LUẬN TỨ ĐẾ
Nguyên tác: Bà-tẩu-bạt-ma Hán dịch: Đời Trần, Tam tạng Chơn Đế, người nước Thiên Trúc
Việt dịch: Linh Sơn Pháp Bảo Đại Tạng Kinh
Hội Văn Hóa Giáo Dục Linh Sơn Đài Bắc Xuất Bản

 

QUYỂN 1

Phẩm Thứ Nhất: TƯ TRẠCH

Bát nhã hiện khắp ở các pháp
Đại bi thâu nhiếp lấy chúng sanh
Vô tướng giảng nói về chánh đạo
Đảnh lễ bậc Trời, người tôn kính
Đại Thánh Ca Chiên diên tạo luận
Ngôn từ giản lược nghĩa rộng sâu
Đại đức Phật đà Mật lại soạn
Ngôn từ và nghĩa nói diễn rộng
Lại có thứ tự lời trang nghiêm
Với nghĩa rộng và lược tương xứng
Tên gọi, lý lẽ thuận thuộc nhau
Tôi đã xem qua hai luận này.
Nay thì tìm trong nghĩa rộng, lược
Mà tạo luận đây lượng vừa phải.
Vì lợi ích người nhận nên nói,
Để chánh pháp được trụ lâu dài.
Nếu người thấu đạt nghĩa bốn Đế,
Bốn thứ tin rồi khó lay động,
Thì không còn xem nơi pháp khác
Vĩnh viễn xa lìa bốn đường ác.
Trời người… bát bộ thảy được biết
Về sau ắt vượt qua bờ khổ
Cho nên, tôi tạo luận bốn đế
Không vì mong cầu tâm ngã mạn…
Với nhiều loại nghĩa duyên khởi ấy,
Cú, vị trước sau thuận nói ra
Người khác vấn nạn và giải nghĩa
Các tướng tổng biệt lý tương ưng
Chứng minh nghĩa ấy cùng thí dụ
Dựa đây mà nói về bốn đế
Ngyện cho chúng sinh biết rõ đây
Được quả báo Trời, được Niết-bàn.

Thánh đế có bốn. Ở đây nói do nhân duyên gì mà Đức Phật, Thế Tôn đã giảng nói Kinh như vậy. Vì sao Thánh đế có bốn mà không thêm, không bớt? Thánh và Đế có nghĩa thế nào? Nếu vì Thánh mà gọi là đế, thì hai đế trước không nên gọi là đế. Nếu nói vì là đế của bậc Thánh nên gọi là đế, thì nghãi không quyết định. Lại có kinh dạy: Đế chỉ có một, không hai, tại sao có bốn nghĩa mà không bị phá hoại.

Lại có kinh dạy: Tất cả pháp hành gọi là khổ. Cho nên, chỉ có hai đế, nghĩa bốn đế không thành. Lại nữa, trong Kinh Tăng nhất cũng có dạy: Các pháp được thiết lập từ một đến hai cho đến rất nhiều. Vì sao nghĩa của Đế chỉ có một không tăng một dần. Lại nữa, bốn tướng của chúng đã không đồng nhau, thì làm sao cùng một lúc lại quán được tất cả. Lại nữa, đế của Bà-la-môn cũng có bốn tứơng, thì bốn đế của bậc Thánh có gì sai khác? Trì tán kệ viết: (Kệ tóm tắt):

Làm thế nào bốn Thánh đế kia
Và chẳng phải đế, cảnh bất định
Chỉ hai, hoặc thêm đều cùng quán
Thánh đế thanh tịnh đâu gì khác?

Vì sao chư Phật đối với Bốn đế có cùng một ý? Vì sao cho Bốn đế là pháp thuyết giảng chính yếu trên hết của chư Phật? Vì sao cùng quán Bốn đế là cảnh? Trí tuệ thì bình đẳng mà quả thì có khác nhau. Tại sao bậc A-la-hán đối với Bốn đế trí tuệ viên mãn không còn sót, nhưng không đồng với Nhất thiết trí của chư Phật đã chứng đắc. Nếu không đồng, tức đối với trong Bốn đế phải có vô minh. Nếu tất cả pháp thuộc về trong bốn đế, thì kinh Thắng xa-ba-diệp-thí, phải cần sửa đổi để hiểu. Nếu không sửa đổi để hiểu thì phải có năm đế. Nếu không có năm đế thì các pháp khác chẳng phải là đế, hoặc Bốn đế như Khổ… gọi là Thánh đế.

Lại nói: Chỉ một Khổ là đã đầy đủ Thánh đế. Như vậy các kinh điển đều không cần giảng nói. Nếu trí của Bốn đế gọi là Khổ, thì nghĩa này không đúng. Nếu biết một đế là biết các đế khác, thì giảng nói ba đế sau cũng vô ích. Vì sao trước là nói về Khổ đế? Nếu chưa nói nhân, mà trước nói về quả thì tức trái với mười hai nhân duyên sinh? Vì sao nói Đạo đế sau Diệt đế? Trì tán kệ viết:

Trên một ý quả có khác nhau
Nhất thiết trí ví dụ như lá
Bốn đã trái, thì một vô dụng
Trước nói Khổ, là nhân duyên diệt.

Thánh đế có bốn. Vì sao Thế Tôn nói Kinh này?

Đáp: Vì muốn các đệ tử chứng đắc đạo Thánh. Do trước ở ngoại đạo, chấp giữ pháp tà, hoặc thường làm các việc ngoại đạo, hoặc đạo không ở một chỗ, đạo hộ mạng, đạo trái nhau, đạo lão Thanh văn, đạo Tư Cù đàm, đạo Điểu xí y, đạo thờ nước, đạo bện tóc, đạo thờ lửa, đạo lỏa hình…các đạo như vậy đều đã tán thán pháp của mình: Chỉ có pháp của Ta là chân thật không sai khác, không chống trái, bất tử là quả. Pháp của các phái khác không như vậy. Nghe họ nói rồi, trí không quyết định: các pháp như vậy sao gọi là chân thật, sao gọi là không chân thật? Các đệ tử ấy đối với đế, chẳng phải đế, dấy khởi vô minh, mê hoặc. Vì hiển bày đế chân thật, nên Đức Phật nói kinh này. Ví như có người lấy chuỗi ngọc giả để phô trương lừa dối, khiến cho người nghe thấy cho là chuỗi ngọc thật. Lại nữa, có các pháp khác nhau mà lại nói như nghĩa này. Nếu bỏ tục chấp giữ hình tướng Sa-môn; ở nơi A-lan-nhã, thực hành pháp đầu đà, gặp pháp bạch y, bỏ hết tài vật, giữ lấy tàm quý, ngự tên xe giới, điều phục ngựa căn, mài dũa khi giới, mặc áo giáp định; do làm các việc đó, mà tự cho “Chúng ta là Sa-môn chân thật” Những người này, sanh khởi tăng thượng mạn Sa-môn . Vì khiến cho họ nhận thức rõ nghĩa Sa-môn chân thật, nên đức Phật giảng nói kinh này hiển bày nghĩa đó, vì thông tỏ Bốn đế, ở trong pháp Thánh, thành Sa-môn chân thật, không do việc làm nào khác. Như trong kinh Sa-môn đã giảng nói, hoặc trong các kinh cũng đã giảng thuyết đầy đủ. Sa-môn chân thật là do quán Bốn đế mà thành tựu, chứ không do sự tu hành rốt ráo ở thế gian, đạt được Hữu lưu mà cho là Sa môn. Như phái lõa hình nói kệ.

Lại nữa, đã thoát khỏi chín nạn, Đức Phật trước đã sinh các pháp nhân chán lìa, dùng hương thiện căn huân tập vào tâm mình, đã tăng trưởng tư lương của Thánh đạo, ý hành thanh tịnh, thông suốt các Thánh đế, chuyên cần tu tập tâm, để được uống thuốc trí Thánh đế, vì thế Đức Phật đã giảng nói kinh này. Như bác sĩ biết bệnh mà cho thuốc vậy!

Lại nữa, nghe các khổ của đường ác thật khó nhẫn chịu nên sinh tâm chán ghét, sợ hãi. Vì những người như thế, để hiển bày nhân duyên không đọa vào các đường ác, nên Đức Phật nói kinh này. Vì sao? Vì vào trong địa ngục để chịu thay cho chúng sanh, sáu phương đều bị lửa cháy vây quanh, thân thể, cử động rỗng suốt như sắc vàng bị nấu chảy. Hơi thở ra vào của họ đều là lửa cháy, bị những khổ thiêu đốt. Lại có những người chịu nhiều khổ nạn như: Nuốt viên sắt nóng, uống nước đồng sôi, hoặc bị chặt, chém, đâm, móc; lại bị loài chó và chim mõ sắt gậm mổ; hoặc sanh làm ngạ quỷ thường bị đói khát cực khổ, bức bách thân thể, cuống họng nhỏ như lổ kim, luôn luôn thèm khát ăn uống nhưng vẫn đói thiếu. Khát khao tìm nước mà do nghiệp đời trước ràng buộc, dù đến bên bờ sông, dòng nước cũng liền khô cạn; hoặc thấy máu huyết, đồ dơ uế đầy dẫy; hoặc gặp cây lá hoa quả, lại biến thành rừng trống rỗng.

Như có kệ nói:

Trăng nóng như ngày hạ
Gió chạm như lửa đốt
Giọt mưa như nước sôi.
Mặt đất như tro nóng.

Thế nên ngạ quỷ chịu khổ vô cùng. Hoặc làm súc sanh thì thường bị trói nhốt trong lồng, hay bị đâm chém, đánh đập, ăn thịt lẫn nhau, nghi ngờ lo sợ lẫn nhau, tâm thường bất an, luôn chịu khổ như đây. Hoặc sanh nơi Tu la, oán ghét keo kiệt, ngã mạn, gây gỗ chịu những khổ này. Đệ tử chư Phật, nghe nơi đường ác có những khổ như vậy, lo sợ mình bị đọa vào chốn đó. Vì muốn hiển bày Bốn đế, biết rõ bốn đế ấy không là nhân duyên đọa lạc, cho nên nói kinh này. Ví như người phải chìm xuống biển, bèn ban cho thuyền bè để cứu vớt người ấy. Trong kinh có dạy: Nếu có chúng sanh, đối với các khổ như thế, mà có khả năng biết đúng như thật; thì được thoát khỏi tất cả các khổ sanh lão bệnh và bốn đường ác.

Lại nữa, vì muốn cho chúng sanh xa lìa năm thứ tà ngữ dối gạt:

  1. Thường sanh các điều ác.
  2. Người ác tiếp nhận thực hành.
  3. Người hiền xa lánh.
  4. Thường phát khởi phiền não.
  5. Lừa dối là thể.

Lại muốn cho người khác, nói năm thứ chánh ngữ, để làm lợi ích cho chúng sanh:

  1. Tương ưng với đức của chính mình (Thánh).
  2. Người thện tiếp nhận thực hành.
  3. Tăng trưởng các thiện căn.
  4. Khiến xa lìa rừng rậm gai nhọn sanh tử.
  5. Khiến cho đạt được sự an lạc chân thật.

Vì muốn từ bỏ năm loại tà ngữ, thực hành năm chánh ngữ, do đó nói kinh này. Như làm cho bỏ vật báu giả để nhận lấy báu quí thật. Như trong kinh dạy: Đừng nói lời tà ác là chân thật. Nếu Tăng chúng tập họp cần phải thực hành hai việc:

  1. Sự im lặng của Thánh nhân.
  2. Lời nói chánh pháp của Thánh nhân.

Lại nữa, có các phàm phu riêng tự chấp trước các đế riêng khác. Như nói chấp của ta là thật, của người khác là chẳng thật. Do chấp đây, nên tranh cãi lẫn nhau. Như người mù bẩm sanh nhận thức về voi. Vì muốn hiển bày sự thù thắng nhất, không có sự tranh cải đến chết, không có điên đảo không còn dấy khởi nữa, đó chính là trí tuệ Thánh đế, vì vậy Phật nói kinh này. vì hiện có ý này: các người nói ngã là đoạn, là thường, họ tranh cải lẫn nhau; người thấy được Bốn đế thì không như vậy, vì thấu rõ chân không. Như kinh của phái Khư Đa Kha đã nói. Lại nữa, nương tựa vào bậc thầy chân chánh, an trú nơi trống vắng, thực hành hạnh đầu đà, giảm thiểu những vật dụng nuôi sống, gìn giữ sáu căn, ăn uống biết đủ, đầu đêm cuối đêm tĩnh giác, nhất tâm lắng nghe, pháp như lý suy lường, lời thuyết giảng chân chánh cho đến tụng đọc; ngồi ngay thẳng, vắng lặng định quán sổ tức. Do nhân duyên này, thành thục nối tiếp nên tâm tĩnh lặng vi tế, ít loạn động. Vì muốn cho những người như vậy được thông suốt nên Phật nói kinh này. Như người đã thuần thục lại còn cho thêm thuốc tốt. Nghĩa chân thật chỉ dùng căn trí gọi là thông đạt. Nên biết căn này duyên với bốn Thánh đế, chính là thông đạt điều được nói trong kinh. Lại nữa, để phá trừ bốn thứ mê hoặc, nhằm hiển bày hai phương tiện mà giảng nói kinh này. Như kệ nói:

Sanh khởi diệt lìa minh
Cùng các loại tà chấp.
Sáu mươi hai kiến chấp
Vô minh trong nhân quả.
Vì đoạn trừ hoặc này…
Muốn rỏ lý bất động,
Và duyên buộc, giải thoát,
Nên Phật nói kinh này.

Lại nữa, Phạm thiên, chư Thiên, các Tiên, loài Người, Bà lợi, Tu la, Rồng, Dạ xoa, Thần, Diêm ma… do không thấy Bốn đế, nên chẳng thoát khỏi ngục ba cõi. Như tằm kéo tơ, như bánh xe lưu chuyển mãi trong sáu đường, mê mờ chạy vào bóng tối, rơi xuống hố sâu hang hiểm, bị lửa nóng thiêu đốt. Nếu thấy được bốn Thánh đế, thì dứt trừ vô minh u tối, được ánh sáng trí tuệ, thoát khỏi bốn chốn ác, tức không mong thấy đạo khác. Do bốn Thánh đế này chơn thật, không hai, không điên đảo, không tranh chấp; có khả năng thành tựu cái dụng xuất thế của Như lai. Vì muốn hiển bày nghĩa ấy, nên nói Kinh này. Luận chủ muốn bày tỏ nghĩa Bốn đế không có gì bằng, cho nên nói bài tụng (Thủ lô kha):

Biết Đế ngoại (ngoại đạo), không lìa
Lý luật hành thắng, thua
Không thể qua biển lớn:
Sanh, lão, tử, ưu, bi;
Tức trí tuệ Thánh này
Tham, sân khởi tranh cãi.
Người trí cầu giải thoát
Đế ngoại không nên biết.
Nếu người thấy Thánh đế,
Pháp thù thắng thoát ác,
Lìa lỗi không nhiễm trược,
Thường hành bốn đẳng tâm
Mọi khổ liền biến mất,
Giải thoát ngục ba cõi.
Thông tuệ cầu Niết bàn
Cần phải thấy Thánh đế.

Trì tán kệ nói:

Đệ tử và Sa môn
Thoát nạn, sợ đường ác
Dứt lỗi lầm tà chấp
Phật phá để hiển Phạm.

Vì sao gọi là Thánh đế? Sao chỉ có bốn thứ, không thêm, không bớt?

Đáp: Ở đây hỏi mà chẳng phải hỏi. Vì nếu là tất cả pháp thì như thế có lỡi vô cùng. Lại nữa, để đối trị bốn thứ: Thân kiến, đoạn kiến, thường kiến, vô sự kiến, nên Thánh đế có bốn. Lại nữa, vì đối trị bốn điên đảo nên nói Bốn đế, như bốn Niệm xứ. Lại nữa, vì nhằm xa lìa bốn chấp tà, bởi tất cả chúng sanh đều có bốn thứ tà chấp. Bốn đó là gì? Là quả, nhân, giải thoát, phương tiện. Một là quả tà chấp quả: Do ngã kiến tạo nghiệp nhớ nghĩ, tham ái Ấm, Giới, Nhập … đã sinh ra với những bất tịnh dơ uế giống như chó chết. Lại ba ngọn lửa khổ theo sát thiêu đốt, dù cứng chắc như kim cang cũng bị vô thường phá hủy; ngã, ngã sở sai khiến người tạo tác, người nhận lấy, cũng sai khiến người nhận lấy biết đó là chỗ xa lìa Thường, Lạc, Ngã, Tịnh. Đây tức là tà chấp quả. Vì để xa lìa chấp này, nên giảng nói Khổ Thánh đế. Hai là tà chấp nhân: Nghĩa là chấp chủ thế gian, Phạm vương, người Tự tại; cùng một lúc tự tánh định sẳn, tự nhiên, chẳng phải do nghiệp nhân đời trước. Thế Tôn dạy: Túc, Dược, Địa, Thủy, Hỏa, Phong, Lân, Hư, Không v.v… Những cái đó chẳng phải nhân. Nhân không bình đẳng, mà chấp là nhân sanh, đó gọi là tà chấp nhân. Để xa lìa chấp nầy, nên giảng nói Tập đế. Ba là tà chấp giải thoát: Quay về với thực tế, chỉ mới tạm xả những quả, mà đã cho là giải thoát! Chẳng nhất định, chẳng vĩnh viễn cũng chấp là giải thoát! Để phá tà chấp nầy, nên giảng nói Diệt đế. Bốn là tà chấp phương tiện: Là chấp xa lìa những việc như ăn, mặc, nằm, ngồi, chỗ ở… hoặc tự hành xác thân đủ cách, cho đến lúc nghiệp tận, không rõ nguyên nhân, cho đó là Niết bàn! Những cách tu đó gọi là tà chấp phương tiện. Để xa lìa những chấp ấy, nên giảng nói về Đạo đế. Vì bốn việc này nên nói Bốn đế, giống như Thánh đạo. Lại nữa, để phân biệt là pháp hy hữu, nên Thánh đế có bốn. Vì sao? Vì chấp lấy ấm là chúng sanh là chỗ nương tựa đắm chấp, cho nên nói đó là Khổ phải biết, không nên nương tựa, đẳng chấp. Lại vì tham ái nên không có được sự tịch tĩnh. Khi tham ái diệt trừ tức có được sự vắng lặng. Khổ diệt hết thì ngã mạn vắng lặng. Để đối trị tâm khổ, nên tu đạo. Do tu Đạo, nên vô minh vắng bặt, vì Đạo có khả năng đối trị vô minh. Lại nữa, tất cả người cầu giải thoát, nhằm diệt trừ khổ, để được vui, chính là công dụng tối thắng của Đạo. Làm thế nào diệt Khổ? Do đoạn trừ được Tập; được an lạc, do tu Đạo. Cho nên Thánh đế hiện hữu. Lại nữa, các luận sư thuyết giảng về kinh như: Nếu người quán sát sanh tử là lầm lỗi, quán Niết bàn là công đức, người ấy chính là nhập vào tụ chánh định. Vì sao sanh tử là lỗi lầm? Nghĩa là nhận lấy thức sanh dấy khởi lỗi lầm, thức này khởi nhân tức tham ái. Thế nào là công đức Niết bàn? Nghĩa là thức không dấy khởi ưa thích, cũng không khởi phương tiện, tức là Thánh Đạo. Cho nên, nói Bốn đế. Lại nữa, nhằm phân biệt nhân quả của thế và xuất thế gian, nên nói Bốn đế. Lại nữa, vì để thấu rõ bốn loại ấy, nên dựa theo chúng mà nói là Bốn đế. Lại nữa, vì tướng riêng biệt của bốn loại nên nói bốn đế.

Hỏi: Thánh và Đế nghĩa như thế nào?

Đáp: Nghĩa của Thánh có tám. Một là tự tại. Nếu lệ thuộc bởi người khác, thì không tự tại mà gọi là tôi tớ, chẳng gọi là Thánh. Chư Phật và đệ tử đối với tâm và pháp đều tự tại, nên gọi là Thánh. Hai là hoàn toàn thoát khỏi tham ái, như người xuất gia được tự tại. Ba là sanh trưởng từ hạt giống Thánh, nên gọi là bậc Thánh, như sanh vào dòng họ Bà-la-môn. Bốn là sanh ở Thánh địa. Thánh địa thật sự không có sản sinh. Ví như nói sanh nơi vùng đất trung tâm. Năm là tu hành xa lìa sanh tử, như Bà-la-môn. Sáu là không theo xe sanh tử, xả bỏ không đắm. Bảy là không còn sanh nữa, như hạt giống cũ (hư). Tám là được cung kính, ứng hiện qua lại thế gian vì việc phước đức, cũng như vị hoàng đế. Trì tán kệ nói:

Tự tại, lìa tham ái
Giống Thánh, Thánh địa sanh
Hành lìa, không nương xe
Không sanh, hướng cung kính.

Đế có bảy nghĩa: Một là không điên đảo, ví như tướng của lửa. Hai là có thật, như kinh dạy. Ba là không biến đổi. Bốn là không có hai hạnh, ví như hạnh của Thọ-đề-già và Xà da-đạt-đa. Năm là không dấy khởi, từ trí này mà không dấy khởi, không giống như trí Hỏa luân. Sáu là không chống trái nhau. Ví như Nghiệp và Thánh giới. Bảy là lời văn và nghĩa lý tương xứng nhau. Vì sao vậy? Vì nói khổ, thì chắc chắn khổ là nghĩa. Do bảy nghĩa này nên gọi là Đế.

Ông hỏi: Nếu do Thánh nên gọi là Đế thì hai loại trước không gọi là đế. Lại nói các đế của Thánh gọi là Đế thì nghĩa này không quyết định.

Đáp: Đế là nhân của Thánh, có thể sanh Thánh. Ví như trời Phạm trụ. Cho nên, gọi là Thánh Đế. Như trong kinh dạy: Đủ bốn là Thánh cùng với nghĩa tương ưng. Lại nữa, chỗ giảng thuyết của bậc Thánh gọi là Thánh đế, ví như vị thầy dẫn đường. Trong kinh giảng nói: Như Lai ba thời quá khứ, hiện tại và vị lai đều giảng thuyết về Bốn đế.

Hỏi: Nếu vì bậc Thánh giảng nói mà gọi là Thánh đế, thì phàm phu nói cũng gọi là phàm đế? Đáp: Hổ trợ thần lực, pháp thuyết của Phật, thành lập chánh giáo của Phật, nên chẳng phải là phàm đế.

Như Xá-lợi-phất tu tập pháp nhân duyên. Lại nữa, vì là Thánh nhân nên trước hiểu rõ nghĩa lý; ví như biết đó là thuốc tiên. Hơn nữa, Thánh nhân nương nơi sự thấy chơn thật, nên gọi là Thánh đế; ví như thế đế.

Hỏi: Phàm phu dựa vào nghĩa không chân thật mà thấy, nên chẳng phải Thánh chẳng phải đế sao?

Đáp: Mắt không thanh tịnh, thì không thể thấy. Ví như người mù bẩm sinh, muốn tìm chính xác vật quý báu rất khó. Ví như người bị hoa mắt, lầm thấy nhiều mặt trăng. Phàm phu say rượu sẽ không thấy được, ví dụ này như trăm voi đầu ngọn cỏ.

Lại nữa luận Trí tập thuyết giảng: Lấy Thánh làm thể, nên gọi là Thánh đế. Ví như chim, rắn, lúa đỏ. Lại như trong kinh dạy: Trí tuệ của bậc Thánh là tối thượng, hiểu rõ tất cả, nên giảng thuyết là Thánh đế.

Ông hỏi: Lại có kinh giảng nói: Chỉ có một đế, không có hai. Vì sao có bốn nghĩa mà không thể phá hoại.

Đáp: Vì nghĩa của chúng không điên đảo. Vì một phẩm loại khác nhau, nên bốn ví như bốn loại điên đảo. Lại do nghĩa của đế. Một ví như Thánh đạo, vì sự dụng khác nhau nên bốn ví như phần của đạo. Lại nữa, pháp tướng thì thông suốt tất cả. Một ví như riêng về tướng sắc, bốn ví như bốn đại. Lại nữa, vô ngã bình đẳng nên một là vô ngã thì tất cả đều bình đẳng. Ví như từng phần đồng riêng khác. Lại nữa, vì không có đổi khác, nương vào tâm giải thoát để nói, nên đế chỉ một, không có cái thứ hai. Vì sao mà Thánh đế khổ… đều có đổi khác… Như trong kinh giảng nói: Tất cả pháp hữu vi rỗng không, giả dối là pháp phá hoại. Đó là một chân thật, không phá hoại tâm giải thoát. Giống như tướng đổi khác tương ưng đều là thật không hư dối. Bốn nghĩa cũng vậy. Cho nên Thánh đế có bốn.

Ông lại hỏi: Kinh dạy: Tất cả hành pháp tức gọi là Khổ. Thế nên chỉ hai đế, còn bốn thì nghĩa không thành?

Đáp: Ý của Bộ phái Phân biệt giảng nói: Tất cả các pháp hữu vi vì vô thường, nên khổ. Không phát xuất từ nghĩa đế thứ nhất nên khổ. Vì xa lìa những điều ấy, nên những tu tập của Thế Tôn là phạm hạnh thanh tịnh. Đấy gọi là Khổ đế, (sau sẽ nói rộng. Thế cho nên bốn nghĩa không thể bị phá hoại. Lại nữa, trong kinh nói về ba loại khổ: nói về loại thì thuộc về từng phẩn của tất cả pháp hữu vi. Như nói hữu vi khổ, là nói phần đầy đủ. Hoặc dựa vào Khổ khổ mà nói, loại khổ thì có khổ căn, khổ giới, khổ thọ… Dựa theo Hoại, Hành khổ mà nói thì cũng như vậy. Vì dựa vào tất cả thọ để nói về khổ, hoặc vô thường là khổ cho nên nói là hết thảy hữu vi; Hoặc dựa vào Hành khổ để nói về sanh khởi, là khổ Hữu sanh là khổ; sắc sanh tức là khổ sanh; Hoặc nói Khổ đế ấy là do nhiều ý nghĩa để giảng nói về khổ. Thế cho nên không trái nghịch nhau.

Lại nữa, vì không đổi khác cho nên dựa vào Niết bàn để giảng nói, tất cả pháp hữu vi là khổ, nguyên do khổ, tương ưng với tướng Khổ. Cho nên dựa vào bốn đế thì nghĩa không sai trái.

Hỏi: Trong Tăng Nhất A-hàm có nói: Các pháp được an lập từ một, đến hai cho đến số nhiều. Tại sao nghĩa của đế chỉ độc nhất mà không tăng dần một?

Đáp: Vì nghĩa chân thật, không điên đảo, nên lời Đức Phật dạy tất cả đều là Đế. Tuy một, hai, ba gọi là tăng một, nhưng đế không tăng một. Vì phân biệt đế để quán nên nói có bốn. Vì an lập trí và tướng, nên như Tứ niệm xứ. Giống như nhân duyên thành lập Bốn đế, trước đã nói nghĩa này nên biết. Vì để biết (tri) Thánh đế nên nói bốn. Biết Khổ có nhân tức là đạt được “thấy” (kiến) pháp. Như trong kinh dạy: Nếu người thấy mười hai duyên sanh, gọi là thấy pháp, thông đạt mười sáu hành tướng của xuất thế, đều do Kiến đế. Hệ thuộc vào nhân duyên chính là nghĩa vô thường; như tiếng trống, như kinh dung Nan đà để chứng minh. Hoặc vô thường là khổ, hoặc khổ là vô ngã, hoặc vô ngã là không, nếu ai biết rõ như vậy, tức thấy được pháp, thông suốt mười sáu hành tướng, diệt trừ các hoặc, xa lìa khổ. Vì nghĩa này nên Thánh đế có bốn. Lại nữa, vì là phẩm hạng cao nhất, là cảnh duyên của trí bất cộng, cho nên không tăng dần một.

Lại hỏi: Bốn tướng khác nhau thì làm sao cùng một lúc mà quán được tất cả?

Đáp: Do tưởng, nên trong kinh nói: Tu tập tưởng vô thường thì đoạn trừ hết thảy tham ái. Cảnh giới của tưởng này tức là Khổ đế. Tất cả tham ái tức là Tập đế. Đoạn trừ tất cả (tham ái) là Diệt đế. Tưởng vô thường tức là Đạo đế. Do những nghĩa này, nên Thánh đế tuy có bốn không đồng nhưng cùng một lúc quán có thể thấy được.

Lại nữa do tư duy, chọn lựa nên trong kinh dạy: Nhờ vào tưởng vô thường, suy nghĩ chọn lựa về năm Ấm, tham ái; chưa sanh thì không sanh, sanh rồi thì diệt. Năm ấm ở đây tức là Khổ đế; tham ái tức là Tập đế; không sanh và diệt tức là Diệt đế; tư duy chọn lựa vô thường… tức là Đạo đế. Do những nghĩa này, cùng một lúc có thể quán được Bốn đế. Lại nữa, do quán về các lỗi lầm, nên kinh dạy: Quán các lỗi lầm của chỗ bị trói buộc thì tham ái liền tiêu diệt. Chỗ bị trói buộc tức là Khổ đế. Tham ái tức là Tập đế. Diệt tức là Diệt đế. Quán những lỗi lầm tức là Đạo đế. Do những nghĩa này, nên cùng một lúc thấy được Đế. Lại nữa, cùng một lúc thấy được Đế: Ví như lửa, lửa có thể thiêu đốt mọi vật, cùng một lúc đốt cháy sạch; quán Đế cũng vậy. Hại, sanh, tĩnh, xuất, mỗi mỗi tướng đều lìa diệt thì tu chứng đồng một thời. Lại nữa, ví như mặt trời có thể làm khô cạn vạn vật, nghĩa là mỗi loại hoa tuy có khác nhau, nhưng thiếu nước, thì bị khô héo, hư hoại không thể nở là cùng một lúc; quán các đế cũng như vậy. Lại nữa, ví như đèn có thể đốt cháy các vật, nó gồm có các loại khác nhau, nhưng khi tim cháy, dầu cạn thì một lúc cùng tắt; quán các đế cũng vậy. Lại nữa, ví như thuyền có thể chuyên chở các vật khác nhau, vận chuyển đến bờ này hay bờ kia, đều cùng một lúc; quán đế cũng vậy. Bộ phái Phân biệt nói: Nếu quán tướng của các khổ, thì đạt được tâm sanh diệt, xa lìa pháp hữu vi, tu tập pháp môn Vô nguyện giải thoát. Nếu quán pháp hữu vi thì chỉ có sanh diệt, không thấy pháp nào khác, thực hành pháp Không giải thoát. Nếu quán Tịch tĩnh thì không thấy tướng hữu vi và tướng sanh diệt, tu tập môn Vô tướng giải thoát. Trong đấy, tướng của khổ tức là Khổ đế. Sanh tướng là phiền não. Nghiệp tức là Tập đế. Diệt tướng tức là Diệt đế. Pháp này có khả năng làm cho tâm xa lìa tướng để đạt được Vô tướng, tức là Đạo đế. Nếu thấy pháp vô vi vắng lặng, xa lìa sanh diệt thì bốn nghĩa này cùng một lúc thành tựu. Ở đây khác vô vi vắng lặng, là Khổ đế. Ngoài pháp vô vi vắng lặng này ra, gọi là Tập đế. Pháp vô vi tức là Diệt đế, có khả năng quán xét được tịch tĩnh này, thì thấy được vô vi tức là Đạo đế. Vì nghĩa này, tuy bốn tướng khác nhau, nhưng quán cùng một lúc. Về sau cần suy diễn mà không cần giảng nói rộng. Trì tán kệ nói:

Tư duy, chọn lỗi lầm
Như lửa, đèn, trời, thuyền
Vì môn thoát tướng khổ,
Một lúc quán Bốn đế.

Ông hỏi: Đế của Bà-la-môn và bậc Thánh có gì sai khác?

Đáp: vì đế này của Thế Tôn, của Thánh nhân và Bà la môn chân thật nên đều không có sai khác. Ví như Đế thích và Thiên đế. Lại nữa, Đế của Bà-la-môn thuộc về đạo đế. Đế của Thánh nhân là đối trị của quả đạo, thuộc về cảnh giới đạo. Lại nữa, chỉ một mực hướng thiện là đế của Bà-la-môn; còn thiện, ác, vô kí là đế của Thánh nhân. Lại nữa, chỉ có Đạo là đế của Bà-la-môn. Đạo quả mới gọi là Thánh đế.

Vì sao chư Phật ở trong Thánh đế cùng có một trí tuệ?

Đáp: Thông suốt tất cả pháp tướng đều bình đẳng. Ví như mắt thanh tịnh nhìn rõ các sắc. Lại nữa, vì chứng, thấy các pháp. Ví như lửa nóng và sáng. Việc đó, ở thế gian, một trí tuệ chung đều chứng nhận. Lại nữa, vì như gương pháp đã được mài xong, nên chư Phật nhìn thấy thấu suốt pháp giới, biết được tất cả ba đời đều như hiện tại, ví như gương dưới mọi dòng nước thấy bóng Trăng là một. Trì tán kệ nói:

Hai người đều giống nhau
Đạo thiện quả nên khác
Chứng biết không còn sót,
Gương pháp nên đồng tuệ.

Hỏi: Vì sao lấy Bốn đế làm pháp thuyết giảng chính yuế trnê hết của chư Phật?

Đáp: Vì bốn đế có thể cứu độ chúng sanh ra khỏi biển sanh tử; ví như pháp xuất thế. Lại nữa, sự tối thắng là trong Đế, ví như đế là hơn hết. Lại nữa, có thể thâu tóm nghĩa chân thật của các pháp, như trong kinh Thắng Xa-ba-diệp-thí nói. Lại nữa, các trời Phạm, Thích… chưa từng thấy, trí tuệ đầy đủ của các Trời Lạc hành Kiện lực Tỳ Lâu Nữu chưa từng trải qua, là chỗ sở đắc của các tiên nhân, ngoại đạo học hỏi sâu xa, gắng tu trí tuệ mới được. Lại nữa, là cảnh giới trí tuệ vô phân biệt. Như có thể biết được đế này, tức biết đó là chỗ, trang nghiêm của mọi công đức, như Xá-lợi-phất… và Phật Thế Tôn. Lại nữa, vì đầy đủ nghĩa, vì bất cộng nên đây nói là công đức tối thắng. Thế cho nên gọi Bốn đế là pháp thuyết giảng chính yếu trên hết.

Lại hỏi: Cùng quán Bốn đế là cảnh giới thì trí tuệ bình đẳng, mà sao quả có sai khác?

Đáp: Không phải bởi đồng là cảnh, nên trí tuệ đồng nhau, ví như định và tham dục vậy. Lại do trí tuệ sai khác nên quả có sai khác, như do nghiệp có sai khác nên quả có sai khác. Lại nữa, tu tập đạo khác, nên được quả khác nhau. Ví như hạt giống không giống nhau thì quả có sai khác. Lại nữa, lỗi lầm theo thứ bậc hạ, trung, thượng nên chứng đắc quả có khác nhau.

Hỏi: A-la-hán đối với Bốn đế, trí tuệ viên mãn không còn sót thì cùng với Nhất thiết trí phai là không khác. Nếu không như vậy, thì trong Bốn đế phải có vô minh”

Đáp: A-la-hán không biết cảnh giới chư Phật ngoài bốn đế, đó chẳng phải là vô minh. Vì sao? Vì chỉ có ngôn thuyết. Nếu A-la-hán không biết các ngôn thuyết ngoài bốn đế, thì đó chẳng phải là vô minh. Như kinh Thắng Xa-ba-diệt-thí nói: Đức Phật đã xác định rằng, đối với các Khổ đế mà không biết thì gọi là vô minh; không biết bốn thứ Bì-đà, Bì-đà phần ngoài Bốn đế, thì không gọi là vô minh. Lại nữa, chánh đối với đế, trí đối trị phiền não, mà gọi là vô minh, chẳng phải là không biết bậc Nhất thiết trí. Có bốn loại nói riêng là vô minh. Vì sao? Vì ngay một phần khổ của tự thân thức liên tục, mỗi mỗi đều khác nhau. Nếu y cứ vào sanh tử từ vô thỉ mà nói thì A-la-hán cũng không biết tâm ấy đã sinh như thế, do các duyên tăng thượng này và các suy nghĩ… thiện, ác, vô kí…. thuộc về duyên, do nhân như thế mà sinh, hoặc tồn tại như địa này, bước đến trong thời gian, quả vị như thế… tiếp theo tâm thứ hai, đến tâm giữa sau cùng. Giống theo như phương pháp này, bắt đầu từ sát na, Labà-mâu-thể-đa, thời gian trong ngày đêm, nửa tháng một tháng, năm, luồn sanh khởi, biến đổi và diệt, trong thực nối tiếp của chính mình: bậc A-la-hán cũng không thể biết. Huống gì có thể biết được tất cả, tất cả các thứ khổ của mình. Nếu sự khổ của mình mà không hề biết rõ, thì làm sao biết cái khổ của người, nên bậc A-la-hán cũng không biết được cảnh giới của bậc Nhất thiết. Biết bốn đế, tổng, biệt tướng trong Bốn đế, chẳng phải là vô minh. Lại nữa, lìa của vô minh, bốn đế, thì thuộc bên ngoài của cảnh giới trí. Lại có các pháp khác hiện hành, nên cảnh giới Thanh văn, có A-la-hán cũng không thể biết. Như Xá-lợi-phất nói: Tôi không thấy có trời, người mà có thể thấy biết ngã, khi nhập vào định thứ nhất, thì quán và xứng với lượng ngã, nay ngã thì thoái mất. Không khởi! Chỉ gọi là đạt Thế Tôn mới có được định tịch tĩnh ngã này, cho đến Tôn giả Mục-kiền-liên cũng không thể hiểu được những gì Tôn giả Xá-lợi-phất trong lúc nhập, xuất định; đến cả việc hoá độ Bà-la-môn Đà-nan-xà-da và ngoại đạo Ưu-Ba Đề Xá. Như trí tuệ, định biện tài giảng thuyết, tu tập của Phật người khác không thể sánh kịp, như Tôn giả Xá-lợi-phất và Tôn giả Ca Diếp cũng vậy. Cho nên lìa đối trị vô minh, bốn đế… chẳng gọi là trí, chẳng phải là vô minh.

Lại hỏi: Nếu tất cả các pháp được thâu tóm trong Bốn đế, thì cần gì phải sửa lại kinh Thắng Xa-ba-diệt-thí để hiểu. Nếu không sửa lại để hiểu thì phải có năm đế. Nếu không có năm đế thì pháp khác chẳng phải đế?

Đáp: Vì tự nhiên diệt v.v… không ra ngoài đế, và nhận thức về cảnh giới nên chẳng phải là pháp cần quán sát. Thế nào là chẳng cần quán sát? Vì nếu biết pháp này mà không tận diệt được các lưu và khổ, không lìa bỏ việc ngửa mặt nhìn xem tinh tú của ngoại đạo, chẳng phải các kiến giải, không thể dao động, như cờ của Đế thích dù có thông suốt điều này, cũng không thể gọi là thông tỏ tường tận. Như tài bắn tên tách đôi đầu sợi tóc, cũng không thể gọi là thực hành được khắp mọi việc, thế nên không cần tu học! Lại nữa, có Luận sư khác nói: Tất cả pháp do có tướng nên đều tóm thâu vào nơi đế. Tuy nhiên, Bì-đà và Bì-đà phần từ xưa truyền lại thế gian vốn đã lường tính định đoạt. Như các luận: Tăng Khư Du Già Thật Quảng; luận Dục Trần, luận Tỷ Thế Sư, luận Y

Phương, luận Tướng, luận Toán Số, luận Thời Trí, luận Thú, luận Nha Vức, luận Minh, luận Ca Vũ Trang Nghiêm, luận Nhân Vũ, luận Thiên Vũ, luận Thiên Tiên Vương Truyền, luận ngoại đạo… mà các ngoại đạo thường thực hành, cho đến chín mươi sáu loại. Lại có luận về cây cối, dây leo, thuốc cỏ v.v… các lực của vỏ rễ lõi hoa qua cành lá… các vị công đức thành thục… lại có luận về nghiệp quả báo đổi khác bốn đại hiện không có thể nghĩ bàn của thế gian…. Có luận thường phân biệt việc này Đức Phật dựa vào luận này mà giảng nói Thắng Xa-bà-diệp-thí. Vì những nghĩa như vậy chứ chẳng phải như ông nói. Lại do không sanh công đức, thường dấy khởi các Hoặc, tăng trưởng các pháp hữu vi, cho nên không nói (Năm đế). Ví như thuốc độc thuốc làm oán ghét nhau, luận Bì-đa-la, huyễn hóa, chú phản nghịch… vì làm tổn hại người khác, nên Đức Phật không giảng nói, chứ chẳng phải ở ngoài Bốn đế. Vì thế không giảng thuyết.

Lại hỏi: Nếu Khổ trong Bốn đế, gọi là Thánh đế, lại nói Khổ này đã đầy đủ Thánh đế, thì như vậy, các kinh không cần giảng thuyết? Nếu ông nói: Đối với Khổ đế mà gọi là Khổ, thì nghĩa này không đúng.

Đáp: Kinh này thuyết giảng trí là Khổ đế, đối với cảnh không có phân biệt, như nói bốn Vô lượng tâm. Lại nữa, do cảnh giới thiết lập, nên trí được thành tựu. Ví như sáu thức. Lại do công năng nên thể của trí chỉ là một, nhưng dựa theo công năng làm bốn, như trí của bốn Chánh cần cũng thế. Lại nữa, trí của bốn Thánh đế là chung, đối với quán Bốn đế mà nói thì trí là trên hết. Do nghĩa này, mà nói trí như cảnh. Lại nữa, muốn hiển bày, quyết định xa lìa là công đức của Bốn đế. Tùy theo cách nói, chỉ là Khổ hay nói đầy đủ các Thánh đế, nghĩa này cũng thích ứng. Nếu hiểu rõ nghĩa để giảng thuyết thì Khổ… chính là hiểu nghĩa của Đế. Vì sao? Vì Đức Phật giảng nói Khổ đế là có tướng sanh, nên thiết lập ra bốn loại quán. Nếu không như vậy thì chỉ có một quán, gọi là tu tập. Nếu tiếp nhận kinh này phân biệt các đế chỉ có một Đế, thì nên gọi là Đạo đế giảng nói về đế vô vi, và kinh ấy chẳng phải chứng minh cho nghĩa này. Đây là dựa vào tạng Luận và A Tỳ Đạt Ma mà lập nên.

Ông hỏi: Nếu biết một đế thì cũng biết các đế khác, nói ba đế sau, là vô dụng chăng?

Đáp: Tôi không nói thấy Khổ đế là thấy các đế khác. Tôi nói, cùng một lúc thấy Bốn đế, cùng một lúc xa lìa, cùng một lúc đoạn trừ, cùng một lúc chứng đắc, cùng một lúc tu tập. Cho nên nói các đế kia chẳng phải là không lợi ích. Ví như nói Khổ đế. Lại vì số lượng cảnh giới hữu vi, giống như nói số lượng của đạo. Lại nữa, trong Bốn đế, nếu biết được một đế thì sẽ thông suốt các đế khác. Như biết một hạt gạo, thì có thể biết các hạt gạo khác, nên Bốn đế thảy đều có ích. Lại nữa, nhập vào pháp môn quán, nếu quán thủ về ấm, tức xa lìa suy nghĩ về tham ái, như biết về oán gia; chấp giữ ấm thì chính là Khổ đế. Nhớ nghĩ về ái tức là Tập đế; đoạn trừ nó tức là Diệt đế, biết là Đạo đế. Nương theo pháp môn để quán chiếu khổ, thì nghĩa này cũng như vậy; biết tham ái rồi liền xả bỏ. Do Khổ này không sanh khởi tham ái tức gọi là Tập đế. Bị tham ái tức Khổ đế. Khổ không phát sanh tức Diệt đế, hiểu biết tức Đạo đế. Dựa vào Tập đế quán sát pháp môn như thế, biết được pháp hữu vi tịch tĩnh rồi; nếu người đã chứng đạt thì vô minh liền diệt trừ, pháp hữu vi tham ái bị khô cạn thì đạt đến tịch tĩnh, hữu vi tịch diệt tức Diệt đế. Những pháp được xa lìa này là Khổ đế. Vô minh tham ái tức là Tập đế. Biết tức là Đạo đế. Dựa vào môn quán Diệt đế như thế, biết được pháp trợ đạo, tức phát khởi tu tập, phiền não chướng và tu tập chống trái liền xả bỏ. Do xả hết những điều đó, nên lại sanh hữu. Pháp trợ đạo là Đạo đế. Hữu tức là Khổ đế. Nghiệp phiền não tức là Tập đế. Xả bỏ những pháp này, không sanh hữu nữa, tức là Diệt đế. Dựa vào môn quán Đạo đế như thế, do quán các đế cho nên tuy quán một mà giảng nói các đế khác, chẳng phải là vô dụng.

Hỏi: Vì sao lại giảng nói Khổ đế trước?

Đáp: Vì ngăn dứt Khổ, tu tập quán bốn đế và xuất gia trụ trong phạm hạnh, nên nói Khổ đế trước. Lại nữa, các khổ về sanh, lão, bệnh là vô cùng, mỗi niệm luôn bức bách. Người thực hành pháp quán này, là tìm cầu nhân của khổ, ví như sư tử. Lại nữa, duyên bên ngoài, không thể trị bệnh bắt nguồn từ vô thỉ. Người thực hành pháp quán này, tìm kiếm nguyên nhân của bệnh, ví như thầy thuốc. Lại nữa, các hoạn nạn, bệnh tật đầy dãy trong ba cõi. Người thực hành pháp quán này tìm cầu nhân của chúng, như tìm cây độc. Lại nữa, vì thô, vì lầm lỗi, vì chán ghét nương vào, vì là chỗ sợ hãi cho nên nói Khổ trước.

Ông hỏi: Chưa giảng thuyết về nhân mà lại nói quả trước, thì trái ngược mười hai duyên sinh?

Đáp: Vì tuần tự sanh khởi, nên mười hai nhân duyên sanh thì nhân trước quả sau, suy nghĩ chọn lựa đều tuần tự. Còn ở trong Bốn đế thì quả trước nhân sau. Vì thế hai cách nói này đều không chống trái. Lại nữa, trong quả có mê duyên, nhân cho là quả. Trong kinh dạy: Ở đây có, tức kia cũng có, nên đây sanh thì kia cũng sanh. Hoặc trong nhân có mê duyên, quả cho là nhân. Như trong kinh dạy: Lão, tử… có pháp nào khiến cho thành hữu. Do nghĩa này nên các Hữu đều bị phá hủy, không chống trái. Giảng nói theo chiều thuận, nghịch thì hai thuyết không giống nhau. Nói nghịch về duyên sanh, gọi là Bốn đế. Cho nên không trái nghịch với mười hai duyên sanh.

Lại Ông hỏi: Vì sao giảng nói Diệt đế trước Đạo đế sau?

Đáp: Nghĩa có hai loại. Một là thuận, hai là nghịch. Như trong kinh thuyết giảng: Giới thanh tịnh làm cho tâm thanh tịnh; tâm thanh tịnh làm cho trí tuệ thanh tịnh, cho đến giải thoát tri kiến và minh giải thoát; đây là giảng theo chiều thuận. Giảng theo chiều nghịch thì giải thoát là dùng lìa dục làm duyên; lìa dục là nhàm chán ác làm duyên; nhàm chán ác là dùng sự thấy chân thật làm duyên, cho đến không ưu sầu, hối hận là lấy giới thanh tịnh làm duyên.

 

Phẩm Thứ Hai: LƯỢC THUYẾT

Hỏi: Bốn đế thứ lớp thế nào?

Đáp: Thô xấu, ngang ngược, trói buộc, thủ ấm

Nương vào, nẻo ác, lo sợ, sự và quả

Bệnh đau, lửa đốt, oán hận, dựa vào, mắc nợ Cảnh duyên thuốc độc, hãm hại, bức não.

Muốn làm rõ cảnh giới thô xấu rộng lớn cho nên nói Khổ đế. Biết được tướng Khổ rồi. Pháp này do nhân gì sanh, cho nên nói Tập đế. Chỗ nào tận trừ pháp này, nên tiếp nói Diệt đế? Pháp này nhân gì mà được nên tiếp nói Đạo đế? Lại nữa, bị lưới ngang ngược bao phủ từ vô thỉ, gọi là Khổ. Cội rẽ của ngang ngược gọi là Tập. Vĩnh viễn xa lìa cội rễ của ngang ngược gọi là Diệt; có thể nhổ bỏ chúng gọi là Đạo. Lại nữa, cực kì nặng nề gọi là Khổ; chấp vào nặng nề gọi là Tập; xả bỏ gọi là Diệt; có thể diệt trừ các chấp gọi là Đạo. Lại nữa, chỗ trói buộc gọi là Khổ; trói buộc này gọi là Tập; diệt hết trói buộc gọi là Diệt; biết rõ những sai lầm gọi là Đạo. Lại nữa, thủ cũng như vậy. Lại là chỗ nương vào gọi là Khổ. Phàm phu ở thế gian, dù bị tổn hại bởi chấp thủ ấm mà vẫn dấy khởi sự nương vào tham đắm ở ấm. Cũng như nương vào kẻ oán thù lầm tưởng là bạn thân. Dựa vào ấm an lập mà ái gọi là Tập; nhân nới ái ấm đã an lập này mà trụ trong ngục tù ba cõi, không cầu thoát ra. Ví như nhân cuồng si. Không dựa vào ái gọi là Diệt, không có phương sở nào để dựa vào. Như kinh Cù Đề dạy: Có khả năng diệt trừ sự nương vào ái gọi là Đạo, nhận thấy rõ sai lầm của chỗ nương vào như thấy nhà cháy. Lại nữa, sáu đường gọi là Khổ, vì không vui, như nhà xí dơ bẩn. Nghiệp phiền não gọi là Tập. Vì là nhân của sáu đường. Xa lìa chúng gọi là Diệt; không có vật giả danh, ví như lửa đã tắt. Như kinh Lộc đầu đã nói. Có khả năng ra khỏi các đường nên gọi là Đạo. Như kinh Bà-la-ha-mãvương đã dạy. Lại nữa, lo sợ gọi là Khổ; ngã ái gọi là Tập; không còn lo sợ gọi là Diệt; an lạc tối thượng, thật sự đạt đến chỗ không lo sợ gọi là Đạo. Lại nữa, sự tạo tác gọi là Khổ; nhân của sự tạo tác gọi là Tập; đoạn trừ nhân của sự ấy gọi là Diệt; có khả năng diệt trừ gọi là Đạo. Lại nữa, tương tợ như quả gọi là Khổ; tương tợ như hạt giống gọi là Tập; tương tợ hạt giống bị hư hoại gọi là Diệt, nhân của tương tợ hạt giống bị hủy hoại gọi là Đạo. Lại nữa, Khổ là bệnh; Tập là nhân của bệnh; Diệt là đã lành bệnh; Đạo như thuốc trị bệnh. Lại nữa, Khổ như lửa; Tập như củi; Diệt như lửa tắt; Đạo là nhân của lửa tắt. Lại nữa, tương tợ như oán gọi là Khổ; trói thù hận trói buộc gọi là Tập; trừ bỏ thù hận trói buộc gọi là Diệt; nhân có thể trừ bỏ gọi là Đạo. Lại nữa, tương tợ nương vào gọi là Khổ; tương tợ trần cấu gọi là Tập; trần cấu được làm sạch gọi là Diệt; nhân dẫn đến làm sạch gọi là Đạo. Lại nữa, Khổ như của nợ; Tập như người nghèo; diệt như thoát cảnh nghèo; Đạo như tài vật. Lại nữa, Khổ như bị thiêu đốt; Tập như vật liệu để đốt; Diệt như mát mẻ; Đạo như điều kiện để mát mẻ. Lại nữa, khổ như chất độc phát ra; Tập đế như chất độc; Diệt đế như từ bỏ chất độc; Đạo như thuốc A-già-đà. Lại nữa, Khổ như sự não hại bức bách; Tập như khả năng não hại; Diệt như xa lìa khổ não; Đạo như nhân xa lìa của khổ não. Lại nữa, Khổ như bị giết hại; Tập như kẻ giết; Diệt như trừ bỏ sự giết hại; Đạo như nhân xa lìa giết hại. Lại nữa, Khổ cần biết; Tập cần đoạn trừ; Diệt cần chứng đắc, vì ba việc này nên cần tu Thánh Đạo. Tuần tự như vậy. Thể tướng của Bốn đế thế nào? Kệ nói:

Tợ, chơn, Lý túc phẩm
Tướng hữu vi thức ảnh
Hư vọng khắp ba cõi
Hữu khắp mười hai duyên.

Có các pháp sư cho rằng: Hai đế tương tợ, chơn. Sanh là quả của tham ái, nên gọi là chơn khổ. Đạo là nghiệp quả, nên gọi là tương tợ khổ. Nhân của sanh là tham ái, nên gọi là chơn tập. Lôi kéo vào nghiệp của sáu đường, nên gọi là tương tợ tập. Nhân của sanh là ái được đoạn hết, gọi là chơn diệt. Nhân của sáu đường được đoạn hết, gọi là tương tợ diệt. Chánh trí có khả năng diệt trừ nhân của sanh gọi là chơn đạo. Các phương tiện về giới có khả năng lìa nhân của các đường gọi là tương tợ đạo. Lại Luận sư Lý Túc nói: Thức là chơn khổ, sắc… tương ưng với thức này, cũng gọi là khổ. Ái chính mình gọi là chơn tập. Nghiệp tương ưng với ái này cũng gọi là tập. Ái chính mình được đoạn hết gọi là chơn diệt, do ái hết nên phiền não khác hết cũng gọi là diệt. Chánh kiến gọi là chơn đạo; nếu ở đây không sanh, thì nơi khác không thể đến diệt. Do đây sanh, nên chỗ khác cũng gọi là đạo.

Lại nữa, bộ Giả danh nói: Đế có ba loại: Một là phẩm khổ; hai là phẩm đế; ba là Thánh đế. Phẩm Khổ là: Năm Thủ ấm khổ. Phẩm Đế là: Khổ não bức bách làm tướng khổ. Thánh đế là: Khổ này cùng một vị. Phẩm Tập là: Tích tập tham ái. Phẩm Đế là khả năng sanh khởi làm tướng. Tập Thánh đế là: Tập cùng một vị. Phẩm Diệt là quả Sa môn. Phẩm Diệt đế lấy vắng lặng làm tướng. Diệt Thánh đế một vị làm tướng. Phẩm Đạo là tám phần Thánh đạo. Đạo đế là vĩnh viễn xa lìa làm tướng. Đạo Thánh đế là một vị làm tướng. Lại Bộ Phân biệt nói:

Tất cả pháp hữu vi đều khổ; do vô thường chứ chẳng phải vì đế ban đầu nên là khổ. Vì xa lìa những thứ này nên đối với phạm hạnh thanh tịnh mà Thế Tôn đã tu thì đây là Khổ Thánh đế. Tất cả nhân đều là Tập. Vì khả năng sanh, chứ chẳng phải vì đế thứ hai nên là Tập . Vì đoạn trừ những thứ này, nên đối với phạm hạnh thanh tịnh, mà Thế Tôn đã tu, thì đây là Tập Thánh đế. Tất cả pháp hữu vi vắng lặng xa lìa gọi là diệt; do tịch tĩnh, chứ chẳng phải đế thứ ba, vì Diệt; vì chứng đắc Diệt này, nên đối với phạm hạnh mà Thế tôn tu hành thì thanh tịnh, đấy là Diệt Thánh đế. Tất cả pháp thiện đều là đạo, có khả năng xa lìa, chứ chẳng phải vì đế thứ tư, nên là Đạo. Vì tu tập đạo này, nên đối với phạm hạnh thanh tịnh mà Thế Tôn đã tu thì đấy là Đạo Thánh đế. Lại nói, chấp vào tướng là phiền não. Phiền não và nghiệp mà phiền não khởi, gọi là Tập. Nếu nhân đây mà có hữu, thì gọi là Tập thánh đế. Hữu, sanh ra gọi là Khổ thánh đế. Như đây là từ đế thứ hai sanh ra đế thứ nhất. Nếu tâm từ bỏ chấp lấy tướng, thì đạt được cảnh giới vô tướng, do nhân này nên phiền não và nghiệp mà phiền não dấy khởi bị đoạn. Do sự đoạn này nên không có nhân duyên trở lại, Hữu không sanh nữa. Hữu này không sanh nữa, gọi là Diệt Thánh đế. Pháp này có thể khiến tâm bỏ, lìa chấp tướng, chứng cảnh giới vô tướng. Những chánh kiến này gọi là Diệt, Đạo Thánh đế. Như chấp tướng, còn hình ảnh khác tương tợ đạo, vọng tưởng phân biệt v.v… cũng như vậy. Trong luận Phân biệt lại nói: Đức Phật không dựa vào tất cả khổ, mà là giả nói Khổ đế. Nếu như vậy thì làm sao hiển bày được quả vô ký. Vì chấp giữ tánh thể tướng của ấm nên giả nói Khổ đế, giả nói pháp nhân của Khổ. Vì để xa lìa chúng, nên đối với phạm hạnh thanh tịnh, Thế Tôn đã tu tập thì đây là chơn Khổ đế. Không dựa vào hết thảy nhân, chỉ giả nói là Tập đế, để hiển bày khả năng sanh, tánh thể tướng của nhân hữu sau nên; giả nói Tập đế, giả nói pháp nhân của Tập. Vì đoạn trừ chúng, nên đối với phạm hạnh thanh tịnh mà Thế Tôn đã tu thì đây là chơn Tập đế. Không dựa vào tất cả diệt, chỉ giả nói diệt đế. Vì hiển bày đạo luân chuyển đoạn trừ Tánh, Thể, Tướng nên giả nói Diệt đế; giả nói pháp nhân của Diệt là để được chứng đắc, Diệt nên đối với phạm hạnh thanh tịnh mà Thế Tôn đã tu tập thì đây là chơn Diệt đế. Không dựa vào tất cả đạo, giả nói Đạo đế. Vì hiển bày tánh, thể tướng của đạo có thể đoạn trừ sự mê hoặc nên giả nói pháp nhân của Đạo đế. Vì tu tập, đạo này nên đối với phạm hạnh thanh tịnh mà Thế Tôn đã tu thì là chơn Đạo đế. Trong tạng Luận, nói tóm lược, thì Khổ có hai loại:

  1. Oán ghét gặp nhau.
  2. Yêu thương xa lìa.

Hai chỗ của hai khổ này là thân và tâm. Do ái ba loại nên thành ba khổ. Tập đế có ba là Ái Kiến và Nghiệp; Hai hoặc Ái và Kiến gọi là Tập của hữu sau, do đấy đã có nghiệp, tức là Tập thô, diệu. Diệt đế có ba:

  1. “Hoặc” của một nơi Kiến diệt.
  2. “Hoặc” của một nơi Kiến diệt.
  3. “Hoặc” của một nơi Hữu diệt.

Đạo đế có ba:

  1. Kiến đạo.
  2. Tu đạo.
  3. Thành thủ đạo.

Ba pháp này tức ba căn. Lại nói, Khổ là tướng bức bách; Tập là tướng sanh; Diệt là tướng vắng lặng; Đạo là khả năng làm lìa tướng. Lại nói: Khổ là có tướng; Tập là khả năng làm có tướng; Diệt là lìa tướng; Đạo là khả năng làm cho lìa tướng.

 

Phẩm Thứ Ba: PHẦN 1: PHÂN BIỆT KHỔ ĐẾ

Vì sao gọi là Khổ đế? Phần tóm lược đã nói ở trên còn phân biệt rộng thì thế nào? Ở trong tụ khổ sao nói Sanh khổ đầu tiên? Sanh là thế nào? Tướng sanh là thế nào? Sự của sanh là thế nào? Duyên của sanh được sanh ra thế nào? Khổ là thế nào? Nếu Sanh là khổ, thì ba loại nghĩa an lạc sanh tức không thành. Sanh và khởi thế nào là khác? Bậc A-la-hán năm ấm chưa diệt, vì sao nói sanh đã tận? Thế nào là lão? Thế nào tướng lão? Thế nào là sự của lão? Thế nào là duyên của lão? Thế nào là khổ của lão? Tướng răng rụng không đều khắp có; mà khổ có khắp nơi. Vì sao nói lão là Khổ Thánh đế. Vì pháp hữu vi không tru, mỗi niệm đều diệt, vì sao có lão? Trì tán kệ viết:

Phân biệt bốn sanh đầu
Ba Khổ cùng sai biệt
Diệt bốn lão đều khổ
Răng rụng nghĩ đến diệt.

Sao gọi là bệnh? Sao gọi là tướng bệnh? Sao gọi là sự bệnh? Sao gọi là duyên bệnh? Sao gọi là khổ bệnh? Nếu do bệnh nên thân thường khổ, thì sao lại không trái với kệ này?

Không bệnh đau là lợi thứ nhất,
Biết đủ là tài sản trội nhất
Không nghi là thân cận hạng trên
Niết bàn là vui không gì sánh.

Nếu cõi Trời không có bệnh, tất cả chúng sanh lấy bệnh làm pháp thì lời nói này nên sửa lại cho hợp chánh đạo. Luận nói: Bệnh là nghiệp quả chính là nghiệp quả khổ chẳng phải là Khổ Thánh đế. Phật nói khổ gọi là bệnh. Kệ lại nói đói là bệnh thứ nhất. Hai cách nói này tại sao khác?

Thế nào là tử? Thế nào là tướng của tử? Thế nào là sự tử? Thế nào là duyên của tử? Thế nào là khổ về tử? Buông thả tử (chết) phá giới, tử, duyên sanh tử; ba loại này có gì khác? Lại tử có biết và không biết; tử có hối hận và không hối hận; tử có buông thả và không buông thả, tử đắm trước và không đắm trước; tử có điều phục và không điều phục; tử có ít phần điều phục… những thứ này là thế nào? Năm ấm mỗi niệm tự diệt đi, tử do người khác hại v.v… Thế nào được thành tựu? Thế nào là oán ghét mà gặp nhau. Thế nào là tướng oán ghét mà cùng hội ngộ? Thế nào là sự oán ghét mà lại gặp nhau? Thế nào là duyên oán ghét mà lại hội ngộ? Thế nào là nỗi khổ oán ghét mà lại hội ngộ? Nếu các loại oán ghét có tụ tập, vĩnh viễn không xa lìa nhau, thì nghĩa này phải có. Thế nào thân ái lại xa lìa? Thế nào là tướng thân ái lại xa lìa? Thế nào việc thân ái lại xa lìa? Thế nào duyên thân ái lại xa lìa? Thế nào khổ thân ái bị xa lìa, Lão… tụ hội, tức oán ghét tụ hội; trai tráng… xa lìa tức thân ái xa lìa. Lại nói về oán ghét, gặp nhau; thương ái lại lìa xa. Thế nào chẳng phải là nói lại? Thế nào mong cầu mà không được? Thế nào là tướng mong cầu mà không được? Thế nào là việc mong cầu mà không được? Thế nào duyên tìm cầu mà không gặp? Thế nào là khổ do tìm cầu mà không được? Tham dục trần cấu tức là khổ, đạt được cũng khổ; cầu mong mà không được sao gọi là Khổ? Vì nhân duyên gì mà mong cầu không được? Vì sao nói tóm lược nghĩa năm thủ ấm là lược nghĩa của khổ? Tướng các ấm là thế nào? Ấm có nghĩa gì? Sắc, thức v.v… đồng tướng hữu vi, sao nói năm ấm và thủ ấm? Thế nào là khác nhau? Vì sao nói thủ ấm là khổ ấm, không gọi khổ ấm là nghĩa gì? Tùy thuộc chánh kiến, một khổ, tức hiểu thông suốt Khổ đế sao nói rộng, về tướng của các khổ? Trong kinh cũng dạy: Vui thích sắc thì cũng thuộc chỗ vui thích. Như thủ ấm là khổ, thì chống các kinh trái nhau. Vì sao chỉ riêng kinh này nói tóm lược, kinh khác, nói sắc khổ cho đến thức, thủ ấm khổ. Lại vì sao nói nhân duyên khổ? Nghĩa tổng lược thế nào?

Ông hỏi: Sao gọi là Khổ đế, đã nói tóm lược ở tiên, còn phân biệt rộng rãi thì thế nào?
Đáp: Có những đệ tử thích nói lược về chánh giáo, như các Tôn giả Xá-lợi-phất…. vì có khả năng khai mở trí tuệ, nhận lãnh lời giáo hóa, thế nên Phật nói tóm lược. Có những đệ tử ưa thích giảng thuyết rộng rãi như các Tôn giả Nan-đà, Phất-già-bà… để trí rộng phân biệt, cho nên Phật giảng thuyết rộng. Lại nữa, có các đệ tử nhờ lực nhân rất mạnh như Tôn giả Đại-ca-diếp, thiện căn đã tăng trưởng nên chỉ cần nói tóm lược. Người có lực duyên yếu kém như Tôn giả Sa-đề… thiện căn chưa tăng trưởng nên phải giảng thuyết rộng rãi. Lại nữa, căn tánh lanh lợi như các vị Tôn giả Ương-quật-ma-la… thì nên nói tóm lược. Những vị căn tánh yếu kém, khó tiếp nhận sự giáo hóa như Xà-nô… thì nên nói rộng rãi cụ thể. Lại nữa, các đệ tử đa văn như Tôn giả A-nan… có thể nghe và trì cả tạng, vì thế chỉ cần nói tóm lược. Các đệ tử kém hiểu hơn như Chu la-bát-đà, trí tuệ yếu kém, nên phân biệt giảng nói cụ thể. Lại nữa, các vị có nhiều Thánh ngôn và công đức thù thắng như Tôn giả Ly-bà-đa… tu tập quán xét nhiều bên trong, nên chỉ nói ngắn gọn. Chưa có Thánh ngôn và công đức thù thắng như Tôn giả Xà-na… chưa tu tập quán xét bên trong, nên phải giảng thuyết phân biệt rộng.

Ông hỏi: Trong tụ khổ tại sao lại nói sanh khổ trước?

Đáp: Đó là khổ đầu tiên. Trong các khổ lão, bệnh, tử… thì khổ về sanh là đầu tiên. Thí như pháp thế, xuất thế gian như không hối hận v.v… lấy giới làm đầu. Như vậy, các thứ lão, bệnh, tử v.v… thì sanh là nền tảng. Thế nên, nói sanh là đứng đầu, không thể tách rời. Lại nữa, do công năng của sanh, như sanh rồi mới có các thứ lão, bệnh, tử làm tổn hại căn thân và tâm ý… ví như lửa đã thành lửa, tức có các công năng nóng bức, thiêu đốt, chiếu sáng… chẳng phải không có lửa; sanh thì cũng như vậy. Cho nên, sanh được nói trước. Lại nữa, không thể tách rời sự sanh. Giả sử chúng sanh xa lìa được lão bệnh, nhưng quyết không thể xa lìa sanh. Do hành khổ, nên sanh là quả của thọ là chỗ đối trị của đạo. Vì thế, nói sanh trước tiên. Lại vì lỗi lầm bình đẳng tất cả chúng sanh đồng bị sanh làm hại. Thí như quỷ vô thường sát hại. Lại nữa, sanh luôn theo sát tất cả phần hữu; sanh có mặt khắp cả trong mười hai phần hữu bắt đầu từ vô minh…, thí như sữa có độc. Lại nữa, vì hiện khắp ba cõi nên sanh là hiện hữu khắp ba cõi, như bò có giống và khác nhau. Vì thế, trước nói sanh. Lại nữa, vì là khổ căn nên sanh là khổ căn bản, các thứ lão, bệnh, tử là khổ thuộc cành lá. Như trong kinh dạy: Tất cả các khổ lấy sanh làm gốc, lấy sanh làm nhân. Kinh đã giảng nói rõ. Cho nên, trước nói sanh. Trì tán kệ viết:

“Vì khổ đầu tiên; thường không rời;
Lỗi lầm bình đẳng; theo phần hữu;
Khắp trong ba cõi; căn nguyên khổ,
Thế nên, sanh khổ với đầu tiên.”
Vậy thế nào là sanh?

Kệ đáp:

Sanh trong năm kinh… đều giảng nói,
Thọ Ấm; tâm nối tiếp đầu tiên;
Phần sanh cùng với các bè bạn,
Ở trong thai; và có năm loại.

Giải thích: Như Kinh, luận tạng A tỳ đạt ma, luận Tâm Tư Trạch, Thập nhị nhan duyên, đã giảng nói rộng rãi về nghĩa sanh nên biết. Lại nữa, phẩm nghiệp tăng trưởng tùy miên là bè bạn, pháp nhân duyên dẫn tiếp sự sanh, các khổ chúng sinh do tụ tập mà được sanh, được ấm, giới, nhập v.v… đó gọi là sanh. Lại nữa, khi sắp sửa nối tiếp sự sanh, thức ban đầu thọ sanh, đó gọi là sanh. Như kinh dạy: Do thức nhập nên danh sắc hòa hợp. Nếu nói sanh theo thứ tự, thì thức ban đầu dấy khởi, gọi là Sanh. Lại nữa, có luận sư khác nói: Phần sanh và thức ban đầu là bè bạn cùng lúc đều khởi, đó gọi là Sanh. Lại nữa, Sanh có nhiều loại, nghĩa là các loại sai biệt từ trong thai như Ca-la…, cho đến khi xuất thai, như kinh Thọ Sanh đã nói: Lại nữa, sanh còn có năm loại. Như kệ nói:

Chứng pháp Thánh gọi là Sanh
Trong thai; dòng họ cũng được thành
Đồng, khác trong tụ và phần Hữu
Chỉ Hữu ấy, được gọi là sanh.

Giải thích: Được pháp Thánh gọi là sanh; như kinh dạy: Đã thoát khỏi nô lệ, từ miệng ta mà sanh. Lại nói: Hữu là đã sanh trong luật pháp Thánh, như trong kinh Ương quật-ma-la. Lại nữa, trụ trong thai gọi là sanh, nghĩa là Kha-la-la, Ngạch-phù-đà, Già-ha-na v.v… ví như hạt giống, mầm, rễ, cành… Lại nữa, được sanh vào dòng họ gọi là sanh, như sanh vào dòng giàu có, vào dòng họ Sát-lợi… Lại nữa loại đồng và khác trong tụ, gọi là sanh. Như hình tướng có khác. Nghĩa là: người, voi, ngựa… Thí như cây Bà-la-đa-la…. Lại nữa, Hữu cũng gọi là sanh, nghĩa là hữu Ấm Nhập Giới… gọi đó là sanh. Như nói có hoa có hạt v.v…

Luận này chỉ nói Hữu là sanh. Vì sao? Vì là nguồn gốc là quả của tham ái. Cho nên nói chỉ Hữu gọi là sanh.

Đáp: Hữu hiển bày là tướng sanh. Các thứ khổ là sự của sanh.

Nghiệp hiện hữu là duyên của sanh.

Hỏi: Khổ của sanh thế nào?

Đáp : Bị ba thứ lửa khổ thiêu đốt. Đó là: Chỗ thọ sanh không phải chỗ yêu thích, không phải quả báo của phước hạnh, tức bị lửa khổ khổ thiêu đốt ở loại đồng và khác trong tụ. Chỗ được thọ sanh là chỗ yêu thích, là quả báo của phước hạnh, tức bị lửa Hoại khổ thiêu đốt ở loại đồng và khác trong tụ. Chỗ được thọ sinh là quả báo của hạnh bất động tức bị lửa Hành khổ thiêu đốt ở loại đồng và khác trong tụ. Ví như lửa ngoài đồng đốt quanh cây đại thọ. Vì thế nói là sanh khổ.

Lại nữa, Sanh là chỗ nương tựa của các khổ? Như có sanh, tức có chỗ nương tựa, tích tập của các khổ thân, tâm chẳng phải là lúc không có sanh. Thí như vườn Nai là chỗ nương ở của các vị tiên. Lại nữa, các hữu như là Ấm, Nhập, Giới… hiển hiện gọi là sanh. Sanh ở khắp nơi đã bị hủy hoại thì các khổ như đâm, đánh, mổ, chặt, phân chia, rơi, mất… đều bình đẳng theo sanh. Vì giặc oán vô thường không thể ngăn chặn. Ví như từ cảnh vương tử cho đến hạng sành ngói… Cho nên nói sanh là khổ. Lại nữa, sanh là kho chư đựng các khổ, căn bản của ưu, bi, não sinh ra những điều chẳng may mắn, nhân duyên của già chết, chỗ phát khởi các bệnh, là lỗi lầm cho đau đớn đi vào, chỗ nương ở của các ác, chỗ dẫm đạp của trở ngại phá hoại. Là cổng thành của mỏi mệt, là kho lẫm dụng cụ oán thù, là dòng chảy phiền não nối tiếp. Lại Sanh này là bóng tối chẳng phải đèn sáng được dùng; là hố sâu khó ra khỏi, là không có lửa mà cháy lớn; là oán thù khó nhận biết; là oan uổng không nghi ngờ; là bệnh đau không thuốc chữa; là trói buộc mà không phải dây; là rừng gai không có lối đi, không có ánh sáng lửa, là trẻ thơ khen ngợi người trí chê trách, là chỗ tham ái ưa thích có, là nhân dẫn phát tâm đại bi của chư Phật Bồ-tát, là thứ bậc Hữu học xa lìa, bậc Vô học đọan trừ hết. Chư Phật tự mình nhận biết rõ sanh này nên gọi đó là khổ. Do đó nói sanh là khổ.

Lại nữa có khổ ở trong thai. Khi sắp sửa thọ sanh màu trắng, đỏ hòa hợp, có thức đến gửi vào, nên chịu khổ tạp uế. Tiếp đến các thứ A-la-la-Át-phù-đà, Già-da, Ty-hộ… tiếp nhận khổ chuyển biến thành thục, như khổ của ung nhọt chín dnầ sắp vỡ. Khi phần cứng đã thành rồi, thì các phần của thân thể phát sanh, lại chịu khổ các đại bức bách, như khổ trong ngôi nhà lửa chưng nấu, thật là khốn khổ. Khi nằm trong thai, hai tạng chồng lên nhau, đè ép, ví như người có tội trên bị đè xuống, lưới lửa chưng nấu, thật là khốn khổ. Do mẹ uống ăn, oai nghi, mất điều độ, hoặc chạy, hoặc nhảy, hoặc bơi lội trên nước, hoặc co duỗi, phục dịch, chịu đánh đập đau khổ, dùng thức nă trái nghịch. Do những oai nghi ăn uống này, nên các chi trong thai như rã rời, chịu mọi thứ khổ. Như phạm vương pháp nhận các khổ tra khảo, đánh đập. Vậy nên, sanh là khổ. Lại khi sắp ra ngoài thai, thân hình mềm mại như ruột cây chuối, bị cửa sinh chèn ép như chèn vào chiếc xe đầy dầu mỡ, chịu khổ chèn ép. Lại khi thai mới ra, thân như mụt nhọt mới mọc nên tay nước áo, tiếp xúc thì như tưới nước tro nóng, như đao, kiếm cắt xẻ chịu khổ khó lường. Cho nên, nói sanh là khổ. Nếu sanh là khổ, thì nghĩa của ba loại lạc (nữ) sanh sẽ không thành tựu sao?

Đáp: Vì nghiệp báo phân biệt có khác nhau, vì an lập ba cõi có sai khác, vì hiển bày có ba thọ. Do đó phải biết ba thứ lạc sanh là thuộc hành khổ, nên đó gọi là Khổ đế. Vì khổ bức bách, vì nhiều thứ, khổ, cho nên sanh là khổ. Lại nữa, có quả của phước hạnh, nên có ba thứ lạc sanh. Như kệ nói:

Quả phước đức an lạc
Tùy ý được thành tựu
Mau đạt Tịch tĩnh nhất
Bát Niết bàn như nguyện.

Ác độc vô thường bị lẫn lộn. Khổ như thức ăn trộn lẫn độc. Tuy đủ trăm vị sắc hương ngon ngọt, nhưng nếu ăn thì chắc chắc bị chết. Tất cả sanh tử cũng như vậy, bị trộn lẫn với độc vô thường, nên nói là khổ. Lại nữa, vì khi sanh thì vui, khi trú thì vui; nên nói vui sanh. An vui, sanh ra này khi hoại thì khổ, Thánh nhân nhàm chán hoại khổ này, giống như chán ghét phân dơ, nên gọi sanh là khổ.

Sanh và khởi có gì sai khác?

Đáp: Một thứ hóa sanh gọi là khởi; ba thứ còn lại gọi là sanh. Lại nữa, vào thai gọi là sanh, ra khỏi thai gọi là khởi. Lại nữa, từng phần của thân hữu tuần tự sanh ra gọi là sanh. Cùng một lúc mà sanh đầy đủ thì gọi là khởi. Trong luận tạng dạy: Sanh thuộc về thức, gá vào thai và chủng tử. Khởi thuộc về nghiệp; thường phân tán để thức đi đến các cõi.

Bậc A-la-hán năm ấm chưa diệt, sao lại nói sanh đã tận?

Đáp: Vì hữu đã diệt, nên nói sanh đã tận. Lại nữa, vì nhân duyên diệt, sanh này không có pháp của sự sanh sau, vì thế nói sanh đã tận. Thí như do tham ái diệt trừ, nên nói Khổ đế diệt. Lại nữa, vì đoạn trừ nguồn gốc của sanh, nên nói đã tận. Thí như cây bị đốn mất rễ, tuy có nhiều hoa lá… nhưng cũng gọi là đã diệt. Sanh hết cũng như vậy. Lại nữa, đương lai phải tận nên nói sanh tận. Thí như ở trên đỉnh núi ném dồ sành ngói, tuy chưa đến đất nhưng nói ly bể. Sanh tận cũng như vậy, nên nói A-la-hán sanh tận.

Thế nào gọi là lão (già)?

Đáp: Trẻ khỏe giảm mất tuần tự trả qua, bốn đại suy tổn, các hành biến đổi, thân chậm chạp, các chi vụng về, hình sắc, xấu xí, các căn suy yếu, những suy nghĩ, nhận thức, trí tuệ không còn có khả năng nữa, trở về chỗ chết, gọi là Lão. Lại nữa, căn trải qua vi tế hiện khắp trong người vật, thời gian sau mới rõ ràng sự biến đổi, tổn giảm, pháp này gọi là Lão. Vì sao? Vì khi lão đi vào răng thì răng biểu hiện tướng rụng, đi vào da thì da nhăn nhúm, sạm màu, đi vào lông tóc thì biểu hiện tướng bạc trắng, rơi rụng, đi vào bốn đại thì đại yếu ớt, giảm dần, đi vào các căn, thì căn không có sức. Hoặc đi vào thân hình, thì cơ thể xiêu động, đi đứng chẳng vững, hoặc lão đi vào tâm, thì tâm xao nhãng, trí tuệ quên mất. Hoặc đi vào lưng, thì lưng còng xuống, vào cốt thì bước đi chuệch choạc. Sự linh hoạt thời trai tráng đều đã mất, nên hiện ra tướng cũ hoại. Lại nữa lão có hai loại:

  1. Sự nương tựa giảm mất.
  2. Khả năng nương tựa giảm mất.

Nương tựa giảm mất là các đại như máu, thịt, xương, cốt dần dần giảm mất. Do giảm mất này, có được quả tương tợ; nghĩa là các động tác như: Chạy, nhảy, cưỡi xe, co, duỗi, tới, lui tất cả đều tổn giảm và mất. Khả năng nương tựa giảm mất, nghĩa là các dụng thấy, nghe… của các căn mắt, tai… đều không phân biệt rõ, do không phân biệt rõ, có quả tương tợ, nghĩa là nhớ nghĩ, trí tuệ, ý thức giảm sút, tâm tư siêng năng, sức lực gánh vác… thảy đều giảm mất. Như trong Kinh và Luận tạng, Luận Thập Nhị duyên sanh đã nói rộng. Đó gọi là Lão.

Thế nào là tướng Lão? Thế nào là sự của Lão? Thế nào là duyên của Lão?

Đáp: Giảm sút biến đổi thành thục, hư hoại, cũ kỹ. Đó gọi là tướng Lão.

Sự trẻ khỏe giảm mất, linh hoạt không còn, ghét, xấu tìm đến. Đấy gọi là sự của Lão, Ấm, Nhập, Giới sanh gọi là duyên của Lão. Lão này là chỗ chứa những ưu, bi… Thế nào là khổ của Lão?

Đáp: Lão này thường phát sanh tướng ghét, xấu của chúng sanh; đã cướp đi sắc đẹp khả ái, sự siêng năng, sự nhớ nghĩ, trí tuệ, dẫn đến trước mắt thần chết. Như phạm vào điều cấm kỵ của vương pháp, bị bắt, cắt mũi, xẻo thịt, đến chỗ người hành quyết. Lão cũng như vậy. Cho nên nói lão là khổ. Lại nữa, chúng sanh biện bác nói căn lực của thân, có khả năng, giữ gìn, suy xét, xả bỏ, nhận thức trí lực không gián đoạn, không ngừng nghỉ, ngày Lão đến gần thì cướp hết những thứ ấy. Như mặt trời khi tỏa nhiệt, năm chỗ che mờ đều đầy ánh sáng, soi chiếu, những vũng nước nhỏ đều cạn khô. Lão cũng như vậy! vì thế, nói lão là khổ. Lại nữa, lão làm cho sắc hình xấu xí cướp đi sự mến yêu; nó trừ diệt sự trẻ, khỏe và sự an vui không bệnh. Mọi sự nhẫn nhịn, trí tuệ, nghĩ nhớ gánh vác, sức lực siêng năng và suy nghĩ, nhận thức đều bị tổn giảm cướp mất, các căn suy nhược, không còn sức lực để sử dụng. Ví như nữ La-sát hút tinh khí của người tức dẫn người vào đường chết. Thế nên, nói lão là khổ. Lại nữa, nhân thể lúc còn trẻ như hoa sen được bà con yêu mến, sắc hình xinh đẹp, vừa lòng mọi người. Lúc lão bỗng nhiên bị biến đổi, dần dần bị thoái hóa, hư hoại, tự tâm không vui, người cảm thấy ghét. Cho nên, nói lão là khổ. Lại nữa, thường hủy hoại thân căn, trí tuệ nhớ nghĩ, nên nói lão là khổ. Do thân suy hoại, nên các cử động đi, đứng, nằm, ngồi, co, duỗi, nghiêng ngả… đều không tự tại. Do căn hư hoại nên sự thấy nghe, ngửi, nếm, tiếp xúc đều không phân biệt rõ. Lại có thuyết nói: Ta nghe không rõ, trở lại như đứa bé! Do nhớ nghĩ kém, nên các việc đã làm không nhớ được, không hiểu rõ những việc từng thấy, đã nói. Không biết được nguồn gốc, nên gọi là lão, giống như hành tướng. Trong bộ Bạt-tư-phất có nói: Hữu vi là các pháp thật có tạm trú; trú ở đây có đổi khác tướng hữu vi, ấy gọi là lão. Như trong kinh dạy: Thân này trú được trăm năm, hoặc nói có bốn thức trụ. Vì nghĩa này nên gọi là lão. Nếu pháp hữu vi mỗi niệm đều diệt thật, thì thanh niên không trưởng thành, cũng không có mạng căn.

Thế nào là bệnh?

Đáp: Thân giới sanh trưởng không bình đẳng, khi sinh trưởng chống trái không bình đẳng, nên gọi là thân bệnh. Nếu mọi lúc đều bình đẳng thì gọi là không bệnh. Như Thế Tôn nhân độ Kỳ Bà mà nói: “Hôm nay, thân giới của Như lai rất bình thường”. Lại nữa, tự tánh chống trái lẫn nhau, nếu không biết ân nuôi dưỡng, thân giới như rắn độc ngông cuồng, gọi là bệnh. Lại nữa, bệnh có hai loại. Thân và tâm. Thân bệnh có hai loại: Một là do giới, chống trái không hòa hợp gọi là duyên bên trong sanh khởi. Hai là do ngoài thân bức bách, xúc chạm, gọi là duyên bên ngoài sinh khởi. Thân bệnh là do tên gọi, nguyên nhân chỗ có sai khác, cho nên phầm, loại bệnh rất nhiều. Tên gọi sai khác như: Bệnh lậu, ung nhọt, hủi, ung bướu, cảm lạnh, dịch hạch, trương thủng, gió, thần kinh… Nguyên nhân sai khác là: Đàm, phong mật và các bệnh khác, hoặc chỉ một, hai, ba, hoặc chỉ bốn. Như vậy, bệnh đàm… có sáu mươi hai thứ là nguyên nhân chung của bệnh. Chỗ khác nhau như đầu, mắt, tai, cổ, tim, bụng…. Đó gọi là thân bệnh. Nếu giảng rộng thì có bốn trăm lẽ bốn bệnh. Tâm bệnh do vọng tưởng tà dấy khởi. Nghĩa là các thứ lo buồn… Bệnh này cũng có hai loại. Một là duyên cảnh bên trong, gọi là “Hoặc” bên trong. Hai là duyên bên ngoài làm cảnh, gọi là “Hoặc” bên ngoài. Do tên gọi, nguyên nhân, chỗ, nên có khác nhau, nên có nhiều loại. Tên gọi khác nhau: Tham, sân, mạn, si, kiến, nghi, siểm, khúc, khi, cuống… Nhân khác nhau là: Tướng tịnh tướng mất, các tướng có, không… là nhân của tâm bệnh. Chỗ sai khác là sáu trần như sắc v.v… Như kinh dạy: Ái sắc cho đến ái pháp. Trong đây nói rõ, chỉ luận về thân bệnh mà không nói về tâm bệnh. Thế nào là tướng bệnh? Thế nào là sự của bệnh? Thế nào là duyên của bệnh?

Đáp: Khi thân thể bức rứt, khó chịu là tướng bệnh. Khổ, lo là sự của bệnh. Giới gốc không bình đẳng gọi là duyên của bệnh.

Thế nào là khổ của bệnh?

Đáp: Người thông minh ở thế gian, tùy theo khả năng của mình mong muốn có thể thực hành, do bệnh tật nên tất cả đều không thành tựu. Vì trái với mong muốn nên là khổ. Vì thế, bệnh tật thường làm nhân của khổ. Như lửa là nhân của sự cháy, mặt trời là nhân của ánh sáng; lão tử cũng đều như vậy. Vì nhân khổ nên khổ. Lại nữa, thường phá hoại căn bản, nên nói bệnh là khổ. Ví như chuối, tre, cỏ, lau. Lại nữa, sanh cảm thọ đau đớn có thể làm hại mạng sống khiến phải qua đời. Như lửa, thuốc độc ẩn nấp. Cho nên nói bệnh là khổ. Lại nữa, bệnh thuộc về Khổ khổ, chúng sanh trong sự sanh và nối tiếp không thể nhẫn chịu. Ví như voi lạc giữa đám lửa ở cánh đồng. Thế nên bệnh là khổ. Lại nữa, bệnh thì không tự tại. Như người bị bệnh, thì trong bốn oai nghi và tưởng đều không tự tại, thân thể ủ nẽ, không thể, co duỗi hành động v.v… Ví như người gỗ (người máy), cơ quan bị đoạn diệt. bệnh còn có thể dẫn đến xả bỏ thọ mạng. Như người bị bệnh không thể chịu nổi cơn đau, tìm đến lửa, thuốc độc để tự mình xả bỏ thọ mạng! Ví như A-lahán Đà-ni-kha. Lại nữa, bằng mọi phương tiện không thể chữa trị, mạng sắp đến ắt pahỉ chết. Cho nên nói bệnh là khổ. Ví như Tiên nhân Át-để uống thuốc đoạn trừ bệnh lị. Lại là chỗ chán ghét, bức bách, hủy hoại làm tánh; dấy khởi vô minh lớn mạnh, chủng tử sợ hãi trí tuệ, lấy khốn khổ làm thể, không nơi an ổn, không học được, dễ quên mất; trí tuệ bị suy sụp, nên đối với việc chọn lấy hay xả bỏ đều xa lìa, không biết việc đúng sai, như người ngu. Vì nghĩa ấy nên nói lão là khổ. Như Đại đức Phật-đà-mật dạy: “Chư Phật Thế Tôn trong vô lượng kiếp số, sinh trưởng thiện căn, đầy đủ mười lực, có mười tự tại, hàng phục bốn ma, đạt bốn vô úy, thường quán bình đẳng hết thảy mọi phương tiện. Mùa thu bầu trời trong sạch,trăng tròn sáng thật đáng yêu. Thân Na-la-diên bền chắc, mạnh khỏe. Các tướng như vóc dáng, da dẻ ấy, sẽ bị lão làm tổn hoại. Cho nên, nói lão là khổ. Nghĩa này Đức Phật nói ở nước A-latỳ, Tỳ-kheo Ưu-đà-di nương theo lời Phật nói kệ:

Già xấu thân ông, quả đáng lo!
Xâm đoạt, hoen mờ sắc đẹp yêu
Thân ấy, trước đây mọi người thích
Giờ đây thay đổi, bởi chính ông.

Pages: 1 2 3 4