Nói về Pháp Bố thí tới Niết Bàn
Nam mô A Di Đà Phật.
Pháp Bố thí tới Niết Bàn được Phật nói trong Kinh Bố thí và trong hầu hết các Kinh khác. Bài này chỉ là tập hợp, tóm lược lại các Kinh đã được Phật nói.
Từ Kinh Pháp Bậc nhỏ Thanh Văn Duyên Giác đến Pháp Bậc Phật, đều nói về việc Bố thí và công Đức của Bố thí. Ở đây chỉ nói sơ lược các mục chính, đã được Phật nói giảng trong các Kinh. Người làm Bố thí sẽ được công Đức. Do có công Đức cho nên được báo đáp ở đời Hiện tại và đời Tương lai.
Người giàu sang phú quý, được quan tước bổng lộc và có địa vị khác trong xã hội, được của cải nhà đất, tiền vật Súc vật kho tàng, các loại xe, phương tiện đi lại, được người coi trọng dâng hiến, biếu tiền vật của cải.. Thậm chí được làm Vua ở cõi Nhân gian. Đều do Bố thí làm thiện ở đời trước mà được thành quả.
Người nghèo khổ bần hàn là người đời trước không làm Bố thí. Đời hiện nay cũng không thể làm Bố thí. Thậm chí người ăn mày là người đời trước giàu có, nhưng keo kiệt không dám ăn mặc cho bản thân, cho nên cũng không Bố thí bất cứ cái gì cho ai, kể cả Cha mẹ vợ con cũng không cho. Chết rơi xuống Địa ngục Quỷ đói súc sinh. Đời nay sinh ra là người ăn mày.
Pháp Bố thí tới Niết Bàn có ba loại. Gọi là Bố thí tiền vật chất, Bố thí không sợ hãi, Bố thí Pháp.
Bố thí tiền vật chất.
Pháp Bố thí tiền vật chất có : Bố thí bên ngoài thân, Bố thí bên trong thân và Bố thí bên trong ngoài thân.
Bố thí bên ngoài thân.
Là ban cho người khác tiền, vật, đồ vật, quần áo giày dép, thức ăn gạo muối dầu đèn, thuốc uống, đồ ngủ như chăn màn giường chiếu, xe phương tiện đi lại, đồ vật tư trang, đồ dùng hàng ngày, cho các vật báu như vàng bạc lưu ly pha lê xa cừ mã não. Đây là các loại có thể dễ dàng ban cho. Do họ tự có, là vật bên ngoài thân. Thậm chí ban cho vợ con quyến thuộc, chức vụ ngôi vị, kể cả ngôi Vua, nếu có người tới xin. Đây là loại khó ban cho người khác. Là Bố thí bên ngoài thân nhưng có liên quan mật thiết đến bản thân người Bố thí.
Bố thí bên trong thân.
Là ban cho người khác các chi tiết của bản thân như đầu, mắt tai mũi lưỡi răng, tim gan thận phổi, dạ dày lá lách ruột, chân tay chi khớp. Thậm chí ban cho tính mệnh, nếu có người tới xin. Đây là khó Bố thí nhất. Cho nên cũng được công Đức lớn nhất.
Bố thí bên trong bên ngoài.
Là người ban cho người khác các vật bên ngoài thân và bên trong thân như được nói ở trên.
Bố thí không sợ hãi.
Là môn Pháp Bố thí có liên quan đến giữ Giới hạnh. Gồm có : Không làm cho chúng sinh sợ hãi, không làm cho chúng sinh buồn phiền, không làm cho chúng sinh quá vui mừng. Vì ba việc này đều làm cho chúng sinh không kiểm soát được hành vi, hay dẫn đến tai họa đáng tiếc.
Không làm cho chúng sinh sợ hãi.
Như giết hại, băm thái, chế biến, nấu nướng, buôn bán, vận chuyển, ăn thịt chúng sinh. Đánh đập, quát mắng, xua đuổi, tra khảo, chèn ép áp chế, trừng phạt chúng sinh như không cho ăn uống, nhốt giam hãm, gông cùm xiềng xích..
Không làm cho chúng sinh buồn phiền.
Như chê không đúng lúc, không đúng cách, không đúng nơi. Không biết dùng Phương tiện lựa lời mà nói. Nói cường điệu, nói quá lời, nói không đúng sự thực, nói bông đùa, nói lời vô nghĩa, nói lời ly gián, nói lời độc ác, nói lời oan trái, nói có thành không.. Kể cả xem tướng tính số, xem bói xem quẻ, bùa chú, ảo thuật làm cho chúng sinh buồn..
Không làm cho chúng sinh quá vui mừng.
Như nói không thành có, sai nói thành đúng, xấu nói thành đẹp, có tốt ít nói thành tốt nhiều, có họa nói thành Phúc, có đen nói thành trắng, có ít nói thành nhiều, có nhỏ nói thành lớn.. Khuyên khích lệ chúng sinh ăn uống quá mức, uống bia rượu hút thuốc lá. Ăn các rau độc của Thế gian, như hành tỏi hành tây kiệu hẹ..
Chủ Bố thí có thể là tự mình Bố thí, hoặc giúp cho người khác như Cha mẹ vợ chồng con cháu làm Bố thí. Nếu tự làm Bố thí cần theo Pháp Bố thí tới Niết Bàn mà thực hiện. Nếu lại muốn giúp cho người khác có tiền vật Bố thí, để họ có công Đức. Trong trường hợp này nên đưa tiền vật chất cho người cần làm Bố thí cầm giữ và khuyên họ tự mang đi Bố thí. Người tự mang đi Bố thí này mới có công Đức. Nếu tự lấy tiền vật chất của bản thân đem đi, thay mặt họ làm Bố thí mà người cần làm Bố thí không biết. Đây chỉ là giả danh Bố thí. Không phải là Bố thí thực. Trường hợp chủ Bố thí không tự đi được, thì họ phải phát tâm Bố thí và phải nói ra lời nhờ làm giúp. Người làm giúp cũng thực hiện Bố thí theo Pháp Bố thí tới Niết Bàn để có được công Đức lớn nhất. Đây cũng coi là làm Bố thí.
Bố thí Pháp.
Bao gồm viết chép in ấn quyển Kinh, phân phát lưu chuyển sách Kinh. Đọc nói giảng giải các Kinh. Vẽ in điêu khắc tượng Phật Bồ Tát. Xây dựng mới, tu sửa điện miếu Chùa Tháp, Nhà ở của chúng Tăng. Dùng các Phương tiện khác như : Đọc nghĩ nhớ tên hiệu Phật, chắp tay lễ bái, phục đất đỉnh lễ, cung kính cúng dưỡng ca ngợi Phật, đốt hương đèn nến, hương hoa kĩ nhạc, lễ vật cúng dưỡng Phật Pháp Tăng. Cần đọc Phẩm Tự thuật và Phẩm Phương tiện, được Phật nói trong Kinh Hoa Sen Pháp vi diệu, để biết các cách cúng dưỡng Bố thí tu học Phật Pháp. Theo Pháp đốt một đốt ngón tay, một cánh tay, thậm chí đốt cả thân cúng dưỡng Phật Pháp, được Phật nói trong Phẩm Việc làm Trước kia của Dược Vương Bồ Tát, trong Kinh Hoa Sen Pháp vi diệu. Theo Pháp Trở về nương theo Phật Pháp Tăng trong Kinh Tốt nhất không sánh. Theo Pháp phát tâm Phật Bồ Đề trong Phẩm Công Đức của Bồ Tát mới phát tâm trong Kinh Hoa Nghiêm. Theo Pháp tu giữ mười Pháp tới Niết Bàn. Theo Pháp tùy nghi nói Pháp giáo hóa chúng sinh. Theo Pháp nghĩ nhớ Chúng sinh mười Cõi Pháp mười phương. Theo Pháp cầu sám hối, phát nguyện, hồi hướng. Theo Pháp giúp đỡ người chết nhớ sinh về Tây phương. Theo Pháp thực hiện phóng thả các loại sinh linh. Theo Pháp cầu siêu tế độ chân linh chúng sinh. Theo Pháp cầu đảo bệnh cho chúng sinh. Đặc biệt là đảo bệnh cầu siêu thoát cho chúng sinh khó sống, đang ở trong cảnh trường thọ tội. Theo Pháp cầu bình yên, cầu giải oan kết cho chúng sinh..
Trong ba loại Bố thí thì Bố thí tiền vật chất được công Đức thấp nhất, sau đó đến Bố thí không sợ hãi, lớn nhất là Bố thí Pháp và Bố thí bên trong thân. Do vậy trong các Kinh, ví như Kinh Nghìn Phật Quá khứ Kiếp Trang Nghiêm. Kinh viết.
Nếu có người nam thiện, người nữ thiện, nghe tên hiệu các Phật Thế Tôn Ba Đời ba Kiếp. Vui mừng tin yêu thích, đọc tên ca ngợi, theo về đỉnh lễ. Lại hay viết chép, vì người khác nói, hoặc hay vẽ tạo hình tượng Phật, hoặc hay cúng dưỡng hương hoa kĩ nhạc, ca ngợi công Đức của Phật, chí tâm kính lễ. Vượt hơn việc dùng châu báu ngọc quý chứa đầy các đất Phật mười phương, chứa tới Trời Phạm trong trăm nghìn Kiếp Bố thí. Các người nam thiện người nữ thiện đó, đã từng cúng dưỡng các Phật như thế. Nơi sinh đời sau trợ giúp các Phật, thậm chí làm Phật. Mà không tận cùng, đều đang được quyết định truyền bậc Phật trong Ba Đời ba Kiếp, ở nơi được sinh, thường gặp Phật Pháp Tăng, được sinh tại Đất nước các Phật. Sáu Tình đầy đủ, không đọa tám nạn, đang được ba mươi hai Tướng, tám mươi diện mạo đẹp của các Phật, đầy đủ trang nghiêm.
Đọc nghĩ nhớ tên hiệu Phật là Mẹ công Đức của tất cả các loại công Đức. Do vậy cần phải đọc nhớ Kinh tên hiệu của các Phật như : Kinh Bảy Phật, Kinh Năm mươi ba Phật, Kinh Ba mươi năm Phật, Kinh Tên hiệu một trăm Phật Hiện tại mười phương, Kinh Kiếp Hiền phần tên hiệu một nghìn Phật, Kinh Nghìn Phật Quá khứ Kiếp Trang Nghiêm, Kinh Nghìn Phật Hiện tại Kiếp Hiền, Kinh Nghìn Phật Tương lai Kiếp Tinh Tú, Kinh Một nghìn năm trăm Phật Hiện tại mười phương, Kinh Năm nghìn năm trăm Phật, Kinh Tên hiệu Phật hay là Kinh Vạn Phật và một số Kinh khác. Kinh Tên hiệu Phật do bốn Bộ Kinh hợp lại: Kinh Tám nghìn chín trăm mười tên hiệu Phật, Kinh Sám nguyện, Kinh Bảo Đạt hỏi đáp báo ứng Sa Môn, Kinh Giáo hóa báo ứng Địa ngục. Các Kinh này đã được dịch và đăng ở trên mạng: Bùi Đức Huề
Pháp đọc nghĩ nhớ tên hiệu A Di Đà Phật được sinh về Tây Phương Cự Lạc chính là theo lý này.
Bí quyết của Pháp Bố thí tới Niết Bàn.
Theo Pháp Bố thí này người Bố thí không vì cầu báo đáp mà làm Bố thí, không cần biết người nhận Bố thí, không trông thấy người nhận Bố thí, không cần người khác biết người chủ Bố thí, không cần lưu lại tên người Bố thí, không cần lấy giấy nghi công Đức, không trông thấy người chủ Bố thí. Người Bố thí không giữ lại, không nương nhờ công Đức của Bố thí. Tất cả công Đức Bố thí đều hồi hướng cho tất cả chúng sinh. Tất cả Phúc Đức Trí tuệ Căn thiện có được, đều hồi hướng cho chúng sinh.
Có người làm Bố thí rất nhiều nhưng được công Đức lại rất ít. Do họ làm Bố thí có mục đích vì cầu tiền tài danh vọng cho bản thân. Họ không làm Bố thí theo Pháp Bố thí tới Niết Bàn. Họ giữ lấy nương nhờ tất cả Phúc Đức Trí tuệ Căn thiện có được cho bản thân.
Có người làm Bố thí rất ít nhưng lại được công Đức rất nhiều. Do họ biết làm Bố thí theo Pháp Bố thí tới Niết Bàn. Hồi hướng tất cả công Đức cho chúng sinh. Tất cả Phúc Đức Trí tuệ Căn thiện đều hồi hướng cho chúng sinh. Họ không giữ nương nhờ Phúc Đức Trí tuệ Căn thiện cho bản thân. Người Bố thí cũng biết hồi hướng Phúc Đức Trí tuệ Căn thiện cho chúng sinh. Phúc Đức Trí tuệ Căn thiện của chủ Bố thí không mất đi, mà còn tăng lên gấp bội.
Người làm Bố thí theo Pháp Bố thí tới Niết Bàn cần sử dụng tâm Đại Bi, tâm Vui mừng, tâm làm Bố thí lớn, tâm vứt bỏ lớn. Không tham tiếc nương nhờ tiền tài vật chất thậm chí thân mệnh.
Thế gian có ba loại người chưa thỏa mãn với Có được của họ. Đây chính là hiểm họa cho chúng sinh, cho bản thân họ, cho gia đình, cho xã hội và cho Đất nước.
Một là người được tất cả, từ tiền vật tài sản nhà cửa, gia đình vợ con quyến thuộc, thậm chí công danh quyền thế, địa vị xã hội, đều cùng được hết. Nhưng chưa thỏa mãn những gì đã được.
Hai là người được chút ít vật tài sản nhà cửa, gia đình vợ con quyến thuộc, thậm chí công danh quyền thế, địa vị xã hội. Nhưng chưa thỏa mãn cái họ có được.
Ba là người mất tất cả, từ tiền vật, thậm chí công danh quyền thế địa vị xã hội, đều cùng không được. Nhưng không chịu tích Đức tu thiện.
Người được tất cả : Là người nhiều đời trước đã tu Pháp Bố thí. Do công Đức Bố thí của nhiều đời trước mà được quả báo tốt ở đời hiện nay. Người này phải biết, được thành quả hiện nay là do mình đã tu thiện ở các đời trước tích lại. Nên đời này cần phải tiếp tục tu thiện để tăng thêm quả thiện ở đời này và đời sau. Tu thiện bằng cách như nói ở trên. Có tiền vật chỉ nên giữ lại một phần còn đem Bố thí tạo công Đức cho đời này và đời sau. Có quyền thế cần cố gắng khoan sức dân, đừng đưa dân tới đường cùng, thương dân chúng đặc biệt là thương người mất tất cả. Có quyền cần tu thiện để được quyền thiện cao hơn, tu ác sẽ được quyền ác nhanh suy bại mất quyền. Có quyền cũng không nên dùng quyền để kiếm tiền bằng mọi cách, làm tổn hại công Đức của đời trước, mất công Đức ở đời này và không còn công Đức để dành cho đời sau. Được lộc do có quyền cũng cần chia sẻ cho mọi người, chính là để Bố thí tu thiện. Người được tất cả, nếu thực hành Bố thí, làm thiện được nói ở trên, thì họ đời đời kiếp kiếp được hưởng công Đức thiện đó.
Người được chút ít : Là đời trước họ có tu Bố thí, tu thiện nhưng công Đức Bố thí nhỏ, cho nên được quả báo ít. Do chưa thỏa mãn tham muốn của bản thân. Vì thế thường hay thân thiết với người được tất cả, để kiếm danh lợi và áp chế người mất tất cả. Hoặc lại liên kết với người mất tất cả, kích động bạo lực chia rẽ, thậm chí gây chiến tranh, nội chiến huynh đệ tương tàn, để đoạt lấy danh lợi. Nếu họ tự biết bản thân, tích Đức tu thiện, chắc là được thành quả tốt hơn.
Người mất tất cả : Họ cũng cần phải biết, là do tại bản thân đời trước keo kiệt, không Bố thí không tu thiện. Đời này phải cố gắng tu thiện tích lũy công Đức. Người nghèo chỉ có thể dùng tâm thiện của mình để Bố thí tu thiện. Dùng cách Bố thí không sợ hãi và Bố thí Pháp mà tu. Như không tranh đấu tranh giành, không kích động dẫn tới bạo lực, giảm bớt ghen ghét đố kị, giảm bớt nói lời ngông cuồng, nói lời xảo trá siểm nịnh, nói lời độc ác vô nghĩa, giảm bớt tham muốn thù giận ngu si, bằng lòng với gì mình đang có. Nên Trở về nương theo Phật Pháp Tăng, dùng hương giữ Giới, hương Yên định, hương Trí tuệ, hương Giải thoát, hương Giải thoát thấy biết có sẵn trong tâm của mỗi người mà cúng dưỡng Phật. Đọc nghĩ nhớ tên hiệu Phật, Kinh Pháp, chắp tay cung kính đỉnh lễ Phật cũng là Bố thí, nói kể lại Pháp Phật cho người khác nghe cũng là Bố thí. Cần dựa vào lực uy Thần của Phật mà Tinh tiến thực hành. Nhất định sẽ được kết quả ngày càng tốt hơn. Cứ như vậy mà dần dần tăng tiến. Người nghèo tu thiện dễ hơn so với người giàu.
Người được tất cả và người mất tất cả luôn luôn tranh đấu với nhau bằng mọi cách. Người mất tất cả thường bị người được chút ít, có khi bị người được tất cả lợi dụng lôi kéo, chia rẽ xúi dục lừa gạt, gây ra chiến tranh chinh phạt, huynh đệ tương tàn, thậm chí đưa Quốc gia dân tộc vào tai họa, bị Nước ngoài xâm lăng nô dịch, cảnh Nước mất nhà tan, gây ra tổn hại cho sinh linh, chúng sinh xã hội, tự làm hại mình và làm hại người khác. Thậm chí người nghèo khổ càng manh động sẽ càng khổ hơn. Giống con chim, con cá nhốt ở trong lồng, càng quẫy mạnh càng được nhiều rụng lông tróc vẩy. Do họ không hiểu rõ nguồn gốc sâu xa, dẫn đến cuộc sống hiện tại của họ. Hai loại người này cần phải biết, để có hành vi đối xử cho ôn hòa phù hợp, cho đúng Đạo lý.
Người đời dù là giàu hay nghèo, là có quyền thế hay không có quyền thế. Tất cả đều do việc làm của đời trước, mà chuyển tới đời này. Không có Trời đất Thánh Thần Tiên Phật nào, tự nhiên đem tới cho họ cả. Cầu xin công Đức thiện ngoại trừ Phật Bồ Tát, thì hiếm người cho. Nhưng nếu vừa phát tâm làm thiện, liền được Lực uy Thần Phúc Đức Trí tuệ của các Phật Bồ Tát trợ giúp, khiến cho nhanh thành công, được thiện hơn tốt hơn mà được Giải thoát và được thành Phật. Làm ác thì chẳng cần cầu. Rất nhiều Ma Quỷ sẽ tự tới giúp và giúp tận tình, giúp bằng mọi cách, để cho nhanh thành ác hơn. Kết quả là rơi xuống Đạo Ma. Sống làm việc Ma, nhanh tới suy bại. Chết làm Đệ tử của Vua Ma. Hết công Đức của Đạo Ma, rơi xuống Địa ngục Vô gian không có ngày ra.
Nếu tu được Pháp Bố thí tới Niết Bàn, liền thành Bồ Tát bậc một thấp nhất, tên là Vui Mừng và thường làm Vua Nhân gian. Pháp Bố thí tới Niết Bàn cũng là Pháp đầu tiên, công Đức năng lực Trí tuệ thấp nhất, trong số mười Pháp tới Niết Bàn.
Bồ Tát dừng ở Bậc Vui Nhất, dùng mười nguyện làm hàng đầu. Sinh ra như thế cùng với trăm vạn A tăng kì nguyện lớn. Dùng mười Pháp không thể hết mà sinh nguyện đó. Được đầy đủ nguyện này, siêng thực hành Tinh tiến. Thế nào là mười ?
Một là Chúng sinh không thể hết tận, hai là Thế gian không thể hết tận, ba là khoảng không không thể hết tận. Bốn là tính Pháp không thể hết tận, năm là Niết Bàn không thể hết tận, sáu là Phật ra đời không thể hết tận. Bảy là Trí tuệ của các Phật không thể hết tận, tám là tâm Duyên không thể hết tận, chín là Trí tuệ phát ra không thể hết tận. Mười là loại Đạo Thế gian, loại Đạo Pháp, loại Đạo Trí tuệ không thể hết tận. Như chúng sinh hết tận, nguyện của bản thân mới hết tận, như Thế gian hết tận, như khoảng không hết tận. Như tính Pháp hết tận, như Niết Bàn hết tận, như Phật ra đời hết tận, như Trí tuệ của các Phật hết tận. Như tâm Duyên hết tận, như phát ra Trí tuệ hết tận, như loại Đạo hết tận, nguyện của bản thân mới hết tận. Mà các chúng sinh thực không thể hết tận, Thế gian trống rỗng, tính Pháp Niết Bàn, Phật hiện ra đời. Trí tuệ của các Phật, tâm Duyên phát ra loại Đạo Trí tuệ, thực không thể hết tận. Bản thân các nguyện Phúc Đức cũng không thể hết tận.
Bồ Tát quyết định phát nguyện lớn đó. Chắc là được tâm lợi ích yên ổn, tâm mềm mại, tâm thuận theo, tâm thiện. Tâm Rỗng lặng, tâm hòa thuận, tâm ngay thẳng, tâm không loạn, tâm không quấy rối, tâm không ác đục. Như thế chắc là thành Tín đồ. Tâm vui thích cùng tin phân biệt công Đức. Tin Đạo làm được trước kia của các Phật, Tin thực hành các Pháp tới Niết Bàn mà được tăng cao. Tin hay nhập vào các Bậc được công Đức rất tốt, tin được thành công mười lực của Phật. Tin đầy đủ bốn không sợ hãi, tin Không cùng Pháp không thể tan hoại. Tin Pháp của các Phật không thể nghĩ bàn, tin lực của các Phật không có trung gian không có giới hạn, Tin vô lượng môn thực hành của các Như Lai. Tin từ Nhân quả mang theo quả báo, chỉ nói ra điểm chính. Tin các Bồ Tát rộng thực hành uy Thần lực công Đức Trí tuệ của các Phật.
Bồ Tát đó biết tất cả sinh ra Bậc Pháp Thanh tịnh như thế. Gọi là tin Từ, Bi, Hỉ, Xả không mệt mỏi, biết các Kinh sách. Hay hiểu Pháp Thế gian, hổ thẹn lực kham nhận, cúng dưỡng các Phật, thực hành như nói. Mới lại Bồ Tát đó dừng ở Bậc Vui Nhất, bởi do phát nguyện. Rộng thấy được các Phật, số trăm số nghìn số vạn trăm triệu Na do tha Phật. Khi Bồ Tát thấy các Phật, tâm rất vui mừng, tâm thâm sâu kính trọng yêu quý. Mang các dụng cụ vui thích của Bồ Tát, cúng dưỡng các Phật, cùng với cúng dưỡng Tăng. Đem Phúc Đức đó đều hồi hướng Bình Đẳng Chính Đẳng Giác. Bồ Tát đó nhân do cúng dưỡng các Phật. Sinh ra Pháp giáo hóa chúng sinh, phần nhiều dùng hai hút lấy, hút lấy chúng sinh. Gọi là Bố thí, lời nói êm dịu. Sau hai Pháp hút lấy, chỉ dùng lực tin hiểu, thực hành chưa dễ thông suốt. Bồ Tát đó thuận theo được cúng dưỡng các Phật, giáo hóa chúng sinh. Đều có thể nhận thực hành Pháp Bậc Thanh tịnh. Các công Đức như thế đều tự nhiên hồi hướng về Tất cả loại Trí tuệ. Chuyển đổi lợi ích sáng tỏ, chịu nhận có tác dụng. Ví như Phật Tử là thầy luyện chế tác vàng. Tùy theo dùng sức nóng của lửa, điều chỉnh có thể sử dụng ánh sáng tăng ích lợi. Bồ Tát như thế tùy theo cúng dưỡng các Phật, giáo hóa chúng sinh. Nhận thực hành Pháp của các Bậc Thanh tịnh. Các công Đức này đều tự nhiên hồi hướng về Tất cả loại Trí tuệ. Chuyển đổi lợi ích sáng tỏ, tùy ý sử dụng.
Bồ Tát Bồ Tát lớn ở trong Bậc một, được quả tướng mạo. Cần tới nơi ở của các Tri thức thiện Phật Bồ Tát, thỉnh cầu thăm hỏi thêm. Thành công Pháp Bậc một, không nên chán bỏ, Bồ Tát đó ở lại trong Bậc một. Cần ở nơi ở của các Phật Bồ Tát Tri thức thiện, thỉnh cầu thăm hỏi. Ở trong Bậc hai được quả báo tướng mạo đầy đủ không có nhàm chán. Như thế ở trong Bậc thứ ba, Bậc thứ tư Bậc thứ năm, Bậc thứ sáu Bậc thứ bảy, Bậc thứ tám Bậc thứ chín, Bậc thứ mười, được quả tướng mạo. Cần tới nơi ở của các Phật Bồ Tát Tri thức thiện, thỉnh cầu thăm hỏi thêm. Được Pháp mười Bậc, không có nhàm chán.
Bồ Tát đó hay biết ưng theo Pháp thuận nghịch của các Bậc. Hay biết thành hỏng của các Bậc, hay biết tướng mạo nhân quả của các Bậc. Hay biết các Bậc được vứt bỏ, hay biết phần hạnh Thanh tịnh của các Bậc. Hay biết các Bậc từ Bậc một tới hạnh Bậc một, hay biết các Bậc nơi đó nơi đó sai. Hay biết chuyển đổi nơi ở của các Bậc, hay biết việc trước việc sau sai khác của các Bậc. Hay biết được tướng Không chuyển lui của các Bậc. Thậm chí hay biết Pháp Bậc Thanh tịnh của tất cả Bồ Tát. Hay biết nhập vào Bậc Trí tuệ của Như Lai.
Các Bồ Tát như thế. Hay biết tướng các Bậc, chưa phát ra Bậc một thậm chí Bậc mười, biết không có trở ngại. Do được Quang sáng Trí tuệ của các Bậc, có thể được Quang sáng Trí tuệ của các Phật. Như chủ buôn lớn cùng với nhiều lái buôn, muốn tới thành lớn, trước tiên cần hỏi thăm đường đi. Trở về qua lối cũ, lợi hại trên đường đi. Chưa ra khỏi nơi ban đầu, biết lúc ngủ đêm trên đường. Thậm chí biết việc tới thành đó, có thể dùng Trí tuệ, tư duy tiên lượng. Đầy đủ tư trang vật dụng, giúp cho không mệt mỏi. Mọi người đi đúng đường tới được thành lớn. Ở trong đường hiểm miễn trừ các hoạn nạn. Bản thân cùng mọi người đều không lo âu Phiền não.
Bồ Tát Bồ Tát lớn cũng lại như thế. Dừng ở Bậc một mà hay biết Pháp thuận nghịch của các Bậc. Thậm chí hay biết Thanh tịnh Bậc Pháp Thanh tịnh của tất cả Bồ Tát. Hay biết nhập vào Bậc Trí tuệ của Như Lai. Khi đó Bồ Tát tập hợp lương thực Trí tuệ Phúc Đức lớn, làm người chủ buôn của chúng sinh. Tùy nghi giáo hóa, giúp ra ngoài nơi ác nạn hiểm sinh chết, tỏ ra đường đi yên ổn. Thậm chí giúp cho dừng ở thành lớn của Tất cả loại Trí tuệ, không có các suy bại não loạn. Bồ Tát Bồ Tát lớn thường ưng thuận, tâm không mệt mỏi siêng tu hành hạnh trước kia của các Bậc. Thậm chí hay biết nhập vào Bậc Trí tuệ của Như Lai.
Tên là nói sơ lược Bồ Tát Bồ Tát lớn nhập vào môn Bậc Vui Nhất. Rộng nói chắc là có vô lượng trăm nghìn vạn trăm triệu A tăng kì việc. Bồ Tát Bồ Tát lớn dừng ở tại Bậc này. Đa phần làm Vua Diêm Phù Đề, hào quý Tự do, thường giúp đỡ Pháp đúng. Có thể đem Bố thí hút cầm lấy chúng sinh, hay trừ bỏ uế bẩn tham muốn keo kiệt của chúng sinh. Thường làm Bố thí lớn mà làm được Nghiệp thiện không hết ngân quỹ. Nếu Bố thí, hay lời nói êm dịu. Nếu lợi ích hay cùng làm việc, các Phúc Đức đó, đều không rời nhớ Phật. Không rời nhớ Pháp, không rời nhớ bạn của các Bồ Tát Bồ Tát lớn. Không rời nhớ Đạo hạnh của các Bồ Tát, không rời nhớ các Pháp tới Niết Bàn. Không rời nhớ mười Bậc, không rời nhớ các lực không sợ hãi Không cùng Pháp. Thậm chí không rời nhớ đầy đủ Tất cả loại Trí tuệ, thường sinh tâm đó. Bản thân đang ở trong tất cả chúng sinh. Là đứng đầu là tốt đẹp, là lớn là vi diệu, là ở trên cao là Bình Đẳng, là dẫn dắt là chỉ huy, là Thầy là Tôn quý. Thậm chí trong tất cả chúng sinh là người dừng dựa.
Bồ Tát Bồ Tát lớn đó nếu muốn bỏ gia đình, siêng thực hành Tinh tiến. Thời gian giây phút ở trong Pháp Phật liền có thể bỏ gia đình vợ con năm Tham muốn. Đã được Xuất gia siêng thực hành Tinh tiến, thời gian giây phút, được trăm Tam muội. Được thấy trăm Phật, biết Thần lực của trăm Phật, có thể chấn động trăm Thế giới Phật. Có thể bay qua trăm Thế giới Phật, có thể chiếu sáng trăm Thế giới Phật, có thể giáo hóa chúng sinh của trăm Thế giới Phật. Có thể dừng ở thọ mệnh trăm Kiếp, có thể biết các việc của trăm Kiếp Quá khứ Tương lai. Có thể hay nhập vào trăm môn Pháp, có thể biến hiện thân được một trăm. Với mỗi một thân có thể tỏ ra trăm Bồ Tát, dùng làm quyến thuộc. Nếu dùng lực nguyện, Tự do tỏ ra, vượt hơn số này. Bao nhiêu trăm nghìn vạn trăm triệu Na do tha không thể tính toán biết được.
Chúng sinh cần phải hiểu các loại người này, cần phải biết mình là ai để tự điều chỉnh cho thích hợp. Nếu như muốn cho mình yên vui hạnh phúc và mọi người được yên vui hạnh phúc. Cần phải Bố thí tu thiện như nói ở trên.
Nam mô A Di Đà Phật.
Phật Tử Bùi Đức Huề biên soạn tháng 1/2015.