MUÔN KIẾP NHÂN SINH
TẬP II
Tác giả: Nguyên Phong

 

Phần sáu
ÂM NHẠC DIỆU KỲ: LINH HỒN VŨ TRỤ

Tôi đang làm việc tại văn phòng thì nhận được tin báo Wilson G. – một trong những nhà đầu tư của chúng tôi từ những ngày đầu thành lập công ty – đang hấp hối trên giường bệnh. Chúng tôi vội vàng lên máy bay đến Arizona ngay, hy vọng còn có cơ hội được gặp ông lần cuối. Trong cuộc sống bận rộn, chỉ có những giây phút cuối đời mới là lúc con người ta có cơ hội được sống chân thành, thật tình với nhau nhất.

Wilson xuất thân trong gia đình có truyền thống theo nghề chăn nuôi bò tại Texas, một nghề nghiệp gắn liền với phong cách cao bồi lãng tử, một biểu tượng nhận diện quen thuộc của miền Tây nước Mỹ. Gia đình ông sở hữu một trang trại vô cùng rộng lớn, với đàn bò lên đến hàng ngàn con. Trong Thế chiến thứ hai, ông nhập ngũ và được bổ nhiệm làm việc tại nhà máy sản xuất nhiên liệu cho quân đội. Khi chiến tranh kết thúc, ông được giải ngũ trở về nhà. Với kiến thức tích lũy về nhiên liệu trong quá trình tại ngũ, ông đã phát hiện được mỏ dầu hỏa ngay tại trang trại của gia đình. Từ đó, ông trở thành chủ nhân của một công ty khai thác dầu hỏa có trụ sở tại Texas. Ông là một trong những nhà đầu tư vào công ty tài chính của chúng tôi ngay từ khi nó mới được thành lập. Nếu không có nguồn vốn của ông, chưa chắc chúng tôi đã phát triển vững mạnh được như ngày hôm nay. Trong cuộc sống, ai cũng có lúc cần quý nhân giúp đỡ, đó có thể là những người bên cạnh chúng ta và đôi khi có cả những người có nhân duyên, chỉ một lần tình cờ gặp gỡ đã tin tưởng nhau, hết lòng với nhau mà không vụ lợi, tính toán.

Tôi không bao giờ quên buổi gặp gỡ đầu tiên với Wilson. Hôm đó, ông bước vào phòng họp tại một văn phòng ở phố Wall, trung tâm tài chính của New York, với quần jean và chiếc mũ rộng vành, phong cách quen thuộc của chàng cao bồi nước Mỹ. Trong phòng họp lúc đó là những nhà đầu tư chứng khoán, các chuyên viên tài chính, giám đốc ngân hàng và ai cũng quần áo sang trọng, lịch sự. Mọi người đều nhìn Wilson với ánh mắt ngạc nhiên pha lẫn tò mò, tự hỏi có phải ông đã đi nhầm phòng hay không.

Thông thường, mọi công ty trong giai đoạn khởi nghiệp đều sẽ gặp khó khăn khi gọi vốn từ các nhà đầu tư chuyên nghiệp. Tôi phải mất nhiều thời gian thuyết phục, thương lượng với các nhà đầu tư. Rồi còn phải được thông qua những điều lệ cam kết đầu tư phức tạp có trên các hợp đồng ràng buộc ở các văn phòng luật sư.

Thế nhưng, trong suốt buổi họp hôm đó, Wilson chỉ ngồi lặng yên nghe tôi trình bày về kế hoạch hoạt động của công ty mà tôi vừa thành lập, ông chăm chú lắng nghe đoạn đối thoại giữa tôi và những nhà đầu tư khác mà không phát biểu gì. Sau buổi họp, khi mọi người đã ra về hết, ông mới bước đến chỗ tôi và nói: “Tôi không biết gì nhiều về tài chính, nhưng tôi tin vào tầm nhìn và kế hoạch hoạt động của ông. Tôi sẵn sàng đầu tư vào công ty của ông”.

Wilson đã khiến tôi ngạc nhiên về tính thẳng thắn, dứt khoát của ông. Không vòng vo, ông đi trực tiếp vào vấn đề, hỏi tôi: “Hiện giờ ông cần bao nhiêu vốn đầu tư?”.

Thời điểm đó tôi đã có hơn mười năm làm việc trong giới tài chính tại pho Wall và tôi chưa bao giờ gặp một người nào lạ lùng như thế. Đó chỉ mới là lần đầu tiên chúng tôi gặp nhau, vì chưa hiểu gì về ông nên tôi khá ngần ngại đưa ra đề nghị cho số vốn đầu tư. Tôi trả lời ông rằng có lẽ chúng tôi nên gặp gỡ, trao đổi, thương lượng nhiều hơn về các chi tiết đầu tư, giá trị cổ phần trước khi ông đưa ra quyết định. Wilson xua tay, bảo rằng đối với ông việc đó là không cần thiết, ông nói: “Trong đầu tư tài chính, niềm tin là yếu tố quan trọng nhất. Một khi tôi đã đặt niềm tin vào ông thì ông sẽ không làm tôi thất vọng, đúng không?”.

Ngay trong buổi gặp đầu tiên đó, ông đã đề nghị mua hai mươi phần trăm cổ phần công ty, tương đương với một số tiền rất lớn vào thời điểm đó. Đó là khoản đầu tư quý giá đối với chúng tôi. Thậm chí ngay cả những nhà đầu tư mạo hiểm nhất cũng chưa chắc dám đầu tư số tiền lớn như vậy cho một công ty non trẻ, vừa thành lập. Khi tôi đề nghị đến văn phòng luật sư trung gian để thỏa thuận các điều kiện hợp tác và làm hợp đồng, Wilson lắc đầu, cười và nói dứt khoát: “ông gửi hợp đồng trực tiếp đến nhà tôi và tôi ký được rồi. Tôi không thích luật sư. Chúng ta tin tưởng nhau là đủ rồi”.

Tôi nghi nghi hoặc hoặc, khó tin những gì vừa nghe, vì chẳng ai đầu tư số tiền lớn như vậy chỉ bằng niềm tin mà không có bất kỳ nghiên cứu hay sự bảo vệ về pháp lý nào như vậy. Quả thật, trước giờ tôi chưa từng gặp người nào như ông.

Vài hôm sau, chúng tôi bất ngờ nhận được số tiền đầu tư của ông sớm hơn dự định. Tuy sở hữu hai mươi phần trăm cổ phần công ty, nhưng không như những nhà đầu tư khác, Wilson không bao giờ hỏi han, can thiệp vào bất kỳ quyết định nào của công ty mà luôn để tôi hoàn toàn chủ động. Ông nói: “Tôi tin tưởng ông làm việc đâu ra đó và như thế là đủ rồi”. Do đó, mỗi năm tôi đều đến gặp riêng ông để tường thuật lại các hoạt động công ty cũng như tình hình tài chính. Giữa chúng tôi cũng dần dần phát triển một tình bạn, có thể chưa đủ để gọi là thân thiết nhưng đó là một tình bạn chân thành. Nhìn số tiền đầu tư nảy nở, sinh lời liên tục qua nhiều năm, bao giờ ông cũng chỉ nói một cách khiêm tốn: “Nhờ các ông mà tiền đẻ ra tiền. Các ông làm tốt, tôi mừng. Tôi rất cảm ơn!”.

Nhiều năm sau, khi công ty đã phát triển vững mạnh, nhiều nhà đầu tư mới mong muốn tham gia, thay vì tiếp tục nắm giữ tài sản đang tăng trưởng này, Wilson đã gặp riêng tôi, đề nghị chuyển nhượng hết cổ phần lại cho tôi và về hưu hưởng cuộc sống thanh bình tại Arizona. Ông nói với tôi, đượm vẻ chân thành: “Công lao xây dựng công ty vững mạnh là của ông, tôi hưởng lợi nhuận nhiều năm như thế đã đủ rồi. Thời điểm này, ông cần phải nắm giữ số cổ phần lớn hơn, không để những nhà đầu tư khác thâu tóm công ty được”. Tôi cảm kích, bắt tay và ôm ông thật chặt.

Wilson là người mê đánh golf nên sau khi về hưu, ông quyết định mua một ngôi nhà bên cạnh một sân golf để có thể tận hưởng môn thể thao yêu thích hàng ngày. Nhưng trên cả sở thích đánh golf, ông còn rất đam mê âm nhạc, đặc biệt là nhạc cổ điển. Thật khó để tưởng tượng một lão cao bồi đội mũ rộng vành ngồi lim dim thưởng thức nhạc cổ điển phương Tây trong căn nhà tương đối khang trang, nằm cạnh sân golf. Có lần ông nói với tôi: “Tôi thích để tâm hồn hòa vào nhịp điệu của âm nhạc cổ điển vì nó khiến tôi thoải mái, thư thái hơn. Âm nhạc của các thiên tài như Mozart, Bach, Beethoven, Chopin, Mendelssohn cho tôi cảm tưởng như mình đang bước lên những nấc thang của Jacob1, vươn lên tận bầu trời cao vút. Khi đắm mình trong Bản giao hưởng số 6 của Beethoven, tôi thấy mình như hòa vào trong thiên nhiên với cỏ cây, hoa lá, cảm giác cứ như đang bước vào một khu rừng trong buổi chiều thu, giữa muôn lá vàng nhẹ rơi xào xạc. Những giai điệu tuyệt mỹ này gợi cho tôi cảm giác thư giãn khác thường mà trong cuộc sống hàng ngày khó lòng đạt được”.

Tôi vẫn nhớ trong các chuyến thăm của chúng tôi tại nhà riêng của Wilson, sau khi ông đã nghỉ hưu ở Arizona, chúng tôi thường nói với nhau rất nhiều về âm nhạc. Tôi từng hồi ông:

– Ngày nay, đa số mọi người thường chọn nghe nhạc Country, Jazz, Pophay Rock, còn người say mê nhạc cổ điển như ông tương đối hiếm. Lý do nào mà một người sinh ra và lớn lên ở miền Viễn Tây Texas như ông lại không nghe nhạc Country mà chỉ say mê nhạc cổ điển như vậy?

Đề tài âm nhạc luôn khiên Wilson hào hứng, nên ông vui vẻ trả lời:

– Tôi say mê nhạc cổ điển từ khi còn nhỏ. Từ lúc biết ngồi trên yên ngựa,theo cha rong ruổi trên những cánh đồng mênh mông ở Texas thì tôi đã gắn bó với loại âm nhạc tính tế này. Lần đầu tiên nghe giai điệu của các bản hòa tấu này trên radio, tôi đã xúc động mãnh liệt. Chưa có thứ gì từng tác động vào tâm hồn tôi sâu sắc như thế. Từ đó tôi hầu như chỉ nghe nhạc cổ điển mà thôi.

Tôi không am hiểu nhiều về âm nhạc nhưng Angie thì tương đối thông thạo, nàng tìm hiểu và say mê nhiều thể loại khác nhau. Mỗi lần chúng tôi đến thăm Wilson, Angie đều cẩn thận chọn mua những đĩa nhạc cổ điển hay để tặng ông. Hai người cũng thích trao đổi quan điểm về các nhạc sĩ đương thời và tìm được nhiều tiếng nói chung, vì vậy mỗi lần chúng tôi ghé thăm Wilson ông đều rất vui. Trong một lần trao đổi về âm nhạc, Wilson nói:

– Âm nhạc là sự biểu lộ cảm xúc qua âm thanh. Thông qua âm nhạc, chúngta có thể cảm nhận những cảm xúc của các thiên tài âm nhạc được truyền tải trong các thanh âm tuyệt diệu. Những cảm xúc này cũng chính là cảm hứng của nhạc sĩ. Nguồn cảm hứng càng thanh cao thì âm nhạc càng tuyệt diệu. Âm nhạc cổ điển chính là sự diễn đạt cảm xúc đó một cách tinh tế, huyền diệu nhất. Những giai điệu của thể loại âm nhạc này vừa sâu lắng, vừa thanh thoát, kỳ vĩ và có khả năng gợi nhiều cảm xúc, hoài niệm đẹp ở người nghe. Mỗi bản nhạc đều tỏa ra những năng lượng, nguồn cảm hứng hướng chúng ta đến những điều cao thượng, tốt đẹp, hoàn mỹ hơn.

Angie tiếp lời:

– Ông nói đúng, sức mạnh của âm nhạc quả thật rất diệu kỳ. Đáng tiếckhông phải bản nhạc nào cũng hay. Tôi có tìm hiểu về âm nhạc, cổ điển lẫn hiện đại, và gần đây tôi nhận thấy âm nhạc càng phát triển phong phú thì càng có những kiểu âm nhạc sơ sài, thô ráp, âm thanh dường như lỗi nhịp, trục trặc, nghe khó chịu làm sao.

Wilson gật đầu, đồng cảm:

– Bà nói đúng, nhiều bản nhạc hiện nay không có cảm xúc sâu lắng gì trongđó mà chỉ là sự lặp đi lặp lại những âm thanh rời rạc, có lúc rối loạn, phản ánh tâm trạng hỗn loạn và tư duy nhạt nhẽo, dễ dãi của người soạn nhạc. Nếu bản nhạc không chứa đựng cảm xúc chân thật của người nhạc sĩ, được tạo nên từ những cảm hứng đẹp đẽ và không được cất lên từ những trái tim chân thành thì đó không phải là âm nhạc mà chỉ là những thanh âm vô hồn được tạo ra bằng nhạc cụ. Việc này cũng giống như người ta đang ghép các chữ cái lại với nhau một cách vô nghĩa, không thành câu cú gì hết. Chính cảm xúc từ tâm hồn của nhạc sĩ đã truyền sự sống vào những nốt nhạc, khiến giai điệu trở nên sống động, da diết và đẹp đẽ hơn. Âm nhạc mà không đến từ cảm xúc và không truyền tải được cảm xúc thì chỉ giống như người say rượu nói năng lảm nhảm mà thôi. Nhạc sĩ chân chính là người có khả năng thổi hồn vào những nốt nhạc, mang lại sự sống cho nó, khiến nó bay bổng. Tùy tâm trạng của nhạc sĩ mà bản nhạc khơi gợi trong chúng ta những cảm xúc khác nhau, khi thì yêu thương, khi thì hờn giận, lúc thì nhớ nhung, khát vọng, đôi khi là tiếc nuối, đau buồn…

Angie gật đầu đồng ý:

– Ông nói đúng. Theo tôi, âm nhạc phản ánh đời sống xã hội và nội tâm conngười. Hoàn cảnh đời sống thế nào thì sẽ tạo ra loại âm nhạc thế nấy.

Wilson suy nghĩ một chút rồi lắc đầu, nhẹ nhàng đáp:

– Không hẳn như thế đâu. Đôi khi, chính âm nhạc tạo ra ảnh hưởng, tácđộng đến xã hội. Vào thời Hy Lạp cổ đại, khi các nhạc sĩ bắt đầu sáng tạo ra một loại nhạc mới thiên về hưởng thụ theo bản năng thì triết gia Platon đã cảnh báo về sự nguy hiểm của việc này, được ghi lại trong cuốn Cộng hòa (Republic): “Quý hữu phải cẩn thận khi chấp nhận hình thái thi ca mới, âm nhạc mới, vì chấp nhận là hy sinh tất cả, sẽ cực kỳ nguy hiểm. Thi ca, âm nhạc thay đổi chiều hướng thế nào cũng kéo theo thay đổi chính trị và xã hội…2 “.

Angie rõ ràng chưa tìm hiểu âm nhạc và tác động của nó theo hướng này, cô ấy ngạc nhiên lên tiếng:

– Âm nhạc thật sự có ảnh hưởng lớn lao đến thế sao?

Wilson gật đầu:

– Nếu tìm hiểu lịch sử Hy Lạp, bà có thể thấy ảnh hưởng của thơ ca, âmnhạc lên văn hóa và thể chế lớn như thế nào. Bất chấp lời khuyên của Platon, những người lãnh đạo Hy Lạp thời đó đã để cho những kiểu âm nhạc thấp kém, dễ dãi đó càng ngày càng phổ biến và nó đã tạo ảnh hưởng đến xã hội xứ này. Từ nền văn hóa hùng tráng, uy nghi, lẫm liệt (Hy Lạp cổ điển) chuyển qua văn hóa hưởng thụ khoái lạc, đầy dục tính (Thời kỳ Hy Lạp hoá).

Nói đến đây, đôi mắt Wilson đột nhiên đượm vẻ mơ màng. Ông nói:

– Âm nhạc Hy Lạp trước đây chứa đầy những âm điệu phấn khởi, hào khíhùng hồn. Thơ ca và âm nhạc thời đó khích lệ dân chúng sống oai hùng như các bậc tiền nhân lập thành dựng nước. Âm nhạc là động lực chính trong quân đội của Alexander Đại đế mỗi khi ra trận. Mỗi khi vị Hoàng đế này cầm quân ra trận thì quan quân, tướng sĩ cùng nhau hát lớn những khúc chiến ca oai hùng xen lẫn tiếng kèn đồng và trống trận dồn dập, âm thanh hùng tráng khiến tinh thần quân lính sôi sục ngút trời, còn kẻ thù lung lay, khiếp đảm. Nhờ lòng can đảm, không sợ hãi, cùng nhuệ khí ngút trời đó mà đoàn quân chinh phạt của Hy Lạp đã phá tan các đội quân thiện chiến nhất của Ba Tư, mở mang bờ cõi Hy Lạp rộng khắp thế giới.

Cảm thấy chủ đề khá thú vị, nên tôi cũng góp lời:

– Đáng tiếc là trong lúc Đại đế Alexander cầm binh chinh phạt ngang dọcthì tại Athens, các quan lại ở triều đình lại sa đọa trong lối sống tiệc tùng thâu đêm suốt sáng, hưởng thụ một đời sống xa hoa, trụy lạc nhờ các của cải, chiến lợi phẩm mang về.

Wilson cảm thán:

– Đúng thế, đời sống lúc đó có thể nói là hết sức đồi trụy, các cuộc truyhoan diễn ra khắp nơi, âm nhạc cũng chuyển hướng sang nhuốm màu nhục dục, đề cao sự hưởng lạc. Thời điểm đó, âm nhạc Hy Lạp bắt đầu pha trộn âm nhạc của Assyria, Babylon, Ba Tư và trở thành một kiểu âm nhạc với âm điệu dồn dập, kích thích dục tính. Chính loại âm nhạc thấp kém này đã góp phần không nhỏ gây ra sự suy thoái của Hy Lạp.

Angie thắc mắc:

– Vậy chuyện tồi tệ gì đã xảy ra với Hy Lạp sau đó?

Wilson trả lời:

– Sau khi Alexander Đại để qua đời, các tướng lĩnh chia nhau mỗi ngườikiểm soát một vùng. Không ai chịu trở về Athens vì không tuân phục hội đồng nghị viện mà họ cho là thối nát và chìm trong nhũng lạm. Đây là thời mà các sử gia gọi là giai đoạn chuyển tiếp mang tính thoái hóa (Thời kỳ Hy Lạp hóa) so với sự phát triển rực rỡ của thời Hy Lạp cổ điển. Khi không còn chiến tranh, xã hội xứ này chuyển sang lối sống hưởng thụ, tiệc tùng thâu đêm suốt sáng, những cuộc truy hoan vô độ cùng sự hỗn loạn về luân lý, đạo đức, tất cả đã đưa đến sự suy thoái của nền văn minh này, mở đường cho La Mã xâm lăng.

Angie cảm thán:

– Nói như vậy, âm nhạc thật sự đã có ảnh hưởng không hề nhỏ đến sự tồnvong của các quốc gia trong lịch sử thế giới.

Wilson gật đầu:

– Âm nhạc là sự giao tiếp phi ngôn ngữ, nó là cầu nối xuyên biên giới, kếtnối con người ở khắp nơi, vì vậy mà nó có thể nhanh chóng phổ biến rộng rãi. Âm nhạc lan truyền theo nhiều cách thức và tác động trực tiếp đến tinh thần, cảm xúc, lối sống của con người khắp mọi nơi trên thế giới. Không phải tự nhiên các tôn giáo, các phong trào chính trị luôn coi trọng việc sáng tạo nên thứ âm nhạc ngợi ca đường lối, lý tưởng của mình, vì sự tác động của âm nhạc đến nhân tâm là vô cùng lớn. Đó là cách tiếp cận đại chúng nhanh nhất và hiệu quả nhất. Ở góc độ kinh nghiệm cá nhân, ông cũng có thể dễ dàng nhận thấy rằng khi nghe một bản nhạc có tiết tấu nhanh, vui tươi, khơi gợi niềm hy vọng, lạc quan, yêu đời thì ông cũng cảm thấy tràn đầy hứng khởi, dẫn đến việc thu hút những điều tích cực, may mắn đến với mình. Ngược lại, khi nghe những giai điệu u uất, bi đát, than trách, lời ca thoái chí, tuyệt vọng thì tinh thần của ông cũng u ám và theo luật Hấp dẫn, điều này cũng thu hút những điều tiêu cực đến với ông. Nhìn ở góc độ xã hội, chúng ta có thể đánh giá sự hưng suy của một quốc gia thông qua thứ âm nhạc đang thịnh hành nhất của quốc gia đó. Một số nhà sử học hay nhân chủng học quan niệm rằng âm nhạc là sản phẩm văn hóa. Văn hóa ra sao thì âm nhạc cũng như thế. Tuy nhiên, nếu chúng ra suy xét kỹ càng mọi khía cạnh lịch sử, có thể dễ dàng nhận thấy khi âm nhạc thay đổi, xã hội cũng đổi thay theo. Khi âm nhạc đại chúng của quốc gia hướng về những cảm xúc của dục vọng hay sự ích kỷ cá nhân thì văn minh của nơi chôn đó sẽ từng bước suy đồi thấy rõ. Ví dụ như nền văn minh Hy Lạp suy sụp cũng vì ảnh hưởng âm nhạc của Assyria và Babylon, vốn cổ xúy việc hưởng lạc.

Wilson ngừng lại như để chọn lọc từ ngữ, rồi nói thêm:

– Âm nhạc có thể tác động lên tình cảm con người rồi ảnh hưởng đến ýthức và hành động của họ, mặc dù họ tiếp nhận điều đó một cách vô thức. Trước đây, âm nhạc chỉ khoanh vùng ảnh hưởng của mình trong một phạm vi nhất định nào đó vì giới hạn địa lý. Nhạc của người Âu không ảnh hưởng gì đến người Á và ngược lại. Chỉ trừ một số ngoại lệ như âm nhạc của những tộc người sống du mục như người di-gan thì có sự giao thoa rõ rệt, giàu tính sinh động và tự do vì họ di chuyển liên tục qua các biên giới lãnh thổ, nhưng trong các ca khúc dân gian của họ vẫn phảng phất nét u uẩn vì họ là những người không có quê hương. Hay âm nhạc theo chân những nhà truyền giáo khi đi đến vùng miền nào thì cũng giao thoa, cộng sinh với văn hóa vùng miền đó để dễ tạo được cảm tình của người dân bản địa.

Ngày nay, với các phát minh công nghệ, bắt đầu với radio, băng từ, đĩa than, đĩa nhựa, truyền hình, rồi CD, MP3 và sự bùng nổ của Internet, âm nhạc đã có thể lan tới khắp nơi, khắp chốn, tạo nên sự giao thoa, ảnh hưởng trên phạm vi toàn cầu. Điều này, bên cạnh những tác động tích cực khi di sản âm nhạc khổng lồ của nhân loại được chia sẻ rộng khắp thì đồng thời cũng tạo nên những hậu quả tai hại. Tiếng lành đồn xa thì tiếng xấu cũng đồn xa, nhiều thứ âm nhạc cổ xúy cho bạo lực, phỉ báng tôn giáo, đề cao ma quỷ, hướng con người đến lối sống tùy tiện, quá khích, hưởng lạc, cũng lan tràn. Chỉ cần chúng ta dừng lại một chút nhìn ra xung quanh và suy ngẫm là sẽ rõ. Ông bà thử ngẫm mà xem, người trẻ hiện nay đa số đang nghe những loai nhac gì? và họ đang hành động ra sao? Có phải có nhiều người trẻ đang sống vô cảm, ích kỷ và chỉ biết thụ hưởng hay không? Vì sao có một bộ phận sẵn sàng phá hoại, sống vô trách nhiệm, vô kỷ luật, thậm chí phỉ báng mọi luật lệ xã hội? Có phải không ít người đang sống thiên về bản năng, nhất là dục tính, thay vi lý trí không? Những hiện tượng này tràn lan nhưng có mấy ai biết đặt câu hỏi về căn nguyên của chúng. Dĩ nhiên, để dẫn đến một sự suy đồi về văn hóa còn có nhiều nguyên nhân, nhưng trên lĩnh vực âm nhạc, một lĩnh vực có ảnh hưởng lớn, thì ai là người có trách nhiệm đây? Phải chăng chính sự thiếu trách nhiệm của người nhạc sĩ cùng với sự sụp đổ các giá trị văn hóa, giáo dục, đạo đức, sự nghèo nàn của tinh thần, cộng thêm lối sống thực dụng chỉ chạy theo lợi ích, đã cộng hưởng, tạo nên vòng nhân quả hỗn loạn, ảnh hưởng đến tâm thức của thời đại và con người? Có bao nhiêu nhạc sĩ còn soạn nhạc vì những cảm xúc thôi thúc trong tâm hồn, vì một rung động nào đó trước lòng trắc ẩn và vẻ đẹp của đời sống, hay chỉ soạn nhạc theo đòi hỏi thị hiếu, trào lưu của thị trường để kiếm tiền hoặc mưu cầu danh tiếng? Tôi cũng tự hỏi, với tư cách là người yêu nhạc và biết soạn nhạc, có bao nhiêu nhạc sĩ ý thức được rằng họ phải chịu trách nhiệm về sản phẩm nghệ thuật của mình…

Càng đi sâu vào chủ đề, Wilson càng tỏ ra xúc động, có thể thấy đây là một vấn đề luôn day dứt trong ông. Wilson thở dài rồi tiếp tục:

– Nếu nhạc sĩ rung động trước một sự kiện hay hoàn cảnh nào đó, rồi họđem cảm xúc ấy hòa hợp vào tâm thức của mình thì họ sẽ sáng tác được loại âm nhạc truyền cảm và rung động người nghe. Đó là kiểu âm nhạc vượt thời gian. Ngược lại, nhạc sĩ không có cảm xúc thật sự thì không thể chuyển năng lượng của tâm thức vào tác phẩm được. Do đó, họ chỉ góp nhặt những nốt nhạc, rồi kết hợp tùy tiện, khiến tác phẩm trở nên rối loạn, dễ dãi, với những thông điệp tầm thường. Đó là thứ âm nhạc mang năng lượng xấu, với tần số bất thường. Người nghe sẽ bị ảnh hưởng bởi sự rung động tiêu cực này. Nó kích động sự man rợ cố hữu, khơi lên bản năng theo đuổi dục vọng, chỉ cần để ý quan sát là chúng ta có thể nhận ra một bộ phận không nhỏ trong giới trẻ ngày nay đã đánh mất sự kiểm soát lý trí, chỉ sống với bản năng ích kỷ. Họ cho đó là tự do, nhưng kiểu tự do không có ý thức và không đi kèm trách nhiệm thì chỉ là sự ngông cuồng mà thôi.

Cuộc trò chuyện đó giữa chúng tôi diễn ra đã khá lâu nhưng vẫn còn để lại ấn tượng sâu sắc trong tôi. Mặc dù thỉnh thoảng tôi cũng nghe nhạc, nhạc nào thích thì tôi nghe, không thích thì không nghe, nhưng tôi không am hiểu nhiều về thể loại, cũng như chưa bao giờ suy nghĩ, nghiên cứu về âm nhạc theo chiều hướng sâu sắc như Wilson. Những trăn trở của Wilson về tầm quan trọng của âm nhạc thật sự đã khiến tôi suy nghĩ không ít. Nhưng khi đó, tôi cũng không có nhiều thời gian để nghiên cứu sâu về chủ đề này. Tôi ghi nhận những ý kiến của Wilson như một thông tin quý báu từ một người bạn có tầm hiểu biết. Những sự chê trách của Wilson với các thể loại âm nhạc hiện đại cũng cho tôi một cái nhìn có chọn lọc hơn với văn hóa đại chúng nói chung và âm nhạc nói riêng trong thời đại toàn cầu hóa này.

***

Hôm đó, khi chúng tôi khẩn trương vào bệnh viện thăm Wilson thì ông đã yếu lắm rồi. Từ trên giường bệnh nhìn thấy tôi, ánh mắt ông mỉm cười, nhưng giọng nói khá yếu ớt:

Thomas đến đấy à. Được gặp ông lúc này thật tốt quá. Sắp đến lúc tôiphải đi xa rồi. Bác sĩ bảo tôi có thể không qua khỏi tuần này. Các tế bào ung thư đã di căn khắp người, mọi phương pháp điều trị dường như đều vô hiệu…

Nghe đến đó, Angie xúc động hỏi:

– Chào Wilson. Lúc này tôi có thể làm gì được cho ông không?

Wilson trở người một chút, nhướng mắt lên, giọng nói đã ít nhiều mất đi sinh khí:

– Angie đấy ư? Nếu có thể, bà cho tôi nghe một bản concerto hay giaohưởng của Beethoven hoặc Bach thì tôi sẽ vui lắm.

Nghe thế, Angie vội vã quay trở ra. Một lát sau cô ấy đã tìm mượn được một máy nhạc nhỏ mang vào phòng. Angie bật nhạc và điều chỉnh âm lượng vừa đủ. Wilson nằm yên thưởng thức một cách thoải mái, dường như âm nhạc đã truyền thêm sinh khí cho ông, ông chậm rãi cất lời:

– Ông bà có biết không, hầu hết các nhạc sĩ tài danh đều hóa thân vào tácphẩm kiệt xuất của mình. Những nhạc sĩ này phải nhận được những cảm hứng tâm linh hay năng lượng kỳ lạ nào đó mới có thể sáng tác nên những giai điệu tuyệt vời như thế. Trong đời sống thực dụng bị chi phối bởi công nghệ và vật chất ngày nay, chỉ khi lắng nghe, tận hưởng các tác phẩm nghệ thuật này người ta mới tìm lại sự mỹ lệ diệu kỳ đã mai một giữa dòng chảy lịch sử chỉ vì chúng ta đã sống quá vội vàng. Nếu biết lắng nghe, ta sẽ cảm nhận được năng lượng âm nhạc và hạnh phúc sẽ tràn ngập tâm hồn. Làm sao có thể giải thích giây phút lâng lâng thoát tục này? Phải chăng đó chính là lúc chúng ta tiến đến gần đền miếu tầm linh nhất? Có nghe những tiết tấu tuyệt diệu này, ta mới tìm lại được quê hương tinh thần của mình. Qua âm nhạc, ta có thể thấy được đám mây trắng dịu dàng trôi trên bầu trời trong xanh, mặt nước lăn tăn tĩnh lặng soi bóng những hàng cây, hay khu rừng già rộn tiếng chim tô điểm cho sự tôn nghiêm của thiên nhiên, tạo hóa. Âm nhạc chân chính gợi cho ta một sự thức tỉnh, hoài niệm khôn nguôi về nguồn gốc thiêng liêng của mình. Đôi khi, thưởng thức nhạc của Bach hay Mozart giúp chúng ta nhận thức được rằng đời sống này cần phải thanh khiết và cao thượng hơn. Không gì diễn tả trung thực cảm giác mưu cầu sự cao thượng này tốt hơn âm nhạc. Âm nhạc chính là biểu tượng dẫn ta đến thánh điện, nơi ngọn lửa tâm linh đang bừng cháy. Tôi muốn an nghỉ trong cảm xúc tuyệt diệu đó, để chuẩn bị bước sang cánh cửa huy hoàng của đời sống bên cõi thiên thu.

Angie ngậm ngùi nghe những lời này, không nén được xúc động:

– Wilson, xin ông đừng nói vậy! Vẫn còn có thể…

Wilson mỉm cười, lắc đầu:

– Tôi đã có một đời sống quá đầy đủ, tôi không mong cầu gì hơn. Chúa đãcho tôi tất cả những gì tôi tìm kiếm trong cuộc đời này và khi Ngài gọi về thì tôi sẵn sàng trở về với Ngài.

Buổi sáng sớm hôm sau, Wilson đã qua đời trong giấc ngủ say. Chúng tôi ở lại Arizona để dự tang lễ của ông. Cho đến lúc đó, tôi mới biết về đời tư đầy bất hạnh của người bạn đặc biệt này. Dù đã quen biết lâu năm, cũng thường xuyên qua lại viếng thăm nhưng Wilson hiếm khi nói về cuộc đời của mình. Trong những lần hội ngộ của chúng tôi, Wilson thích nói về âm nhạc, về những trận đánh golf hoặc thỉnh thoảng nói về công việc kinh doanh của chúng tôi. Giờ đây, qua người luật sư riêng của ông, tôi mới biết Wilson đã lập gia đình ba lần nhưng cuộc hôn nhân nào cũng chỉ kéo dài được vài năm. Các bà vợ của ông đều tiêu pha phung phí, sống xa hoa, trụy lạc. Tệ hơn, có người còn phản bội ông, khiến ông trải qua nhiều đau khổ. Những cuộc ly dị, kiện cáo phân chia tài sản đã gây rất nhiều tai tiếng và gần như phá tan cơ nghiệp của ông. Ông có hai người con, đều đã qua đời khi còn trẻ. Người con lớn say mê nhạc Black Metal3, theo tư tưởng Satanic, tôn thờ Satan và những nghi lễ tà giáo. Người con này không chịu học hành, song buông thả và thường trộm tiền của ông để mua ma túy, ăn chơi, cuối cùng đã chết vì sử dụng ma túy quá liều. Người con thứ hai bỏ nhà ra đi từ tuổi vị thành niên, sau khi cha mẹ ly dị, rồi dính dáng vào băng đảng tội phạm và bị bắn chết trong cuộc bố ráp của cảnh sát tại miền Nam California. Bây giờ tôi mới phần nào hiểu được vì sao Wilson có cái nhìn gay gắt với loại âm nhạc mà ông khẳng định là đã làm hư hỏng thanh niên.

Mặc dù Wilson yêu cầu tang lễ cử hành rất đơn giản, chỉ thông báo để vài người bạn thân đến đưa tiễn, nhưng chúng tôi bất ngờ khi thấy những người vợ cũ của ông đều có mặt. Tuy nhiên, họ đến không phải để tiễn ông mà để xem tài sản của ông còn gì họ có thể lấy được không. Người nào cũng dẫn theo luật sư để sẵn sàng tranh giành cho kỳ được những gì còn lại. Sau khi hạ huyệt, những người này lập tức đòi xem di chúc. Đến lúc đó, tôi mới biết tài sản của ông gần như đã tiêu tán hết, ngoài căn nhà ông đang ở thì chẳng còn tài sản gì đáng kể. Nhìn cảnh xâu xé, tranh giành vô nhân tính của những người này, vợ chồng tôi chỉ biết lắc đầu. Tôi càng bất mãn về thói tham lam và sự táng tận lương tâm mà mình đang chứng kiến thì càng cảm thương cho Wilson. Sau tang lễ, chúng tôi lặng lẽ rời khỏi Arizona vì không muốn đau lòng thêm.

***

Thấy Angie quá xúc động vì hoàn cảnh thương tâm của người bạn cũ, thay vì trở về New York, tôi quyết định bay đi Colorado để Angie có thể nghỉ ngơi ít hôm. Suốt mấy ngày liền, tôi cứ suy nghĩ về hoàn cảnh của Wilson.

Một người tử tế, hiền lành như ông rốt cuộc phải trải qua một cuộc đời bất hạnh đến thế, lại chẳng một lời oán thán. Tại sao một người phóng khoáng, biết trân trọng cái đẹp, am hiểu nghệ thuật và suy nghĩ sâu sắc như ông lại gặp phải những người vợ lẳng lơ, tham lam vật chất và những đứa con phá của? Càng suy nghĩ, tôi thấy mình càng bế tắc và chìm trong những câu hỏi không lời giải, vì vậy, tôi quyết định đến gặp ông Kris để hỏi chuyện. Không hiểu sao, tôi luôn tin tưởng rằng ông Kris có thể giải đáp những thắc mắc đang trĩu nặng trong lòng tôi.

Nhìn thấy tôi, ông Kris cũng không tỏ ra ngạc nhiên. Ông không chào tôi mà hỏi ngay một cách thân mật, như thể chúng tôi vẫn gặp nhau thường xuyên và những cuộc chuyện trò chưa hề gián đoạn:

– Thế nào rồi, việc thực hành phương pháp tĩnh tâm của ông tiến triển rasao?

Tôi cười, có chút lúng túng:

– Gần đây, đôi khi tôi thiếp đi một lúc trong lúc thực hành theo phươngpháp của ông hướng dẫn.

Kris xua tay, mỉm cười:

– Không sao, con người không phải cái máy. Khi cơ thể mệt mỏi thì thiếpđi một chút để cho thân thể cân bằng, điều hòa là chuyện thường. Thế sau đó ông làm gì?

Tôi trả lời:

– Khi tỉnh lại tôi tiếp tục thực hành lại từ đầu. Tôi đã quyết tâm mỗi ngàyngồi tĩnh tâm ít nhất một giờ và nhất định phải làm theo đúng như thế. Thật sự là ban đầu việc này cũng không dễ với người có nhiều việc để lo nghĩ như tôi.

Ông Kris gật đầu:

– Ông đã làm rất tốt! Vấn đề quan trọng là giữ đúng thời lượng. Nếu thiếpđi vài phút rồi quay ra ngủ luôn thì sẽ mất hết công phu luyện tập. Khi mới thực tập, ai cũng có lúc ngủ thiếp đi một lúc như vậy thôi, nhưng nếu sau đó, ông vẫn kiên trì tiếp tục tu tập thì sẽ khắc phục được. Ông cần để đầu óc thoải mái, giữ hơi thở điều hòa, đừng để những việc khác xen ngang làm rối loạn, cứ nhẹ nhàng quan sát các tư tưởng đến và đi một cách tự nhiên nhưng không phán xét. Thực hành tĩnh tâm phải hết sức kiên trì, không thể đi nhanh được, gấp rút nóng vội sẽ không thể thành công.

Sẵn đà câu chuyện, tôi đem vấn đề thắc mắc đã lâu ra hỏi ông Kris:

– Trước đây, khi bắt đầu dạy phương pháp tĩnh tâm cho tôi, ông có nói sơqua về sự khác nhau giữa phương pháp tĩnh tâm và kiểu thiền định mà Angie hay Connie được dạy khi học Yoga, ông có thể nói thêm về việc đó được không? Tôi vẫn còn cảm thấy khá mơ hồ và khó phân biệt.

Ông Kris thong thả mời tôi ngồi xuống, rồi từ tốn trả lời:

– Hiện nay có nhiều phương pháp thiền khác nhau, tùy theo người thầy chỉdạy. Tuy nhiên, từ thiền đã bị sử dụng bừa bãi trong các phòng tập thể thao để câu khách. Không ai có thể chỉ ngồi yên năm, mười phút mà gọi là tham thiền được. Đó chỉ có thể gọi là một hình thức thư giãn trước khi tập Yoga thôi. Khi trào lưu Yoga phát triển ở phương Tây, người ta đã bày vẽ cách “ngồi thiền năm phút” hay thở hít gì đó, rồi gọi là “thiền khí công” để quảng cáo cho phòng tập của mình, vài huấn luyện viên còn tự xưng là Thiền sư (Meditation Master) hay Hành giả Yoga (Yogi) rồi thu nhận học trò để kiếm tiền. Đa số người phương Tây không biết gì nhiều về những phương pháp này nên dễ bị lợi dụng.

Ông Kris giải thích thêm:

– Danh từ Thiền (Meditation) có nghĩa là suy ngẫm. Người thực hành phương pháp thiền này được dạy phải suy ngẫm về một đề tài, một chuyện gì đó hay hướng về một hình ảnh nào đó để tập trung tư tưởng. Phương pháp tĩnh tâm (Stillness Meditation) dạy theo dõi hơi thở, cũng là cách tập trung tư tưởng, tránh cho tâm trí đi lan man. Hàng ngày, tâm trí chúng ta xáo trộn vì hết chuyện này đến chuyện khác thâm nhập, không bao giờ yên định trong khoảnh khắc hiện tại. Suy nghĩ trong đầu có lúc tốt, có lúc xấu, có khi đầy những lo lắng, toan tính ngược xuôi. Do đó, tâm trí chúng ta thường bị nhiễu, không thể nhìn rõ mọi sự một cách tỉnh táo, sáng suốt mà thường bị các suy nghĩ lan man, lo âu ập tới ảnh hưởng. Những thói quen, những lối suy nghĩ cũ trong quá khứ khiến chúng ta không kiểm soát được tư tưởng hay vọng niệm. Có lúc ta tin thế này, có lúc ta nghĩ thế kia, không thể đưa ra quyết định rõ ràng. Thiền là sự kiểm soát tâm thức, tập trung tư tưởng để phát triển định lực, khai mở trí huệ, diệt trừ các thói quen tiêu cực ảnh hưởng đến thân-tâm-trí của chúng ta. Phương pháp tĩnh tâm là sự tập trung toàn vẹn dẫn đến sự an lạc, sáng suốt, không chịu ảnh hưởng của ngoại cảnh nữa. Khi người thực hành đạt đến trạng thái tâm thức yên lặng, không còn tư tưởng nào nữa, thì đi đến trạng thái định (Samadhi). Suy ngẫm vẫn còn là trạng thái “động” và tĩnh tâm mới là trạng thái “bất động”.

Nói đến đây ông Kris chợt ngừng lại, nhìn tôi mỉm cười:

– Nhưng hôm nay ông đến gặp tôi đâu phải hỏi về thiền, hình như ông còncó vấn đề gì cần trao đổi. Ông vừa bước vào tôi đã thấy ông đang muốn hỏi về việc gì đó rồi.

Được ông mở lời, tôi kể ngay câu chuyện về cuộc đời bất hạnh của người bạn xấu số Wilson cho ông nghe, ông Kris im lặng trầm tư một lúc rồi nói:

– Trước đây tôi đã nói với ông rằng không phải tình cờ mà mọi người đượcgặp nhau. Tất cả đều do nhân duyên thu xếp, sắp đặt trước, ông và Wilson cũng vậy, hai người đã có liên hệ mật thiết từ nhiều kiếp rồi, có điều hiện nay ông không còn nhớ được thôi.

Quá bất ngờ trước điều vừa nghe, tôi lặng người một lúc rồi mới lên tiếng được:

– Thật vậy sao? Lẽ nào…

Ông Kris mỉm cười, nói:

– Ông cần phải tự mình tìm ra sự liên hệ này. Ông hãy ngẫm lại đi. Có baogiờ ông tự hỏi tại sao một người không hề quen biết như Wilson lại giúp ông số vốn lớn để khởi nghiệp và phát triển công ty mà không hề kiểm tra hay cần điều kiện gì như vậy, nếu không phải đã có duyên nợ từ trước?

Tôi nhíu mày:

– Đúng rồi, Wilson là một nhà đầu tư rất đặc biệt. Nhưng tôi thật sự khôngnhớ gì về sự liên hệ trong quá khứ.

Ông Kris chăm chú nhìn tôi vật lộn trong suy nghĩ một lúc, rồi bật cười:

– Không có điều gì xảy đến với cuộc đời ta là ngẫu nhiên hay tình cờ. Tấtcả đều là duyên, do nhân quả tuần hoàn và nghiệp lực thu hút đến. Có lẽ ông sẽ rất bất ngờ khi tôi nói điều này: Wilson chính là Nimurta, người anh trai của ông trong kiếp sống tại Assyria và còn cùng ông trải qua nhiều kiếp sống khác nữa. Ví dụ, ông từng trải qua kiếp sống ở Hy Lạp và ông ấy là bạn thân lớn lên cùng ông.

Tôi bàng hoàng, thảng thốt:

– Thật vậy ư? Từ lần hồi tưởng về tiền kiếp trước, tôi vẫn nhớ Nimurta rấtthích âm nhạc, nhưng chúng tôi còn có những liên hệ trong những kiếp sống khác nữa sao? Việc này quả thật tôi không nhớ và cũng quá sức tưởng tượng của tôi.

Ông Kris gật đầu, từ tốn:

– Rồi ông sẽ nhớ ra thôi. Wilson đã trải qua nhiều kiếp sống với niềm đammê âm nhạc. Ở kiếp sống này, dù sinh trưởng tại nơi mà nhạc Country thịnh hành nhưng bởi tiềm thức từ tiền kiếp mà ông ấy vẫn bị hút vào nhạc cổ điển, bởi dòng nhạc bác học này gợi đến sự huy hoàng của nghệ thuật đã bị mai một trong dòng chảy lịch sử. Có những tiềm thức từ những tiền kiếp xa xưa vẫn còn vọng lại trong kiếp sống hiện nay, đặc biệt với những người có đòi sống hướng đạo, tức những người từng tu tập qua nhiều kiếp sống và hiện tại linh hồn của họ vẫn đang tiếp tục cuộc hành trình tâm linh, hoặc những người có tâm hồn đặc biệt nhạy cảm với nghệ thuật… còn thắc mắc của ông về việc vì sao một người tuyệt vời như ông

Wilson lại có cuộc sống hôn nhân nhiều đau khổ như hiện nay thì đó chính là để trả nợ cho những cái nhân, nghiệp mà ông ấy đã gieo ở các kiếp sống trước. Trong những kiếp sống trước, ông Wilson sống quá phóng đãng và trăng gió với rất nhiều phụ nữ đẹp. Tuy đã lập gia đình nhưng do bản tính phong lưu nên ông ấy vẫn lao vào những cuộc phiêu lưu tình ái ngoài hôn nhân, khiến cho rất nhiều phụ nữ đau khổ. Nên ở kiếp này, ông ấy phải chịu cảnh bị phản bội tình cảm, sổng một đời cô đơn. Nhân quả đã cho ông ấy học bài học về giá trị của hạnh phúc. Ở khía cạnh tình cảm, đau khổ trong hôn nhân khiến Wilson cảm nhận được nỗi đau khi bị người thân yêu phản bội, đây là nhân quả bắt ông ấy phải học về giá trị của lòng chung thủy và chân thành trong tình cảm.

Hiện nay, ông có thể để ý thấy trong xã hội chúng ta có quá nhiều những người đàn ông mang vẻ ngoài lịch lãm, bảnh bao, nhưng thật ra chỉ là những gã sở khanh chuyên đi mồi chài, lừa gạt, chiếm đoạt thân xác những cô gái trẻ đẹp. Dạng người này tồn tại trong mọi giới, mọi tầng lớp. Họ có thể là những công tử sinh ra đã ngậm thìa bạc hay nghệ sĩ, doanh nhân, chính trị gia, thậm chí thuộc giới trí thức. Dù là ai thì những người này cũng luôn khoác lên người vẻ đạo mạo, trang nghiêm, lịch thiệp để lôi cuốn người khác, nhằm lợi dụng họ, phục vụ cho những ham muốn hèn kém của mình. Những tay sở khanh không hề biết sau này chính họ sẽ phải trả nghiệp cho mọi đau khổ họ từng gây ra cho người khác. Đặc biệt, nghiệp báo sẽ càng nặng hơn khi họ lừa gạt, dan díu với những người phụ nữ đã có gia đình.

Quay trở lại câu chuyện của người bạn của ông. Xét về khía cạnh tài chính, trong những kiếp sống trước, Wilson từng khiến gia đình và người thân hao tài tốn của vì thói ham mê cờ bạc, vì vậy, ở kiếp này, linh hồn những người thân từ tiền kiếp đã chuyển thể và được nghiệp lực dẫn dắt đến cuộc đời ông ấy để đòi nợ, khiến ông tán gia bại sản, cơ nghiệp tan tành. Họ chuyển kiếp làm vợ, làm con, để khiến ông ấy phải đau khổ như ông ấy đã từng làm với họ trước đây. Họ đã hủy hoại hầu như tất cả những gì ông Wilson đã vất vả gây dựng được, cũng giống như ông ấy đã từng làm tiêu tan tinh thần và tài sản của họ ở tiền kiếp vậy. Các ân nợ về tình duyên thường được giải quyết qua hôn nhân, hạnh phúc hay không hạnh phúc còn tùy vào ai trả nợ cho ai. Nợ về tiền bạc thường được thanh toán bằng việc làm ăn thất thu, bị lừa gạt, hay sẽ có những đứa con phá của. Nếu nhìn bằng mắt thường, ông thấy Wilson là người không may mắn, nhưng nếu nhìn bằng đôi mắt tinh thần, thì ông sẽ thấy đó chỉ là luật Nhân quả đang vận hành chính xác. Gieo nhân nào sẽ gặt quả nấy, chỉ vậy thôi.

Tôi bần thần trước sự giải thích của ông Kris về cuộc đời người bạn khốn khổ của mình. Mãi một lúc sau định thần lại, tôi hỏi thêm:

– Lúc nãy ông có nói, khi quan hệ bất chính với những người phụ nữ đã cógia đình thì nghiệp quả còn nặng nề hơn, ông có thể giải thích rõ hơn được không?

– Đơn giản thôi. Trong mối quan hệ bất chính với người phụ nữ đã có giađình, ông phá hoại hạnh phúc gia đình người khác, thì không chỉ người phụ nữ đó sau này oán hận ông, mà người thân, cha mẹ hai bên, con cái của họ càng căm ghét ông. Nếu thân sinh của họ đã qua đời, thì ở cõi bên kia họ vẫn nhìn thấy và căm ghét kẻ phá hoại hạnh phúc của con cháu họ. Một khi sự oán hận được khởi lên ở cõi vô hình thì ông nên biết rằng nghiệp báo nặng nề sẽ xảy ra ngay trong kiếp này và cả những kiếp sau của người gây nghiệp. Chưa nói đến một trọng tội khác mà người đàn ông trăng hoa kia phạm phải, đó là anh ta đã lôi kéo, dẫn dụ một người đang trong sáng trở thành kẻ có tội, kẻ phản bội gia đình. Nghiệp chồng thêm nghiệp như thế, chắc ông cũng hình dung được họ phải trả quả nặng nề ra sao.

Tôi lắng nghe ông Kris nói một cách chăm chú, thầm cảm phục ông vì những kiến thức thông thái của một triết gia nhưng lại vừa có sự thấu hiểu nhân quả của đời thường. Tôi nghĩ sẽ cần trò chuyện thêm với ông ấy về đề tài này, vì tôi cũng đã chứng thực nhiều câu chuyện kỳ lạ liên quan. Nhưng để không ngắt mạch câu chuyện, tôi quay lại câu hỏi mình đã có ở thời điểm tôi gặp Wilson, vì đến giờ tôi vẫn thường nghĩ về quyết định đầu tư của ông vào công ty chúng tôi, nghĩ về niềm tin tuyệt đối ông dành cho tôi khi đó mà ít nhiều băn khoăn. Tôi hỏi ông Kris:

Ông nói tôi và Wilson còn có mối liên hệ trong những kiếp sống khácnữa, những mối liên hệ đó như thế nào? Vì sao kiếp này ông ấy lại có thể vừa mới gặp đã tin tưởng tôi tuyệt đối và giúp tôi nhiều thế?

Ông Kris im lặng một lát ra chiều ngẫm nghĩ, sau đó ông nhìn tôi, rồi nói:

– Tôi sẽ không tiết lộ thêm cho ông nữa. Đây là điều mà ông phải tự mìnhtìm hiểu. Ông có thể tự mình hồi tưởng những kiếp sống đã qua. Ông vốn từng có khả năng này nhưng nay đã quên, vì sự tu tập của ông ở kiếp này vẫn chưa đủ. Hiện ông cũng chưa nghiêm túc rèn luyện và hay trông chờ vào tôi. Tôi và ông từng tu tập cùng nhau qua nhiều kiếp và về sau đã đi con đường khác nhau, nhưng nhờ vậy tôi biết ông là người đặc biệt và sẵn sàng giúp ông trên hành trình thức tỉnh ở kiếp này. Nhưng tôi sẽ chỉ trợ lực cho ông ở giai đoạn đầu mà thôi.

Tôi không kìm được, bèn hỏi tới:

– Ông nói rằng chúng ta từng tu tập cùng nhau, tôi muốn biết thêm về việcnày được không?

Ông Kris mỉm cười, ôn tồn đáp:

– Chẳng phải tôi vừa nói vỏi ông là ông nên tự mình tìm hiểu sao. Về nhữngliên hệ tiền kiếp của chúng ta, tôi nghĩ bây giờ không phải là lúc để nói đến. Ông nên tu tập nhiều hơn, biết đâu tự ông có thể hồi tưởng lại những ký ức đó. Và chia sẻ một điều xin ông đừng buồn, sự tu tập của ông ở kiếp này hiện nay vẫn chưa đủ, ông vẫn còn dễ dãi với bản thân và đổ lỗi khi chưa thiền định đúng mức. Tôi biết rõ năng lực của ông cao hơn thế rất nhiều. Tuy tôi có thể giúp ông nhưng bản thân ông cẩn tìm lại khả năng đặc biệt này để tự mình chiêm nghiệm hành trình tâm linh của mình, để nhận thức rõ hơn về những điều ông cần học.

Dầu chúng ta gặp nhau ở kiếp sống này là đã có sự an bài, nhưng tôi không phải và cũng không thể là người luôn có mặt trả lời cho những thắc mắc của ông. Tôi chỉ thức tỉnh trước ông một đoạn thời gian mà thôi. Chính ông sẽ phải tự mình hoàn thành con đường tu tập của mình. Sự hiểu biết thật sự chỉ có thể đến từ kinh nghiệm và nỗ lực suy ngẫm của mỗi cá nhân. Cho dù ông có thể học điều này, điều nọ từ ai đó, nhưng suy cho cùng đó cũng chỉ là kiến thức của người kia, không phải của ông. Hạt mầm tôi trao cho ông hay bất cứ ai trao cho ông đều chưa phải của ông, trí huệ của người tu tập phải là hạt mầm tự nảy nở trong chính mình, thông qua những trải nghiệm, suy ngẫm, cảm ngộ của mình. Muốn có sự hiểu biết thật sự, ông phải dựa vào nỗ lực của chính mình để tìm ra câu trả lời cho những điều ông muốn biết. Đó mới là sự hiểu biết có giá trị.

Những lời thẳng thắn chân tình đúng lúc của ông Kris như một hồi chuông thức tỉnh tôi. Tôi hiểu ra rằng mình không thể cứ tiếp tục tìm đến ông Kris mỗi khi cần câu trả lời cho các câu hỏi về cuộc đời. Nếu tôi đã có khả năng này, thì tôi phải cố gắng tu tập để hồi phục nó. Tôi tự nhủ sẽ chỉ tìm đến ông Kris để tìm câu trả lời khi thật cần thiết, còn lại sẽ tự thân khám phá theo hướng dẫn của ông ấy. Nếu tôi muốn tìm lại được những năng lực tâm linh từng có, thì tôi phải cố gắng nhiều hơn. Tôi nhận ra ngay từ đầu ông Kris hướng cho tôi luyện tập phương pháp tĩnh tâm chính là bước đầu để tôi có thể khai mô lại năng lực vốn có của mình. Tôi phải dành nhiều thời giờ hơn để thực hành tĩnh tâm.

Kris như đọc được những ý nghĩ của tôi, ông nói:

– Không phải ngẫu nhiên mà tôi hướng dẫn ông thực hành phương pháptĩnh tâm. Mục đích của việc thực hành này là mở khóa cánh cửa nhà tù vô hình đang giam hãm tâm thức chúng ta. Chúng ta đều là phần tử của một sự sống vĩ đại hay còn gọi là chân ngã, thuộc về một năng lượng khởi thủy uyên nguyên, được sắp đặt khéo léo bởi những định luật trong vũ trụ. Trải qua muôn vàn kiếp sống, con người đã từng lầm đường lạc lối vì tự cho mình là thực thể riêng biệt, có tự ngã, độc lập khỏi những quy luật của vũ trụ. Con người ngạo mạn cho rằng mình là những chủ nhân địa cầu, dùng kiến thức hạn hẹp của mình để thống trị và hủy hoại tự nhiên, chính vì cái tôi tham sân si, xa rời khỏi đại đạo tự nhiên nên nhiều người chỉ nghĩ đến bản thân, chỉ muốn đạt được mục đích cá nhân chứ đâu biết nghĩ đến người khác hay đến muôn loài, càng không biết tìm kiếm cội rễ của vòng nhân quả và sửa đổi mình. Vì sự tham lam ích kỷ này mà con người không ngừng vơ vét tài sản chung của vạn vật để tích lũy cho riêng mình. Ông có thể thấy đại dương đang nhiễm độc, rừng đã bị hủy hoại hơn 80%, trái đất đang bước vào “đợt tuyệt chủng thứ sáu” chỉ trong vài chục năm ngắn ngủi… Con người với cái tôi ngạo mạn chỉ chạy theo vật chất, lợi ích. Giữa giá trị và giá cả thì họ sẽ chẳng ngần ngại lựa chọn giá cả, họ trọng tiền tài hơn mọi thứ khác. Mà những tài sản, danh vọng vốn vô thường, tất cả đều chỉ là thứ bên ngoài, là thứ nay còn mai mất, nó không giúp ích cho sự an lạc hay hạnh phúc thật sự, nó không phục vụ cho hành trình đi về cội nguồn thanh khiết, tìm về chân ngã thiêng liêng.

Ông biết đó, vạn vật trên thế giới này, như cỏ cây, hoa lá, côn trùng, thú vật và cả con người thì nhiều vô kể, không thể đếm được. Tuy nhiên, bên trong vạn vật tưởng chừng vô vàn khác biệt đó, tinh hoa vẫn là nhất thể, đó là sự sống hay chính là năng lượng uyên nguyên. Ông có thể so sánh tổng thể uyên nguyên đó như là nước, còn vạn vật là sóng. Sóng thì muôn trùng, sóng lớn, sóng nhỏ, sóng cao, sóng thấp nhưng tựu trung, bản chất vẫn chỉ là nước. Nếu chân ngã là đại dương thì bản ngã chỉ là lượng nước chứa đựng trong cái chén nước bé nhỏ. Tuy đại dương và chén nước nhìn bề ngoài không giống nhau nhưng đều cùng là nước. Vấn đề là làm sao nước trong cái chén chật hẹp trở về được với đại dương bao la.

Khi nào tâm của ông trở nên tĩnh lặng, không còn bị ảnh hưởng, bị quấy rối bởi những tư tưởng bên ngoài, khi mọi sự suy nghĩ của trí óc đều lắng xuống, thì lúc đó, ông sẽ cảm nhận được một sức nóng lạ lùng tuôn trào khắp châu thân. Tuy nhiên, khi nó xuất hiện, ông không nên để ý đến nó. Dù nó tạo cho ông cảm giác vui sướng hay khó chịu thì ông cứ mặc kệ, hãy giữ tâm yên tĩnh như mặt nước hồ thu. Khi không bị thế giới bên ngoài lôi kéo thì ông sẽ đạt được trạng thái định và trong tâm thức bất động, vô vi đó sẽ khởi lên một tình thương bao la vô bờ bến. Tình thương thật sự chỉ hiện diện ở cái tâm không còn tư dục. Lúc đó, ông sẽ thấy cõi lòng mồ rộng đến tất cả mọi nơi, mọi vật. Ông sẽ không còn thấy có sự khác biệt giữa mình và mọi vật nữa. Đây là một thứ tình thương cao thượng, rất khó diễn tả vì nó không giống như tình thương thông thường. Ông có thể gọi đó là lòng từ bi (Compassion). Phương pháp này nhằm vào việc phát triển sự hiểu biết thật sự, hay trí tuệ (Wisdom). Khi ông có thể hoàn toàn làm chủ được tâm thức, không còn bị ngoại cảnh lôi kéo nữa thì dù trong hoàn cảnh nào ông cũng có thể thản nhiên. Khi không còn dao động thì ông có thể phục hồi những khả năng trước đây. Vì đã tu tập từ kiếp trước nên ông có thể chuyển tâm thức thâm nhập vào biển lớn của sự hiểu biết, chứng kiến mọi sự được ghi nhận trong Tâm thức vũ trụ (Akashic Record) và nhớ lại những kiếp sống trước đây của ông.

Tôi lặng người một lúc trước những gì ông Kris vừa truyền đạt. Tôi chân thành nói cảm ơn ông, đồng thời hiểu rằng con đường tu tập của mình còn dài, còn cần phải nỗ lực nhiều, ông Kris ân cần dặn dò thêm:

– Ông nên thực hành phương pháp này vào lúc sáng sớm, khi mặt trời sắpmọc vì lúc đó không gian rất tĩnh lặng, có nhiều năng lượng thích hợp cho việc tu tập. Ông cũng nên tuân thủ thời gian khi thực hành. Dĩ nhiên lúc đầu sẽ gặp khó khăn nhưng dần dần sẽ trở thành thói quen. Khi đã vượt qua được những khó khăn ban đầu này, ông sẽ có chút định lực ban đầu và cứ thế dần dần sẽ đạt được định lực cần thiết. Theo thời gian, việc thực hành sẽ tác động tích cực đến đời sống hàng ngày của ông, giúp cho ông sáng suốt, trầm tĩnh, an nhiên hơn. Trong cuộc sống, ai cũng có lúc không làm chủ được mình, đôi khi nóng nảy, giận dữ, nói những lời không hay hoặc hành động không tốt. Đây đều là những phản ứng đến từ thói quen cũ. Ông nên suy nghĩ, phân tích về các nhược điểm của mình để nhận thức về những lỗi lầm đã phạm. Sự suy ngẫm này sẽ giúp ông thanh lọc tâm hồn, đặt mình trước sự cảnh giác của lương tâm. Tiếng nói của lương tâm chính là sự tổng hợp các trải nghiệm đã có, của những bài học đã học được từ kiếp trước, việc ôn lại bài học để rút kinh nghiệm sẽ giúp ông tiến nhanh hơn trong việc học hỏi của mình.

Tôi gật đầu, tán thành lời ông và hồi thêm:

– Trong lúc thực hành, đôi khi tôi nhìn thấy những hình ảnh lạ lùng hiện lêntrong tâm thức. Những hình ảnh này có khi là sự việc tốt đẹp, có khi rất đáng sợ. Vậy chúng là gì? Khởi phát từ đâu?

Ông Kris trả lời:

– Đó chỉ là vọng tưởng từ những ý nghĩ mà ông đã khởi sinh trong tàngthức trước đây, nay được dịp phát ra. Tất cả lời nói, hành động hay tư tưởng đều là những nhân, hay chủng tử, được gieo vào tàng thức, khi gặp lúc thuận tiện sẽ khởi phát. Nếu ông để ý đến những hình ảnh đó thì ông sẽ bị lôi kéo ra khỏi sự tập trung, làm mất công phu. Đừng chú ý, đừng quan tâm. Dù hình ảnh đó là gì thì ông cứ mặc nó, nó tự đến và nó sẽ tự đi. Một khi ông không để tâm, không phản ứng, thì nó sẽ tự tiêu vong. Theo thời gian, ông sẽ thanh lọc được vọng tưởng.

Chúng tôi tiếp tục trao đổi thêm về những kinh nghiệm tu tập, mãi đến khi trời sập tối. Tôi đứng lên chào ông Kris, hứa sẽ tuân theo chỉ dẫn của ông, tu tập nghiêm túc, kiên trì hơn. Trước khi tiễn tôi ra cửa, ông Kris ân cần nói thêm:

– Chỉ cần ông tập trung thì sẽ nhanh tiến bộ thôi. Khi ông ý thức được vàthấu hiểu về thế giới tâm linh, ông sẽ thấy đời sống tâm linh và đời sống hàng ngày ảnh hưởng tương hỗ cho nhau như thế nào. Và đến khi hai đời sống này hòa hợp thành một, ông sẽ đạt được một cảnh giới mới. Chúng ta sống và làm việc thì tất nhiên phải giao thiệp, tiếp xúc với đủ mọi loại người trong xã hội, nhưng ông nên tránh làm những việc không phải mục đích của mình. Trước khi làm gì hãy suy nghĩ kỹ xem đó có phải là mục đích của ông hay không? Mục đích ở đây là những điều ông cần làm để học hỏi trong kiếp sống này. Nó không nhất thiết là điều ông muốn làm hay bắt buộc phải làm. Tất cả chúng ta đều có mục đích riêng do nhân quả đưa đến, đồng thời cũng có nguyện vọng từ tiền kiếp. Chúng ta đến đây để áp dụng điều đã học vào đời và học thêm điều mới. Điều quan trọng trong đời mỗi người là phải tìm được mục đích đó và thực hành những việc cần thiết để hoàn tất bài học và tiếp tục thăng tiến trên con đường phát triển tâm linh. Đừng làm những chuyện vô ích, đừng để hoàn cảnh xung quanh lôi kéo, đừng để tham vọng cá nhân xen vào mục đích tu tập của mình. Khi tiếp xúc với mọi người, nên tránh nói những lời không cần thiết. Hãy suy nghĩ đến hậu quả của lời nói trước khi thốt ra. Nên nhớ rằng, bất cứ hành động, cử chỉ, lời nói hay ý nghĩ nào cũng là nhân và đã có nhân thì ắt có quả. Mọi việc lớn nhỏ trên thế gian này đều nằm trong vòng nhân quả. Hiểu được nhân quả là bước khởi đầu, hiểu rồi thì cũng phải biết áp dụng nó trong mọi hành động nữa. Ông có biệt nghiệp của ông và nơi ông làm việc cũng có cộng nghiệp chung của mọi người, có những việc ông có thể đóng góp nhưng cũng có những việc phải để cho luật Nhân quả xử lý. Do đó, hãy tự biết cái gì có thể thay đổi, cái gì không thể thay đổi và chấp nhận nó như một bài học.

***

Tôi đáp chuyến bay khuya trở về New York. Trên chuyên bay vắng khách, nhìn ra cửa sổ ngắm nhìn những áng mây đủ hình thù rực sáng dưới ánh trăng, khung cảnh mỹ lệ như ở thế giới thần tiên nào đó, tôi cảm thấy như gần chạm đến nguồn năng lượng uyên nguyên mà ông Kris nhắc đến và thiếp đi trong một trạng thái nhẹ nhàng.

Về đến nhà, theo lời chỉ dẫn của Kris, ngay sáng sớm hôm sau khi mặt trời còn chưa ló dạng, tôi thức dậy, dành nhiều thời giờ thực hành phương pháp tĩnh tâm hơn. Sau nhiều tháng tập trung, kiên trì thực hành, tôi thấy mình đã có những tiến bộ rõ rệt, có thể ngồi tĩnh tâm khá lâu mà không gặp khó khăn về thân-tâm-trí như trước đây, không còn bị phân tâm hay bị xen ngang bởi những luồng suy nghĩ đột ngột xuất hiện như trước đây. Tôi dõi theo các luồng tư tưởng đến và đi trong tâm thức, nhưng không phản ứng gì với chúng, cho đến khi tất cả đều trở nên tĩnh lặng. Khi các tư tưởng, suy nghĩ không còn kéo đến quấy rầy tôi nữa thì tôi bắt đầu cảm nhận được một cảm giác bình an lạ thường, cảm giác này như ngấm vào làn da, vào từng thớ thịt, khiến tôi thấy thoải mái, dễ chịu không lời diễn tả. Lúc đầu tôi ngồi khoảng nửa giờ, sau tăng lên một giờ, rồi cố gắng thức dậy sớm hơn nữa để có thể ngồi đến hai giờ. Sau giai đoạn này, tôi không còn để ý đến thời gian nữa mà cứ để cho mọi sự diễn ra nhẹ nhàng như hơi thở trong miền tĩnh lặng. Thật khó có thể diễn tả cảm giác này bằng lời. Đến lúc đó, tôi mới đồng cảm với trải nghiệm mà người bạn phi hành gia Mitchell đã chia sẻ ở buổi gặp gỡ với Hòa thượng Thánh Nghiêm tại Đại học Đài Bắc mùa hè năm 2008, về trải nghiệm cảm ngộ sự bình an lạ thường trong lúc nhìn qua cửa kính phi thuyền đang du hành ngoài không gian. Tôi cũng đã hoàn toàn hiểu được tại sao cảm giác đó có thể thay đổi toàn diện thế giới quan của một người trước đó vẫn sống bằng logic của tri thức khoa học.

Qua công phu thực hành đều đặn, tôi bắt đầu ý thức hơn trước về tầm quan trọng của những hoạt động hàng ngày. Là người đứng đầu một công ty tài chính, trước biến động thị trường hay nhịp thay đổi của kinh tế thì sự ứng phó của tôi cũng đã tương đối dễ dàng hơn. Trước đây tôi thường quan niệm chỉ cần sáng suốt khi cần ra quyết định và can đảm lúc hành động, thì tôi có thể làm việc hiệu quả. Hiện nay, tôi biết rằng như thế vẫn chưa đủ, tôi còn phải biết uyển chuyển và tỉnh thức hơn trong từng việc nhỏ nhặt hàng ngày nữa. Dù những việc này có vẻ nhỏ bé tầm thường nhưng thật ra vẫn có những tác động lớn lao. Đã thấu hiểu về luật Nhân quả, tôi biết rằng không hành động nào, dù vô tình hay hữu ý, mà không gây ảnh hưởng đến người khác. Trách nhiệm của người chủ công ty nằm ở chỗ cân nhắc về những ảnh hưởng này. Vì vậy, tôi cần thận trọng và ý thức hơn với mọi việc mình làm, dù là việc lớn hay việc nhỏ.

Đa số công việc đầu tư tài chính, giao dịch chứng khoán đều dựa một phần trên sự tính toán và phần khác dựa trên sự liều lĩnh. Đôi khi, lòng tham thúc đẩy người ta liều lĩnh hơn. Tuy nhiên, tiền lãi thu được khi chứng khoán lên giá chỉ đem lại nguồn vui nhất thời, vì cái gì lên thì cũng có lúc xuống. Mỗi khi thị trường thay đổi, thì nó lại tạo cho người ta nỗi lo lắng sợ hãi, khiến họ mất ăn mất ngủ.

Hầu hết mọi người làm việc trong lĩnh vực này đều hành động máy móc, rập theo các khuôn mẫu từ trước. Họ luôn bận rộn, đầu óc căng thẳng bởi sự lên xuống của thị trường. Họ không thể nghĩ gì ngoài những con số lên xuống liên tục trên biểu đồ chứng khoán. Những người làm việc trong ngành tài chính đều phải dậy sớm, theo dõi tin tức báo chí, truyền thông về sự thay đổi của thị trường, các chứng khoán được niêm yết trên thế giới để tìm những kẽ hở hay lợi thế, rồi mua hoặc bán.

Mọi người tham gia vào lĩnh vực này cả ngày đều ở trong tâm trạng kỳ vọng bất ổn, liên tục trao đổi săn lùng tin tức sắp công bố liên quan đến nhóm cổ phiếu nào đó. Mua bán, bán mua liên tục nên đầu óc họ lúc nào cũng căng thẳng. Sau mỗi phiên làm việc, phần lớn đều mệt nhoài, chỉ có thể lao mình vào những thú vui giúp giải khuây tạm thời, rồi lại tiếp tục vòng lặp ngày này qua ngày khác. Phần tôi, khi đã biết lắng lòng trong sự tĩnh lặng, không còn để ngoại cảnh chi phối thì mọi sự đã trở nên rõ ràng, sáng tỏ hơn bao giờ hết. Tôi theo dõi nhịp thay đổi của thị trường, nhưng không để cho chúng mê hoặc. Chứng kiến các con số lên xuống tôi vẫn bình tĩnh quyết định và tin vào sự sáng suốt của mình. Tôi để tâm vào cuộc sống hàng ngày, những chi tiết nhỏ nhặt, tầm thường cũng trở nên quan trọng, những điều vô vị cũng trở nên có ý nghĩa. Mỗi ngày, tôi bước chân vào văn phòng làm việc với tâm trạng hứng khởi lạ lùng vì biết rằng mình sẽ làm việc với tất cả nhiệt thành của một người có trách nhiệm và có lương tâm.

Trong việc đầu tư tài chính, nếu không cảnh giác, rất dễ trở nên tham lam. Nói đúng ra, lòng tham là thứ ai cũng có ít nhiều, bất kể hoạt động trong lĩnh vực nào. Trên nguyên tắc thì người cố vấn đầu tư phải giải thích rõ ràng mọi chi tiết lợi và hại của từng khoản đầu tư cho thân chủ của mình, nhưng thực tế thì không phải ai cũng làm vậy. Trong khi đó, nhiều khách hàng không hiểu rõ hết các chi tiết may rủi trong việc đầu tư và luôn tin rằng công ty sẽ giúp họ có được nhiều lợi ích nhất. Nếu không cẩn thận, sự tin tưởng này khiến họ dễ bị dẫn dắt đi sai hướng và chịu thiệt hại lớn về tài chính. Một số cố vấn đầu tư khuyến khích khách hàng đầu tư vào những công ty mà họ có thể nhận được tiền thưởng hay phí giao dịch, bất chấp rủi ro của khách hàng. Họ đặt quyền lợi của bản thân lên trên thân chủ. Một số khác thì khuyên khách hàng mua đi bán lại nhiều lần để kiếm thêm tiền hoa hồng. Trong thời đại của công nghệ, mọi sự thanh toán có thể diễn ra trong vài phút nhưng nếu trì hoãn ít lâu, vài giờ, vài ngày thì với hàng triệu tài khoản phải thanh toán, các công ty đầu tư cũng có thể kiếm thêm được chút lợi nhuận. Do đó, nhiều công ty thường cố tình chậm thanh toán trong thời gian ngắn để hưởng lợi từ sự chênh lệch này.

Một khi đã hiểu về luật Nhân quả, tôi càng nghiêm túc hơn trong việc chỉ thị nhân viên của mình đảm bảo mọi thanh toán phải thực hiện theo đúng thời hạn. Tương tự, mọi hợp đồng dù lớn hay nhỏ đều phải thanh toán sòng phẳng, không để cho bất cứ ai phải chịu thiệt thòi. Đa số người đứng đầu công ty không để ý đến những việc nhỏ, nên cứ giao cho nhân viên cấp dưới toàn quyền xử lý. Những người này đôi khi lạm dụng quyền hành để thu lợi, gây thiệt hại cho người khác. Là chủ công ty, dù có biết những việc này hay không thì tôi cũng liên đới trách nhiệm – không chỉ về pháp luật mà còn về luật Nhân quả, vì vậy, tôi đặt ra quy tắc rõ ràng để hạn chế tối đa rủi ro có thể xảy ra cho công ty. Tôi muốn mọi thứ đều phải thẳng thắn, trung thực, tuân thủ các chuẩn mực đạo đức. Tôi cũng tin tưởng và giao cho Andrew kiểm soát tất cả giao dịch, từ những khoản đầu tư trong kinh doanh cho đến những hợp đồng lớn nhỏ, để giữ vững sự tin tưởng của khách hàng. Cách làm việc thẳng thắn, sòng phẳng này đã làm nhiều khách hàng hài lòng và họ giới thiệu cho bạn bè của mình tìm đến công ty tôi. Chỉ trong một thời gian ngắn, công ty tôi đã tăng trưởng mạnh mẽ hơn trước rất nhiều.

Trong giới kinh doanh, hầu như ai cũng từng nghe đến câu “Phù thịnh chứ không phù suy”, câu nói thể hiện rõ rệt tinh thần trọng vật chất, đề cao lợi nhuận của ngành này. Nhưng với những hiểu biết về luật Nhân quả, tôi đã nghiệm được riêng cho mình một câu khác: “Trời phù thiên lương, không phù tham ác”. Kinh doanh thẳng thắn, trung thực dẫu có thể không giúp chúng ta đạt được nhiều lợi nhuận trước mắt, nhưng đó là con đường tươi sáng lâu dài. Con đường đó chỉ có thể được dẫn lối bằng sự trung thực và thiện lương – không thể có chỗ cho sự tham lam, ích kỷ và gian trá.

Giới tài chính vốn là giới trắng đen lẫn lộn và người làm trong giới đều phải biết ít nhiều những “thủ đoạn”. Rất nhiều chiến lược được gắn mác “kinh tế học” nhưng thật ra bản chất vẫn là những cách thức khai thác điểm yếu, sự mất mát của người khác để thu lợi về mình. Tôi đã lăn lộn trong giới đủ lâu để chứng kiến đủ dạng người, cũng từng đối phó vối nhiều loại thủ đoạn. Những mánh khóe thường dùng trong ngành, từ kiểu thu lợi manh mún của các nhà môi giới như mua bán quá mức cần thiết, bán cổ tức, cho đến những thủ đoạn cao tay hơn như tung tin giả rồi đẩy giá hay xả hàng, khiến không biết bao nhiêu nhà đầu tư ôm mộng lớn bước vào thị trường để rồi ra về tay trắng. Thị trường chứng khoán là một chiến trường thật sự khốc liệt khi niềm vui ngập tràn chiến thắng của người này lại là nỗi đau khổ, thất bại tận cùng của người khác.

Giai đoạn đầu mới bước chân vào nghề, tôi cũng không tránh khỏi việc sử dụng những mánh khóe này, phần vì muốn có thêm kinh nghiệm, phần vì tôi cũng không ý thức được những ảnh hưởng của việc mình làm. Về sau, khi đã trải nghiệm nhiều hơn và bắt đầu tự thành lập công ty, tôi đã xác định con đường phát triển chậm mà chắc của mình, không để những lợi ích trước mắt cám dỗ làm điều sai trái. Giờ đây, với ý thức về luật Nhân quả, tôi càng nghiêm túc nhìn nhận mỗi quyết định của mình, tránh phương hại đến người khác. Tôi đã mất nhiều đêm để phân tích, nghiệm lại những trải nghiệm trước đây của mình để hiểu hơn về luật Nhân quả. Sự truy cứu đến cùng của luật Nhân quả đối với những hành động bất lương của con người là tất yếu sẽ xảy ra. Có những người từng quyền uy, giàu sang nhưng giờ đã trắng tay, thậm chí có người còn rơi vào vòng lao lý. Ngẫm lại thì họ đều từng sử dụng thủ đoạn hại người, chiếm đoạt, lừa gạt nhằm mưu lợi cho mình. Luật Nhân quả của vũ trụ luôn vận hành chính xác và nghiêm minh.

Tôi tiếp tục nỗ lực thực hành phương pháp tĩnh tâm. Tôi cũng nhận thấy rõ, một khi tôi tiến triển hơn trên con đường tu tập định lực của mình thì không chỉ công việc hàng ngày trôi chảy hơn mà tôi cũng đã trở nên sáng suốt hơn trong những ứng xử, những quyết định lớn nhỏ có liên quan, tác động đến người khác. Trong công việc và hoạch định kế hoạch, tôi có thể nhìn rõ toàn cảnh từ hình thức đến bản chất nội dung, không bỏ qua dù chỉ một chi tiết nhỏ, từ đó đưa ra các quyết định chính xác, có tầm nhìn xa hơn. Mỗi ngày làm việc đều mang lại cho tôi những kinh nghiệm mới, những khả năng và niềm vui mới. Sự tương giao và hòa hợp giữa kinh nghiệm ngoại cảnh và phản ứng nội tâm đã đem lại cho tôi một cảm giác bình an, thanh thản, hài lòng và đã giúp đời sống của tôi trở nên phong phú, ý nghĩa hơn khi xưa rất nhiều. Mỗi khi nghĩ về điều này, tôi lại thầm cảm ơn ông Kris đã khai mở cho tôi một hướng đi sáng, minh triết giữa cuộc sống đời thường.

Ngoài ra, để hóa giải những nghiệp quả mà tôi từng vô tình hay hữu ý tạo nên trong quá trình đầu tư tài chính, tôi đã lập một quỹ từ thiện, giao cho những nhân viên tin cậy, giàu tính cộng đồng quản lý và trực tiếp đi cứu giúp những người gặp khó khăn ở bất cứ đâu mà không cần sự có mặt của tôi.

***

Nhiều tháng sau đó, khi tôi đã tiến bộ hơn nhiều trong việc thực hành phương pháp tĩnh tâm, tôi đã có một trải nghiệm vô cùng đáng nhớ mà tôi cho là cột mốc đầu tiên trên con đường tu tập của mình ở kiếp sống này. Hôm đó, tôi đang làm việc trong văn phòng thì vô tình nhìn thấy trên báo cáo có một công ty tên Leonidas. Bên cạnh tên công ty là một logo được thiết kế bằng mẫu tự Hy Lạp rất đẹp. Tôi không có hiểu biết nhiều về ngôn ngữ Hy Lạp, nhưng mẫu logo này cho tôi cảm giác vô cùng quen thuộc, khiến tôi cứ nhìn mãi như bị thôi miên, cảm giác kỳ lạ này cũng giống như khi tôi nhìn các mẫu tự cổ treo trên tường tại nhà của ông Kris trước đây vậy. Linh tính mách bảo, tôi lập tức khép cửa phòng để không ai vào làm phiền, rồi ngồi thẳng lưng, nhắm mắt lại, tập trung cao độ tư tưởng vào những ký tự Leonidas và mẫu tự Hy Lạp cổ đó. Giống như lần tôi có trải nghiệm hồi quy về kiếp sống Ai Cập, cũng tại văn phòng này, lần này tôi cũng dần dần chìm trong trạng thái an định, có điều tôi cảm nhận rõ luồng năng lượng ấm nóng dâng tràn trong cả cơ thể mình như ông Kris miêu tả. cứ như vậy, tôi rơi vào một khoảng vô cùng, rồi bước vào trạng thái nhập định…


Trong giới kinh doanh, hầu như ai cũng từng nghe đến câu “Phù thịnh chứ không phù suy”, câu nói thể hiện rõ rệt tinh thần trọng vật chất, đề cao lợi nhuận của ngành này. Nhưng với những hiểu biết về luật Nhân quả, tôi đã nghiệm được riêng cho mình một câu khác: “Trời phù thiện lương, không phù tham ác”. Kinh doanh thẳng thắn, trung thực dẫu có thể không giúp chúng ta đạt được nhiều lợi nhuận trước mắt, nhưng đó là con đường tươi sáng lâu dài. Con đường đó chỉ có thể được dẫn lối bằng sự trung thực và thiện lương – không thể có chỗ cho sự tham lam, ích kỷ và gian trá.


***

Trước mắt tôi bỗng hiện ra hình ảnh những ngọn đồi thấp xen lẫn những cánh đồng và muôn rặng cây trải dài xanh ngát. Quanh đó có nhiều người đang làm việc. Họ trò chuyện với nhau bằng một thứ ngôn ngữ kỳ lạ mà lúc đầu tôi không hiểu được. Nhưng chỉ một lúc sau, tôi bắt đầu hiểu được những gì mọi người đang nói. Vì đã quen với cảm giác này, tôi hiểu là mình đang trong trải nghiệm hồi quy. Nếu như lần hồi tưởng về Ai Cập trước đây là sự tình cờ, thì lần này tôi đã có thể tập trung hồi tưởng theo ý mình. Việc thực hành phương pháp tĩnh tâm theo hướng dẫn của ông Kris đã có kết quả bước đầu.

Những ký ức lũ lượt ùa về trong tâm trí, tôi biết mình đang sống tại Hy Lạp. Nhưng thời điểm đó, nước này không phải một quốc gia như ngày nay mà gồm hàng chục thành bang nhỏ (City States) nằm dọc theo bờ biển Địa Trung Hải. Hầu hết những thành bang này đều có các vị vua chúa cai trị, chỉ riêng Athens, được điều hành bởi một tổ chức giống như nghị viện bây giờ (State Council). Tổ chức này gồm các thành viên được dân chúng bầu lên, là một hình thức tổ chức nhà nước dân chủ rất mới lạ vào thời đó.

Văn hóa Hy Lạp chịu ảnh hưởng lớn của Ai Cập. Ảnh hưởng này chủ yếu đến từ một người Ai Cập bị đày biệt xứ đến Athens và đã mở trường dạy học ở đây. Tuy nhiên, những điều người này truyền dạy có sự khác biệt lớn so với văn hóa Ai Cập lúc đó – ông chú trọng việc giáo dục con người hơn là sùng kính thần linh. Sau đó, học trò của ông này đã cải tiến những điều ông truyền dạy cho thích hợp với phong tục địa phương và xây dựng nên một nền văn hóa đặc thù chú trọng sự khai phóng con người mà ảnh hưởng của nó vẫn tồn tại đến lúc này.4

Trong lúc ký ức vẫn chưa hoàn toàn trở lại và tôi không hiểu vì sao mình có những kiến thức này, nhưng tôi nhận ra mình hiểu rõ về cả hai nền văn minh Ai Cập và Hy Lạp, cũng như sự khác biệt giữa hai nền văn hóa này.

Văn hóa Ai Cập sùng kính thần linh, hệ thống quyền lực chính trị cũng mang màu sắc thần quyền do chịu ảnh hưởng của giới giáo sĩ. Người Ai Cập coi thần linh là những đấng thiêng liêng, sống ở cõi giới huyền bí khác với loài người. Khi gặp chuyện không như ý, người Ai Cập cho rằng mình đã làm gì đó có lỗi, đắc tội với thần linh nên mối bị trừng phạt.

Lúc này, giới giáo sĩ khuyên dạy và khuyến khích những người dân mang phẩm vật quý giá đến đền thờ để cúng lễ tạ tội với thần linh, nhưng thực ra sau đó giới giáo sĩ sẽ chia nhau những vật phẩm đó.

Văn hóa Hy Lạp hoàn toàn đối lập với Ai Cập. Người Hy Lạp coi thần linh là những nhân vật có hình dáng tương tự như con người, chỉ khác ở điểm có sức mạnh và quyền năng vô biên. Các thần linh Hy Lạp cũng có những thói xấu của con người như tham lam, ích kỷ hay háo sắc, chứ không mang hình tượng thiêng liêng, thánh thiện, huyền bí như thần linh Ai Cập. Chính vì tinh thần thực tế này mà tôn giáo của Hy Lạp có tính chất gần gũi chứ không mang màu sắc thần bí, uy nghiêm, gây sợ hãi như tôn giáo Ai Cập. Gặp chuyện không như ý, người Hy Lạp sẽ đem phẩm vật đến đền thờ để “thương lượng, mặc cả” với thần linh, rồi mang vật phẩm ấy ra chia sẻ, ăn uống với nhau chứ không để các giáo sĩ hưởng thụ như Ai Cập. Họ còn làm thơ hay soạn nhạc để khen ngợi, tung hô thánh thần với những ngôn từ mỹ miều, vì họ tin rằng thần linh cũng như người, nếu được ca tụng, thần linh cũng đẹp lòng và thuận theo ý nguyện của họ.

Trong khi người Ai Cập chú trọng đời sống sau khi chết thì người Hy Lạp lại chú trọng đời sống hiện tại.

Họ thích vận động, tranh đua trong các môn thể thao như điền kinh, ném tạ, hay các cuộc giao đấu mang tinh thần thượng võ được tổ chức trong các kỳ Thế vận hội Olympic5. Nếu người Ai Cập chú trọng đến xác thân sau khi chết và tiến hành ướp xác để có thể sống ở cõi giới bên kia thì người Hy Lạp lại chú trọng đến xác thân ở hiện tại, coi đó là những gì hoàn hảo nhất. Họ rất chăm lo thân thể qua việc tắm rửa, bồi bổ, tập luyện thể thao để có thân thể khỏe mạnh, cường tráng. Phụ nữ Hy Lạp thường bô nhiều thời gian chăm sóc cơ thể và trang điểm thật diễm lệ. Họ nâng niu thân thể mình bằng những trang phục may bằng các loại vải vóc mềm mại và đồng thời sử dụng nhiều loại tinh dầu thơm. Đối với văn hóa Hy Lạp, thân xác con người là điều mỹ lệ hoàn hảo, là cao quý, thiêng liêng và con người phải luyện tập, điểm trang để hình thức bề ngoài đạt đến sự thánh hóa, tuyệt mỹ như thần linh, sự say mê cái đẹp đến mức thành kính này đã được người Hy Lạp thể hiện qua những tuyệt tác nghệ thuật điêu khắc xuất thần của họ.

Đối với văn hóa Ai Cập, giới giáo sĩ và các Pharaoh là những người có ảnh hưởng lớn đối với đời sống nhân dân. Giáo sĩ và Pharaoh muốn gì thì dân chúng phải tuyệt đối tuân theo. Trái lại, văn hóa Hy Lạp rất đề cao tự do tư tưởng, dù đó là những tư tưởng khác biệt, mang tính cải cách xã hội. Các triết gia như Socrates, Pythagoras, Zeno, Thales, Anaxagoras, Platon, Aristotle, hay Parmenides đều dạy dỗ học trò theo quan niệm riêng của họ. Do đó, văn hóa Hy Lạp chịu ảnh hưởng của những nhà tư tưởng này hơn là các vua chúa. Văn nghệ sĩ, họa sĩ, thi sĩ được tự do thể hiện tài hoa, phổ biến văn chương, thơ phú và kịch nghệ đi khắp nơi, đem lại một luồng sinh khí đặc biệt cho văn hóa xứ này.

Vào thời cổ đại, hệ thống giáo dục Hy Lạp chỉ dành riêng cho con cháu các gia đình quý tộc cho đến khi hiền triết Platon quan niệm giáo dục phải mở rộng cho tất cả mọi người, để đào tạo ra nhiều công dân tài năng cho đất nước. Trong cuốn Cộng hòa, Platon cho rằng giáo dục là đề mở mang và khai sáng con người và mục đích của giáo dục không phải chỉ là thu thập kiến thức mà còn phải phát triển tâm hồn con người cùng với trách nhiệm và bổn phận công dân. Hiền triết Platon đã thành lập Học viện với hai mảng rõ rệt: Tiểu học dành cho học sinh từ sáu đến mười bảy tuổi, dạy các môn căn bản như toán học, âm nhạc, hội họa, điêu khắc, văn chương, lịch sử và thể thao; Đại học dành cho học sinh từ mười tám đến ba mươi tuổi, chú trọng về việc áp dụng những kiến thức đã học từ trước và được dạy thêm về triết học, luận lý, và các quan niệm về đạo đức cũng như bổn phận, trách nhiệm công dân.


Chúng ta đều là phần tử của một sự sống vĩ đại hay còn gọi là chân ngã, thuộc về mệt năng lượng khởi thủy uyên nguyên, được sắp đặt khéo léo bởi những định luật trong vũ trụ. Trải qua muôn vàn kiếp sống, con người đã từng lầm đường lạc lối vì tự cho mình là thực thể riêng biệt, có tự ngã, độc lập khỏi những quy luật của vũ trụ. Khi không bị thế giới bên ngoài lôi kéo thì ta sẽ đạt được trạng thái định và trong tâm thức bất động, vô vi đó sẽ khởi lên một tình thương bao la vô bờ bến. Tình thương thật sự chỉ hiện diện ở cái tâm không cồn tư dục.


Trong sự hồi tưởng tiền kiếp lần này, tôi nhận ra mình là con của một nô lệ làm việc trong trang trại của gia đình quý tộc thuộc vương quốc Macedonia. Chủ nhân của tôi tên Dimitris, là viên quan trông coi tài chính cho triều đình của Vua Philip đệ nhị. Đây là thời mà chế độ nô lệ phát triển cực thịnh. Phần lớn nô lệ là tù nhân chiến tranh bị bắt trong các cuộc chiến giữa những thành bang, các vùng lãnh thổ lân cận. Luật lệ khi đó không cho phép nô lệ có tài sản riêng mà phải sống dưới sự kiểm soát của người chủ. Tùy theo sự đối xử của người chủ mà đời sống người nô lệ sẽ thoải mái hay khổ sở. Những người nữ nô lệ phải làm công việc thường nhật trong nhà như nấu nướng, giặt giũ, lau dọn, hầu hạ hay bất cứ việc gì chủ nhân yêu cầu. Nô lệ nam phải làm việc nặng nhọc hơn như làm ruộng, trồng trọt, xây cất hay trông coi gia súc.

Mẹ tôi là người xứ Thrace bị bắt trong cuộc chiến giữa Macedonia và Thrace. Bà đã bị bán tại chợ nô lệ và được Dimitris mua về. Tôi không biết cha tôi là ai nhưng khi bắt đầu hiểu biết, tôi đã nghe đám nô lệ nói xa nói gần rằng chủ nhân Dimitris chính là cha của tôi, mặc dù mẹ tôi không bao giờ nói gì về việc này. Tôi cũng có đôi lần hỏi mẹ, nhưng lần nào bà cũng im lặng hoặc nói lảng sang chuyện khác. Trong trang trại rộng lớn của gia đình chủ nhân Dimitris có rất nhiều nô lệ, nam cũng như nữ và một số lập gia đình, có con cái. Những đứa trẻ này chơi đùa vô tư với nhau, không biết gì về thân phận nô lệ của mình hay của cha mẹ chúng, cho đến khi đủ lớn, có sức lao động để làm những công việc của nô lệ giống như cha mẹ mình.

Riêng tôi, từ nhỏ tôi đã để ý đến sự khác biệt trong đời sống giữa nô lệ và chủ nhân. Sự khác biệt này đã khiến tôi không ngừng suy nghĩ. Những đứa trẻ chúng tôi bị giới hạn trong khu dành riêng cho nô lệ, không được bén mảng đến khu nhà của chủ nhân. Mẹ tôi nói rằng đó không phải là nơi dành cho những người như chúng tôi. Tôi hỏi mẹ, “người như chúng tôi” có gì khác với những người kia nhưng mẹ tôi không thể trả lời. Cũng không ai có thể trả lời câu hỏi đó của tôi. Năm tôi lên năm tuổi, tôi đã chứng kiến một sự kiện khiến tôi bắt đầu lo sợ cho thân phận nô lệ của mình.

Chủ nhân Dimitris thường tổ chức những buổi tiệc và mời bạn bè nơi khác đến ăn uống, vui chơi. Lẽ dĩ nhiên những buổi tiệc này đều do các nô lệ trong nhà phục dịch, vì tuổi còn nhỏ, tôi cùng những đứa trẻ nô lệ khác trong nhà vẫn còn được vừa vui chơi vừa học cách làm những công việc vặt. Tuy không được đặt chân vào khu vực tổ chức những bữa tiệc của chủ nhân, nhưng chúng tôi vẫn thường lén lút tìm một góc để quan sát những buổi tiệc linh đình này. Với bọn trẻ chúng tôi, đó là niềm vui của việc khám phá một thế giới khác. Những buổi tiệc này thường kéo dài đến gần nửa đêm. Khi tiệc tàn, những nô lệ nam được phép rời phòng tiệc để trở về khu riêng của nô lệ, nhưng các nô lệ nữ thì phải ở lại tiếp tục phục vụ những người khách này. chuyện gì xảy ra trong đêm thì tôi không rõ vì khi đó khu nhà đãi tiệc được đóng kín lại và có người canh gác. Đến khi trời sáng, những nữ nô lệ rời đi với vẻ ủ rũ, mệt mỏi, bước đi cũng không vững, có người còn khóc nức nở. Điều làm tôi chú ý là mỗi lần như vậy chồng của những phụ nữ này thường tỏ ra hằn học, tức giận và đôi khi xảy ra xô xát. Lần đó, sau một bữa tiệc như vậy, chồng của một nô lệ nữ đã ra tay quá mạnh khiến vợ bị thương, chuyện này đến tai chủ nhân. Quân lính được gọi đến, bắt người đàn ông kia dẫn đi khỏi trại. Hôm sau xác anh này được treo lên cọc gỗ giữa đồng cho chim ăn quạ rỉa. Nhìn thân thể máu me đầy những vết roi, đám trẻ chúng tôi vô cùng sợ hãi. Tôi lo lắng hỏi mẹ tôi thì bà khóc và nói rằng đó là hình phạt cho những người không biết thân phận nô lệ của mình. Sau lần chứng kiến cái chết của người đàn ông vẫn hàng ngày sống cùng với chúng tôi đó, tôi trở nên sợ hãi và dè dặt hơn, cũng không còn thoải mái vui chơi như trước được nữa. Những suy nghĩ về thân phận nô lệ bắt đầu bám rễ trong tôi.

Về phần chủ nhân Dimitris, ông có ba người con, Sophia, Isidora là hai con gái lớn và Leonidas là con trai út. Vợ của Dimitris qua đời khi sinh Leonidas nên mẹ tôi, khi đó vẫn còn trẻ, được gọi đến trông nom, chăm sóc cho ba đứa con của ông. Ít lâu sau, bà sinh ra tôi. Tôi sống trong khu nô lệ đến khi lên sáu tuổi thì một hôm chủ nhân Dimitris đến gặp mẹ tôi, nói với bà rằng con trai ông cần có bạn để chơi đùa, và tôi được chọn làm bạn với Leonidas. Từ đó, tôi được đưa khỏi khu dành riêng cho nô lệ, về sống trong căn nhà to lớn của chủ nhân. Khi sống chung với gia đình chủ nhân và chơi đùa với các con của ông, tôi không nhận thấy giữa chúng tôi có sự khác biệt gì. Tuổi nhỏ hồn nhiên nhưng đôi khi tôi cũng tự hỏi tại sao tôi được hưởng tiện nghi như thế mà những đứa bé nô lệ khác thì không được?

Dimitris là một trong những học trò xuất sắc của nhà hiền triết Platon tại Athens, ông giỏi nhất là môn toán nên được Vua Philip mời về trông coi tài chính cho triều đình. Dimitris chú trọng giáo dục con cái từ rất sớm. Ngay từ nhỏ Leonidas đã được dạy về toán học, văn chương, thể thao… nhưng Leonidas chì thích âm nhạc. Là nô lệ và bạn với Leonidas, tôi thường đứng hầu trong phòng khi Dimitris dạy con nên cũng học lỏm được ít nhiều. Tôi rất thích toán và thường lén giúp Leonidas khi cậu ta không thể giải các bài toán khó. Việc này không qua khỏi mắt chủ nhân, có lần ông giận dữ mắng con: “Ngay đứa nô lệ như thằng Kyros còn giỏi toán hơn con”. Tuy nói thế nhưng ông không bao giờ mắng tôi. Nhiều lúc tôi bắt gặp ông nhìn tôi với ánh mắt khó hiểu.

Được sống trong biệt thự của chủ nhân, tôi cũng có dịp được tiếp xúc với hai người con gái của ông. Từ nhỏ, chúng tôi đã chơi đùa thân thiết với nhau như anh em, phần vì mẹ tôi là người nuôi nấng, chăm sóc họ, phần nữa là vì trong căn nhà rộng lớn, chỉ có bốn đứa chúng tôi với nhau. Chủ nhân Dimitris thì luôn bận việc triều đình, ít khi ở nhà; còn những nô lệ khác không được phép đến đây nếu không có việc được giao phó.

Macedonia không có trường học kiểu Học viện như tại Athens, nhưng là học trò của Platon, Dimitris có mối thâm giao với những người tài năng tốt nghiệp từ trường này. Ông mời họ đến nhà dạy riêng cho các con mình với những ưu đãi đặc biệt. Phần lớn học trò của Platon đều không giàu có gì nên họ đều đáp lại lời mời của Dimitris, một số đã mang gia đình về sống trong trang trại rộng lớn này. Các con của họ cũng được dạy dỗ tại đây nên đám trẻ chúng tôi được chơi đùa với nhau, không có sự phân biệt. Tuy có nhiều bạn để chơi đùa hơn xưa, nhưng lúc này tôi đã nhận ra sự khác biệt giữa thân phận nô lệ của tôi và những người bạn của mình, vì tôi không được phép theo học những người thầy mà chủ nhân mời về. Hôm đó Sophia vô tình hỏi Dimitris:

– Cha ơi, sao Kyros không được theo vào lớp học?

Dimitris cau mày nhìn tôi rồi trả lời:

– Nó có việc khác phải làm. Việc học không phải là việc của nó.

Điều này khiến đám trẻ ngạc nhiên vì hàng ngày chúng tôi vẫn chơi đùa vô tư với nhau, không hề phân biệt. May thay, mẹ tôi tiếp lời:

– Thưa, Kyros sẽ học riêng với tôi.

Sophia và Isidora phụng phịu phản đối:

– Tại sao Kyros không được học chung với chúng con? Tại sao cậu ấy phảihọc riêng?

Dimitris không nói gì, gương mặt ông lộ vẻ không vui. Tôi nhìn vẻ khó xử của mẹ và sự bực dọc của chủ nhân, vội vàng lên tiếng:

– Tôi không thích đi học, tôi muốn học riêng với mẹ tôi.

Từ lúc có thầy về dạy học, bọn trẻ chúng tôi không còn gặp nhau thường xuyên như trước. Tôi phải theo mẹ dọn dẹp, lau chùi nhà cửa khi những đứa trẻ kia đi học. Trong số người được Dimitris mời về có Satyrus, thầy dạy nhạc, cũng là học trò của Platon từ Học viện của ông. Satyrus là người yêu thiên nhiên nên không thích dạy trong phòng mà thường chọn một chỗ ngoài vườn đê lên lớp. Do đó, tuy không được theo học trong lớp cùng bạn bè nhưng tôi vẫn có thể nghe rõ lời giảng của ông. Những bài giảng của ông luôn khiến tôi thích thú và chú tâm lắng nghe. Trong một bài giảng, thầy Satyrus đã nói:

“Thầy của ta, hiền triết Platon, dạy rằng âm nhạc là phương tiện trau dồi nhân cách hữu hiệu nhất bởi vì tiết điệu hài hòa, giai điệu du dương, thanh thoát của âm nhạc có thể khiến tâm hồn con người phong phú hơn. Do đó, học nhạc không phải chỉ đơn giản là học cách sử dụng nhạc khí mà còn là một phương pháp rèn luyện tinh thần vì thanh âm mà âm nhạc tạo ra là sự thu xếp tuyệt hảo theo trật tự thiên nhiên. Âm nhac mang sức mạnh vô hình, mạnh mẽ hơn mọi giáo điều, thuyết phục hơn mọi triết lý, vì nó ảnh hưởng đến con người một cách vô thức. Do đó, khi soạn nhạc, người nhạc sĩ phải cẩn thận, không được để cho những ý tưởng xấu xa, những dục vọng thấp hèn ảnh hưởng đến sự sáng tạo. Bởi những loại nhạc được sáng tác trong sự dễ dãi đó có thể làm loạn xã hội, hư hỏng con người.”

Thầy Satyrus có thể sử dụng nhiều nhạc khí khác nhau nhưng tùy năng khiếu của học trò mà thầy sẽ dạy riêng cho từng người loại nhạc khí mà thầy cho là thích hợp. Thầy Satyrus có hai người con là Melissa và Antigenidas, cả hai cùng trạc tuổi tôi nên chúng tôi thường chơi với nhau. Melissa và Isidora được dạy về sáo trong khi Antigenidas được dạy về trống và kèn đồng. Leonidas và Sophia được dạy về đàn. Là một triết gia kiêm nhạc sĩ, Satyrus thường nhắc nhở các học trò của mình:

“Là người học về âm nhạc các con phải ý thức rằng tiết điệu của âm thanh có thể tạo ra nhiều trạng thái tinh thần khác nhau, có cả điều tốt cũng như điều xấu. Do đó, người học nhạc phải sử dụng âm nhạc để trau dồi đức hạnh cho chính mình một cách hợp lý. Âm nhạc do các con tấu lên hay soạn ra phải tạo ra sự hứng khởi, lan tỏa tình yêu thương, lòng trắc ẩn vì nó có thể ảnh hưởng đến tâm hồn người nghe. Nếu bất cẩn, âm nhạc của các con có thể trở thành những năng lượng xấu, mang lại sự tiêu cực, gây ra u uất, hèn yếu, buông thả và những ảnh hưởng xấu xa khác. Các con phải biết rằng âm nhạc là một tổ hợp vô cùng tinh tế nên người nghe không dễ gì nhận thấy tác động của nó đối với tâm hồn của họ. Do đó, người soạn nhạc phải có trách nhiệm với những sản phẩm mình tạo ra, với ảnh hưởng của chúng đến thính giả. Một loại âm nhạc nào đó, khi được nghe đi nghe lại sẽ tạo ra cảm xúc cộng hưởng tương ứng ở người nghe. Khi nghe nhạc buồn lâu ngày, người ta sẽ trở nên u sầu và khi nghe nhạc vui, họ sẽ hăng hái, phấn chấn hơn. Âm nhạc được nghe nhiều lần sẽ lưu lại trong tâm thức người nghe một ấn tượng, tạo ra một cảm xúc tồn tại trong vô thức, nên tính tình cũng thay đổi theo. Vui và buồn là tình cảm tự nhiên của con người, buồn không có gì xấu nếu đó là nỗi buồn cao thượng, khơi gợi lòng vị tha, trắc ẩn. Hãy đảm bảo rằng âm nhạc của các con sẽ luôn hướng đến chân – thiện – mỹ.”

Thời gian trôi qua nhanh, cùng nhau, đám trẻ chúng tôi dần lớn lên trong điền trang của Dimitris. Bước vào tuổi thanh niên, nhiều đứa trong chúng tôi đã bắt đầu biết mơ mộng. Một cái nhìn, một vài cử chỉ âu yếm có thể làm cho đám con gái thẹn thùng. Isidora càng lớn càng xinh đẹp và thường được săn đón nhiều hơn những cô gái khác. Sophia dịu dàng, hiền lành trong khi Melissa tương đối thầm lặng, ở tuổi này, tôi đã hiểu rõ hơn về sự khác biệt của thần phận nô lệ và những người chúng tôi gọi là chủ nhân. Tôi càng ý thức hơn về vị trí của mình. Những lần có việc đi xuống khu dành riêng cho nô lệ, tôi thấy những người bạn cùng tuổi với mình đã bắt đầu phải làm những việc của nô lệ như chẻ củi, gánh nước hay trông nom gia súc. Tôi thường nghĩ, nếu tôi không được chọn làm bạn với Leonidas, hiện giờ tôi cũng đang phải ngày ngày làm những công việc đó. Với những nhận thức này, tôi bắt đầu đặt câu hỏi nhiều hơn về sự phân chia giai cấp giữa chủ nhân và nô lệ, về những khác biệt, bất công giữa hai giai cấp này.

Cuối năm đó, một hôm Dimitris ở triều trở về và gọi tất cả đám trẻ vào phòng rồi tuyên bố:

– Triều đình vừa mời Aristotle, một người bạn thân của ta, về Mieza để dạycho Hoàng tử Alexander. Ngôi trường đầu tiên tại Macedonia sẽ được thành lập và ta muốn các con đến đó học với người thầy này.

Trong tất cả học trò của Platon, không ai giỏi hơn Aristotle. Khi Platon qua đời, đáng lẽ ông này xứng đáng thay mặt thầy trông coi Học viện Platon. Tuy nhiên một số thành viên trong nghị viện Athens không thích khả năng lý luận của Aristotle nên đã đưa Speusippus, người cháu của Platon, lên làm viện trưởng. Sau đó Speusippus lại đưa người thân trong gia đình vào đảm nhiệm những chức vụ quan trọng tại đây và có ý loại Aristotle ra khỏi Học viện. Trước kiểu hoạt động “gia đình trị”, kết bè kết cánh này, Aristotle đành phải bỏ đi nơi khác. Được tin, Vua Philip vội mời nhà hiền triết đến Macedonia để dạy cho Hoàng tử Alexander. Ông cho xây ngay một trường học tại Mieza, để con cái các gia đình quý tộc có thể đến học với triết gia lỗi lạc này.

Sau khi đám con trai được gửi đi học xa, tôi liền cảm thấy ngơ ngác, lạc lõng trong ngôi dinh thự rộng lớn này. Biết thân phận hèn kém của mình, tôi chuẩn bị trở về khu dành riêng cho nô lệ. Đang thu xếp thì Dimitris bước vào phòng tìm tôi. Tôi quá ngạc nhiên, chưa kịp phản ứng gì thì ông đã đưa cho tôi cuộn giấy. Tôi bối rối nhận lẩy và mở ra, trên đó đầy những con số. Tôi đưa mắt nhìn Dimitris, định cất tiếng hỏi thì ông đã nói luôn:

– Người thử giải những bài toán này cho ta xem.

Rất ngạc nhiên trước yêu cầu này, nhưng tôi không dám hỏi gì thêm mà lập tức ngồi xuống, giải hết những bài toán được giao. Dimitris lặng lẽ đứng đó quan sát tôi. Sau khi giải hết các bài toán, tôi đưa lại cho Dimitris. Ông xem xét cẩn thận từng bài giải, rồi gật đầu, tỏ vẻ hài lòng. Ông nói:

– Người khá lắm. Ta biết người đã học lỏm được ít nhiều nhưng không ngờngười làm toán giỏi thế này. Từ nay người cứ ở lại đây làm việc với ta.

Vậy là tôi tiếp tục ở lại trong nhà chủ nhân Dimitris, ông bắt đầu dạy tôi những phương pháp tính toán và làm sổ sách chi thu cho triều đình. Ngoài ra ông còn cho phép tôi được tự do sử dụng thư viện trong nhà, được chọn đọc bất cứ cuốn sách nào tôi muốn để học thêm những môn mà tôi thích. Tôi học rất nhanh và làm việc vô cùng chăm chỉ, nên dần được tin tưởng hơn. Một thời gian sau, khi đã thạo việc hơn, tôi chính thức trở thành thư ký riêng cho Dimitris.

***

Trong buổi nói chuyện với Thomas, tôi đã hỏi ông kỹ hơn về khả năng hồi tưởng lại tiền kiếp. Ông nói rằng trước đây ông phải nhờ ông Kris giúp mới có thể hồi tưởng tiền kiếp và khi đó ông không hề nghĩ đến việc mình cũng có khả năng này. Sau quá trình thực hành theo hướng dẫn của Kris, ông đã có thể chủ động hồi tưởng tiền kiếp theo ý muốn và đã tự tin hơn trên con đường tu tập. Qua công phu tu tập, phát triển định lực, ông đã có thể mở nhãn quan, nhìn được nhiều kiếp sống khác của mình, nhưng chưa thể nhìn được tiền kiếp của người khác ngay lập tức như ông Kris. Ông dần dần thấy rõ được sự liên hệ giữa ông và một số người quen biết, ví dụ, ông nhận ra Wilson chính là Leonidas, ông cũng đã bước đầu thấy được những cõi giới khác, tuy nhiên, khả năng đó còn rất hạn chế.

Tôi hỏi thêm về trường hợp gần đây của một số người có khả năng thấy được tiền kiếp hay nhìn được tương lai. Thomas cho biết ông và ông Kris cũng đã trao đổi về việc này và đều cho rằng có trường hợp người ta gặp tai nạn hay sự cố nào đó, vô tình “đánh thức” giác quan đặc biệt nên cũng có khả năng đó. Tuy nhiên những trường hợp này thường không kéo dài, ít lâu sau khả năng đặc biệt sẽ mất đi. Đôi khi qua thôi miên, tùy sự nhạy bén của giác quan mà người ta cũng thấy được chuyện xảy ra ở quá khứ, nhưng khi tỉnh lại họ dường như không nhớ được gì. Điều này hoàn toàn khác với việc tự mình phát triển khả năng hồi tưởng thông qua công phu tu tập. Thomas cho biết, khi nhập định ông có thể cảm nhận mọi sự bằng một tâm thức thanh cao, không bị tư tưởng hay ngoại cảnh chi phối, do đó tránh được ảnh hưởng của thành kiến hay sự tưởng tượng. Khi làm chủ được tâm mình, lúc nào cũng an nhiên trong định lực thì có thể chuyển tâm thức làm được nhiều việc. Tuy nhiên, ông cũng nói thêm rằng trường hợp của ông là vì đã từng tu tập, thực hành trong nhiều kiếp, hiện nay chỉ hồi tưởng và phát triển khả năng đã có trước đây mà thôi. Theo ông, khi định lực chưa vững, tâm thức rất dễ bị ảnh hưởng bởi những tư tưởng chủ quan hay thiên kiến cá nhân. Điều này cũng giống như việc chúng ta nhìn mọi vật xung quanh khi đeo kính đổi màu, chỉ nhìn mọi vật theo màu sắc của đôi kính và sẽ có nhận định không chính xác, dễ phóng đại những chi tiết không cần thiết theo thói quen hàng ngày, vì vậy, ông cho rằng việc tự mình thực hành để phát triển định lực là vô cùng cần thiết nếu muốn tìm hiểu về tiền kiếp hay luân hồi.