SỐ 223
KINH MA-HA BÁT-NHÃ BA-LA-MẬT
Hán dịch: Pháp sư Cưu-ma-la-thập
Việt dịch: Linh Sơn Pháp Bảo Đại Tạng Kinh

 

QUYỂN 2

Phẩm 4: VÃNG SINH

Tôn giả Xá-lợi-phất bạch Phật:

–Bạch Đức Thế Tôn! Đại Bồ-tát thực hành Bát-nhã ba-lamật thì hãy tu tập tương ưng như vậy, các vị ấy từ cõi nào chết rồi sinh đến cõi này, từ cõi này chết rồi sẽ sinh về đâu? Phật dạy:

–Này Xá-lợi-phất! Các Đại Bồ-tát ấy hoặc từ cõi khác sinh đến cõi này, hoặc từ tầng trời Đâu-suất sinh xuống đây, hoặc có vị từ nhân gian sinh trở lại nhân gian này.

Này Xá-lợi-phất! Các Bồ-tát từ cõi khác sinh đến đây mau tương ưng với Bát-nhã ba-la-mật. Vì đã tương ưng với Bátnhã ba-lamật nên khi sinh đến cõi này, thì các pháp thâm diệu đều hiện ra, rồi lại tương ưng với Bát-nhã ba-la-mật. Bồ-tát này sinh đến đâu cũng thường gặp chư Phật.

Này Xá-lợi-phất! Có vị Bồ-tát Nhất sinh bổ xứ từ tầng trời Đâu-suất sinh xuống đây. Bồ-tát này chẳng mất sáu pháp Ba-la-mật, sinh đến chỗ nào, tất cả môn Đà-la-ni, tất cả môn Tam-muội đều mau hiện ra.

Này Xá-lợi-phất! Có vị Bồ-tát từ nhân gian sinh trở lại nhân gian, Bồ-tát này căn tánh chậm lụt, trừ địa vị không thoái chuyển, chẳng thể mau chóng tương ưng với Bát-nhã bala-mật, các môn Đàla-ni, các môn Tam-muội chẳng thể mau hiện ra.

Này Xá-lợi-phất! Như lời ông hỏi, Đại Bồ-tát tương ưng với Bát-nhã ba-la-mật, từ cõi này chết sẽ sinh về đâu? Ông nên biết rằng, các Đại Bồ-tát này từ một cõi Phật chết sẽ sinh đến một cõi Phật khác, thường chẳng xa lìa chư Phật.

Này Xá-lợi-phất! Có Đại Bồ-tát chẳng dùng phương tiện mà nhập Sơ thiền, Nhị thiền, Tam thiền, Tứ thiền và cũng thực hành sáu pháp Ba-la-mật. Vì chứng đắc thiền định nên Đại Bồtát này sinh lên tầng trời Trường thọ. Rồi từ tầng trời ấy sinh xuống nhân gian, gặp chư Phật, hàng Bồ-tát này căn tánh không được lanh lẹ.

Này Xá-lợi-phất! Có vị Đại Bồ-tát nhập Sơ thiền đến Tứ thiền và cũng thực hành Bát-nhã ba-la-mật, vì chẳng dùng phương tiện nên xả thiền sinh xuống cõi Dục. Hàng Bồ-tát này căn tánh cũng chậm lụt.

Này Xá-lợi-phất! Có vị Đại Bồ-tát nhập Sơ thiền đến Tứ thiền, nhập tâm Từ đến tâm Xả, nhập định không xứ đến định Phi phi tưởng xứ, tu tập bốn Niệm xứ đến tám Thánh đạo, thực hành mười Lực, đại Từ, đại Bi. Vị Đại Bồ-tát này dùng năng lực phương tiện chẳng sinh theo thiền cõi Sắc, chẳng sinh theo tâm Vô lượng, chẳng sinh theo định Vô sắc, mà sinh nơi nào có Phật ra đời, thường chẳng lìa hạnh Bát-nhã ba-la-mật. Bồ-tát này sẽ thành Phật trong Hiền kiếp.

Này Xá-lợi-phất! Có Đại Bồ-tát nhập Sơ thiền cho đến Tứ thiền, nhập tâm Từ đến tâm Xả, nhập định không xứ đến định Phi phi tưởng xứ. Vì dùng năng lực phương tiện nên chẳng sinh theo thiền mà sinh trở lại cõi Dục để thành tựu cho mọi tất cả chúng sinh.

Này Xá-lợi-phất! Có Đại Bồ-tát nhập Sơ thiền đến Tứ thiền, nhập tâm Từ đến tâm Xả, nhập định không xứ đến định Phi phi tưởng xứ. Vì dùng năng lực phương tiện nên chẳng sinh theo thiền mà sinh vào các tầng trời cõi Dục, như cõi Tứ vương hoặc cõi Đaolợi, Dạ-ma, Đâu-suất, Hóa lạc, Tha hóa để thành tựu tất cả chúng sinh ở các cõi này và cũng để làm thanh tịnh cõi Phật, gần gũi chư Phật.

Này Xá-lợi-phất! Có Đại Bồ-tát thực hành Bát-nhã bala-mật, dùng năng lực phương tiện nhập Sơ thiền, ở cõi này qua đời sinh lên tầng trời Phạm thiên, làm Đại Phạm vương, rồi đến các cõi Phật, nơi nào có Phật mới thành Vô thượng Chánh giác mà chưa chuyển pháp luân thì khuyến thỉnh chuyển pháp luân.

Này Xá-lợi-phất! Có Đại Bồ-tát là bậc Nhất sinh bổ xứ thực

hành Bát-nhã ba-la-mật, dùng năng lực phương tiện nhập Sơ thiền đến Tứ thiền, nhập tâm Từ đến tâm Xả, nhập định không xứ đến định Phi phi tưởng xứ, tu bốn Niệm xứ đến tám Thánh đạo, nhập Tam-muội Không, Tam-muội Vô tướng, Tammuội Vô tác, chẳng sinh theo thiền mà sinh về nơi có Phật ra đời, tu phạm hạnh, hoặc sinh lên tầng trời Đâu-suất, lúc qua đời chẳng mất chánh niệm, đầy đủ cội lành, cùng vô số trăm ngàn ức muôn các vị trời cung kính vây quanh, sinh đến nơi đây mà thành Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác.

Này Xá-lợi-phất! Có Đại Bồ-tát được sáu thần thông chẳng sinh vào cõi Dục, cõi Sắc và cõi Vô sắc, từ một cõi Phật đến một cõi Phật, cung kính cúng dường tôn trọng khen ngợi chư Phật.

Này Xá-lợi-phất! Có Đại Bồ-tát với du hý thần thông từ môt cõi Phật đến một cõi Phật, nơi nào mà Bồ-tát này đến thì không có Thanh văn và Bích-chi-phật thừa, cũng không có danh từ Nhị thừa.

Này Xá-lợi-phất! Có Đại Bồ-tát với thần thông tự tại từ một cõi Phật đến một cõi Phật, chỗ nào Bồ-tát này đến thì cõi đó chúng sinh có tuổi thọ vô lượng.

Này Xá-lợi-phất! Có Đại Bồ-tát với thần thông tự tại từ một cõi Phật đến một cõi Phật, nơi không có Tam bảo Phật, Pháp, Tăng thì khen ngợi công đức của Phật, Pháp, Tăng. Chúng sinh nơi đó nhờ được nghe danh hiệu Phật, Pháp, Tăng, nên sau khi qua đời được sinh về chỗ chư Phật.

Này Xá-lợi-phất! Có Đại Bồ-tát lúc mới phát tâm được Sơ thiền, cho đến bốn Thiền, được bốn Tâm vô lượng, được bốn

Định vô sắc, tu bốn Niệm xứ, tám Thánh đạo cho đến mười tám pháp Bất cộng. Bồ-tát này không sinh trong ba cõi mà thường sinh nơi có lợi ích cho chúng sinh.

Này Xá-lợi-phất! Có Đại Bồ-tát lúc mới phát tâm thực hành sáu pháp Ba-la-mật đạt được quả vị Bồ-tát không thoái chuyển.

Này Xá-lợi-phất! Có Đại Bồ-tát lúc mới phát tâm liền được Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, chuyển pháp luân, sau khi đem lại sự lợi ích cho chúng sinh xong liền nhập Niết-bàn; chánh pháp trụ thế hoặc một kiếp hoặc dưới một kiếp.

Này Xá-lợi-phất! Có Đại Bồ-tát lúc mới phát tâm liền tương ưng với Bát-nhã ba-la-mật, cùng vô số trăm ngàn ức Bồ-tát từ một cõi Phật đến một cõi Phật để làm thanh tịnh cõi Phật.

Này Xá-lợi-phất! Có Đại Bồ-tát lúc thực hành Bát-nhã ba-lamật được bốn Thiền, bốn Tâm vô lượng, bốn Định vô sắc, rồi an trú tự tại trong đó: nhập Sơ thiền, xuất Sơ thiền, nhập định Diệt tận, xuất định Diệt tận, cho đến nhập Tứ thiền, xuất Tứ thiền, nhập định Diệt tận, xuất định Diệt tận, nhập Hư không xứ định, xuất Hư không xứ định, nhập định Diệt tận, xuất định Diệt tận, nhập định Phi phi tưởng xứ, xuất định Phi phi tưởng xứ, nhập định Diệt tận. Đó là Đại Bồ-tát dùng năng lực phương tiện, lúc thực hành Bát-nhã ba-la-mật, nhập định siêu việt.

Này Xá-lợi-phất! Có Đại Bồ-tát lúc thực hành Bát-nhã ba-lamật, tu bốn Niệm xứ đến mười tám pháp Bất cộng mà chẳng trụ vào các quả Tu-đà-hoàn, Tư-đà-hàm, A-na-hàm, Ala-hán, Bích-chiphật. Bồ-tát này dùng năng lực phương tiện để độ chúng sinh nên phát khởi tám phần Thánh đạo, dùng tám phần Thánh đạo này giúp cho chúng sinh được quả Tu-đà-hoàn đến quả Bích-chi-phật.

Này Xá-lợi-phất! Tất cả quả A-la-hán, Bích-chi-phật và trí, các Đại Bồ-tát này đều đã được Vô sinh pháp nhẫn.

Này Xá-lợi-phất! Đại Bồ-tát ấy đã thực hành Bát-nhã ba-lamật như vậy, an trụ trong địa vị không thoái chuyển như vậy.

Này Xá-lợi-phất! Có Đại Bồ-tát an trụ nơi sáu pháp Bala-mật, làm trang nghiêm tầng trời Đâu-suất. Nên biết đây là Bồ-tát ở Hiền kiếp.

Này Xá-lợi-phất! Có Đại Bồ-tát tu bốn Thiền cho đến mười tám pháp Bất cộng mà chưa chứng bốn Đế. Nên biết đây là bậc Bồtát Nhất sinh bổ xứ.

Này Xá-lợi-phất! Có Đại Bồ-tát tu hành đạo Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác trong vô lượng a-tăng-kỳ kiếp.

Này Xá-lợi-phất! Có Đại Bồ-tát an trụ nơi sáu pháp Bala-mật, thường siêng năng tinh tấn, làm lợi ích cho chúng sinh, không nói việc vô ích.

Này Xá-lợi-phất! Có Đại Bồ-tát an trụ trong sáu pháp Ba-la- mật, thường siêng năng tinh tấn làm lợi ích cho chúng sinh, từ một cõi Phật đến một cõi Phật để dứt trừ ba đường ác của chúng sinh.

Này Xá-lợi-phất! Có Đại Bồ-tát an trụ trong sáu pháp Balamật, lấy Bố thí làm đầu, để đem sự an vui cho tất cả chúng sinh, ban cho họ những thức ăn uống, y phục, giường phòng, hương hoa, đèn đuốc, châu ngọc, hễ chúng sinh cần dùng gì đều cung cấp cho họ.

Này Xá-lợi-phất! Có Đại Bồ-tát lúc thực hành Bát-nhã ba-lamật biến thân hình như Phật để nói pháp cho chúng sinh trong địa ngục, súc sinh, ngạ quỷ nghe.

Này Xá-lợi-phất! Có Đại Bồ-tát lúc thực hành sáu pháp Bala-mật biến thân hình như Phật đến hằng sa thế giới ở khắp mười phương để nói pháp cho chúng sinh nghe, cũng để cúng dường chư Phật và nghe pháp, cũng để xem xét lựa lấy những quang cảnh thanh tịnh tốt đẹp của các cõi nước hầu phát khởi cõi nước của mình cho được siêu thắng, các Đại Bồ-tát như vậy đều là bậc Nhất sinh bổ xứ.

Này Xá-lợi-phất! Có Đại Bồ-tát lúc thực hành sáu pháp Ba-lamật thành tựu ba mươi hai tướng tốt, sáu căn thanh tịnh lanh lợi. Vì sáu căn của Bồ-tát này, thanh tịnh lanh lợi nên được chúng sinh kính mến. Do chúng sinh kính mến nên Bồ-tát này dần dần dùng pháp ba thừa cứu độ họ.

Này Xá-lợi-phất! Vì như vậy nên lúc thực hành Bát-nhã ba-lamật, Đại Bồ-tát phải giữ thân thanh tịnh và miệng thanh tịnh.

Này Xá-lợi-phất! Có Đại Bồ-tát từ lúc thực hành sáu pháp Bala-mật được các căn thanh tịnh vẫn không tự cao, cũng chẳng xem thường người khác.

Này Xá-lợi-phất! Có Đại Bồ-tát từ lúc mới phát tâm an trụ nơi Bố thí ba-la-mật, cho đến địa vị không thoái chuyển, chẳng rơi vào ba đường ác.

Này Xá-lợi-phất! Có Đại Bồ-tát từ lúc mới phát tâm cho đến địa vị không thoái chuyển thường chẳng bỏ hạnh mười điều lành.

Này Xá-lợi-phất! Có Đại Bồ-tát an trụ trong Bố thí và Trì giới ba-la-mật mà làm Chuyển luân thánh vương, đưa chúng sinh vào mười đường lành và cũng bố thí tài vật cho chúng sinh.

Này Xá-lợi-phất! Có Đại Bồ-tát an trụ trong Bố thí và Trì giới ba-la-mật, trong vô lượng ngàn muôn đời làm Chuyển luân thánh vương, gặp vô lượng trăm ngàn Đức Phật và đều cung kính, cúng dường tôn trọng khen ngợi.

Này Xá-lợi-phất! Có Đại Bồ-tát thường dùng chánh pháp soi sáng cho chúng sinh, cũng được lợi ích tự soi sáng, cho đến lúc thành Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác chẳng rời sự soi sáng đó.

Này Xá-lợi-phất! Đại Bồ-tát như vậy đã được tôn trọng ở trong Phật pháp. Cho nên, Đại Bồ-tát lúc thực hành Bátnhã ba-la-mật, thân, khẩu và ý đều thanh tịnh chẳng để vọng tưởng phát sinh.

Tôn giả Xá-lợi-phất bạch Phật:

–Bạch Đức Thế Tôn! Thế nào là Bồ-tát thân nghiệp bất tịnh, khẩu nghiệp bất tịnh, ý nghiệp bất tịnh? Phật dạy:

–Này Xá-lợi-phất! Nếu Đại Bồ-tát nghĩ rằng đây là thân, là miệng, là ý. Thấy có tướng dạng tác dụng như vậy thì gọi là thân, khẩu, ý bất tịnh.

Này Xá-lợi-phất! Lúc thực hành Bát-nhã ba-la-mật, Đại Bồ-tát chẳng thấy có thân, chẳng thấy có miệng, chẳng thấy có ý.

Nếu thấy có thân, khẩu, ý, thì do thấy có nên thân, khẩu, ý có thể sinh những tâm niệm tham lam, phạm giới, giận dữ, biếng trễ, tán loạn, ngu si. Phải biết Bồ-tát như vậy, lúc thực hành Bát-nhã bala-mật, chẳng có thể dứt trừ được nghiệp thô của thân, khẩu và ý.

Tôn giả Xá-lợi-phất bạch Phật:

–Bạch Đức Thế Tôn! Thế nào là Đại Bồ-tát dứt trừ nghiệp thô của thân, khẩu và ý?

Phật dạy:

–Nếu chẳng thấy có thân, khẩu, ý, Đại Bồ-tát này có thể dứt trừ nghiệp thô của thân, khẩu, ý.

Này Xá-lợi-phất! Nếu Đại Bồ-tát từ lúc mới phát tâm thực hành mười điều lành, chẳng sinh tâm Thanh văn, chẳng sinh tâm Bích-chi-phật, thì sẽ dứt trừ nghiệp thô của thân, khẩu, ý. Có Đại Bồ-tát lúc thực hành Bát-nhã ba-la-mật theo Phật đạo thanh tịnh, mà thực hành Bố thí, Trì giới, Nhẫn nhục, Tinh tấn và Thiền định ba-lamật, Bồ-tát này trừ được nghiệp thô của thân, khẩu, ý.

Tôn giả Xá-lợi-phất bạch Phật:

–Bạch Đức Thế Tôn! Thế nào là Phật đạo của Đại Bồtát?

Phật dạy:

–Này Xá-lợi-phất! Nếu chẳng thấy có thân, khẩu và ý, chẳng thấy có Bố thí, Trì giới, Nhẫn nhục, Tinh tấn và Thiền định và Bátnhã ba-la-mật, chẳng thấy có Thanh văn, Bích-chiphật, Bồ-tát và Phật, đó gọi là Phật đạo của Đại Bồ-tát. Chính đó có nghĩa là vì tất cả các pháp đều chẳng thật có.

Này Xá-lợi-phất! Có Đại Bồ-tát lúc thực hành sáu pháp Ba-lamật không ai hủy hoại được.

Tôn giả Xá-lợi-phất bạch Phật:

–Bạch Đức Thế Tôn! Thế nào là Đại Bồ-tát lúc thực hành sáu pháp Ba-la-mật không ai hủy hoại được? Phật dạy:

–Này Xá-lợi-phất! Nếu lúc thực hành Bát-nhã ba-la-mật, Đại Bồ-tát chẳng hề nghĩ rằng có sắc, thọ, tưởng, hành và thức; chẳng hề nghĩ rằng có nhãn, nhĩ, tỷ, thiệt, thân và ý; chẳng hề nghĩ rằng có sắc, thanh, hương, vị, xúc và pháp; chẳng nghĩ rằng có nhãn giới, nhĩ giới, tỷ giới, thiệt giới, thân giới, ý giới; sắc giới, thanh giới, hương giới, vị giới, xúc giới, pháp giới; nhãn thức giới, nhĩ thức giới, tỷ thức giới, thiệt thức giới, thân thức giới và ý thức giới; chẳng hề nghĩ rằng có bốn Niệm xứ, bốn Chánh cần, bốn Như ý túc, năm Căn, năm Lực, bảy Bồ-đề phần, tám phần Thánh đạo, chẳng nghĩ rằng có Bố thí ba la-mật, Trì giới ba-la-mật, Nhẫn nhục bala-mật, Tinh tấn ba-la-mật, Thiền định ba-la-mật, Bát-nhã ba-lamật; chẳng hề nghĩ rằng có mười Lực, bốn Vô úy, bốn Vô ngại trí, mười tám pháp Bất cộng; chẳng hề nghĩ rằng có quả Tu-đà-hoàn cho đến quả Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, thực hành tăng thêm lợi ích sáu pháp Ba-lamật như vậy thì không ai hủy hoại được.

Này Xá-lợi-phất! Có Đại Bồ-tát an trụ trong Bát-nhã balamật-đầy đủ trí tuệ, nhờ trí tuệ này mà không đọa vào đường ác, cũng chẳng sinh vào trong loài người tệ ác, nghèo cùng. Thân của Bồ-tát này chẳng bị hàng Trời, Người và Atu-la ghét bỏ.

Tôn giả Xá-lợi-phất bạch Phật:

–Bạch Đức Thế Tôn! Thế nào là trí tuệ của Đại Bồ-tát?

Phật dạy:

–Nhờ trí tuệ ấy mà Đại Bồ-tát thấy hằng sa chư Phật ở mười phương và cũng nghe Phật nói pháp, cùng thấy tăng chúng và thấy cõi Phật trang nghiêm thanh tịnh.

Do trí tuệ ấy mà Đại Bồ-tát chẳng nhớ nghĩ Phật, Bồtát, Bíchchi-phật, Thanh văn, cũng chẳng nhớ nghĩ về ngã và cõi nước.

Nhờ trí tuệ ấy mà Đại Bồ-tát thực hành Đàn-na cho đến Bátnhã ba-la-mật mà chẳng thấy có Bố thí đến Bát-nhã bala-mật, thực hành bốn Niệm xứ cho đến mười tám pháp Bất cộng mà chẳng thấy có bốn Niệm xứ đến mười tám pháp Bất cộng.

Trên đây gọi là trí tuệ của Đại Bồ-tát. Nhờ trí tuệ ấy mà Đại Bồ-tát đạt được đầy đủ tất cả pháp mà vẫn không thấy có tất cả pháp.

Này Xá-lợi-phất! Có Đại Bồ-tát lúc thực hành Bát-nhã ba-lamật mà thanh tịnh được Nhục nhãn, Thiên nhãn, Tuệ nhãn, Pháp nhãn và Phật nhãn. Đây cũng gọi là năm loại mắt thanh tịnh.

Tôn giả Xá-lợi-phất bạch Phật:

–Bạch Đức Thế Tôn! Thế nào là Nhục nhãn thanh tịnh của Đại Bồ-tát? Phật dạy:

–Này Xá-lợi-phất! Có Đại Bồ-tát với Nhục nhãn thấy xa trăm do-tuần, có vị thấy hai trăm do-tuần, có vị thấy toàn cõi Diêm-phùđề, có vị thấy hai cõi thiên hạ, hoặc ba, bốn cõi thiên hạ, có vị thấy khắp tiểu thiên thế giới hoặc thấy trung thiên thế giới, có Bồ-tát nhục nhãn thấy suốt tam thiên đại thiên thế giới. Đây là Nhục nhãn thanh tịnh của Đại Bồtát.

–Bạch Đức Thế Tôn! Thế nào là Thiên nhãn thanh tịnh của Đại Bồ-tát?

–Này Xá-lợi-phất! Có Đại Bồ-tát với Thiên nhãn thấy như Tứ Thiên vương đã thấy, hoặc như các vị trời Đao-lợi, như các vị trời Dạ-ma, như các vị trời Đâu-suất, như các vị trời Hóa lạc, như các vị trời Tha hóa, như các vị trời Phạm thiên vương cho đến như các vị trời Sắc cứu cánh đã thấy.

Thiên nhãn của Đại Bồ-tát lại thấy chúng sinh trong hằng sa thế giới, chết nơi đây sinh nơi kia. Chỗ thấy này, chư Thiên từ Tứ vương đến Sắc cứu cánh Thiên chẳng biết, chẳng thấy được và cũng chính là Thiên nhãn thanh tịnh của Đại Bồ-tát.

–Bạch Đức Thế Tôn! Thế nào là Tuệ nhãn thanh tịnh của Đại Bồ-tát?

–Này Xá-lợi-phất! Tuệ nhãn của Bồ-tát chẳng hề nghĩ rằng có pháp gì là hữu vi, là vô vi, là thế gian, là xuất thế gian, là hữu lậu, là vô lậu mà không pháp nào chẳng thấy, không pháp nào chẳng nghe, không pháp nào chẳng hay, không pháp nào chẳng biết. Đây là Tuệ nhãn thanh tịnh của Đại Bồ-tát.

–Bạch Đức Thế Tôn! Thế nào là Pháp nhãn thanh tịnh của Đại Bồ-tát?

–Này Xá-lợi-phất! Nhờ Pháp nhãn, Đại Bồ-tát biết người này là Tùy tín hành, người này là Tùy pháp hành, người này là Vô tướng hành, cũng biết người này tu môn giải thoát Không, người này tu môn giải thoát Vô tướng, người này tu môn giải thoát Vô tác; người này được năm Căn, nhờ có năm Căn mà được Tam-muội Vô gián, nhờ có Tam-muội Vô gián mà được trí giải thoát, nhờ có trí giải thoát mà dứt trừ ba kết sử là thấy có ngã, nghi, và giới thủ, người này gọi là được quả Tu-đà-hoàn. Người này được tư duy đạo làm giảm bớt tham, sân, si, được quả Tư-đà-hàm, người này tăng tấn tư duy đạo dứt tham, sân, si Dục giới, được quả Ana-hàm, người này tăng tiến tư duy đạo, dứt tham, si, mạn cõi Sắc, và cõi Vô sắc, được quả A-la-hán. Người này tu môn giải thoát không, vô tướng, vô tác được năm Căn, được Tam-muội Vô gián, nhờ Tam-muội Vô gián mà được trí giải thoát, nhờ có trí giải thoát mà rõ biết rất nhiều phiền não nghiệp nhân chứa nhóm đều là pháp vắng lặng, được quả Bíchchi-phật. Pháp nhãn thanh tịnh của Bồ-tát thấy biết như vậy.

Này Xá-lợi-phất! Nhờ có Pháp nhãn, Đại Bồ-tát biết người này là mới phát tâm Bồ-đề, thực hành sáu pháp Ba-la-mật, thành tựu Tín căn và Tinh tấn căn; người này thiện căn thuần thục, vì dùng năng lực phương tiện mà thọ thân để làm lợi ích cho chúng sinh; hoặc sinh vào dòng Sát-đế-lợi, hoặc sinh vào dòng Bà-la-môn, hoặc sinh vào dòng Cư sĩ, hoặc sinh lên tầng trời Tứ vương, trời Đao-lợi, trời Dạma, trời Đâu-suất, trời Hóa lạc, trời Tha hóa, thường giáo hóa thành tựu chúng sinh và cung cấp bố thí cho họ đầy đủ mọi thứ cần dùng, đồng thì làm thanh tịnh cõi Phật, cung kính cúng dường chư Phật, mãi đến đạo Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, chẳng rời vào hàng Thanh văn, Bích-chi-phật. Pháp nhãn thanh tịnh của Bồ-tát thấy biết như vậy.

Này Xá-lợi-phất! Nhờ Pháp nhãn mà Đại Bồ-tát biết vị Bồtát này thoái chuyển nơi đạo Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, vị Bồ-tát này không thoái chuyển, vị Bồ-tát này đã được thọ ký thành Phật, vị Bồ-tát này chưa được thọ ký, vị Bồ-tát này đã đến địa vị không thoái chuyển, vị Bồ-tát này chưa đến địa vị không thoái chuyển, cũng biết vị Bồ-tát này đã đầy đủ thần thông, vị này chưa đầy đủ thần thông, cũng biết vị này đầy đủ thần thông bay đến hằng sa thế giới ở khắp mười phương, cung kính, cúng dường chư Phật, cũng biết vị này chưa được thần thông rồi sẽ được thần thông, cũng biết vị này làm thanh tịnh cõi Phật, vị này chưa làm thanh tịnh cõi Phật, vị này thành tựu chúng sinh, vị này chưa thành tựu chúng sinh, vị này được chư Phật khen ngợi, vị này chưa được chư Phật khen ngợi, vị này hầu gần chư Phật, vị này không hầu gần chư Phật, vị này tuổi thọ vô số vô lượng, vị này tuổi thọ có số lượng, vị Bồ-tát này lúc thành Phật chúng Tỳ-kheo có số lượng, vị Bồ-tát này lúc thành Phật chúng Tỳ-kheo vô số lượng, vị này lúc thành Phật dùng Bồ-tát làm tăng, vị này không dùng Bồ-tát làm tăng, vị này tu hạnh khổ khó làm, vị này không tu hạnh khổ khó làm, vị này là Nhất sinh bổ xứ, vị này chưa phải là Nhất sinh bổ xứ, vị này thọ thân sau cùng, vị này chưa thọ thân sau cùng, vị này có khả năng ngồi đạo tràng, vị này chưa thể ngồi đạo tràng, vị này có phá ma, vị này chưa có phá ma. Những sự thấy biết này là Pháp nhãn thanh tịnh của Đại Bồ-tát.

–Bạch Đức Thế Tôn! Thế nào là Phật nhãn thanh tịnh của Đại Bồ-tát?

–Này Xá-lợi-phất! Đại Bồ-tát từ trong tâm cầu Phật đạo, thứ lớp nhập Tam-muội Kim cang được Nhất thiết chủng trí, bấy giờ thành tựu mười Lực, bốn Vô sở úy, bốn Vô ngại trí, mười tám pháp Bất cộng, đại Từ, đại Bi. Với Nhất thiết chủng trí, đối với tất cả pháp, không pháp nào chẳng thấy, chẳng nghe, chẳng hay, chẳng biết. Nên biết đây là Phật nhãn thanh tịnh lúc Đại Bồ-tát được Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác.

Này Xá-lợi-phất! Muốn được năm loại mắt thì phải học sáu pháp Ba-la-mật.

Vì sao? Vì trong sáu pháp Ba-la-mật bao gồm tất cả pháp lành, là pháp Thanh văn, pháp Bích-chi-phật, pháp Bồ-tát, và pháp Phật.

Này Xá-lợi-phất! Nếu có thật ngữ thâu nhiếp tất cả pháp lành thì chính đó là Bát-nhã ba-la-mật.

Này Xá-lợi-phất! Bát-nhã ba-la-mật làm phát sinh năm loại mắt. Bồ-tát học năm loại mắt thì được Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác.

Này Xá-lợi-phất! Có Đại Bồ-tát lúc thực hành Bát-nhã ba-lamật tu Thần thông ba-la-mật, do đấy được những việc như ý, như là làm rung chuyển mặt đất, biến một thân thành vô số thân, vô số thân hoàn lại một thân, hoặc ẩn hoặc hiện đều tự tại, đi qua vách núi, cây đá không chướng ngại, như đi trong hư không, đi trên mặt nước như đi trên đất bằng, đi trong không gian như chim bay, vào ra trong đất đá như trồi lặn trong nước, trong thân tuôn lửa, tuôn nước, như đống lửa to, như nước chảy trên núi tuyết, có thể đưa tay sờ mặt trời, mặt trăng, có thể chạm đến Phạm thiên, thân thường được tự tại. Dầu hiện những thần thông như ý mà Đại Bồ-tát này chẳng hề thấy có thần thông như ý, chẳng thấy có năng lực thần thông, cũng chẳng thấy có thân, tất cả đều chẳng thật có, vì tự tánh là không, vì tự tánh là lìa, vì tự tánh là không sinh. Chẳng hề nghĩ rằng ta được thần thông như ý, trừ tâm Phật.

Lúc thực hành Bát-nhã ba-la-mật, Đại Bồ-tát được Thần thông trí chứng như ý.

Này Xá-lợi-phất! Nhờ Thiên nhĩ thanh tịnh hơn tai người thường, Bồ-tát này nghe hai thứ tiếng: tiếng của cõi trời và tiếng của loài người. Dầu như vậy nhưng Bồ-tát này cũng chẳng thấy có Thiên nhĩ thần thông. Thiên nhĩ cùng âm thanh và thân mình đều chẳng thật có. Vì tự tánh là không, tự tánh là lìa, tự tánh là không sinh nên Bồ-tát này chẳng nghĩ rằng ta có Thiên nhĩ, trừ tâm Phật.

Lúc thực hành Bát-nhã ba-la-mật, Bồ-tát này được Thiên nhĩ thần thông trí chứng.

Này Xá-lợi-phất! Đại Bồ-tát này biết đúng như thật về tâm của các chúng sinh khác. Nếu là tâm dục, tâm sân, tâm si, tâm khát ái, tâm thọ, tâm tán, tâm loạn, tâm tiểu, tâm chẳng giải thoát, tâm hữu thượng thì Bồ-tát này biết đúng là tâm dục cho đến biết đúng là tâm hữu thượng. Nếu là tâm lìa dục, tâm lìa sân, tâm lìa si, tâm không khát ái, tâm vô thọ, tâm nhiếp phục, tâm định, tâm đại, tâm giải thoát, tâm vô thượng thì Bồ-tát này biết đúng là tâm lìa dục cho đến biết đúng là tâm vô thượng. Dầu biết đúng như thật nhưng Bồ-tát này chẳng thấy có các tâm ấy. Vì sao? Vì tâm ấy chẳng phải là tâm tướng, không thể nghĩ bàn. Vì tự tánh là không, vì tự tánh là lìa, vì tự tánh là không sinh, nên Bồ-tát này chẳng nghĩ rằng ta được Tha tâm trí chứng, trừ tâm Phật.

Lúc thực hành Bát-nhã ba-la-mật, Bồ-tát này được Tha tâm thần thông trí chứng.

Này Xá-lợi-phất! Đại Bồ-tát dùng Túc mạng trí chứng thần thông nhớ một ngày, một tháng, một năm, một kiếp cho đến nhớ vô số trăm ngàn muôn ức kiếp ta ở chỗ đó, tên họ đó, sinh hoạt ăn uống như vậy, sống bao lâu, chịu khổ hưởng vui như vậy, từ chỗ đó chết, sinh đến chỗ kia, từ chỗ kia chết, sinh đến chỗ đó, có tướng dạng, có nhân duyên như vậy. Dầu nhớ rõ như vậy nhưng Bồ-tát này chẳng mê đắm Túc mạng thần thông, việc túc mạng thần thông và thân mình, tất cả đều chẳng thật có. Vì tự tánh là không, vì tự tánh là lìa, vì tự tánh là không sinh, nên Bồ-tát này chẳng hề nghĩ rằng ta có Túc mạng thần thông, trừ tâm Phật.

Lúc thực hành Bát-nhã ba-la-mật, Đại Bồ-tát này được Túc mạng thần thông trí chứng.

Này Xá-lợi-phất! Đại Bồ-tát này dùng Thiên nhãn thấy các chúng sinh lúc sinh, lúc chết, thân đẹp hay xấu, chỗ ở tốt xấu, hoặc thân lớn hoặc thân nhỏ, cũng thấy các chúng sinh theo nhân duyên của nghiệp, có những chúng sinh vì nghiệp ác do thân, khẩu, ý gây ra nên hủy báng Hiền thánh, do nhân duyên tà kiến mà khi chết phải đọa vào cõi ác, đọa vào địa ngục, có những chúng sinh thân, khẩu, ý do nghiệp lành thành tựu mà kính tin Hiền thánh, nhờ nhân duyên chánh kiến mà khi chết được vào cõi lành, sinh lên các tầng trời. Dầu thấy biết như vậy mà Bồ-tát này chẳng thấy có Thiên nhãn, thần thông cùng năng lực Thiên nhãn thần thông và thân mình, tất cả đều không thật có, vì tự tánh là không, vì tự tánh là xa lìa, vì tự tánh là không sinh nên Bồ-tát này chẳng hề nghĩ rằng ta có Thiên nhãn thần thông, trừ tâm Phật.

Lúc thực hành Bát-nhã ba-la-mật, Đại Bồ-tát này được Thiên nhãn thần thông trí chứng.

Bồ-tát này cũng thấy rõ chúng sinh trong hằng sa thế giới ở mười phương, chết đây sinh kia, cho đến sinh lên các cõi trời, tất cả bốn thần thông đều có công năng thấu suốt như vậy. Đây là Lậu tận thần thông của Bồ-tát. Dù được Lậu tận thần thông mà Bồ-tát này chẳng rơi vào hàng Thanh văn, Bích-chi-phật, thẳng đến quả Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, vẫn chẳng dựa vào pháp nào khác ngoài Bát-nhã ba-lamật. Bồ-tát này cũng chẳng thấy có Lậu tận thần thông và năng lực Lậu tận thần thông và thân mình, tất cả đều chẳng thật có. Vì tự tánh là không, vì tự tánh là xa lìa, vì tự tánh là không sinh nên Bồ-tát này chẳng hề nghĩ rằng ta được Lậu tận thần thông, trừ tâm Phật.

Lúc thực hành Bát-nhã ba-la-mật, Đại Bồ-tát được Lậu tận thần thông trí chứng.

Này Xá-lợi-phất! Lúc thực hành Bát-nhã ba-la-mật, Đại Bồ-tát đầy đủ Thần thông ba-la-mật, nhờ đó mà quả Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác được thêm lớn.

Này Xá-lợi-phất! Có Đại Bồ-tát lúc thực hành Bát-nhã ba-lamật, an trụ trong Bố thí ba-la-mật để làm thanh tịnh Nhất thiết chủng trí, vì rốt ráo là không, nên chẳng sinh tâm bỏn sẻn.

Này Xá-lợi-phất! Có Đại Bồ-tát lúc thực hành Bát-nhã ba-lamật an trụ trong Trì giới ba-la-mật để làm thanh tịnh Nhất thiết chủng trí, vì rốt ráo là không, nên chẳng vướng mắc nơi có tội và chẳng tội.

Này Xá-lợi-phất! Có Đại Bồ-tát lúc thực hành Bát-nhã ba-lamật an trụ trong Nhẫn nhục ba-la-mật để làm thanh tịnh Nhất thiết chủng trí, vì rốt ráo là không, nên chẳng sân hận. Này Xá-lợi-phất! Có Đại Bồ-tát lúc thực hành Bát-nhã ba-lamật an trụ trong Tinh tấn ba-la-mật để làm thanh tịnh Nhất thiết chủng trí, vì rốt ráo là không, nên thân tâm tinh tấn, chẳng biếng nhác.

Này Xá-lợi-phất! Có Đại Bồ-tát lúc thực hành Bát-nhã ba-lamật an trụ trong Thiền định ba-la-mật để làm thanh tịnh Nhất thiết chủng trí, vì rốt ráo là không, nên chẳng loạn động, chẳng mê đắm thiền vị.

Này Xá-lợi-phất! Có Đại Bồ-tát lúc thực hành Bát-nhã ba-lamật an trụ trong Bát-nhã ba-la-mật để làm thanh tịnh Nhất thiết chủng trí, vì rốt ráo là không, chẳng sinh tâm ngu si.

Này Xá-lợi-phất! Đại Bồ-tát lúc thực hành Bát-nhã bala-mật an trụ trong sáu pháp Ba-la-mật như vậy để làm thanh tịnh Nhất thiết chủng trí, vì rốt ráo là không, vì chẳng đến chẳng đi, vì chẳng bố thí chẳng thọ nhận, vì chẳng phải giới cấm, chẳng phải phạm tội, vì chẳng phải nhẫn nhục chẳng phải sân hận, vì chẳng phải siêng năng chẳng phải lười biếng, vì chẳng phải định tĩnh chẳng phải tán loạn, vì chẳng phải trí tuệ chẳng phải ngu si.

Bấy giờ, Đại Bồ-tát chẳng phân biệt bố thí và chẳng bố thí, chẳng phân biệt trì giới và phạm giới, chẳng phân biệt nhẫn nhục và sân hận, chẳng phân biệt tinh tấn và biếng trễ, chẳng phân biệt trí tuệ và ngu si, chẳng phân biệt hủy hoại khinh mạn và cung kính, tôn trọng.

Vì sao? Vì trong pháp không sinh chẳng có ai lãnh thọ sự phá hủy, chẳng có ai lãnh thọ sự làm hại, chẳng có ai lãnh thọ sự khinh mạn, cung kính.

Này Xá-lợi-phất! Thực hành Bát-nhã ba-la-mật, Đại Bồ-tát được những công đức như vậy, Thanh văn và Bích-chi-phật không có được những công đức này. Do đó, Đại Bồ-tát đầy đủ các thứ thành tựu cho chúng sinh, làm thanh tịnh cõi Phật, được Nhất thiết chủng trí.

Này Xá-lợi-phất! Lúc thực hành Bát-nhã ba-la-mật, đối với tất cả chúng sinh, Đại Bồ-tát sinh tâm bình đẳng. Đã sinh tâm bình đẳng đối với tất cả chúng sinh, nên Bồ-tát được tất cả pháp bình đẳng. Đã được tất cả pháp bình đẳng, thì

Bồ-tát đặt để tất cả chúng sinh trong pháp bình đẳng đó.

Đại Bồ-tát này hiện đời được chư Phật ở mười phương yêu mến, cũng được tất cả Bồ-tát, Bích-chi-phật, Thanh văn kính trọng.

Bất luận thọ sinh ở chỗ nào, Đại Bồ-tát này, trong nhãn căn chẳng thấy có sắc, cũng chẳng ái sắc, cho đến trong ý căn chẳng biết có pháp, cũng chẳng ái pháp.

Này Xá-lợi-phất! Đại Bồ-tát thực hành Bát-nhã ba-lamật như vậy chẳng hề làm tổn giảm đạo quả Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác.

Lúc Đức Phật giảng nói phẩm Bát-nhã ba-la-mật này, trong pháp hội có ba trăm Tỳ-kheo đứng dậy, dâng y mình mặc cúng dường Đức Phật và phát tâm Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác.

Đức Phật mỉm cười, từ miệng Phật phát ra những tia sáng nhiều màu.

Tôn giả A-nan liền đứng dậy sửa y phục, quỳ thẳng, chắp tay, gối phải chấm đất, bạch Phật rằng:

–Vì duyên cớ gì mà Đức Phật mỉm cười? Phật dạy:

–Này A-nan! Sáu mươi mốt kiếp sau, ba trăm Tỳ-kheo này sẽ thành Phật, hiệu là Đại Tướng. Sau khi bỏ thân này, ba trăm Tỳ-kheo ấy sẽ sinh về cõi nước của Đức Phật A-súc, cùng với sáu vạn Thiên tử nơi cõi Dục đồng phát tâm Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, sẽ xuất gia tu hành Phật đạo trong chánh pháp của Đức Phật Di-lặc.

Bấy giờ, do oai thần Phật mà bốn chúng trong pháp hội thấy được ngàn Đức Phật ở các phương trong mười phương, cõi nước trong mười phương ấy đều trang nghiêm thanh tịnh hơn cõi Ta-bà này. Có mười ngàn người phát nguyện tu tịnh hạnh để sinh về thế giới của chư Phật đó.

Đức Phật biết tâm nguyện của các thiện nam này nên lại mỉm cười, từ miệng Phật phát ra những tia sáng.

Tôn giả A-nan bạch Phật hỏi duyên cớ.

Phật dạy:

–Mười ngàn vị ấy sẽ sinh về các thế giới ở khắp mười phương, mãi không lìa chư Phật, về sau đều sẽ thành Phật, đồng hiệu là Như Lai Trang Nghiêm Vương.