LUẬN TỲ BÀ SA
Tác giả: A la hán Thi Đà Bàn Ni
Hán dịch: Đời Phù Tần, Đại sư Tăng Già Bạt Trừng, người nước Kế Tân
Việt dịch: Cư sĩ Nguyên Huệ
QUYỂN 8
Phần thứ 32, đoạn 1: XỨ BỐN THÁNH ĐẾ
Bốn đế: (1) Khổ đế. (2) Tập đế. (3) Tận đế (Diệt đế). (4) Đạo đế.
Hỏi: Bốn đế có tánh gì?
Đáp: Luận A-tỳ-đàm nói: Năm thịnh ấm là khổ đế. Nhân của hữu lậu là tập đế. Số duyên diệt là tận đế. Pháp học, vô học là đạo đế.
Phái Thí Dụ nói: Danh và sắc là khổ đế. Hành và kiết là tập đế. Hành và kiết diệt là tận đế. Chỉ và quán là đạo đế.
Phái Tỳ-bà-xà-bà-đề nói: Tướng của tám khổ là khổ, là khổ đế. Các khổ khác tuy là khổ, nhưng không phải là khổ đế. Hữu ái của vị lai là tập, là tập đế. Ái khác và pháp hữu lậu khác tuy là tập, nhưng không phải là tập đế. Hữu ái của vị lai diệt là tận, là tận đế. Ái khác và pháp hữu lậu khác tuy diệt là tận, nhưng không phải là tận đế. Tám thứ đạo học là đạo, là đạo đế. Pháp học khác và tất cả pháp vô học tuy là đạo, nhưng không phải là đạo đế.
Hỏi: Như ông nói thì A-la-hán tức nên không thành tựu hai đế là tập đế và đạo đế.
Không thành tựu tập đế: Nghĩa là hữu ái nơi vị lai kia là tập đế.
Lúc A-la-hán trừ bỏ dục, thì hữu ái nơi vị lai đã dứt hết.
Không thành tựu đạo đế: Nghĩa là tám thứ đạo học kia là đạo đế. Lúc A-la-hán đắc quả, thì đã xả bỏ tám thứ đạo học.
Tôn giả Cù Sa nói: Ấm của mình, ấm người khác, số chúng sinh, số phi chúng sinh, hết thảy khổ kia là khổ, là khổ đế. Song khi quán thì quán ấm của mình, không quán ấm người khác và số chúng sinh, số phi chúng sinh.
Vì sao như thế?
Đáp: Vì quán ấm kia là khổ. Ở đây, ấm của người khác cùng số chúng sinh, số phi chúng sinh khác không thể sinh khổ, không thể khiến ấm của người khác cùng số chúng sinh, số phi chúng sinh ấy, như đối với ấm của mình sinh ra khổ. Nếu không có ấm của mình thì ấm của người khác cùng số chúng sinh, số phi chúng sinh kia đâu sinh ra khổ gì? Thế nên Tôn giả kia sinh khởi trí ấy, trong Luận nêu về số ấm của mình sinh khổ cùng cực, ấm của người khác thì không như thế. Nhân nơi ấm của mình, khiến ấm của người khác sinh khổ. Không nhân nơi ấm của người khác khiến ấm của mình sinh khổ. Do đấy nên quán ấm của mình, không quán ấm của người khác. Nghĩa là nhân của ấm mình cùng ấm của người khác và số chúng sinh, số phi chúng sinh, tất cả tập kia là tập đế. Song khi quán thì quán nhân thuộc ấm của mình, không quán ấm của người khác cùng số chúng sinh, số phi chúng sinh. Nghĩa là ấm của mình dứt hết thì ấm của người khác và số chúng sinh, số phi chúng sinh đều dứt. Tất cả ấm kia đều dứt hết (Tận) là tận đế. Song khi quán thì quán ấm của mình dứt hết, không quán ấm của người khác cùng số chúng sinh, số phi chúng sinh dứt hết. Tức là đạo của ấm mình và đạo thuộc ấm của người khác và số chúng sinh, số phi chúng sinh, tất cả đạo đó là đạo, là đạo đế. Song khi quán thì quán đạo thuộc ấm của mình, không quán đạo thuộc ấm của người khác cùng số chúng sinh, số phi chúng sinh. Nói như thế nghĩa là ấm của mình, ấm của người khác cùng số chúng sinh, số phi chúng sinh, tất cả các thứ kia là khổ, là khổ đế, khi quán cũng đều quán tất cả.
Hỏi: Như khi Hành giả quán, quán về khổ, thì ấm của người khác cùng số chúng sinh, số phi chúng sinh kia không sinh khổ thì nên quán những gì?
Đáp: Nếu như không sinh khổ, song đối với tất cả sự việc kia nếu vô trí thì khiến sinh trí, có nghi thì khiến sinh quyết định, có hủy báng thì khiến sinh tin nhận.
Lại nữa, đâu có thể cho là ấm của người khác cùng số chúng sinh, số phi chúng sinh không sinh khổ của ta. Nếu người khác dùng tay chân đánh đập ta, ta há không sinh khổ chăng? Như thế, nếu từ trên cao, hoặc gỗ, hoặc đá rớt xuống nơi thân ta, ta há không sinh khổ chăng? Do đấy, nên nói ấm của mình và ấm của người khác cùng số chúng sinh, số phi chúng sinh, tất cả các thứ ấy đều là khổ, là khổ đế. Khi quán đều quán về tướng khổ. Tức nhân thuộc ấm của mình và ấm của người khác, cùng nhân của số chúng sinh, số phi chúng sinh, tất cả các thứ ấy đều là tập, là tập đế. Khi quán đều quán về gốc ngọn. Ấm của mình dứt hết và ấm của người khác cùng số chúng sinh, số phi chúng sinh đều dứt hết, tất cả các thứ ấy đều là tận, là tận đế (Diệt đế). Khi quán đều quán về tướng dừng dứt ấy. Đạo thuộc ấm của mình và đạo thuộc ấm của người khác cùng số chúng sinh, số phi chúng sinh, tất cả các thứ ấy đều là đạo, là đạo đế. Khi quán thì đều quán về tướng xuất yếu. Đây là tánh của các đế, là thể tướng hiện có nơi thân.
Đã nói về tánh của các đế. Tiếp theo là nói về hành.
Hỏi: Vì sao gọi là đế? Đế có nghĩa gì?
Đáp: Nghĩa thật là nghĩa của đế. Nghĩa xét kỹ, nghĩa như, nghĩa không điên đảo, nghĩa không hư dối là nghĩa của đế.
Hỏi: Nếu nghĩa thật là nghĩa của đế, thì hư không phi số duyên tận (Hư không phi trạch diệt) cũng là thật, cũng là xét kỹ, cũng là như, vì sao hư không phi số duyên tận kia không lập làm đế?
Đáp: Nếu pháp như ung nhọt, nhân của ung nhọt, lìa ung nhọt, có thể lìa ung nhọt. Ung nhọt là khổ đế. Nhân của ung nhọt là tập đế. Lìa ung nhọt là tận đế. Có thể lìa ung nhọt là đạo đế, thì pháp ấy được lập là đế. Hư không phi số duyên tận kia không phải là ung nhọt, không phải là nhân của ung nhọt, không phải là lìa ung nhọt và không phải là có thể lìa ung nhọt, nên không lập làm đế.
Hoặc nói: Nếu pháp như đâm chích, nhân của đâm chích, lìa đâm chích, có thể lìa đâm chích. Đâm chích là khổ đế. Nhân của đâm chích là tập đế. Lìa sự đâm chích là tận đế. Có thể lìa đâm chích là đạo đế, thì pháp ấy được lập là đế. Hư không phi số duyên tận kia không phải là đâm chích, không phải là nhân của đâm chích, không phải là lìa đâm chích, không phải là có thể lìa đâm chích, nên không lập là đế.
Hoặc cho: Nếu pháp như bệnh, nhân của bệnh, lìa khỏi bệnh, có thể lìa khỏi bệnh. Bệnh là khổ đế. Nhân của bệnh là tập đế. Lìa khỏi bệnh là tận đế. Có thể lìa khỏi bệnh là đạo đế, thì pháp ấy được lập là đế. Hư không phi số duyên tận kia không phải là bệnh, không phải là nhân của bệnh, không phải là lìa khỏi bệnh, không phải là có thể lìa khỏi bệnh, nên không lập là đế.
Hoặc nêu: Nếu pháp như tai họa, nhân của tai họa, lìa khỏi tai họa, có thể lìa khỏi tai họa. Tai họa là khổ đế. Nhân của tai họa là tập đế. Lìa khỏi tai họa là tận đế. Có thể lìa khỏi tai họa là đạo đế, thì pháp ấy được lập là đế. Hư không phi số duyên tận kia không phải là tai họa, không phải là nhân của tai họa, không phải là lìa khỏi tai họa, không phải là có thể lìa khỏi tai họa, nên không lập là đế.
Hoặc nói: Nếu pháp là khổ, nhân của khổ, lìa khổ, có thể lìa khổ. Khổ là khổ đế. Nhân của khổ là tập đế. Lìa khổ là tận đế. Có thể lìa khổ là đạo đế, thì pháp ấy được lập là đế. Hư không phi số duyên tận kia không phải là khổ, không phải là nhân của khổ, không phải là lìa khổ, không phải là có thể lìa khổ, nên không lập là đế.
Hoặc cho: Nếu pháp là ấm, nhân của ấm, lìa bỏ ấm, có thể lìa bỏ ấm. Ấm là khổ đế. Nhân của ấm là tập đế. Lìa bỏ ấm là tận đế. Có thể lìa bỏ ấm là đạo đế, thì pháp ấy được lập là đế. Hư không phi số duyên tận kia không phải là ấm, không phải là nhân của ấm, không phải là lìa bỏ ấm, không phải là có thể lìa bỏ ấm, nên không lập là đế.
Hoặc nêu: Nếu pháp như bờ bên này, bờ bên kia, con sông, chiếc bè. Bờ bên này là khổ đế. Bờ bên kia là tập đế. Con sông là tận đế. Chiếc bè là đạo đế, thì pháp ấy được lập là đế. Hư không phi số duyên tận kia không phải là bờ bên này, không phải là bờ bên kia, không phải là con sông, không phải là chiếc bè, nên không lập là đế.
Hoặc nói: Hư không phi số duyên tận kia, vì vô lậu nên không gồm thâu khổ đế, tập đế, vì vô ký nên không gồm thâu tận đế, vì vô vi nên không gồm thâu đạo đế.
Hoặc cho: Hư không phi số duyên tận kia, vì thường nên không phải là ba đế, vì vô ký nên không phải là tận đế.
Hoặc nêu: Hư không phi số duyên tận kia, vì không phải là ấm nên không phải là ba đế, vì vô ký nên không phải là tận đế.
Hoặc nói: Hư không phi số duyên tận kia, vì không phải là thế gian nên không phải là ba đế, vì vô ký nên không phải là tận đế.
Hoặc cho: Nếu pháp là duyên của xứ hoan hỷ và duyên của xứ chán lìa thì được lập là đế. Hư không phi số duyên tận kia không phải là duyên của xứ hoan hỷ, cũng không phải là duyên của xứ chán lìa, nên không lập là đế.
Hoặc nêu: Nếu pháp là tà kiến và kiến duyên nơi vô lậu nên được lập là đế. Hư không phi số duyên tận kia không phải là tà kiến, cũng không phải là kiến duyên nơi vô lậu, nên không lập là đế.
Hoặc nói: Nếu pháp là nhân là quả thì pháp ấy được lập là đế. Hư không phi số duyên tận kia không phải là nhân, không phải là quả, nên không lập là đế.
Hỏi: Nếu nghĩa không điên đảo là nghĩa của đế, thì bốn thứ điên đảo không thuộc về đế chăng? Vì sao? Vì chúng chuyển theo điên đảo.
Đáp: Vì hành, vì tướng mạo, vì hoàn toàn trụ nơi điên đảo, nên nói là điên đảo. Vì bốn thứ điên đảo kia có xét kỹ về thể tướng thật, như thế là chúng thuộc về đế.
Hoặc nói: Như các pháp kia là có nhân, có quả, nên là thuộc về đế. Còn như vô thường chấp là thường, khổ chấp là vui, bất tịnh chấp là tịnh, vô ngã chấp là ngã, tức nên nói là điên đảo.
Hỏi: Nếu nghĩa không hư dối là nghĩa của đế, thì hư dối tức không nên thuộc về đế vì là hư dối chăng?
Đáp: Gian trá, lừa dối hoàn toàn trụ nơi dua nịnh, nên gọi là nói dối. Còn như hư dối kia là có xét kỹ về thể tướng thật, là thuộc về đế.
Hoặc nói: Như sự hư dối kia có nhân, có quả, là thuộc về đế. Còn như không thấy nói thấy, thấy nói không thấy, không nghe nói nghe, nghe nói không nghe, không phân biệt nói phân biệt, phân biệt nói không phân biệt, không biết nói biết, biết nói không biết, tức gọi là nói dối.
Đây gọi là nghĩa thật là nghĩa của đế. Nghĩa xét kỹ, nghĩa như, nghĩa không điên đảo, nghĩa không hư dối là nghĩa của đế.
Hỏi: Khổ có tướng gì? Tập, tận, đạo có tướng gì?
Đáp: Tôn giả Bà-tu-mật nói: Tướng bức bách là tướng của khổ. Tướng theo gốc ngọn là tướng của tập. Tướng dừng dứt là tướng của tận. Tướng xuất yếu là tướng của đạo.
Lại nói: Tướng đã chuyển thành là tướng của khổ. Tướng đang chuyển là tướng của tập. Tướng lìa hành là tướng của tận. Tướng có thể lìa hành là tướng của đạo.
Lại cho: Đã thành luân chuyển nơi sinh tử là tướng của khổ. Tướng đang luân chuyển nơi sinh tử là tướng của tập. Tướng đã lìa luân chuyển nơi sinh tử là tướng của tận. Tướng có thể lìa luân chuyển nơi sinh tử là tướng của đạo.
Tôn giả Đàm-ma-đa-la nói: Các vị! Trong nơi chốn tạo khởi tướng của đế, chỗ chồng chất của năm thịnh ấm kia như viên sắt tròn, nhập ba khổ, nương dựa nơi sự hỗn tạp bên trong, như viên sắt tròn được bỏ vào lửa, tức sắt đồng với màu lửa đỏ. Quán khổ nên như thế. Hành của khổ này là nơi chốn chuyển biến của kiết, là nơi chốn biến đổi nơi hữu, là nơi chốn hướng đến sự liên tục nơi hữu. Quán về tập đế như sự hội hợp về hữu ấy. Trong đó dấy khởi lìa bỏ hành của kiết, hữu không còn nối tiếp. Nên quán về tận đế là như thế. Tu tập chỉ quán, nhận biết pháp hưng suy, nhân của hữu được dứt hết. Nên quán về đạo đế là như vậy. Thế nên nói: Các vị! Trong nơi chốn tạo khởi tướng của đế. Như Đức Thế Tôn nói kệ:
Một đế không có hai
Tức chúng sinh sinh nghi
Nan-đà quán các đế
Ta nói không Sa môn.
Hỏi: Như bốn đế, vì sao Đức Phật nói một đế, không có hai?
Đáp: Tôn giả Ba Xa nói: Vì một tức là một đế, nên Đức Thế Tôn nói một đế không có hai. Một đế là khổ đế, lại không có hai khổ đế. Một đế là tập đế, lại không có hai tập đế. Một đế là tận đế, lại không có hai tận đế. Một đế là đạo đế, lại không có hai đạo đế. Thế nên Đức Thế Tôn nói một đế không có hai.
Hoặc nói: Một đế nghĩa là tận đế. Là ý nhằm đoạn trừ nhiều thứ chấp về giải thoát. Tức là hàng dị học cho là có nhiều thứ giải thoát: không có thân, vô lượng tụ ý tịnh, tụ vô tưởng. Đức Thế Tôn nói: Tất cả các thứ ấy không phải là giải, không phải là thoát, không phải là xuất yếu, không phải là lìa bỏ. Chỉ có một giải thoát của đệ nhất nghĩa tức là tận đế (diệt đế). Đây gọi là ý nhằm đoạn trừ nhiều thứ chấp về giải thoát, nên Đức Thế Tôn nói một đế không có hai.
Hoặc cho: Một đế là đạo đế. Là ý nhằm đoạn trừ nhiều thứ chấp về đạo. Tức các dị học muốn cho là có nhiều đạo, nên tu hạnh khổ: không ăn, nằm trên tro than, vòng tay theo mặt trời, mặt trăng, uống không khí, ăn quả, lõa thân nằm trên gai gốc, mặc áo cỏ rách. Đức Thế Tôn nói: Đây không phải là đạo, chỉ là đạo xấu ác. Đạo này không thể nương dựa, không phải là sự hành tác của con người, chỉ là hành của kẻ ác. Chỉ có một đạo của đệ nhất nghĩa tức là đạo đế. Đây gọi là ý nhằm đoạn trừ nhiều thứ chấp về đạo, nên Đức Thế Tôn nói một đế không có hai.
Như nơi Khế kinh, Đức Thế Tôn nói: Có hai đế là Đẳng đế (Tục đế) và Đệ nhất nghĩa đế (Thắng nghĩa đế).
Hỏi: Thế nào là Đẳng đế? Thế nào là Đệ nhất nghĩa đế?
Đáp: Đẳng đế nghĩa là khổ đế, tập đế cùng nhập trong ấy. Tức là như người nữ, người nam, trẻ con nam trẻ con nữ, hoặc đến, hoặc đi, hoặc ngồi, hoặc đứng, hiện bày các thứ hành. Đệ nhất nghĩa đế là tận đế, đạo đế.
Lại có thuyết nói: Đẳng đế nghĩa là ba đế. Ba đế ấy cũng đều nói như thành trì hiện bày, như bờ bên kia. Đệ nhất nghĩa đế là đạo đế.
Lại có thuyết cho: Tất cả bốn đế là đẳng đế, cũng là đệ nhất nghĩa đế. Đạo đế kia cũng nói như chiếc bè, quán như quả núi. Thế nên tất cả bốn đế đều là đẳng đế cũng là đệ nhất nghĩa đế. Trong khổ đế, tập đế đều như trước đã nói: Như người nữ, người nam, trẻ con nam, trẻ con nữ, hoặc đến, hoặc đi, hoặc ngồi, hoặc đứng, hiện bày các thứ hành.
Đệ nhất nghĩa là vô thường, khổ, không, phi ngã (vô ngã), nhân tập hữu duyên. Trong tận đế đều như đã nói: Như vườn rừng, lầu gác, thành trì, bờ bên kia. Đức Thế Tôn đã nói về đệ nhất nghĩa là tận chỉ diệu ly. Đạo đế như đã nói là chiếc bè, núi đá lớn, sinh ra bảy hoa, thành tám thứ nước.
Đệ nhất nghĩa là đạo, chính là hướng tới nẻo xuất yếu. Thế nên trong tất cả bốn đế đều cùng hướng tới đệ nhất nghĩa.
Hỏi: Nếu trong tất cả bốn đế đều cùng khởi, cũng khởi đệ nhất nghĩa, thì sự đều cùng khởi ấy tức nên có đệ nhất nghĩa của mười tám giới, mười hai nhập, năm ấm, cũng nên có mười tám giới, mười hai nhập, năm ấm. Vậy đẳng đế và đệ nhất nghĩa đế có gì khác biệt?
Đáp: Tôn giả Bà-tu-mật nói: Đẳng đế là tên gọi của các pháp. Đệ nhất nghĩa đế là tánh của các pháp.
Lại nói: Đẳng đế là số của thế tục. Đệ nhất nghĩa đế là số của Hiền Thánh. Đẳng đế, Đệ nhất nghĩa đế, khác biệt là như thế.
Hỏi: Đẳng đế kia ở trong đệ nhất nghĩa là đệ nhất nghĩa hay không phải? Nếu đẳng đế ở trong đệ nhất nghĩa là đệ nhất nghĩa, tức nên có một đế là đệ nhất nghĩa đế, không có hai đế. Nếu đẳng đế ở trong đệ nhất nghĩa không phải là đệ nhất nghĩa, thì cũng nên có một đế là đệ nhất nghĩa đế, không có hai đế?
Đáp: Có đẳng đế ấy ở trong đệ nhất nghĩa là đệ nhất nghĩa. Nếu đẳng đế ở trong đệ nhất nghĩa không phải là đệ nhất nghĩa thì Đức Như Lai nói cả hai chẳng là chân thật. Nếu Đức Như Lai nói cả hai là chân thật, thế nên có thể nhận biết đẳng đế ở trong đệ nhất nghĩa là đệ nhất nghĩa.
Hỏi: Nếu đẳng đế ở trong đệ nhất nghĩa là đệ nhất nghĩa, tức nên có một đế là đệ nhất nghĩa đế, không có hai đế chăng?
Đáp: Là một đế, tức đệ nhất nghĩa đế.
Hỏi: Nếu là một đế là đệ nhất nghĩa đế thì vì sao Đức Như Lai nói hai đế?
Đáp: Vì nhân nơi sự việc nên Đức Như Lai nói hai đế. Nếu sự việc là đẳng đế thì sự việc này không phải là đệ nhất nghĩa đế. Nếu sự việc là đệ nhất nghĩa đế thì sự việc này không phải là đẳng đế. Như một thọ nói bốn duyên là duyên nhân, duyên thứ đệ, duyên tăng thượng và duyên sở duyên. Sự việc kia tuy một thọ nói bốn duyên, song nếu sự việc là duyên duyên thì sự việc ấy không phải là ba duyên kia. Nếu sự việc là duyên tăng thượng, thì sự việc ấy không phải là ba duyên kia. Như thế một thọ nói về sáu nhân: Nhân tương ưng, nhân cộng hữu, nhân tự nhiên, nhân nhất thiết biến, nhân báo và nhân sở tác. Sự việc kia tuy một thọ nói sáu nhân, song nếu sự việc là của nhân tương ưng thì sự việc ấy không phải là của năm nhân kia. Nếu sự việc là của nhân sở tác thì sự việc ấy không phải là của năm nhân kia. Như thế một đế là đệ nhất nghĩa đế, nếu sự việc là của đẳng đế thì sự việc ấy không phải là đệ nhất nghĩa đế. Nếu sự việc là của đệ nhất nghĩa đế thì sự việc ấy không phải là đẳng đế.
Tôn giả Đà-la-na-đề nói: Tánh gọi là đẳng đế, là thuộc về khổ đế, tập đế. Như nơi Khế kinh Đức Thế Tôn đã nói: Có Phạm chí dị học nói có ba đế. Những gì là ba? Phạm chí dị học tạo ra thuyết này: Không hại tất cả chúng sinh là một đế.
Lại nữa, Phạm chí dị học tạo ra thuyết này: Ta không phải là sở hữu của người kia. Người kia cũng không phải là sở hữu của ta, là đế thứ hai.
Lại nữa, Phạm chí dị học tạo ra thuyết này: Các pháp có tập đều là pháp có diệt, là đế thứ ba.
Hỏi: Trong đây: Thế nào là Phạm chí? Thế nào là đế?
Đáp: Phạm chí nghĩa là ngoại đạo xuất gia. Đế tức là ba đế ấy, ngoài ra đều là hư vọng.
Lại có thuyết nói: Phạm chí, ở đây là pháp nội. Đế tức ba đế này. Nơi Khế kinh, Đức Thế Tôn nói: Vì nhằm đoạn trừ ý tưởng chấp của các dị học. Dị học tự cho là Phạm chí chân chánh. Nhưng thường gây bức xúc cho người khác, hoặc để cúng tế họ đã giết hại bò, cũng giết dê, gà, heo, cũng giết đủ loại chúng sinh để cúng tế. Đức Thế Tôn nói: Gây bức xúc cho người khác không phải là Phạm chí chân chánh. Giết hại các chúng sinh khác không phải là Phạm chí chân chánh. Phạm chí chân chánh đối với các chúng sinh đều không nên giết hại.
Lại có ngoại đạo dị học tự cho: Ta là Phạm chí chân chánh. Nhưng vì muốn được sinh lên cõi trời để hưởng các thứ dục lạc nên siêng tu phạm hạnh. Đức Thế Tôn nói: Vì muốn thọ hưởng dục lạc của cõi trời nên siêng tu phạm hạnh không phải là Phạm chí chân chánh. Phạm chí chân chánh là đối với các thứ mong cầu hiện có đều không lệ thuộc mà tu phạm hạnh.
Lại có ngoại đạo tự cho là Phạm chí chân chánh, nhưng lại chấp đoạn chấp thường trái với trung đạo. Đức Phật nói: Kẻ chấp đoạn chấp thường không phải là Phạm chí chân chánh. Phạm chí chân chánh là nhận biết: Các pháp có tập đều là pháp có diệt. Vì có tập nên không phải là đoạn. Vì có diệt nên không phải là thường. Không phải đoạn, không phải thường là khế hợp trung đạo.
Như nơi Khế kinh Đức Phật nói: Vì nhằm đoạn trừ ý tưởng của đám dị học.
Hoặc nói: Trong đây là nói về ba phần pháp thân: thân giới, thân định, thân tuệ. Nói không giết hại tất cả chúng sinh là thân giới. Ta không phải là sở hữu của người khác, người khác cũng không phải là sở hữu của ta là nói về thân định. Các pháp có tập đều là pháp diệt là nói về thân tuệ. Như ba thân thì ba giới, ba tư duy cũng như vậy.
Hoặc cho: Trong đây là nói về phương tiện của ba tam muội: không, vô nguyện, vô tướng. Nói không giết hại tất cả chúng sinh là nói về phương tiện của tam muội không. Ta không phải là sở hữu của người khác, người khác cũng không phải là sở hữu của ta là nói về phương tiện của tam muội vô nguyện. Các pháp có tập đều là pháp diệt là nói về phương tiện của tam muội vô tướng.
Hoặc nêu: Ở đây là nói về ba tam muội căn bản: Tam muội không, vô nguyện, vô tướng. Nói không giết hại tất cả chúng sinh là tam muội không. Ta không phải là sở hữu của người khác, người khác cũng không phải là sở hữu của ta, là tam muội vô nguyện. Các pháp có tập đều là pháp diệt là tam muội vô tướng.
Do đấy nên ở đây là nói về ba tam muội căn bản.
Như nơi Khế kinh Đức Phật nói: Đây là đã hành chánh pháp, đó là nói rộng về bốn đế.
Hỏi: Vì sao nói là đã hành chánh pháp?
Đáp: Nghĩa là đã hành, tức chính mình hành tu đạo, không phải nhân nơi người khác để tu đạo. Đây gọi là đã hành chánh pháp.
Hỏi: Làm sao nhận biết?
Đáp: Tức do nơi Khế kinh Phật. Như trong Khế kinh nói: Có Phạm chí hành hạnh Đầu-đà đi đến chỗ Đức Thế Tôn nói kệ:
Tôi quán đời, trời, người
Phạm chí hành không chứa
Nay tôi lễ Đại tiên
Nhổ phá lưới nghi tôi.
Hỏi: Phạm chí này đã nói gì?
Đáp: Phạm chí này vốn lười biếng, đi đến chỗ Đức Thế Tôn thăm hỏi xong, nói: Sa môn Cù Đàm! Xin vì tôi giảng nói về tu đạo, khiến cho trong tâm ý tôi dứt hết các kiết. Đức Thế Tôn đã vì ông ta nói kệ:
Ta không thể độ ông
Phạm chí và đời khác
Nếu biết đạo rất diệu
Có thể vượt dòng này.
Hỏi: Đức Như Lai đã nói những gì?
Đáp: Đức Thế Tôn nói: Này Phạm chí! Không nhân nơi người khác tu đạo để khiến kiết của ông được dứt hết. Nếu Phạm chí nhân nơi người khác tu đạo khiến kiết của ông được dứt hết, thì khi Ta ở bên cội cây Bồ-đề, tất cả chúng sinh đều nên dứt hết kiết, tuy Ta luôn có tâm đại bi đối với tất cả chúng sinh. Song này Phạm chí! Không phải nhân nơi người khác tu đạo khiến ông đoạn trừ hết kiết. Này Phạm chí! Như mình bị bệnh, cần uống thuốc, thì bệnh của mình khỏi, không phải khiến bệnh của người khác được khỏi. Như thế, này Phạm chí! Mình có bệnh là kiết, cần uống thuốc Thánh đạo, thì bệnh kiết của mình tức khỏi, không phải khiến bệnh kiết của người khác được khỏi. Như thế, này Phạm chí! Tự mình uống thuốc, bệnh của mình dứt khỏi. Như thế mình có bệnh kiết (phiền não), uống thuốc thánh đạo thì bệnh ấy tức khỏi.
Do Khế kinh này có thể nhận biết, tự hành bốn đế, không phải là nhân nơi người khác hành. Thế nên gọi là chánh hạnh của mình.
Hoặc nói: Không chánh khiến nhập vào chánh, nên gọi là chánh hạnh của mình. Không chánh là phàm phu. Chánh là Thánh đạo. Khiến hàng phàm phu không chánh được nhập nơi quả vị của chánh đạo, thế nên gọi là chánh hạnh của mình.
Hoặc cho: Chánh khiến nhập vào chánh, nên gọi là chánh hạnh của mình. Chánh là pháp đệ nhất của thế gian. Chánh nghĩa là khổ pháp nhẫn. Nay chánh là pháp đệ nhất của thế gian, khiến nhập nơi chánh là khổ pháp nhẫn, thế nên gọi là chánh hạnh của mình.
Hỏi: Vì sao Thánh đế nói là chánh hạnh của mình, không phải nói về giới, nhập, ấm?
Đáp: Vì Thánh đế này là pháp tối thượng, người thọ nhận Phật giáo hóa cũng là hàng trí hơn hết. Nói giới là vì hàng mới hành trì. Nói nhập là vì hàng đã hành trì một ít. Nói ấm là vì hàng đã thành tựu hành của mình. Thánh đế này hoàn toàn gần với thân pháp, nghĩa là người kia thấy đã gần với Thánh đế.
Hoặc nêu: Nói Thánh đế là nhận lấy sự chứng đắc quả, trừ bỏ kiết, dứt hết lậu, không phải là giới, nhập, ấm. Do đấy nên Thánh đế nói chánh hạnh của mình, không phải là giới, nhập, ấm.
Hỏi: Bốn Thánh đế: Vì sao lập bốn Thánh đế? Là do thể tánh, là do nhân quả, hay là do quán?
Nếu là do thể tánh tức nên có ba: Lìa khổ không có tập, lìa tập không có khổ là một đế. Tận đế là hai. Đạo đế là ba.
Nếu là do nhân quả tức nên có năm: Như khổ có nhân có quả là hai đế, đạo cũng có nhân có quả là bốn đế, tận đế là năm.
Nếu là do quán tức nên có tám: Trước quán về khổ nơi cõi dục, sau quán về khổ của cõi sắc, vô sắc. Trước quán hành nhân nơi cõi dục, sau quán hành nhân nơi cõi sắc, vô sắc. Trước quán hành tận nơi cõi dục, sau quán hành tận nơi cõi sắc, vô sắc. Trước quán hành đạo nơi cõi dục, sau quán hành đạo nơi cõi sắc, vô sắc. Tức là tám đế.
Đáp: Do nhân quả nên lập bốn đế.
Hỏi: Nếu như vậy tức nên có năm. Như khổ có nhân có quả. Tất cả khổ, tập kia đều hướng tới đạo. Tập khởi của hữu hướng tới đạo. Tập khởi của tham hướng tới đạo. Tập khởi của sinh tử luân chuyển hướng tới đạo. Như thế là đạo có nhân có quả. Tất cả khổ tận kia hướng tới đạo. Hữu tận hướng tới đạo. Tham tận hướng tới đạo. Sinh tử luân chuyển tận hướng tới đạo. Vậy vì sao do nhân quả nên lập bốn đế?
Đáp: Nhân nơi ba sự: Vì hữu lậu vô lậu. Vì nhân quả. Vì hủy báng sự tin nhận. Bốn Thánh đế này có hai thứ hữu lậu và vô lậu. Hữu lậu thì có nhân có quả. Nhân của hữu lậu nên lập một đế là tập đế. Quả của hữu lậu thì lập đế thứ hai là khổ đế. Thể tánh vô lậu cũng có nhân có quả. Tức vô lậu có nhân có quả lập một đế là đạo đế. Vô lậu có quả không có nhân lập đế thứ hai là tận đế.
Hỏi: Thể tánh vô lậu có nhân, có quả, vì sao chỉ lập một đế, không phải là hai?
Đáp: Do hủy báng sự tin nhận nên đối với khổ ấy có hai thứ: Hủy báng cho là không có khổ, không có tập. Như hai thứ hủy báng nên trong đây cần phát khởi hai thứ tin nhận: Đạo kia là có nhân, có quả. Nhưng tất cả kẻ kia cùng hủy báng là không có đạo. Đối với sv cùng hủy báng như thế, phải nên phát khởi một sự tin nhận. Đây là nói nhân nơi ba sự: Do hữu lậu, vô lậu. Do nhân quả. Do hủy báng sự tin nhận, nên lập bốn Thánh đế.
Lại có thuyết nói: Cũng do quán nên lập bốn Thánh đế. Tức là khổ nơi cõi dục và khổ nơi hai cõi sắc, vô sắc, tất cả khổ đó đều cùng quán về một tướng bức bách. Tức nhân hành của cõi dục và nhân hành của cõi sắc, vô sắc, tất cả nhân hành ấy đều cùng quán về một tướng gốc ngọn.
Nghĩa là hành nơi cõi dục dứt hết và hành nơi cõi sắc, vô sắc dứt hết, tất cả hành ấy đều cùng quán về một tướng dừng dứt.
Nghĩa là đạo hành nơi cõi dục và đạo hành nơi cõi sắc, vô sắc, tất cả đạo ấy đều cùng quán về một tướng xuất yếu.
Đây gọi là vì đồng một quán, nên lập bốn Thánh đế.
Hỏi: Vì sao bốn Thánh đế là Thánh của căn thiện? Là Thánh của vô lậu? Là đối tượng thành tựu của Thánh?
Nếu Thánh của căn thiện là Thánh đế, thì nên có hai đế là tận đế thiện và đạo đế thiện, hai đế gồm có ba thứ thiện bất thiện vô ký là khổ đế, tập đế.
Nếu Thánh của vô lậu là Thánh đế, thì nên có hai vô lậu là tận đế, đạo đế, hai để hữu lậu là khổ đế, tập đế.
Nếu đối tượng thành tựu của Thánh là Thánh đế, thì không phải Thánh cũng thành tựu, như đã nói. Vậy ai thành tựu khổ đế, tập đế?
Đáp: Tất cả chúng sinh là đối tượng thành tựu của Thánh đạo do đó gọi là Thánh đế.
Hỏi: Như không phải Thánh cũng thành tựu, như đã nói. Vậy thì ai thành tựu khổ đế, tập đế?
Đáp: Tất cả chúng sinh. Nghĩa là thành tựu tất cả bốn Thánh đế, người ấy là Thánh. Không phải Thánh tuy có thành tựu, nhưng không thành tựu tất cả bốn Thánh đế, thế nên không nói là Thánh.
Hỏi: Thánh kia cũng không thành tựu bốn Thánh đế, nghĩa là hàng bị trói buộc đủ và nhập trong khổ pháp nhẫn chăng?
Đáp: Một khoảnh khắc của thời gian ít nơi Thánh đế nêu trên, sinh khổ pháp trí xong, thì thành tựu tất cả bốn Thánh đế.
Hoặc nói: Đây là đế được chứng đắc của Thánh, là đối tượng thấy biết, thấu đạt của Thánh, là đối tượng quán của Thánh, là đối tượng giác ngộ của Thánh, thế nên nói là Thánh đế.
Hoặc cho: Do đạt được Thánh giới là Thánh, vì Thánh kia có đế này, nên nói là Thánh đế.
Hoặc nêu: Tức đạt được Thánh tài là Thánh, vì Thánh kia có đế này, nên nói là Thánh đế.
Hoặc nói: Do đạt được chỉ quán của Thánh là Thánh, vì Thánh kia có đế này, nên nói là Thánh đế.
Hoặc cho: Tức đạt được Thánh ấn là Thánh, vì Thánh kia có đế này, nên nói là Thánh đế.
Tôn giả Tăng-già-bà-tu nói: Vào một thời, phàm phu cùng Thánh nhân tranh luận. Phàm phu nói: Đây là ngã. Thánh nhân nói: Đây không phải là ngã. Phàm phu nói: Đây là vui. Thánh nhân nói: Đây là khổ. Phàm phu cho là không có nhân, không có chánh nhân. Thánh nhân cho là có nhân, có chánh nhân. Cả hai người tranh luận kia cùng đi đến chỗ Đức Thế Tôn. Đến xong, đem ý nghĩa như vậy bạch Đức Thế Tôn. Đức Thế Tôn nói: Như Thánh đã nói. Đây là đế được chứng đắc của Thánh, là đối tượng thấy biết, thấu đạt của Thánh, là đối tượng quán của Thánh, là đối tượng giác ngộ của Thánh.
Hỏi: Như ông nói: Tất cả hằng sa bậc Chánh biến tri đều nói Thánh đế, vậy tất cả đều có tranh luận chăng?
Đáp: Điều này không luận. Như thuyết trước đã nói là tốt. Như thế tức đế được chứng đắc của Thánh, là đối tượng thấy biết, thấu đạt của Thánh, là đối tượng quán của Thánh, là đối tượng giác ngộ của Thánh, nên nói là bốn Thánh đế.
Những gì là bốn? Là khổ Thánh đế. Khổ tập Thánh đế. Khổ tận Thánh đế. Khổ tận đạo Thánh đế.
* Thế nào là khổ Thánh đế? Là sinh khổ. Lão khổ. Bệnh khổ. Tử khổ. Oán ghét gặp nhau là khổ. Yêu thương phải biệt ly là khổ. Mong cầu không đạt được là khổ. Nói tóm tắt năm thịnh ấm là khổ.
Sinh là khổ: Vì là nhân nơi tất cả khổ. Lão là khổ: Vì sự đổi thay giữa thiếu niên, tráng niên. Bệnh là khổ: Vì sự gián đoạn của cảnh giới. Tử là khổ: Vì là buồn sầu lớn. Oán ghét gặp nhau là khổ: Vì tất cả đều chán ghét nhau. Yêu thương phải biệt ly là khổ: Vì sự nhớ nghĩ là trái nhau. Mong cầu không đạt được là khổ: Vì không theo sự mong muốn. Nói tóm tắt năm thịnh ấm là khổ: Vì là chỗ dựa của các thứ khỗ.
Lại nữa, sinh là khổ: Vì dấy khởi sự khổ. Lão là khổ: Vì nhan sắc, diện mạo bị hủy hoại. Bệnh là khổ: Vì tất cả không thể gắng nhận. Tử là khổ: Vì nhiều phiền não thiêu đốt. Oán ghét gặp nhau là khổ: Vì thấy điều bất thiện. Yêu thương phải biệt ly là khổ: Vì trái với sự gặp gỡ tốt đẹp. Mong cầu không đạt được là khổ: Vì ý trông mong về sự tốt đẹp bị đoạn dứt. Nói tóm tắt năm thịnh ấm là khổ: Do đấy là chỗ dựa của tất cả khổ kia. Các thứ khổ ấy luôn chuyển biến, không phải là không nương dựa. Thế nên cho: Nói tóm tắt năm thịnh ấm là khổ.
Hỏi: Như năm thịnh ấm cũng là khổ rộng, vì sao Đức Thế Tôn cho là nói tóm tắt năm thịnh ấm là khổ?
Đáp: Như thế tức nói lược cũng là khổ, nói rộng cũng là khổ. Chính do nhiều khổ, nên Đức Thế Tôn cho là nói tóm tắt về năm thịnh ấm là khổ, vì các ấm có nhiều tai họa khổ não. Như chủ tướng của đám giặc kia ở nơi chỗ vắng cũng bị quở trách, ngay giữa chỗ đông cũng bị quở trách, vì đã phạm nhiều lỗi lầm. Như thế, năm thịnh ấm nói lược cũng là khổ, nói rộng cũng là khổ, song Đức Thế Tôn cho là nói tóm tắt về năm thịnh ấm là khổ, vì các ấm vốn có nhiều tai họa khổ não.
Hỏi: Trong ấm có vui hay không có vui? Nếu trong ấm có vui thì vì sao Đức Thế Tôn nói khổ đế, không nói lạc đế? Nếu trong ấm không có vui, thì như nơi Khế kinh Ma-ha-nam làm sao thông? Kinh ấy nói: Này Ma-ha-nam! Nếu sắc hoàn toàn là khổ, không phải là vui, thì sự vui mừng được nuôi lớn kia nếu lìa vui, tức không phải là nhân khiến chúng sinh tham vướng nơi sắc. Nhưng chúng sinh này không nên tham vướng nơi sắc. Này Ma-ha-nam! Như thọ, tưởng, hành, thức nếu hoàn toàn là khổ, không phải là vui, thì sự vui mừng được nuôi lớn kia nếu lìa vui, tức không phải là nhân khiến chúng sinh tham vướng nơi thọ tưởng hành thức. Nhưng chúng sinh ấy không nên tham vướng nơi thọ tưởng hành thức. Này Ma-ha-nam! Như sắc không phải hoàn toàn là khổ mà có vui, thì sự vui mừng được nuôi lớn kia không lìa vui, là nhân khiến chúng sinh tham vướng nơi sắc. Do vậy, nên chúng sinh đã tham vướng nơi sắc. Này Ma-ha-nam! Như thọ, tưởng, hành, thức không phải hoàn toàn là khổ mà có vui, thì sự vui mừng được nuôi lớn kia không lìa vui, là nhân khiến chúng sinh vướng mắc nơi thọ tưởng hành thức. Vì thế, nên chúng sinh vướng mắc nơi thọ tưởng hành thức.
Lại nữa, nói về ba thọ: Thọ lạc, thọ khổ, thọ không khổ không lạc. Nếu trong ấm chỉ có khổ không có vui, thì như nơi hai Kinh này làm sao thông? Đáp: Có thuyết nói: Trong ấm có vui.
Hỏi: Nếu trong ấm có vui, thì nơi Khế kinh Ma-ha-nam tức có thể khéo thông hợp. Còn như nơi Luận này làm sao thông? Vì sao nói khổ đế, không nói lạc đế?
Đáp: Tuy trong ấm có vui, nhưng chỉ là một ít. Do chỉ là một ít nên được lập trong phần khổ. Cũng như trong bình thuốc độc nhỏ vào một giọt mật, không nhân nơi một giọt mật mà bình thuốc độc được gọi là bình mật, vì chất độc nhiều, nên gọi là bình thuốc độc, không gọi là bình mật. Như thế, tuy trong ấm có vui, nhưng chỉ là một ít. Vì chỉ là một ít, nên được lập trong phần khổ.
Lại có thuyết nói: Trong ấm không có vui.
Hỏi: Nếu trong ấm không có vui, thì như nơi Luận này nói là có thể thông hợp, tức nên nói khổ đế không nói lạc đế. Còn như nơi Khế kinh Ma-ha-nam làm sao thông?
Đáp: Do kinh ấy nêu bày là thuộc về thế tục, cũng thuộc về Thánh đạo. Như thuộc về thế tục thì trong ấm có thể có vui. Như người đi bộ kia mỏi mệt, nghỉ ngơi một lát, liền nói là vui. Hơi lạnh rồi được ấm nên nói là vui. Đang nóng bức được mát mẻ chút ít nên cho là vui. Hơi đói khát được ăn uống liền nói là vui.
Như thuộc về Thánh thì trong ấm không có vui. Như Thánh quán trong địa ngục, các giới, nhập, ấm đều bị đốt cháy, cho đến xứ Hữu thứ nhất cũng như thế. Như vậy, trong ấm thuộc về thế tục là có vui, trong ấm thuộc về Thánh nhân thì không có vui.
* Thế nào là khổ tập Thánh đế? Là ái tập. Nghĩa là ái ấy nơi hữu vị lai tức có hỷ dục, đều cùng yêu thích hữu kia.
Hỏi: Như A-tỳ-đàm nói: Thế nào là tập đế? Là duyên nơi hữu lậu. Vì sao Đức Thế Tôn nói tất cả chủng tánh hữu lậu chỉ riêng hữu ái ở vị lai được lập là tập đế?
Đáp: Vì khi ái này thiết lập là tập tức đã gồm thâu chủng tánh ái. Thế nên Đức Phật nói tất cả chủng tánh hữu lậu chỉ một hữu ái nơi vị lai được lập là tập đế. Như khi tư thiết lập hành là đã gồm thâu chủng tánh ái, thế nên Đức Phật nói tất cả pháp tương ưng không tương ưng trong hành ấm, chỉ một thứ tư được lập làm hành ấm. Như thế, ái này lúc thiết lập làm tập là đã gồm thâu chủng tánh ái. Thế nên Đức Phật nói tất cả chủng tánh hữu lậu chỉ một hữu ái nơi vị lai được lập là tập đế.
Hoặc nói: Do ái là gốc rễ của khổ nơi quá khứ, vị lai, hiện tại. Như nói: Ái này là nhân gốc của khổ nơi quá khứ, vị lai, hiện tại, tức đem gốc làm duyên cho tập của hữu cùng khởi.
Hoặc cho: Ái luôn là chủ tăng thượng khi khổ chuyển biến. Như kệ nêu:
Như rễ cây không nhổ
Chặt đứt trở lại sinh
Không nhổ gốc rễ ái
Thường thường lại thọ khổ.
Nghĩa là ái luôn là chủ tăng thượng khi khổ chuyển biến, nên là như thế.
Hoặc nêu: Tức cho ái như là mẹ. Như kệ nói:
Sĩ phu sinh trong ái
Tâm kia dong ruổi hướng
Chúng sinh vào sinh tử
Thọ khổ não sợ hãi.
Tức cho ái như là mẹ, nên là như thế.
Hoặc nói: Các chủng loại nam, nữ từ ái được sinh ra, nuôi lớn. Tức các chúng sinh này luôn hướng đến khắp chốn đông tây nam bắc để tạo sự cung cấp, nuôi dưỡng cha mẹ, vợ con, nô tỳ, tất cả đều do ái. Như con chim này từ nơi một hang núi đã giết côn trùng, rồi tha mồi về để nuôi chim con, tất cả đều do ái. Tức các chủng loại nam, nữ từ nơi ái được sinh ra, nuôi lớn, nên là như thế.
Hoặc cho: Nghĩa là ái đối với số chúng sinh, số phi chúng sinh đã khiến sinh trưởng nuôi lớn. Tức các chúng sinh này đã nuôi chứa voi, ngựa, lạc đà, bò, lừa, la, heo, dê, nô tỳ, tích chứa vàng, bạc, lưu ly, xa cừ, mã não, san hô, hổ phách. Do ái nên khiến cho số chúng sinh, số phi chúng sinh được sinh khởi, nuôi lớn, nên là như thế.
Hoặc nêu: Do ái thường xuyên hiện hành vi tế. Như con dao bén cắt đứt vật nhưng vật không thể hay biết. Như thế ái này thường xuyên hiện hành vi tế, nên lúc ái hành tác thì không thể hay biết. Nên ái được lập là tập đế.
Hoặc nói: Ái là không biết chán đủ. Như người uống nước muối, uống rồi càng thêm khát. Như thế chúng sinh chưa dứt trừ dục, nếu gặp cảnh giới rồi thì ái càng tăng thêm, nên nói ái là không biết chán đủ. Do đấy nên như thế.
Hoặc cho: Ái là khó lìa bỏ, không thể dứt trừ. Như người bị hai quỷ La-sát bắt giữ: (1) Hiện làm hình mẹ. (2) Hiện làm hình mình. Nếu hiện hình mình thì người kia dễ phòng giữ. Còn hiện hình mẹ thì không thể phòng giữ. Như thế chúng sinh chưa trừ bỏ dục, phần nhiều bị hai kiết bắt giữ là ái và giận. Giận như hình mình, ở đây là dễ phòng giữ. Ái như hình mẹ, không thể phòng giữ. Tức ái là khó lìa bỏ, không thể loại trừ, nên là như thế.
Hoặc nêu: Ái gọi như là La-sát. Như La-sát trông thấy chiếc thuyền của người buôn bị hoại bèn đến hỏi han: Các Hiền đến đây là rất tốt! Các vị Đại tiên đến đây là rất tốt! Những dục lạc nơi vườn cảnh, lầu gác trong chốn này là nhiều vô kể. Nào cung điện, phòng nhà đều đáng ưa thích. Nơi đây có đủ các thứ châu báu, đều cùng đem cho nhau, có thể ở lại vui vầy với chúng tôi. Nếu những người kia hướng theo tham dục, tất sau đấy sẽ bị La-sát dứt bỏ mạng căn để ăn thịt. Ăn hết thịt rồi, các thứ tóc, lông, móng, răng còn lại, La-sát đều nhặt lấy ăn hết, không để sót. Lúc ăn thịt những người kia, các thứ máu, mủ rơi văng xuống đất, chúng đều dùng móng tay quơ cào để ăn sạch. Như thế, khi là nhân của ái này thì dung mạo vui vẻ, lúc thọ nhận quả liền khác, tức mạng căn trí tuệ bị đoạn dứt, bị đọa trong địa ngục, nhận lấy khổ ác tột cùng. Nên ái được gọi như là La-sát, tức nên như vậy.
Hoặc nói: Ái đã ngâm thấm cùng ngăn trở. Tức ái này đã ngâm thấm cùng ngăn trừ khiến chúng sinh không đạt đến Niết-bàn. Như loài nhặng bị chất keo khiến dính trên bình mật. Và sức của chất keo nhão nấu bằng da bò kia đã khiến cho loài nhặng không thể bay lên. Như thế, chúng sinh này bị ái ngâm thấm ngăn trở, nên không có sức để đi đến Niết-bàn, tức nên như vậy.
Hoặc cho: Ái này đã dấy khởi loài trùng độc nơi sinh tử. Như ở chỗ có nước, loài trùng độc kia có thể sinh khởi các trùng độc. Như thế, ái dấy khởi loài trùng độc nơi sinh tử, tức nên như thế.
Hoặc nêu: Tánh của ái là hủy hoại, làm ly tán đối với các pháp hữu vi có thể tụ hợp. Như dùng tánh tụ hợp của nước để làm tan hoại cát. Như thế, tánh của ái này là hủy hoại, làm ly tán các pháp hữu vi có thể tụ hợp.
Hoặc nói: Ái làm thấm ướt tất cả pháp sinh tử khiến cho không khô héo. Cũng như nước làm thấm ướt tất cả các loại cỏ thuốc, cây cối khiến không khô héo. Như thế, ái làm thấm ướt tất cả pháp sinh tử khiến không khô héo, nên ái được lập là tập đế.
Hoặc cho: Ái làm thấm ướt các chủng tử của thức, sinh khởi mầm hữu. Như nước đã ngâm thấm hạt giống, mầm cây được sinh khởi. Như thế, ái làm thấm ướt các chủng tử của thức, phát sinh mầm của hữu.
Hoặc nêu: Ái nếu gắn liền trong tâm ý, thì các thứ kiết khác đều gắn chặt. Cũng như nơi áo có chất mỡ béo thì bụi cấu dễ bám vào. Như thế, ái này gọi là gắn liền trong tâm ý, thì các thứ kiết khác đều gắn chặt.
Hoặc nói: Nếu ái ưa thích ở trong tâm ý, thì các kiết khác đều ưa thích. Cũng như nơi chốn có nước, thì tôm, cua, ếch, nhái đều thích ở trong ấy. Như thế, nếu ái ưa thích ở trong tâm ý, thì các kiết khác đều ưa thích theo.
Hoặc cho: Ái nhận lấy tên của ba loại: Đầu tiên được mang tên là chủng loại ái. Tăng trưởng rộng gọi là chủng loại thọ. Đã lặn mất gọi là chủng loại vô minh. Nghĩa là ái đã nhận lấy tên gọi của ba loại hữu.
Hoặc nêu: Ái được nói như lưới giăng, được nói như nước, được nói như rưới nước. Như Đức Phật nói: Này Tỳ kheo! Ta sẽ vì các ông giảng nói về ái như lưới giăng, như nước, như rưới nước.
Tức các chúng sinh này đã bị ấm cái che lấp ở trong triền.
Hoặc nói: Ái được nói là không thể tính kể. Như kệ nói:
Vốn có một ái này Ái ấy liền có hai:
Ái là vòng xích nối
Ái kia không thể kể.
Tức nói ái là không thể tính kể.
Hoặc cho: Ái là nói rộng. Như kệ nêu:
Rộng, không gì hơn đất
Sâu, không gì vượt biển
Cao, gì vượt Tu-di
Sức, ai hơn Na-diên? Đức Phật đáp bằng kệ:
Rộng không gì hơn ái
Lòng thật khó làm đầy
Kiêu, mạn luôn tăng thượng
Đại sĩ, ai hơn Phật?
Hoặc nêu: Ái làm nhiễm ô tất cả chủ tăng thượng của chánh thọ. Như Luận A-tỳ-đàm nói: Vị tương ưng nơi thiền thứ nhất nên nói là nhập vị hay nên nói là khởi vị? Đáp: Nếu vị là nhập rồi thì vị ấy là khởi. Hỏi: Vị tương ưng cho đến xứ hữu tưởng vô tưởng: Nên nói là nhập vị hay nên nói là khởi vị? Đáp: Nếu vị là nhập rồi, thì vị ấy là khởi. Tức là ái làm nhiễm ô tất cả chủ tăng thượng của chánh thọ.
Hoặc nói: Dựa vào ái nên nơi thai mẹ có chỗ nương dựa. Nhân nơi sự bất tịnh của cha mẹ nên có tinh huyết thành thai.
Hoặc cho: Ái đã nhận giữ sự cuồng ngu, như La-sát nữ. Như nói: Già-di-ni đã nhận giữ là ái.
Hoặc nêu: Ái là chỗ dựa của hữu vị lai, dựa nơi dục khiến có được thân vị lai ưa thích dục. Ưa thích dục rồi thì mong cầu, mong cầu xong thì chuyển biến thành hình.
Hoặc nói: Tức là ái khiến cõi đoạn, địa đoạn, chủng tánh đoạn, căn đoạn.
Hoặc cho: Ái chứa đầy tất cả các thứ kiết.
Hoặc nêu: Ái là hàng đầu khi nói về mười pháp. Như Đức Phật nói: Này A-nan! Nhân nơi ái nên cầu tìm. Nhân nơi cầu tìm nên được lợi. Nhân nơi lợi nên tính toán, so sánh. Nhân nơi tính toán, so sánh nên ham muốn. Nhân nơi ham muốn nên tham đắm. Nhân nơi tham đắm nên keo kiệt, không buông bỏ. Nhân nơi keo kiệt nên không thể bỏ gia sản. Nhân nơi gia sản nên giữ lấy. Nhân nơi giữ lấy nên biết. Này A-nan! Nên biết là có đao, gậy. Nhân có đao, gậy nên có tranh chấp, dua nịnh, lừa dối. Trong tâm ý nói dối nên sinh vô lượng pháp bất thiện.
Vì vậy nên nơi Khế kinh Phật nói: Tất cả chủng tánh hữu lậu chỉ riêng một hữu ái nơi vị lai được lập là tập đế.
* Thế nào là khổ tận Thánh đế? Là ái đoạn dứt hết. Nghĩa là ái này cùng với hỷ dục của hữu vị lai đều được đoạn trừ, loại bỏ rốt ráo, các thứ dục đều vắng lặng, chìm mất.
Hỏi: Như đây cũng là tập tận, vì sao Đức Thế Tôn nói khổ tận, không nói là tập tận?
Đáp: Tức nên nói. Như nói khổ tận thì tập tận cũng như thế. Nếu chưa nói là do Đức Thế Tôn giảng nói chưa trọn vẹn. Lại, đây là nghĩa được hiện bày, là nghĩa môn, nghĩa tóm lược, nghĩa độ, nên biết.
Hoặc nói: Vì nhằm giáo hóa chúng sinh khiến cho người nghe sinh khởi mong muốn. Như Đức Phật nói khổ tận, như thế tức người thọ nhận sự hóa độ nghe xong thì mong muốn được dứt trừ hết khổ. Người kia suy nghĩ: Sự tận trừ ấy là hết sức vi diệu. Tức lìa bỏ các thứ khổ xấu ác này. Thế nên nơi Khế kinh Đức Phật nói khổ tận, không nói tập tận.
* Thế nào là khổ tận đạo Thánh đế? Tức tám Thánh đạo: Là chánh kiến, chánh chí (chánh tư duy), chánh ngữ, chánh nghiệp, chánh mạng, chánh phương tiện (chánh tinh tấn), chánh niệm, chánh định.
Hỏi: Theo như đây cũng là tập tận đạo, vì sao nói khổ tận đạo không nói tập tận đạo?
Đáp: Tức nên nói. Như nói khổ tận đạo, thì nói tập tận đạo cũng như vậy. Nếu chưa nói, tức đây là do Đức Thế Tôn giảng nói chưa trọn vẹn. Lại đây là nghĩa được hiện bày, là nghĩa môn, nghĩa tóm lược, nghĩa độ nên biết.
Hoặc nói: Tập kia ở trong đây đã nói. Nghĩa là lìa tập thì không có khổ, lìa khổ thì không có tập. Đã nói khổ tận đạo, nên biết là đã nói tập tận đạo.
Hoặc cho: Vì để giáo hóa chúng sinh nhằm khiến cho họ có sự mong muốn. Như Đức Phật nói khổ tận đạo, thì những người thọ nhận sự hóa độ vừa nghe xong tức mong muốn đạt được đạo. Những người ấy suy nghĩ: Đạo kia rất vi diệu, nghĩa là có thể dứt trừ các khổ tệ ác ấy.
Hoặc nêu: Lúc không thọ nhận khổ là hiện bày công sức của đạo.
Hỏi: Về nghĩa của đạo là có thể khiến nhân không tạo nhân chăng? Có thể khiến quả không phải là quả chăng?
Đáp: Ta không thể khiến nhân không tạo nhân, không thể khiến quả không phải là quả. Song, về nhân và duyên sinh ra khổ, tức duyên và nhân kia cần phải hủy hoại. Người ấy lại không còn nhận lấy khổ, không còn cùng với khổ tiếp nối, không còn cùng với khổ tạo nhân. Đây gọi là không còn thọ nhận khổ, hiện bày công sức của đạo.
Hoặc nói: Vì nhằm dứt trừ sự hủy báng Thánh đạo nên nói là khổ tận đạo. Nghĩa là có trường hợp bảy tám tuổi đạt được quả A-lahán. Hoặc cho đến trăm tuổi vẫn còn ở trong sinh tử thọ nhận nhiều khổ. Người thế gian hủy báng Thánh đạo, cho là không thể diệt trừ khổ não. Đức Thế Tôn nói: Đạo thích ứng là nhằm đoạn trừ khổ nơi vị lai. Thọ mạng hết, không còn thọ nhận khổ, lại không còn khổ nối tiếp, cũng không còn cùng với khổ tạo nhân. Đó gọi là vì nhằm dứt trừ sự hủy báng Thánh đạo, nên nơi Khế kinh Đức Phật nói khổ tận đạo, không nói tập tận đạo.
Như nơi Khế kinh, Đức Thế Tôn nói: Vô lượng chủng loại các pháp thiện hòa hợp. Tất cả các pháp ấy đều gồm thâu nơi bốn Thánh đế. Bốn Thánh đế đối với các pháp thiện kia được nói là đệ nhất, vì đã gồm thâu chúng. Như chân của những loài thú hoang dã đều gồm thâu vào trong chân voi. Chân voi đối với các thứ chân kia được nói là đệ nhất, nghĩa là rộng lớn. Thế nên, vô lượng chủng loại các pháp thiện hòa hợp. Tất cả các pháp ấy đều gồm thâu nơi bốn Thánh đế. Bốn Thánh đế đối với các thứ pháp thiện kia là đệ nhất.
Hỏi: Tức như có ba Thánh đế là hữu vi nên hòa hợp, nhưng tận đế là vô vi làm sao hòa hợp?
Đáp: Giả như không hòa hợp, nhưng do gồm thâu nên gọi là hòa hợp.
Hoặc nói: Đây là nói có thể được. Tuy tận đế kia không hòa hợp, nhưng vẫn được xem là hòa hợp. Đây gọi là vì có thể được hòa hợp, nên nói là hòa hợp.
Hoặc cho: Hòa hợp là nói hai thứ: Có hòa hợp và duyên khởi hòa hợp. Ba đế này có đủ hai thứ hòa hợp là có hòa hợp và duyên hòa hợp. Còn tận đế kia không có duyên khởi hòa hợp chỉ có một thứ hòa hợp gọi là có hòa hợp.
Như nơi Khế kinh Đức Thế Tôn nói: Đối tượng quán của tuệ căn là gì? Là bốn Thánh đế.
Hỏi: Do gồm thâu nên nói hay là do duyên nên nói? Nếu do gồm thâu nên nói, thì không thể cho tuệ căn gồm thâu bốn Thánh đế, cũng không phải bốn Thánh đế gồm thâu tuệ căn. Nếu do duyên nên nói, thì tất cả pháp đều là duyên chăng?
Đáp: Không phải do gồm thâu nên nói. Cũng không phải do duyên nên nói.
Hỏi: Nếu không như vậy thì sự việc này là thế nào?
Đáp: Do nhân nơi sự. Sự của tuệ căn này được xem là chủ tăng thượng của bốn Thánh đế. Thế nên Đức Thế Tôn nói: Đối tượng quán của tuệ căn là gì? Là bốn Thánh đế.
Sự của tín căn được xem là chủ tăng thượng của bốn tín bất hoại, thế nên Đức Thế Tôn nói: Đối tượng quán của tín căn là gì? Là bốn tín bất hoại.
Sự của tinh tấn căn là chủ tăng thượng của bốn ý đoạn, thế nên Đức Thế Tôn nói: Đối tượng quán của tinh tấn căn là gì? Là bốn ý đoạn.
Sự của niệm căn là chủ tăng thượng của bốn ý chỉ, thế nên Đức Thế Tôn nói: Đối tượng quán của niệm căn là gì? Là bốn ý chỉ.
Sự của định căn là chủ tăng thượng của bốn thiền, thế nên Đức Thế Tôn nói: Đối tượng quán của định căn là gì? Là bốn thiền.
Như thế, sự của tuệ căn này là chủ tăng thượng của bốn Thánh đế, thế nên Đức Thế Tôn nói: Đối tượng quán của tuệ căn là gì? Là bốn Thánh đế.
Bốn Thánh đế là Khổ Thánh đế. Tập Thánh đế. Tận (Diệt) Thánh đế. Đạo Thánh đế.
Hỏi: Như trước là nhân, sau là quả, vì sao Đức Thế Tôn trước nói khổ, sau nói tập?
Đáp: Vì khổ này là thô nên nói trước. Tập là vi tế nên nói sau. Như người học bắn vào bia, trước tập bắn vào khối đất, bó cỏ, sau mới có thể bắn dính vào lợi lông không sai lạc. Như thế, vì khổ này là thô nên học trước, sau đấy mới quán về tập đế vi tế.
Hỏi: Như trước là tu đạo, sau mới tác chứng về tận (diệt), vì sao Đức Thế Tôn trước nói tác chứng về tận, sau mới nói tu đạo?
Đáp: Vì quán về tận (diệt) rồi, quán về đạo là tùy thuận.
Hỏi: Vì sao nói quán về tận, quán về đạo là tùy thuận?
Đáp: Vì Hành giả kia, trước tác chứng về tận xong, sau đấy mới cầu đạt đạo, tức nên do đạo nào để đạt đến Niết-bàn? Như người khi muốn đi tiếp trên đường, cần hỏi người khác chỉ cho mình biết về đường ấy. Người kia lại hỏi: Muốn đến nơi chốn nào? Tôi muốn đến thành đó. Người kia nói: Đây là con đường ông biết. Đã biết con đường dẫn đến thành kia tức dễ dàng đi tới. Như thế, nếu trước nói đạo, sau mới nói tận, tức không biết mình hướng tới đạo nào. Nếu như trước nói tận, sau nói đạo, tức khi đã biết tận tất dễ dàng tu đạo.
Hoặc nói: Hành giả kia nhân nơi đạo, trước hết dứt trừ si của ba đế, sau đấy duyên nơi mỗi mỗi đạo hiện bày ở trước. Nghĩa là trừ bỏ si của đạo đế. Như người trước thấy mặt người khác, không tự thấy mặt mình, nhờ dùng gương sáng sạch để tự soi thấy mặt mình. Như thế, Hành giả kia nhân nơi đạo, trước hết trừ bỏ si của ba đế, sau duyên nơi mỗi mỗi đạo hiện bày trước, tức là trừ bỏ si của đạo đế.
Thế nên Đức Thế Tôn trước nói tận, sau mới nói đạo.
Hỏi: Như trước là đoạn trừ tập, sau mới nhận biết khổ, vì sao Đức Thế Tôn trước nói nhận biết khổ, sau mới nói đoạn trừ tập?
Đáp: Vì muốn nhổ sạch gốc rễ của khổ. Như cây cối trước tóm gọn nhánh lá, sau chặt đứt rễ thì dễ. Như thế, cây sinh tử trước nhận biết khổ rồi, sau đoạn trừ tận thì dễ, vậy nên nói như thế.
Hoặc nói: Ở đây quán về khổ có thể dẫn đến quán về tập. Quán về tập xong có thể dẫn đến quán về tận. Quán về tận xong có thể dẫn đến quán về đạo. Không thể do không quán về khổ lại có thể quán về tập, tận, đạo.
Hoặc cho: Tuệ của khổ có thể dẫn đến tuệ của tập, tận, đạo. Không thể do không dấy khởi tuệ của khổ mà có thể dấy khởi tuệ của tập, tận, đạo.
Hoặc nêu: Dựa vào môn phương tiện để quán về khổ, quán về tập, tận, đạo. Không thể do không dấy khởi quán về khổ lại có thể dấy khởi quán về tập, tận, đạo.
Hoặc nói: Tức quán về khổ, quán về tập, tận, đạo là nhân nơi căn, đem phần gốc tạo duyên, có tập cùng khởi. Không thể do không dấy khởi quán về khổ lại có thể dấy khởi quán về tập, tận, đạo.
Hoặc cho: Quán về khổ, quán về tập, tận, đạo, sinh nắm giữ cùng nắm giữ, làm tăng trưởng nuôi lớn. Không thể do không khởi quán về khổ lại có thể khởi quán về tập, tận, đạo.
Hoặc nêu: Si của khổ có thể giữ lấy phần si của tập, tận, đạo. Không thể do không trừ bỏ si của khổ mà có thể trừ bỏ si của tập, tận, đạo.
Hoặc nói: Khổ không si có thể khiến tập, tận, đạo không si. Tức không thể không dùng không si của khổ để có thể khiến tập, tận, đạo không si.
Tôn giả Ba-xa nói: Hành giả kia quán về năm ấm như ung nhọt xong, sau đấy mới tìm cầu về nhân. Ung nhọt ấy từ đâu phát sinh? Quán biết từ tập sinh. Làm sao khiến ung nhọt ấy không còn? Đó là Niết-bàn diệt tận. Làm sao đạt đến Niết-bàn? Tức tám Thánh đạo. Như trong thân người sinh ra ung nhọt rất khổ sở, vì máu mủ chảy ra. Người kia tìm cầu nguyên do, xem ung nhọt ấy từ đâu phát sinh? Quán biết hoặc do gió lạnh, nóng. Làm sao khiến từ xứ không an ổn đến được xứ an ổn? Hoặc uống thuốc khiến ung nhọt kia xẹp xuống, hoặc phá vỡ. Như thế, hành giả kia quán về năm ấm như ung nhọt xong, sau đấy mới tìm cầu về nguyên do ung nhọt này từ đâu phát sinh? Quán biết từ tập sinh. Làm thế nào để khiến ung nhọt ấy không còn? Đó là Niết-bàn diệt tận. Làm sao đạt đến Niết-bàn? Là do tám Thánh đạo.
Lại nữa, Hành giả quán về năm ấm như tai họa xong, sau đấy tìm cầu về nguyên nhân của tai họa này từ đâu phát sinh? Quán biết từ tập sinh. Làm thế nào để tai họa ấy không còn? Đó là Niết-bàn diệt tận. Làm sao đạt đến Niết-bàn? Là nhờ tám Thánh đạo.
Như người có con trẻ làm giặc hung bạo, theo loại tri thức xấu ác, sau đấy tìm hiểu về nguyên nhân: Ai khiến cho con ta hư hỏng? Quán biết từ tri thức xấu ác phát sinh. Ai có thể chế ngự, điều phục? Quán biết do thiện tri thức.
Như thế, hành giả kia quán về năm ấm như tai họa xong, sau đấy tìm cầu nguyên nhân: Tai họa này từ đâu phát sinh? Quán biết từ tập sinh. Làm thế nào để tai họa ấy không còn? Đó là Niết-bàn diệt tận. Làm sao đạt đến Niết-bàn? Là do tám Thánh đạo. Thế nên Hành giả kia, trước đã nhận biết về khổ xong, sau tức đoạn trừ tập, đoạn trừ tập rồi, tiếp theo tác chứng về tận, tác chứng về tận xong, sau là tu đạo.
Do đấy nên trước nói khổ, sau nói tập, tận, đạo.
HẾT – QUYỂN 8