồng thời, đều không có pháp chấp như Thức thứ tám v.v… vì thế nay ý Dị thục gọi đồng. Chấp và không chấp khác nhau, không thể làm thí dụ. Sớ: “Thức thứ bảy” đến “mười ba pháp” Chỉ nói chướng, cho nên chỉ có mười ba.

Luận: Phiền não chướng là sở y.

Xét trong kinh Thắng Man nói sở tri chướng là sở y của phiền não. Lại có pháp dụ là hợp thành ba đoạn. Như trong sớ đã dẫn. Ý chỉ sâu ẩn nên vặn hỏi để lược giải thích.

Kinh: Đối với đây khởi phiền não v.v…

Giải thích: Đối với vô minh địa này phiền não sở khởi hiện hành trong khoảng sát-na, ắt cùng với vô minh từng sát-na sát-na tương ưng mà khởi.

Kinh: Thế Tôn nói tâm bất tương ưng, vô minh vô thỉ trụ địa.

Giải thích: Vô minh địa chủng gọi là bất tương ưng, ý nói vô minh đồng với phiền não thông chủng hiện. Hoặc nói tương ưng là nghĩa chung cùng. Bốn trụ phiền não ba Thừa đều đoạn gọi là tương ưng, vô minh trụ địa riêng chỉ có Đức Phật trừ được gọi là bất tương ưng.

Kinh ghi: Trải qua hằng sa.

Giải thích: Hiểu rõ y theo vô minh phiền não không cùng cực gọi là trải qua hằng sa. Văn khác dễ hiểu.

Luận: Thể tuy không khác mà dụng có khác.

Dụng khác có hai: một là hiện hành dụng khác, hai là chủng tử dụng khác, vì có chướng dụng Bồ-đề, Niết-bàn. Giải thích trước là chính, giải thích sau lý cũng thông.

Luận: Vì thế hai Tùy miên đoạn có trước sau.

Hỏi: Đoạn đã có trước sau, vì sao gọi thể là một? Tam thừa đoạn hoặc, thì sở tri lẽ ra đoạn do vì thể có một. Lại trong Thập Địa nói đoạn là sở tri chướng và phiền não chướng đoạn, vì một là do thể đồng, hai là Khế kinh nói khi như đất bị hư hoại thì hạt giống cũng theo đó mà hoại?

Đáp: Có nghĩa nói chủng thể tuy có một, nhưng có thô và tế, vì cùng hòa hợp. Như vàng sắt đồng trong một vật, nhưng tinh thô khác nhau. Bậc Thánh sinh không, đạo lực không bằng Bồ-tát phương tiện, vì thế còn lại không đoạn hết. Kinh y theo kiến đạo, cứu cánh đạo mà nói cho nên không trái nhau.

Biện rằng: Đã do thô và tế hòa hợp mà thành thì chủng thể lẽ ra là giả, như bình, y phục v.v… giả chẳng phải nhân duyên vì sao được sinh hiện? Vì thế nay giải thích rằng: Dụng đã có sai khác, đoạn sở y thể một phần dụng kia vì công sức Thánh đạo có phần hạn, vì thế luận Phật Địa ghi: Trong phiền não chướng có sở tri chướng, vì đây là sở y. Nhất định chấp có pháp thì có chấp ngã, thể tuy không khác mà dụng có khác. Như một thể của thức lấy cảnh nhiều dụng. Đây là huân chủng tử, thể cũng nhiều dụng, khi khởi tuy chung nhưng thứ lớp đoạn, vì thế lực của Thánh đạo có phần hạn. Còn lại nghĩa đồng như trước.

Luận: “Như sở tri chướng” đến “vô minh trụ địa”.

Đây là dùng kinh để vặn hỏi. Kinh như sớ đã dẫn, đây vặn hỏi để lược giải thích. Nói trụ và khởi hai phiền não, trụ nghĩa là chủng tử, khởi là hiện hành. Hoặc sở y sinh xứ gọi là trụ địa. Khởi là hiện hoặc, vì đang sinh khởi. Kiến hoặc trong ba cõi nhưng do kiến thù thắng, vì kiến đạo đoạn, hợp nói là kiến một xứ. Ba cõi đều sinh hoặc tu đạo, nhuận sinh ái thù thắng, riêng phân ba loại, không chỉ ba cõi đều sinh ái. Nói Vô minh trụ địa, các sở tri chướng đều có thể chướng trí, vô minh riêng tăng, gọi chung là vô minh. Nói trên tất cả phiền não, Hoặc của bốn trụ địa trước 5 hiện chủng đều nương trên vô minh địa nên gọi là trên phiền não.

Sớ: Gọi chung là vô minh vì không có phẩm số.

Có nghĩa giải thích, nghĩa này không đúng. Thể đồng phiền não, tức như phiền não vì phẩm số riêng, chỉ nên nói là vì hành vi tế. Không nhiễm nghĩa đồng, hợp làm một trụ.

Biện rằng: Không đồng phiền não, địa địa chín phẩm phân làm thô tế để đoạn trước và sau. Nói không có phẩm số, không nói là không có ái, khuể v.v… các thứ gọi là không có phẩm, vì thế sớ không trái. Hoặc nói bất nhiễm nghĩa đồng hợp làm một, lẽ nào trong kinh kia chỉ đối với hàng Nhị thừa biện về năm trụ địa? Nếu gồm hàng Bồ-tát vì sao có nhiễm? Đối hàng Bồ-tát là lẽ ra nhiễm phần, như phiền não chướng đã không riêng khai, vì thế biết không đứng về bất nhiễm mà hợp.

Luận: “Hằng đoạn hai chướng” đến “thông Hữu lậu đạo”.

Có nghĩa gạn hỏi sớ giải thích: Nếu như vậy thì khi hàng Nhị thừa phục phiền não đồng thể, sở tri chướng lẽ ra đều không khởi. Lại đoạn phiền não chướng thì sở tri chướng lẽ ra cũng đoạn, chủng tử của sở tri chướng không chướng ngại trí kia, vì đạo lực kém nên hàng Nhị thừa không đoạn. Hiện hành cũng như vậy, không phải phục được. Nay nói phục cả hai là y theo hàng Bồ-tát nói, khi dùng pháp Không quán phục phiền não, đồng thể sở tri chướng cũng liền có thể phục. Như khi dùng Sinh không quán phục phiền não, cũng không thể phục, vì chẳng phải trị đạo, do đạo lý này hướng đến sở tri chướng. Sinh không Vô lậu không bằng Pháp không Hữu lậu đạo.

Biện rằng: Sớ không nói hàng Nhị thừa phục hoặc, cũng không nói sinh không trí, vì sao được nói hàng Nhị thừa không đoạn thể của sở tri chướng mà vặn hỏi? Lmf sao biết sớ chủ không y theo Pháp không trí phục hoặc mà nói? Nay y hàng Bồ-tát mà nói ư? Sớ lý thật thông, không thể hạn cuộc nơi tình, tự lấy mình để phá người.

Sớ: Hằng đoạn tập khí.

Xét luận kia ghi: Hằng đoạn tập khí, chẳng phải căn sở nhiếp, nhưng sáu căn này sở chứng phiền não hằng đoạn sở nhiếp.

Giải thích: Hằng đoạn tập khí trạch diệt Vô vi. Do đoạn được tập khí cho nên được tên tập khí. Tín v.v… năm căn và Cụ tri căn sáu sở chứng.

Sớ: Sáu thứ thiện xảo.

Ba khoa, duyên khởi, và xứ phi xứ, bốn Đế là sáu.

Sớ: Nghĩa là trí có sáu loại.

Văn này lược, nói đủ phải là phước và trí có sáu, tức lục độ nói ở trước. Phước và trí hợp nói là sáu. Vì thế quyển 3 tổng kết trước nói rằng, phước và trí như vậy lược có sáu loại. Mỗi mỗi phân biệt lẽ ra có vô lượng.

Luận: Ba sự mài dũa.

Ba thứ đại ý như sớ đã nói. Chuẩn theo Nhiếp Đại Thừa lại trừ bốn chướng duyên nơi pháp nghĩa, vì thế Vô Tánh luận quyển nói, trừ bốn chướng ấy.

Một là do lìa tác ý của Thanh văn, Độc giác, vì đoạn tác ý,

Giải thích: Do nghĩa là nhân vì. Do lìa chướng tác ý, năng nhập tướng sở tri. Ba chướng còn lại chuẩn theo đây. Hiển lý do lìa tác ý chướng gọi là đoạn tác ý. Đoạn nghĩa là phục đoạn, chướng khác cũng đồng. Hiển hàng sơ Bồ-tát thấy sinh tử là khổ, Niết-bàn là vui, muốn bỏ sinh tử ưa đến Niết-bàn, gọi là tác ý của Nhị thừa, chướng đại Bồđề, vì thế cần phải đoạn trước. Do quán sinh tử và Niết-bàn đều không có tánh tướng và tu đại bi, đoạn chấp tác ý sinh tử Tiểu thừa. Tác ý tức là chướng. Hoặc hai hàng Vô học chấp thừa của mình là cùng tột mà không chịu hướng đến Đại thừa. Hoặc hai hàng Hữu học chấp hướng đến hai quả, không ưa Đại thừa. Hoặc trước kiến đạo, Nhị thừa phàm phu ưa cầu hai quả. Đây đều gọi là tác ý của Nhị thừa.

Biện rằng: Bốn trường hợp lý đều thông. Hai giải thích trước là chính.

Hai là luận ghi: Do đối hàng Đại thừa, các nghi đã được lìa, do có thể hằng đoạn nghi dị tuệ.

Giải thích: Tuy lìa ý Nhị thừa, nhưng đối với các pháp môn của Đại thừa trước khởi nghi hoặc, sau chấp là một, liền sai bác bỏ các lỗi khác, năng phát tà tuệ và chánh tuệ sai khác, cho nên gọi là Dị tuệ. Thể tức pháp chấp, thuộc về tà kiến. Vì thế Thế Thân nói: Trong đây Dị tuệ gọi là tuệ thô xấu, đối với lý lay động khởi ba tánh quán. Dị tuệ và nghi hằng không chuyển lại, gọi là đoạn nghi tuệ. Nghi tuệ tức là chướng.

Hỏi: Đoạn nghi là nói từ pháp nào?

Đáp: Có bốn giải thích.

1. Có thể đoạn nghi kia gọi là lìa nghi.

2. Các nghi tức hàng Nhị thừa, lìa nghi tức tiệm đốn Bồ-tát.

3. Bất định: Các tiểu Bồ-tát tuy trước đã phát tâm, nhưng đối với Đại thừa khởi tưởng cao xa, thường thường thối lui, bèn khởi tâm nghi. Được không được gọi là các nghi, muốn thành tựu Nhị thừa, tâm sinh quyết định, gọi là lìa nghi.

4. Các Tiểu Bồ-tát trước đối với Phật ba tạng hiển mật v.v… vô số không đồng mà Phật nói sinh tâm nghi hoặc gọi là các nghi. Sau chấp làm một là chê trách kia là sai, tự quyết định gọi là lìa nghi. Căn cứ thật chưa ngộ y theo vọng giải thích, gọi là lìa nghi.

Biện rằng: Giải thích ban đầu là chánh, vì thế bản luận: ghi Vì sao có thể nhập tướng sở ứng tri? Họ đpá chung rằng: Do đoạn bốn thứ chướng v.v… nên có thể nhập. Trong phần giải thích riêng ở sau, bốn thứ đều nói hai thứ năng trị và sở trị. Nếu lìa nghi mà nói không gọi là năng trị, loại thứ hai làm sao được làm năng trị? Nếu nói không nói, vì sao chỗ khác thì có còn riêng ở đây thì không? Vì thế lìa nghi mà nói là hiển rõ có thể lìa. Nếu như vậy vì sao giải thích thứ nhất, thứ ba trước nói lìa? Giải thích thứ hai có thể lìa rồi sau mới nói ư? Đáp: A-tỳ-đạt-ma tánh tướng mà cầu tìm liền thấy rõ, vì sao trách trước sau! Giải thích thứ tư cũng nói không phân biệt, lẽ nào không phân biệt cũng là chướng ư? Nhưng giải thích thứ tư lý cũng thông Tiểu thừa, đã không phải là ý của luận, nên cũng không lấy.

Ba là luận ghi: Do lìa ngã và ngã sở chấp, đoạn pháp chấp trong pháp đã nghe, đã tư duy.

Giải thích: Tuy lìa các nghi nhưng tùy theo chỗ đã nghe hoặc giáo lý v.v… đều chấp có tánh, liền chướng ngại Duy thức pháp trí không quán. Vì thế đoạn pháp mới gọi là chân quán.

Bốn là luận ghi: Do hiện tiền trụ an lập trong tất cả tướng không có sở tác ý, sở phân biệt vì đoạn phân biệt”.

Giải thích: Đối với trong tướng an lập hiện tiền này mà không tác ý và lìa phân biệt. Nói đoạn phân biệt nhưng thông tất cả pháp phân biệt. Nếu tùy theo phân biệt mà nói là nhẫn một vị trí năng quán. Đây tức là thắng chướng. Khi nhập sơ Địa dứt diệt gọi là đoạn.

Hỏi: Vì sao lại cần phải đoạn vị nhẫn quán trí phân biệt này?

Đáp: Nhẫn này tuy lìa năng phân biệt và sở phân biệt nhưng tự có phân biệt vi tế kia chướng ngại trí vô phân biệt sơ trụ, vì thế cần phải diệt.

Hỏi: Thế nào gọi là xứ?

Đáp: Xứ nghĩa là xứ sở, tức bốn thứ sở chướng. Do bốn chướng này làm chướng ngại bốn quán hành. Tùy theo chỗ chướng kia nên có tên chướng. Chướng của bốn xứ là Y chủ thích. Hoặc bốn chướng này là chỗ trụ của tâm phân biệt. Chướng tức là xứ, là Trì nghiệp thích.

Ý ở đây cho rằng, hai chướng trước đều nhàm chán hành Tiểu thừa ham thích hành Đại thừa. Hai tướng sau là xả vọng chứng chân, vì thế gọi là chướng. Nếu có thể đoạn trí tức quán vô tướng và ba tánh, do chứng pháp không, chứng không năng sở, đoạn tâm phân biệt. Như bốn trí đoạn bốn chướng kia.

Hỏi: Ở địa vị nào đoạn bốn chướng?

Đáp: Vị Thập tín đoạn chướng đầu tiên, do lìa tâm Tiểu thừa, bắt đầu nhập vị Đại thừa Thập tín. Vị Thập giải đoạn chướng thứ hai, do đối với pháp Đại thừa lìa các nghi hoặc mà được chánh giải tu hành Bồ-tát. Vị Thập hồi hướng cho đến vị Nhẫn đoạn chướng thứ ba, do vì quán Biến kế trừ sở chấp. Vị Thế đệ nhất đoạn chướng tứ tư, do thứ nhất phân biệt quán trí Gia hạnh dứt diệt, được thành Sơ địa tối thượng giác. Nếu căn cứ tương vi chánh diệt mà nói thì đoạn phân biệt chướng tức ở vị sơ Địa, thành tựu lìa chướng phân biệt thứ tư này.

Luận dẫn tụng rằng: “Hiện tiền tự nhiên trụ, an lập tất cả tướng, trí đó không phân biệt, được tối thượng Bồ-đề”.

Giải thích: Nói hiện tiền nghĩa là nói chung định và tán hai cảnh, tâm ngay lúc đó gọi là hiện tiền. Tự nhiên trụ là riêng hiển cảnh tán. An lập là nói riêng cảnh định. Tất cả tướng là hiển tướng hai cảnh. Trí đó không phân biệt nghĩa là lìa tâm năng thủ. Được tối thượng Bồ-đề là lìa chướng được quả tức Sơ địa gọi là tối thượng Bồ-đề. Hình ở Địa tiền nên gọi tối thượng. Nói duyên pháp nghĩa, pháp là văn, danh, cú năng thuyên; nghĩa tức là sở thuyên. Vì thế luận Vô Tánh ghi: Tợ văn, tợ nghĩa.

Giải thích: Dường như tướng bên ngoài chuyển mà thật ra chỉ ở bên trong, có giống như không, trong giống như ngoài.

Luận: “Noãn v.v… bốn pháp” đến “vị trước sau lập”.

Tầm tư và thật trí hai thứ này là thể Gia hạnh. Xét Nhiếp luận của Vô Tánh quyển ghi: Khi Gia hạnh tuy cầu hành kiến, giả có thật không, phương tiện nhân tướng gọi là tầm tư.

Giải thích: Đứng về ngôi vị để nói hành tướng tầm tư. Suy cầu hành kiến tức trí năng quán. Hành tướng kiến giải gọi là hành kiến. Suy cầu danh nghĩa thấy trên thức giả ngoài tâm thật không có, tức tầm tư này là vị gia hạnh ban đầu tu nhân tướng. Lại nói, rõ biết giả có thật không, sở đắc quyết định hành trí phương tiện quả tướng gọi là Như thật trí.

Giải thích: Quyết định rõ biết danh nghĩa v.v… giả gọi như thật trí, tức vị phương tiện trọn thành gọi là quả.

Sớ: Nay ở trong trụ này rất thanh tịnh.

Xét luận kia ghi: Trong vô tướng trụ, bốn thứ tai hoạn nay đều trừ đoạn.

  1. Trong vô tướng có Gia hạnh, có sự công dụng.
  2. Đối với thanh tịnh trụ ở trước tinh cần ngưỡng mộ.
  3. Trong tất cả việc lợi ích cho hữu tình, có sức kham lãnh, siêng năng ngưỡng mộ.
  4. Có tưởng vi tế hiện trong hành trước.

Vì thế trụ này gọi là rất thanh tịnh.

Giải thích: Trong Địa thứ bảy còn có pháp chấp, ý trước chấp thanh tịnh kia v.v… siêng năng ngưỡng mộ v.v… vì thế vô sinh nhẫn gọi đó là tạp.

Sớ: Chẳng phải tầm tư cùng với tầm tương ưng.

Chẳng phải bốn thứ tầm tư cùng với tầm trong bất định tương ưng, cho nên được tên tầm. Nếu tầm tương ưng mới được gọi tầm tư. Tầm tư không tương ưng Đệ tứ thiền. Trong Đệ tứ thiền không có pháp thể của tầm trong Bất định.

Sớ: Tám thứ tà.

Như trước đã dẫn.

Sớ: Y danh nêu bày việc bên ngoài.

Danh sở thuyên nêu bày việc ngoài thức.

Luận: “Y ấn thuận định” đến “gọi là Thuận lạc nhẫn”.

Sớ có hai giải thích. Có nghĩa gạn hỏi giải thích sau rằng: Nếu ấn năng thủ không tùy theo quán sát thuận, thông nhẫn trên, lẽ ra ấn sở thủ không có, cũng thuận quán thuận kia thông nhẫn dưới, vì lý đều đồng. Nhẫn dưới do ấn đã không gọi là thuận, nhẫn trên cũng ấn, vì sao có tên thuận? Vì thế nay giải thích thuận chỉ ở trung nhẫn. Nhẫn trên như ở sau chỉ gọi là Ấn nhẫn.

Biện rằng: Căn cứ theo văn, hiển bày sơ lược, có nghĩa thù thắng, sau tổng nhiếp nghĩa, giải thích văn Bản tụng mà nói ba nhẫn ấn năng thủ và sở thủ. Trước sau hai nhẫn đều không có chữ “thuận”. Nếu bàn cùng tột lý thì sớ cũng không có lỗi. Ban đầu nhẫn chưa tu thuận không năng thủ, nên không lập tên thuận. Sau thuận quán kia, cho nên có thuận. Trong phần Nhiếp nghĩa ở sau nêu đoạn giữa hiển đoạn sau, do văn tóm lược mà thôi. Nay thêm một giải thích. Thuận thông hai thứ đầu. Ban đầu nhẫn tuy chưa tu không có năng thủ, ấn sở thủ không có tức là thuận không có nghĩa năng thủ. Năng thủ và sở thủ đối đãi nhau mà lập. Vì thế luận tổng kết: Ấn trước thuận sau lập tên ấn thuận. Nhẫn trên đã ấn, không thể nói thuận. Văn sau hiển rõ. Nhưng chặng giữa nói thuận cũng không trái nhau.

Luận: Trong pháp Dị sinh đây là tối thắng.

Chỉ có phàm hướng đến Thánh mới có thể như chỗ đã nói. Bậc Thánh hồi tâm, quy hướng Đại thừa, đối với đây vì sao nói Dị sinh là thứ nhất? Đáp: Thánh hồi tâm hướng đến tức thuộc về câu “đồng thời”. Đại thừa Dị sinh tánh chướng chưa đoạn, do đây cũng được gọi là thứ nhất.

Sớ: “Nghĩa là có tùy miên” đến “không có tánh kham nhậm”.

Đây là hiển rõ lậu sở đoạn, chỗ ở của A-la-hán để nói về thể. Phàm phu và Hữu học năm ấm là giả gọi là có Tùy miên. Có thức thân tức có thân tùy miên. Lậu như thuốc độc, khiến cho thân không an, không có tánh kham nhậm. Tùy theo thí dụ mà gọi.

Sớ: “Khi Tùy miên đoạn” đến “đều được kém cỏi”.

Đây là khí phần của phiền não lậu độc. Do vì độc mà có tên sở phát v.v… Từ vô thỉ mà có, nên gọi là vốn được. Không an ổn v.v… đồng phiền não trước gọi là tương tợ nó. Do độc xưa trừ cho nên phát khí chỉ được kém cỏi.

Sớ: Đối Pháp quyển 1 có hai mươi bốn thô trọng.

Nghĩa là biến hành, hý luận thô trọng, chấp tập khí các pháp như nhãn v.v… Lãnh thọ là Hữu lậu các thọ tập khí. Phiền não là phiền não tùy miên. Nghiệp là tập khí nghiệp Hữu lậu. Dị thục là Dị thục không có tánh kham thọ. Phiền não chướng là tánh phiền não khi mạnh. Nghiệp chướng là vô gián nghiệp v.v… các tánh. Dị thục chướng là tự thể của Na-lạc-ca v.v… Cái là có thể chướng thiện phẩm, dục tham v.v… các tánh. Tầm tư là có chướng sự ưa thích tầm tư của người xuất gia. Ẩm thực là ăn nhiều ít đối với phương tiện tu hành không có tánh kham nhậm. Giao hội là hai hình giao nhau thân tâm mỏi mệt, tổn hại tánh. Mộng là trong khi ngủ say phát ra, thân hôn mê liệt tánh. Bệnh là các đại hỗ tương trái, tánh không ổn. Lão là đại chủng suy biến mà có thân già, tánh không tùy chuyển. Tử là khi lâm chung, tánh các căn loạn. Lao quyện là đi xa v.v… thân thể mỏi mệt, tánh mê mờ. Kiên cố là không có pháp Niết-bàn, như sở ứng kia tất cả tánh hý luận v.v… Tế nghĩa là ba tế trong thô, là tất cả thô trọng của ba cõi. Phiền não chướng là sở trị Bồ-đề của hàng Nhị thừa. Định chướng là công đức sở trị do chín định phát ra. Sở tri chướng là sở trị của tất cả trí tánh. Sau mỗi loại đều có chữ “thô trọng”, nay tỉnh lược bớt. Tổng hợp giải thích các văn như trong Nghĩa Đăng có biện đủ.

Luận: Chẳng phải như Nhị thừa chỉ quán An lập.

Sớ có hai giải thích, không xác quyết hơn kém. Nay xem hai giải thích lý vẫn khó hiểu, vì sao vậy? Tam thừa chân kiến đều không an lập. Vì sao Nhị thừa phương tiện an lập dẫn không an lập? Như ở trước không thừa nhận dùng chấp dẫn dắt Không vì dị loại. Nếu thừa nhận tác 0 giả thì lại trái với văn này.

Đáp: Nhân thân của Dị loại lý thật ra chưa được. Tướng tăng thượng phát thô dẫn diệu sinh, đối với lý có lỗi gì? Như Hữu lậu và Vô lậu thừa nhận dẫn dắt nhau. Vì thế Luận Du-già quyển 3 ghi:

Hỏi: Như trước không có, biết trí vô tướng, do không có nên cũng không huân tập. Đã không có nhân kia thì lẽ ra không được sinh ư?

Đáp: Có tướng cũng được làm nhân không tướng, vì tùy thuận nó. Như trí thế gian làm duyên sinh trí xuất thế gian. Trí Hữu lậu làm duyên sinh trí Vô lậu. Định hữu tâm làm duyên sinh định vô tâm. Đây cũng như vậy. Nay dùng an lập dẫn phi an lập cũng nào có sai lý. Nhưng an lập quán vốn mong đoạn hoặc chứng lý Vô vi. Có thể ít phục hoặc cũng được gọi là thuận Phi an lập. Lại các loại khác không phải một, Niếtbàn, Thắng Man v.v… đều nói vô tác. Tứ đế không phải là sở tri của Nhị thừa. Hoặc Nhị thừa ngu pháp và bất ngu pháp hai hạng không đồng. Đầu tiên không thể làm, sau thừa nhận tu. Kinh và luận y theo trước nên nói không làm, lẽ ra cũng không có lỗi.

Sớ: Một là y phi y.

Nghĩa là tư hiện quán chỉ ở Dục giới vì thế không nương theo tám định gọi là y phi y. Năm phần còn lại thông nương theo tám định địa, căn cứ tu đạo mà nói. Lại ba nương theo năm, ba phần này ban đầu sinh nương nơi kiến đạo. Tứ thiền căn bản và một chưa được gọi là năm y, kiến đạo quyến thuộc tín cũng gọi năm y. Tín hiện quán còn lại thì không như vậy, nên nói là một phần.

Sớ: “Nay” đến “tu đều duyên khắp”.

Kia là sở tu trí chủng thế tục, đến vị tu đạo đều năng sinh hiện duyên khắp các pháp, không đồng như Hữu tông rốt ráo không khởi. Vì thế quyển ghi: Khi chứng được kiến đạo tức trí thế tục tu thiện có được chủng tử, do huân tu kia đều được thanh tịnh cũng gọi là tu.

Giải thích: Do nhập kiến đạo đoạn nhiễm ô. Vì thế chủng tử thế tục lìa một phần pháp có thể làm ô nhiễm gọi là thanh tịnh. Căn cứ thanh tịnh này nên gọi là tu.

Lại nói, các trí thế tục phát kiến đạo rồi, sinh khởi trí này chứng kiến ở đoạn các pháp giải thoát, khéo phân biệt đúng không tùy theo đường ác, lại có thể rõ biết được quả Dự lưu đã đoạn. Như vậy tất cả phiền não là tha ký biệt.

Giải thích: Đây đều là bàng tu trí năng thế tục, không nói Hậu đắc trí Vô lậu.

Sớ: Lại quyển .

Xét luận kia ghi: Lại đối với vị kiến đạo, khi bắt đầu trí sinh, các trí khác do năng sinh duyên nhiếp thọ, vì thế đều được tăng trưởng. Tất cả kiến đạo tức trong sát-na này đều gọi là được. Đối với đây sau khi đã chứng đắc lần lần thứ lớp hiện tiền, phải biết kiến đạo là vị mau chóng.

Giải thích: Mười sáu trí của vị kiến đạo, trí đầu tiên sinh, mười lăm trí còn lại vốn có chủng tử, nhưng tăng trưởng nên đều gọi là được. Do trí đầu tiên làm sinh duyên nhiếp thọ. Đã nói tất cả rõ ràng Vô sắc giới Vô lậu kiến chủng, lúc này cũng tăng gọi là tu Vô sắc, đối với lý không trái.

Sớ: “Nếu tự tại được trước” đến “như loại trí duyên” Xét luận kia ghi:

Hỏi: Tất cả trí khi hiện tiền đều biết rõ sắc và Vô sắc giới ư?

Đáp: Nếu có hợp với các pháp đã có ở sắc và Vô sắc giới, khéo nghe khéo tư duy, khéo lấy tướng tức là có thể rõ biết. Nếu không như vậy thì không thể liễu biệt.

Giải thích: Trí có hai là chân trí và tục trí. Nay ở đây đứng về tục trí mà nói. Nếu chân trí thì nhất định duyên ở trên, như Đế trên dưới tám loại trí. Đã khéo tu tập thì có thể rõ đối với trên. Nói tự tại thiện cũng có thể tu thượng, vì đều từng được.

Luận: “Nếu không có tướng kia” đến “trí của danh thanh”.

Sớ có lượng phá. Có nghĩa nói tác này lập nhân cũng không có đồng dụ, chỉ nên trách thẳng không cần lập lượng.

Biện rằng: Lập lượng trách thẳng, lý đều vặn hỏi tường tận, vì sao như vậy? Sư trước chỉ nói trí vô phân biệt không có tướng phần, không nói không có phần khác, vì sao được dùng trí ở cõi sắc và cõi Vô sắc mà lập lượng thẳng trách? Nay dùng lý chuẩn theo văn thiếu một lần vặn hỏi và đáp. Vặn hỏi rằng: Trừ trí vô phân biệt, tất cả tâm khác khi duyên cảnh lẽ ra không có tướng phần, gọi là duyên cảnh, như trí vô phân biệt của ông khi duyên cảnh hay sao? Sư trước đáp: Giả sử như vậy, cũng đâu có lỗi. Vì thế luận ghi: Nếu không có tướng kia gọi là duyên nó v.v… Vặn hỏi trí của sắc v.v… triển chuyển thành lập chân kiến có tướng, luận không nói là vì khéo lược văn khiến sinh trí sau. Vặn hỏi trí của sắc v.v… nay lập lượng rằng: Trí duyên sắc của ông, có thể duyên thanh v.v… thừa nhận không coa các tướng như thanh v.v… Như trí duyên thanh v.v… lượng khác có thể biết. Có nghĩa xác quyết rằng lượng này không đồng dụ, chân tợ có thể biết.

Luận: Nói vô tướng lấy vì không lấy tướng.

Xét quyển 3 ghi:

Hỏi: Đối với vô tướng giới, hoặc lấy tướng kia không lấy vô tướng. Nếu không có chỗ lấy thì cũng không được thành lấy vô tướng. Nếu như vậy vì sao gọi vô tướng lấy?

Đáp: Không nói tùy miên vì đã xa lìa. Lấy đây tuy lại lấy vô tướng giới, không lấy tướng cho nên thành vô tướng lấy.

Hỏi: Nếu không cấu hoặc vì sao thành lấy?

Đáp: Tuy không cấu hoặc tướng sai biệt nhưng có chỗ tăng ích. Nhưng lấy vô tướng, cho nên thành lấy.

Hỏi: Nếu không cấu hoặc không chỗ tăng ích. Lấy này tướng trạng vì sao biết được?

Đáp: Lấy Thắng nghĩa cho nên lấy vô tướng. Năm thứ sự tướng đều không hiển hiện cho là tướng kia.

Hỏi: Nếu không phân rõ có thể lập làm thủ, vì sao không thừa nhận các thủ diệt không?

Đáp: Vì diệt không, không có nghĩa tu tác. Người không tu quán nương nơi diệt không, có chỗ tu tác tướng biết nó.

Hỏi: Nếu như vậy vì sao chứng?

Đáp: Từ sở chứng tri của trí nội chứng.

Hỏi: Nếu như vậy vì sao không như sở chứng kia mà ký biệt như vậy?

Đáp: Trí nội chứng này không phải chỗ an lập của các danh ngôn.

Luận: Một là quán phi an lập có ba phẩm tâm.

Có nghĩa nay nói, ba tâm là phi an lập, là đối mười sáu tâm. Nếu đối một tâm vô tướng kiến đạo cũng gọi là an lập. Bốn Thắng nghĩa trong hai Chân như thuộc tâm thứ ba.

Biện rằng: Tuy có lý nhưng trong các giáo đều không nói chỗ an lập này. Vì thế, biết an lập chỉ nương bốn đế sai biệt quán mà nói, cùng với Thắng nghĩa lập có chỗ không đồng, không thể làm thí dụ. Nên luận Đối Pháp quyển ghi: An lập nghĩa là Thanh văn tùy sở chứng của tự mình rồi đã được rốt ráo, vì muốn cho người khác cũng được liễu tri. Do Hậu đắc trí dùng vô lượng danh, cú, văn, thân mà an lập đạo đế, nghĩa là trong các Đế có nhẫn như vậy như vậy, có trí như vậy như vậy, chỉ đứng về bốn đế mà biện an lập vậy.

Luận: Trong trừ hữu tình giả duyên trí.

Nói trong, trong truyện có hai giải thích.

1. Như trong sớ nói tự thân gọi là trong. Vì thế luận Đối Pháp ghi:

Vì sao bỏ hữu tình giả trí ở duyên pháp làm tướng? Do tướng của trí này đối trong tự tương tục có ngã tướng không phân biệt. Không phân biệt là nghĩa trừ bỏ. Vì sao bỏ pháp giả trí sở duyên pháp làm tướng? Do trí này đối trong sự tương tục không có tướng phân biệt sắc v.v… các pháp. Còn lại giống như trước, vì thế biết trong là căn cứ tự thân mà nói.

2. Đứng về giới để biện trong ngoài. Ban đầu bỏ sự tha hữu tình giả ở Dục giới. Thứ hai bỏ tự tha pháp giả ở Dục giới. Đồng ở Dục giới nói trong, dụ như trong người thông tự và tha đều gọi là trong. Thứ ba bỏ hết, ngã pháp hai giả ở cõi trên đều bỏ hết nên nói bỏ hết.

Biện rằng: Lý sau tuy thông nhưng không có chứng cứ. Nay y theo thuyết ban đầu.

Luận: “Pháp chân kiến đạo” đến “gọi là tướng kiến đạo”.

Hỏi: Chân giải thoát đạo đã không đoạn hoặc, vì sao gọi là pháp thứ ba đối với nó trừ hết tùy miên?

Đáp: Có hai giải thích:

1. Nay đã giả nói không có thật đoạn chứng, vì thế không nên trách.

2. Tuy không đoạn chủng trừ thô trọng, nhưng trừ tùy miên cũng đâu trái lý.

Biện rằng: Thuyết sau lẽ ra trội hơn. Phàm nói pháp là nghĩa tợ. Sở pháp đã không thì năng pháp làm gì có. Tuy biết giả nói cũng giả tợ chân. Do từ thô trọng tợ như là kia đoạn chủng. Giả nói trừ hoặc, vì thế thuyết sau hay hơn.

Sớ: “Do tự chứng phần thể nghĩa sai khác”.

Hỏi: Hữu vi và Vô vi khác nhau, vì sao nói là không khác?

Đáp: Không có năng duyên và sở duyên sai khác. Do tự chứng phần tuy là năng duyên, không phải là năng duyên của Vô vi pháp, vì thế nói không khác.

Sớ: Nhẫn khổ pháp trí trước.

Nhẫn là ấn nhẫn. Nhẫn trí trong vị Gia hạnh, do trí này thông duyên hai cảnh: một là duyên trí Gia hạnh, hai là duyên chân kiến sở quán Chân như, Chân như cực thành. Vì thế, sớ không nói chỉ nói trí nhẫn. Có nghĩa gạn hỏi: Nhưng trí nhẫn này đã không duyên trí, vì sao nói nhẫn pháp trí trước? Cho nên chỉ nói hiện chứng Chân như gọi là nhẫn.

Biện rằng: Không trái, như trong Nghĩa Đăng có dẫn đủ lý giáo. Nhưng nói trí nhẫn hoặc từ nhân mà có tên, hoặc từ quả mà gọi, đều có đủ trong Nghĩa Đăng.

Luận: Khổ loại trí nhẫn.

Đây tức là hai chứng nhẫn trước và trí, nên luận Đối Pháp ghi: Khổ loại trí nhẫn, nghĩa là trí khổ pháp vô gián Vô lậu tuệ sinh. Đối với trí nhẫn khổ pháp và trí khổ pháp đều riêng nội chứng. Nói các Thánh pháp sau đều là chủng loại này, vì sao vậy? Do hai loại đầu là tất cả chủng loại Thánh pháp sau, vì từ đây mà kia được sinh. Vì thế Vô lậu tuệ sinh đều riêng nội tướng, duyên này làm cảnh. Nói các Thánh pháp sau đều là chủng loại này, vì thế cho nên gọi là khổ loại trí nhẫn.

Giải thích: Hai trí nhẫn đầu là chủng loại Thánh đạo sở sinh sau, gọi là khổ loại. Trí duyên nhẫn này gọi đó là nhẫn. Hoặc các Thánh đạo sở sinh sau là chủng loại trước nên gọi đó là duyên.

Luận: Bốn khổ loại trí.

Tức duyên loại nhẫn thứ ba làm cảnh. Hoặc cũng duyên pháp nhẫn trí trước, tức là ấn loại sở duyên, không duyên loại nhẫn gọi là ấn loại nhẫn.

Luận: Pháp chân cụ đạo.

Sớ có hai giải thích. Có nghĩa, trước giải thích rằng, luận này và luận Đối Pháp đều nói loại Nhẫn đối với trí pháp nhẫn đều nội chứng khác nhau, tức gồm hai tự chứng phần là vô gián và giải thoát. Lại nói, loại trí ấn có thể là loại nhẫn, không nói loại trí riêng chứng pháp trí, vì sao nói pháp chân kiến đạo giải thoát tự chứng? Nay có hai giải thích:

1. Pháp nhẫn trí nhẫn khác với pháp chân kiến vô gián và giải thoát kiến phần duyên Chân như. Loại nhẫn gồm pháp vô gián và giải thoát tự chứng phần duyên trí. Nhưng chưa quyết định loại trí trọng pháp, trở lại quyết ấn trì, cũng đồng hai tự chứng phần của pháp loại nhẫn.

2. Ba loại trước giống như trước, loại thứ tư đã nói ấn khả loại nhẫn, do đây gồm pháp vô gián và giải thoát chứng tự chứng phần duyên tự chứng phần. Trong hai đạo tự chứng duyên kiến phần, thứ tư duyên thứ ba. Nay loại trí nhẫn đã là pháp tự chứng, thứ tư duyên nhẫn nói pháp chứng tự chứng phần của hai đạo, chỉ nói pháp kiến và tự chứng là lược không luận đến, nghĩa cũng như vậy.

Biện rằng: Nhưng nói pháp là chỉ nói chân kiến duyên trí Chân như. Riêng không căn cứ hình tướng sai biệt kia, do vì trong chân kiến không có hành riêng. Phần thứ ba tuy chỉ chứng hai trí trước. Phần thứ tư cũng vậy, hoặc duyên phần thứ ba.

Nhưng trí này duyên với trí, căn cứ một bên này riêng nói hai đạo, không căn cứ và giải thích hành thứ ba, thứ tư để phân chia, vì thế cũng không có lỗi, nên luận kết rằng kiến lập sai biệt gọi là tướng kiến đạo.

Hoặc phần ba bốn đều đủ hai pháp tự chứng phần của hai đạo trước, nghĩa sau khác mà không hiển rõ. Nếu pháp chứng tự chứng phần của hai đạo có lý mà không có văn, hoặc cũng không có lỗi, vì văn lược mà thôi.

Sớ: Lại giải thích tổng pháp này.

Hễ pháp duyên trí Chân như, không phân kiến phần và tự chứng phần của hai đạo, gọi là tổng pháp.

Sớ: Tuy duyên trí, duyên Chân như không đồng kiến phần là một.

Nghĩa là hai trí chân vô gián và giải thoát đều duyên Chân như, loại nhẫn duyên trí, căn cứ kiến phần năng duyên, nên hợp pháp.

Luận: Hai loại ấy nương quán đế trên dưới.

Xét trong quyển 55 ghi: Hiện quán biên trí đế hiện quán, phải biết trí này tâm thứ ba vô gián từ kiến đạo khởi mới hiện tiền. Duyên thế trí trước sở quán sát. Hai địa trên dưới hai tăng thượng an lập đế cảnh. Tợ như pháp loại trí và thế tục trí nhiếp, thông thế và xuất thế. Đây là trí xuất thế gian sau mới được. Như thứ lớp kia, mỗi mỗi Đế có hai thứ chủng trí sinh, đó là Nhẫn khả dục lạc trí và Hiện quán quyết định trí. Như vậy từ Hiện tiền quán khởi rồi đối trong trên dưới các Đế hai trí sinh.

Giải thích: Duyên đời trước, lược có hai cách giải thích:

1. Duyên kiến đạo, trước hợp sở quán sát, dưới là Dục giới địa, trên là hai sắc và sắc giới. Phiền não tức là khổ đế và Tập đế. Hai tăng thượng tức đế là diệt và đạo hai an lập cảnh đó.

2. Duyên chân kiến trước gọi là quán sát, do chân kiến duyên Địa trên dưới và tất cả tăng thượng an lập tứ Đế cho đó là cảnh.

Nói vô gián thứ ba, tâm thứ ba trong ba tâm kiến đạo sau khởi mười sáu quán gọi là vô gián thứ ba. Văn khác có thể biết. Lại xét luận Hiển Dương quyển 1 ghi: Tứ đế hiện quán này trở lên, đối vị tu đạo có mười sáu hành trí thanh tịnh thế và xuất thế gian sinh, nghĩa là đối Dục ràng buộc và khổ đế sinh hai trí, một là Hiện quán thẩm sát trí, hai là Hiện quán quyết định trí. Đối với khổ đế và dục trói buộc ở cõi sắc và Vô sắc cũng có hai trí như vậy. Trong khổ đế này có bốn trí, như vậy đối với Tập đế, Diệt đế, Đạo đế cũng đều có bốn đế.

Giải thích: Bốn đế hai trí đồng quyển 55 giải thích, Kiến đạo và tu đạo vị riêng như trong Nghĩa Đăng tổng hợp.

Luận: “Các tướng kiến đạo” đến vì chân đã đoạn”.

Đây là văn trái nhau. Trong quyển 55 ghi: Thế đệ nhất vô gián

có ba tâm sinh đoạn kiến sở đoạn. Luận Hiển Dương quyển 1 ghi: Từ pháp vô gián thứ nhất có ba tâm sinh. Đoạn kiến sở đoạn một trăm hai mươi phiền não. Luận Đối Pháp ghi: Thế đệ nhất pháp vô gián, khổ pháp trí nhẫn v.v… sinh, do tuệ này hằng xả kiến khổ sở đoạn tất cả phiền não. Những đoạn văn này đều nương chân mà giả nói. Luận Đối Pháp tổng hợp: Lại như trước nói kiến đạo sai biệt đều giả kiến lập, không phải chân thật như vậy, vì sao? Vì trong xuất thế trụ nội chứng khác nhau, vì lìa hý luận.

Sớ: Nhân của phi an lập không khắp ba tâm.

Tướng phần và kiến phần của ba tâm phi an lập nên không được dùng nhân của phi an lập để chứng ba tâm không phải chân kiến đạo.

Sớ: “Luận Phật Địa” đến “nghĩa của hai sư”.

Sư thứ nhất đồng như sư thứ hai. Hai sư sau đồng sư thứ ba này. Hai sư kia tổng nói Vô lậu trí có kiến phần và tướng phần. Sư thứ ba nói Căn bản trí không có Hậu đắc trí, thừa nhận có nên thành hai cách khác nhau.

Luận: Lại nói trí này phân biệt các pháp.

Xét luận Phật Địa, sư thứ ba nói: Trí Vô lậu vô phân biệt tương ưng tâm phẩm vô phân biệt, vì sở duyên Chân như không lìa thể, như chiếu tự thể không có tướng phần khác. Nếu Hậu đắc trí tương ưng tâm phẩm có phân biệt vì sở duyên cảnh giới lìa chân, như tâm Hữu lậu tợ như cảnh tướng hiện rõ duyên chiếu. Nếu tâm Vô lậu duyên thì lìa thể, cảnh không tợ như tướng kia mà được duyên. Luận Quán Sở Duyên không nói trên năm thức không có tướng tợ cực vi nên không có sở duyên. Cảnh tướng như vậy đồng tâm Vô lậu, chủng tử Vô lậu khởi. Tuy có pháp tướng tương tợ Hữu lậu nhưng chẳng phải Hữu lậu, như tâm Hữu lậu tương tợ tướng Vô lậu nhưng chẳng phải là Vô lậu.

Luận: Sáu hiện quán.

Hiện quán sai biệt trong các luận đã nói rộng như chương đã nêu. Luận Đối Pháp và Hiển Dương nói mười và mười tám nay lược dẫn. Luận Đối Pháp quyển 13 ghi: Kiến lập hiện quán lược có mười loại:

1. Pháp hiện quán: Do trong các đế tăng thượng trong Khế kinh v.v… từ sức tăng thượng nghe âm thanh khác đã được sau cùng thuận giải thoát phần thiện căn nhiếp thượng phẩm thanh tín thắng giải. Do pháp mà được nên gọi là Pháp hiện quán.

2. Nghĩa hiện quán: Do đối với pháp tăng thượng phẩm Đế trên, sức tăng thượng như lý tác ý đối với khổ đế v.v… đã được sau cùng thuận quyết trạch phần thiện căn nhiếp thượng phẩm đế, sát pháp nhẫn.

3. Chân hiện quán: Đã được kiến đạo mười sáu sát-na tất cả Thánh đạo, lại trong Kiến đạo được Hiện quán an lập đế thế tục trí.

4. Hậu hiện quán: Tất cả tu đạo, do sau thấy tất cả đạo thế gian và đạo xuất thế gian đều gọi là Hậu Hiện quán.

5. Bảo hiện quán: Do đệ tử của Phật Thánh đối với Tam bảo đã được quyết định chứng thanh tịnh tín. Nghĩa là Đức Phật là chân Chánh đẳng giác. Pháp Tỳ-nại-da là chân thiện diệu pháp, chúng đệ tử của Phật là chân tịnh hành.

6. Bất hành hiện quán: Đã chứng được giới và luật nghi mà Thánh ưa thích nhiếp thọ, do được điều này nên đã đối trị Na-lạc-ca, Dị thục v.v… nhất định không hiện hành nữa, hằng dứt không hiện hành nên gọi là Bất hành hiện quán.

7. Cứu cánh hiện quán: Như cứu cánh đạo trong Đạo đế, nghĩa là đã dứt tất cả thô trọng rồi, được lìa tất cả sự ràng buộc mà được như vậy.

8. Thanh văn hiện quán: Tức bảy thứ hiện quán đã nói trước, từ người khác nghe âm thanh mà chứng được gọi là Thanh văn hiện quán.

9. Độc giác hiện quán: Từ bảy thứ hiện quán trước, không do âm thanh mà chứng được nên gọi là Độc giác hiện quán.

10. Bồ-tát hiện quán: Các vị Bồ-tát đối với bảy thứ hiện quán trước thương tiếc chúng sinh không đối với hạ thừa mà xuất ly. Nhưng Bồ-tát Cực hỷ địa nhập Bồ-tát chánh tánh quyết định gọi là Bồ-tát Hiện quán.

Lại xét trong Luận Hiển Dương quyển 1 ghi: Lại hiện quán này sai biệt có mười tám thứ, đó là:

  1. Trí do nghe sinh ra
  2. Trí do tư duy sinh ra
  3. Trí do tu sinh ra
  4. Thuận quyết trạch phần trí
  5. Kiến đạo
  6. Tu đạo
  7. Cứu cánh đạo
  8. Trí thế tục thanh tịnh bất thiện
  9. Trí thế tục thanh tịnh thiện
  10. Thắng nghĩa trí
  11. Trí hữu phân biệt bất thiện thanh tịnh hành
  12. Trí hữu phân biệt thiện thanh tịnh hành
  13. Trí vô phân biệt thiện thanh tịnh hành
  14. Thành sở tác tiền hành trí
  15. Thành sở tác trí
  16. Thành sở tác hậu trí
  17. Thanh văn trí
  18. Bồ-tát trí

Trong truyện giải thích: Ba trí đầu trong vị tư lương có ba tuệ như thứ lớp, trí thứ tư như trên tên gọi, trí thứ tám tức Thuận giải thoát phần, vì chưa có thể khéo hiểu lý bốn Đế. Trí thứ chín tức Thuận quyết trạch phần khéo hiểu lý bốn Đế. Trí thứ mười tức vị kiến đạo, tu đạo và Vô học. Trí thứ mười một tức trí cõi Dục. Trí thứ mười hai là tu tuệ ở cõi sắc và Vô sắc. Trí thứ mười ba tức kiến đạo, tu đạo, cứu cánh đạo duyên Phi an lập trí. Trí thứ mười bốn, mười lăm, mười sáu như thứ lớp Gia hạnh, chánh thể, Hậu đắc trí. Trí thứ mười bảy là tất cả hiện quán của Thanh văn. Trí thứ mười tám là các trí hiện quán của Bồ-tát.

Lại y theo luận kia quyển 1 giải thích chín trí rằng: Bất thiện thanh tịnh thế tục trí tức là Thuận quyết trạch phần trí. Thiện thanh tịnh thế tục trí là xuất thế Hậu đắc trí thế gian trí. Thắng nghĩa trí là kiến đạo trí. Lại Bất thiện thanh tịnh tướng hữu phân biệt trí, Thiện thanh tịnh hữu tướng phân biệt trí, Thiện thanh tịnh tướng vô phân biệt trí. Lại Thành trở tác tiền hành trí, Thành sở tác trí, Thành sở tác hậu trí.

Nói ba loại trước sai biệt nghĩa là, chưa đoạn phiền não sinh phi phiền não đối trị, đã đoạn phiền não sinh phi phiền não đối trị, đã đoạn phiền não sinh thị phiền não đối trị. Ba loại giữa sai biệt, tức ba thứ này do có phân biệt, không phân biệt, thế tục và Thắng nghĩa trí tánh sai biệt. Nói ba trí sau sai biệt, là ba thứ này hiển bày trước đoạn, đang đoạn và hậu trí tánh sai biệt. Nay văn của luận kia phối vị là chính.

Lại xét trong Nhiếp luận quyển nói sáu hiện tướng. Đại thừa Tiểu thừa có mười một thứ sai khác không đồng, vì thế bản luận ghi: Bồ-tát hiện quán cùng Thanh văn khác nhau, do mười một thứ sai biệt, nên biết.

1. Sở duyên sai biệt, vì pháp Đại thừa làm sở duyên.

2. Tư trì sai biệt, vì hai thứ tư lương đại phước trí làm tư trì.

3. Thông đạt sai biệt, vì có thể thông đạt Bổ-đặc-già-la và pháp vô ngã.

4. Niết-bàn sai biệt, vì nhiếp thọ vô trụ đại Niết-bàn.

5. Địa sai biệt, vì y vị Thập địa mà xuất ly.

6, 7. Thanh tịnh sai biệt vì đoạn phiền não, tu tịnh cõi Phật.

8. Tự tha bình đẳng tâm sai biệt, vì thanh tịnh hữu tình Gia hạnh không thôi dứt.

9. Sinh sai biệt, vì sinh vào nhà Như Lai.

10. Ái sinh sai biệt, thường ở trong hội chư Phật nhiếp thọ sinh.

11. Quả sai biệt: Mười lực, bốn vô úy, mười tám pháp bất cộng, vô lượng công đức quả thành tựu viên mãn.

Luận: Được các bình đẳng.

Nhiếp luận của Vô Tánh quyển ghi: Được hữu tình bình đẳng tâm tánh, vì thấy khắp tất cả đều vô ngã.

Có thuyết nói: Tất cả các pháp đều là Như lai tạng, được tất cả tâm tánh bình đẳng của Bồ-tát vì được tánh ý lạc bình đẳng kia; được tất cả tâm tánh bình đẳng của Đức Phật, vì được tánh pháp thân bình đẳng.

Trong kinh Phật Địa có mười thứ bình đẳng, như ở trước đã dẫn.

Sớ: Mười thứ phát tâm.

Kinh luận đã dẫn văn rất nhiều, nên ở đây không dẫn nữa.

Sớ: Lại khởi thức A-lại-da y tha tánh quán.

Xét quyển quyển 51 ghi: Thức A-lại-da căn bản tạp nhiễm này, nhờ tu thiện pháp nên mới được chuyển thức. Tu thiện pháp này, nếu các Dị sinh dùng duyên chuyển thức là cảnh tác ý. Phương tiện trụ tâm có thể nhập tối sơ thánh đế hiện quán, chẳng phải chưa kiến đế, nghĩa là trong các đế chưa được pháp nhãn, liền có thể thông suốt tất cả chủng tử thức A-lại-da. Chưa kiến Đế, nghĩa là tu hành như đây rồi, hoặc nhập Thanh văn chánh tánh ly sinh, hoặc nhập Bồ-tát chánh tánh ly sinh, thông đạt tất cả pháp chân pháp giới rồi, cũng có thể thông suốt thức Alại-da. Lúc bấy giờ có thể tổng quán sát tất cả tạp nhiễm có bên trong, cũng có thể rõ biết, bên ngoài thân bị tướng trói buộc ràng buộc, bên trong bị thô trọng ràng buộc.

Giải thích: Tư lương, Gia hạnh, Dị sinh duyên chuyển thức nhãn v.v… đây có hai nghĩa:

1. Nói chung cho ba Thừa, lý thật Đại thừa cũng duyên Thức thứ tám làm Duy thức quán.

2. Đối chất cảnh và Độc cảnh không đồng, A-lại-da là đới chất cảnh, Chuyển thức là Độc ảnh cảnh, ẩn Đới chất bàn Độc ảnh nên nói duyên chuyển thức.

Hỏi: Nhị thừa vì sao có thể quán A-lại-da mà nói nhập Thanh văn chánh tánh ly sinh, thông suốt A-lại-da?

Đáp: Có hai nghĩa:

1. Căn cứ Bất định Thanh văn tánh căn thuần thục mà nói, họ nhập tự kiến, sau đó hồi nhập Đại thừa có thể thông suốt A-lại-da. Định tánh cũng vậy.

2. Đứng về chủng tử A-lại-da mà nói, ba Thừa đều khéo biết khổ đoạn tập. Rộng như luận Du-già sao giải thích.

 

THÀNH DUY THỨC LUẬN DIỄN BÍ

QUYỂN 7

(PHẦN CUỐI)

Luận: Y nghĩa là sở y, đủ như trong sớ biện. Có nghĩa chuyển là thuộc đạo năng chuyển, cũng là y của chuyển, do đạo năng chuyển chuyển y của sở chuyển gọi là chuyển y. Nay giải thích này là rõ ràng nhất.

Biện rằng: Cùng chuyển làm y gọi là chuyển y, chuyển tức năng y, năng y luận nói là pháp nhiễm tịnh. Vì sao đối với chuyển nói là thuộc về đạo năng chuyển? Vì Đạo năng chuyển chẳng phải là nhiễm. Nay giải thích chuyển có hai nghĩa: Một là chuyển thuộc đạo năng chuyển, hai loại xả và đắc do chuyển mà xả và đắc, đây là y chủ mà gọi. Hai là thuộc sở chuyển xả và đắc hai loại, chuyển tức xả và đắc là Trì nghiệp mà lập tên. Nay nương nghĩa ban đầu hợp nói chuyển y cũng là Y chủ thích.

Sớ: Vô Tánh nói sở y chỉ.

Xét luận kia quyển , trong bản luận ghi: Hai sở y chỉ, chuyển y làm tướng, trong đây sinh tử gọi là y tha khởi tánh phần tạp nhiễm, Niết-bàn gọi là y tha khởi tánh phần thanh tịnh. Hai sở y chỉ gọi là thông hai phần. Y tha khởi tánh chuyển y nghĩa là tức y tha khởi tánh khi đối trị khởi chuyển bỏ phần tạp nhiễm, chuyển chứng phần thanh tịnh.

Vô Tánh giải thích rằng, hai sở y chỉ chuyển y làm tướng, hoặc Y sĩ thích hoặc Trì nghiệp thích.

Luận: Sơ cực hỷ địa.

Xét luận Du-già quyển thì Cực hỷ trụ Bồ-tát có bốn tướng phát tâm:

1. Tướng nào phát tâm: Nghĩa là thắng giải hành trụ đã khéo chứa nhóm tất cả căn lành, đối với Bồ-tát hạnh đã chánh vượt khỏi, lược nói là tướng.

2. Sở duyên nào: Lo nghĩ duyên Bồ-đề tư lương ở đời sau, lợi ích hữu tình, phụng thờ tất cả Phật pháp, sở hành của chư Phật viên mãn.

3. Phát tâm do hình trạng nào, tướng nào, tự tánh nào khởi: Nghĩa là các Bồ-tát phát khởi tất cả tư lương Bồ-đề tùy thuận hữu tình, tất cả những sự Bồ-tát thành Phật.

4. Phát tâm có lợi ích thù thắng gì: Nghĩa là các Bồ-tát phát tâm này rồi là vượt qua Bồ-tát phàm dị sinh địa chứng nhập Bồ-tát chánh tánh ly sinh, sinh nhà Như Lai, nối dòng Như Lai.

Lại nói, lại trong hiện pháp hay khởi tất cả sức tinh tấn tín tăng thượng của Bồ-tát làm tiền đạo.

Lại nói, dẫn phát mười đại nguyện:

1. Dẫn nguyện thứ nhất, vì muốn cúng dường tối thắng hữu tình mà nói pháp vô thượng.

2. Dẫn nguyện thứ hai, vì muốn thọ trì pháp đã nói kia.

3. Dẫn nguyện thứ ba, vì muốn khuyến thỉnh chuyển pháp luân.

4. Dẫn nguyện thứ tư, vì muốn thuận họ làm hạnh Bồ-tát.

5. Dẫn nguyện thứ năm, vì muốn thành tựu khí hữu tình kia.

6. Dẫn nguyện thứ sáu, vì muốn đến cõi Phật, gặp Phật cúng dường, nghe chánh pháp.

7. Dẫn nguyện thứ bảy, vì tịnh cõi Phật.

8. Dẫn nguyện thứ tám, vì không lìa Phật cùng các Bồ-tát, thường đồng một vị ý lạc Gia hạnh.

9. Dẫn nguyện thứ chín, vì lợi ích hữu tình chưa từng luống qua.

10. Dẫn nguyện thứ mười, vì chứng Bồ-đề làm việc chư Phật.

Mười nguyện, xét quyển 5 ghi: Nếu chư Bồ-tát nguyện ở đời sau đem tất cả đồ cúng dường mà cúng vô lượng Phật gọi là đại nguyện thứ nhất. Nguyện ở đời sau hộ truyền chánh pháp của Phật khiến không dứt đoạn là đại nguyện thứ hai. Nguyện ở đời sau từ Đô sử xuống đến bát Niết-bàn gọi là đại nguyện thứ ba. Nguyện ở đời sau hành Bồ-tát hành là đại nguyện thứ tư. Nguyện ở đời sau khắp thành tựu hữu tình gọi là đại nguyện thứ năm. Nguyện đời sau khắp bày thế giới gọi là đại nguyện thứ sáu. Nguyện ở đời sau khắp tịnh cõi Phật gọi là đại nguyện thứ bảy. Nguyện ở đời sau tất cả Bồ-tát đều đồng một thứ ý lạc Gia hạnh hướng vào Đại thừa gọi là đại nguyện Thức thứ tám. Nguyện ở đời sau không đảo ngược Gia hạnh đều không luống bỏ gọi là đại nguyện thứ chín. Nguyện ở đời sau mau chứng Bồ-đề gọi là đại nguyện thứ mười.

Lại quyển nói rõ trong Sơ địa có mười tịnh tu trụ pháp, do đây có thể khiến Cực hoan hỷ trụ mau được thanh tịnh:

  1. Đối với Phật pháp sinh tịnh tín sâu.
  2. Quán sát hữu tình chỉ có khổ nên khởi lòng bi.
  3. Thệ khiến thoát khổ được vui nên khởi lòng từ.
  4. Vì cứu lo khổ mà hành bố thí.
  5. Vì lợi hữu tình cầu pháp thế xuất thế không mỏi mệt.
  6. Không nhàm mỏi cho nên khéo biết các luận.
  7. Khéo biết luận cho nên khéo hiểu thế gian.
  8. Tức ở trong chánh Gia hạnh như vậy mà tu tâm quý.
  9. Tức ở trong chánh Gia hạnh như vậy được không thối chuyển.
  10. Dùng lợi dưỡng nhiệm mầu và chánh hạnh cúng dường Như Lai.

Lại nói, các Bồ-tát đối mười pháp này nhận học tùy chuyển nhiều tu tập rồi, lại ở chín giới tăng thượng khác, các Bồ-tát trụ theo Phật Bồtát chuyên cần tinh tấn cầu hỏi tất cả lỗi công đức chủng đạo và thần thông, không có lỗi hoại đạo v.v… đây tức hiển rõ chín địa khác.

Lại nói, nguyện gặp chư Phật, nguyện sinh cõi Phật, như thật xứng ý toại nguyện. Lại do gặp Phật thành tựu căn lành cho hữu tình, hồi hướng vô thượng Bồ-đề. Do ba thứ nhân duyên thanh tịnh này các căn lành kia cùng thêm sáng sạch gọi là tu thiện căn.

Lại nói, mỗi mỗi sinh xứ có nhiều luân vương làm vua ở Thiệmbộ châu, được đại tự tại được Bách pháp minh môn v.v… là giới sinh xứ, như luận kia nói rộng.

Sớ: Thập địa nói là không quên củi phiền não.

Quên nghĩa là bỏ quên, quên mất. Phiền não từ vô thỉ nối nhau không dứt gọi là không quên.

Luận: Thứ năm, Cực nan thắng địa.

Hỏi: Kinh Nhân Vương có tụng rằng: “Bồ-tát Sơ địa Tứ thiên vương, song chiếu hai đế lý bình đẳng” vì sao luận này v.v… chỉ nói Địa thứ năm mới tương ưng?

Đáp: Như Nghĩa Đăng giải thích đầy đủ. Có nghĩa giải thích rằng, thế trí có hai: một là duyên, sắc v.v… tự tánh các pháp; hai là rộng phân biệt thành năm, rõ ràng sai khác, duyên và sắc v.v… các pháp không nhiều sai khác. Sơ địa chân hợp, duyên năm là rõ ràng trí có nhiều hành khác, đến Địa thứ năm chân tục mới hợp.

Sớ: Trong Thức thứ hai ở trước đã có ngăn vặn hỏi.

Tức từ Thức thứ bảy gọi là đoạn thứ hai, theo từ gốc ngọn để làm thứ lớp, ngã và ngã sở kia không thừa nhận cùng khởi.

Sớ: “Thập Địa nói” đến “có gián đoạn đại trí hiện tiền trụ”.

Do quán trí duyên khởi tâm Gia hạnh, có khi dẫn trí Bát-nhã vô phân biệt kia mà được hiện tiền. Trí duyên khởi sau mới hiện tiền.

Sớ: Thập Địa nói báo hành thuần thục.

Nhân theo mặc tình không đợi Gia hạnh mà có thể thành đó gọi là báo hành, như nói báo tánh tự có thể như vậy.

Luận: Thứ mười là Pháp vân địa.

Xét Thập Địa quyển 12 ghi: Bồ-tát Pháp vân địa ngồi có mười tướng, năm tướng trước sớ đã đủ. Thứ sáu là Thành tướng vì làm các pháp tánh như huyễn cảnh giới sở thành. Thứ bảy là Nhất nghĩa tướng, ánh sáng khéo chiếu tất cả pháp giới cho nên khéo chiếu gọi là chánh quán. Tám là Công đức tướng, vượt hơn tất cả cảnh giới của chư thiên. Chín là Thể tướng, đại lưu ly ma ni làm cành v.v… Mười là Trang nghiêm cụ túc tướng, thân của hoa có vô lượng ánh sáng, tất cả các báu trang sức trong đó, vô lượng lưới báu che trùm ở trên.

Luận: Như vậy Thập địa.

Thể của địa này các luận không đồng. Xét luận Thập Trụ Tỳ-bàsa ghi: Giai cấp trụ xứ căn lành là nghĩa của địa này, đồng Nhiếp uận dùng trí làm thể, do pháp Vô vi không có giai cấp. Lại Nhiếp luận đời Lương chỉ nói xuất ly Chân như làm địa, như là gốc pháp cho nên riêng nói. Lại luận Phật Địa quyển 1 ghi: “Địa gọi là sở y, sở hành, sở nhiếp, dùng tịnh pháp giới cảnh trí v.v… các pháp hợp làm địa”. Như thứ lớp gọi là sở y, sở hành, sở nhiếp, cảnh trí có thể có sở hành gọi là hữu sở hành. Trí tương ứng pháp là Phật sở nhiếp gọi là sở nhiếp. Du-già v.v… các thuyết như sớ đã dẫn, đứng về nghĩa không đồng, các giáo không trái.

Có nghĩa gạn hỏi sớ giải thích nghĩa của địa rằng: Nói thật pháp khác cùng tổng giả gọi đó là địa. Nay giải thích không đúng. Luận tự nói cùng với sở tu hành làm làm thắng y trì, khiến được sinh trưởng sở tu hành kia, nhất định chẳng phải là giả. Không thể là giả vì riêng từ thật sinh chỉ nên nói là pháp Hữu vi, Vô vi tích tập, cùng pháp sở tu hành khác làm y làm nhân sinh trưởng gọi là địa.

Biện rằng: Nếu chỉ nói là địa không đối với người có thể như đã xác quyết, nếu đối với người nói rằng Bồ-tát địa. Tên gọi Bồ-tát đâu chẳng phải gọi giả kia là thể ư? Nếu thừa nhận vậy thì cùng giả làm địa, lý nào không được? Lại vốn lập địa chỉ căn cứ hành nhân giai cấp địa vị sai khác, nếu không đối người sau thì cần gì lập địa? Lại người không riêng, xét pháp thành người, hành sở tu cũng tức phần tổng, bỏ tổng bàn biệt nói rằng cùng tu hành làm y sinh nhân lại cùng tu hành làm thắng y v.v… chính giải thích lý do cùng giả làm địa.

Lại các Bồ-tát năm uẩn thù thắng, viễn nhân thật pháp mà được sinh khởi, lỗi gì không thừa nhận? Cho nên quyển ghi: Do hay nhiếp trì nghĩa Bồ-tát cho nên tên địa chánh đồng luận này, vì đối với hành Bồ-tát hay nhiếp, cho nên cùng Bồ-tát mà làm địa.

Sớ: Có thể làm nghĩa thọ dụng cư xứ cho nên gọi là trụ.

Khi Bồ-tát thọ dụng hai lợi hành, nghĩa sở cư xứ gọi đó là trụ.

Sớ: Đây căn cứ quả cùng nhân.

Dùng quả cùng nhân mà làm địa, do vì cầu quả mới khởi hành, liền tùy tự địa, lý trí hai cực đều gọi là quả, chẳng phải chỉ có quả Phật.

Luận: Thí có ba.

Xét quyển luận Du-già quyển 3 ghi: Tài thí nghĩa là dùng tài vật thượng diệu thanh tịnh như pháp bố thí. Điều phục cấu bỏn xẻn tham lam mà hành bố thí. Điều phục cấu chứa nhóm mà làm bố thí. Vô úy thí, nghĩa là cứu giúp sự sợ sệt sư tử, cọp, sói, quỷ mị v.v… cứu giúp sự sợ sệt vua quan giặc cướp, cứu giúp sự sợ hãi về nước và lửa. Pháp thí, nghĩa là thuyết pháp không điên đảo, thuyết pháp xứng lý, khuyên tu học xứ. Như vậy tất cả tổng nói chín tướng.

Luận: giới có ba loại.

Xét luận Du-già quyển 0 ghi: Nghĩa là Bồ-tát thọ luật nghi biệt giải thoát của bảy chúng, y chỉ hai phần tại gia và xuất gia gọi là giới luật Bồ-tát. Nghĩa là các Bồ-tát sau khi thọ luật nghi giới, chỗ có tất cả là đại Bồ-đề, do thân ngữ ý tích tập các căn lành tổng gọi là Nhiếp thiện pháp giới. Nghĩa là các Bồ-tát đối với các hữu tình có thể dẫn nghĩa lợi, mỗi mỗi sự nghiệp cùng làm trợ bạn gọi là Nhiêu ích hữu tình giới.

Hỏi: Du-già tự nói ba giới đồng thọ, lại nói vì sao nói thọ luật nghi, sau tất cả các thiện mới gọi là nhiếp thiện?

Đáp: Lý thật ra là đồng thọ, hiển sở khởi sau cũng nhiếp thiện nhiếp, nếu không nói sợ nghi sau khởi chẳng phải giới nhiếp. Cho nên hiển luật nghi là các giới vốn có ra lời nói trước sau thật đồng thọ.

Hỏi: Thế nào là khéo trụ khéo hộ luật nghi?

Đáp: Xét Du-già ghi: “Thành tựu mười chi gọi là khéo trụ khéo hộ, nghĩa là không đoái hoài luyến tiếc các dục quá khứ, lại không mong cầu các dục tương lai, lại không tham đắm các dục hiện tại, lại ưa xa lìa không sinh mừng đủ, lại có thể quét trừ ngôn luận bất chánh và các ác tầm tứ, lại có thể đối với mình không tự khinh, lại tánh hay nhu hòa, có thể kham nhẫn, lại không phóng dật, có thể đầy đủ phép tắc tịnh mạng.

Hỏi: Thế nào là khéo trụ khéo hộ nhiếp thiện?

Đáp: Tức luận kia ghi: Do mười thứ tướng gọi là trụ nhiếp thiện, mau có thể nhiếp thiện tất cả thứ tướng, nghĩa là tức thí v.v… mười thứ Ba-la-mật-đa.

Hỏi: Thế nào khéo trụ khéo hộ Nhiêu ích hữu tình giới?

Đáp: Tức luận kia ghi: Do mười một tướng gọi là trụ Nhiêu ích hữu tình giới, nghĩa là các Bồ-tát đối với các hữu tình, mỗi mỗi sự nghiệp đều làm trợ bạn. Lại các Bồ-tát vì cõi hữu tình như lý tuyên nói khiến đoạn các ác. Lại các Bồ-tát đối với họ có ơn, các hữu tình rất biết ân tuệ thường suy nghĩ báo đáp. Lại các Bồ-tát gặp các sự sợ hãi của hữu tình có thể làm cứu hộ. Lại các Bồ-tát đối với sự suy não của hữu tình có thể khai mở khiến lìa lo buồn. Lại các Bồ-tát đầy đủ đồ nuôi sống, tùy ai đến xin liền thí cho. Lại các Bồ-tát tánh ưa nhiếp thọ các hữu tình, như pháp mà chế phục chúng, các phương tiện nhiêu ích, dùng tâm vô nhiễm trước cho nương tựa, dùng tâm thương xót hiện làm lợi ích. Lại các Bồtát đối với tâm hữu tình tánh ưa tùy chuyển, trước biết thể tánh mới tùy họ chuyển, vì tùy tâm họ mà khiến ác dứt, pháp lành được sinh. Lại các Bồ-tát tánh ưa khen ngợi công đức chân thật, khiến họ vui mừng. Lại các Bồ-tát tánh ưa thương xót dùng pháp điều phục để điều phục hữu tình. Lại các Bồ-tát vì muốn nhiêu ích các hữu tình nên hiện sức thần thông này nói ba thứ giới tạng của Bồ-tát, cũng gọi là vô lượng đại công đức tạng. Như luận kia dẫn rộng.

Luận: Nhẫn có ba loại.

Xét luận Du-già quyển 2 nói ba tướng rằng: Thế nào Bồ-tát chịu đựng người oán hại? Nghĩa là các Bồ-tát dũng mãnh khi không gián đoạn trong thời gian dài, tùy người oán hại sinh, khi các khổ hiện tại trước, nên học như vầy: như đây là lỗi tự nghiệp của ta, do ta đời trước tự tạo các thứ nghiệp bất tịnh, nay thọ các thứ quả khổ như vậy. Ta nay đối với khổ lợi vô nghĩa này nếu không nhẫn chịu sẽ lại làm nhân xứ đại khổ của đời sau. Lại thân tự tha đều khổ làm thể, họ không biết cho nên ở thể khổ của ta lại thêm khổ kia. Ta đã biết rồi há lại thêm khổ. Lại người Thanh văn tu hành tự lợi không sinh khổ khác, huống gì ta vì người mà sinh không nhẫn chịu.

Thế nào là an thọ khổ nhẫn? Nghĩa là các Bồ-tát nên học như vầy: ta từ xưa nương dục làm chuyển thường cầu các dục, như vậy khi truy cầu khổ vô nghĩa, nay ta nhận đủ các thứ khổ lớn, đều do lỗi lầm vô trí suy nghĩ chọn lựa. Ta nay vì cầu hay dẫn thiện phẩm an lạc tối thắng, còn nên suy nghĩ lựa chọn, nhẫn thọ trăm ngàn câu-chi đại khổ, huống gì chút khổ cỏn con này mà không nhẫn chịu. Như vậy như vậy chánh

suy nghĩ vì cầu Bồ-đề đều có thể nhận chịu tất cả sự khổ. Thế nào Bồtát pháp tư thắng giải nhẫn? Nghĩa là các Bồ-tát ở tất cả pháp có thể chánh suy nghĩ lựa chọn, do Bồ-tát khéo quán sát thắng giác tuệ, có thể đối với tám thứ sinh thắng giải xứ, khéo an thắng giải:

  1. Tam bảo công đức xứ
  2. Chân thật nghĩa xứ
  3. Chư Phật Bồ-tát đại thần lực xứ
  4. Nhân xứ
  5. Quả xứ
  6. Ưng đắc nghĩa xứ
  7. Tự ư bỉ, nghĩa đắc phương tiện xứ
  8. Nhất thiết sở tri sở ưng hành xứ

Luận: Tinh tấn có ba loại.

Xét Du-già quyển 2 nêu rõ tướng kia rằng: Thế nào Bồ-tát mặc giáp tinh tấn? Nghĩa là các Bồ-tát ở trước khi phát Gia hạnh tinh tấn, tâm họ gan dạ dũng mãnh, trước khoác giáp thệ nguyện, nếu ta vì giải thoát khổ cho một hữu tình mà dùng ngàn đại kiếp v.v… làm một ngày đêm ở Na-lạc-ca không ở đường khác, nhẫn đến Bồ-tát trải qua thời như vậy chứng được Bồ-đề, giả sử quá trăm ngàn câu-chi bội số thời kiếp như vậy mới chứng Bồ-đề thì sự dũng mãnh gan dạ của ta cũng không lui sụt.

Thế nào là Bồ-tát nhiếp thiện tinh tấn? Nghĩa là các Bồ-tát tất cả tinh tấn, khéo hành bố thí v.v… các độ Gia hạnh thành tựu thí. Lại do tinh tấn này là có thể tu chứng, có thể thành nhân duyên tối thắng tất cả pháp lành của Bồ-đề, các pháp khác thì không như vậy. Cho nên Như Lai cùng các thứ pháp môn khen ngợi tinh tấn có thể chứng Bồ-đề.

Thế nào Bồ-tát tinh tấn nhiêu ích hữu tình? Nghĩa là tinh tấn này có mười một thứ, như phẩm Giới nói, kia nói thi-la, đây nói tinh tấn, như trước đã dẫn.

Luận: Tĩnh lự có ba.

Xét luận Du-già quyển 3, thì Tĩnh lự này lược có hai loại: Một là thế gian, hai là xuất thế gian. Phải biết hai thứ này tùy sở ứng kia lại có ba loại:

1. Nếu các Bồ-tát có Tĩnh lự xa lìa tất cả phân biệt, hay sinh sự nhẹ nhàn của thân tâm, tịch tĩnh tối cực, xa lìa kiêu mạn trạo cử, lìa các ái vị, dứt tất cả tướng, phải biết đây gọi là Bồ-tát hiện pháp lạc trụ Tĩnh lự.

2. Nếu các Bồ-tát có Tĩnh lự, hay dẫn hay trụ các thứ công đức thù thắng không thể nghĩ bàn, phải biết đây gọi là hay dẫn Bồ-tát đồng giữ công đức Tĩnh lự.

3. Nhiêu ích hữu tình Tĩnh lự có mười một thứ như Giới độ dẫn.

Lại luận Đối Pháp quyển 12 ghi: Chế ngự các nghiệp nhậm trì, nghĩa là y chỉ nội chứng, cho nên giáo thọ giáo giới hóa độ hữu tình, người tâm chưa định khiến tâm họ định. Người tâm đã định khiến họ giải thoát, do vì nhiêu ích hữu tình Tĩnh lự giữ gìn.

Luận: Bát-nhã có ba.

Xét luận Du-già quyển 3 ghi: Tuệ có hai là thế gian và xuất thế gian. Hai thứ này lược nói lại có ba loại:

1. Nếu các Bồ-tát đối với pháp lìa ngôn thuyết không có ngã tánh, hoặc đối với chân đế sắp muốn giác ngộ, hoặc đối với chân đế khi chánh giác ngộ, hoặc đối với chân đế sau khi giác ngộ rồi, có được diệu tuệ tối thắng vắng lặng hiện tiền rõ ràng, không có phân biệt lìa các hý luận, đối với tất cả pháp tu tánh bình đẳng, nhập đại tổng tướng, rốt ráo hiểu rõ tất cả bờ mé hiểu biết, xa lìa hai bên, thuận vào Trung đạo, đây gọi là Bồ-tát có thể ở nơi hiểu biết có trí tuệ chân thật tùy giác thông đạt.

2. Nếu các Bồ-tát đối với Ngũ minh và Tam tụ quyết định khéo léo, nghĩa là ở nơi năng dẫn nghĩa lợi pháp tụ, năng dẫn phi nghĩa lợi pháp tụ, năng dẫn phi nghĩa lợi phi phi nghĩa lợi pháp tụ đều như thật biết, ở tám chỗ này có diệu tuệ khéo léo nhiếp thọ, hay mau viên mãn tư lương rộng lớn, mau chứng Bồ-đề, đây gọi là Bồ-tát có thể đối với Ngũ minh và trong Tam tụ quyết định thiện xảo tuệ.

3. Năng tác nhất thiết hữu tình nghĩa lợi tuệ, có mười một thứ như trước đã nói đủ.

Luận: Phương tiện thiện xảo.

Xét Vô Tánh giải thích rằng: Nếu do sáu Ba-la-mật-đa tích tập căn lành, cùng các hữu tình vì muốn lợi ích các hữu tình, cho nên không bỏ hữu tình, phải biết tức là không bỏ khổ sinh tử. Do đây khéo hồi hướng cầu Bồ-đề vô thượng chánh đẳng, vì chứng Phật Bồ-đề, phải biết đây tức là mong cầu Niết-bàn. Sớ dẫn lược, nên căn cứ ở đây để hiểu.

Lại Đối Pháp quyển 1 có bốn thiện xảo:

1. Thành tựu hữu tình thiện xảo, nghĩa là bốn Nhiếp pháp, do nhiếp thọ họ, khiến xứ khéo léo.

2. Viên mãn Phật pháp thiện xảo, nghĩa là tuệ Ba-la-mật-đa.

3. Tốc chứng thông tuệ thiện xảo, nghĩa là ngày đêm sáu thời phát lộ các ác, tùy hỷ công đức khuyến thỉnh chư Phật hồi hướng căn lành.

4. Đạo vô đoạn thiện xảo, nghĩa là không trụ Niết-bàn. Do đây thường thường rốt ráo không dứt, trùm khắp mười phương, tất cả thế giới, tùy chỗ ứng hóa thị hiện hành tất cả Phật và Bồ-tát.

Luận: Lực có hai loại.

Có thuyết nói là tư trạch tư tuệ, tu tập tu tuệ. Nếu vậy Hậu đắc đâu có tư tuệ, chỉ có Vô lậu?

Đáp: Có chánh tư duy gọi là tư, cũng đâu có lỗi gì!

Luận: Giới dùng thọ học v.v… làm thể.

Lại xét kinh Văn-thù Vấn nói đủ tướng này, nay dẫn sơ lược. Hoặc dùng tâm phân biệt là người, chẳng phải người, nam nữ, chẳng phải nam nữ v.v… hoặc thọ giới Bồ-tát xuất thế gian mà không khởi tâm từ bi, hoặc vật của người mà khởi tưởng ăn trộm, hoặc khởi tâm vọng ngữ, đều phạm Ba-la-di. Nếu dùng thân khẩu hành không kham được Tam thừa, hoặc lá cây, vỏ cây, nước cây dùng tâm muốn lấy, hoại khởi tưởng ca múa làm nhạc, hoa hương anh lạc, hoặc khởi tưởng giường cao rộng lớn, hoặc khởi tưởng cầm giữ vàng bạc chân bảo đều là phạm Tăng-già-bà-thi-sa của Bồ-tát. Nếu dùng thân khẩu hành không kham chứng Tam thừa, lại hoặc cạo lông trên thân, hoặc cắt móng tay như hình mặt trăng đầu tháng, hoặc khởi tưởng này, hoặc khởi tưởng chặt phá cỏ cây, hoặc tưởng khởi hủy hoại danh dự của người đều phạm Thâulan-giá. Nếu người dùng thân khẩu hành không kham chứng Tam thừa, lại nếu hoa, hương, y, vật báu của Phật pháp tăng mà lấy chân đạp giẫm lên, hoặc tháp Phật hay chỗ Phật đi, hoặc chỗ cây Bồ-đề chuyển pháp luân mà lấy chân giẫm đạp đều phạm Ba-dật-đề. Nếu người không tin, không kham chứng tam thừa, hoặc khạc nhổ, le lưỡi, động mắt chê hủy các oai nghi, người khởi tưởng phạm như đây thì phạm Đột-kết-la. Nếu dùng thân miệng hành không kham chứng Tam thừa, hoặc thấy vật của người, nhạc của người, vô số đồ chơi dối hiện cầu lợi và nói lỗi người, nếu khởi tưởng này phạm Ba-la-đề-xá.

Sớ: Cũng không tùy miên lưu chú tương tục.

Dù không hiện khởi hoại ác, không bỏ kết oán trong tâm gọi là tùy miên.

Sớ: Thế pháp xứ có chín loại.

Hỏi: Thế pháp có tám thứ là khen lợi, khen lạc và khổ v.v… bốn loại, vì sao không nói khen v.v… bốn loại?

Đáp: Khen v.v… là đáng mừng, chẳng phải tướng khổ cho nên không nói. Nghĩa là tư cụ v.v… tánh là pháp hoại, lại gặp duyên hoại gọi là hoại pháp hoại. Đây vẫn là chất còn, gặp duyên chất hết gọi là 80 tận pháp tận.

Hỏi: Hoại tận cả hai cùng già, bệnh, chết ba thứ nào có gì khác?

Đáp: Trong ngoài có khác cho nên chia làm năm loại.

Luận: Đây nói tự tánh v.v…

Hỏi: Nhẫn, tinh tấn v.v… thể chẳng phải ba nghiệp, vì sao nay nói là tự tánh?

Đáp: Có thật nghĩa chẳng phải tự tánh mà làm dụng trong ba nghiệp thù thắng, ở trong quyến thuộc đối các thứ khác nó kém hơn nên giả gọi là tự tánh.

Biện rằng: Nhẫn và tinh tấn ắt có ba nghiệp, hai hành mới hành, cho nên lấy ba nghiệp cũng không trái lý, các luận phần nhiều nói tự tánh kia thông cả ba nghiệp.

Luận: An trụ tối thắng v.v…

Xét luận Đối Pháp quyển 11 chỉ có năm loại. Thích luận ghi: Chủng tánh nghĩa là pháp tánh Bồ-tát. Nguyện nghĩa là tâm Bồ-đề. Ý lạc nghĩa là tâm bi dẫn dắt. Sự nghĩa là bỏ các sở hữu. Tự thể là thân, ngữ ý ba nghiệp.

Luận: Xảo tiện tối thắng.

Tức Nhiếp luận gọi là vô phân biệt trí sở nhiếp thọ. Vô Tánh giải thích rằng: nghĩa là tam luân thí thanh tịnh, người nhận, người thí, vật thí phân biệt đều xa lìa.

Luận: Do đây thí v.v… bốn câu phân biệt.

Có ba bốn câu như sớ đã nói rõ. Lại xét kinh Ưu-bà-tắc Giới rộng phân làm bốn câu. Thí bốn câu nói rằng: “Là thí chẳng phải độ”, nghĩa là Thanh văn, Duyên giác, phàm phu, ngoại đạo, ban đầu hai a-tăng-kỳ, Bồ-tát đồng thí. Độ mà chẳng phải thí nghĩa là năm độ kia, chỉ bày độ cũng là thí. Tăng-kỳ thứ ba Bồ-tát sở thí, chẳng phải độ chẳng phải thí, nghĩa là Nhị thừa đều tu năm độ. Bốn câu các độ khác chuẩn theo đây có thể biết.

Hỏi: Kinh luận vì sao lại trái?

Đáp: Kinh y cứ mặc tình tiến tu, bất thối tăng thắng gọi là độ. Luận y cụ tướng thoái, bất thoái, gia hạnh, vô gia hạnh để lập tên độ. Căn cứ nghĩa không đồng cho nên không trái.

Luận: “Lại nữa” đến “tương vi chướng”.

Xét Nhiếp luận quyển ghi: Vì thành lập đối trị sở trị chướng, vì muốn đối trị nhân không phát thú cho nên lập thí giới. Nhân không phát thú, nghĩa là đắm trước tiền tài, địa vị, nhà cửa, vì muốn đối trị tuy đã phát thú mà lại có nhân lui sụt, cho nên lập nhẫn tấn. Nhân lui sụt nghĩa là ở sinh tử hữu tình trái phạm sinh ra các khổ, và đối với thời gian dài thiện phẩm Gia hạnh sinh mỏi mệt biếng nhác. Vì muốn đối trị tuy đã phát thú không lại lui sụt mà nhân mất hoại cho nên lập định tuệ. Nhân mất hoại nghĩa là các tán động và tuệ tà ác. Như vậy thành lập đối trị sở trị chướng cho nên chỉ lập thành sáu.

Luận: Lại thí v.v… ba tăng thượng sinh đạo.

Tăng thượng sinh là chỗ chiêu cảm quả thể. Đạo là nhân. Tài sản lớn v.v… quả theo nhân khởi gọi là Tăng thượng sinh. Quyết định thắng cũng là quả. Đứng về ba quả trước, tăng thượng quả là thể, thể ba quả sau thù thắng hơn nên đối với nó gọi là Quyết định thắng. Đạo là nhân vậy.

Luận: Trí trợ Bát-nhã.

Lại xét luận Biện Trung Biên chướng mười Độ quả có tụng như sớ đã dẫn, Trường hàng giải thích rằng: Đây nói mười thứ Ba-la-mật-đa sở đắc quả chướng để hiển mười thứ chướng Ba-la-mật-đa tự tánh, nghĩa là đối với bố thí nói chướng giàu sang, đối với tịnh giới nói chướng thiện thú, đối với an nhẫn nói chướng bất xả hữu tình, đối với tinh tấn nói chướng giảm lỗi tăng công đức, đối với Tĩnh lự nói chướng khiến sở hóa đến tám pháp, đối với Bát-nhã nói chướng giải thoát, đối với phương tiện nói chướng thí v.v… khéo vô cùng tận. Do đây hồi hướng vô thượng Bồ-đề, khiến thí v.v… thiện vô cùng tận. Đối với nguyện nói chướng tất cả sinh trung thiện vô gián chuyển, do đại nguyện lực nhiếp thọ hay thuận sinh pháp lành. Đối với lực nói chướng sở tác thiện đắc quyết định, do sức suy nghĩ lựa chọn và sức tu tập có thể phục chướng kia, chẳng phải phục nó. Đối với trí nói chướng tự tha thọ dụng pháp thành tựu, không như nghe nói mà hiểu nghĩa.

Luận: Nghĩa là do trước trước dẫn phát sau sau v.v…

Xét Đối Pháp ghi: Do thí quaen tập xả thí trong ngoài, không đoái hoài thân mạng, bỏ kho báu lớn, thọ trì cấm giới. Do vì hộ giới dù người hủy nhục mắng nhiếc trọn không trả thù, có thể kham nhẫn. Do hay kham nhẫn các khổ lạnh nóng, Gia hạnh không dứt phát siêng năng tinh tấn, phương tiện tinh tấn chứng quả rốt ráo, đầy đủ Tĩnh lự. Tĩnh lự đầy đủ rồi, chứng được đại tuệ rốt ráo xuất thế, lại nữa trước trước sau sau sở trì. Do đủ thi-la thí được thanh tịnh, do thực hành bố thí nhiếp lợi ích hữu tình, do đầy đủ thi-la không bị não hại, do sức nhẫn cho nên giới được thanh tịnh, do hay nhẫn thọ sự không lợi ích của người trọn không hủy phạm sở học xứ. Do tinh tấn cho nên nhẫn được thanh tịnh. Do sức dũng mãnh nên ở lâu trong sinh tử mà không cho là khó, hay thọ các 82 khổ trái nghịch của chúng sinh. Do Tĩnh lự cho nên tinh tấn thanh tịnh. Do hỷ lạc đầy đủ hay siêng tu tập tất cả pháp lành không thôi nghỉ. Do đủ tuệ cho nên Tĩnh lự thanh tịnh, nếu do vô lượng môn thường thường quán các pháp hay chứng vắng lặng bên trong, tăng trưởng Tam-mađịa. Du-già, Nhiếp luận, cùng Đối Pháp đồng cho nên không dẫn nữa.

Sớ: Tối thắng sở tác v.v…

Xét luận kia giải thích rằng: Tất cả chỗ làm, chỗ đến của Phật và Bồ-tát, có người giải thích chỗ làm tối thắng là chỗ làm của Phật, chỗ đến tối thắng là chỗ đến của Bồ-tát Thập địa.

Biện rằng: Phật và Bồ-tát đều làm đều đến, hoặc chỗ đến của Phật, chỗ làm của Bồ-tát lẽ ra cũng không lỗi.

Sớ: An trụ Phật tánh.

Phật tánh chính là thể của bờ kia, do có thể an trụ gọi là đến. Lại bờ kia là tổng nhiếp giáo, lý, hành, quả bốn môn của Đại thừa xuất thế.

Phật tánh tức là lý sở nhiếp, hoặc thông nơi quả.

Sớ: Lại ba-la là sở tri.

Đây chẳng phải văn Đối Pháp mà chính là sớ chủ giải thích luận kia.

Sớ: Hợp có sáu giải thích.

Chữ “sáu” lẽ ra là sai, chữ “năm” mới đúng.

  1. Du-già năm duyên.
  2. Mười hai tối thắng.
  3. Tối thắng sở tác. Sớ nói ba-la là nghĩa chỗ đến. Đây là sớ chủ giải thích sở tác sở chí luận kia, chẳng phải là văn luận.
  4. Chỗ biết bờ kia.
  5. Tế độ tự tha. Hoặc ba-la là nghĩa sở tri. Đây là một cách giải thích chữ “sáu” không lầm.

Lại xét Trí Độ luận lại có ba giải thích:

1. Một là độ xan tham v.v… các biển phiền não đến rốt ráo cho nên gọi là đến bờ kia, liền dùng sáu chướng mà làm bờ này, sáu độ làm bờ kia.

2. Nói bờ này là thế gian, bờ kia là Niết-bàn, liền dùng sinh tử, Niết-bàn hai thứ làm bờ này bờ kia.

3. Nói có cảnh vô đẳng gọi là bờ này, trí biết hữu vô gọi là đến bờ kia, liền dùng phân biệt hữu tướng vô tướng gọi là bờ kia.

Sớ: Giải thích tên riêng.

Xét Nhiếp luận quyển ghi: Lại có thể dứt diệt ác giới, ác thú và có thể chứng được thiện thú đồng giữ gìn cho nên gọi là giới. Lại có thể diệt hết phẫn nộ oán thù và có thể khéo trụ mình và người đều an ổn cho nên gọi là nhẫn. Lại có thể xa lìa tất cả pháp biếng nhác ác không lành và năng sinh ra vô lượng pháp lành khiến nó tăng trưởng cho nên gọi là tinh tấn. Lại có thể tiêu trừ sự tán động và hay dẫn được nội tâm an trụ cho nên gọi là Tĩnh lự. Thí và tuệ như sớ đã dẫn.

Sớ: Do đại thí.

Xét luận kia ghi: Đại thí là bỏ hết cả việc trong ngoài, vì bố thí thời gian dài, xa lìa lỗi là xa lìa sự không bình đẳng truy tìm các lỗi. Lìa cấu là hằng đoạn tất cả, trị dứt xan tham.

Giải thích: Lìa tham phi pháp cũng là lìa lỗi. Năm độ khác đều có ba nghĩa, ý dễ biết nên luận không giải thích. Lại nói, có thể khiến các căn hằng vắng lặng, hay khởi thanh tịnh các đường lành, hay làm thanh tịnh chỗ sở y, gọi là giới. Tùy thứ lớp kia hộ trì các căn môn, là nhân để đến đường lành, sở y của Niết-bàn. Xa lìa tất cả lửa phẩn hận nóng bức, xa lìa tâm không bỏ oán hại, hiển phát tổn, vì thường an ổn gọi là nhẫn. Tâm oán hại nghĩa là khởi tâm báo oán. Không bỏ nghĩa là không bỏ tâm này, hay ôm lòng oán gọi là tổn. Hiển rõ vô úy này cho nên gọi là hiển phát. Tổn là thường an ổn cho nên tổn hại. Sinh trưởng tác dụng tương ưng cho nên gọi là tinh tấn. Tổn hại tác dụng tương ưng nghĩa là hai chánh đoạn ở trước, do vì có thể tổn hại pháp bất thiện. Sinh trưởng tác dụng tương ưng, nghĩa là hai chánh đoạn sau, do vì hay sinh trưởng các pháp lành, hay giữ gìn hay dứt diệt, hay vắng lặng, hay điều phục. Lại có thể dẫn phát cho nên gọi là Tĩnh lự. Hay giữ gìn nghĩa là đối cảnh nhóm tâm. Hay dứt diệt nghĩa là dứt các tán loạn. Hay vắng lặng nghĩa là khiến tâm vắng lặng. Hay điều phục, nghĩa là chế phục các ràng buộc. Hay dẫn phát, nghĩa là có thể dẫn phát tác dụng tự tại.

Thí tuệ hai văn như sớ đã dẫn. Trong thí kia nói, có thể xả thí v.v…

xả nghĩa là xả bỏ, trừ dứt. Vì do thí cho nên có thể đoạn sự nghèo khổ đời sau cho người thí. Lại do thí cho nên có thể trừ nghèo thiếu bức bách nhiệt não hiện đời của người nhận.

Lại tuệ độ, luận kia giải thích rằng: Người khác chỗ phát, nghĩa là theo âm ngôn người đến như lý tác ý tương ưng. Tuệ nội chứng nghĩa là tuệ xuất thế gian. Chủng biệt nghĩa là tuệ hậu sở đắc xuất thế gian. Được vắng lặng nghĩa là tuệ trị phiền não trong tu đạo. Thắng đức nghĩa là tuệ hay dẫn phát công đức thù thắng.

Luận: Y chỉ ý lạc tu.

Xét luận Đối Pháp có sáu ý lạc, nghĩa là các Bồ-tát dùng bảy báu đầy cả hằng hà sa cõi. Lại hằng hà sa đồng với thân mạng khoảng sát-na, hoặc trải qua hằng hà sa đại kiếp bố thí một hữu tình nhẫn đến tất cả điều khiến họ đối với Bồ-đề mau thành tu hành. Như vậy với thí sai biệt, Bồ-tát ý lạc vẫn không nhàm đủ gọi là vô nhàm ý lạc. Lại các Bồtát khi tu hành thí triển chuyển tương tục không một sát-na có lui sụt có dứt đoạn, nhẫn đến Bồ-đề gọi là quảng đại ý lạc.

Lại các Bồ-tát khi tu hành thí, đối với thí sở nhiếp các hữu tình chỗ sinh vui mừng lớn gọi là hoan hỷ ý lạc. Lại các Bồ-tát khi tu hành thí, quán thí sở nhiếp tất cả hữu tình, đối với thân mình có đại ân đức, không thấy thân mình có ân với người khác, do giúp đỡ ta ba Bồ-đề cho nên gọi là ân đức ý lạc.

Lại các Bồ-tát khi tu hành thí, dù đối với vô lượng các hữu tình khởi phước đại thí mà không mong báo ân của dị thục đời sau gọi là vô nhiễm ý lạc. Lại các Bồ-tát khi tu hành thí sở đắc dị thục thí các hữu tình chứ không vì tự mình. Lại đem phước này cùng các hữu tình hồi hướng Bồ-đề gọi là thiện hảo ý lạc. Các độ chuẩn theo đây mà biết.

Sớ: Bốn y chỉ phương tiện tu cũng có ba loại.

Tức quán tam luân để làm ba.

Luận: Đây là mười nhiếp.

Xét Nhiếp luận ghi: Thế Tôn đối với tất cả sáu thứ Ba-la-mật-đa này hoặc có chỗ sở dĩ thí âm thanh mà nói.

Giải thích: Trong kinh có chỗ dùng một lời thí nhiếp hết sáu độ, tiếng của giới v.v… cũng lại như vậy.

Vô Tánh giải thích: Nghĩa là ở trong tất cả tu Gia hạnh liền có tất cả hỗ tương giúp đỡ, nghĩa là khi tu thí, giới, nhẫn khéo thọ tâm sách tấn chuyên cần, hay khéo rõ biết nghiệp quả tương thuộc. Như vậy trong thí liền có các chuyển. Nếu khi tu giới xa lìa xẻn tiếc, phẩn khuể, giải đãi, tán động, tà kiến, như vậy trong giới liền có các chuyển, tu tập các chỗ cũng như vậy.

Luận: “Y tu hành” đến “lẽ ra làm bốn câu”.

Mở rộng quyết trạch hỏi đáp các pháp, nhưng có rộng hẹp sai khác không đồng, do đây trong Đối Pháp quyển 15 nói rõ một hành thuận trước, thuận sau, hai, ba, bốn. Cho nên luận kia ghi: “Một hành, tức pháp hỏi luận, nghĩa là dùng một pháp cùng các pháp mỗi mỗi hỗ tương hỏi xong, trừ pháp này lại dùng pháp thứ hai cùng các pháp hỗ tương hỏi. Như vậy mỗi mỗi hỏi tất cả pháp.

Nay có người hỏi rằng: Nếu thành tựu nhãn xứ cũng là sắc xứ ư? Giả sử thành tựu sắc xứ cũng là nhãn xứ ư? Nên thuận câu trước đáp, các câu mong nhau hỏi, đáp thuận trước sau và dùng bốn câu như lý nên suy nghĩ, như vậy thứ lớp mỗi mỗi lần thành, như lý nên nói.

Thuận câu trước, nghĩa là ở trong các pháp tùy lấy hai pháp lại hỗ tương hỏi, y chỉ pháp trước để đáp câu hỏi. Như có người hỏi: Nếu trí cũng là sở tri ư? Giả sử sở tri cũng là trí ư? Đây nên làm thuận câu trước đáp: Các trí cũng là sở tri, có sở tri chẳng phải là trí, nghĩa là các pháp khác.

Thuận câu sau ấy, nghĩa là tức hai pháp triển chuyển hỏi nhau, y chỉ pháp sau để đáp lời hỏi. Như có người hỏi: Nếu sở thủ cũng là năng thủ ư? Đây nên làm thuận câu sau đáp, các năng thủ cũng là sở thủ, có sở thủ chẳng phải năng thủ. Nghĩa là sắc v.v… năm cảnh là pháp xứ trừ tương ưng.

Hai câu, nghĩa là đối với câu hỏi nên dùng hai câu để đáp, không được có dư. Như có y uẩn kiến lập. y giới kiến lập mà phát lời hỏi rằng: Nếu uẩn số cũng là giới số ư? Lập giới số cũng là uẩn số ư?”. Đây nên làm hai câu để đáp: Hoặc uẩn số chẳng phải giới số nghĩa là sắc uẩn thức uẩn, vì sao? Vì có, không một giới toàn nhiếp tướng sắc uẩn, hoặc làm nhiếp tướng thức uẩn, hoặc giới số chẳng phải uẩn số, nghĩa là pháp giới.

Ba câu, nghĩa là đối với lời hỏi chỉ có ba câu đáp. Như có người hỏi: Nếu uẩn số cũng là xứ số? Lập xứ số cũng là uẩn số ư? Đây nên ba câu đáp: Hoặc uẩn số chẳng phải xứ số, nghĩa là sắc uẩn. Hoặc xứ số chẳng phải uẩn số, nghĩa là pháp xứ. Hoặc uẩn số cũng là xứ số gọi là thức uẩn ý xứ.

Đều sai nghĩa là ở trong uẩn và xứ quyết định không có.

Bốn câu, nghĩa là đối lời hỏi dùng bốn câu đáp. Như có người hỏi: Nếu thành tựu nhãn căn cũng là nhĩ căn ư? Giả sử thành tựu nhãn căn cũng là nhĩ căn ư? Nên bốn câu đáp: Câu đầu nghĩa là người điếc, nhãn căn đã sinh không bỏ. Câu thứ hai là người mù, nhĩ căn đã sinh không bỏ. Câu thứ ba là nhãn và nhĩ căn đã sinh không bỏ. Câu thứ tư là trừ sở tướng ở trên.

Câu đáng thuật, nghĩa là đối câu hỏi thuận vậy mà đáp, do lời như vậy gọi là hỏi đáng thuật. Như có người hỏi: Các vô thường đều là hành ư? Giả sử phải là hành đều vô thường ư? Nên thuật đáng đáp chỗ hỏi như vậy.

Câu ngăn dừng, nghĩa là đối với lời hỏi nếu không như vậy mà đáp, do nếu không như vậy nói ngăn dừng câu hỏi. Như có người hỏi: Ngoài uẩn các hành bao nhiêu đế nhiếp ư? Nên ngăn dừng đáp: Ngoài uẩn không có hành.

Sớ: Đây y thỉ nghiệp địa.

Do y thỉ nghiệp địa, người, cho nên thuận câu sau. Đáp: Nếu y tập quán sáu đều là đốn tu, đều hỗ tương nhiếp.

Luận: Nếu y thuần tạp.

Đối Pháp quyển 12 có hai loại bốn câu. Bốn câu đầu như sớ, bốn câu thứ hai nói: Lại nữa tất cả hành thí đều hay sinh thí Ba-la-mật-đa chủng loại phước ư? Đây nên làm bốn câu: Câu đầu, nghĩa là chỗ hành bố thí không hồi hướng đại Bồ-đề. Câu thứ hai nghĩa là đối với thí Bala-mật-đa khuyên gắng, khen ngợi, tùy hỷ, vui mừng. Câu thứ ba, nghĩa là chỗ thực hành bố thí hồi hướng đại Bồ-đề. Câu thứ tư nghĩa là trừ các tướng ở trên. Tuệ v.v… cũng lại như vậy, bốn câu nên suy nghĩ.

Giải thích rằng: Câu đầu, thực hành bố thí chẳng sinh Ba-la-mậtđa loại phước. Câu thứ hai, sinh Ba-la-mật-đa, phước chủng loại nhưng chẳng phải hành bố thí. Câu ba câu bốn có thể biết.

Lại xét Nhiếp luận quyển , Vô Tánh giải thích nghĩa tướng nhiếp rằng: Là vì tướng kia, là nhiếp thể tướng, nghĩa là đây thí cùng kia thí lại hỗ tương nhiếp. Là vì tùy thuận, là nhiếp tùy thuận tín v.v… các pháp lành, thí v.v… thiện tâm sở tu, ở trong thí v.v… kia tùy chuyển. Tín v.v.., tức là các thiện, đại địa và niệm trụ đồng pháp Bồ-đề phần. Là vì Đẳng lưu nên nhiếp Đẳng lưu, nghĩa là vô tránh v.v… và mười lực v.v… đây là quả Đẳng lưu đến bờ kia.

Luận: Mười quả này.

Xét Du-già quyển 8 ghi: Tất cả Ba-la-mật-đa quả gì dị thục?

Phải biết đây cũng lược có sáu loại:

  1. Được đại tài phú
  2. Vãng sinh đường lành
  3. Không oán không hoại có nhiều vui mừng
  4. Làm chủ chúng sinh
  5. Thân không não hại
  6. Có tông nghiệp lớn.

Vả lại dùng một quả dị thục để nói rõ, không chướng được các thứ khác. Lại xét Nhiếp luận Vô Tánh giải thích rằng: Giàu sang nhiếp là thí được lợi thù thắng. Đại sinh nhiếp là giới được lợi thù thắng, đường lành thù thắng nhiếp cho nên gọi là đại sinh. Đại bằng đại thuộc nhiếp, là nhẫn được lợi thù thắng, bằng nghĩa là thân tộc, thuộc nghĩa là tôi tớ. Sự nghiệp rộng lớn Gia hạnh thành tựu nhiếp, nghĩa là siêng năng được lợi thù thắng, sự nghiệp rộng lớn nghĩa là luân vương, ở trong đó siêng năng cố gắng gọi là Gia hạnh, chỗ làm đều xong gọi là thành tựu.

Không các tánh não hại, nhẹ mỏng trần cấu nhiếp, là Tĩnh lự sở đắc lợi thù thắng, do vì tự lự cảm được oai lực này khéo biết tất cả. Ngũ minh xứ nhiếp là tuệ được lợi thù thắng.

Luận: Đây cùng Nhị thừa có cộng bất cộng.

Nhiếp luận quyển có bốn thứ thù thắng, rõ ràng cùng Nhị thừa có sai khác. Vô Tánh giải thích rằng: Thù thắng sai khác, nghĩa là các Bồ-tát đủ ba thứ giới, Thanh văn thừa chỉ có một thứ luật nghi thi-la, cho nên Bồ-tát đứng về thù thắng kia. Còn ba thứ thù thắng chuẩn theo đây nên biết, như sớ lược dẫn.

Luận: Định học có bốn.

Sớ phán phân định này chẳng phải Địa tiền được. Có nghĩa gạn hỏi: Cũng chưa thể nương, tuy lại thắng định phần nhiều nương thứ tư, vì cũng có thông nương các địa sinh. Lại không thể do Nhị thừa không chứng được Vô lậu này. Địa tiền Bồ-tát tất cả tu hành cũng chẳng phải cảnh Nhị thừa biết được. Giới và tuệ học đều thông Địa tiền, vì sao định học chỉ nói Địa thượng? Cho nên thông Địa tiền là thù thắng.

Biện rằng: Ý sớ không nói, nói định học chỉ chứng Vô lậu, nhưng nói rõ luận sở học bốn định chẳng phải tướng Địa tiền. Lại Nhị thừa không biết thông lậu và Vô lậu, nay chỉ lấy nghĩa không biết, chứng định Vô lậu chứ chẳng phải nói Hữu lậu tức họ đều biết. Lại xét Nhiếp luận nói rõ định sai biệt, bốn sai biệt sau nghĩa là đối trị, kham năng, dẫn phát, tác nghiệp, nếu chẳng phải Vô lậu, đâu có khả năng này. Cho nên biết luận kia y cứ Vô lậu định, ở đây nêu định đồng với luận kia, cũng đâu có lỗi. Lại ba học tùy y cứ một thuyết, đâu cần trách đó là một.

Sớ: Lại hay dẫn phát mười hạnh khó làm.

Xét luận kia ghi:

  1. Tự thệ khó làm: Thệ thọ nguyện vô thượng Bồ-đề.
  2. Bất thối khó làm: Sinh tử các khổ không thể lui sụt.
  3. Không trái khó làm: Tất cả hữu tình dù hành tà hạnh mà không bỏ.
  4. Hiện tiền khó làm: Oán hữu tình sở hiện làm tất cả sự lợi ích.
  5. Không nhiễm khó làm: Sinh ở thế gian mà không bị thế gian làm ô nhiễm.
  6. Thắng giải khó làm: Ở trong Đại thừa rất sinh tín giải.
  7. Thông đạt khó làm: Đủ hay thông đạt Bổ-đặc-già-la, pháp vô ngã.
  8. Tùy giác khó làm: Đối với các lời sâu xa bí mật mà Như Lai đã nói có thể tùy giác.
  9. Không lìa không nhiễm khó làm: Không bỏ sinh tử mà không nhiễm.
  10. Gia hạnh khó làm: Có thể an trụ giải thoát của chư Phật, tất cả chướng ngại cùng mé sinh tử không tác công dụng, thường khởi tất cả hữu tình, tất cả hành nghĩa lợi.

Luận: Ba tự tánh này.

Nhiếp luận quyển 8 có mười sáu môn, nay lược dẫn rằng: Trong đây trí vô phân biệt lìa năm thứ tướng để làm tự tánh. Bản luận như sớ. Vô Tánh giải thích rằng: Nếu không tác ý là trí vô phân biệt thì nhủ mê, say v.v… lẽ ra thành trí vô phân biệt. Nếu quá tầm tứ địa là trí vô phân biệt thì Tĩnh lự thứ hai trở lên các địa, tất cả dị sinh và Thanh văn v.v… lẽ ra thành trí vô phân biệt. Hoặc tưởng thọ diệt là trí vô phân biệt, trí này thể tướng khó có thể thành lập, trong vô tưởng diệt lìa tâm không có các tâm khác, nếu như sắc kia là trí vô phân biệt, lẽ ra không được thành trí vô phân biệt. Thí như đại chủng tạo sắc, hoặc đối với chân nghĩa dị tướng chấp độ là trí vô phân biệt, trí này không thành tánh vô phân biệt, do đối với chân nghĩa dị tướng chấp độ, nói đây là chân, là vô phân biệt, là có phân biệt.

Hai là trí sở y, nghĩa là sở y của trí vô phân biệt chẳng phải nghĩa của tâm chẳng phải nghĩa của tư, cũng chẳng phải phi tâm làm sở y chỉ vì là tâm chủng loại. Dùng tâm làm nhân thường tu tập thế lực, dẫn được địa vị này gọi là tâm chủng loại. Đây tức hiển bày trí sở y tâm, vượt ra ngoài tất cả so lường phân biệt.

Giải thích: Tâm nói thông với mắt, tư chẳng phải suy lường. Ngoài lại riêng dùng tâm suy lường vặn hỏi, trong đáp y cứ hai thứ tâm kia, cho nên nói không y nương. Trí sở y tâm tuy không phân biệt, đây là vô gián trước, chủng loại của tâm cũng được gọi là tâm. Còn lại như sớ dẫn.

Ba là trí nhân duyên, bốn là trí sở duyên, năm là trí hành tướng, đều như sớ dẫn.

Sáu là trí sở trì, nghĩa là trong vô phận biệt Hậu đắc trí được các thứ hành của Bồ-tát, hành này đều dùng trí làm sở y.

Bảy là trí vô phân biệt, ai làm trợ bạn? Nếu chỉ có một lẽ ra không có sở năng, nghĩa là năm độ trước chia làm hai đạo, bốn cái đầu là đạo tư lương, một cái sau là đạo y chỉ làm năng trợ bạn.

Tám là trí vô phân biệt phải ở chỗ nào cảm quả dị thục, nghĩa là ở trong hội chư Phật biến hóa thọ dụng hai thân, đây chẳng phải là dị thục nhân, vì hay trị nó, tức tăng thượng quả giả gọi là dị thục, do đây giúp huân các nghiệp Hữu lậu khiến cảm dị thục, cho nên lập tên này.

Chín là trí vô phân biệt ai làm Đẳng lưu? Nghĩa là trong tiền tiền sinh trí vô phân biệt, sinh xứ hậu hậu triển chuyển tăng thắng là quả Đẳng lưu.

Mười là trí vô phân biệt xa lìa thế nào? Nghĩa là Sơ cực hỷ địa khi nhập kiến đạo, thấy tất cả địa vô phân biệt, lý ban đầu được xuất lý. Sau địa vị tu đạo các địa mới thành.

Mười một là trí vô phân biệt ai là rốt ráo? Nghĩa là trong Sơ địa tuy được ba thân mà chưa thanh tịnh, đến địa thứ mười bèn được thanh tịnh mới gọi là rốt ráo.

Mười hai là trí vô phân biệt như theo đâu, do đâu, vì sao không nhiễm? Nghĩa là như hư không theo vô số cực ác, do tín tuệ giải dùng làm nhân mà được không nhiễm.

Mười ba là Gia hạnh, Căn bản, Hậu đắc ba thứ trí vô phân biệt có sai khác. Tụng rằng: “Như câm cầu thọ nghĩa, như câm chánh thọ nghĩa, như chẳng câm thọ nghĩa, như ngu cầu thọ nghĩa, như ngu chánh thọ nghĩa, như chẳng ngu thọ nghĩa. như năm cầu thọ nghĩa, như năm chánh thọ nghĩa, như Mạt-na thọ nghĩa, như chưa hiểu về luận, cầu luận thọ pháp nghĩa, thứ lớp dụ ba trí, nên biết là Gia hạnh”.

Nghĩa gọi là cảnh nghĩa, ban đầu chưa thọ chưa nói, kế đến thọ mà chưa nói, sau thọ cũng nói. Năm thức v.v… là căn cứ vô không phân biệt và có phân biệt. Cầu luận v.v… là y cứ cầu ôn tập thông hiểu để biện. Ý thức nương ý gọi là Mạt-na.

Mười bốn là Căn bản và Hậu đắc hai trí sai khác. Tụng rằng: “Như người đang nhắm mắt, là trí vô phân biệt, khi họ mở mắt lại, Hậu đắc trí cũng vậy”.

Mười lăm là trí vô phân biệt thế nào là khéo làm việc lợi hữu tình? Tụng rằng: “Như vui trời Mạt-ni, không nghĩ thành việc mình, các thứ Phật sự thành, thường lìa tư cũng vậy”.

Mười sáu là trí vô phân biệt làm duyên phân biệt tánh y tha khởi, làm duyên các cảnh, tự thể cũng vậy, vì trí chẳng phải trí. Nếu duyên y tha vì sao được thành trí vô phân biệt? Nếu duyên cảnh khác, cảnh khác quyết định không, phải duyên thế nào? Là trí lẽ ra có sở tri, chẳng phải trí thì vì sao gọi là trí vô phân biệt? Nghĩa là trí vô phân biệt không duyên y tha, vô phân biệt cũng không duyên thứ khác. Duyên pháp tánh phân biệt này làm cảnh, pháp cùng pháp tánh chẳng phải là một là khác. Cho nên trí này không thể quyết định nói duyên cảnh phân biệt, hay chẳng phải cảnh phân biệt. Tự thể cũng vậy không thể nói rằng quyết định là trí, như Gia hạnh, Hậu đắc vô phân biệt cũng chẳng phải phi trí, dùng trí Gia hạnh làm nhân đầu, trí này cùng cảnh không có tướng sai khác. Như hư không và tất cả ánh sáng trong hư không, cho nên trí này thành vô phân biệt.

Luận: “Như vậy ba tuệ” đến “thảy đều đã xả”.

Hỏi: Dưới nói Bồ-tát mỗi mỗi sát-na bốn đạo đều đủ có, vì sao nay nói trong kiến đạo v.v… không có Gia hạnh?

Đáp: Nếu đạo Gia hạnh thông lậu và Vô lậu, thì trí Gia hạnh chỉ là lậu nhiếp, cho nên không nêu, hoặc trí Gia hạnh cũng thông Vô lậu, nay y lậu mà nói cũng không trái nhau.

Luận: “Địa thứ tám trở đi” đến “hiện chỉ có Vô lậu”.

Hỏi: Địa thứ tám trở về trước, thiện trong năm thức cũng chẳng phải Vô lậu, vì sao thí v.v… chỉ là Vô lậu?

Đáp: Thiện trong năm thức đã chẳng phải tăng thắng, chẳng phải lập làm độ cho nên không trái nhau.

Luận: Mười nghĩa này loại sai khác vô biên.

Xét luận Du-già quyển 8 rộng có các môn cho nên chỉ nó. Nay lược dẫn rằng: Tổng nói tất cả tướng Ba-la-mật-đa thanh tịnh, phải biết bảy loại:

  1. Bồ-tát đối với các pháp không cầu người biết.
  2. Đối với pháp này thấy mình không sinh chấp.
  3. Tức nơi các pháp như vậy không sinh nghi hoặc, nghĩa là nghi có được đại Bồ-đề hay không.
  4. Trọn không khen mình chê người, có sự khinh miệt.
  5. Trọn không kiêu ngạo phóng dật.
  6. Trọn không vì được chút ít mà sinh vui mừng.
  7. Trọn không do các pháp này mà đối với người khởi tật đố tham tiếc.

Lại nói, không tánh nhiễm trước, không tánh luyến tiếc, tánh thẳng hồi hướng rất là rộng lớn. Tánh không tội lỗi, tánh không phân biệt, không có ô nhiễm, suy nghĩ lựa chọn việc làm rất là rõ ràng, đã vào địa pháp không thối chuyển gọi là không thể động. Nếu Thập địa nhiếp, Phật địa nhiếp gọi là tối thanh tịnh.

Lại nói, nhân duyên gì Bồ-tát được Ba-la-mật-đa, các quả đáng ưa, và các Dị thục thường không có hết, Ba-la-mật-đa cũng không có hết? Này Thiện nam tử! Vì lần lượt nương nhau sinh khởi tu tập không gián đoạn.

Lại nói, phải biết tất cả Ba-la-mật-đa đều có bốn thứ uy đức tối thắng:

1. Đối với Ba-la-mật-đa này khi đang tu hành có thể bỏ tâm tham tiếc, phạm giới, giận dữ, biếng nhác, tán loạn, kiến thú sở trị.

2. Đối với khi đang tu hành có thể làm tư lương chân thật của vô thượng chánh đẳng Bồ-đề.

3. Đối với khi đang tu hành, ở trong hiện pháp có thể tự nhiếp thọ lợi ích hữu tình.

4. Đối với khi đang tu hành, ở đời vị lai có thể được các quả dị thục rộng lớn vô tận rất đáng ưa.

Lại nói, phải biết tất cả Ba-la-mật-đa, lấy đại bi làm nhân, các quả dị thục vi diệu đáng ưa nhiêu ích tất cả hữu tình làm quả viên mãn, Bồ-đề rộng lớn vô thượng làm đại nghĩa lợi.

Lại nói, do Bát-nhã Ba-la-mật-đa hay chứng tánh không tự tánh của các pháp.

Luận: Nương chủng kia lập tánh dị sinh.

Hỏi: Nếu vậy thì vì sao ngu tướng ở sau liền nói chấp trước ngã pháp ngu là đều sinh tánh chướng? Lẽ nào ngu này chỉ căn cứ chủng bàn luận?

Đáp: Tánh hẹp chướng rộng, tánh dị sinh chướng liền thông chủng và hiện. Nghĩa là tánh dị sinh và tánh dị sinh chủng loại hiện hành tổng gọi là dị sinh tánh chướng, cho nên không trái.

Sớ: Quyển lập năm Vô ký.

Nghĩa là di thục v.v… là bốn, thêm một tự tánh nữa. Thể tự tánh, nghĩa là các sắc căn trưởng dưỡng và tất cả sắc bên ngoài v.v… chẳng phải dị thục sở nhiếp, trừ thiện, nhiễm ô sắc xứ, thanh xứ.

Sớ: “Như thật nghĩa” đến “gọi là tự tướng”.

Tổng nêu rõ tự tướng và cộng tướng trong Nhân Minh. Chỉ có tâm phân biệt an lập mới gọi là cộng tướng, nếu phi an lập, giả sử hư không, vô thường v.v… trong uẩn đều gọi là tự tướng, mỗi mỗi đều gá nương vào tự sở y, vì uẩn không thông các thứ khác, tức vô thường v.v… cũng gọi là thật nghĩa, vì khác với tâm phân biệt sở lập kia.

Hỏi: Trong kinh nói hai tướng nghĩa kia thế nào?

Đáp: Thể của năm uẩn v.v… gọi là tự tướng, vô thường, khổ, vô ngã v.v… trong uẩn gọi là cộng tướng. Tuy mỗi mỗi uẩn vô thường v.v… sai khác mà kia đây tương tợ để lập tên cộng, không nói tán tâm phân biệt an lập gọi là cộng tướng, cho nên so với Nhân Minh không đồng.

Hỏi: Hai sư trước sau, nghĩa vì sao lại khác?

Đáp: Đại ý là đồng, rộng lược là khác. Ý nói trong kinh cùng sư trước đồng, chỉ nêu bày Nhân Minh có khác trước. Nhưng trong sớ nói rằng Nhân Minh luận kia đây không đồng là đều nương Phật Địa mà nêu nghĩa, hai tướng của Nhân Minh luận, kết cùng kinh khác thì nghĩa kinh khác giống với sư trước lại không nói. Cho nên luận Phật Địa nêu Nhân Minh mà tổng kết rằng kinh này không như vậy, cho nên không trái nhau.

Luận: Đoạn hoặc, chứng diệt, kỳ hạn tâm riêng.

Hỏi: Nếu Vô gián đạo không chứng diệt, vì sao nói trí vô phân biệt kia là duyên lý trí?

Đáp: Lý sở duyên chỉ có Chân như không gọi trạch diệt, vẫn có thô trọng mà chưa đoạn.

Hỏi: Nếu vậy đoạn hoặc chứng diệt sai khác, vì sao ở sau nói Bồtát lợi căn sát-na sát-na đoạn hoặc chứng diệt?

Đáp: Luận kia y dị phẩm mong nhau mà bàn, đây căn cứ một phẩm cho nên không cùng nêu.

Sớ: “Vô gián đạo thô” đến “vì giải thoát được tự tại”.

Có nghĩa giải thích rằng: Vô gián đạo khi phục thọ v.v… các thứ vị Giải thoát đạo trừ thô trọng kia.

Sớ: Cũng hiển sở tri chướng đoạn, không được Vô vi.

Biện rằng, nay thêm một giải thích, đoạn sở tri chướng cũng được Vô vi, như Hiển Dương ghi: Tưởng thọ, bất động hai thứ Vô vi, nếu đoạn chướng được trạch diệt sở nhiếp thì chướng kia tức sở tri chướng nhiếp. Lại luận này đoạn sau nói rằng: Thừa nhận vô trụ xứ cũng là trạch diệt nhiếp. Kinh nói ba Thừa không sai khác nhưng y lìa ràng buộc đoạn phiền não mà nói, cũng không trái nhau.

Luận: Như nhập hai định nói đoạn gốc khổ.

Tức khổ thọ trong Dục giới dẫn tánh không an ổn gọi là khổ thô trọng. Sức sơ định kém chưa thể phát sinh hỷ lạc và khinh an thù thắng, chưa khắp vui mừng cho nên chưa thể đoạn khổ thô trọng kia. Hai định trái nhau cho nên nó mới đoạn. Lại luận Bà-sa quyển 81 ghi:

Hỏi: Khi lìa dục nhiễm đoạn ái và khổ, Khế kinh vì sao nói định thứ hai lại diệt khổ?

Đáp: Y đối trị lỗi cho nên nói như vậy, nghĩa là lìa dục, nhiễm tuy đoạn gốc khổ mà chưa gọi là qua khổ đối trị. Ở Sơ tĩnh lự khi được lìa dục, quá khổ đối trị cho nên nói khổ diệt khổ đối trị nghĩa là sơ định, rộng như luận kia đã dẫn.

Luận: Lại mười vô minh.

Xét Nhiếp luận ghi: Do đối mười tướng pháp giới sở tri, có mười vô minh sở trị chướng trụ.

Giải thích: Do mười tướng kia hiển Chân như gọi là mười tướng pháp giới. Lại nói, nên biết vô minh như vậy đối với Thanh văn v.v… chẳng nhiễm ô, đối với các Bồ-tát là nhiễm ô. Tên của mười vô minh mỗi mỗi như sau trong sớ đã nêu, chuẩn theo đây nên biết. Dị sinh tánh chướng chẳng phải mười vô minh, do dị sinh tánh chẳng phải Vô ký, cho nên chẳng phải chỉ có trí chướng.

Sớ: Hoặc có chín.

Như trong Sơ địa chỉ đoạn kiến hoặc, nhưng lại không đoạn hoặc của tu đạo, tu đạo chỉ nên có ở chín địa, vì sao luận nói tu đạo Thập địa?

Luận: Bốn chướng vi tế phẩm sau cùng.

Đủ như sớ biện. Có nghĩa gạn hỏi rằng, nên nói địa địa phẩm thứ chín nhiếp, không nên nói là ba phẩm trung hạ.

Biện rằng: Kiến v.v… các hoặc phẩm thứ chín, tất cả lẽ ra là chướng vi tế này, vì là hạ phẩm. Đã có lẫn lộn này cho nên ba phẩm của sớ ngăn lựa chọn rất khéo.

Luận: Hai thân kiến.

Hai giải thích như sớ. Có nghĩa trong pháp chấp, có ngã và có ngã sở hai thân kiến.

Biện rằng: Tuy Tát-ca-da tổng nhiếp ngã sở, xem thế văn này không lấy phẩm ngã sở, vì sao? Đáp: Rõ ràng hai kiến đã hỏi, làm sao biết chỉ có thứ sáu đồng thời? Đã cùng thứ bảy đối nhau hỏi đáp, thức thứ bảy lẽ nào thừa nhận có ngã sở kiến? Do đây cho nên giải thích thứ hai của sớ là trội hơn.

Sớ: “Dùng mười thứ phương tiện trí” đến “để nhập”.

Nhập Địa thứ bảy, mười phương tiện trí kia rộng không chép.

Luận: “Vào Thập địa” đến “sở hàm tàng”.

Hỏi: Tất cả công đức trong hậu hậu địa, trong tiền tiền địa cũng được cả chăng?

Đáp: Cũng thừa nhận được, cho nên luận Du-già quyển 8 ghi: Nói như vậy, chi phần công đức trong hậu hậu địa chẳng phải tiền tiền trụ tất cả đều không, nhưng hạ phẩm cho nên không tùy số kia. Phải biết tức nó triển chuyển tu tập thành trung hạ phẩm, đối các địa sau chứng được đầy đủ mới kiến lập.

Sớ: Trong này ý nói đã đoạn xứ.

Hỏi: Nếu căn cứ đã đoạn phiền não lẽ ra cũng nói là Như Lai vị.

Nếu nương chánh đoạn sở tri lẽ ra cũng ở tâm Kim cương, vì sao không đồng?

Đáp: Hai chướng trong Đại luận y cứ ảnh mà lược mà nói. Nói hai chướng kia, một ở Kim cương, một ở Như Lai địa, cũng không trái nhau.

Luận: Trong chân kiến đạo tất cả đều đốn đoạn.

Dù ba tâm kiến đạo cũng đốn đoạn, cho nên luận Du-già quyển 5 ghi: Kiến đạo đoạn, phiền não, đốn đoạn chẳng phải dần đoạn, vì sao? Do vì hiện quán trí đế, hiện quán có thể đoạn sở đoạn phiền não của kiến đạo. Nhưng hiện quán này cùng hoại duyên đế tác ý tương ưng, cho nên ba tâm đốn đoạn tất cả mê, khổ đế v.v… kiến đạo đoạn phiền não.

Sớ: Vẫn không thừa nhận chín Vô gián đạo vào căn bản định.

Thứ lớp Na-hàm đoạn chín phẩm dục vô gián, đều y Vị chí định khởi.

Luận: “Thông duyên trong ngoài” đến “có đông nhiều”.

Có nghĩa gạn hỏi sớ mà tự giải thích rằng: Nay giải thích chung phiền não, sở tri, sáu thức đồng thời là lý do dần đoạn, như Thức thứ bảy ở trước đều giải thích lý do đốn đoạn hai chướng, cho nên biết văn này kết hợp giải thích lý do dần đoạn hai chướng, nếu không như vậy phiền não vì sao không giải thích?

Biện rằng: Thức thứ bảy hai chướng đốn đoạn không sai, kế đến đều nêu rõ lý do đốn đoạn. Sáu thức hai chướng trước sau phân biệt rõ, căn cứ trong phiền não lớn nhỏ có khác, nhỏ tiệm lớn đốn. Kế đến nêu rõ sở tri chỉ là lớn chỉ là tiệm, sau mới giải thích lý do nó dần đoạn. Thế văn đã cách nhau đâu được cùng giải thích tiệm nhân phiền não? Lại phiền não chướng, Bồ-tát đốn đoạn, văn đã tự nêu, nói duyên trong ngoài làm sao hiển đốn ngược lại rõ tiệm? Do đây chỉ biện lý do tiệm sở tri, chỉ bày thô cạn mà thôi.

Luận: Quyết mỗi riêng khởi vô gián.

Hỏi: Bốn nghĩa thế nào?

Đáp: Xét luận Đối Pháp quyển ghi: “Gia hạnh đạo, nghĩa là do đạo này có thể bỏ phiền não, vì sao? Do khi chánh tu đạo như vậy có thể dần các thượng phẩm riêng khác v.v… các phiền não sở sinh, phẩm loại thô trọng một phần dần được chuyển y.

Vô gián đạo, nghĩa là do đạo này không ngừng hằng đoạn phiền não khiến không còn thừa, vì sao? Do Vô gián đạo này có thể hằng trừ bỏ phẩm loại thô trọng do phiền não sinh, khiến không còn thừa. Lại chuyển thô trọng y được không thô trọng.

Giải thoát đạo, nghĩa là do đạo này chứng đoạn phiền não, được giải thoát, vì sao? Do đạo này có thể chứng hằng đoạn phiền não được chuyển y.

Thắng tấn đạo, nghĩa là đoạn trừ phẩm phiền não, tất cả Gia hạnh, vô gián, giải thoát đạo này gọi là thắng tấn, vì sao? Vì đoạn các phiền não hậu phẩm này có được Gia hạnh, vô gián, giải thoát, mong phẩm thù thắng này gọi là Thắng tấn đạo.

Giải thích: Sở đoạn thô trọng tức chủng tử của hoặc, hoặc không kham nhậm. Nói chuyển y tức Thức thứ tám, hay lìa một phần thô trọng trên thức gọi đó là chứng đắc. Hoặc tánh thành thật cũng là chuyển y, nghĩa chứng đồng như trước.

Lại xét Câu-xá ghi: Vô gián đạo là căn cứ đoạn hoặc được vô chướng ngại.

Giải thích: Do đoạn hoặc mà được khiến không đi đến mà sinh, không có sức có thể ngăn ngại Thánh đạo, khiến không chứng diệt, gọi là Vô gián đạo. Do Giải thoát đạo đã đến sinh tướng, quyết định hiện khởi hay chứng diệt. Đã giải thoát hoặc được cùng lìa ràng buộc đồng thời khởi.

Giải thích: Đã giải thoát, được cùng Ly hệ đồng thời mà sinh, chính là chứng quả Ly hệ, cho nên gọi là giải thoát, dụ như thế gian đuổi giặc đóng cửa. Cho nên tùy phẩm nào phải đủ hai đạo, khác với Đại thừa, như trước đoạn hoặc chứng diệt đã giải thích riêng.

Sớ: Đây y thừa nhận, nếu không như vậy liền trái Đối Pháp.

Thừa nhận thắng tấn mà liền riêng khởi, chẳng phải thừa nhận là dùng mỗi mỗi phẩm Gia hạnh, Vô gián, Giải thoát ba đạo làm Thắng tấn đạo. Đối Pháp nói cho nên ý trái có thể biết.

Sớ: “Nếu riêng riêng đoạn” đến “cho nên đủ bốn đạo”.

Bàn thể một trí y cứ nghĩa không đồng, chia làm bốn đạo. Thừa nhận, hân cầu tức là nghĩa của Thắng tấn, Gia hạnh.

Sớ: Tức là riêng riêng mong trước.

Đây hiển luận kia y cứ Bồ-tát riêng khởi đạo mà nói, cho nên nói ba loại sau là Thắng tấn của trước, cùng luận này sai khác.

Sớ: “Lại nói” đến “tức Nhị thừa”.

Lại kết hợp Đối Pháp, sau nói rõ Thắng tấn y Nhị thừa mà nói. Xét luận kia ghi: Lại bỏ trừ đoạn phiền não Gia hạnh, hoặc siêng năng phương tiện tư duy các pháp, hoặc siêng năng Gia hạnh an trụ các pháp, hoặc tiến tu các Tam-ma-bát-đề, tất cả đạo gọi là Thắng tấn đạo. Thích luận ghi: Lại nữa là hiển các nghĩa khác. Xả đoạn phiền não, các Gia hạnh đạo, chỉ chánh tư duy các pháp Khế kinh, hoặc lại ở trước trong sở tư duy, sở chứng pháp an trụ quán sát, hoặc lại tiến vào thắng phẩm định. Các điều như vậy gọi là Thắng tấn đạo.

Giải thích: Rõ ràng chẳng phải đoạn hoặc, các Thắng tấn đạo lựa chọn đoạn hoặc Thắng tấn đạo, cho nên nói bỏ xả đoạn phiền não hành.

Các văn có thể xét biết.

Sớ: Hoặc gồm thông ba Thừa.

Nêu lại hai văn của Đối Pháp đều thông ba Thừa mà nói.

Sớ: “Nay đã luận” đến “là Thắng tấn trước”.

Hiển luận này nói Thắng tấn của Nhị thừa. Nói hoặc tổng nêu nghĩa là đồng hậu phẩm ba đạo của Đối Pháp kia đều là Thắng tấn trước.

Sớ: “Nếu không như vậy” đến “vì là thắng tấn”.

Lại hiển luận này hoặc tổng biệt nói không đồng Đối Pháp đứng về phẩm sau mà nói. Nếu không như vậy là sơ phẩm đến tất cả phẩm đạo sau đều thù thắng hơn ở trước. Đây tức không có, chẳng khởi hoặc biệt hoặc tổng hai Thắng tấn đạo, đã không như vậy sẽ không đồng luận kia. Hoặc nói tổng là nêu không nhất định, nghĩa như sớ đã biện. Đối Pháp không nói hoặc tổng biệt, thừa nhận có khi không khởi Thắng tấn đạo.

Sớ: Được mười ý lạc bình đẳng tịnh tâm.

Xét luận Thập Địa quyển ghi:

  1. Phật quá khứ bình đẳng tâm nhiễm tịnh
  2. Phật vị lai
  3. Phật hiện tại
  4. Giới định
  5. Tâm tịnh
  6. Trừ kiến nghi hối tịnh
  7. Đạo phi đạo trí tịnh
  8. Hạnh đoạn trí tịnh
  9. So lường tất cả pháp Bồ-đề phần thượng thượng tịnh
  10. Hóa độ tất cả chúng sinh tịnh.

Luận kia giải thích: Ở trong bình đẳng tâm được thanh tịnh là pháp chư Phật và tùy thuận pháp chư Phật, nghĩa là tâm thứ nhất chư Phật ba đời mười phương tức là pháp chư Phật, bảy tâm còn lại tùy thuận pháp chư Phật. Phật pháp nhân giới, định, trí tuệ này giáo hóa chúng sinh thành tựu, giới tức thứ tư, định tức thứ năm. Tâm thứ sáu, bảy, tám, chín, gồm trí tịnh nhiếp.

Giải thích: Đối với Tam bảo lìa tâm nghi hoặc, biết Phật nói đạo có thể xuất ly, ngoài đạo chẳng phải đạo không thể xa lìa. Lại cho là ta nên đoạn hạ trung hành, mà phát khởi thánh hành thượng diệu, như thứ tự là tướng sáu, bảy, tám kia.

Sớ: Bất hành, Khế kinh v.v… trong vô số pháp tướng.

Do vì biết pháp vô tướng, không vì có tướng hành. Đối Khế kinh v.v… trong các pháp tướng, xem Khế kinh v.v… là có tướng. Luận: Tám không tăng giảm Chân như.

Như sớ biện đủ. Nhiếp luận, Trung Biên cùng này đồng khác, có nghĩa tự giải thích, lại gạn hỏi sớ rằng: Ban đầu nên chánh đồng như Thế Thân nói, vì nghĩa không sai khác. Giải thích sau của Vô Tánh cũng đồng với đây, không thể như sớ nói đây kia sai khác.

Biện rằng: Mói xem qua dường như đồng, xét cùng lý thì có hơi khác. Nhiếp luận thẳng y cứ đoạn nhiễm được tịnh, rõ ràng không tăng giảm. Đây căn cứ lìa chấp nói rõ không có tăng giảm, liền đồng Trung Biên. Do chứng như đây mà lìa nơi chấp, không thấy một pháp lại có tăng giảm. Nêu sở kiến của họ là pháp không từng tăng giảm để hiển Chân như. Chân như không tăng giảm là Y chủ thích, do đây mà nói ý sớ rất xa.

Luận: Tức đây cũng gọi là tướng tự tại.

Hỏi: Tướng tự tại này tức trong bốn tự tại của Trung Biên, thuộc về vô phân biệt, vì sao tướng này gọi là vô phân biệt?

Đáp: Vì trí vô phân biệt khởi, từ nhân mà gọi. Luận này nói tướng là y quả mà gọi, cho nên không trái nhau.

Luận: Hữu lậu từng tu tập.

Hỏi: Do đâu từng tu tập không thể đoạn hoặc?

Đáp: Nói từng tu tập là từng chứng đắc. Đạo từng tu tập này nếu có thể đoạn, đã lẽ ra hai chướng từ vô thỉ không thành. Do đạo năng trị trước đã khởi, tuy đạo từng đắc mà chướng không mất, cho nên biết từng tu tập chẳng phải năng đoạn.

Sớ: “Nhưng căn cứ duyên ràng buộc”đến “có thể nói địa đoạn”.

Hiển sở tri chướng mà không thể nói thượng, hạ, tự, tha đoạn sai khác. Do chẳng phải tương ưng, sở duyên ràng buộc không đồng hoặc chướng.

Sớ: “Đây tức ở dưới đoạn trên” đến “chẳng phải pháp ràng buộc”.

Ở đây nói tức là sở tri chướng. Nói chẳng phải nhuận sinh, chẳng phải pháp ràng buộc là hiển phiền não khác, cho nên ở trên dưới tùy đoạn dưới trên, lý cũng không trái.

Sớ: “Lại giải thích” đến “loại lẽ ra cũng như vậy”.

Loại đồng phiền não, đoạn có thứ lớp.

Sớ: “Tức hai chướng” đến “mỗi mỗi có bốn câu”.

Do loại sở tri chướng đồng phiền não đoạn có thứ lớp, cho nên tướng sáu và bảy của sở tri chướng mong nhau cũng thành bốn câu. Bốn câu tác pháp đồng phiền não mà nói, chỉ đổi tên của nó, suy nghĩ có thể biết.

Luận: “Tất cả hữu tình” đến “có thể nói đủ bốn”.

Hỏi: Vô trụ Niết-bàn, Bồ-tát chứng chăng?

Đáp: Trong truyện có hai giải thích:

1. Không được. Luận này nói vì ra khỏi sở tri chướng mà chứng đắc, nếu vậy Nhiếp luận nói làm sao để hiểu? Luận kia cho là vì Bồ-tát có vô trụ.

Giải thích: Vô trụ Niết-bàn do Bồ-tát chứng chẳng phải kia đã được. Như vị tu tập nói được chuyển y chẳng phải đã được.

2. Thừa nhận được. Phần đoạn sở tri hiển Chân như là sở y của bi trí. Có nghĩa xác quyết rằng: Nay y giải thích trước nói ra khỏi phiền não được sở y khác cần phải toàn xa lìa. Nói ra khỏi sở tri chướng được vô trụ xứ, rõ ràng chẳng phải nhân được.

Biện rằng: Giải thích sau là thù thắng. Nói ra khỏi sở tri lại có hai nghĩa: Một là hoàn toàn ra khỏi gọi đó là ra. Ở đây nói người thù thắng là hiển bày Bồ-tát, nói các y khác là nêu Nhị thừa để hiển nơi Phật. Hai là từng phần hay hoàn toàn đều gọi là ra. Cũng như tam Thừa, kiến đạo, tu tập, Vô học tam Vô lậu đạo đều gọi là xuất thế. Do đây có chỗ khác nói chướng hằng vắng lặng, vô trụ thì không như vậy, nếu muốn chướng hết thì lẽ ra đồng như luận kia nói chướng hằng vắng lặng, đã không như thế, cho nên khác với trước, không thể làm dụ.

Lại do bi trí không trụ nơi hai, lý sở chứng gọi là vô trụ xứ, Địa thứ năm đã đoạn trái với ngu sinh tử vui Niết-bàn, mà do chứng lý vô sai khác kia, điều này lẽ đâu không gọi là nghĩa vô trụ? Huống gì Nhiếp luận nói là có, lẽ nào tùy tình mình mà gượng nói thông thánh giáo?

Luận: “Nếu Thanh văn” đến “nói kia chẳng có”.

Xét kinh Thắng Man ghi: A-la-hán, Bích-chi-phật sinh pháp hữu dư bất tận, cho nên có sinh.

Giải thích: Rõ ràng ngã sinh đã tận, trí không rốt ráo, liền biết khổ trí, biết khổ trí có hai: một là biết phần đoạn, hai là biết biến dịch.

Nhị thừa đoạn, ban đầu chưa đoạn biến dịch cho nên nói có sinh, có các phạm hạnh khác thành cho nên không thuần.

Giải thích: Phạm hạnh đã lập không rốt ráo tức chứng diệt trí. Niết-bàn gọi là Phạm, chứng nhân Phạm gọi là phạm hạnh, phạm hạnh có hai:

1. Phần đoạn nhân hết hiển Hữu dư y, phần đoạn quả hết hiển Vô dư y.

2. Quả biến dịch hết hiển Vô dư y, Vô lậu y còn hiển Hữu dư y.

Nhị thừa định tánh và bất định tánh, ở trong thứ nhất trước được có toàn phần, không được thứ hai, tuy có sở thành mà làm nhân quả biến dịch, nhân quả tạp cho nên gọi là không thuần, sự không rốt ráo cho nên sẽ có sở tác.

Giải thích: Chỗ làm đã xong không rốt ráo là trí tu đạo. Tu đạo có hai: một là trị phần đoạn, hai là biến dịch. Nhị thừa chỉ tu phần đoại đối trị, còn các trị khác chưa tu, cho nên sự không rốt ráo. Vì sự không rốt ráo nên phải có sở tác, không vượt qua kia cho nên phải có sở đoạn.

Giải thích: Không thọ quả báo đời sau chẳng rốt ráo. Đây là trí đoạn tập, sở đoạn có hai: một là nhân phần đoạn, hai là biến dịch. Nhị thừa đoạn nhân ban đầu và thứ hai gọi là không qua bờ kia, không qua bờ kia cho nên cần phải đoạn. Vì không đoạn nó, cho nên nói cách quả Niết-bàn xa.

Giải thích: Do bốn trí trước đều không rốt ráo, cách đại Niết-bàn của Như Lai rất xa, nêu trí thứ tư hiển ba trí trước.

Luận: Chẳng phải trạch diệt nhiếp nói là tạm lìa.

Tức luận Hiển Dương quyển 18 ghi: Nghĩa là phi trạch diệt v.v…

bốn loại Ly hệ, nghĩa là duyên giải thoát rốt ráo lìa Ly hệ, chọn lựa phiền não rốt ráo lìa Ly hệ, khổ vui tạm thời lìa Ly hệ, tâm tâm pháp tạm thời lìa Ly hệ. Giải thích phi trạch, trạch diệt, bất động, thọ tưởng, như thứ lớp làm bốn. Hai loại sau đã nói là tạm thời lìa Ly hệ, rõ ràng là trong bốn thứ phi trạch diệt nhiếp.

Sớ: “Đối Pháp” đến “không thể làm vặn hỏi”.

Đây ngăn vặn hỏi. Ý vặn hỏi cho rằng, xét Đối Pháp ghi: Có hai thứ nên đoạn pháp, nghĩa là các phiền não và sở y thọ này. Thọ có hai loại, nghĩa là biến dịch và không biến dịch, như thứ lớp khổ vui chẳng khổ vui kia. Phải biết phiền não đoạn cho nên kiến lập trạch diệt. Hai thọ đoạn cho nên như thứ lớp kiến lập bất động và tưởng thọ diệt kia. Đã nói đoạn thọ được hai Vô vi, hai Vô vi như thế nào? Không là trạch diệt nhiếp ư? Ý sớ giải thích chủng đoạn hiện dứt đều gọi là đoạn. Thọ v.v… y cứ hiện tạm nên không hành, nếu không như vậy thì ở trong trạch diệt vì sao không nhiếp bất động và tưởng thọ kia? Đã khai không nhiếp, rõ ràng chẳng phải là trạch.

Sớ: Không đồng Hữu lậu.

Ngăn tông Tiểu thừa chống chế, tông Tiểu thừa chống chế rằng: Tông Đại thừa của ông Hữu lậu đoạn hoặc cũng chỉ chẳng phải trạch, vì sao trách ta bất nhiễm vô tri được phi trạch diệt? Ý đáp dễ biện.

Luận: Nhiếp quán vô lượng.

Đều giải thích như sớ. Có nghĩa quán là tên quán, tức là niệm trụ v.v… vì nó có thể giữ gìn niệm trú quán. Luận Phật Địa ghi: Nếu đứng về tướng thô, Diệu quan sát trí nhiếp, Tứ niệm trụ quán sát tất cả thân, độ các pháp.

Biện rằng: Lý đã nhiều đường, hai nghĩa đều được.

Sớ: Nay nói vị nhân quả thông.

Nay là nói thông hai vị nhân và quả, đều có hai mươi hai. Tầm và tứ chỉ có nhân không thông quả, cho nên không nói.

Luận: Chuyển Hữu lậu này có năm, sáu, bảy, tám.

Hỏi: Luận Trang Nghiêm tụng rằng: “Thức tám, bảy, sáu, năm; như thứ lớp mà được”, tức chuyển năm thức thành Diệu quan sát, vì sao lại trái nhau?

Đáp: Phật Địa quyển 3 có hai sư giải thích, nghĩa đồng với đây. Sư thứ hai nói: Chuyển Thức thứ sáu làm Thành sở tác trí, chuyển năm thức trước thành Diệu quán sát trí. Chánh nghĩa phá rằng: Đây không nên vậy, vì chẳng có thứ lớp. Chuyển pháp trừ nghi ra thì cùng khắp Quán sát chẳng phải dụng của năm thức.

Giải thích: Ý sư thứ hai đồng với luận Trang Nghiêm, chánh là hiển luận Trang Nghiêm kia nói chẳng phải thứ lớp, cho nên không trái nhau.

Luận: Trí tuy chẳng phải thức.

Phật Địa quyển 3 đại ý đồng với đây, nhưng giải thích hơi rộng hơn, và hiển tương ưng tổng gọi là trí. Luận kia nói bốn trí như vậy chuyển pháp nào được? Nhiếp Đại Thừa nói chuyển thức uẩn được. Vì sao chuyển tâm mà được tâm pháp? Chẳng phải được tâm pháp vì bốn tâm trí Vô lậu tương ưng giả gọi là trí, cho nên luận hỏi: Chánh trí phải nói là thật có hay phải nói là giả có? Đáp: Phải nói đều có. Trong này trí là thật có, nếu trí quyến thuộc của các tâm, tâm pháp cũng gọi là trí, nói đó là giả, cho nên có hai loại. Trong này Vô lậu tâm, tâm pháp các trí làm chủ, cho nên đều gọi là trí, chuyển thức uẩn y được bốn trí Vô lậu tương ưng tâm, nghĩa là Đại viên cảnh tâm nhẫn đến Thành sự tác tâm.

Sớ: “Vì sao Thức thứ tám” đến “thứ năm thì không như vậy?”,

Đây vặn hỏi giải thích ban đầu. Vì sao do thức thứ tám duyên ở định sắc? Định sắc dẫn cho nên sở biến tức thuộc pháp xứ định sắc. Năm thức cũng duyên định sắc làm chất, sở biến tức chẳng phải thuộc về pháp xứ sắc.

Sớ: Năm gọi là tán năm thường duyên.

Đây là lời đáp. Một là tánh tán động, hai là thường duyên năm trần làm cảnh, không đồng Thức thứ tám, cho nên sở biến sắc thuộc về năm trần.

Luận: Lại đây là thường v.v…

Có nghĩa luận nói, sở y thường nghĩa là cảnh sở duyên. Do vì cảnh thường giả nói trí thường, cho nên kinh Niết-bàn ghi: Thầy của chư Phật là pháp, do pháp thường cho nên chư Phật cũng thường. Nói không đoạn tận là tổng giải thích bốn trí là nghĩa thường. Tương tục không gián đoạn cho nên gọi là vô đoạn. Hậu tế không có cho nên gọi là vô tận, không cần riêng phối ba thân mà nói.

Biện rằng: Tuy luận này chánh căn cứ bốn trí nói đoạn tận, nhưng thân thể lìa bốn trí là không, cho nên không đoạn tận, tổng phối hợp nơi thân, lý lẽ ra cũng khéo. Trang Nghiêm luận có thuyết này.

Luận: Pháp thân như vậy có ba tướng sai khác.

Hỏi: Ba thân như vậy Phật Phật đồng thể, thường hay vô thường?

Đáp: Tự tánh thân đồng, nghĩa các thân đồng, cũng được gọi là đồng, tuy đều nói là thường nhưng thường có sai khác. Cho nên luận Trang Nghiêm ghi: Ba thứ thân kia chư Phật thảy đều bình đẳng vì do y, cho nên tất cả chư Phật tự tánh thân bình đẳng vì pháp giới không sai khác. Do tâm cho nên tất cả chư Phật sắc thân bình đẳng, vì Phật tâm không khác. Do nghiệp cho nên tất cả chư Phật hóa thân bình đẳng, vì đồng một sở hóa cho nên tất cả chư Phật đều đồng thường trụ. Do vì tự tánh thường nên tất cả chư Phật tự tánh thân thường, vì rốt ráo Vô lậu. Do vô gián thường nên tất cả chư Phật sắc thân thường trụ, vì nói pháp không dứt đoạn. Do tương tục thường nên tất cả chư Phật hóa thân thường trụ, tuy ở đây diệt lại hiện ở kia.

Luận: Hai tha thọ dụng do bình đẳng thị hiện.

Trong truyện có ba giải thích:

1. Quán sát kích phát Bình đẳng cho nên thị hiện.

2. Bình đẳng kích Viên cảnh trí mà khiến thị hiện, do nó năng kích  phát nên nói là bình đẳng hiện.

3. Bình đẳng tự có thể thị hiện, không nhờ tha kích phát cũng không kích phát tha.

Biện rằng: Giải thích sau là chính. Đã là trí tự tại chẳng phải chỉ có căn bản, hiện tướng thân cõi, lý nào không thể. Giải thích thứ hai lý thông vì cảnh trí là gốc, giải thích thứ nhất là sai.

Luận: Ba biến hóa thân đến các sự lợi lạc.

Hỏi: Luận Du-già quyển nói Địa tiền Bồ-tát không sinh tịnh độ, Nhiếp luận cũng nói người sinh tịnh độ là ý khác thời, vì sao nay lại nói hóa ở tịnh độ vì chưa lên Bồ-tát địa?

Đáp: Trong truyện có hai giải thích:

1. Nhị thừa, dị sinh cũng sinh. Quán kinh v.v… đều nói thành thật. Du-già, Nhiếp luận nói không sinh là y cứ Thọ dụng độ không ngăn Hóa độ.

2. Không sinh, vì Du-già, Nhiếp luận đứng về tự hiểu, lại kinh Đại Thừa Đồng Tánh ghi: Tịnh độ thành Phật đều là thọ dụng thân, trong uế độ đều là Hóa thân. Cho nên biết cõi mà Hóa thân cư trú không được gọi là tịnh. Đây nói tịnh độ là y cứ tạm biến, tức như kinh Pháp Hoa nói ba biến cõi tịnh. Kinh Duy-ma v.v… đồng.

Biện rằng: Nay đồng thuyết trước vì nhiều kinh luận nói sinh tịnh. Trong kinh Đồng Tánh vì đối với Hóa thọ dụng mà gọi là uế, cũng không trái nhau.

Luận: Luận nói chuyển bỏ A-lại-da thức được tự tánh.

Nhiếp luận ghi: Nên biết pháp thân do bao nhiêu Phật pháp nhiếp trì? Một do thanh tịnh gọi là chuyển A-lại-da thức được pháp thân. Cho nên biết cảnh trí tự tánh thân nhiếp.

Luận: Phẩm viên cảnh trí mà chứng đắc.

Nhiếp luận Vô Tánh quyển giải thích: Phải biết trong này chuyển A-lại-da thức cho nên được Đại viên cảnh trí.

Luận: Nói Bình đẳng trí.

Nhiếp luận Vô Tánh quyển ghi: Chuyển Mạt-na nhiễm ô được thành Bình đẳng tánh trí, do đây an trụ Vô trụ Niết-bàn, đại từ đại bi hằng cùng tương ưng, khéo vì sở thích của chúng sinh mà hiện hình bóng Phật.

Lại nói, Diệu quán sát trí đầy đủ tất cả môn Đà-la-ni, môn Tamma-địa, dụ như kho báu, ở trong đại hội hay hiện tất cả tác dụng tự tại, hay đoạn các nghi, hay rưới mưa pháp.

Lại nói, Thành sở tác trí khắp ở mười phương tất cả thế giới hay hiện biến hóa, tám tướng Thành đạo, hay hiện giữ gìn tất cả sự lợi lạc cho hữu tình.

Luận: “Nhưng nói chuyển bỏ tạng thức” đến “thật tánh kia”.

Xét luận Vô Tánh quyển ghi: Do thể pháp thân kia thanh tịnh, tịnh thì ai chuyển ai mà được thanh tịnh? Vì đáp câu hỏi này nên nói như vầy: Chuyển A-lại-da thức được pháp thân. Do A-lại-da thức giữ gìn tất cả chủng tử tạp nhiễm, khi đối trị khởi, chuyển diệt tất cả chủng tử nhiễm như vậy, chuyển được tùy thuận tất cả công đức vô tội viên mãn. Thí như thuốc A-yết-đà ở thế gian có thể biến độc trở thành không độc, cho nên gọi là chuyển.

Luận: “Bình đẳng trí phẩm” đến “nhiếp Biến hóa thân”.

Hỏi: Xét kinh Phật Địa ghi: Quán sát trí ở trong đại chúng rưới mưa pháp lớn, nói pháp đoạn nghi, cho nên khởi Hóa tướng, thuộc thân gì?

Đáp: Y thọ dụng tha, vì Thánh Bồ-tát nói pháp v.v… là thuộc về tha thọ dụng, y nơi Hóa thân nhiếp cũng như vậy.

Hỏi: Đại viên cảnh trí duyên tướng sở biến của hai thân khác, còn ba trí khác duyên tướng sở biến của tự thọ dụng, đều thuộc thân gì?

Đáp: Viên cảnh trí biến tất cả của hai thân độ khác có hai giải thích:

1. Cũng là tự thọ dụng nhiếp, do cực vi tế chẳng phải cảnh kia, do hai trí này tự biến hai thân, chẳng phải kích phát Thức thứ tám mà khiến nó hiện.

2. Sở biến tùy chất hai thân độ nhiếp, nếu ba trí khác duyên tự thân độ tướng sở biến thì tự thân độ nhiếp chẳng phải là tha.

Luận: Nói Viên cảnh trí là Phật thọ dụng.

Hỏi: Đây tức trong luận Trang Nghiêm nói, sư trước làm sao hiểu mà giải thích?

Đáp: Nay vì nói chung rằng, do nhờ sức duyên Viên cảnh trí mới được thọ dụng, y cứ sở nhân mà nói, cũng không trái nhau.

Luận: Ba nghiệp hóa thân.

Xét kinh Phật Địa ghi: “Thân, ngữ và tâm hóa nghiệp phương tiện khéo léo” Luận kia quyển ghi: Đây hiển Thành sở tác trí khởi ba nghiệp hóa, do trí này có thể dùng phương tiện khéo léo hay khởi thân, ngữ và tâm ba nghiệp hóa.

Thân hóa có ba loại:

1. Tự thân tương ưng, nghĩa là hóa tự thân làm vô số hình loại như Luân vương và hiện các thứ sự bản sinh.

2. Tha thân tương ưng, nghĩa là hóa ma vương làm thân Phật, biến Xá-lợi tử làm Thiên nữ v.v… nương trên thân khác thị hiện các thứ hình loại biến hóa.

3. Phi thân tương ưng, nghĩa là hiện đại địa làm bảy báu, hoặc hiện vô lượng hóa thân Phật, hoặc phóng hào quang chiếu vô lượng cõi. Các loại như vậy lìa thân tự tha riêng biến hóa làm vô số hình loại tình và phi tình sắc. Các việc như đất chấn động, phóng quang, tỏa hương thơm… đều vì lợi lạc các hữu tình, tất cả đều gọi là thân Phật hóa nghiệp.

Ngữ nghiệp cũng có ba:

1. Tự thân tương ưng, nghĩa là Phật tự thân hóa hiện Phạm âm bảo khắp vô biên các thế giới, vo số ngữ nghiệp.

2. Tha thân tương ưng, nghĩa là khiến Thanh văn đại đệ tử dùng Phạm âm Phật tuyên nói diệu pháp Đại thừa sâu xa. Cho nên Thanh văn, các Bồ-tát v.v… nói chẳng phải diệu pháp sâu xa của phần mình mà đều là Như Lai biến hóa làm ra chứ chẳng phải sức của tự họ.

3. Phi thân tương ưng, nghĩa là hóa các loại biển lớn, cỏ, cây v.v…nhẫn đến hư không cũng phát ra âm thanh nói đại pháp. Như vậy đều gọi là biến hóa ngữ nghiệp.

Ý hóa chỉ có hai:

1. Tự thân tương ưng, nghĩa là trên tự tâm hóa các thứ tâm và tâm pháp ảnh tượng sai khác.

2. Tha thân tương ưng, nghĩa là khiến tâm người cũng hiện vô số tâm và tâm pháp ảnh tượng sai khác. Đây là tướng phần tợ kiến phần hiện.

Hỏi: Vì sao không hóa phi tình khiến tâm tướng hiện?

Đáp: Phi tình đã là tâm, đồng tướng phần, vì sao lại khiến có tâm tướng hiện? Nếu tâm tướng hiện thì gọi là hữu tình chẳng phải phi tình, cho nên hóa tâm chỉ có hai loại.

Hỏi: Đã thừa nhận hóa làm phi tình sắc tướng như hóa Phật v.v… Ở đây hiện tâm nói chẳng phải thân hóa, đây có lỗi gì?

Đáp: Sắc có lìa chất hóa, thông phi thân, tâm pháp thì không như vậy, không có phi thân hóa. Luận kia lại có sư cho rằng, tâm không thể hóa, chỉ do định lực có thể khiến tự tâm hiểu, chẳng phải phần pháp gọi là hóa tự tâm. Nếu giúp đỡ người khiến kẻ ngu muội hiểu pháp sâu xa, khiến người cuồng điên được tỉnh lại, gọi là hóa tha tâm. Giải thích là chính.

Luận: “Nghĩa là tự tánh thân” đến “lìa tạp nhiễm”.

Lìa tạp nhiễm là hiển không thể khởi tham khuể. Cho nên sớ y không khởi tham v.v… này và nói lẽ ra là cây, đá, và dùng đó làm vặn hỏi, không vặn hỏi thật tánh trong cây, đá, vì thật tánh cũng là thể Chân như. Có nghĩa nói, nhưng sớ nói pháp thân chuyển y Chân như thuận sinh công đức bốn trí Vô lậu vì trong thân hữu tình sẽ có thể thuận sinh, cũng được nói đủ có hằng sa công đức. Tánh cây, đá chẳng phải hiện không thuận, sẽ cũng không có nghĩa thuận sinh. Lại lẽ ra phải nói tánh của cây đá tức pháp thân Phật, vì pháp thân Chân như thể tròn khắp.

Biện rằng: Tuy lập giải thích này nhưng chẳng phải bản ý của sớ, bản ý như trước.

Luận: Tự thọ dụng thân chỉ có tự lợi.

Hỏi: Do tự thọ dụng mới có tha hóa, lại cùng hữu tình không làm chướng ngại, làm y tăng thượng, hai nghĩa đã đủ, vì sao chỉ có tự lợi?

Đáp: Tự tánh thân kia chẳng phải chỉ có hai nghĩa, lại là cảnh các Thánh đã chứng. Tự thọ dụng thân chẳng phải các hàng khác biết được, cho nên không nêu. Nhưng thật ra chẳng phải không có nghĩa lợi tha, đứng về nghĩa tăng thắng cho nên không có lỗi.

Luận: Tự tánh thân độ.

Đây nói rõ thân độ chư Phật đồng và khác. Trong các Thánh giáo đứng về nghĩa không đồng, nên có đồng dị, đều không trái nhau. Vả lại luận Trang Nghiêm ghi: Do y tâm, nghiệp nên ba thân đều bình đẳng.

Giải thích: Ba thứ thân kia thứ lớp như vậy, tất cả chư Phật thảy đều bình đẳng, do y cho nên tự tánh thân tất cả chư Phật bình đẳng. Pháp giới không sai khác, do tâm cho nên sinh thân tất cả chư Phật bình đẳng. Phật tâm không sai khác, do nghiệp cho nên hóa thân tất cả chư Phật bình đẳng vì đồng một sở tác. Nếu theo Phật Địa quyển thì ba thân chư Phật đều có đồng và khác, cho nên luận kia ghi: “Pháp thân tất cả Như Lai cùng có cho nên không sai khác”. Đứng về nhân năng chứng có sai khác, cho nên giả nói là sai khác. Còn hai thân kia đều riêng nhân cảm, đều riêng tự tánh thật có sai khác, nhưng không riêng chấp. Đồng xứ tương tợ, lợi lạc ý lạc, sự nghiệp bình đẳng nói là không sai khác.

Lại xét Nhiếp luận cũng có đồng và khác, quyển ghi: Pháp thân chư Phật phải nói có khác, phải nói không khác. Y chỉ, ý lạc, nghiệp không riêng khác, phải nói không khác.

Giải thích: Đồng luận Trang Nghiêm. Lại vô lượng thân Phật hiện Đẳng giác cho nên phải nói có khác. Đây hiển pháp thân căn cứ năng chứng nói đồng luận Phật Địa. Lại nói, vô lượng Phật thân sai biệt chuyển cho nên phải nói có khác, hóa thân cũng vậy, tức luận này căn cứ sắc thân mà nói, y cứ có khác mà nói.

Luận: Hai thân độ khác có cộng và bất cộng.

Phật Địa quyển có ba sư nói, đây đồng với chánh nghĩa thứ ba. Luận kia rất rộng, nay lược rằng: “Tất cả Như Lai giáo hóa hữu tình là cộng và bất cộng”. Có nghĩa đều cộng, do mỗi mỗi Phật đều độ tất cả, phước đức, trí tuệ tất cả bình đẳng, đồng vì cứu giúp hữu tình cầu Bồ-đề, như nói một Phật giáo hóa hữu tình tức tất cả Phật. Có nghĩa bất cộng, do Phật giáo hóa hữu tình loại bản thuộc nhau, vì thế vào thời Phật Đểsa, Như Lai từng cùng Từ Thị đồng làm đệ tử, Phật quán căn lành hữu tình mà Thích-ca giáo hóa thuần thục trước, giáo hóa hữu tình của Từ Thị thuần thục sau. Từ Thị nhân đầy đủ trước, Thích-ca đầy đủ sau, nên Phật Để-sa liền nhập Hỏa quang định khiến Thích-ca khen ngợi, vượt lên thành Phật trước. Phật sắp nhập diệt nói “những người đáng độ đều đã độ xong”.

Lại Khế kinh ghi: “Quán một sự giáo hóa ở Hữu đảnh xứ hóa lưu một thân, họ từ chỗ kia chết sinh lại trong này. Hóa thân sở lưu vì họ nói diệu pháp khiến thành La-hán.

Như thật nghĩa là có cộng và bất cộng. Nếu giáo hóa chúng sinh một bề cộng thì đâu cần nhiều Phật, vì một Phật có thể giáo hóa tất cả chúng sinh. Nếu giáo hóa chúng sinh một bề bất cộng thì Bồ-tát không nên phát thệ nguyện rộng lớn thờ phụng nhiều chư Phật tu học Đại thừa, chư Phật không nên đem sở giáo hóa của mình phó chúc cho Phật sau.

Sớ: Năng biến đó là không có uế phiền não.

Hỏi: Địa thứ bảy trở về trước, phiền não vẫn khởi vì sao nói không có uế phiền não?

Đáp: Tuy có phiền não đều là vì lợi ích, đủ vô lượng đức cho nên không bị lỗi làm dơ uế.

Sớ: Bản chất thông tịnh uế.

Phật sở biến chất tương tợ như nhiễm nên gọi là uế.

Sớ: Tướng gọi là chẳng thuận lý.

Đây hiển lý do biết tướng chưa hẳn đều đồng. Tánh tướng thuận cho nên kiến và tướng đồng tánh, chẳng phải tướng thuận tức sắc tâm v.v… các thứ sai khác.

Sớ: Không thể Hữu lậu đồng Vô lậu.

Vặn hỏi rằng: Vô lậu kiến, tướng thiện v.v… các thứ đồng tánh, Hữu lậu hai phần khác tánh chủng vì sao không đồng?

Đáp: Trói buộc và không trói buộc sai khác, không thể làm vặn hỏi.

Sớ: “Hỏi” đến “Hữu lậu Vô lậu hẳn đồng”.

Kiến và tướng hai phần Hữu lậu Vô lậu ý gì ắt đồng?

Đáp: Thuận nhau, đồng lậu và Vô lậu có thể gọi là thuận nhau, lỗi một lậu Vô lậu nghĩa thuận nhau.

Sớ: Ba thân đối nhau bốn câu.

Xét luận kia ghi: Ba thân như vậy có bốn phần cho nên được làm bốn câu.

1. Thọ dụng chẳng phải biến hóa: Nghĩa là tự lợi phần thật thọ dụng thân.

2. Biến hóa chẳng phải thọ dụng: Nghĩa là biến hóa thân, vì giáo hóa Địa tiền tạp loại sinh. Hoặc thô hoặc diệu, hoặc khiến vui mừng, hoặc khiến sợ sệt, chuyển đổi không nhất định, chỉ gọi là biến hóa, không là thọ dụng, vì chưa hẳn khiến thọ hiện pháp lạc.

3. Vừa thọ dụng vừa biến hóa: Nghĩa là vì Địa thượng Bồ-tát sở hiện các thứ hóa thân, khiến các Bồ-tát thọ pháp lạc, tùy thời chuyển đổi không quyết định.

Lại nói, hoặc có chỗ nói Phật có hai loại thân: một là sinh thân, hai là pháp thân. Hoặc tự tánh thân, hoặc thật thọ dụng đều gọi là pháp thân, do các pháp công đức sở y chỉ, các pháp công đức nhóm thành. Hoặc biến hóa thân, hoặc tha thọ dụng thân đều gọi là sinh thân, vì tùy sở nghi của họ mà hiện sinh.

Lại nói, các kinh khác nói có mười thứ Phật.

  1. Hiện đẳng giác Phật
  2. Hoằng thệ nguyện Phật
  3. Nhiệp dị thục Phật
  4. Trụ trì Phật
  5. Biến hóa Phật
  6. Pháp giới Phật
  7. Tâm Phật
  8. Định Phật
  9. Bản tánh Phật
  10. Tùy lạc Phật.

Năm loại trước là Thế tục Phật, năm loại sau là Thắng nghĩa Phật, tùy chỗ ứng kia mà ba thân nhiếp.

Giải thích: Hóa thân thị hiện thành đạo ở dưới cây gọi là Hiện đẳng giác. Dùng nguyện nương thần thông giáo hóa tất cả chúng sinh gọi là Hoằng thệ nguyện. Trăm kiếp tu tướng nghiệp, cảm thân tướng hảo ở cung vua, gọi là Nghiệp dị thục. Các tranh tượng gọi là Trụ trì. Tự thể pháp thân gọi là Pháp giới. Thức thứ tám Vô lậu gọi là Tâm Phật.

Thân đại định gọi là Định Phật. Tự thọ dụng thân theo bản chủng tánh ba kiếp tu hành gọi là Bản tánh Phật. Tùy Địa chỗ ưa thích của địa trên không đồng nên hiện thân có khác gọi là Tùy lạc Phật. Năm loại trước là hóa và do trụ trì cho nên gọi là Thế tục. Năm loại sau là thật thân và thù thắng cho nên gọi là Thắng nghĩa. Thứ nhất đến thứ tư là Hóa thân, thứ năm là Hóa tượng, thứ sáu Pháp thân. Bốn thân sau là Thọ dụng.