LUẬN PHẬT TÁNH

SỐ 1610

Tác giả: Bồ-Tát Thiên Thân
Hán dịch: Tam Tạng Chân-đế đời Trần
Việt dịch: Linh Sơn Pháp Bảo Đại Tạng Kinh

 

QUYỂN 1

PHẦN THỨ NHẤT: DUYÊN KHỞI

Hỏi: Vì sao Phật nói về Phật tánh?

Đáp: Vì trừ năm thứ tội lỗi, sinh năm thứ công đức, nên Như lai nói tất cả chúng sinh đều có Phật tánh. Trừ năm thứ tội lỗi là:

  1. Vì khiến chúng sinh lìa tâm thấp kém.
  2. Vì lìa người ngã mạn Phẩm hạ.
  3. Vì lìa chấp luống dối.
  4. Vì lìa sự chê bai pháp chân thật.
  5. Vì lìa chấp ngã.

– Vì khiến chúng sinh lìa tâm thấp kém: Là có các chúng sanh chưa nghe Phật nói về lý “có Phật tánh”, chẳng biết thân mình chắc chắn có được nghĩa Phật hay không, cho nên đối với thân nầy khởi tưởng thua kém thì không thể phát tâm Bồ-đề , nay muốn giúp họ phát tâm bỏ ý thấp kém, mà nói “chúng sanh đều có Phật tánh”.

– Vì lìa tâm cao mạn. Nếu có người từng nghe Phật nói chúng sanh có Phật tánh, do đây mà phát tâm, đã phát tâm rồi liền cho: “Ta có Phật tánh cho nên có thể phát tâm”, khởi ý khinh mạn cho người khác không, có khả năng đó. Để phá chấp nầy, nên Phật nói: “tất cả chúng sanh đều có Phật tánh”.

– Vì lìa chấp luống dối, nếu người có tâm mạn nầy, thì đối với như lý, như lượng thì chánh trí không được tỏ bày, nên khởi luống dối. Luống dối là lỗi lầm của chúng sanh, sai lầm có hai thứ: a. Vốn không. b. Là khách.

– Vốn không: Là như trong Như lý, vốn không có nhân ngã khởi chấp nhân ngã, chấp nầy vốn không có gốc, vì không có gốc mà chấp nên khởi vô minh. Do vô minh khởi nghiệp, do nghiệp khởi quả báo, ba thứ như vậy không có căn bản thật , sự chấp là không có, nên biết năng chấp đều thành luống dối. Do đối với chấp nầy mà khởi vô minh, nghiệp và quả báo đều là luống dối, không có thọ giả, không có tác giả, trong đó cho là có, là luống dối nên nói vốn không.

– Là khách, các pháp Hữu vi đều niệm niệm diệt, nghĩa là không dừng trụ, năng mắng và sở mắng cả hai đều không, chỉ là sát-na ban đầu làm người cũ, sát-na kế đó là khách; năng mắng đối tượng mắng khởi rồi liền mất, đó là sát-na ban đầu là oán, sát-na kế đó là phi oán. Vì trong khách mà khởi chấp bạn cũ, chấp nầy không thật nên gọi là luống dối. Nếu khởi chấp ấy thì chánh trí không sinh. Để trừ chấp nầy nên nói Phật tánh. Phật tánh tức là sự hiển bày chân như của không nhân pháp không, vì chân như không có năng mắng và sở mắng, thông đạt lý nầy thì lìa chấp luống dối.

– Vì trừ chê bai pháp chân thật, là tất cả chúng sanh đều mắc sai lầm, đều là hai không, do hiểu nhị không nầy, thì chỗ khởi công đức của trí tuệ thanh tịnh gọi là chân thật. Chê bai, nếu không nói Phật tánh thì không hiểu rõ hai không liền chấp thật có, nên chống trái chê bai chân như, công đức của trí tịnh đều không thành tựu.

– Vì lìa ngã chấp, nếu không thấy luống dối sai lầm, thì công đức chân thật trong chúng sanh không khởi đại bi. Nhờ nghe Phật nói Phật tánh nên biết lỗi luống dối, công đức chân thật trong chúng sanh khởi tâm đại bi, không có kia, đây nên trừ ngã chấp. Vì nhân duyên của năm nghĩa nầy mà Phật nói Phật tánh để phát sinh năm thứ công đức.

Năm thứ công đức:

  1. Khởi tâm chánh cần.
  2. Sinh sự cung kính.
  3. Sinh Bát-nhã.
  4. Sinh Xà-na (trí).
  5. Sinh đại bi.

Năm đức nầy có thể trái với năm lỗi, vì tâm chánh cần trái với tâm thấp kém, vì sự cung kính trái với ý khinh mạn, vì Bát-nhã trái với chấp vọng tưởng, vì sinh Xà-na trái với tục trí, có thể hiển bày Thật trí, các công đức trái với sự hủy báng chân pháp, vì tâm đại bi là từ bi bình đẳng nên trái với ngã chấp.

Trái với ngã chấp là do Phật tánh quán tất cả chúng sanh hai thứ Ngã Pháp đều không, dứt trừ tự ái niệm, quán các chúng sanh thuộc về không, do đó tất cả công đức mới được thành tựu, nên đối với người khác sinh ái niệm.

Do Bát-nhã nên diệt tự ái niệm, do đại bi sinh tha ái niệm, do Bátnhã mà xả chấp phàm phu, do đại bi mà xả chấp Nhị thừa, do Bát-nhã mà không bỏ Niết-bàn, do đại bi mà không bỏ sinh tử, do Bát-nhã mà thành tựu pháp Phật, do đại bi mà thành thục chúng sanh, do hai phương tiện mà trụ trong vô trụ xứ, không lui sụt, mau chóng chứng Bồ-đề, diệt năm thứ tội lỗi, lầm sinh năm thứ công đức, nên Phật nói: “Tất cả chúng sanh đều có Phật tánh”.

 

PHẦN THỨ HAI: PHÁ CHẤP

Phẩm thứ 1: PHÁ CHẤP CỦA TIỂU THỪA

Lại nữa, có Phật tánh hay không, phải biết thành nghĩa phá hay lập. Phá có ba thứ:

  1. Phá chấp của Tiểu thừa.
  2. Phá chấp của ngoại đạo.
  3. Phá chấp của Đại thừa.

1. Thứ nhất phá chấp của Tiểu thừa, là vì người Tiểu thừa Phật nói có chúng sanh không trụ nơi tánh, không bao giờ nhập Niết-bàn, do đây sinh nghi khởi tâm bất tín.

Giải thích: Nguyên nhân sinh nghi, là do Phật nói, các bộ Tiểu thừa hiểu và chấp khác nhau. Nếu nói theo phân biệt bộ, thì tất cả phàm, Thánh, chúng sanh đều lấy không làm gốc, nên phàm Thánh chúng sanh đều từ không mà có ra, vì không là Phật tánh, Phật tánh tức là Đại Niết-bàn. Nếu dựa vào các bộ Tỳ-đàm, Tát-bà-đa v.v…, thì tất cả chúng sanh không có tánh đắc Phật tánh, chỉ có tu đắc Phật tánh, chia riêng chúng sanh gồm có ba thứ: 1. Chắc chắn không có Phật tánh, là không bao giờ đắc Niết-bàn, là hàng nhất-xiển-đề, phạm trọng cấm. 2. Bất định hữu vô, là nếu khi tu thì liền đắc, không tu thì không đắc, là người hiền thiện cộng vị trở lên. 3. Chắc chắn có Phật tánh, tức là người ba thừa. Một là Thanh Văn từ khổ nhẫn trở lên, liền đắc Phật tánh. Hai là Độc giác từ thế pháp trở lên liền đắc Phật tánh. Ba là Bồ-tát thập hồi hướng trở lên, là khi đến vị bất thối thì đắc Phật tánh. Nguyên nhân như vậy vì như kinh nói: “Có chúng sanh không trụ trong tánh, vì không bao giờ nhập Niết-bàn”. Lại nữa, A-hàm nói: “Trong mười lực của Phật, sự chiếu của tánh lực, cảnh giới của chúng sanh có chủng chủng tánh, cho đến các giới thô diệu khác nhau nên gọi là tánh lực. Vì sao? Vì hữu tánh và vô tánh của tất cả chúng sanh khác nhau. Người có Phật tánh thì tu vô số diệu hạnh, người không có Phật tánh thì khởi các thứ thô ác, nên người học Tiểu thừa thấy hai thuyết nầy đều có đạo lý, nhưng chưa biết thuyết nào là chắc chắn, do đó tâm khởi nghi. Lại nữa, người sinh tâm bất tín thì trong hai thuyết, đều chấp nghiêng một bên nên không tin lý nào. Như nói theo Phân biệt bộ thì không tin chúng sanh có hay không có tánh, hoặc các bộ Tát-bà-đa nói thì không tin tất cả đều không có Phật tánh.

Để nói có Phật tánh, hỏi người chấp vô tánh: Theo ông thế nào là chúng sanh có vô tánh, không bao giờ nhập Niết-bàn?

Đáp: Chúng sanh đã có vô số thô hay diệu khác nhau, nên như lý mà có Hữu tánh và Vô tánh. Nếu ông không tin có chúng sanh vô tánh không bao giờ nhập Niết-bàn, mà tin có chúng sanh có vô số cảnh giới thô hoặc diệu là nghĩa không đúng. Vì sao? Vì sự chấp không bình đẳng.

Hỏi: Ông tin có vô số cảnh giới thô diệu của chúng sanh, tức là khiến cho người tin có chúng sanh vô tánh, cũng phải tin có chúng sanh vô căn hay sao? Vì sao? Vì chúng sanh có căn và không có căn mà có đủ thứ cảnh giới thô diệu. Nếu ông không tin có chúng sanh vô căn, thì làm sao tin có cảnh giới thô diệu? Nếu cho rằng có cảnh giới thô diệu, không liên quan đến người hữu căn vô căn, tôi cũng tin có cảnh giới thô diệu, không liên quan đến nghĩa hữu tánh vô tánh, thì có lỗi gì? Nếu ông nói: “Không có chúng sanh vô căn”, thì tôi cũng nói không có chúng sanh vô tánh.

Đáp: Ông dùng hữu căn vô căn để dụ cho hữu tánh vô tánh của tôi, nghĩa đó không đúng. Vì sao? Ông cho vô căn là chúng sanh hay phi chúng sanh? Nếu là chúng sanh thì có hai lỗi:

a) Lỗi thái quá. Nếu không có sáu căn mà là chúng sanh, thì tất cả loài vô tình cây cỏ gỗ đá… đều là chúng sanh, vì đồng với vô căn.

b) Lỗi bất cập. Trước nói sáu căn cho là chúng sanh, đã không có sáu căn, thì nói là vật gì để làm chúng sanh, mà ông nói chúng sanh vô căn, là nghĩa không đúng! Cho nên biết không làm hữu căn vô căn, nói cảnh giới thô diệu chính là đối với hữu tánh vô tánh nói thô diệu mà thôi!

Hỏi vặn: Nếu ông cho tôi lập chúng sanh vô căn có hai lỗi, thì ông lập người phạm tội trọng Nhất-xiển-đề không có Phật tánh không bao giờ đắc Niết-bàn cũng có hai lỗi:

a) Lỗi thái quá. Vì chúng sanh vốn dùng ngã kiến vô minh làm pháp phàm phu, tìm tòi vô minh nầy là do trái với nhân không mà khởi, đã khởi vô minh nên có nghiệp báo. Nếu không trái với nhân không thì chẳng có vô minh nghiệp báo. Đã không có vô minh nghiệp báo thì ba luân như nhau. Nếu như thế đáng lẽ là bậc Thánh làm phàm phu. Nếu cho rằng chúng sanh không có Phật tánh, chỉ có Thánh làm phàm, không có phàm đắc bậc Thánh, điều nầy trở thành thái quá.

b) Lỗi bất cập. Nếu ông cho rằng: “Có chúng sanh nhưng không có Phật tánh”, đã chẳng có tánh không thì chẳng có vô minh. Nếu không có vô minh thì không có nghiệp báo. Đã không có nghiệp báo thì chúng sanh làm sao có? Cho nên thành lỗi bất cập. Nhưng ông cho rằng “có chúng sanh mà không có Phật tánh” là nghĩa không đúng. Vì sao? Vì ông không tin có chúng sanh vô căn, vậy mà chợt tin có chúng sanh vô tánh! Vì hai lỗi đồng.

Hỏi: Ông nói: “Có chúng sanh không có Phật tánh”, như dòng sát-đế-lợi có đủ bốn tánh, tánh của địa ngục, người trời… thì không có đủ, nếu nói không có đủ thì người phải là thường người, không làm các đạo nghĩa khác, nếu có đủ thì trái với kinh, như trong kinh nói: “Tánh lực của Như lai có thể biết rõ cảnh giới của các thứ thô diệu”, tánh của chúng sanh nầy đã bình đẳng, vì kinh không chứng minh. Lại nữa, nếu ông cho rằng: “Có chúng sanh không bao giờ nhập Niết-bàn”, nghĩa nầy cũng không đúng. Như người trước kia làm Sát-đế-lợi, sau đó làm Bà-la-môn, hoặc loài người hoặc loài trời, không có tướng chắc chắn. Nếu ông nói: “Không có đủ bốn tánh”, thì cùng với sự lập thí dụ trái nhau, vì sao ? Vì tất cả đều không có đủ. Ông nói: “Chúng sanh không có Phật tánh, không bao giờ thành Phật”, như loại người không có tánh, trời đáng lẽ không bao giờ có quả báo trời. Nếu người không có tánh trời mà đắc báo trời, thì đáng lẽ cũng có chúng sanh không có Phật tánh mà đắc Niết-bàn. Lại nữa, nếu có đủ bốn tánh thì tương tự với thí dụ, là chúng sanh không có Phật tánh đáng lẽ có đủ Phật tánh, nếu có hai tánh hữu và vô, thì trái nhau hay không? Nếu trái nhau thì đáng lẽ một có một không, nghĩa nầy không thể được. Nếu không có chúng sanh tánh Niết-bàn thì không nên có Niết-bàn tánh. Ông nói: “Có đủ hai tánh”, thì nghĩa nầy cũng không đúng. Vì sao? Như Sát-đế-lợi không có tánh Bà-la-môn, vì hai tánh trái nhau thì chắc chắn không có, sau đó không được làm Bà-la-môn vì trái với thế đạo. Lại nữa, nếu đồng thời có nghĩa tánh, thì sau đó chắc chắn là được. Nếu không đủ nghĩa tánh, thì sau đó chắc chắn không được. Nếu một người có đủ hai nghĩa nầy, thì chắc chắn thuộc nghĩa nào?

Lại hỏi: Ông lập: “Chúng sanh không có Phật tánh”, là đầu cuối chắc chắn không có, hay là bất định không có, như đại địa, ban đầu không có tánh vàng, sau đó hoặc có, có rồi lại không? Ông lập: “Vô Phật tánh”, cũng như vậy phải không? Nếu như vậy thì đáng lẽ đắc tánh Nhị thừa rồi, sau đó lại không đắc. Đắc tánh Đại thừa rồi thì sau đó lại bị mất. Đắc tánh nhất định rồi thì sau đó lại bất định, tuy tu đắc công đức của thông đạt giải thoát rồi sau đó lại bị mất, như vậy thì tu đạo vô dụng, chắc chắn lập tánh đều thành vô dụng.

Lại hỏi: Ông lập: “Chúng sanh vô định tánh như địa”, hoặc có

khi chuyển thành các vật vàng báu, chúng sanh vô Phật tánh trụ tại hạ tánh, vì là nhân tánh bất định, người có thể chuyển thành Niết-bàn, là đời hiện tại chuyển, hay là vị lai chuyển? Nếu ông cho rằng đời hiện tại chuyển thì làm sao được chuyển? Là gặp tam bảo được giải thoát ba gốc lành mà chuyển, hay là không gặp tam bảo mà có thể được chuyển? Nếu nói tu công đức phần mà hiện tại được chuyển, thì vì sao cho rằng chúng sanh không có Phật tánh mãi mãi trụ hạ tánh? Nghĩa đó sẽ tự hoại! Nếu ông cho rằng đời hiện tại tuy tu gốc lành nhưng cuối cùng không được chuyển, đến vị lai mới chuyển, nên gọi là trụ hạ tánh, tánh nầy trong vị lai, là tu thiện mà chuyển hay là không tu mà chuyển? Nếu tu mà chuyển, thì hiện tại tu cái gì mà không chuyển? Nếu nói vị lai không tu thiện, tự nhiên mà chuyển, thì hiện tại chưa tu vì sao không chuyển? Lại nữa, nếu ông cho rằng: “Không có Phật tánh”, nếu chắc chắn không có, thì như lửa chắc chắn là tánh nóng, không thể chuyển thành tánh lạnh quả nước , Phật tánh cũng vậy, đáng lẽ hữu và vô chắc chắn đều là bất khả chuyển. Nếu bất khả chuyển, thì ông lập định nầy là do nhân mà định, hay không do nhân mà định? Nếu do nhân mà định thì định nầy không thành định. Vì sao? Vì trước kia chưa phải là định, do nhân mới định. Nếu nói không do nhân mà định, thì bị lỗi vô cùng, do đó tôi nói tánh nầy cũng lại bất định! Không do nhân, nghĩa đó đáng lẽ thành, như ông nói: “Định… chung với vô nhân”, nếu như thế thì các sự phi lý đáng lẽ đều được thành!

2. Lỗi bất bình đẳng. Ví như có người cho rằng: “cô gái bất dục sinh hai đứa con là một trắng một đen”, cũng như thỏ có hai sừng là một lợi một độn. Nếu người không do nhân mà nói, thì nghĩa bất bình đẳng nầy cũng phải được thành, như đã nói của ông, nếu nghĩa nầy không thành thì nghĩa của ông cũng không lập.

3. Lỗi đồng ngoại đạo. Có vốn chắc chắn là có, không vốn chắc chắn là không, có không thể diệt. Không chẳng thể sinh, các lỗi nầy là do tà chấp của ông, vì sinh ra nghĩa vô tánh.

Hỏi: Nếu như thế thì vì sao Phật nói: “Chúng sanh không trụ trong tánh, không bao giờ Nhập Niết-bàn”?

Đáp: Nếu người ghét bỏ Đại thừa, cho pháp nầy là nhân Nhấtxiển-đề, vì khiến cho chúng sanh xả bỏ pháp nầy. Hoặc tùy theo nhân Nhất-xiển-đề, trong thời gian lâu dài trôi lăn không diệt mất. Vì nghĩa đó nên kinh nói rằng: “Nếu theo đạo lý, thì tất cả chúng sanh đều vốn có Phật tánh thanh tịnh”. Nếu không bao giờ đắc Nhập Niết-bàn, là không có việc đó, nên Phật tánh chắc chắn là vốn có, lìa hữu lìa vô.

 

Phẩm thứ 2: PHÁ NGOẠI ĐẠO

Lại nữa, vì ngoại đạo không biết Phật tánh, phải biết ngoại đạo kia lập nghĩa, có ngoại đạo nói: “Tất cả các pháp đều có tự tánh, đồng với có bất không, tánh đều khác”. Nếu các pháp đều không, chẳng có tự tánh, thì thủy, hoả, sắc, tâm, sinh tử, Niết-bàn, đều không có tự tánh. Tự tánh đã không có thì đáng lẽ có thể chuyển lửa thành nước, chuyển Niết-bàn trở lại thành sinh tử, vì sao? Vì đều không có tự tánh. Nhưng hiện thấy tánh lửa thì chắc chắn là nóng, không thể làm nước được! Tánh nước thì chắc chắn là ướt, không thể làm lửa được! Niết-bàn và sinh tử cũng giống như vậy, không thể chuyển đổi lẫn nhau được! Như vậy hai pháp đều có tự tánh. Nếu có thể chuyển đổi lẫn nhau thì tu đạo vô dụng, nên biết các pháp đều có tự tánh, cho nên là bất không.

Lại nữa, phải biết vì phá nghĩa tự tánh của ngoại đạo, hỏi vặn: Ông nói: “Tất cả pháp đều có tự tánh bất không, tánh chắc chắn khác nhau”, nghĩa đó không đúng. Vì sao? Vì tự tánh chắc chắn không thật có. Quyết định, là lìa tám thứ nhân bên ngoài nầy quá gần quá xa. Nếu vật chắc chắn có thì phải thấy được, nếu vật chắc chắn không có thì không thể thấy được, ví như sừng thỏ và tai rắn, dùng trí quyết định y theo đạo lý mà tìm, quyết không thể được, nhất định không bao giờ có. Các pháp tự tánh cũng giống như vậy, nên biết các pháp vô tự tánh nên không. Nếu ông nói: “Các vật như bình chậu… đều khác nhau, như bình khác với áo…”, nghĩa đó không đúng, vì sao? Bình và sắc… là tức tự tánh hay lìa tự tánh? Nếu chắc chắn tức và ly, thì các nghĩa đó đều không thể được; nếu là một thì không nên có tám tánh, vì bình và số trái nhau nên nghĩa nhất không lập. Nếu nhất định là khác thì khi duyên sắc không nên được cái bình, như người duyên trâu chưa hề thấy ngựa, nên bình chậu… là tức tự tánh và lìa tự tánh thì đều không thật có. Nếu ông nói: “Hữu tánh là có nên các pháp đều có, nhưng tự tánh bất không”, nghĩa đó không đúng. Vì sao? Vì hữu tánh không có tự tánh, nếu hữu tánh là tự tánh hữu thì không lìa hai xứ không và hữu. Nếu hữu trong hữu, thì hai hữu tướng nầy đều không có năng dụng và sở dụng. Pháp đã là hữu thì nhọc gì phải cần tự tánh hữu. Nếu hữu trong vô, thì điều đó không thể khiến cho có lông rùa sừng thỏ, nên biết hai xứ không hữu nầy chẳng thành lập.

Lại nữa, hỏi vặn: Ông cho tự tánh và bình chậu… là một hay là khác? Nếu là một, thì không nên có tám tánh. Nếu có số tám thì trái với số một. Nếu nói khác, thì không thông với hữu, không sinh trí. Vì sao?

Vì ông nói: “Do có tự tánh mà có ngôn thuyết và sinh trí tuệ”, nhưng hiện tại đã là khác nên biết không có ngôn thuyết. Vì không có ngôn thuyết nên trí tuệ không sinh. Hữu vô tức ly đều không thật có nên tự tánh quyết định là không. Lại nữa, nếu ông nói: “Lời nói của ông cũng không (trống rỗng), nên tất cả các pháp bất không”, nghĩa nầy không đúng, vì sao? Vì ngữ ngôn như vậy nhập vào các pháp nhiếp thì ngữ ngôn cũng không, nên biết các pháp đều là không. Nếu ông nói: “Ngữ ngôn có thể nghe nên bất không”, nghĩa nầy không đúng, vì sao? Vì tự tánh của ngữ ngôn không thật có, nhân duyên của ngữ ngôn các thứ khác nhau. Dị tướng có tám việc: 1. Giác. 2. Quán. 3. Công dụng. 4. Phong khí. 5. Tám xứ. Tám xứ là rún, ngực, cổ họng, ổ gà (gốc lưỡi), ót (cổ sau), răng, mũi, môi. 6. Âm thanh. 7. Danh tự. 8. Mở đóng. Vì đủ tám nghĩa nầy mà tiếng nói được sinh, phân biệt ngữ ngôn đều nhập vào tất cả các pháp gồm nhiếp nên biết đều là không.

Lại nữa, nếu ông nói: “Không là bình đẳng, thì thế nào đối với tám thứ nhân duyên chỉ sinh ngữ ngôn mà không sinh các pháp khác”, nghĩa đó không đúng. Vì sao? Vì ông không biết nghĩa gốc của người khác. Nếu có người lập không từ nhân duyên mà có thể phát xuất ngữ ngôn, ông đối với người nầy, có thể đặt ra hỏi vặn rằng: “Nay tôi nói nhân quả chắc chắn, chẳng phải không có nhân duyên. Nhân quả chắc chắn là như từ nhân sinh quả, nếu quả không từ nhân sinh thì phải xưa nay phải có quả. Nếu nhân không sinh quả, thì quả do duyên nào mà có? Nếu nhân quả đều là vô tánh thì tự tha đều không có. Thế nào là tự tánh không sinh ở tha? Vì là tự quả sinh, tha quả không sinh nên không được vô tánh, vì nhân duyên sinh nên không thể nói có, vì từ tha sinh nên chẳng thể nói không. Vì nghĩa đó, tôi nói nhân quả chắc chắn, hỏi vặn của ông không thành”. Như Trung luận, có kệ rằng:

Các pháp ở mọi nơi,
Từ tự không được sinh,
Từ tha, hai cũng thế,
Từ vô nhân cũng vậy.

Câu kệ thứ nhất nói các pháp ở mọi nơi, là nói xứ có ba thứ:

1. Theo bốn sinh xứ, là sinh xứ ba cõi và vô lưu giới sinh xứ. bốn sinh xứ nầy thâu nhiếp hết tất cả nội xứ ngoại xứ, tất cả các pháp trong bốn sinh xứ, gồm nhiếp pháp cũng đều hết.

2. Theo nội đạo ngoại đạo thâu nhiếp tất cả tất cả pháp, xứ thì thông hết với thế gian và xuất thế gian.

3. Theo hữu tình và vô tình thâu nhiếp hết tất cả pháp, xứ thì có cả ba đời, nhiếp hữu cũng đều hết, nên nói “chư pháp ở mọi nơi”.

Kế ba câu dùng bốn thứ nhân duyên để tìm tòi thật sinh của các pháp đều không thật có: 1. Từ tự. 2. Từ tha. 3. Từ cả tự tha. 4. Không từ tự tha. Tìm bốn câu nầy đều không có nghĩa sinh, nên biết các pháp đều không phải tánh có một. Không từ tự sinh, là nếu từ tự mà sinh thì sinh vô dụng, tự đã là có, thì làm sao sinh lại nữa, nên câu kệ thứ hai nói “chính nó không được sinh”. Nếu cả hai (pháp xứ) nếu từ tha sinh thì vì sao không sinh ra dị quả? Vì đều là vô (không có), nên nói “từ tha, hai không sinh”. Nếu cả ba (pháp xứ tha) đều từ tự tha sinh, cũng không đúng. Trước là Theo dị thể nối tiếp mà lập nghĩa tự tha, như hai vật đối chiếu với nhau, lẫn nhau làm tự tha, lấy Trương đối chiếu với Vương thì Trương tức là tự, vương tức là tha, lấy Vương đối chiếu với Trương thì Vương là tự, Trương là tha, nghĩa cũng như vậy. Hai tha tánh nầy là một hay khác? Nếu hai tha tánh nầy là một, thì không có nghĩa tự tha, vì không phải hai thứ đối chiếu với nhau, nên nếu nghĩa tha đó khác với nghĩa tha nầy, thì cả hai đều không thành tha, vì khác với tha tánh. Tha kia đã không phải tha, thì tha nầy lại bị mất. Vốn do tha đối chiếu với ngã nên ngã có nghĩa tha, tha đã chẳng phải tha, nên ngã và tha cũng mất. Vốn do tha mà có tự, nhưng nghĩa tha đã trống rỗng, tự tánh lý bị mất rồi làm sao từ tự tha mà sinh? Cho nên nói “hai cũng thế”. Kế là Theo đồng loại nhân quả đối chiếu nhau. Luận về tự tha, vốn do hạt giống làm nhân, có thể sinh ra mầm quả, mầm thì do nhân nên gọi là quả, hạt giống thì sinh quả nên được gọi là nhân. Nhân và quả là một hay khác? Nếu quyết định là một, thì không có nghĩa sinh, vốn đã là hữu thì dùng gì để sinh? Nếu quyết định khác thì phải sinh dị quả, nhưng đã đều là khác nhân thì vì sao chỉ sinh tự quả mà không sinh quả khác? Đã là tự tha một khác đều không thật có, nên biết không đều từ tự tha mà sinh, nên trong kệ nói “hai cũng thế”, nên cả bốn (pháp, xứ, tự, tha) không từ tự tha sinh là nghĩa vô nhân. Nếu ông cho: “Các pháp không từ nhân duyên mà tự có”, thì các pháp có thể sinh lẫn nhau, là lửa phải sinh nước, nước có thể sinh lửa, vì duyên đẳng vô gián. Nếu không như thế thì có nghĩa là vô nhân sinh, tức là không được thành, nên trong kệ nói “từ vô nhân cũng vậy”. Trong bốn thứ pháp xứ tự tha, tìm cầu tướng sinh của nó đều không thật có, do đó nên biết chắc chắn không có sinh.

Lại nữa, nếu ông hỏi vặn thì liền trái với chứng lượng. Hoặc các pháp không có thật tánh thì năng, sở đều không thật có, âm thanh không đến tai, tai không nhận được âm thanh. Tôi hiện thấy thanh và tai đối nhau mới được nghe, mà biết là bất không, nghĩa đó không đúng, vì sao? Vì tự tánh của năng sở và chứng lượng đều không thật có. Ông nói: “Do tự tánh được thành nên bất không”, nghĩa đó không đúng, vì sao? Vì tự tánh nầy trong chứng lượng của căn trần, một khác và hữu vô đều không thật có, nên tự tánh không thành. Nếu ông nói: “Thế nào là không thật có”? Là do nhiều nhân mà thành, hoặc pháp có tự tánh tức không do nhân mà được thành, đã thành vật rồi lại sinh vô dụng. Nếu ông nói: “Nhiều nhân đều sinh tự tánh của âm thanh, như tiếng trống, chắc chắn do các nhân duyên tay, dùi… tùy theo tay dùi nầy mà mỗi tự phần được có ý nghĩa của âm thanh”, nghĩa đó không đúng. Vì sao? Vì trong bốn câu tự tha trước, đã tìm sự sinh của nó không thật có, là để hiển tánh không. Nếu tánh một không thành thì đa tánh làm sao thành? Nếu ông lập tự tánh, thì nhân khỏi nhọc phải lập. Vì sao? Vì tự tánh tự nó là hữu, thì đâu cần trở lại dùng nhân để làm tự tánh. Nếu ông nói: “Một quả do một nhân mà được thành, vì quả lấy nhân làm thể”, nếu như thế thì chỉ nên một người được nghe. Vì sao? Vì một người đánh trống, thì chỉ cần một người nghe, những người còn lại thì cũng đều được nghe như vậy. Nếu nhiều người cùng nghe, thì biết nhân quả không được một thể. Nếu ông nói: “Có nhiều quả, tức là từ nhiều nhân sinh, tùy theo chỗ đến mà lấy, như người gieo giống xuống ruộng, người và ruộng là một, hạt giống thì nhiều, sự sinh mầm cũng không ít, cũng như một người đánh trống, tiếng trống thì nhiều, nên người nghe cũng nhiều”, nghĩa đó không đúng. Vì sao? Vì không thể chấp lấy, nếu đã sẵn có tự tánh thì làm sao được nói là “hiện thấy”, vì nhân đánh trống rồi mới nghe tiếng, nếu ông nói: “Tự tánh của âm thanh vốn có, do tám thứ tánh chưa rõ nên chưa đắc”, nghĩa đó không đúng. Vì sao? Vì tuy xa hay gần… cũng không được nghe, nên biết vốn không có tự tánh. Nếu ông nói: “Một âm thanh chuyển thành nhiều âm thanh”, nghĩa đó không đúng. Vì sao? Vì số một và nhiều trái nhau, đảo nghĩa lại đáng lẽ được thành, nghĩa của ông thì hỏng. Số một và nhiều trái nhau, sự lập nghĩa của ông thì âm thanh có ba thứ: 1. Chỉ trái với quả. 2. Cả hai cùng với nhân quả trái nhau. 3. Chỉ trái với nhân. Âm thanh của sát-na đầu tiên chỉ trái với âm thanh của sát-na thứ hai trái nhau. Âm thanh của sát-na sau cùng chỉ cùng với nhân , không lại có quả khác, trung gian vô số âm thanh, trước sau đối nhau, có vô lượng nhân quả, tự đồng thời trái nhau, vì nghĩa đó mà “một âm thanh sinh vô lượng âm thanh”, nghĩa đó không đúng. Vì sao? Vì trong một lúc mà đồng thời nghe. Nếu trước sau sinh nhiều âm thanh thì phải nghe trước sau.

Lại nữa,“đảo nghĩa lại đáng lẽ được thành”, là nếu ông cho: “Nhất có thể sinh đa”, thì tôi cũng cho rằng nhiều có thể sinh một, nếu ông không tin đa có thể sinh một, thì tôi cũng không tin một có thể sinh nhiều.

Lại, “nghĩa của ông thì hỏng”, vì nghĩa của ông nói rằng: “Có ba thứ vật đức và sự, chỉ ở trong vật, có thể nói có đức có sự, chẳng phải ở trong đức mà lại lập đức”, nhưng ông hiện tại ở trong thính đức (tánh nghe) phân biệt có số lượng đức, lẽ nào không trái với sự chấp gốc hay sao? Nếu ông nói: “Số lượng đó chỉ nói theo danh cú vị, không nương vào âm thanh, ví như bọn cướp đến đốt nhà, thật có lửa cháy, vì lửa tương ưng với cướp, không phải do cướp đốt cháy, mà do lửa nhờ cướp đốt cháy, nên nói cướp đốt cháy, số lượng cũng vậy, thật ra là nhà đức của danh cú vị, danh cú vị nầy tương ưng với âm thanh, số lượng đức nói theo âm thanh, nên nghĩa của tôi vốn không mất”, nghĩa đó không đúng. Vì sao? Vì danh cú vị là sự đắc của tai căn. Danh cú vị nầy có phải là âm thanh hay không? Nếu là âm thanh thì không nên có đức, vì các đức không có tự thể. Nếu không phải âm thanh, thì khi nghe âm thanh là không nên đắc, vì đối với danh cú vị nếu trong một lúc mà đắc, thì vì sao lại nói danh cú vị… có số lượng mà âm thanh thì không có? Cho nên biết nghĩa của ông tự trái với gốc. Lý nầy trước đã phá Phệ thế sư.

Lại nữa, phải biết phá nghĩa của Tăng-khư, nội đạo nói: “Nghĩa của ông là thanh có tự tánh, vì không khác với với tự tánh”, nghĩa đó không đúng. Vì sao? Nếu âm thanh có tự tánh thì âm thanh phải là căn bản của tai, nếu nói âm thanh là tai, thì tai tức là âm thanh, có thể nói tự tánh tức là âm thanh, âm thanh tức là tự tánh, nếu không thừa nhận tai tức là âm thanh, cũng không thừa nhận âm thanh của ông tức là tự tánh. Nếu ông nói: “Âm thanh là sở văn, tai không phải như thế”, nghĩa đó không đúng. Vì sao? Âm thanh của ông cùng với tai, là một hay khác? Nếu ông nói: “Âm thanh là sở văn, khác với tai”, thì đã là sở văn nên cùng với tự tánh cũng khác nhau. Nếu nói âm thanh cùng với tai không khác”, thì vì sao không nói âm thanh có thể nghe tai? Nếu ông nói: “Đức như tai”, nghĩa đó không đúng. Vì sao? Nếu khi âm thanh diệt, thì tai đáng lẽ cũng cùng diệt, vì âm thanh và tai là một, như tai và âm thanh là một vật thì không thành thí dụ, ngoài ra thì thành và không thành cũng vậy, nên biết các pháp chắc chắn không có tự tánh, đều là không. Nếu ông nói: “Chứng lượng làm sao thành”, nghĩa đó không đúng. Vì sao? Hiện tại tôi lập chứng lượng để hiển rõ nhị không, vì các pháp không, tự tánh không thật có, ví như thấy việc huyễn, vật huyễn thì điều thấy của chứng lượng là không như thật có. Các pháp cũng vậy, không giống như sở kiến mà có sở kiến, vì thể không thật nên bất hữu là do chứng lượng, bất vô là do tự thể không thật có nên nghĩa của không được thành, vì chứng lượng nên giả hữu không mất.

Lại nữa, tất cả các pháp không có tự tánh, thì làm sao nói theo nhân duyên mà sinh? Ví như lửa nói theo vật khác mà sinh, lìa củi thì liền không thể thấy, cũng như lửa đôm đốm. Nếu lửa có tự tánh, thì lìa củi mà tự cháy trong hư không. Nếu tự đốt cháy mà có lửa, thì lẽ ra lìa chất đốt cháy để làm cho sinh sự lại nữa, thì không cần dùng lửa và trở thành vô sự, là cái mà tất cả nước không thể dập tắt được. Nếu ông nói: “Có tự tánh nên có thể diệt, hoặc không có tự tánh như huyễn hóa, thì lửa không có thật tánh, vì không có đối trị”. Nước không thể dập tắt, nghĩa đó không đúng. Vì sao? Hỏi vặn ông rằng: “Lửa nầy vốn hữu tánh hay vô tánh”? Nếu hữu tánh, thì ngọn cũng là có, gốc ngọn đã có thì lẽ ra là thường, không nên có thể diệt.

Lại nữa, tự tánh mỗi thứ đều tự bất đồng, chúng phá hoại lẫn nhau, như tác sự, sau khi thành sự thì sự trước sẽ hoại, như lửa bị nước diệt. Nếu tất cả pháp đều có tự tánh, thì làm sao có thể diệt lẫn nhau! Hoặc ông nói: “Nếu không có tự tánh thì lửa và củi chẳng nên khác nhau”, nghĩa đó không đúng. Vì sao? Vì có nhiều lỗi, năng sở không khác. Nếu là một không phải dị, thì đâu có hai vật củi lửa năng, đối tượng gì? Cũng có thể nói: “Củi làm năng chiếu, lửa làm sở chiếu, nếu không như thế thì nghĩa của ông vốn lập nhất không thành.

Ngoại đạo nói: “Nếu ông nói lửa lìa một khác, thì vì sao nói lửa từ nhân duyên sinh”?

Nội đạo nói: “Như năm trần của sắc trong củi lúc đó chưa thành củi, tức là trong lúc đó đều thành tánh củi. Bốn đại, bốn vi… tám vật đều là chẳng phải một, chẳng không khác. Nếu nói tám vật lạnh nóng… đều là một khác, nghĩa đó không đúng. Vì sao? Nếu là một, thì lạnh lẽ ra phải đến nóng, liền rơi vào chấp thường. Nếu nói khác, là lựa riêng với không mà sinh, tức là đoạn kiến, vì duyên lạnh sinh nóng, nên nếu là khác, thì phải có tám hoả, nếu lửa có tám thì một lửa không sinh, đều nói như trước, nên các pháp đều nói theo duyên sinh. Vì sao? Vì nối tiếp bất độ nên nối tiếp mà bất đoạn, bất độ nên bất thường, vì nghĩa đó nên đoạn kiến và chấp thường diệt thì phải một không phải khác vì tùy thế gian nên cũng nói là một khác.

Lại nữa, nếu ông nói: “Hai pháp năng lượng và sở lượng thành tựu, là nguyên nhân các pháp đều có tự tánh nên bất không”, nghĩa đó không đúng. Vì sao? Vì lượng từ tự tánh, không duyên với cảnh sở lượng mà có trí năng lượng tự thành, là không có việc đó. Đã không có sở lượng thì danh từ năng lượng đối với cái gì mà lập để đo lường sở lượng gì? Nếu ông nói: “Do quán sở lượng nên được thành năng lượng”, nghĩa đó không đúng. Vì sao? Vì nếu tiền cảnh chưa có thì đo lường sở duyên nào? Sở lượng là sở duyên cảnh, năng lượng là năng duyên trí. Nếu sở lượng đã thành thì năng lượng có dùng để làm gì đâu? Sở vốn do năng mà được tên sở, nếu năng lượng chưa có mà đã thành sở lượng thì năng lượng vô dụng? Nếu sở lượng không liên quan với năng lượng mà tự nó được thành, thì có năng, đối tượng gì đâu? Nếu ông nói: “Năng lượng sở lượng lẫn nhau làm thành, thì cả hai mỗi thứ đều có tự tánh mà tương hợp lẫn nhau, một gọi là năng lượng, một gọi là năng lượng”, nghĩa đó không đúng. Vì sao? Nếu khi chưa đối nhau lẫn nhau thì cả hai pháp đã thành rồi sau đó mới được tên, thì có bốn lỗi:

1. Đối nhau vô dụng. Vì sao? Vì tất cả pháp khi chưa bị duyên thì đã thành sở lượng, trí cũng như vậy, khi chưa có sở duyên thì đã thành năng lượng. Tự tánh đã thành rồi thì dùng cái gì để đối nhau!

2. Vì sao sự chưa đủ mà lại cần đối nhau! Nếu vì lập danh mà cần phải đối nhau, thì thể đã lập rồi vì sao không có danh? Nếu ông cho: “Tự tánh của thể vốn là hữu, chỉ vì chưa đối nhau nên chưa có danh”, nghĩa đó không đúng, vì chưa có danh thì làm sao có thể?

3. Sở lượng thành trước, năng lượng thành sau. Nếu sở lượng đã thành nên đắc sở lượng, năng lượng chưa thành thì sự đối nào mà gọi là năng lượng?

4. Nếu năng sở đồng thời thành, thì nghĩa năng sở bị hoại, như sừng trâu cùng sinh với trâu thì không có năng, sở, đã trước và sau đồng thời thì tìm tòi tự tánh đều là không thật có, nên biết các pháp đều không.

Lại, nếu ông nói: “Ví như đèn là năng chiếu, bình chậu… là sở chiếu, hai vật đèn và chậu bản tánh là hữu, chỉ khi đối nhau thì gọi là năng chiếu và sở chiếu, nên nghĩa của lượng được thành”, nghĩa đó không đúng. Vì sao? Vì nếu đèn chưa thành thì không tương tự với lượng, lẽ nào được làm thí dụ hay sao? Nếu ông nói: “Thế nào là chưa thành? Vì trong đèn không có tối tăm, nên không cần chiếu soi tự thể. Nếu chiếu tự thể thì thể là sở chiếu, như các thí dụ bình…”, bình đã phải riêng biệt, đèn đến chiếu soi đèn thì cũng phải có cái đèn khác đến chiếu nó, đây là lỗi chiếu chiếu vô cùng, nhưng mà không đúng. Nếu ông cho rằng: “Chứng lượng tương tự nên lấy đèn làm dụ”, tôi hiểu rõ không tương tự nên không được làm thí dụ. Vì sao? Đèn có chỉ chiếu soi vật khác, chắc chắn không tự chiếu được nó. Nếu thể nó có tối tăm thì cần phải tự tha chiếu soi. Thể đã không có tối tăm thì nhọc gì tự tha đến chiếu? Không giống như các vật bình chậu… thể có tối tăm nhưng không tự hiển, nên cần đèn chiếu soi. Nếu đèn cần chiếu soi lại nó, thì phải có đèn khác đến chiếu soi, nhưng không phải như vậy, nên chắc chắn biết đèn chỉ là năng chiếu không phải sở chiếu. Lượng thì không phải như vậy, là năng hay sở, có thể duyên cảnh trước, thì gọi là năng lượng, tức là tự trí duyên và làm tha trí duyên nên gọi là sở lượng, tức là tự duyên như nhãn thức làm chứng lượng. Đối diện thẳng với sắc phía trước, không thể phân biệt khởi lên có ý đó là màu xanh, nếu khởi có ý màu xanh để giải thích ngay đó là ý thức, thì đó là hai tâm cùng khởi. Nhãn thức chấp lấy sắc, không thể tự chấp lấy nó, ý thức phân biệt xanh vàng, tức là chấp lấy, nhãn thức không thể chấp lấy tự kiến sắc cảnh của nó, chỉ phân biệt sở đắc của nhãn thức, tức là năng lượng phân biệt, nhãn thức tức là năng lượng, nên chứng lượng do tha phân biệt mà được thành lập. Đèn thì không như thế, chỉ là năng chiếu, không phải là sở chiếu, không do tha chiếu nên được thành lập, vì nhân duyên đó, không được nêu thí dụ nầy đối với chứng lượng. Nếu đèn có thể tự chiếu thì càng không cần đèn khác, mà bình chậu… đáng lẽ cũng tự chiếu. Nếu thể của đèn tối tăm thì đáng lẽ chiếu soi tự thể, nhưng không cần cái đèn khác để chiếu soi, bình chậu… cũng như thế, thể của bình chậu có tối tăm thì đáng lẽ tự chiếu soi tự thể, cũng không nhọc gì cần đèn đến chiếu soi, vì bình chậu phải tự chiếu soi. Đó là một loại bình, đèn phải tự chiếu soi đều không do vật khác, thì bình đèn lại có khác gì? Nếu đèn không tự chiếu soi thì làm sao chiếu lại tự thể? Nếu thể không có ám tối thì không cần chiếu, lại nhọc gì phải chiếu soi! Nếu chiếu soi lại tự thể thì có hai lỗi:

1. Thể đáng lẽ có tối tăm nên cần phải chiếu. Thể nầy bình là một, bình có ám tối đã không thể tự chiếu, đèn cũng có tối thì làm sao có thể chiếu được?

2. Năng chiếu và sở chiếu là một, đã là một thể thì rốt ráo cái nào là năng chiếu, cái nào là sở chiếu? Thí dụ đèn của ông đã không thành, nghĩa chứng lượng cũng hỏng.

Lại không chỉ dùng một sắc làm bình, mà hợp chung tám vật làm bình, chỉ thấy một sắc, thì thế nào là được cái bình? Nếu thấy một sắc tức là bình, chỉ có sắc là cái bình, nên biết chứng sắc mà không chứng ở cái bình.

Lại nữa, sắc cũng không thể chứng. Vì sao? Vì lân hư sắc không thành tựu. Ông cho rằng: “Lân hư vi trần thường chẳng thể không (trống rỗng), tụ lại nhiều thành trần, nghĩa sắc là như thế”, là ngay trong một trần mà có sáu phương hay không? Nếu có sáu phương thì liền thành sáu phân, nếu không có sáu phương thì không cho rằng là sắc. Đã có sáu phân thì liền có thể phân tích, nếu có phương mà không có phần thì đó là sáu trần nhập chung với một trần, các trần vô biên đều phải như vậy, là không thành nghĩa của đại.

Lại nữa, như một trần, khi ánh sáng mặt trời chiếu, là chiếu một bên, hay là đông tây đều đạt hết? Nếu chỉ chiếu một bên thì có sáu phần, nếu đông tây đều đạt thì sắc là phi hữu, nên biết phương phần không thật, đều là không thì có gì để chứng thấy? Đã không có chứng lượng, so sánh với các lượng thì lý phải tự mất.

Lại như các trần của sắc không thể so sánh được, thì bình cũng vậy. Nếu ông nói: “Trước hết phải chứng thấy, sau đó thì so sánh mà biết, như trước đã thấy lửa tương ưng với khói, có lửa để so sánh với khói. Sau đó thấy khói tuy không thấy lửa, nhưng do trước đã từng thấy lửa, so sánh lượng xét với trước kia thì biết có lửa”, nghĩa đó không đúng. Vì sao? Ông cho rằng: “Do trần của sắc mà có thể so sánh biết tự tánh, vật từ trước đến nay chưa hề thấy, thì làm sao do sắc mà so sánh biết (tỷ tri)! Chiếc bình cũng vậy, biết từ trước đến nay chưa từng chứng kiến thì làm sao thấy sắc mà có thể so sánh biết cái bình! Đó là do chứng lượng nên có tỷ lượng”, nghĩa đó không thành, vì chứng lượng đã không thành thì tỷ lượng như các Thánh ngôn lượng đều mất. Lại cũng có lỗi, vì nhân quả không khác nhau nên tỷ trí không thành. Nếu ông cho rằng: “Tự tánh sinh năm duy… thì tự tánh làm nhân, năm duy làm quả, trong nhân đã có quả, khi quả thì cũng có nhân, đến năm duy thì tự tánh rốt ráo không mất”, thì tự tánh và năm duy xưa nay vốn có, nên thể của tự tánh và năm duy là một, nếu như thế thì nhân quả không có khác nhau, thì làm sao nói năm duy có thể so sánh biết tự tánh, đây là ngay trên tự thể mà so sánh tự thể, thì nghĩa làm sao nói?

Lại nữa, phải biết phá nghĩa của Phệ thế sư, nếu ông nói: “Bình… khác với sắc…”, thì làm sao được chứng? Nếu lìa các đức của sắc… là vật có thể chứng thì phải biết gái bất dục có con dùng nước nóng mà tắm gội, mặc áo lông rùa, mang giầy sừng thỏ, đeo tràng hoa đốm, vào thành thát-bà, vui chơi với hóa nữ, những thứ đó đáng lẽ cũng có thể chứng được! Nếu những thứ đó không thể chứng được, thì bình… cũng vậy, vì sắc đã không thì bình làm sao có? Như thí dụ chiếc bình, tất cả lượng khác cũng đều không thành. Như vậy tự tánh đều là không thật có nên biết tất cả pháp đều là không.

Lại nữa, phải biết để phá chấp của Tăng-khư, nếu ông nói: “Trong nhân có quả thì các lượng không thành, vì cũng như các pháp có tự tánh”, nghĩa đó không đúng. Vì sao? Vì nhân quả là một thể, nếu ông cho rằng tự tánh trong nhân tức có quả, trong các pháp có tự tánh nên đắc tỷ tri, nếu thế thì nhân quả là một hay là khác? Nếu là một, là một thể không có dị, thì không thể so sánh lẫn nhau. Nếu ông nói nhân quả bất nhất thì tự trái với nghĩa của ông, nếu trong nhân chắc chắn có quả thì liền thành hai lỗi:

1. Nhân tức là quả, là lỗi ở nhân, vì tự tánh là một thì chỉ được quả, làm sao có được nhân!

2. Nếu đã có quả, thì nhân dùng làm gì? Vốn do nhân sinh, nhưng quả đã có rồi thì dùng nhân làm chi nữa?

Nếu ông nói: “Nhân đó có nên tự tánh không mất”, nghĩa đó không đúng. Vì sao? Vì xứ sở của tự tánh không có. Nếu ông nói: “Do mật không xứ chứ làm sao mà không có xứ sở”! Nghĩa đó không đúng. Vì sao? Vì mật không xứ đó đều chưa có! Mật là tám vật gồm bốn đại và bốn trần; không là hai vật gồm không đại và thanh trần. Như vậy hai xứ của năm đại và năm trần đều chưa có, thì tự tánh làm sao được thành lập? Khi tự tánh chưa đổi khác thì năm duy và năm đại đều chưa có, không đại là không xứ, bốn đại là mật xứ, cả hai xứ trước kia chưa có thì ông lập tự tánh đặt tại xứ nào? Nếu ông nói: “Trước kia tự tánh chưa có không xứ và mật xứ”, nghĩa ấy không đúng. Vì sao? Vì sinh nhân trái nghịch với gốc. Nếu trước kia đổi khác mà chưa có không mật là không có ứng dụng của nhân, đang khi đổi khác thì mới có không mật, mới có ứng dụng của nhân, thì đổi khác đó đáng lẽ có thể sinh ra tự tánh, nếu ông nói: “Lúc đó hai xứ nầy chưa có”, nghĩa đó không đúng. Vì sao? Vì nhân chưa thành tựu thì vật nào làm trước kia? Nếu ông cho rằng: “Không có vật trước kia mà có tự tánh”, nghĩa đó không đúng. Vì sao? Vì tự tánh không có trụ xứ. Nếu không có nơi chốn thì trái với Thánh ngôn lượng của ông. Tiên Ca-tỳ-la vì Bà-la-môn A-tu-lợi nói: “Xưa kia lúc đầu chỉ có một thể mờ tối”. Trong đó chỉ có trí do xứ sở, đã không có pháp để dẫn Thánh ngôn tức là tự trái ngược nhau, tự tánh và ngã đều không thành tựu, thì lại lấy thí dụ nào để thành lập tự tánh? Nếu ông nói: “Thứ ba (của tự tánh và ngã) chính là thí dụ của nó”, cũng lại không đúng. Vì sao? Vì điều nầy có hai lỗi: 1. Tự lỗi với nghĩa gốc. 2. Nhân tánh không thành. Nếu ông nói: “Vô dị tức là thí dụ”, nghĩa đó không đúng, vì thứ ba không thành. Nếu ông nói: “Do vô dị mà thứ ba được thành”, cũng không đúng, vì chỉ có niệm. Nếu ông nói: “Niệm có”, thì liền trái với nghĩa gốc. Nếu ông nói: “Nghĩa gốc hoặc có niệm, niệm tức là nghĩa”, cũng không đúng. Vì sao? Vì khi niệm diệt thì nghĩa cũng hoại, nên đổi khác cùng với tự tánh làm vô dị, thì như và bất như đều không lập; tự tánh và đổi khác không có sai khác, thì nhân cùng với quả làm nhất, tất cả đều cũng không thành. Nếu ông nói: “Hoặc nhân quả là một”, thì không có ngôn ngữ, hỏi vặn của ông cũng không có. Hoặc nhân quả là khác, thì nghĩa nhất cũng không đúng. Vì sao? Vì có ba lỗi: 1. Tự trái với nghĩa của ông. 2. Thành tự điên đảo. 3. Ngôn ngữ không có nhân.

– Tự trái với nghĩa của ông là thế nào ? Như nay tôi lấy nghĩa của ông để hỏi vặn lại ông, thì ông tin hay là không tin ? Nếu ông tin hỏi vặn của tôi thì nghĩa của ông dễ hỏng. Nếu không tin hỏi vặn của tôi thì hỏi vặn của ông cũng không phải hỏi vặn. Vì sao biết được như vậy ? Vì hỏi vặn của tôi nên ngữ nghĩa của ông được thành, thì nghĩa của tôi cũng lập. Sự lập nghĩa của ông là trong lúc nào, là trước khi tôi hỏi vặn, hay sau khi hỏi vặn, hay là đồng thời ? Nếu trước hỏi vặn, khi tôi chưa hỏi vặn, thì ông đối phá với ai? Nếu sau khi tôi hỏi vặn thì nghĩa của tôi đã thành, nghĩa của ông lập chỗ nào? Nếu đồng thời thì không có năng và sở, như nước của sông biển đồng thời hòa hợp, làm sao phân rõ hai nghĩa của ông của tôi khác nhau, tức là trở thành nghĩa của tôi.

– Trở thành tự điên đảo, là ông lấy nghĩa sinh để hỏi vặn hiển nghĩa của tôi. Đây không phải là chỗ hỏi vặn. Nếu tôi lập nghĩa sinh thì ông có thể dùng ba thời để đặt hỏi vặn. Hỏi vặn sinh của tôi là vì không lìa ba thời, nếu ba thời không lập, thì sinh không thành. Hiển nghĩa, là do lý mà lập, nếu có lý thì ba thời không khác nhau. Nếu không có lý thì không thể hiển nghĩa, nên không thành. Vì không do ba thời, nếu hỏi vặn sinh thì phải dựa vào ba thời. Nay sự hỏi vặn phải dựa vào lý. Nếu ông dùng thời tiết để hỏi vặn đạo lý thì tự thành điên đảo.

– Ngôn ngữ không có nhân, là ngôn ngữ do nghĩa mà được thành. Nếu không có nghĩa thì ngữ ngôn không lập, nhân quả là một thể thì nghĩa khác không thành, nên không có ngữ ngôn. Nếu ông nói: “Vừa là nhân vừa là quả”, nghĩa đó không đúng. Vì sao? Vì có lỗi vô thường. Quả đã vô thường thì nhân cũng phải như vậy. Nếu nhân vô thường, thì nghịch lại nghĩa gốc của ông. Nếu nhân của ông là thường, quả là vô thường, thì sắc của quả đổi khác không thể được. Nếu ông nói: “Do sự so sánh của sắc nên chẳng pphải không thể được”, nghĩa đó cũng không đúng, vì sự so sánh không có, đều phá như trước, vì chứng lượng không thành thì tỷ lượng không thành; chưa có không mật xứ nên nhân không có chỗ trụ, do đó không được thành. Nếu ông nói: “Hoặc không thể so sánh mà tỷ lượng cũng được thành, như vậy so sánh có bốn câu: 1. Hữu so với vô. 2. Vô so với hữu. 3. Hữu so với hữu. 4. Vô so với vô”. Nghĩa đó không đúng, vì con của gái bất dục, sừng thỏ… đều có thể so sánh, khả chứng hay phi khả chứng của sắc… nghĩa nầy dùng làm gì? Đó là vì nhân không có lý nên không thể được thành. Nếu ông nói: “Như lân hư trần, lấy quả so với nhân, tự tánh cũng như thế”, nghĩa đó không đúng, vì lân hư trần không thành, nhân quả khác nhau, lìa trần của các sắc không thật có, nên thí dụ không được thành lập. Nếu ông nói: “Lấy phi chứng để so sánh với phi sở chứng, như nước ở dưới đất, không thể thấy biết, so sánh tự tánh với ngã cũng như vậy”, nghĩa đó không đúng. Vì sao? Nếu ông có thể nhân theo con của gái bất dục để tỷ với lông rùa, thì tôi có thể tin ông nhân theo lân hư trần để được tỷ với tự tánh. Nếu ông nói: “Như đèn tự thành, thì tỷ lượng cũng vậy”, nghĩa đó không đúng. Vì sao? Vì lìa tám vất của sắc… thì đèn không thể thấy, như lân hư trần lìa sắc… cũng không thật có, sự so sánh với tự tánh cũng không thật có nên không có tự tánh. Nếu ông nói: “Do nhớ lại mà biết có, nên chứng lượng và tỷ lượng đều thành, nếu không có chứng lượng và tỷ lượng thì chỗ nào để nhớ lại” ! Nghĩa đó không đúng, vì nếu lìa ngoài ba thứ tri mới có nhớ lại thì chứng lượng và tỷ lượng không thành. Ba chủng tri là: 1. Dị cảnh tri. 2. Năng biệt tri. 3. Nhất tri.

– Dị cảnh tri, như người thấy chiếc bình, sau đó nhớ cái áo, nghĩa của ông cũng vậy, sắc tức khác với vật, khi đã thấy sắc rồi thì liền nhớ chiếc bình, nên nghĩa không thành.

– Năng biệt tri, ví như trương thì liền thấy cái bình, vương thì liền nhớ sau đó, là không có việc như thế, nghĩa của ông cũng vậy. Giác năng thủ cảnh, ngã năng nhớ lại, hai thứ nầy không đồng loại, là giác thấy trước, ngã sau đó mới nhớ, là không có nghĩa như vậy.

– Nhất tri, như người đang ngắm nhìn chiếc bình, thì không được sinh nhớ. Nếu có nhớ biết thì bị hai lỗi: 1. Hai tri cùng lúc không được cùng khởi, vì tâm là một, khi tâm chấp lấy sắc thì không được chấp lấy âm thanh. 2. Căn đang đối cảnh chưa xả, lúc đó lại được nhớ cảnh khác, giác của ông cũng vậy, chỉ là một tri, không có niệm niệm diệt, từ đổi khác thứ nhất cho đến giải thoát mé trước hằng là một, trong nhớ lại đó không có nhớ lại. Nếu trái với ba thứ nhớ lại nầy thì nhớ lại được thành. Nói rằng cảnh giới đồng loại, năng tri đồng loại, tri niệm niệm diệt không được đồng thời. Sẵn đủ ba nghĩa nầy thì nhớ lại được thành. Nhớ lại của ông không thành, nên chứng lượng và tỷ lượng cũng không được thành, vì duyên đó nên nghĩa tự tánh bị hỏng.

Nếu ông nói: “Nhớ lại do tự tánh nên được tạo thành Một khác, Hữu vô. Niệm thứ nhất chấp lấy cảnh thì có đủ ba nghĩa: 1. Cảnh. 2. Người. 3. Trí. Đều đồng thời cùng có, đến niệm thứ hai thì ba nghĩa trước đã diệt, ba nghĩa sau nối tiếp khởi, nghĩa trước và nghĩa sau đồng loại thì làm nghĩa một, nghĩa trước nghĩa sau đều là một, thì cũng là nghĩa một, nghĩa trước không có, nghĩa sau có thì làm nghĩa khác, nghĩa trước có thể sinh nghĩa sau, là nghĩa hữu, nghĩa trước diệt nghĩa sau sinh là nghĩa vô. Đủ các nghĩa nầy nên có nhớ lại, do tự tánh nên nhớ lại được thành”.

Nội đạo nói: “Nếu thế thì tôi rất vui mừng, vì trái với là nghĩa của tôi, đâu có tổn thất gì! Nay tôi do nghĩa nầy mà nói vô tự tánh, ví như hạt giống trước có thể sinh hạt giống sau, thì hạt giống trước sau nầy là không phải một, không phải khác, không phải hữu, không phải vô. Nếu là một thì không có trước và sau. Nếu là khác thì hạt giống trước là lúa, sau là đậu, nên không có một khác. Tự tánh Bất Hữu Bất Vô, là nhân diệt thì quả sinh. Nhân diệt nên Bất hữu, quả sinh nên Bất vô. Khi nhân chưa có quả nên không thể nói Hữu. Khi quả sinh thì do nhân, nên không thể nói không. Vì nghĩa đó mà nhân quả và nhớ lại đều được thành tựu, nên nói vô tự tánh, như hạt giống trước sau bất nhất không khác, có thể khởi các thứ việc. Nhớ lại cũng vậy, trước sau không phải một không phải khác, nên có thể nhớ lại các thứ cảnh. Nếu ông nghe rồi nhớ lại, hoặc là vô thường, thì làm sao tu tập? Đáp: Đã vô thường thì có tu tập, cũng như hạt giống Kiếp-ba-bà gieo xuống đất, tưới nước Khư-đà-la lên, thì sau đó nẩy mầm, thân cây, nhánh lá, là tự tướng của nó không có màu sắc nào khác, chỉ có khi trái chín thì liền thành màu sắc của Khư-đà-la thành tướng đỏ hồng khác với bản sắc tự tướng của Kiếp-ba-bà. Như vậy tâm khởi pháp và phi pháp, là pháp thứ tự tâm trước huân tập tâm sau, phương tiện huân tập như vậy không mất nên không phải một, không phải khác, đến khi quả chín, thì các quả khổ vui mỗi mỗi liền hiển hiện, nên từ vô tự tánh tâm mà các nghiệp được sinh, như hạt giống Kiếp-ba, sau đó đồng với màu sắc của Khư-đà-la, nếu khởi chấp nầy thì hữu tự tánh tâm gọi là Nhớ lại. Hoặc có người nói thọ giả (người sống lâu) cũng là nhớ lại, nếu khởi chấp như vậy thì liền không có tâm nhớ lại và thọ giả, vì có tự tánh nên không quên mất. Nếu ông nói: “Có (quên mất)”, thì có hai lỗi: 1. Nhớ lại. Nếu có tự tánh thì không có quên mất, nếu có quên mất thì không có nhớ lại. Như sự quên mấtc nầy là có tự tánh hay không? Nếu có tự tánh thì cùng với tánh nhớ lại trở thành trái nhau hay không? Nếu không trái nhau thì trong một vật đáng lẽ đồng thời có hai thứ tâm ức vong cùng khởi! Nếu trái nhau, thì chỉ có tự tánh quên mất, không có nhớ lại. Ức tri đã không có thì chỗ nào là quên mất! Nếu ông nói: “Tri sinh trước diệt sau nên nói quên mấtc”, nếu như thế thì tự tánh sẽ không thành. Nếu có nhớ lại thì tác cụ của tự tánh vô dụng, vì nhớ lại hằng có. Nếu ông nói: “Do tác cụ nên được thành”, thì không có tự tánh, vì có lỗi. Nếu tác giả cùng với cụ đồng nhất thể thì không có nhớ lại, vì tri thường có. Nếu tri không có, thì tâm hoặc là có khi không thì không có tự tánh, hoặc là có khi có thì không có nhớ lại. Nếu không có nhớ lại thì tâm đáng lẽ diệt. Nếu ông nói: “Có riêng vật khác nên tâm được là thường, khi chứng tri thì đáng lẽ không phải nhớ lại, là vì chứng tri đang ở tại xứ nhớ lại nên không mất thể của nhớ lại”, nghĩa đó không đúng. Vì sao? Nếu vật thường trụ thì không có sự tập quen, vì đồng loại tương tự mới có thể tập quen. Nếu không có tự tánh thì tợ nghĩa có thể thành. Nếu có tự tánh thì đáng lẽ thường giữ một vật một sự nên không có tương tự. Không có tương tự thì không có tập quen, không có tập quen thì không có nhớ lại. Nếu ông lập tự tánh nhớ lại, thì tỷ lượng… đều không thành tựu, vì nhất thể, nên tất cả tâm nghi đáng lẽ là quyết tri, dục tức là lìa dục, thâu (trộm cắp) tức là thí, là phụ (đàn bà), là mẫu, là giác. Nếu không khác với tự tánh, thì nghĩa quả trong nhân liền tự hoại. Nếu ông nói: “Vốn có”, thì đối tượng giác là vật gì? Nếu nói ngã là sở giác, thì nghĩa đó không đúng, vì ngã của chứng lượng và tỷ lượng không thật có, nên vật nếu là hữu thì không lìa sở đắc của hai lượng. Ví như năm trần và năm căn, năm trần thì trí không sinh lại nữa, gọi là chứng lượng. Tỷ lượng thì trí sinh lại nữa, như trước thấy thức sinh, sau đó là so sánh mà biết (tỷ tri ) có căn, vì thức không lìa căn, cũng như trước thấy khói, sau đó biết có lửa. Ngã thì không như vậy, không có thể chứng giống như sắc… vì vượt qua căn và cảnh, không giống như các căn có thể so sánh. Không phải có các sự tương ưng nên chẳng phải sở giác, do đó nếu giác ở trước thì không thành giác, nên biết tất cả pháp như thật vô tự tánh, chỉ có chân thật không là thể tánh.

 

Phẩm thứ 3: PHÁ KIẾN CHẤP CỦA ĐẠI THỪA

Lại nữa, phải biết phá các bậc Hữu học thiên chấp trong Đại thừa. Nếu ông nói: “Nhất thiết hữu đều do tục đế, nhất thiết vô đều do chân đế”, thì nên đặt câu hỏi nầy: Nầy bạn lành! Cái gì là chân thật? Cái gì là tục đế? Đáp: Tất cả các pháp không có tự tánh, vì là chân thật, trong pháp vô tự tánh, nói có tự tánh, gọi là tục đế, vì trong không giả nói là có.

Hỏi: Chấp có tự tánh hay không tự tánh, là phải dựa vào thế tục mà nói nên có, hay là phải chỉ có ngữ ngôn?

Đáp: Nếu nói theo thế tục mà nói, người có chấp nầy, thì chấp nầy không thể nói. Vì sao? Vì chấp là không (vô). Nếu chấp nầy chỉ là ngữ ngôn, thì không có điều được nói, vì ngữ ngôn thế tục không thành tựu. Nếu không thành tựu là thế tục nghĩa đó không đúng.

Hỏi: Lại , nếu ông cho rằng: “Trong vô tự tánh, chấp có tự tánh mà gọi đó là tục, nếu chấp có thì thế nào là không?

Đáp: Là phẩm loại điên đảo nên trong không mà nói có, cho đến đối với các pháp vô thường, lạc, ngã… mà nói đều là có. Các đức của thường… thể của nó thật ra là không, chỉ giả nói là có, như người chấp nầy là thuộc về bốn điên đảo nên tuy chấp là có nhưng đắc là không.

Hỏi: Như vậy điên đảo là có hay không?

Đáp: Nếu là có, thì tất cả pháp đều không có tự tánh, nghĩa nầy không đúng. Nếu là không thì chấp điên đảo nầy cũng không được thành. Nếu trong vô tự tánh mà chấp có tự tánh làm Tục đế, nghĩa nầy không đúng. Vì sao? Vì hai đế chẳng thể nói là có, chẳng thể nói là không, vì là phi hữu phi vô. Chân đế chẳng thể nói là có, chẳng thể nói là không, vì là vô nhân (người) và vô pháp nên không thể nói có, để hiển bày hai không nên chẳng thể nói không. Tục đế cũng vậy, vì tánh phân biệt nên chẳng thể nói có; vì nói theo tánh Y tha nên chẳng thể nói không.

Lại nữa, Chân đế bất định, nhân và pháp là có hay không, chẳng có pháp nào mà không phải không hai, Không, Hữu và Bất hữu. Tục đế cũng vậy, vì Phân biệt tánh nên chẳng phải quyết định là vô, vì tánh Y tha nên chẳng quyết định là có.

 

LUẬN PHẬT TÁNH

QUYỂN 2

PHẦN THỨ BA: HIỂN THỂ

Phẩm thứ 1: BA NHÂN

Lại nữa, thể Phật tánh có ba thứ, phải biết là nghĩa thuộc về ba tánh, ba thứ đó gọi là ba nhân ba thứ Phật tánh.

Ba nhân: 1. Nhân ưng đắc. 2. Nhân gia hạnh. 3. Nhân tròn đầy.

– Nhân ưng đắc: Là nói chân như hai không, do không nầy mà phải đắc tâm Bồ-đề và gia hạnh… cho đến đạo sau pháp thân, nên gọi là ưng đắc.

– Nhân gia hạnh: Là tâm Bồ-đề, do tâm nầy mà đắc ba mươi bảy Phẩm, mười địa, mười Ba-la-mật, là pháp trợ đạo cho đến pháp thân, sau đạo gọi là nhân Gia hạnh.

– Nhân tròn đầy: Tức là Gia hạnh, do gia hạnh nên đắc nhân tròn đầy và quả tròn đầy. Nhân tròn đầy là hạnh phước tuệ, quả tròn đầy là trí đoạn ân đức. Trong ba nhân nầy, một nhân trước thì lấy như lý vô vi làm thể, hai nhân sau thì lấy nguyện hạnh Hữu vi làm thể.

Ba thứ Phật tánh, là nhân ưng đắc có đủ ba tánh: 1. Trụ tự tánh tánh. 2. Dẫn xuất tánh. 3. Chí đắc tánh. Ghi rằng: Trụ tự tánh là vị phàm phu trước tu đạo. Dẫn xuất tánh là từ phát tâm trở lên đến cùng Thánh vị Hữu học. Chí đắc tánh là Thánh vị Vô học.

 

Phẩm thứ 2: BA TÁNH

Lại nữa, thuộc về ba tánh, cái gọi là ba vô tánh và ba tự tánh. Ba vô tánh: 1. Vô tướng tánh. 2. Vô sinh tánh. 3. Vô chân tánh. Ba tánh nầy gồm nhiếp hết tánh Như lai. Vì sao ? Vì ba tánh nầy làm thể chung.

– Vô tướng tánh: Là tất cả pháp chỉ do danh ngôn hiển bày, vì tự tánh không có tướng mạo, gọi là vô tướng tánh.

– Vô sinh tánh: Là tất cả pháp do nhân duyên sinh, không do tự mà có thể sinh, vì tự tha đều không thành tựu, gọi là vô sinh tánh.

– Vô chân tánh: Là tất cả các pháp lìa chân tướng, không còn có thật tánh riêng có thể đắc, gọi là vô chân thật tánh.

Lại nữa, ba thứ tánh: 1. Phân biệt. 2. Y tha. 3. Chân thật. Phải biết phân biệt có mười nghĩa, mười nghĩa là : 1. Phân biệt danh. 2. Duyên thành. 3. Nhiếp trì. 4. Thể tướng. 5. Ưng tri. 6. Nhân sự thuyết. 7. Y cảnh. 8. Thông đạt. 9. Nhược vô đẳng. 10. Y chỉ.

– Phân biệt danh: Là tùy theo danh ngôn giả nói mà lập tánh phân biệt. Nếu không có danh ngôn nầy thì tánh Phân biệt không thành, nên biết tánh nầy chỉ là sự hiển bày của danh ngôn, thật ra không có thể tướng, gọi là tánh Phân biệt. Tánh y tha, là sự hiển bày đạo lý của mười hai nhân duyên vì làm chỗ nương của tánh Phân biệt, nên lập tánh Y tha. Tánh chân thật, là chân như của tất cả pháp, là cảnh trí Vô phân biệt của bậc Thánh, vì tánh Phân biệt thanh tịnh và tánh Y tha, vì ba môn giải thoát, hoặc vì dẫn xuất các đức mà lập tánh Chân thật, gọi đó là phân biệt danh.

– Duyên thành:

Hỏi: Tánh phân biệt, duyên nhân nào mà được hiển hiện?

Đáp: Do duyên tướng danh tương ưng mà được hiển hiện.

Hỏi: Tánh y tha duyên nhân nào mà được thành?

Đáp: Duyên chấp tánh Phân biệt mà được hiển hiện.

Hỏi: Tánh chân thật duyên nhân nào mà được thành?

Đáp: Do Vô sở hữu của tánh Phân biệt và tánh Y tha mà tánh Chân thật được hiển hiện, nên gọi là duyên thành.

– Nhiếp trì là tánh có ba thứ, pháp có năm phần. Ba tánh là: 1. Phân biệt. 2. Y tha. 3. Chân thật.

Năm pháp là: 1. Tướng. 2. Danh. 3. Phân biệt tư duy. 4. Thánh trí. 5. Như như. Ba phần đầu – tướng, danh, và phân biệt tư duy – là trí thế gian, Thánh trí là trí xuất thế gian, như như là cảnh vô vi, để nói năm pháp nầy gồm nhiếp tánh tánh trước, nên hỏi đap sau đây.

Hỏi: Trong năm pháp, có bao nhiêu pháp gồm nhiếp tánh thứ nhất?

Đáp: năm pháp đều không thể gồm nhiếp tánh thứ nhất. Vì sao?

Vì không có thể.

Hỏi: Tánh thứ hai có bao nhiêu pháp có thể gồm nhiếp?

Đáp: Có bốn pháp gồm nhiếp.

Hỏi: Tánh thứ ba có bao nhiêu pháp có thể gồm nhiếp?

Đáp: Chỉ có một pháp như như có thể gồm nhiếp.

Hỏi: Nếu tánh Y tha làm sự gồm nhiếp của Thánh trí, vì sao nói tánh Y tha duyên tánh Phân biệt được thành?

Đáp: Y tha có hai thứ: 1. Nhiễm trược y tha. 2. Thanh tịnh y tha. Nhiễm trược y tha duyên phân biệt được thành, thanh tịnh y tha duyên như như được thành.

– Thể tướng: Có hai thứ: 1. Thể chung. 2. Thể riêng. Thể chung, là do ba tánh nầy thông chung có thể thành tựu các Chân đế khác, hoặc bốn, hoặc ba, hoặc bốn, hoặc bảy đế pháp, nên Chân đế không ngoài ba tánh, là lấy ba tánh làm thể chung của Chân đế.

Thể riêng, là trong ba tánh mỗi tánh đều có thật nghĩa. Thế nào là thật nghĩa ?

Một là thể của tánh Phân biệt thường vô sở hữu, nhưng nghĩa nầy trong tánh Phân biệt chẳng phải là không thật. Vì sao? Vì danh ngôn không có điên đảo.

Hai là thể của tánh Y tha tuy có nhưng không thật, do căn cảnh của loạn thức nên là có, vì chẳng phải chân như nên không thật. Vì sao? Nghĩa của nhân duyên không có điên đảo, là đối với tánh Phân biệt nên gọi là có, đối với hậu chân tánh nên chẳng phải thật có, gọi đó là có không chân thật.

Ba là thể của tánh Chân thật, có và không đều là thể của chân như, vì phi hữu phi vô.

Hỏi: Thật tướng của ba tánh đó như thế nào?

Đáp: Thật tướng của tánh Phân biệt, là tăng ích và tổn giảm của nhân pháp, vì hiểu tánh Phân biệt nầy nên chấp nhân pháp nầy bất sinh. Phân tướng chung nhân pháp là sự tạo tác của phân biệt. Nếu dựa vào quán Chân đế thì nhân pháp nầy là có, gọi là chấp tăng ích. Nếu dựa quán theo Tục đế thì nhân pháp nầy là không, gọi là chấp tổn giảm . Nếu thông đạt tánh Phân biệt nầy thì hai chấp tăng ích và tổn giảm bất sinh, gọi là tướng thật tánh của phân biệt. Lại nữa, thật tánh tướng của y tha, là năng chấp, sở chấp, tăng ích và tổn giảm, do hiểu tánh Y tha nầy nên các chấp ấy bất sinh, đó gọi là tướng của tánh Y tha. Năng chấp sở chấp nầy nếu thấy Chân đế là có thì đó là tăng ích, gọi là chấp thường, nếu thấy Tục đế chắc chắn là không thì đó là tổn giảm, gọi là đoạn kiến. Nếu có cả hai tánh nầy thì hai chấp đoạn thường đều không sinh được, gọi đó là thật tánh tướng của y tha. Chỉ có tự trần thức là không có năng sở, vì không có năng sở nên không có chấp tăng ích. Do có tự trần thức nên không có chấp tổn giảm. Lại nữa, tánh tướng của chân thật, là các chấp có, không, tăng ích và tổn giảm, do hiểu tánh Chân thật nầy nên chấp không được sinh. Vì sao? Nếu chấp không là có thì gọi là chê bai tăng ích. Nếu chấp không là không thì gọi là chê bai tổn giảm, nếu thông đạt tánh nầy thì hai chấp bất sinh, gọi là tướng của tánh Chân thật.

– Ưng tri:

Hỏi: Ba tánh đó có bao nhiêu ưng tri (phải biết)? Có bao nhiêu bất ưng tri?

Đáp: Có tất cả ưng tri. Vì sao? Vì biết ba tánh có thể thông đạt ba môn giải thoát, có thể trừ ba chướng. Biết tánh Phân biệt có thể thông đạt môn không giải thoát, có thể trừ thịt phiền não. Biết tánh Y tha có thể thông đạt môn giải thoát vô nguyện, có thể trừ da phiền não. Biết tánh Chân thật có thể thông đạt môn giải thoát vô tướng, có thể trừ tâm phiền não. Lại nữa, ban đầu là giải thoát chướng, kế là chướng thiền định và sau cùng là chướng nhất thiết trí.

Hỏi: Trong ba tánh có bao nhiêu tánh không thể diệt? Có bao nhiêu tánh có thể diệt?

Đáp: Có hai tánh không thể diệt, một tánh có thể diệt được. Vì sao? Vì tánh Phân biệt xưa nay không có, nên không thể diệt. Tánh chân thật xưa nay là chân nên không thể diệt. Tánh y tha tuy có nhưng không chân thật nên có thể diệt. Vì nghĩa đó mà nói ưng tri.

– Nhân sự thuyết: Là Chư Phật nói pháp có hai thứ: 1. Kinh liễu nghĩa. 2. Kinh bất liễu nghĩa. Kinh bất liễu nghĩa, do ba tánh nầy mà Phật nói kinh Bất Liễu Nghĩa, như nhờ có đèn mà biết vật trong tối, sau đó nhân theo đèn mà có thể hiện rõ các vật trong tối. Như lai cũng vậy, do có người chấp mắc ba tánh nên nói kinh Bất Liễu Nghĩa, người thông đạt ba tánh thì tự nhiên hiểu rõ, gọi là kinh liễu nghĩa, như trong kinh nói: “Nếu người đã đắc pháp nhẫn vô sanh thì không thối đọa”.

Hỏi: Câu nói nầy làm sao thành lập?

Đáp: Do có ba tánh nên sẽ được thành lập. Như lai dựa theo tánh Phân biệt mà nói bổn lai vô sanh nhẫn, dựa theo tánh Y tha mà nói tự tánh vô sanh nhẫn, dựa theo tánh Chân thật mà nói bản tánh vô sanh nhẫn của Hoặc, Cấu, Khổ.

Hỏi: Như lai dựa theo tánh nào mà nói nghĩa như thế nầy: “Tất cả pháp vô sinh vô diệt, xưa nay vắng lặng, tự tánh Niết-bàn”?

Đáp: Đó là dựa theo vô tướng tánh mà nói như vậy.

Hỏi: Như lai dựa theo pháp nào mà nói: “Tất cả các pháp ví như huyễn hóa”?

Đáp: Là nói theo tánh vô sanh.

Hỏi: Như lai dựa theo pháp nào mà nói như vầy: “Tất cả pháp ví như hư không”?

Đáp: Là nói theo tánh Chân thật. Cho nên Phật nhân theo ba tánh mà nói, do đó có kinh liễu nghĩa và kinh bất liễu nghĩa.

– Y cảnh:

Hỏi: Ba tánh nầy là cảnh trí nào?

Đáp: Tánh phân biệt chỉ là cảnh hoặc của phàm phu, chẳng phải cảnh của Thánh trí. Vì sao? Vì không có thể tướng. Tánh y tha là cảnh trí của phàm và Thánh, vì có thế tục. Tánh chân thật thì chỉ là cảnh vô phân biệt của Thánh trí, vì như lượng như lý, như lượng thì gồm nhiếp tất cả, như lý thì không có điên đảo, gọi đó là y cảnh.

– Thông đạt:

Hỏi: Người tu quán hành , nếu thông đạt tánh Phân biệt, là có thể nói trong tướng chấp hành, hay là không thể nói hành trong tướng chấp hành?

Đáp: Nếu do trí thế tục phân biệt thì có thể nói hành trong chấp tướng. Nếu do trí xuất thế gian vô phân biệt thông đạt thì có thể nói không có hành trong chấp tướng. Do đó y tha và tánh Phân biệt đồng nhất vô tướng. Như phân biệt y tha, tánh Chân thật cũng vậy.

Hỏi: Người tu quán , có thể như lý chân thật, nhập tánh Phân biệt, để soi rõ tánh nào ?

Đáp: Soi rõ tánh Chân thật.

Hỏi: Người tu quán, như lý chân thật nhập tánh Chân thật, để soi rõ tánh nào?

Đáp: Để soi rõ tánh Y tha, sau đó mới đắc tánh Chân thật, gọi là thông đạt.

– Nhược vô đẳng:

Hỏi: Nếu tánh Phân biệt là không thì có lỗi gì?

Đáp: Nếu không có tánh Phân biệt thì danh ngôn không lập, danh ngôn không lập thì tánh Y tha không thành tựu, cho đến phẩm tịnh và phẩm bất tịnh đều không lập.

Hỏi: Nếu không có tánh Y tha thì có lỗi gì?

Đáp: Nếu không có tánh Y tha thì tất cả phiền não không do công dụng mà tự có thể diệt, nếu như vậy thì phẩm tịnh cũng không được thành.

Hỏi: Nếu tánh Chân thật không có thì có lỗi gì?

Đáp: Nếu không có tánh Chân thật thì tất cả nhất thiết chủng cảnh thanh tịnh không được thành. Chữ “tất cả” là gồm nhiếp riêng tất cả chân và tục, “Nhất thiết chủng” là gồm nhiếp chung chân tục.

Hỏi: Tánh chân thật đó có thể lập tịnh hay không?

Đáp: Không thể nói nhất định là tịnh hay bất tịnh. Nếu nhất định là tịnh thì tất cả chúng sanh khỏi nhọc tu hành, tự đắc giải thoát. Nếu nhất định là bất tịnh thì tất cả chúng sanh tu hành đều không có quả báo. Nếu nhất định là tịnh thì không có pháp phàm phu, nếu nhất định bất tịnh thì không có pháp bậc Thánh. Vì sao? Vì phẩm tịnh và phẩm bất tịnh đếu lấy chân như làm gốc, nếu nhất định chân như đó là tịnh thì không phải tức vô minh. Nếu nhất định chân như đó là bất tịnh thì không phải tức là Bát-nhã. Tánh Chân như của hai xứ đó không khác nhau nên chân như nầy là phi tịnh phi bất tịnh. Vì sao? Vì muốn hiển chân như khác với các căn như nhãn…, khác với tâm… của thiền định. Khác với các căn như nhãn… là vì cắc căn đã không bị nhiễm, thì đáng lẽ cũng được đồng với như lý thanh tịnh! Nhưng không phải như vậy, vì các căn do nghiệp hữu lậu làm nhân, từ gốc đã bất tịnh, chân như thì không như vậy, bản tánh thanh tịnh ở Phật địa không có từ gốc là nghĩa bất tịnh nên khác với các căn. Khác với tâm… của thiền định, là bản tánh thể của thiền định tự thanh tịnh có thể đồng với chân như, nhưng vì là sự thâu nhiếp của bốn hoặc mà chuyển thành bất tịnh, lý chân như xưa nay thanh tịnh thì không phải như vậy, tuy trong sự vỏ Vô minh nhưng rốt cuộc không bị vô minh làm nhiễm ô.

Hỏi: Ba tánh nầy, có bao nhiêu tánh vô thể có thể sinh hữu thể?

Đáp: Chỉ có một tánh Phân biệt vô thể có thể sinh thể của tánh Y tha.

Hỏi: Ba tánh nầy, có bao nhiêu tánh hữu thể có thể sinh hữu thể?

Đáp: Chỉ là một tánh Y tha có tự thể bất thật, lại có thể sinh thể y tha, giống như vô minh sinh các hành…

Hỏi: Ba tánh nầy, có bao nhiêu tánh hữu thể có thể sinh vô thể?

Đáp: một tánh Chân thật có thể diệt y tha khiến cho nó vô thể, đó gọi là nhược vô đẳng.

– Y chỉ (nương dựa):

Hỏi: Tánh phân biệt nương vào pháp nào mà được thành?

Đáp: Dựa vào ba pháp mà được thành. Những gì là ba pháp: 1. Tướng. 2. Danh. 3. Tư duy. Dựa vào ba pháp nầy mà tánh Phân biệt được thành lập.

Hỏi: Tánh y tha dựa vào pháp nào mà được lập?

Đáp: Dựa vào bốn pháp mà được thành lập, bốn pháp là:

  1. Tướng.
  2. Danh.
  3. Phân biệt.
  4. Thánh trí.

Dựa vào bốn pháp nầy mà tánh Y tha thành lập.

Hỏi: Tánh chân thật dựa vào pháp nào mà được thành lập ?

Đáp: Tánh nầy không có trụ, không có nhiễm chấp, không có chỗ nương, cảnh không có phân biệt.

 

Phẩm thứ 3: NHƯ LAI TẠNG

Lại nữa, nghĩa Như lai tàng có ba thứ phải biết, ba thứ ấy là:

  1. Sở nhiếp tạng.
  2. Ẩn phú tạng.
  3. Năng nhiếp tạng.

– Sở nhiếp tạng, nghĩa là sở nhiếp gọi là tạng, là Phật dựa theo Như lai tạng đó của tất cả chúng sanh. Chữ “Như” có hai nghĩa: 1. Như như trí. 2. Như như cảnh. Không điên đảo nên gọi là như như. Chữ “Lai”, là dựa theo tự tánh mà lai (đến), lai đáo đến chí đắc, gọi là Như lai. Tánh Như lai tuy là tên của nhân, đáng lẽ đắc (ưng đắc) tên của quả, nhưng thể chí đắc của nó thì không hai, chỉ do thanh và trược có khác nhau. Khi đang ở nhân thì vì trái với hai không nên khởi vô minh, nhưng làm chỗ xen lẫn của phiền não nên gọi là nhiễm trược. Tuy chưa hiển ngay nhưng cũng sẽ hiện nên gọi là “lẽ ra đắc”. Nếu khi đến quả thì hợp chung với hai không, không bị mê hoặc trở lại. Phiền não không nhiễm, gọi là thanh, quả đã hiển hiện nên gọi là chí đắc, ví như tánh nước, thể của nó không phải trong hay đục, chỉ do dơ và không dơ mà có tên trong và đục, hoặc bùn cặn quậy đục không được lắng trong, dùng không được lắng trong nhưng tánh trong của nước không mất, nếu tìm cách làm cho lắng trong thì liền được trong sạch, nên biết tịnh và bất tịnh là do có dơ uế và không có dơ uế mà được, không quan hệ với tánh nước, tự có tịnh uế. Ưng đắc và chí đắc là hai thứ Phật tánh cũng giống như vậy, là đồng nhất với chân như, không có khác thể, chỉ trái với lý không nên khởi hoặc nhiễm. Phiền não nhiễm loạn nên thành trược, nếu chẳng trái với hai không, cùng với chân như một tướng thì không khởi vô minh, phiền não hoặc không nhiễm nên giả gọi là thanh tịnh. Cái gọi là “Tạng”, là tất cả chúng sanh đều ở trong trí Như lai nên gọi là tàng, vì trí như như gọi là cảnh như như , nên tất cả chúng sanh chắc chắn không ra khỏi cảnh như như , đều được Như lai nhiếp giữ nên gọi là sở tạng (chỗ chứa giữ), chúng sanh được Như lai tạng chứa. Lại nữa, tạng có ba thứ: 1. Hiển chánh cảnh vô tỷ, là lìa ngoài cảnh như như ra, không có riêng một cảnh nào ra khỏi cảnh nầy. 2. Hiển chánh hạnh vô tỷ, là lìa trí nầy, thì không có thắng trí nào khác cao hơn trí nầy. 3). Hiển chánh quả vô tỷ, là không có một quả riêng cao hơn quả nầy, nên nói vô tỷ, vì quả nầy có thể thâu nhiếp tất cả chúng sanh, nên nói chúng sanh được Như lai tạng chứa.

– Ẩn phú tạng: Nghĩa là ẩn phú gọi là tạng, vì Như lai tự ẩn không hiện nên gọi là tạng. Chữ “Như lai” có hai nghĩa: 1. Nghĩa hiện như không điên đảo: vì vọng tưởng nên gọi là điên đảo, không do vọng tưởng nên gọi là Như. 2. Nghĩa hiện thường trụ: Là như tánh nầy từ tánh trụ tự tánh lai đáo đến chí đắc. Thể như không đổi khác nên là nghĩa Thường. Tánh Như lai trước khi trụ đạo bị phiền não che ẩn, chúng sanh không thấy nên gọi là tạng.

– Năng nhiếp tạng, nghĩa là năng nhiếp gọi là tàng, là tất cả công đức nhiều hơn số cát sông hằng của quả đất, khi trụ tánh ưng đắc của Như lai, thì gồm nhiếp các công đức đó đã hết rồi. Nếu khi đến chí quả thì mới nói là đắc tánh, tánh nầy liền là vô thường. Vì sao? Vì không phải mới đắc, nên biết là vốn sẵn có , do đó nói là Thường.

 

PHẦN THỨ TƯ: BIỆN TƯỚNG

Phẩm thứ 1: TỰ THỂ TƯỚNG

Lại nữa, phải biết nhất thiết chủng tướng của Phật tánh có mười tướng. Mười tướng là:

    1. Tự thể tướng.
    2. Nhân tướng.
    3. Quả tướng.
    4. Sự năng tướng.
    5. Tổng nhiếp tướng.
    6. Phân tướng chung.
    7. Giai vị tướng.
    8. Đầy khắp tướng.
    9. Vô đổi khác tướng.
    10. Vô sai tướng chung.

I. Tự thể tướng có hai thứ:

  1. Tướng chung.
  2. Tướng riêng.

Tướng chung có ba thứ. Ba thứ là:

  1. Như ý công đức tánh.
  2. Vô dị tánh.
  3. Nhuận hoạt tánh.
  4. Như ý công đức tánh, là Như lai tạng có năm thứ:

a) Như lai tạng , tự tánh là nghĩa tạng của nó, tất cả pháp không ngoài Như lai tự tánh, vì vô ngã vô tướng nên nói tất cả đựơc Như lai tạng chứa.

b) Chánh pháp tạng , nhân là nghĩa tạng của nó, vì chánh pháp như bốn niệm xứ… của tất cả bậc Thánh đều dùng tánh nầy làm cảnh, các chánh pháp chưa sinh thì được sinh, đã sinh thì được tròn đầy, do đó gọi là chánh pháp tạng .

c) Pháp thân tạng, chí đắc là nghĩa tạng , đây là tin ưa chánh tánh và tin ưa nguyện nghe lời dạy của tất cả bậc Thánh. Do tâm tin ưa nầy khiến cho bậc Thánh đắc bốn đức và công đức nhiều hơn số cát sông hằng nên nói tánh nầy gọi là Pháp thân tạng .

d) Xuất thế tạng, chân thật là nghĩa tạng. Thế có ba lỗi: 1. Đối trị: vì có thể diệt hết nên gọi là thế, pháp nầy không có đối trị nên gọi là xuất thế. 2. Bất tịnh trụ: Nên gọi là thế, do quả báo của tâm luống dối, niệm niệm diệt không trụ, pháp nầy không phải như thế, nên gọi là xuất thế. 3. Bất tịnh trụ: Là do có đảo kiến, tâm ở thế gian thì thường đảo kiến, như người ở ba cõi, trong tâm quyết định không được thấy khổ pháp nhẫn, lấy luống dối kia nên gọi là thế, pháp nầy có thể ra khỏi thế gian nên gọi là chân thật, là xuất thế tạng.

e) Tự tánh thanh tịnh tạng, bí mật là nghĩa tạng , nếu tất cả pháp thuận theo tánh nầy thì gọi là nội, là chánh không phải tà, là thanh tịnh, nếu các pháp trái nghịch lý nầy thì gọi là ngoại, là tà không phải chánh, là nhiễm trược, nên nói tự tánh thanh tịnh tạng. Trong kinh Thắng man nói: “Phật tánh của Thế tôn, là Như lai tạng, là chánh pháp tạng, là xuất thế tạng, là tự tánh thanh tịnh tạng”. Do nói nghĩa của năm tạng nầy mà công đức như ý mới được hiển hiện, Phật vì hiển nghĩa nầy nên nói như ý bảo, ví như người vì nghiệp đời trước chiêu cảm bảo châu như ý, được châu nầy rồi, tùy theo sự ưa thích của ý người đó mà tự nhiên được thành. Phật tánh cũng vậy, do thờ phụng thiện tri thức, tu các phước tuệ mà chiêu cảm được các tánh nầy, liền tùy theo ý của người tu hành mà mỗi thứ đều tự đắc quả ba thừa, công đức như ý là tướng riêng của nó.

f) Vô biệt dị tánh: Là phàm phu, bậc Thánh và Chư Phật không có chia riêng khác. Tâm tánh tội lỗi, công đức thanh tịnh rốt ráo, xứ bình đẳng đầy khắp, ví như hư không. Lại nữa, như ba thứ đất, bạc, vàng, ba thứ nầy tuy khác nhau nhưng tánh nó đều là không, không xứ chẳng riêng khác, gọi là tánh vô biệt dị.

Giải thích: Chữ “tội lỗi”, là phàm phu. Chữ “công đức”, tức là bậc Thánh Hữu học. Chữ “Thanh tịnh rốt ráo”, tức là Chư Phật. Ba chữ nầy tuy khác nhau, nhưng tánh nó thì không khác. Ở đây lấy đất dụ cho phàm phu, bạc dụ cho học giả, vàng dụ cho Chư Phật. Tuy ba vật nầy có khác nhau nhưng tánh không của nó chỉ là một loại.

Lại nữa, ba nghĩa hữu, Thanh tịnh và Đầy khắp. Nghĩa Hữu là nói nghĩa Vô vi. Nghĩa thanh tịnh là nói nghĩa vô nhiễm. Nghĩa đầy khắp là nói nghĩa vô ngại. Phật bảo Xá-lợi-phất: “Cõi chúng sanh chẳng khác với pháp thân, pháp thân chẳng khác với cõi chúng sanh”. Do nghĩa ấy nên không hai không khác, chỉ có danh tự. Như vậy, Phật tánh trong ba vị, bình đẳng đầy khắp, vì phẩm Tịnh, Bất tịnh không đổi khác, cho nên nói như tánh hư không.

1. Nhuận hoạt tánh: Là nói về tánh Như lai, hiện nghĩa nhân quả trong chúng sanh, do đại bi đối với chúng sanh xoay vần làm tướng. Đại bi có ba nghĩa: a. Thể. b. Đại. c. Biệt dị.

2. Nghĩa thể: Là lấy Bát-nhã làm thể. Bát-nhã có hai thứ: a/ Chân trí Vô phân biệt. b/ Tục trí hữu phân biệt. Hiện tại lấy tục trí hữu phân biệt làm thể của đại bi, vì đại bi duyên chúng sanh mà khởi.

3. Nghĩa đại, lại có năm thứ: a. Làm tư lương. b. Làm tướng. c. Làm hành xứ. d. Làm bình đẳng. e. Làm tối cực. Làm tư lương là có thể làm hai hạnh phước đức tư lương và trí tuệ tư lương. Làm tướng là có thể quán chúng sanh nơi ba khổ đều có thể cứu giúp. Làm hành xứ là chung cho chúng sanh ba cõi làm cảnh giới. Làm bình đẳng là đối với tất cả xứ của chúng sanh khởi tâm bình đẳng. Làm tối cực là vượt ngoài hạnh tu nầy thì không còn thắng hạnh nào khác.

4. Nghĩa biệt dị có tám thứ: a. Làm tự tánh sai khác: Bi thì vô lượng, lấy vô sân làm tánh, đại bi thì lấy vô ngại làm tánh. b. Làm tướng sai khác: Bi thì lấy khổ khổ làm tướng, đại bi thì lấy ba khổ làm tướng. c. Làm hành xứ sai khác: Bi thì lấy cõi Dục làm cảnh giới, đại bi thì lấy cả ba cõi làm cảnh giới. d. Làm địa sai khác: Bi thì lấy thiền đệ bốn làm địa, đại bi thì lấy quả Như lai vô lưu làm địa. e. Làm cảnh giới sai khác: Bi thì lấy phàm phu và hai thừa làm cảnh giới, đại bi thì chỉ có Bồ-tát và Phật làm cảnh giới. f. Làm đức sai khác: Bi thì lấy đức lìa dục của cõi Dục, đại bi thì lấy đức lìa dục của ba cõi. g. Làm cứu tế hữu sai khác: Bi thì chỉ có tâm nhổ gốc khổ, không có sự nhổ gốc khổ, đại bi thì có tâm có sự. h. Làm rốt ráo không rốt ráo sai khác: Bi thì có thể nhỏ tạm cứu tế, không thể cứu tế chân thật, đại bi thì có thể cứu tế mãi mãi hằng không xả lìa.

– Tánh nhuận hoạt: Nhuận là nói nghĩa năng nhiếp, hoạt là nói nghĩa trái nghịch mất hướng tới đức của nó, ví như thủy giới cũng có hai công năng: 1. Là công năng thâu nhiếp tán vật, chỉ có trơn hoạt, không rít nhám, do nhuận nên năng nhiếp, do hoạt nên không rít nhám, lấy nhuận làm nhân, lấy hoạt làm quả, nên nói “hiện nghĩa nhân quả”. Lại nữa, tự tánh thanh tịnh là tướng chung , như các thí dụ thật không, thủy giới… Ở trước, đều là tự tánh thanh tịnh, là tướng chung của nó, vì tánh Như lai trong phiền não không có sự nhiễm ô, bốn tướng nầy làm bốn chướng của hoặc, vì không phải sự chứng đắc của bốn hạng người, vì gốc của bốn đức, vì lìa bốn đảo mà làm đối trị diệt sinh tử, nên nói bốn tướng có một tướng chung, ba tướng riêng). Một tướng chung, là chỉ có tướng tự tánh thanh tịnh. Ba tướng riêng là: 1. Không thể nghĩ duy. 2. Ưng đắc. 3. Vô lượng công đức. Gọi là tướng tự thể.

 

Phẩm thứ 2: MINH NHÂN

Lại nữa, có bốn thứ nhân có thể trừ bốn chướng, phải biết nghĩa đắc tánh Như lai. Bốn nhân: 1. Tín nhạo Đại thừa. 2. Vô phân biệt Bátnhã. 3. Phá luống dối Tam-muội. 4. Bồ-tát đại bi. Bốn chướng: 1. Tắng bội Đại thừa. 2. Thân kiến kế chấp. 3. Bố úy sinh tử. 4. Bất lạc quán lợi ích tha sự.

Thứ nhất là chướng của Nhất-xiển-đề, thứ hai là chướng của ngoại đạo, thứ ba là chướng Thanh văn, thứ tư là chướng Độc giác. Do bốn hoặc nầy có thể khiến cho bốn hạng người không thể được thấy pháp thân thanh tịnh. Nếu lược nói thế gian thì có ba thứ chúng sanh: 1. Lạc sinh tử hằng hữu. 2. Lạc diệt sinh tử hữu. 3. Lưỡng câu bất lạc hữu diệt tịnh vong.

1. Lạc sinh tử hằng hữu, lại có hai thứ: a. Tắng bội giải thoát đạo, không có tánh Niết-bàn, quyết định ưa thích sinh tử, không ưa thích Niết-bàn. b. Dĩ đọa định vị, định vị là phi Thánh phi phàm, tiến thối không chấp giữ mới là người trong trong pháp Phật, trái với pháp Đại thừa, vì người nầy mà Phật nói như vầy: “Ta không phải thầy của ông, ông không phải là đệ tử của ta. Nầy Xá-lợi-phất ! Người nầy từ chỗ tối mỏng vào chỗ tối dày, lại từ chỗ tối dày đi vào nơi mù tối, giữ lấy tối tăm làm bạn, lại lấy Xiển-đề làm bạn, nên ta nói người nầy như vậy”.

2. Lạc diệt sinh tử hữu, lại có hai thứ: a. Đọa phi phương tiện. b. Đọa trong phương tiện.

3. Ngay trong đọa phi phương tiện lại có hai thứ:

a) Ngoại đạo, có chín mươi sáu thứ.

b) Người trong pháp Phật ngoại đạo đồng chấp, nương theo chánh pháp mà khởi tà chấp ngã kiến, đối với nghĩa của chánh giáo thì không khả năng hiểu rõ, vì người nầy mà Phật nói như vầy: “Nếu không tin ưa chân không thì không khác với ngoại đạo. Lại nữa, có người tăng thượng mạn lấy không làm kiến, là chân không thật môn giải thoát, dựa theo môn giải thoát không nầy mà khởi chấp không, cho tất cả hữu vô đều là không, chấp không nầy tức là không có gì cả, vì không có gì cả nên lý nhân quả và hai đế đều mất. Chấp không nầy lỗi nên liền đọa tà vô, là các chấp do không mà khởi nên thành tà chấp. Trong tất cả tà chấp, không có tà chấp nào chẳng do không dấy khởi, nên có thể trừ diệt”. Chấp nầy đã dựa vào không mà khởi nên không thể đối trị. Vì người nầy nên Phật nói với tôn giả ca-diếp: “Nếu người khởi ngã kiến, chấp lớn như núi tu-di, ta cũng thừa nhận điều đó. Vì sao? Vì có thể diệt.

Nếu chấp không của người tăng thượng mạn nầy, dù bằng một phần tư đầu sợi tóc, thì ta cũng liền quở trách, chắc chắn không thừa nhận”.

4. Đọa trong phương tiện có hai thứ:

a) Người Thanh văn, vì tu hành tự lợi, chỉ vì tự độ, không vì lợi tha.

b) Người Độc giác, không có tâm lợi tha vô lạc vô sự, chỉ khởi tâm xả. Vô lạc là không thích lợi tha. Vô sự là biết rõ không có việc độ người, chỉ là tự giác tự lợi. Chỉ khởi tâm xả, xả là trụ tâm bình đẳng, không muốn lợi người, cũng không bị tổn hại. Vì riêng một mình tự giác ngộ, nên gọi là Độc giác. Đọa phương tiện Thanh văn cũng vậy, như hai Tỳ-kheo Mạt điền địa và A-tư-na, khi Phật nhập Niết-bàn cả hai đều không đến. Sau đó, đến khi Ca-diếp kết tập pháp tạng, bị gọi đến mới chịu xuất hiện. Ca-diếp quở trách: “Các ông nhờ Phật mà đắc Thánh đạo phải không”? Đáp: Đúng vậy! Tôn giả Ca-diếp lại quở trách: “Các ông tội lỗi rất lớn, từ nay trở đi sẽ giao phó pháp Phật cho các ông nhận giữ. Nếu không như pháp thì tội lỗi thuộc về các ông”! Hai Tỳ-kheo đó đành chịu nhận lỗi và sám hối, thọ ý chỉ mà vâng làm.

5. Lưỡng câu bất lạc hữu diệt tịnh vong: Là người rất lợi căn tu hành Đại thừa, đã không đồng với Nhất-xiển-đề ưa thích sinh tử hữu, cũng không rơi vào phi phương tiện đồng với chấp của ngoại đạo, cũng không rơi vào phương tiện đồng với người hai thừa, nên người nầy thực hạnh đủ đạo sinh tử, Niết-bàn bình đẳng, trụ vô trụ xứ, tuy hành sinh tử mà bất nhiễm, tùy hành Niết-bàn cũng phi tịnh, chỉ vì đại bi mà không xả sinh tử, vì Bát-nhã mà không xả Niết-bàn. Không xả Niết-bàn, là khác với Thanh văn, chấp trụ hẳn vô vi. Không xả sinh tử, là khác với Nhất-xiển-đề ở trong sinh tử. Nếu người ưa thích vướng mắc trong sinh tử, gọi là một-xiển-đề. Người trong pháp Phật vào định vị, cũng đồng Nhất-xiển-đề, hai người như vậy là trong nhóm tà định. Nếu ưa thích diệt sinh tử hữu, thì người nầy đọa vào phi phương tiện, thì ở tại nhóm bất định. Nếu người ưa thích diệt sinh tử hữu, thì người đó đọa trong phương tiện và câu bất lạc. Đắc hai thứ trước, là tu đạo bình đẳng, thì người đó đang ở trong nhóm chánh định. Trừ người phát hành Đại thừa tu tập đạo vô chướng ra, thì chỗ còn lại bốn người Nhất-xiển-đề, ngoại đạo, Thanh văn và Độc giác đều có bốn thứ chướng, nên không thấy Phật tánh. Bốn chướng là: 1. Ghét bỏ Đại thừa, là chướng Nhất-xiển-đề. Để đối trị chướng nầy nên Phật nói Bồ-tát tu tập tín ưa pháp Đại thừa. 2. Trong các pháp, khởi kiến chấp ngã, là chướng ngoại đạo. Để đối trị chướng nầy, nên Phật nói Bồ-tát tu tập Bát-nhã Ba-la-mật. 3. Đối với sinh tử, là định chấp khổ tưởng và tâm chán sợ, là chướng Thanh văn. Để trừ chướng nầy, nên Phật nói Bồ-tát tu tập Tam-muội phá không. Tam-muội Không, là từ Sơ địa trở lên có thể đắc Tam-muội nầy, là phá các chấp hư không, khi nhập quán, không phải tức hữu vô, không lìa hữu vô, thí dụ như chân tục song quán của tám địa, nhưng khác với tám địa, từ tám địa trở lên thì không có xuất quán hay nhập quán, khi nhập sơ địa thì đồng, khi xuất thì khác. 4. Bội chúng sanh lợi ích sự, là xả bỏ ý của chúng sanh, là chướng Độc giác. Để đối trị chướng nầy, nên Phật nói tu tập Bồ-tát Đại Bi. Bồ-tát Đại Bi lấy lợi tha làm sự nghiệp. Để nói người Độc giác chỉ tự quán nhân duyên, không có ý độ tha nên không có đại bi, Thanh văn cũng vậy. Để diệt trừ bốn chướng nầy, lấy bốn thứ tín lạc làm nhân, khiến cho chư Bồ-tát tu tập nhân nầy mà đắc pháp thân thanh tịnh vô thượng Ba-la-mật, gọi là Nhân thanh tịnh của Phật tánh, người như vậy được gọi là Phật tử.

Do đó Phật tử có bốn nghĩa: 1. Nhân. 2. Duyên. 3. Y chỉ. 4. Thành tựu.

1. Nhân, có hai thứ: a. Phật tánh. b. Tín lạc. Phật tánh của hai pháp nầy là tín lạc vô vi, là tín lạc vô vi dựa theo tánh đắc Phật tánh làm liễu nhân, vì có thể hiển rõ tánh chánh nhân. Tín lạc dựa theo Gia hạnh là sinh nhân, vì có thể sinh khởi nhiều hạnh.

2. Duyên, là Ba-la-mật, vì có thể sinh thân của Bồ-tát, là chỗ duyên của công đức vô vi.

3. Y chỉ: Là phá các định không, là người chấp đoạn ưa thích hữu, không chỗ nào có lạc tịnh… Bồ-tát tu Tam-muội phá không, có thể trừ chấp đó, do định lực nầy mà pháp thân của Bồ-tát được vững chắc, nếu không thì suy yếu.

4. Thành tựu: Là Bồ-tát đại bi, lợi ích tha sự vô tận, do chân như bất tận, chúng sanh vô số, thì việc lợi ích cũng lại vô cùng, đó là Phật tánh làm nhân của ưng đắc: a. Nhân như thân phần của cha. b. Duyên như mẹ. c. Nương tựa như bào thai. d. Thành tựu như sữa mẹ. Các Bồ-tát do bốn nghĩa nầy mà gọi là Phật tử.

 

Phẩm thứ 3: HIỂN QUẢ

Lại nữa, phải biết nghĩa tướng quả. Tướng quả có hai xứ: 1. Hai vị phàm Thánh của địa tiền, không đắc bốn đức. 2. Các vị của mười địa.

Hỏi: Địa tiền có tín lạc… bốn đức như vậy, là làm nhân của Phật tánh thanh tịnh, hay là làm đối trị bốn đảo?

Đáp: Phải biết bốn tướng công đức Ba-la-mật của pháp thân Như lai là quả của nó.

Bốn đảo, là đối với sắc, thọ… nơi năm ấm thật ra là vô thường mà khởi chấp thường, thật ra là khổ mà khởi lạc kiến, thật ra là vô ngã mà khởi ngã kiến, thật ra là bất tịnh mà khởi tịnh kiến, gọi đó là bốn đảo.

Chữ đảo có ba nghĩa: 1. Kiến sở diệt. 2. Tu sở diệt. 3. Chẳng phải hai sở diệt. Khi thấy Chân đế thì có thể trừ kiến đảo, định phá tư hoặc có thể trừ tưởng đảo, phi hai sở diệt có thể trừ tâm đảo. Để đối trị bốn đảo nầy mà nói bốn vô đảo. Bốn đảo là: 1. Đối với năm ấm như sắc… chưa có, hiện có, đã có, đáng lẽ diệt nên thật ra là vô thường, như thật khởi hiểu biết vô thường. 2. Có khi khổ là khổ, có khi lạc diệt là khổ, có khi ba thời của xả là khổ, nên thật ra là khổ, trong đó sinh hiểu biết khổ. 3. Vô thường làm nhân, vô thường làm quả, do nhân quả được thành, vì chấp y tha nên quả không tự tại. Nhân cũng vậy, chưa có hiện có đã có trở về vô ký do nhân trước, nên y tha cũng không tự tại. 4. Ngoài nhân quả thì không có pháp nào riêng khác làm ngã, nên vô ngã làm thật, sinh hiểu biết vô ngã.

Bất tịnh có hai thứ: 1. Sắc. 2. Phi sắc. Sắc bất tịnh có ba thứ: 1. Sơ. 2. Trung. 3. Hậu. Sơ, là hạt giống bất tịnh mới nhập thai hòa hợp. Trung, là sau khi xuất thai rồi, ăn uống nuôi dưỡng, nhiều thứ bất tịnh. Hậu, là sau khi xả thân rồi, thân thể hoại có các thứ bất tịnh. Phi sắc, là hoặc hỷ, hoặc ưu, hoặc ác, hoặc vô ký, hoặc chưa lìa các trói buộc của dục nên là phi sắc, do những pháp nên bất tịnh, vì quán chung ba cõi của bậc Thánh đều là bất tịnh, là năm ấm, như vậy thật bất tịnh, sinh hiểu biết bất tịnh, bốn thứ nầy đều là thật nên không phải điên đảo. Nếu theo Phật tánh thì bốn đức thường, lạc, ngã, tịnh, bốn thứ nầy là vô đảo mà lại thành điên đảo. Để đối trị điên đảo nầy, nên lập ra bốn đức của pháp thân Như lai. Bốn đức là: 1. Thường Ba-la-mật. 2. Lạc Ba-la-mật. 3. Ngã Ba-la-mật. 4. Tịnh Ba-la-mật.

Như kinh Thắng man nói: “Bạch đức Thế tôn! Các chúng sanh đó sinh tâm điên đảo, trong năm thủ ấm, vô thường thấy thường, trong khổ thấy lạc, vô ngã thấy ngã, bất tịnh thấy tịnh. Bạch Thế tôn! Tất cả Thanh văn Độc giác do hiểu biết không, chưa từng thấy cảnh trí của Nhất thiết trí, pháp thân của Như lai là phải tu hay không tu. Hoặc người Đại thừa do tin Thế tôn, đối với pháp thân của Như lai liền sanh hiểu biết Thường, Lạc, Ngã, Tịnh, thì người đó không gọi là đảo mà gọi là đắc chánh kiến. Thế nào là biết pháp thân Như lai của Thế tôn là các Ba-la-mật thường lạc ngã tịnh? Nếu người khởi kiến như vậy gọi là chánh kiến, là hung tử của Như lai. Hung tử là đứa con thường ở trong tâm Phật. Lại nữa, bốn đức Ba-la-mật của Như lai, do nương theo thứ tự sâu dần, phải biết nếu nói trái với, đảo ngược đức sau làm đức trước, là ngã tịnh thường lạc, là do Nhất-xiển-đề ghét bỏ Đại thừa, đảo ngược bốn đức kia lại để vui trụ sinh tử bất tịnh. Tu tập tín lạc pháp Đại thừa của Bồ-tát thì đắc Ba-la-mật, phải biết là quả của nó. Do năm ấm như sắc… của tất cả ngoại đạo không có tánh ngã, mà chấp làm ngã, mà các pháp như sắc, thọ… trái với tướng chấp ngã của ông, vì hằng thường vô ngã. Chư Phật Bồ-tát do trí chân như đắc rốt ráo nhất thiết pháp vô ngã Ba-la-mật, vô ngã Ba-la-mật đó không trái với điều thấy tướng vô ngã của ông, Như lai nói tướng đó thường vô ngã, là chân thể tánh của tất cả pháp, nên nói vô ngã Ba-la-mật là ngã”. Như trong kinh có bài kệ rằng:

Nhị không đã thanh tịnh,
Đắc vô ngã, thắng ngã,
Vì Phật đắc tánh tịnh,
Vô ngã chuyển thành ngã.

Các ngoại đạo… đối với năm thủ uẩn chấp thấy có ngã, để lật với chấp ngã luống dối đó, nên tu tập Bát-nhã Ba-la-mật, đắc rốt ráo vô ngã tối thắng, tức là ngã Ba-la-mật, phải biết đó là quả của nó. Do người Thanh văn kinh sợ khổ vui sinh tử mà trụ trong sự diệt tịnh của sinh tử khổ, để lật lại ý ưa thích nầy, nên tu tập Tam-muội Phá hư không. Tất cả tướng pháp thế gian và pháp xuất thế gian, phải biết lạc Ba-la-mật là quả. Do bậc Thánh Độc giác không quán các sự lợi ích chúng sanh, chỉ ưa riêng mình trụ nơi tịnh xứ, để lật lại ý nầy nên tu tập Bồ-tát đại bi làm các sự lợi ích chúng sanh, cho đến cùng tận sinh tử, thường là được hộ trì, phải biết thường Ba-la-mật là quả. Như vậy bốn nhân: 1. Tín lạc Đại thừa. 2. Bát-nhã Ba-la-mật. 3. Tam-muội phá hư không. 4. Bồ-tát đại bi… có thể thành tựu bốn công đức Ba-la-mật của pháp thân Như lai, nên Phật nói do bốn đức nầy mà tất cả Như lai chỉ có pháp giới là cao qúy. Do như hư không, nên chấp lấy hư không làm bờ mé cuối cùng của cực mé sau.

Hỏi: Bốn câu như trên là nói về những nghĩa gì?

Đáp: Do tu tập tin ưa pháp Đại thừa, nên chư Phật đắc rốt ráo tối cực thanh tịnh Ba-la-mật, nên Phật nói chỉ có pháp giới là cao qúy, là trên hết. Do tu tập Bát-nhã Ba-la-mật, nên đắc rốt ráo thế giới, khí thế giới cực vô ngã Ba-la-mật của chúng sanh, năm ấm gọi là chúng sanh thế gian, tức là nhân không. Quốc độ, bốn đại gọi là khi thế giới vô ngã Ba-la-mật, tức là pháp không, đó là đã hiển hai không, nên nói do như hư không. Do tu tập Tam-muội phá không… mà phải đắc các pháp tự tại như ý trong tất cả xứ, nên chấp lấy hư không làm bờ mé. Do tu tập Bồ-tát đại bi, đối với các chúng sanh thường khởi bi tâm, hộ trì không có bờ mé nên nói cuối cùng của cực mé sau. Cuối cùng của cực mé sau, là giả sử mé sau có biên tế cuối cùng, thì chư Bồ-tát cùng có thể vượt qua khỏi, do đó mà nói chung hai vị Thánh phàm của địa tiền không đắc bốn đức.

Lại nữa, mười địa do bốn chướng mà chưa đắc cực quả bốn đức, phải biết chỉ có hậu tâm kim cương mới có thể đắc. Vì sao? Vì ra khỏi ba cõi thì có ba loại bậc Thánh, là Thanh văn, Độc giác và Bồ-tát đại lực, trụ quả vô lưu có bốn thứ oán chướng, do bốn oán chướng nầy mà không đắc bốn thứ công đức Ba-la-mật của pháp thân Như lai. Bốn oán chướng là: 1. Phương tiện sinh tử. 2. Nhân duyên sinh tử. 3. Hữu hữu sinh tử. 4. Vô hữu sinh tử.

a) Phương tiện sinh tử, là vô minh trụ địa, có thể sinh nghiệp vô lưu mới, ví như vô minh sinh hành, hoặc nhân theo phương tiện của phiền não mà sinh quả đồng loại, gọi là nhân duyên, như vô minh sinh hạnh bất thiện. Nếu sinh quả bất đồng loại thì chỉ gọi là phương tiện, như vô minh sinh hạnh thiện, hạnh bất động, nên hiện tại vô minh trụ địa sinh nghiệp vô lưu mới cũng như vậy. Hoặc sinh đồng loại, hoặc bất đồng loại sinh hạnh phước, gọi là đồng loại, vì đồng duyên Tục đế, sinh hạnh trí tuệ gọi là bất đồng loại, vì trí là chân tuệ, nên gọi là phương tiện sinh tử.

b) Nhân duyên sinh tử: Là đã sinh nghiệp vô lưu của vô minh trụ địa, nghiệp đó gọi là nhân duyên sinh tử, ví như vô minh đã sinh hành là nghiệp, chỉ chiêu cảm đồng loại, không sinh quả bất đồng loại. Hành thiện thì chỉ sinh quả vui, hạnh bất thiện thì chỉ chiêu cảm quả báo khổ, nên gọi là nhân duyên sinh tử. Phương tiện sinh tử thì ví như phàm vị, nhân duyên sinh tử thì ví như Tu-đà-hoàn trở lên, chỉ dùng nghiệp cũ, không sinh nghiệp mới.

c) Hữu hữu sinh tử, là vô minh trụ địa làm phương tiện, nghiệp vô lưu làm nhân, ba loại bậc Thánh là đã sinh thân của ý, ví như bốn thủ làm duyên, nghiệp hữu lậu làm nhân, mà sinh thân nội trong ba cõi. Hữu hữu, là có đời vị lai thì lại có thêm đời nữa, nên gọi là hữu hữu. Như người thượng lưu A-na-hàm, trong đời thứ hai nhập Niết-bàn, ngoài ra còn một đời nữa, nên gọi là hữu hữu.

d) Vô hữu sinh tử: Là ý sinh thân sau rốt làm duyên của ba loại Thánh, là không thể tư duy lui sụt, ví như sinh làm duyên, thì già chết… làm tội lỗi, nên vô minh trụ địa làm chỗ nương của tất cả phiền não, mà tất cả phiền não gọi là chung là vô minh. Lấy vô minh làm căn bản của các hoặc. Căn bản chưa diệt hết, do bị tất cả phiền não cấu uế huân tập, nên A-la-hán, Bích chi Phật và Bồ-tát tự tại không thể đắc rốt ráo đại tịnh Ba-la-mật không bị nhiễm ô. Lại nữa, dựa vào duyên nầy, mà vô minh trụ địa và vọng tưởng nhỏ nhiệm cùng nhau du hành chưa thôi, nên rất không thể đắc rốt ráo vô hành vô tưởng Đại ngã Ba-la-mật. Nhân theo vô minh trụ địa nầy làm duyên, và chỗ khởi nghiệp vô lưu của vọng tưởng nhỏ nhiệm làm nhân, được khởi ba thứ ý sinh thân, nên không thể đắc rốt ráo nhân quả khổ, Đại lạc Ba-la-mật. Nếu chưa chứng đắc nghiệp khó sinh khó diệt hết vô dư cam lộ giới của Như lai và chưa chứng đắc không thể nghĩ duy thối đọa giới, vì chưa diệt mất nên không thể đắc rốt ráo cực vô biệt dị già chết… đại thường Ba-la-mật. Lại nữa, phải biết vô minh trụ địa như phiền não nạn, nghiệp vô lưu như nghiệp nạn, ba thứ ý sinh thân như quả báo nạn, không thể tư duy thối đọa như tội lỗi nạn. Hoặc trong ba thứ ý sinh thân là vô thường, lạc, ngã, tịnh Ba-la-mật, nên pháp thân Như lai là thường, lạc, ngã, tịnh Ba-la-mật, vì tất cả phiền não tập khí của pháp thân Như lai đều diệt hết, nên gọi là cực tịnh, tất cả chấp ngã, vô ngã, luống dối đều diệt hết, nên gọi là Đại ngã: Chỗ sinh thân của ý, nhân quả rốt ráo diệt hết, nên gọi là đại lạc, sinh tử và Niết-bàn bình đẳng thông đạt, nên gọi là Đại thường.

Lại nữa, phải biết bốn đức mỗi đức có nghĩa hai duyên, duyên thứ nhất có hai nhân duyên nói pháp thân Như lai có đại tịnh Ba-la-mật: 1. Bản tánh thanh tịnh gọi là tướng chung. 2. Vô cấu thanh tịnh gọi là tướng riêng. Bản tánh tịnh có chung cả Thánh phàm nên gọi là thông, vô cấu thanh tịnh thì chỉ Phật quả mới có nên gọi là riêng.

Lại nữa, có hai thứ nhân duyên, nói pháp thân Như lai có Đại ngã Ba-la-mật: 1. Do xa lìa bên kiến chấp của ngoại đạo nên không có ngã chấp. 2. Do xa lìa sự chấp biên vô ngã của hai thừa, thì hai thứ chấp không có vô ngã và vọng chấp diệt mất, nên nói là Đại ngã Bala-mật.

Lại nữa, có hai thứ nhân duyên, nói pháp thân Như lai có đại lạc Ba-la-mật: 1. Do tướng của tất cả khổ tập diệt hết không còn thừa, nên nhổ trừ tập khí nối tiếp dứt hết. 2. Do tướng của khổ diệt chứng đắc nên ba thứ ý sinh thân diệt không sinh lại nữa, khổ diệt không còn thừa nên gọi là đại lạc Ba-la-mật.

Lại nữa, có hai thứ nhân duyên, nói pháp thân Như lai có Đại thường Ba-la-mật: 1. Vô thường sinh tử không tổn giảm, xa lìa đoạn biên. 2. Thường trụ Niết-bàn không có tăng ích, xa lìa bên thường. Do lìa hai chấp đoạn thường nầy, nên gọi là đại thường Ba-la-mật.

Kinh Thắng man nói: “Nếu thấy các hành vô thường, thi gọi đó là đoạn kiến, không gọi là chánh kiến, nếu thấy Niết-bàn thường trụ thì gọi đó là chấp thường, không phải chánh kiến, nên pháp thân Như lai lìa hai thứ kiến nầy, gọi là Đại thường Ba-la-mật. Do môn đạo lý như thật pháp giới nầy tức là Niết-bàn, tức là sinh tử, không thể phân biệt, tức là được nhập pháp môn bất nhị, cũng là không phải một không phải hai, trụ vô trụ xứ, do diệt các hoặc không trụ sinh tử, do bản nguyện không trụ Niết-bàn, do Bát-nhã mà các hoặc được diệt, do đại bi mà bản nguyện được thành, nên trong bài kệ của kinh Không thể nghĩ lường nói:

Các hoặc thành giác phần,
Sinh tử thành Niết-bàn,
Tu tập đại phương tiện,
Chư Phật bất tư nghì.

 

Phẩm thứ 4: SỰ NĂNG

Lại nữa, phải biết tướng nghĩa của sự năng. Sự năng của tánh thanh tịnh nầy có hai thứ:

  1. Trong khổ sinh tử có thể sinh chán lìa.
  2. Đối với dục cầu lạc nguyện của Niết-bàn.

Nếu không có tánh thanh tịnh, thì hai việc như vậy không được thành, nên trong kinh nói: “Bạch Thế tôn! Nếu không có Như lai tạng, thì đối với khổ sinh tử không có ý chán lìa, cũng không có tâm dục cầu lạc nguyện, nên chúng sanh nhóm bất định khởi hai việc nầy làm dụng:

  1. Đối với khổ sinh tử quán tội lỗi, làm chỗ nương, sinh tâm chán lìa của chúng sanh nhóm bất định.
  2. Đối với Niết-bàn lạc quán công đức, làm chỗ nương sinh dục cầu lạc nguyện của chúng sanh nhóm bất định.

Hỏi: Dục cầu nguyện lạc bốn thứ tâm, này vì sao khác nhau?

Đáp: Thứ nhất là dục, gọi là tín. Tín có bốn thứ: 1. Tin có. 2. Tin không thể nghĩ nghì. 3. Tin ưng khả đắc. 4. Tin có vô lượng công đức. Có đủ bốn nghĩa đó nên gọi là dục. Thứ hai là cầu, là đắc rốt ráo pháp nầy mà tâm thường cần cầu, không có lui sụt hối hận, gọi đó là cầu. Thứ ba là lạc, là tư duy chọn lựa phương tiện như và phương tiện bất như. Như phương tiện là Niết-bàn, bất như phương tiện là sinh tử. Xét chọn Niết-bàn, thì không cầu mau chứng, xét chọn sinh tử thì không cầu xả li, nên gọi là Lạc. Thứ tư là Nguyện, là từ nay phát nguyện đến cùng đời vị lai, thường dùng nguyện để gồm nhiếp tất cả chúng sanh chưa hề xa lìa, tùy hành đạo mà đều nhập và sự gồm nhiếp của biển nguyện Bồ-đề, vì tự lợi nên không xả Niết-bàn, vì lợi tha nên không xả sinh tử, ở đây có hai quán: 1. Đối với sinh tử quán tội lỗi của khổ. 2. Đối với Niết-bàn quán công đức của lạc. Cho nên người tịnh phần do tánh thanh tịnh mà quán nầy được thành.

Tịnh phần có ba thứ:

    1. Phước đức phần.
    2. Giải thoát phần.
    3. Thông đạt phần.

a) Phước đức phần: Là gốc lành đời trước có thể chiêu cảm thân nầy, đầy đủ các căn để thọ pháp khí.

b) Giải thoát phần: Là hạt giống công đức từ đây trở xuống có thể chiêu cảm quả báo giải thoát trong đời vị lai.

c) Thông đạt phần: Là do Thánh đạo có công năng thông đạt chân như, gọi là tịnh phần, là người do tịnh phần làm duyên, tịnh tánh làm nhân mà thành quán nầy, không phải vô nhân duyên, nếu không do đối với hai việc nầy để quán vô nhân duyên thì như người Nhất-xiển-đề không có tánh Niết-bàn lẽ ra đắc quán nầy, nhưng Nhất-xiển-đề không có quán ấy, nên biết nhất định phải quán nhân duyên mới có thể hiển hiện tánh thanh tịnh này, không bị khách trần làm nhiễm ô, theo trong ba thừa mà chưa khởi tin ưa Nhất thừa.

Lại nữa, chưa có thể gần gũi thờ phụng thiện tri thức cho đến bốn chủng Thánh luân cũng chưa tương ưng. Bốn luân là: 1. Trụ quốc độ như pháp. 2. Nói theo thiện tri thức. 3. Điều phục tự thân. 4. Kiếp xưa có vun trồng gốc lành.

Luận có ba nghĩa:

1. Chưa đắc khiến cho đắc, đắc khiến cho không mất. 2. Năng độ, là có thể độ từ thử đến bỉ, từ tha nối tiếp đến tự nối tiếp, từ tự nối tiếp đến tha nối tiếp. 3. Năng tải, là có thể chuyên chở từ sinh tử đến Niết-bàn.

– Trụ đường lành: Tức là trụ xứ của người thiện có thể tu chánh hạnh, nếu trong đó trụ hằng kiến thì người nầy đắc giác ý. Giác là giác ngộ. Ý là tâm thiện, nhân thọ này mà trì sự như thiện pháp, nên Phật nói kệ rằng:

Vô tri, vô thiện thức,
Bạn ác tổn chánh hạnh,
Con nhện rơi trong sữa,
Sữa đó trở thành độc.
 
Đó gọi là nên trụ cõi nước như pháp.

– Gần bạn lành. Bạn lành, có bảy phần, như kệ nói:

Năng thí, trọng, đáng tín,
Năng thuyết, năng nhẫn thọ,
Nói sâu là bạn lành,
Đặc đệ tử đường lành.

Có bảy phần: 1. Năng thí, là do có thể bố thí khiến cho các xứ địa thương yêu. 2. Tôn trọng, vì ái nên tôn trọng. 3. Khả tín, vì tôn trọng nên đáng tin. 4. Năng thuyết. 5. Năng nhẫn thọ, do năng thuyết nên có thể nhẫn thọ. 6. Nói sâu, do năng nhẫn thọ: Cho nên có thể nói lý sâu, lợi ích đối với bạn lành 7. An đệ tử đường lành: Là do thuyết lý sâu xa có thể an trí bạn lành vào xứ thiện. Nếu người có thể đầy đủ bảy đức nầy, thì đáng nương dựa làm thiện tri thức, nếu luận chung bảy đức nầy thì không ngoài ba nghĩa: 1. Lạc thương xót. 2. Thông minh. 3. Chịu đựng. Nếu thiếu một trong ba nghĩa thì không phải bạn lành. Nếu chỉ có thương xót mà không thể thông minh, ví như cha mẹ tuy nhớ con bị bệnh nhưng không thể cứu trị được. Nếu chỉ có thông minh mà không có từ bi, giống như thầy thuốc không thể trị bịnh cho người . Nếu không có kham nhẫn thì tự hành bất túc, thương xót và thông minh cũng không thành tựu nên lìa. Tuy hợp chung bảy thứ nhưng cũng không ngoài ba nghĩa. Năng thí, tôn trọng, đáng tin, ba đức nầy thuộc về thương xót. Năng thuyết và nói lý sâu xa thì thuộc về thông minh . Năng nhẫn thọ thì thuộc về kham nhẫn. Xứ an thiện thì đều có cả ba thứ, thông minh là tiêu biểu lìa ngu si, năng kham nhẫn là tiêu biểu khác với phàm phu, thương xót của nó là tiêu biểu khác với hai thừa, chỉ có Phật Thế tôn mới có đầy đủ ba đức nầy, nên dốc sức vì chúng sanh mà làm chân thiện tri thức.

– Điều phục tự thân: Là như chánh giáo hành, khi văn thì không có tâm tán loạn, khi tư thì không có tâm khinh mạn, khi tu thì không có tâm điên đảo. Nếu người không tự điều phục thân tâm, thì xứ thiện và bạn lành không có chỗ dùng.

– Gốc lành vui trồng từ đời trước: Là lấy làm phần giải thoát mà tu gốc lành. Gốc lành, là tín, giới, văn, xả, trí. Tín là không lìa chánh niệm Tam bảo. Giới là không lìa đường thiện. Văn là tự nghe, giúp cho người nghe, không khiến cho người khác nghe điên đảo, không chướng người khác nghe, nhân nhờ bốn văn đó mà hiện đời nầy đắc văn và tư tu, có thể làm pháp khí, ba tuệ đầy đủ. Xả có hai thứ: 1. Do xưa kia xả vật thí cho người khác mà hiện tại tham ái được bớt. 2. Do xưa kia xả pháp thí cho người mà hiện tại được nhẹ diệt vô minh. Do xả nầy mà tham ái vô minh được mỏng nhẹ chút ít, vì nhân duyên đó mà đắc quả giải thoát. Trí là người đời trước đã từng tư duy quyết trạch ba ngôi báu bốn Đế mà đời nầy đắc chánh kiến thế gian cho đến tận trí và vô sinh trí, người như vậy tuy đủ ba luân. Nếu không có thiện đời trước thì năm căn ở đời nầy không được đầy đủ, liền sinh vào các chỗ có tám nạn, nên biết nếu không có gốc lành đời trước thì ba luân trước không có chỗ sử dụng. Chung bốn nghĩa nầy, thí dụ đó làm bốn luân, nếu thiếu một luân thì không thành tên của giải thoát, không do đâu mà được lập. Do bốn pháp nầy hòa hợp nên có thể đắc đạo giải thoát, như bánh xe có thể vận có thể chuyển, đến khi giải thoát thì không còn các khả năng nầy, như Thánh vương luân, có sẵn đủ bốn vật, là cốc (đùm xe), võng (vành xe), bức (căm xe), trục (trục xe), nếu không có bốn vật nầy thì bánh xe không thành. Vì nghĩa ấy, nếu người chưa cùng với bốn luân tương ưng thì lúc đó quán chán lìa sinh tử và quán Niết-bàn công đức đều không được thành, nên trong kinh nói: “Người Nhất-xiển-đề rơi vào nhóm tà định. Có hai thứ thân: 1. Bản tánh pháp thân. 2. Tùy ý thân. Ánh sáng tuệ của mặt trời Phật soi chiếu hai thân nầy. Pháp thân, tức là lý chân như. Thân tùy ý, tức là từ như lý khởi ánh sáng Phật vì thương xót hai thân của Nhất-xiển-đề: 1. Vì làm cho pháp thân được sinh. 2. Vì khiến cho gia hạnh được tăng trưởng tu hạnh Bồ-đề, nên quán được thành”.

Lại có kinh nói: “Chúng sanh Nhất-xiển-đề quyết không có tánh Nhập Niết-bàn”. Nếu thế thì hai kinh tự trái nhau, tập hợp hai thuyết nầy lại, thì một là liễu, một là bất liễu, nên không trái nhau. Hữu tánh, gọi là liễu thuyết. Vô tánh, gọi là bất liễu thuyết, nên Phật nói: “Nếu người không tin ưa Đại thừa thì gọi là một-xiển-đề”. Vì muốn cho lìa bỏ tâm Nhất-xiển-đề nên nói khi làm Nhất-xiển-đề thì chắc chắn không có giải thoát. Nếu có chúng sanh nào có tự tánh thanh tịnh mà mãi mãi không được giải thoát, thì không có việc đó, nên Phật quán tất cả chúng sanh có tự tánh, sau đó thì chắc chắn đắc pháp thân thanh tịnh, nên kinh có bài kệ rằng:

Người thông minh thứ lớp,
Thường thường Tu nhỏ nhiệm,
Trừ diệt cấu tự thân,
Như thợ vàng luyện vàng.

Người thông minh thứ lớp, là nói người nầy có giải thoát, không có tu điên đảo, có thể như thứ tự mà học. Thường thường, là luôn luôn không có tạm ngừng nghỉ, thường nghiên cứu tìm cầu. Tế tế, là từ nhỏ nhiệm cho đến sáng rõ, như tuệ văn tư tu nhỏ nhiệm tu tập. Trừ diệt cấu tự thân, là trừ các hoặc nặng nhẹ của vô minh, khiến cho bản tánh thanh tịnh, mãi mãi được hiển hiện, nên nói cũng như thợ vàng có thể luyện vàng, loại bỏ các cặn tạp chất trong vàng mà được thanh tịnh chói sáng.

 

LUẬN PHẬT TÁNH

QUYỂN 3

PHẦN THỨ 4: BIỆN TƯỚNG (Tiếp Theo)

Phẩm thứ 5: TỔNG NHIẾP

Lại nữa, phải biết nghĩa tổng nhiếp (gồm nhiếp). Gồm nhiếp có hai thứ: 1. Do nhân. 2. Do quả. Do nhân gồm nhiếp là tánh Như lai thanh tịnh, có bốn thứ nhân, ba thứ pháp và ba thí dụ. Vì tương tự nên lấy biển làm dụ. Ba pháp là: 1. Pháp thân thanh tịnh nhân. 2. Phật trí đức sinh nhân. 3. Phật ân đức nhân.

a) Pháp thân thanh tịnh nhân: Phải biết là tu tập tin ưa Đại thừa.

b) Phật trí đức sinh nhân: Phải biết là tu tập Bát-nhã và thiền định.

c) Phật ân đức nhân: Phải biết là tu tập đại bi Bồ-tát .

Người tu tập tin ưa Đại thừa, tương tự với khí vật, trong đấy có vô lượng định tuệ, vì đại bảo đầy khắp nên nói “tương tự với khí vật”. Tu tập Bát-nhã và thiền định với tương tự châu báu, là Bát-nhã thì vô phân biệt, thiền định thì không thể nghĩ duy, là chỗ nương của công đức nên Bát-nhã giống như báu tịnh, thiền định giống như báu như ý. Tu tập đại bi của Bồ-tát, là giống như nước thanh tịnh, đối với tất cả chúng sanh thế gian, nhuận hoạt nhất vị, ví như biển cả chỉ có một vị mặn. Đại bi của Bồ-tát thấm nhuần chúng sanh cũng giống như vậy, do đó ba pháp nầy trong nhân địa làm sở nương và năng nương, nên nói gồm nhiếp chung, gọi là biển pháp Như lai, gọi là nhân gồm nhiếp. Kế đó do quả gồm nhiếp, là thuyết minh pháp thân Như lai có ba loại pháp cùng với ba thí dụ tương tự nên có thể gồm nhiếp chung ba thí dụ. Tương tự, như mặt trời có ba yếu tố: 1. Thể. 2. Quang (ánh sáng). 3. Minh (sáng). Ba yếu tố nầy tương tự với ba thân . Ba pháp là: 1. Thần thông. 2. Lưu diệt. 3. Hiển tịnh.

a) Thần thông, thí dụ mặt trời có minh (sáng) có công năng xua tan tối tăm của vô minh chướng tự cảnh giới, lấy làm sự dụng giống như ánh sáng mặt trời.

b) Lưu diệt: Là tận trí vô sinh, có thể tiêu trừ nghiệp phiền não làm cho không thừa lấy làm sự dụng nên giống như ánh sáng mặt trời. Điều nói Diệt, tức là Chân trí có thể trừ hoặc. Cùng với diệt gọi là tận, tức là khi hoặc không còn gọi là giải thoát, nên tương xứng với tận.

c) Hiển tịnh: Là tận cảnh vô sinh gọi là chuyển y, vì cực thanh tịnh, vô cấu, trong lặng, giống như mặt trời. Thanh tịnh, là chướng giải thoát diệt mất. Vô cấu, là chướng Nhất thiết trí diệt mất. Trong lặng, là không bị khách trần làm nhiễm ô, vì bản tánh thanh tịnh. Chuyển y, là pháp nương dựa của ba hạng người Thanh văn, Độc giác, Bồ-tát là tốt đẹp.

Lại nữa, có bốn thứ tướng: 1. Sinh y. 2. Diệt y. 3. Thiện thục tư lương quả. 4. Pháp giới thanh tịnh tướng.

a) Sinh y: Là chỗ nương của đạo vô phân biệt nối tiếp của Phật, nếu không duyên pháp sinh y nầy thì đạo vô phân biệt sẽ không sinh, vì nói theo duyên pháp sinh y nầy nên gọi pháp nầy đạo sinh y.

b) Diệt y: Là tất cả các hoặc và tập khí diệt rốt ráo bất sinh, vì không có chỗ nương dựa. Nếu không nói theo chuyển y nầy để diệt hoặc rốt ráo, thì Thanh văn Độc giác cùng với Phật diệt hoặc không khác nhau, nhưng vì bất đồng, nên biết pháp nầy làm chỗ nương rốt ráo diệt hoặc.

c) Quả Thiện thục tư lương: Là khéo chánh thông đạt, cung kính lâu dài, vô gián vô dư… tu tập chân như sở tri, là quả chuyển y. Nếu trong đạo thì chuyển y làm nhân, nếu sau đạo thì gọi là quả. Nếu chuyển y không phải là quả thiện thục tư lương , thì tự tánh của chư Phật lẽ ra càng thuần thục tư lương, càng diệt, càng tịnh, nhưng không phải như vậy, nên chuyển y làm quả của tư lương thiện thục.

d) Tướng Pháp giới thanh tịnh : Là trong đó tất cả vọng tưởng đều diệt hết, vì sự hiển hiện của pháp giới nầy vượt ngoài so lường, vượt ngoài nói năng, nên dùng pháp giới thanh tịnh làm tướng. Pháp giới nầy tức là chỗ tâm hành diệt, đường ngôn ngữ dứt, không thể giải thích mới có thể đắc lý chân như vô sở đắc.

Lại nữa, phải biết chuyển y của Như lai có tám pháp thâu giữ: 1. Không thể nghĩ lường. 2. Không hai. 3. Vô phân biệt. 4. Thanh tịnh. 5. Soi rõ nhân. 6. Đối trị. 7. Lìa dục. 8. Nhân lìa dục.

Tám pháp trên hợp chung có 2 ý: 1. Lìa dục, là diệt đế. 2. Nhân lìa dục, tức là đạo đế. Ba câu không thể nghĩ lường, không hai và vô phân biệt thuộc về diệt đế; ba câu kế là thanh tịnh, soi rõ nhân và đối trị thuộc về Đạo đế.

a) Lìa dục thứ nhất có ba câu:

1. Thế nào là không thể nghĩ lường đối với bốn câu hữu, vô, phi hữu, phi vô…? Giác quán, xét lường, không thể thông đạt, ngôn ngữ danh cú vị… của tất cả chúng sanh không thể luận bàn ý nghĩa, chỉ có trí Vô phân biệt của bậc Thánh chứng biết, nên gọi là không thể nghĩ lường.

2. Không hai: Như trong kinh nói: “Này Xá-lợi-phất! Pháp thân của chư Phật là pháp không hai, pháp Vô phân biệt”. Chữ nhị, là chỉ phiền não và nghiệp, gọi là hai. Pháp thân Như lai không có hai pháp nầy, nên gọi là không hai.

3. Vô phân biệt: Chữ phân biệt là chỉ cho nhóm huân tập tư duy bất chánh của nghiệp phiền não, do tư duy bất chánh nên khởi có hai, do thông đạt tự tánh nên diệt hai, là hai và phân biệt bất ưng bất hành. Bất ưng là thượng tâm phiền não không tương ưng chung với hành. Bất hành là tùy miên phiền não không chung với tùy hành, tức là bất ưng bất hành. Do hai xứ nầy nên nói pháp thân Như lai, khổ rốt ráo diệt, không bao giờ sinh khởi. Vì sao ? Vì không phải trừ diệt tất cả pháp mà gọi là diệt, vì xưa nay bất sinh nên gọi là diệt, như trong kinh vô thượng y nói: “Này A-nan! Trong pháp vô sinh vô diệt, thì tâm, ý và thức chắc chắn không sinh”.

Giải thích: Tâm, là sáu thức tâm. Ý tức là thức A-đà-na. Thức tức là thức A-lại-da. Ba thứ tâm-ý-thức vì không được sinh, trong đó nếu không có ba thức thì không có phân biệt, phân biệt đã không có thì cũng không có tư duy bất chánh… đã không có ba thức thì vô minh không được khởi, là vì pháp thân Như lai lìa tư duy bất chánh thì không khởi vô minh. Nếu không có vô minh thì mười hai hữu phần không là duyên sinh nên gọi là bất sinh. Lại nữa, kinh Thắng man chép: “Là khổ diệt, không phải pháp diệt hoại gọi là khổ diệt. Hoại là phá kiến đế của ba cõi đắc Niết-bàn hữu dư. Diệt là trừ bốn thứ sinh, tử, tư duy và phiền não, đắc niết bàn vô dư nên nói diệt hoại. Do khổ diệt gọi là vô thỉ thời tiết, không tạo tác không sinh, không diệt, lìa tận, thường trụ, hằng vắng lặng, tự tánh trong lặng, thanh tịnh giải thoát, tất cả phiền não, khởi công đức nhiều hơn số cát sông hằng, cùng gồm nhiếp phi tương ly, trí bất xả ly, không thể tư duy, tương ưng với pháp Như lai”. Đã nói pháp thân Như lai của chư Phật, thì pháp thân Như lai đó gọi là lìa dục.

b) Nhân lìa dục thứ hai, là đắc sự gồm nhiếp đạo Kiến đế và Tu đạo của pháp thân nầy, do cảnh giới nên nói trí Vô phân biệt có ba nghĩa, tương tự mặt trời, vì thanh tịnh vô lưu nên giống như mặt trời, vì có thể soi rõ tất cả cảnh giới nên giống như mặt trời sáng , vì có thể đối trị tất cả ám chướng chân kiến nên giống như ánh sáng mặt trời.

Giải thích: Ám chướng chân kiến, là đầy đủ tưởng, phiền não nạn, nghiệp nạn, quả báo nạn.

Đầy đủ tưởng: Là dùng tùy miên phiền não làm nhân, năm dục trần làm duyên, tư duy bất chánh làm nhân câu khởi, có đủ ba thứ nầy gọi là đầy đủ tưởng, là ám chướng bất kiến bất tri của như thật, lìa dục thì một cõi của pháp thân liền được sinh khởi, như ưng kiến ưng tri nầy mà pháp thân Như lai lìa dục.

Hỏi: Thế nào là kiến tri?

Đáp: Là xét lường như thật về tưởng bất kiến và cảnh bất kiến. Cảnh là tánh Phân biệt, tưởng gọi là y tha. Không thấy hai tánh Phân biệt và y tha, nên gọi là kiến tri chân thật một cõi. Lại nữa, tưởng là người, cảnh là pháp, không thấy tưởng cảnh người pháp nầy nên gọi là hai không. Như vậy tất cả các pháp, Như lai đều thấy đều biết, do bình đẳng bình đẳng rồi thông đạt như chân thật nên cảnh và trí đều bình đẳng không có thêm bớt, gọi đó là quán bình đẳng , quán nầy có thể xua tan chướng tối tăm của kiến chân thật, đó là nhóm nhân của chí đắc Pháp thân Như lai, vì là sự gồm nhiếp của Kiến đạo và Tu đạo. Vì nghĩa đó, nhân lìa dục nầy không lìa hai tu mà được thành tựu. hai tu: 1. Như lý tu. 2. Tu như lượng. Do đó đối tượng nhận thức của thế gian chỉ có hai thứ: 1. Người. 2. Pháp. Nếu người nào thông đạt hai không nầy, thì hoàn toàn tương ưng với mé như thật nên gọi là như lý. Mé Như lượng: Là cùng nguồn tận tánh, nghiên cứu tận nguồn pháp giới gọi là mé.

Như lý tu: Là không hoại người pháp, vì sao? Như người pháp nầy xưa nay là diệu cực vắng lặng làm tánh, không thêm không bớt, lìa hữu lìa vô.

Tướng vắng lặng: Là tự tánh thanh tịnh, các hoặc xưa nay không sinh; thấy hai không nầy gọi là tướng vắng lặng, tự tánh tâm thanh tịnh gọi là Đạo đế, hoặc không sinh, tâm tịnh không chấp gọi là Diệt đế, là tâm có tự tánh thanh tịnh và có phiền não hoặc chướng. Như hai pháp trong giới vô lưu, thì tâm thiện và tâm ác tự hiện hành riêng, trong một niệm, hai tâm không tương ưng. Hai pháp nầy khó có thể thông đạt, như kinh Thắng man nói: “Bạch Thế tôn ! Tâm thiện niệm niệm diệt không trụ, các hoặc không thể nhiễm, tâm ác niệm niệm diệt, các hoặc cũng không nhiễm. Bạch Thế tôn! Phiền não không xúc với tâm, tâm không xúc với phiền não, thì vì sao là không có xúc pháp mà tâm bị nhiễm ô” ! Như theo đây mà biết thì gọi là trí như lý. Trí như lượng, là biết rốt ráo hết tất cả cảnh gọi là trí như lượng. Nếu thấy tất cả trái với như cảnh trí thì thành sinh tử, nếu trợ giúp từ cảnh trí thì đắc Niết-bàn. Tất cả pháp Như lai do nghĩa đó mà gọi là như lượng, đến sơ địa mới được hai trí nầy, vì thông đạt đầy khắp lý pháp giới nên hai pháp sinh tử và Niết-bàn đều biết.

Lại nữa, hai trí nầy là tự chứng trí kiến, do tự được hiểu, không phải từ người khác mà được, nhưng chỉ tự được chứng biết, không thể khiến cho người khác biết, nên gọi là tự chứng tri kiến.

Lại nữa, hai trí nầy có hai loại tướng: 1. Vô trước. 2. Vô ngại. Vô trước, là thấy tự tánh thanh tịnh của chúng sanh giới, là tướng của trí như lý. Vô ngại, là có thể thông đạt quán vô lượng vô biên giới, gọi là vô ngại, gọi là tướng của trí như lượng.

Lại, hai trí nầy có hai nghĩa: 1. Trí như lý làm nhân. 2. Trí như lượng làm quả. Trí như lý làm nhân: Là có thể làm nhân cho sinh tử và Niết-bàn. Trí như lượng làm quả: Là vì lý kia mà biết các pháp chân tục của Như lai thành tựu đầy đủ.

Lại nữa, trí như lý là nhân thanh tịnh, trí như lượng là nhân tròn đầy. Nhân thanh tịnh là do ba hoặc của trí như lý diệt hết. Nhân tròn đầy là do ba đức của trí như lượng tròn đầy, ba pháp không thể nghĩ lường, vô hai và vô phân biệt trước gọi là lìa dục, lấy thanh tịnh, chiếu liễu nhân và đối trị gọi là nhân lìa dục, gọi đó là tám thứ công đức chuyển y thâu giữ của Như lai.

Lại nữa, phải biết Pháp thân chuyển y có bảy tên: 1. Trầm một (lặn chìm), vì trầm một các thủ ấm. 2. Vắng lặng, vì các hành vô sinh. 3. Vất bỏ, vì từ bỏ các bạn dư (bạn thừa). 4. Quá độ, vì ra khỏi hai thứ khổ. 5. Nhổ lên, vì nhổ trừ bản thức. 6. Cứu giúp, vì cứu độ năm thứ sợ hãi. 7. Đoạn, vì dứt trừ đối với quả báo sáu đường.

Giải thích: Nói:

1. “Trầm một thủ ấm”, thủ nghĩa là tham ái, có bốn thứ: 1. Dục thủ. 2. Kiến thủ. 3. Giới thủ. 4. Ngã ngữ thủ. Thủ có hai nghĩa: 1. Thọ thủ. 2. Thọ tư lương. Thọ thủ là do thọ mà sinh ái. Thọ tư lương, là tham ái thọ nầy nên chấp lấy bốn tư lương. Bốn tư lương, tức là bốn thủ:

a) Dục thủ: Là tham sáu trần của cõi Dục.

b) Kiến thủ: Là trong cõi Dục, chỉ trừ hai thứ giới thủ và chấp thường, bốn kiến còn lại gọi là kiến, tham ái kiến ấy gọi là kiến thủ.

c) Giới thủ: Là trong ba cõi, chấp lấy hai thứ tà đạo và chánh đạo của thế gian để lìa khổ mà được lạc, gọi đó là giới (giới luật), tham chấp giới nầy nên gọi là thủ.

d) Ngã ngữ thủ: Ngã ngữ là duyên nội thân, tất cả nội pháp làm ngã ngữ, tham chấp nội pháp nầy gọi là ngã ngữ thủ. Định của cõi sắc và cõi vô sắc duyên nội pháp mà thành nên gọi là ngã ngữ, tham chấp định nầy, gọi là thủ. Trong bốn thủ nầy, hai thủ trước thuộc đoạn kiến, chỉ chấp hiện tại, cho rằng không có vị lai; hai thủ sau thuộc chấp thường, vì chấp có vị lai.

Lại hai thủ trước thuộc người tại gia hay dấy khởi, hai thủ sau thuộc người xuất gia hay chấp.

Lại hai thủ trước là nhân tranh cãi của người tại gia và xuất gia, hai thủ sau là nhân tu hành của người tại gia và xuất gia.

Lại hai thủ trước, dục thủ làm sự sở thành, kiến thủ làm năng thành, hai thủ sau, giới thủ làm sự được thành, ngã ngữ thủ làm năng thành.

Lại nữa, ấm, có nhiều nghĩa, như trong phần giải thích riêng, ở đây lược nói có hai nghĩa: 1. Năng sinh thủ: vì năm ấm của phàm phu có thể làm nhân duyên cho thủ. 2. Từ thủ sinh, tức là năm ấm nầy, là quả của nhóm thủ, nên nói là thủ ấm. Nhưng nói “Trầm một” (lặn chìm), là trong Pháp thân, nhân quả đều không có nên gọi là trầm một. Thủ làm đối trị nên trầm, ấm làm báo tận, gọi là một, nên nói Pháp thân dựa theo thủ ấm không bao giờ có, nên gọi là trầm một.

2. “Tịch tịnh các hành”: Tất cả pháp Hữu vi gọi là hành, cùng tương ưng với bốn tướng. Bốn tướng: 1. Sinh. 2. Dị. 3. Trụ. 4. Diệt. Tất cả pháp Hữu vi dựa theo mé trước tương ưng với tướng sinh, dựa vào mé sau tương ưng với diệt tướng, dựa theo mé giữa tương ưng với dị tướng và trụ tướng, mà hành dịch không ngừng nên gọi là hành. Pháp thân Như lai thì không như vậy, dựa theo trước vô sinh, dựa theo sau vô diệt, khoảng giữa không có bệnh già, mà vắng lặng thường trụ. Vì vô sinh nên nói là tịch, vì vô diệt nên nói là tĩnh. Dựa theo mé trước không sinh nữa, vì lìa ý sinh thân; dựa theo mé sau không tử nữa, vì đã vượt qua sự thối đọa không thể nghĩ duy; dựa theo mé trước và mé sau không bị tổn giảm nhiễm ô, vì vượt qua phiền não bịnh của vô minh trụ địa.

3. Bỏ các thứ sót, các thứ sót là người hai thừa, có ba thứ sót: 1. Phiền não sót: Là vô minh trụ địa. 2. Nghiệp sót: Là nghiệp vô lậu. 3. Quả báo sót: Là ý sinh thân. 1. Phiền não sót nên diệt. 2. Đạo sót nên tu. 3. Luống dối sót nên trừ. Như lai đã lìa luống dối, gọi là vô dư, nhị thừa chưa lìa luống dối nên gọi là sót. Chuyển y Pháp thân của Như lai đã vượt qua bốn thứ sinh tử, đã diệt hết tất cả phiền não luống dối, đã tu tất cả đạo, và đã từ bỏ sinh tử buông bỏ Đạo đế, vì hai thứ nầy không có bốn đức, chỉ có Pháp thân trụ bốn đức tròn đầy, nên gọi là bỏ các thứ sót.

4. Quá độ khổ: Là nghĩa nghịch khổ.

Trái Nghịch có hai thứ: 1. Nghịch ý của bậc Thánh, là kẻ thù của bậc Thánh, vì có thể làm phiền não bậc Thánh. 2. Trái nghịch Thánh ý, vì Thánh có thể dứt trừ .

Khổ có hai thứ: 1. Là hai thọ khổ vui của phàm phu. 2. Hành khổ của bậc Thánh.

Lại có hai thứ khổ khác: 1. Thân khổ. 2. Tâm khổ.

Lại có hai thứ nữa: 1. Danh khổ. 2.Sắc khổ.

Lại có hai thứ nữa: 1. Hai thừa giới nội khổ. 2. Bồ-tát giới ngoại khổ. Do đó Pháp thân trong địa thì không có khổ thô của Nhị thừa, nên gọi là quá, không có bốn thứ khổ tế sinh tử của Bồ-tát nên gọi là độ, gọi đó là quá độ 2 khổ.

5. Nhổ gốc bản thức: Bản thức tức là thức A-lê-da lấy nương ẩn làm nghĩa, là gốc của sinh tử, vì có thể sinh bốn ngọn. bốn ngọn là phiền não có hai ngọn, nghiệp có một ngọn, quả báo có một ngọn, tổng cộng là bốn ngọn.

Gốc phiền não có hai ngọn: 1. Tất cả các kiến, lấy vô minh làm gốc, môn giải thoát vô tướng làm đạo đối trị. 2. tất cả phiền não ngoài các kiến, lấy tham ái làm gốc, môn giải thoát vô nguyện làm đạo đối trị.

Gốc nghiệp có một ngọn, lấy tánh phàm phu làm gốc. Tánh phàm phu tức là thân kiến.

Gốc quả báo có một ngọn, là tất cả quả báo sinh tử, nói theo thức A-lê-da làm gốc, vì chưa lìa thức nầy thì quả báo chưa dứt.

Trong Pháp thân do hai đạo và hai đời diệt hết nên gọi là nhổ bỏ. Hai đạo là: 1. Trí vô phân biệt, vì có thể nhổ trừ luống dối hiện tại, có thể làm Pháp thân thanh tịnh, tức gọi là tận trí. 2. Trí vô phân biệt hậu, vì có thể khiến cho luống dối vị lai không bao giờ khởi, có thể làm tròn đầy Pháp thân, tức là trí vô sinh. Bạt là thanh tịnh, diệt hoặc hiện tại, trừ là tròn đầy, dứt hoặc vị lai, nên gọi là nhổ trừ.

6. Cứu giúp năm thứ sợ hãi: Năm sợ hãi là: a. Úy tự trách. b. Úy tha trách. c. Úy trị phạt. d. Úy ác đạo. e. Úy chúng tập.

a. Úy tự trách: Là như người gây ra các tội ác, nên ngày đêm kinh sợ.

b. Úy tha trách: Là người đã tự làm ác, thường sợ người khác và các thiên thần ở cõi u minh thấy nêu ôm lòng kinh sợ.

c. Úy trị phạt: Là thân làm ác, thường sợ phép nước trị phạt.

d. Úy ác đạo: Là người có tội, tùy theo đó mà sợ đọa vào đường ác.

e. Úy chúng tập, là ba nghiệp bất tịnh và cả tri thức kiến giải không sâu, thường kinh sợ oai đức của đại chúng. Nếu người đã chứng kiến Pháp thân thì lìa năm sợ hãi nầy, nên nói Pháp thân cứu giúp năm thứ bố úy.

7. Đoạn quả báo chữ đạo rất nhiều sáu đường, lược nói có hai thứ: 1. Hành xứ gọi là đạo, năm ấm là lĩnh vực được làm ra, ba đời làm năng hành. Lại nữa, lấy bốn khổ sinh già bịnh tử làm nơi du hành nên gọi là đạo. 2. Sáu thứ đồng dị gọi là đạo, như người thì đồng người thì dị trong năm đường. Các đường còn lại cũng vậy, là đồng dị loại.

Hỏi: Đạo là gì?

Đáp: Có hai thứ: 1. Sự trôi lăn của chúng sanh. 2. Hoạt động của nghiệp. Vì hai nghĩa nầy thành lập nên gọi là đạo, Pháp thân Như lai không trở lại đạo nầy, nếu nghiệp của Niết-bàn hữu dư đã hết, quả của chúng sanh trôi lăn chưa hết, thì hai thứ nhân quả của Niết-bàn vô dư đều hết, nên gọi là đoạn diệt sáu đường. Nếu có kinh luận nói Pháp thân Như lai, thì nên biết cùng với bảy tên nầy tương ưng, đó là nói tên và cảnh.

Lại nữa, nói tướng của Pháp thân, là các khổ lặng dứt, đó là tướng của Pháp thân, là vắng lặng duyên của khổ.

Lại nữa, nói vị của Pháp thân, vị đó có hai thứ: 1. Bất thối đọa nên gọi là vị. 2. An vui nên gọi là vị. Chúng sanh trong sinh tử cho đến trong mộng đều chưa từng thấy, nếu người tu chánh hạnh cầu thấy pháp nầy, khi được thấy thì liền đắc an vui bất thối, lấy an vui làm vị.

Lại nữa, nói thân sự, sự là vô tướng làm sự, tướng của năm ấm trong đó tận vô dư. Lại cũng lấy vô hý luận làm sự. Hý luận có ba thứ: 1. Tham ái. 2. Ngã mạn. 3. Các kiến. Ba thứ hý luận đó, Như lai diệt đã hết, nên lấy vô hý luận làm sự. Hý luận có ba nghĩa: 1. Có thể trái với lý thật. 2. Danh dối gạt thế gian. 3. Ngăn cách giải thoát. Nghĩa thứ nhất là trái với chánh cảnh, nghĩa thứ hai là trái với chánh hạnh, nghĩa thứ ba là trái với chánh đắc, hợp chung ba nghĩa nầy gọi là hý luận.

Lại nữa, hý luận có chín thứ: 1. Thông kế ngã (chấp ngã chung). 2. Đích kế thị ngã (chấp ngã riêng). 3. Kế ngã ưng sinh (chấp ngã phải sinh lại). 4. Kế ngã bất cánh sinh (chấp ngã không sinh lại). 5. Kế ngã hữu sắc ưng sinh (chấp ngã có sắc phải sinh lại). 6. Kế ngã vô sắc ưng sinh (chấp ngã vô sắc phải sinh lại). 7. Kế ngã hữu tưởng ưng sinh (chấp ngã hữu tưởng phải sinh lại). 8. Kế ngã vô tưởng ưng sinh (chấp ngã vô tưởng phải sinh lại). 9. Kế ngã phi tưởng phi phi tưởng ưng sinh (chấp ngã phi tưởng phi phi tưởng phải sinh lại).

a) Thông kế ngã: Là trong năm ấm, chấp chung có ngã mà không thể phân riêng, vì phân riêng thì liền lìa, chỉ là chấp tràn lan.

b) Đích kế thị ngã: Là trong hiện đời, lấy bất cứ một nào làm ngã. Chữ “thị (chính là)” là nghĩa riêng của chữ “đích (đích thực)”, quyết định chính là hai xứ: a. Quyết định có hiện đời. b. Chắc chắn chấp trên một ấm, nên nói là “thị”.

c) Kế ngã ưng sinh: Tất cả các kiến không ngoài hai thứ hữu vô, do hữu kiến nên chấp thường. Trong vô kiến lại có hai thứ: a. Tà kiến, là tất cả kiến chấp vô nhân, vô quả, đều bác bỏ ba đời. b. Đoạn kiến, là cho rằng chỉ có hiện tại, không tin vị lai.

d) Kế ngã bất cánh sinh: Kế chấp nầy do chấp đoạn mà khởi.

e) Kế ngã hữu sắc ưng sinh: Là trong cõi Dục và cõi sắc, chấp nầy nhân chấp thường mà khởi.

f) Kế ngã vô sắc ưng sinh: Là trong cõi Vô sắc, cho rằng ba pháp thọ, tâm và pháp làm ngã, quán sắc thì hoại diệt, ba pháp nầy thì bất diệt, đây là nhân chấp thường mà khởi.

g) Kế ngã hữu tưởng ưng sinh: Là trong ba cõi, trừ trời Vô tưởng và Phi tưởng phi phi tưởng thiên, các chỗ còn lại đều cho tưởng là ngã, đây là nhân theo chấp thường mà khởi.

h) Kế ngã vô tưởng ưng sinh: Là cho Trời Vô tưởng và cây cỏ… là ngã, vì đồng với tâm vô tưởng, nên nhân theo chấp thường mà khởi.

i) Kế ngã Phi tưởng phi phi tưởng ưng sinh: Ở đây là cho rằng xứ Hữu đảnh là ngã, cho quán tưởng là lệ thuộc, cho Niết-bàn là hầm hố, nếu không trừ tưởng thì không do đâu mà giải thoát, vì có lệ thuộc, nếu dứt bỏ tưởng, thì lại sợ mất ngã mà rơi vào hầm hố Niết-bàn. Vì sao? Vì ngã cùng với tưởng không được lìa nhau, không được xả bỏ hay không xả bỏ, vì lệ thuộc. Muốn trừ tưởng nên nói là “Phi tưởng”. Vì sợ mất ngã mà không dám xả bỏ tưởng nên gọi là “Phi phi tưởng”. Do tâm tán loạn nầy mà không đắc Niết-bàn. Nói những thứ nầy gọi là hý luận, nếu có thể quán chứng Pháp thân thì tất cả hý luận đều không còn sinh nữa.

Ngoại đạo nói: Trong Pháp thân, dùng pháp gì để lập các nghĩa của các tướng nầy?

Đáp: Như sự lập luận của ông thì Pháp thân phải nhất định là không, vì không thể chấp được. Nếu vật không phải là cái đắc của sáu thức thì chắc chắn là không, như sừng thỏ. Sừng thỏ, là không phải chỗ đắc của sáu thức, vì nhất định là không. Pháp thân cũng vậy, nên Pháp thân chắc chắn là không.

Hỏi: Các nghĩa dùng thế nào?

Đáp: Ông nói không phải điều mà sáu thức thấy, nên Pháp thân không có, nghĩa đó không đúng. Vì sao? Vì dùng phương tiện có thể chứng Niết-bàn, tưởng xứng với chánh hạnh thì gọi đó là phương tiện. Do phương tiện nầy mà có thể biết, có thể thấy Pháp thân, ví như do tha tâm thông, thì có thể thấy được tâm Thánh xuất thế.

Giải thích: Tha tâm thông, có ba loại nhân duyên là sự đắc hai phương tiện đó: 1. Chánh đạo phương tiện. 2. Một do thiên tai, hai do thiên nhãn. Do thiên tai nên nghe mà giác quán âm thanh, do âm thanh nầy mà biết được tha tâm. Nói theo thiên nhãn thì có thể thấy nhục tâm người khác trong lỗ hổng có nước và tướng nước, nếu đen thì biết là si mê, sinh vàng thì biết là tham lam, đỏ thì biết là sân nộ, xanh trắng thì biết là thiện, thấy màu lụa trắng xanh thì biết là vô ký. Do phương tiện tai mắt mà so biết tha tâm.

Kế đó là chánh đạo, nếu muốn đắc tha tâm thông thì phải duyên tự tâm, trước hết tu quán hạnh, không dùng tâm hiện tại quán tự thể của hiện thế tâm vì không được thấy cùng lúc, tâm hiện tại thì có thể khứ tâm quán quá. Vì sao? Vì có thể đuổi theo duyên, từ xa đến gần, thứ tự từ trước hướng đến sau, ban đầu thì quán vô lượng niệm, như vậy dần dần đến một sát-na, đến diệt một sát-na trong tự tâm quán mà được tự tại, rồi sau đó lấy tâm của người trước mà khởi cảnh giới của mình. Vì tu quán hạnh, khi mới nhập quán thì phải khởi nguyện tâm, khi khởi có ý thời hạn, trước hết phải giả tưởng quán thân và thân tướng của người trước đầy đủ, như vậy phân tích dứt trừ hết ba tướng da thịt xương, chỉ còn lại các tâm khác, tu tập kỹ lưỡng, duyên theo tâm của người trước, tùy theo lợi độn, xa gần, hoản gấp, tự có thể thấy suốt, như sở duyên đó, ta đều có thể thấy các thứ tâm, như Thánh tâm của người khác, tuy vượt qua cảnh của sáu căn mà cũng có thể được thấy. Pháp thân Như lai cũng giống như vậy, tuy không phải điều thấy của sáu thức, nhưng do phương tiện chánh hạnh mà có thể thấy được, nên biết là hữu, không nên đồng với vô.

Lại nữa, lại có nghĩa khác biết Pháp thân chẳng phải là vô. Vì sao? Nếu Pháp thân là vô, thì các chánh hạnh đều rỗng mất, vì chánh kiến làm hạnh đầu tiên để gồm nhiếp các pháp thiện của giới định tuệ, chánh hạnh đã tu chẳng phải rỗng rang vô quả, vì chánh hạnh nầy có thể đắc quả nên biết Pháp thân chẳng phải vô. Nếu ông nói: “Pháp thân chắc chắn là vô, nhưng chánh hạnh có thể khiến cho đến năm ấm, Nhập… Diệt hết, nên phải biết chánh hạnh không phải vô quả”, nghĩa đó không đúng. Vì sao? Vì Niết-bàn không phải hữu. Nếu vô của năm ấm… là Niết-bàn, thì ấm… của hai đời quá khứ và vị lai đều là vô, do đó lẽ ra là Niết-bàn, nhưng ấm… của quá khứ và vị lai đã không có chuyện đó, không phải Niết-bàn, nên biết không thể chấp lấy chỗ xứ vô của ấm gọi là Niết-bàn.

Lại nữa, nếu ông chấp lấy xứ vô nầy làm Niết-bàn, thì những người cuồng say đáng lẽ đều có Niết-bàn! Nhưng việc đó không có, nên biết xứ vô của ấm chẳng phải Niết-bàn.

Lại nữa, nếu ông nói: “Năm ấm hiện đời là Niết-bàn vô vi”, nghĩa đó không đúng. Vì sao? Vì không có cái vô vi đó. Nếu là pháp hiện tại, thì chẳng phải vô, vì trái nhau, nếu là pháp đã diệt thì chẳng phải hiện tại, nếu hiện tại thì không diệt, vì hữu và vô không được có cùng lúc.

Lại nữa, dựa vào ấm hiện tại, khi tu Thánh đạo thì không nên đắc Niết-bàn. Tám Thánh đạo, dựa vào năm ấm hiện tại mà được thành, lúc đó năm ấm hiện tại là thật hữu chưa phải là vô, trong đây không bao giờ có nghĩa đắc Niết-bàn. Vì sao? Vì ông lập chấp rằng: “Xứ vô của năm ấm hiện đời gọi là Niết-bàn”, thì nói theo năm ấm hiện đời nầy mà tu bát Thánh đạo đắc Niết-bàn, nên ông chấp: “Xứ vô của năm ấm hiện đời gọi là Niết-bàn”, nghĩa đó không đúng! Nếu ông nói: “Lúc đó phiền não không phải hiện tại, thì không có lỗi”, nghĩa đó không đúng! Nếu ông nói: “Khi tu tám thánh đạo thì năm ấm hiện tại là các phiền não mà không phải hiện đời, lúc đó phiền não không được sinh, do tám thánh đạo mà được chứng được thấy, nên hiện đời đắc Niết-bàn”, nghĩa đó không đúng. Vì sao? Vì phiền não đầu tiên không phải là hiện đời, nên Tu đạo vô dụng, khi tu Thánh đạo thì các phiền não đó chưa trừ diệt. Cái thấy của ông chẳng phải tương ưng, liền nói rằng không phải hiện đời. Nếu tùy theo nghịch lưu khi mới tu hành thì phiền não đã không tương ưng, phiền não nầy không tương ưng thì không phải hiện đời, phiền não nầy là sự chấp Niết-bàn của ông. Nếu ông chấp: “Phiền não nầy là Niết-bàn, khi Thánh đạo chưa khởi thì lẽ ra đã diệt hoặc rồi, vì đã đắc Niết-bàn, sau đó tu Thánh đạo thì không có ứng dụng trở lại, là vì tám thánh đạo đó có thể diệt các hoặc và đắc Niết-bàn”, nghĩa đó không đúng, nên biết diệt xứ của phiền não không gọi là Niết-bàn. Nếu ông nói: “Do Thánh nói, dục… Diệt hết gọi là Niết-bàn”, như trong kinh Cát Tường có bải kệ rằng:

Diệt hết và lìa dục,
Không chết đọa vi diệu,
Nếu người thấy kinh nầy,
Thành Phật được vắng lặng.
Vô pháp đồng với đây,
Nếu chứng thì vô ưu,
Là pháp bảo chân diệu,
Do nghĩa cát tường đó.

Nếu ông nói: “Các hoặc như dục… chẳng phải hiện đời, chẳng phải hữu, là tận, do ba nghĩa nầy gọi là Diệt đế”, nghĩa đó không đúng. Vì sao? Vì quả đệ bốn đồng với nghĩa nầy, nên trong kinh Phật nói: “Cái gì gọi là quả A-la-hán? Lấy hoặc của ba cõi diệt hết gọi là quả A-la-hán. Chỉ lấy diệt của dục… làm quả, thì quả nầy thật ra không bằng trong kinh nầy chánh lấy xuất thế quả báo năm thân của bốn ấm giới làm quả A-la-hán, mà chỉ do hoặc nầy diệt thì quả A-la-hán mới được thành, đây là trong quả mà nói tên của nhân nầy. Niết-bàn cũng vậy, do Niết-bàn mà các hoặc được diệt, do đó trong nhân mà nói tên quả, nên ông nói: “Do tám thánh đạo có thể đắc Niết-bàn”, nghĩa đó không đúng!

Lại nữa, khi Pháp thân trụ thì ngắn ngủi, pháp tướng hữu vi, chẳng phải công dụng đắc, là ba lỗi đối với nghĩa của ông đã hỏng. Nếu ông đã nói là: “Hoặc của dục… Diệt, gọi là Pháp thân”, trong sự lập nghĩa của ông có ba lỗi: 1. Lỗi khi trụ thì ngắn ngủi. Ngắn ngủi, là các pháp niệm niệm không dừng, gọi đó là diệt hết. Vì diệt hết nên không được tạm dừng, thì ông làm sao mà lập nghĩa của diệt hết nầy làm Pháp thân !Vì thời gian ngắn ngủi nên mất nghĩa thường của Pháp thân. 2. Lỗi Hữu vi pháp tướng. Nếu diệt hết nầy là Pháp thân, thì Pháp thân là Hữu vi pháp tướng, Pháp thân nếu là tướng hữu vi, thì không có chuyện đó. 3. Lỗi có phi công dụng. Tất cả pháp nầy nói theo nhân duyên diệt thì đó là tự tánh. Vì sao? Vì diệt là bổn. Nếu diệt là phi công dụng mà đắc thì Pháp thân cũng nhân theo công dụng mà đắc. Đã vô công dụng mà đắc, thì ngủ nghỉ, cuồng say… đáng lẽ cũng đều đắc Niết-bàn. Vì ba lỗi nầy mà nghĩa của ông không thành.

Lại nữa, nếu diệt hết làm Niết-bàn, thì tương ưng với các pháp Hữu vi, vì diệt có hai pháp Hữu đồng động khổ, nói pháp Hữu vi đều bị lửa mê hoặc của dục… đốt cháy, nên hằng tán động không dừng trụ, thì bị sinh già chết làm hoại, do đó mà hằng khổ. Như Phật nói: “Này Tỳ-kheo! Sinh già chết… là pháp Hữu vi, nên tất cả Hữu vi thường thiêu đốt, thường khổ. Cái chết là Diệt hết, diệt hết nầy tức là hữu vi. Nếu là hữu vi, nên biết sự lập Pháp thân của ông không được là thường, đã là phi thường thì nghĩa của ông làm sao lập được? Vì sao? Vì nghĩa của ông chấp tối tĩnh làm động, tối lạc là khổ, nên không đúng. Nếu ông nói: “Từ đây một lần diệt thì không bao giờ sinh lại nữa, làm Niết-bàn”, nghĩa đó không đúng. Vì sao? Vì không lìa các lỗi trước. Ông nói: “Vĩnh diệt hẳn là sinh tử diệt không khác nhau”, nghĩa đó không đúng! Nếu ông nói: “diệt hẳn là Niết-bàn”, thì đạo cũng phải thành Niết-bàn. Vì sao? Vì không có một lần diệt rồi không bao giờ sinh lại, không có pháp nầy. Nay tôi tùy theo ý ông nói mà tôi muốn có diệt nầy, nếu có diệt nầy thì không bao giờ thể lìa các lỗi trước.

Lại nữa, sau khi đạo diệt thì phiền não cũng không sinh lại, nếu cho diệt hẳn là Niết-bàn, thì đạo dụng đó diệt lẽ ra là Niết-bàn.

Lại nếu ông nói: “Năng diệt là Niết-bàn”, thì không có Niết-bàn riêng để làm năng diệt, chỉ lấy đạo dụng chính là làm năng diệt, nên biết đạo thể đáng lẽ có thể làm diệt. Nếu ông nói: “Phiền não bất sinh là Niết-bàn”, nghĩa đó không đúng. Vì sao? Vì không tránh khỏi hai thứ lỗi. Nếu phiền não không sinh thì tức là đồng thể với diệt hết , như lỗi năm hỏi vặn của tử diệt ở trước. Nếu là bất sinh, thì tại trước đạo hay sau đạo? Nếu trước đạo thì khi chưa Tu đạo, đáng lẽ đã đắc Niết-bàn, vì Tu đạo vô dụng. Nếu sau đạo thì thuộc vị lai, vượt quá nghĩa của ba đời, nên không thành lập.

Lại nữa, nếu ông lập vô sinh, thì nghĩa đó thế nào? Đó là hữu hoặc mà vô sinh, hay là vô hoặc mà vô sinh? Nếu phiền não có thì chẳng có vô sinh. Vì sao? Vì hai pháp hữu vô không được đồng thời cùng xứ. Ví như một người khi đi thì không đứng, khi đứng thì không đi, vì hai pháp trái nhau nên đi và đứng không được đồng thời, nên biết khi phiền não còn thì không được lập, vì không có sinh. Nếu không có phiền não mà lập vô sinh, lúc đó phiền não đã không có thì dựa theo ai mà nói về vô sinh! Ví như người ta nói con của gái bất dục không thể sinh con!

Lại nữa, ông lập phiền não vô sinh, đó là vật mà có hay phi vật mà có ? Nếu là vật mà có, thì như bốn đại… có thật pháp, có giả danh, những thứ nầy là hữu vật. Nếu phi vật mà có, thì như hoa đốm, sừng thỏ, rõ ràng tự nó không có, nên nói phi vật mà có. Nếu nói là hữu vật, thì do sự thành của bốn duyên. Sự thành của bốn duyên không có nghĩa sinh thì không lập, vì nghĩa đó nên Hữu vi và vô vi thì không có sai khác.

Nếu ông nói: “Là vật mà có, không phải bốn duyên làm thành”, tức là đồng với sự chấp tự tánh, lân hư, ngã, thời phân… của tà kiến ngoại đạo. Nêu ông nói: “Phi hữu vật là Niết-bàn”, thì chỉ có danh tự, như người ta nói sừng thỏ bén nhọn. Nếu như thế thì đồng với việc phá ở trước, tức là Tu đạo vô dụng.

Ngoại đạo hỏi: Nếu không chấp lấy vô sinh làm Niết-bàn, thì vì sao Phật nói vô sinh diệt hết làm Niết-bàn?

Đáp: Đạo nói theo Niết-bàn có thể làm cho phiền não vị lai không sinh hiện tại, trong diệt nhân mà nói quả nên gọi Niết-bàn là vô sinh diệt hết.

Ngoại đạo hỏi: Vì sao quả nói là tên của nhân, mà không trực tiếp lấy chính tên của quả thể?

Đáp: Vì rất nhỏ nhiệm. Trong tất cả pháp, không pháp nào có thể nhỏ nhiệm hơn Niết-bàn, do đó nếu đắc pháp nầy thì các hoặc như dục… Diệt mất, không sinh lại nữa, nên mượn thô danh nầy để hiển lý tế, vì tướng của lý có thể biết, nên trong kinh nói như vậy.

Hỏi: Làm sao biết Niết-bàn nầy rất nhỏ nhiệm?

Đáp: Đại tiên không ưa nói pháp, cái biết của Thánh trí Vô phân biệt, Đại sư quán Niết-bàn rất nhỏ nhiệm, quán căn tánh chúng sanh không tương xứng, nên Phật tâm hồi hướng vắng lặng nhập Niết-bàn, không muốn nói pháp, nên kinh nói: “Ta thà không nói pháp, mau chóng nhập Niết-bàn”. Cái biết của Thánh trí vô phân biệt, như kinh Ma-Kiện Trì nói: “Bạch Đức Thế tôn! Nếu Niết bàn là có thật nay con tự có thông minh lợi trí, vì sao không thấy? Phật nói: Niết-bàn thật có, nay ông chưa đắc Thánh trí Vô phân biệt nên không thấy được, vì rất nhỏ nhiệm nên không phải cái đắc của văn tuệ, vì chân thật nên không phải cái đắc của tư tuệ, tư tuệ song song có thể thông đạt Chân đế và Tục đế, nhưng không thể đắc chu toàn đối với cõi của diệu lý vô tư; vì rất sâu nên không phải cái đắc của tu tuệ, tu tuệ chỉ đắc lý cạn, chưa có thể thông đạt lý sâu xa”. Vì nhỏ nhiệm nầy không phải ngôn ngữ có thể nói được, nên mượn thô danh để hiển bày diệu lý, do sự thấy của Thánh trí Vô phân biệt, nên câu nói “nhỏ nhiệm” được thành.

Ngoại đạo hỏi: Nếu Niết-bàn là điều mà Tu đạo sở đắc, thì cùng với người chưa thể Tu đạo không tương ưng. Đã không tương ưng nên không chung, nếu không cùng chung thì vô thường?

Đáp: Nếu từ đây về trước là không có, về sau là có, thì có thể nói là vô thường, nhưng không có nghĩa nầy, vì mé trước nên nói vô sinh. Nếu ông nói: “Khi chưa Tu đạo thì không thể đắc nên không có vô sinh”, nghĩa đó không đúng. Vì sao? Vì không phải sự sinh của đạo, nên pháp nầy phải nói theo đạo để đắc năng sinh của phi đạo, do đó khi chưa tu thì không thể được nói là không có, nên nghĩa vô sinh được lập. Vì không có mé sau nên vô diệt, trung tế không có nghiệp phiền não nên không có đổi khác. Vì không có ba lỗi sinh dị diệt nên nói thường trụ, không đồng với ngoại đạo lấy vô nhân, nên chỉ có một tên là thường trụ. Chánh nghĩa, thì không lấy nhân làm thường trụ, như Niết-bàn không do nhân mà có, ông cho: “Lân hư… cũng không do nhân mà có”, không có nghĩa như vậy. Vì sao? Vì Niết-bàn lìa hữu lìa vô, bốn thứ hủy báng không đến được, vì không do nhân mà đắc là thường. Ông chấp Lân Hư đã là hữu, vì hữu nên không đắc vô nhân, mà là đắc hữu nhân, tức là vô thường. Nếu ông nói: “Niết-bàn không có ba lỗi nên thường trụ, lân hư… cũng không có ba lỗi nên cũng thường trụ”, nghĩa đó không đúng. Vì sao? Vì nghĩa tướng làm chứng của ông không thành tựu! Niết-bàn thường trụ không cùng với Lân Hư là đồng tướng hay dị tướng, vì lân hư… là hữu phân biệt, không có nghĩa làm chứng được thành Niết-bàn, là vô phân biệt nên Niết-bàn thường trụ. Lân hư… thường trụ thì không được thành lập. Lại nữa, lân hư… cũng không thành tựu. Vì sao? Vì nhóm xúc không thành nên nghĩa của xúc cũng không thành, vì bốn đại không tương ưng. Nếu nhóm cũng không thành tựu vì tướng thô, nên đều không phải lân hư trần. Nếu lìa Niết-bàn thì không có một pháp nào thường trụ, vì Niết-bàn thật có thường trụ, vì nói theo phương tiện mà được giải thoát. Do đó Tu đạo không vô dụng. Cho nên nếu có Niết-bàn thì mé trước… Không có, nên biết thường trụ vượt hơn tướng sắc… Do đó nói phi sắc; không lìa sắc tướng như mát mẻ… nên nói phi phi sắc, là sự đắc đại công dụng của trí Vô phân biệt nên nói thật có nhân; là sự thành tựu xuất thế của đại tinh tấn, là sự đắc đạo của Phật, nên biết là thật có. Như trong kinh nói: “Này Tỳ-kheo! Pháp đó thật có, không sinh không khởi, không tạo tác Vô vi, nên biết Niết-bàn thật thường trụ. Pháp nầy là chuyển y của Như lai, nên gọi là gồm nhiếp chung, cũng gọi là tương ưng”.

 

Phẩm thứ 6: PHÂN BIỆT

Lại nữa, phải biết tướng nghĩa của phân biệt. Phân biệt, là tánh Như lai, hiển rõ tất cả pháp; như như thanh tịnh là tướng chung của phân biệt. Như điều nói trong kinh Bát-nhã: “Nhất thiết pháp, tức là pháp của ba tánh. Như như, là tục như tức chân như, chân như tức tục như, vì hai như chân tục nầy không khác nhau”. Thanh tịnh, có hai thứ: 1. Như như trong nhân, chưa đắc như như của quả địa vô cấu, nhưng không cấu uế trở lại. 2. Nhân quả câu tịnh, trong nhân là vô nhiễm thanh tịnh, đến quả vô cấu thanh tịnh. Như các nghĩa nầy là tướng chung của Phật tánh, vì hiển nghĩa nầy nên Phật nói các kinh Bát-nhã Ba-la-mật. Trong Phật tánh đó, phân biệt chúng sanh có ba thứ: 1. Không chứng thấy Phật tánh, gọi là phàm phu. 2. Có thể chứng thấy Phật tánh, gọi là bậc Thánh. 3. Chứng đến lý nầy thanh tịnh rốt ráo, gọi là Như lai.

Lại nữa, theo Phật tánh nầy, sự dụng của chúng sanh có ba thứ: 1. Điên đảo làm sự. 2. Vô điên đảo làm sự. 3. Vô điên đảo vô tán loạn hữu biệt pháp là chánh sự. Điên đảo, là tất cả phàm phu. Vô đảo, là tất cả bậc Thánh Hữu học. Vô đảo tán, là Pháp thân sau đạo. Pháp hữu biệt làm chánh sự, là ứng thân và hóa thân, vì độ chúng sanh đều do bổn nguyện lực của đại bi. Nói điên đảo, là tất cả phàm phu có ba đảo: 1. Tưởng. 2. Kiến. 3. Tâm. Tức là ba thứ da phiền não, thịt phiền não và phiền não tâm. Hai vô đảo, là vô hoặc và vô hành, tức là tất cả bậc Thánh Bồ-tát Hữu học. Hoặc đảo: Là trái nghịch chân như, khởi tất cả phiền não, gọi là hoặc đảo. Hạnh đảo, là người hai thừa phải tu thường, lạc… bốn đức, trái với bốn điên đảo, hành đạo Bồ-tát, nhưng hiện tại không tu, chỉ tu Vô thường, khổ… làm nhân giải thoát, nên gọi là hạnh đảo, giải thích nầy không có hạnh riêng tu một phía của Tiểu thừa, vì lìa hai đảo. Nói ba vô đảo tán pháp hữu biệt làm chánh sự của bậc Thánh Đại thừa Hữu học, là diệt trừ ba chướng của Thiền định, Giải thoát, Nhất thiết trí. Pháp giới trong lặng tịch tịnh, vô cấu không xả chánh sự, bổn nguyện đại bi hằng hóa độ chúng sanh gọi là Như lai, nên Theo tánh nầy mà phân biệt chúng sanh, gọi là tướng phân biệt.

 

Phẩm thứ 7: GIAI VỊ

Lại nữa, phải biết nghĩa tướng của giai vị. Nghĩa của giai vị, là trong các thứ pháp môn, nếu có phân biệt rộng nói pháp giới vô lưu thì cũng không ngoài sáu thứ:

  1. Tự tánh.
  2. Nhân.
  3. Quả.
  4. Sự.
  5. Gồm nhiếp chung.
  6. Phân biệt.

Vì hiển bày tự thể của giới vô lưu, nên trước hết nói tự tánh. Vì nói theo tánh nầy mà khởi bốn thứ như tin ưa… thắng nhân, do nhân nầy mà đắc quả của bốn đức thường trụ… Do Phật tánh nên sanh chán ghét sinh tử, ưa cầu Niết-bàn mà sự dụng được thành. Do tự tánh nầy mà đắc lìa dục, đắc nhân lìa dục gọi là gồm nhiếp chung; Theo Phật tánh mà đắc phân biệt ba thứ chúng sanh, chỗ đã tám vạn bốn ngàn pháp môn của Như lai, làm sự gồm nhiếp của sáu thứ, thứ tự trong ba vị.

Ba vị là:

  1. Vị bất tịnh, là thế giới chúng sanh.
  2. Vị tịnh, là Bồ-tát địa.
  3. Vị tối thanh tịnh, tức là Phật địa.

Cho nên trong kinh vô thượng y nói: “Này A-nan, là pháp giới Như lai, sự che ẩn vô lượng vô biên các khối phiền não, theo dòng sinh tử, nổi chìm trong sáu đường, vô thỉ trôi lăn, ta nói đó là chúng sanh giới. Này A-nan, là chúng sanh giới, đối với khổ sinh tử khởi chán lìa, trừ dục sáu dục trần, nói theo sự gồm nhiếp của tám mươi bốn ngàn pháp môn các Ba-la-mật, Tu đạo Bồ-đề, ta nói đó là Bồ-tát. Này A-nan, là thế giới chúng sanh, đã được thoát khỏi vỏ phiền não, vượt qua tất cả khổ, tẩy trừ cấu uế, pháp rốt ráo như thế, thanh tịnh trong suốt, là điều mà chúng sanh mong thấy. Vi diệu thượng địa, Nhất thiết trí địa, Nhất thiết vô ngại, nhập vào đó mà trụ, đến không gì có thể sánh thì đã đắc pháp năng lực tự tại hoàn toàn của vương , ta nói đó là Như lai”.

 

Phẩm thứ 8: ĐẦY KHẮP

Lại nữa, phải biết tướng đầy khắp . Đầy khắp, là phàm phu, bậc Thánh và các Như lai. Tánh vô phân biệt thứ tự trong ba vị: 1. Điên đảo luống dối. 2. Vô đảo Thánh đạo. 3. bốn đức thanh tịnh rốt ráo. Ba xứ nầy tướng bình đẳng thông đạt, đều tùy theo đạo lý mà đầy khắp. Ví như hư không trong các vật đất, bạc, vàng… đều đầy khắp bình đẳng không có sai khác, pháp giới của Như lai đầy khắp trong ba vị cũng giống như vậy, nên từ vị thứ tự mà nói đầy khắp nầy, như kinh Vô Thượng Y nói: “Này A-nan, là Như lai giới trong ba vị, tất cả xứ… đều không có trở ngại, xưa nay vắng lặng, ví như hư không, tất cả sắc chủng không thể che khuất, không thể lấp đầy, nếu xứ hư không của các vật như, bạc, vàng đều không chướng ngại, thì đó gọi là đầy khắp.

 

LUẬN PHẬT TÁNH

QUYỂN 4

PHẦN THỨ 4: BIỆN TƯỚNG (Tiếp Theo)

Phẩm thứ 9: VÔ BIẾN DỊ

Lại nữa, phải biết nghĩa vô đổi khác. Chia ra có sáu nghĩa, hợp chung thì thành ba nghĩa. Phân ra có sáu nghĩa:

  1. Vô tiền mé sau đổi khác.
  2. Vô nhiễm tịnh đổi khác.
  3. Vô sinh đổi khác.
  4. Vô chuyển đổi khác.
  5. Vô y trụ đổi khác.
  6. Vô diệt đổi khác.
  7. Vô tiền mé sau đổi khác:

Phật nói cho Bồ-tát Hải Trí, kệ trong kinh Giải Tiết có bài kệ rằng:

Vì khách trần tương ưng,
Có đức của tự tánh,
Như trước, sau cũng vậy,
Là tướng không đổi khác.

Lại nữa, giải thích trong vị bất tịnh, có chín thứ khách trần, chẳng bị nhiễm ô, nên bất tịnh. Trong vị tịnh, bốn đức thường lạc ngã tịnh và công đức nhiều như số cát sông hằng của Như lai, vì hằng tương ưng nên nói tánh Như lai trước sau đều không có đổi khác. Nếu lược nói thì tất cả phiền não khách trần gồm có chín thứ: 1. Tùy miên tham dục phiền não. 2. Tùy miên sân. 3. Tùy miên si. 4. Tham sân si cực trọng thượng tâm hoặc. 5. Vô minh trụ địa. 6. Sở diệt của kiến đế. 7. Sở diệt của tu tập. 8. Bất tịnh địa. 9. Tịnh địa hoặc. Nếu phiền não ở thế gian trong chúng sanh lìa dục nối tiếp, làm nhóm nhân của nghiệp bất động tăng trưởng thì có thể sinh cõi Sắc và cõi Vô sắc, bị trí xuất thế Vô phân biệt diệt, gọi đó là ba độc của tùy miên dục sân si…

Giải thích: Nói “phiền não tại (còn)”, có hai thứ: 1. Hữu thể nói tại. 2. Vô thể, là y Theo nhân tại nên nói tại. Thể tại tức là kiến đế, vì tùy miên chưa được trị đạo nên nói tại. Dựa theo nhân tại, tức là tư duy tùy miên, vì đã đắc trị đạo, dùng tư duy dụng và kiến đế làm nhân. Tư duy tuy diệt, nhưng do có kiến đế làm nhân tư duy nên nói nhân tại. Tư duy thì do kiến đế mà sinh, nếu trừ bỏ nhân của tư duy, thì có kiến đế hoặc căn bản tồn tại, sau đó lại có thể sinh hoặc của tư duy, nên nói tư duy nhân tại. “Nhóm nhân của nghiệp bất động tăng trưởng”, có hai thứ: 1. Tư duy có thể thành nghiệp. 2. Kiến đế có thể đắc quả. Vì sao? Vì dứt tận tư duy thì nghiệp không thành; dứt hết kiến đế thì không chiêu cảm quả, nên nói nghiệp bất động làm tăng trưởng nhóm nhân, vì có thể sinh cõi Sắc và cõi Vô sắc.

“Bị trí xuất thế Vô phân biệt diệt”, có hai thứ diệt: 1. Tánh diệt. 2. Trị đạo diệt.

1. Tánh diệt có hai thứ:

a.1) Niệm niệm diệt.

a. 2) Trái nhau diệt.

Trái nhau diệt lại có hai thứ:

b.1) Đẳng loại trái nhau, như tham trái với sân…

b.2) Bất đẳng loại trái nhau, như chánh tư duy trái với dục, sân…

gọi đó là tánh diệt.

2. Trị đạo diệt, có hai thứ:

a.1) Đạo chung.

a.2) Đạo riêng. Đạo chung, là quán chân như diệt phiền não trong ba cõi. Biệt đạo, là như quán bất tịnh… có thể diệt các phiền não tham sân… như khổ đế quán thì diệt hoặc của khổ đế, không diệt hoặc Tập đế, gọi là tùy miên dục sân si…

1. Ba độc (tham sân si) cực trọng thượng tâm hoặc: Là có các phiền não tại dục hạnh trong chúng sanh nối tiếp, là nhóm nhân của hai hạnh tội phước tăng trưởng, chỉ sinh cõi Dục, tu chỗ phá của quán bất tịnh, gọi đó là tham sân si cực trọng thượng tâm phiền não.

2. Vô minh trụ địa, là trong A-la-hán nối tiếp, là nhóm nhân của nghiệp vô lưu sinh, có thể sinh là sinh thân của ý, là chỗ phá của Bồ-đề Như lai, gọi đó là vô minh trụ địa hoặc. A-la-hán y theo quán an lập đế có thể phá trừ các phiền não, vô minh trụ địa nầy là chỗ có thể phá trừ quán phi an lập đế, cũng ở trong A-la-hán nối tiếp, làm nhóm nhân của nghiệp vô lưu sinh. Chữ “lưu” trong câu “nhóm nhân của nghiệp vô lưu sinh”, có ba nghĩa: 1. Lưu nhập ba cõi sinh tử. 2. Lui sụt, như lui sụt cõi Dục mà lưu nhập cõi Sắc, hoặc mất cõi Sắc mà lưu nhập xuống cõi Dục, là tùy theo sinh tử mà không nhất định ở một chỗ nào, nên gọi là lưu. 3. Lưu thoát công đức gốc lành mà mất giới định tuệ, như bờ đê bị vỡ thì nước chảy qua. Không có ba thứ lưu nầy nên gọi là vô lưu. “Nghiệp”, nghĩa là tác ý. Ý nghiệp nầy có thể sinh bốn thứ sinh tử. “Bị Như lai Bồ-đề phá”, Bồ-đề Như lai là phi an lập đế quán, gọi là Bồ-đề Như lai , nhân theo đạo nầy mà có thể diệt hoặc nầy nên gọi là vô minh trụ địa.

3. Chỗ diệt của Kiến đế, có hai loại người Hữu học: 1. Phàm phu. 2. Bậc Thánh. Hoặc nầy tại học đạo trong phàm phu nối tiếp, từ vô thỉ đến nay chưa từng thấy lý, do bị phá ban đầu của Thánh đạo gọi là Kiến đế.

Giải thích: “Học đạo trong phàm phu nối tiếp”, là nếu Tiểu thừa thì từ Noãn, Đảnh, Nhẫn, Thế pháp, bốn pháp nầy là học đạo phàm phu vị, Kiến đế tùy miên chưa có thể diệt nên nói “tại trong đó”. “Vô thỉ thời tiết chưa thấy”, là từ vô thỉ đến nay là điều chưa từng thấy an vui Thánh đế của đạo nầy nên nói “chưa hể được thấy”. “Bị Thánh đạo xuất thế đầu tiên phá”, là bắt đầu từ khổ pháp nhẫn là đạo của niệm ban đầu, có thể phá phiền não gọi là Kiến đế, từ đây về sau đều thuộc tư duy. Quán bình đẳng, là có lợi có độn. Nếu người lợi căn thì trong một niệm bình đẳng quán bốn đế, tám mươi tám hoặc đồng thời đều dứt, đều gọi là Kiến đế. Nếu là người độn căn, thì đối với thứ tự mà quán, là niệm ban đầu quán khổ đế, không thấy ba đế kia, chỉ dứt khổ của bốn đế cõi dưới, gọi là Kiến đế, các pháp còn lại chưa dứt thì đều thuộc tư duy, gọi đó là “sự diệt hoặc của Kiến đế”. Nếu Đại thừa thì đó là các vị mười tín… “bậc Thánh”, là từ Sơ địa trở lên.

1. Hoặc do tu đạo diệt, là trong bậc Thánh nối tiếp học đạo, trước kia đã từng thấy sự phá trừ của Thánh đạo xuất thế, gọi đó là hoặc do tu đạo diệt.

2. Bất tịnh địa: Hoặc là ở vị hạnh rốt ráo trong Bồ-tát nối tiếp, đối với chướng Bồ-tát bảy địa bị phá đối chướng của đạo vô tướng vô công dụng.

Giải thích: Bảy địa tức là trước bảy địa trở lại. Đạo vô tướng vô công dụng, tức là tám địa trở lên. Vô tướng, tức là cảnh chân như. Vô công dụng, là đạo tự nhiên thăng tiến, gọi đó là bất tịnh địa hoặc.

3. Tịnh địa hoặc: Là tại hạnh rốt ráo trong Bồ-tát nối tiếp, có thể chướng ba địa từ tám địa trở lên, ví như bị phá trừ của Định Tuệ Kim Cương. Nói “rốt ráo”, là Bát địa trở lên thấy cảnh đều khắp, không trở lại điều chưa thấy của các cảnh khác, nên gọi là rốt ráo, nhưng phương tiện do có cạn sâu, nên các địa có khác nhau.

Phân biệt phiền não có chín thứ nầy, dựa theo phiền não ấy mà lập chúng sanh có bốn thứ: 1. Phàm phu. 2. La-hán. 3. Hữu học. 4. Bồtát. Bốn loại chúng sanh nầy nói theo quả vô lưu, do bốn phiền não nên bất tịnh. Chúng sanh thứ nhất do bốn phiền não mà bất tịnh. Chúng sanh thứ hai do một phiền não mà bất tịnh. Chúng sanh thứ ba do hai phiền não mà bất tịnh. Chúng sanh thứ tư do hai phiền não mà bất tịnh. Phàm phu thứ nhất do bốn hoặc, là ba thứ trước: 1. Tùy miên tham dục phiền não. 2. Tùy miên sân. 3. Tùy miên si. Và thứ tư kế sau: 4. Ba độc cực trọng thượng tâm hoặc. 1. bốn hoặc nầy mà bất tịnh. 2. Do một hoặc, tức là La-hán do vô minh trụ địa mà bất tịnh. 3. Do hai hoặc, là Kiến đế tư duy, tức là bậc Thánh Hữu học và phàm phu học đạo. Phàm phu do Kiến đế phiền não mà bất tịnh, Hữu học bậc Thánh do tư duy phiền não mà bất tịnh, đó là do hai hoặc. 4. Do hai hoặc, là tịnh và bất tịnh, tức là từ Sơ địa trở lên đến Bồ-tát bảy địa, do bất tịnh địa hoặc mà bất tịnh. Nếu từ tám địa trở lên ba địa sau do tịnh địa hoặc mà bất tịnh thì gọi là do hai hoặc mà nói bất tịnh.

Lại nữa, vì hiện chín thứ phiền não mà lập chín thí dụ:

1. Vì hiển phiền não tham dục mà lập hoa sen hóa Phật làm thí dụ. Thí dụ như hoa sen khi mới nở thì rất đáng yêu thích, nhưng sau khi héo úa, người ta chán ghét nó. Tham dục cũng vậy, ban đầu thì dựa vào trần mà thành, sau đó dựa vào trần mà hoại, nên dùng hoa để dụ cho tham, nhưng khi hoa hoại rồi thì hóa Phật ra đời, như tham che lấp Pháp thân.

2. Vì Sân phiền não nên lấy con ong làm thí dụ. Ví như con ong, bị người khác chạm vào thì có chích nọc độc vào người. Sân cũng vậy, nếu tâm khởi sân thì liền có thể tự hại, cũng có thể hại người , nhưng có mật ngọt, tức là thí dụ Pháp thân bị sân che lấp.

3. Vì vô minh hoặc mà lập thức ăn trong hạt thóc làm thí dụ. Thí dụ như hạt gạo trắng bị vỏ trấu che lấp, không thọ dụng được. Pháp thân cũng vậy, bị vô minh che lấp nên không được hiển hiện.

4. Vì ba thứ phiền não của thượng tâm mà lập vàng rơi vào chỗ bất tịnh làm thí dụ. Thí dụ như vàng báu tinh sạch, bị phẩn uế bôi lên, trái với lòng người. Người lìa dục cũng giống như vậy, vì thượng tâm phiền não trái nghịch ý người, nên nói thí dụ nầy. Pháp thân xưa nay vốn thanh tịnh, nhưng bị thượng tâm hoặc che lấp, nên nói bất tịnh.

5. Vì hiển vô minh trụ địa nên lập ví dụ cô gái nghèo được kho báu. Thí dụ như trong nhà của cô gái nghèo, dưới đất có cất giấu vàng báu, bị đất che lấp nên bị nghèo cùng khốn khổ. Hai thừa cũng vậy, bị vô minh che lấp không thấy quả Phật, nên chịu bốn thứ sinh tử khổ.

6. Vì hiển bài Kiến đế hoặc nên lập hạt của Yêm-la làm thí dụ. Thí dụ như hạt yêm-la khi nẩy mầm, vỏ hạt nứt ra thì mầm mới mọc được, vỏ hạt dụ cho Kiến đế, mầm dụ cho Pháp thân. Kiến đế cũng vậy, ban đầu là thấy chân lý, rồi sau mới phá hoặc nầy, Pháp thân được hiển hiện.

7. Vì hiển tư duy hoặc nên lập thí dụ vàng báu trong bao rách. Dụ như chiếc áo rách không còn mặc được, thân kiến chân thật từ trước đến nay đã bị phá, vì Thánh đạo đối trị niệm niệm huân tập. Thế lực của phiền não không còn, là dụ cho chiếc áo rách kia, vàng báu là dụ cho Pháp thân bị tư hoặc ngăn che.

8. Vì hiển Hoặc bất tịnh địa nên lập thí dụ cô gái nghèo mang thai vương tử . Thí dụ như con của chuyển luân trong thai cô gái nghèo, thai không thể ô uế. Bảy địa trở xuống, phiền não cũng vậy, tuy gọi là phiền não, nhưng có ba đức: 1. Là sự hàm dưỡng của trí tuệ từ bi không nhiễm trược. 2. Không có lỗi vì không tổn hại tự tha. 3. Vô lượng công đức có thể thành thục pháp Phật và chúng sanh. Nếu nuôi dưỡng phiền não thì liền thành phàm phu, nếu dứt phiền não thì liền thành Nhị thừa, không thể thành thục chúng sanh.

9. Vì hiển tịnh địa Hoặc nên lập thí dụ tượng vàng trong khuôn. Thí dụ như đúc tượng vàng, khi chưa mở khuôn ra thì tượng đã thành thục, các vật như nước… không thể phá, chỉ có búa rìu… mới có thể phá. Hoặc của tám địa trở lên cũng vậy, chỉ có tâm kim cương mới có thể phá rốt ráo. Nhân theo ba thứ tự tánh để hiển tâm thanh tịnh giới, gọi là Như lai tạng, nên nói thí dụ về chín thứ như hoa sen… Ba thứ tự tánh: 1. Pháp thân. 2. Như như. 3. Phật tánh. Hợp chung với chín thí dụ nầy làm ba phần, ba thí dụ đầu thuộc Pháp thân, một thí dụ kế thuộc như như, năm thí dụ sau thuộc Phật tánh.

Hỏi: Thế nào như ở đây nói?

Đáp: Pháp thân Chư Phật có hai thứ: 1. Chánh đắc. 2. Chánh thuyết. Nói:

“1. Pháp thân chánh đắc”, thì pháp giới tối thanh tịnh là trí cảnh Vô phân biệt, đương thể của Chư Phật là pháp tự sở đắc của chư Phật.

“2. Pháp thân chánh thuyết”, là đắc Pháp thân trong pháp giới thanh tịnh chánh lưu từ như sự hóa độ chúng sanh, thức sinh, gọi là Pháp thân chánh thuyết.

Pháp thân chánh thân có hai thứ: 1. Sâu xa. 2. Thô thiển. Để an lập hai đạo lý nầy:

    1. Sâu xa, là vì an lập đạo lý Đại thừa.
    2. Thô thiển, là vì người hai thừa mà nói đạo lý nầy.

Lại nữa, đệ Nhất nghĩa đế vì an lập pháp tạng sâu xa của Bồ-tát, y theo đế chân tục mà an lập các thứ pháp tạng như nhị thừa mười hai bộ…

Giải thích: “1. Chánh đắc Pháp thân”: Thể là chân như, thế gian không có vật nào để làm thí dụ, nên lại lấy Phật tượng trong hoa làm thí dụ. “2. Chánh thuyết sâu xa Pháp thân”, vì chân như một vị, nên lấy mật ong làm thí dụ. “3. Thô thiển chánh thuyết Pháp thân”, vì hiển bày các thứ nghĩa vị của chân tục, nên lấy hạt gạo trong vỏ trấu làm thí dụ, do ba dụ nầy mà hiển Pháp thân chánh đắc và Pháp thân chánh thuyết. Ba Pháp thân đó đầy khắp gồm nhiếp tàng không sót tất cả thế giới chúng sanh , nên trong kinh nói: “Không có chúng sanh nào ra ngoài Pháp thân Như lai, cũng như không có một sắc nào ra ngoài hư không”.

Lại nữa, một thí dụ vàng bị rơi xuống chỗ bất tịnh, là thí dụ cho như như. Như như có ba nghĩa, nên lấy vàng làm dụ: 1. Tánh vô đổi khác. 2. Công đức vô cùng. 3. Thanh tịnh không hai. Tự tánh cũng như, không đổi khác, công đức cũng như, vì không có thêm bớt, thanh tịnh cũng như, không có nhiễm ô. Nên nói như như là chân như, như trong tất cả chúng sanh nhóm tà định và Nhất-xiển-đề vốn không sai khác, hoặc đến sau khi khách trần bị diệt thì gọi tên là Như lai tạng, nên nói tất cả chúng sanh là Như lai tạng, có thể tàng chứa Như lai chưa được hiển hiện. Để hiển bày thanh tịnh không hai ấy, nên Phật nói kinh nầy: “Này Văn-thù-sư-lợi! Chư Phật đã xuất ly ngã thủ căn bản. Do tự tánh thanh tịnh nầy, lẽ ra tất cả chúng sanh thanh tịnh, vì tự tánh thanh tịnh đó cùng với chúng sanh thanh tịnh không hai”. Để hiển chân như nầy nên Phật nói thí dụ vàng sau năm thí dụ Phật tánh. Phật tánh có hai thứ: 1. Trụ tự tánh. 2. Dẫn xuất tánh. Ba thân Chư Phật, nhân theo hai tánh nầy mà được thành tựu. Để hiển tánh trụ tự tánh, nên nói thí dụ vàng giấu trong đất.

1. Phật tánh trụ tự tánh nầy có sáu đức nên thí dụ như kho báu:

a) Rất khó được: Phật tánh cũng vậy, đối với vô số hoàn cảnh khởi tâm chánh cần, nhân theo phước đức trí tuệ trang nghiêm đầy đủ thì mới hiển hiện, do nhân lành mới chiêu cảm.

b) Thanh tịnh vô cấu: Do Phật tánh và phiền não không nhiễm nhau, nên dụ cho ngọc báu như ý, không bị bất tịnh làm ô uế.

c) Oai thần vô cùng: là nói các công đức như sáu thần thông v.v… được tròn đầy. Ngọc báu như ý cũng vậy, tùy ý có thể thành tựu nên nói thí dụ kho báu.

d) Có thể trang nghiêm công đức gốc lành của tất cả thế gian, đối với tất cả xứ tương xứng. Ngọc báu như ý cũng vậy, có thể làm các thứ dụng cụ trang nghiêm thế gian.

e) Tối thắng: Là trong tất cả pháp không có pháp nào bằng, cũng ngọc báu như ý, qúy giá trong các vật nên nói kho báu làm thí dụ.

f) Trong tám thứ thế pháp không có đổi khác, vì mười thứ nhân thường trụ. Chân bảo cũng vậy, tuy thiêu đốt, đập, mài nhưng không thể thay đổi tự tánh của nó, nên lấy kho báu để dụ cho Phật tánh trụ tự tánh.

2. Dẫn xuất Phật tánh: Là từ mới phát tâm đến tâm Kim Cương, trong đó Phật tánh gọi là dẫn xuất. Nói “dẫn xuất”, gồm có năm vị: 1. Có thể ra khỏi vị Nhất-xiển-đề. 2. Có thể ra khỏi vị ngoại đạo. 3. Có thể ra khỏi vị Thanh văn. 4. Có thể ra khỏi vị Độc giác. 5. Có thể ra khỏi vị vô minh trụ địa của Bồ-tát. Pháp thân có thể phá trừ phiền não, thì công năng của nó hiển hiện. Trong thí dụ thứ sáu nói mầm của cây yêm-la để làm thí dụ, như mầm của cây đó có thể phá vỡ da thịt của hạt yêm-la để được nẩy mầm thành đại thọ vương.

Nói Phật tánh dẫn xuất cũng như mầm cây yêm-la có thể sinh làm đại thọ vương, vì y theo hai nhân nầy mà Phật nói quả của ba thân:

1. Nhân theo Phật tánh trụ tự tánh nên nói Pháp thân. Pháp thân có bốn thứ công đức, nên thí dụ thứ bảy nói vàng ròng trong bao vải rách. Bốn công đức: 1. Tự tánh hữu: Như vàng là vốn có, không phải sự tạo tác mà có. 2. Thanh tịnh: Như vàng vốn tinh sạch, bụi nhơ không thể nhiễm ô. 3. Làm chỗ nương của tất cả công đức: Như vàng khéo chiêu cảm các thứ vật quí. 4. Chỗ đạt bình đẳng: Là tất cả chúng sanh đều đồng phải đắc, như vàng không có chủ đích thật, mà nhiều người cùng có chung. Tùy theo công lực của người tu thì liền được, nên nói Pháp thân cũng như vàng ròng.

2. Nhân theo Phật tánh dẫn xuất mà nói ứng thân. Ứng thân có bốn công đức, nên trong thí dụ thứ tám như người nữ bần tiện có mang thai chuyển luân vương. Bốn công đức là: 1. Y chỉ: (nương dựa) là ba mươi bảy phẩm trợ đạo là chỗ nương. 2. Chánh sinh, là muốn đắc thì được đắc, tức là vị tri dục tri căn. 3. Chánh trụ: Là chánh đắc, tức là tri căn. 4. Chánh thọ dụng: Tức là tri dĩ căn. Hợp chung bốn nghĩa nầy, gọi là ứng thân. Như con của vua chuyển luân trong thai cũng có bốn nghĩa:

a. Lấy nghiệp đời trước làm chỗ nương. b. Chưa đắc ngôi vua thì muốn đắc như mới sinh. c. Chánh đắc ngôi vua thì như trụ. d. Đã đắc rồi thì không mất như thọ dụng. Cho nên ứng thân lấy vua chuyển trong thai làm thí dụ.

3. Nhân theo Phật tánh dẫn xuất: Lại nêu ra hóa thân. Hóa thân có ba việc: 1. Hữu tướng, như trăng đáy nước, lấy ảnh tướng làm thể. 2. Do công lực, vì là sự tạo tác của nguyện đời trước. 3. Hữu thỉ hữu chung, nên trong thí dụ thứ chín lấy tượng Phật trong khuôn làm thí dụ.

Giải thích: ba nghĩa: 1. Hữu tướng mạo, ví như bóng trăng, chỉ tương tự mà không chân thật. Hóa thân cũng vậy, vì không phải thật thể. 2. Do nhân công tạo tác, là thí dụ sự khởi nguyện đời trước của hóa thân. 3. Nói hữu thỉ hữu chung, là thân biến hóa tùy duyên biến hóa nên có thể hữu thỉ hữu chung. Lại nữa, lấy ba nghĩa nầy để hiển ba thân, nghĩa thứ nhất sâu xa, để hiển bày đối với Pháp thân. Sâu xa là thể nhỏ nhiệm, nên Pháp thân nầy đầy đủ năm tướng và năm công đức.

Năm tướng là:

1. Tướng vô vi: Là lìa bốn tướng tội lỗi sinh già bịnh chết.

2. Tướng vô một khác: Là Chân đế và Tục đế không phải một không phải khác. Tướng nầy lại có hai thứ: a. Y theo pháp mà luận nói. b. Y theo người mà luận nói:

“ Theo pháp mà luận biện là không phải một không phải khác”, vì chân là chung, không thể nói khác, vì tục là riêng, không thể nói nhất, như con ốc màu trắng, thì con ốc đó cùng với màu trắng không phải một không phải hai, nếu nói là khác, thì khi thấy (kiến thủ) ốc màu trắng thì lẽ ra không được biết con ốc, nếu nói là một, thì đáng lẽ không có hương vị xúc khác nhau, chỉ có màu trắng đó mà thôi.

“ Y theo người mà luận nói chân tục không phải một không phải khác”, nếu chân và tục là một thì người phàm thấy tục lẽ ra ra có cả chân, nếu thong với chân thì đáng lẽ là bậc Thánh, nhưng vì không thấy chân nên biết không phải một. Nếu nói khác, thì bậc Thánh thấy tục đáng lẽ không thông với chân, nếu thông với chân thì tức là phàm phu, vì bậc Thánh thấy nên không được là khác. Do đó không phải một không phải khác.

3. Tướng lìa hai bên: Vì có sáu thứ trung đạo có thể lìa sáu thứ hai bên. Sáu thứ là: 1. Chấp khả diệt diệt. 2. Chấp khả úy úy. 3. Chấp khả chấp chấp. 4. Chấp chánh và tà. 5. Chấp hữu tác vô tác. 6. Chấp bất sinh đồng sinh.

a) Chấp khả diệt diệt. Có người cho rằng: “Tất cả pháp rốt ráo có thể diệt”, gọi đó là một bên, “rốt ráo diệt hết, gọi đó là không”, lại là một bên nữa, nhân theo chấp riêng của hai bên nầy mà sinh kinh sợ, để lìa hai bên thiên chấp nầy mà Phật nói các pháp bất hữu, không thể diệt được, nhưng chẳng phải không có nên chẳng phải không diệt, phi diệt phi bất diệt gọi đó là Trung đạo, nên Phật lập hư không làm thí dụ, trong kinh bảo đảnh chép: “Này Ca-diếp! Ví như có người kinh sợ hư không, vỗ ngực kêu gào, nói như vầy: “Này bạn lành! Hãy vì tôi mà trừ diệt hư không nầy! Trừ diệt hư không nầy! Này Ca-diếp, ý thầy thế nào? Hư không nầy có thể trừ được hay không? Ca-diếp thưa: Bạch Đức Thế tôn, không thể được. Phật nói: Nầy Ca-diếp, nếu có Sa-môn hay Bàla-môn sợ tánh không như vậy, ta nói người đó cuồng loạn mất tâm. Vì sao? Này Ca-diếp, tất cả các pháp đều là không phương tiện, nếu kinh sợ không nầy thì làm sao không sợ tất cả pháp! Nếu không yêu tiếc tất cả pháp thì làm sao yêu tiếc không nầy”?!

Hỏi: Kinh nầy nói về nghĩa gì?

Đáp: Là nói về bản tánh phi hữu của tất cả pháp, nên nói pháp không chẳng liên quan đến pháp diệt rồi mới được không, nên đối với tánh không chẳng nên sinh kinh sợ, gọi đó là ly khả diệt diệt.

b) Chấp khả úy úy: hai bên nói lên phi năng diệt sở diệt trung đạo. Hai bên, là lấy tánh Phân biệt đã khởi sáu trần sắc, thanh… chấp làm thật khổ, đó là một bên, sinh tâm kinh sợ lại là một bên nữa. Đây là nhân theo tánh Y tha chấp tánh Phân biệt, trong đó kế chấp có thật khổ mà sinh kinh sợ. Vì lìa hai bên thiên chấp nầy muốn hiển Trung đạo, Phật đem họa sĩ làm thí dụ: “Này Ca-diếp! Ví như họa sĩ vẽ tượng lasát, tượng rất đáng sợ, họa sĩ thấy tượng tự sinh kinh sợ, che mặt không dám nhìn, điên cuồng mất tâm. Này Ca-diếp ! Như vậy phàm phu do tự tạo tác các trần như sắc thanh… lưu chuyển sinh tử, đối với pháp như vậy không thể thông đạt lý như thật”.

Hỏi: Thí dụ nầy để nói lên nghĩa gì?

Đáp: Để nói về các trần như sắc thanh… chẳng phải thật có, chỉ do vọng tưởng phân biệt, cũng như họa sĩ kia, tự nhìn tượng la-sát hung ác lại sinh kinh sợ. Người kia cũng vậy, từ trong không mà sinh kinh sợ.

Giải thích: Thí dụ thứ nhất là nói theo Thanh văn tiểu thừa, thí dụ thứ hai (hoạ sư) nầy là nói theo Đại thừa, thế nào là như những thí dụ nầy?

Đáp: Vì người Tiểu thừa trong chân như không tu tập quen nên sinh kinh sợ, người Đại thừa thì có thể thường tu tập không, nên không kinh sợ, như sư tử con, nghe tiếng sư tử rống thì không sinh kinh sợ. Nếu không hiểu rõ tánh Phân biệt và tánh Y tha thì chấp làm thật có, do đó bị nhiễm ô.

c) Khả Chấp chấp chấp hai bên. Phân biệt có thể chấp và năng chấp cho là thật có, để lìa hai bên nầy, trong kinh Phật lấy nhà ảo thuật làm thí dụ: “Này Ca-diếp! Ví như nhà ảo thuật làm các trò huyễn, có khi làm hổ trở lại ăn thịt nhà ảo thuật. Này Ca-diếp ! cũng vậy Tỳ-kheo quán hạnh tùy quán một cảnh chỉ hiển hiện hư không, thật ra không có gì cả hư không chẳng chân thật, làm sao có thể lìa được hai bên nầy? Do dựa vào ý thức mà sinh trí duy thức. Trí duy thức, tức là vô trần thể trí, nếu trí duy thức đó thành tựu thì có thể trở lại diệt ý thức trước kia của chính mình. Vì sao? Vì trần không có tự thể nên ý thức không sinh, ý thức không sinh nên duy thức tự diệt. Ý thức như nhà ảo thuật, trí duy thức như cọp huyễn, vì ý thức có thể sinh Duy thức, nên Duy thức quán thành thì trở lại diệt ý thức. Vì sao ? Do các trần như sắc… Không thật có, nên ý thức không sinh, ví như cọp huyễn trở lại ăn thịt nhà ảo thuật.

Như pháp sư Đề-bà nói kệ:

Ý thức gốc ba hữu,
Các trần chính là nhân,
Nếu thấy trần vô thể,
Có chủng tự nhiên diệt.

d) “Chấp hai bên chánh, tà”: Chánh là quán hạnh chân thật phân biệt trong vị thông đạt là chánh, khi chưa thông đạt trở xuống thì phân biệt làm tà. Để lìa hai bên nầy, lấy hai que gỗ làm cho sinh lửa để thí dụ, như trong kinh nói: “Này Ca-diếp! Ví như hai thanh gỗ cọ xát vào nhau liền có thể sinh lửa, khi lửa sinh thì đốt cháy hai thanh gỗ, như vậy chánh tướng quán hạnh chân thật cùng với tà tướng trị sinh căn Thánh trí, nếu căn Thánh trí thì trở lại trừ tà phân biệt và chánh phân biệt, ví như lửa sinh thì trở lại đốt cháy hai que gỗ, nếu hai que gỗ cháy hết thì lửa không có chỗ nương, tà chánh không hai nên nói Trung đạo.

e) “Chấp hai bên hữu tác, vô tác”: hữu tác, có người chấp: “Muốn tu trí tuệ thì trước phải khởi ý, sau đó thì sự thành”. Vô tác, có người chấp: “Trí tuệ thì vô sự vô năng. Vì sao? Do giải (hiểu) và hoặc đối nhau từ giải mà sinh nên hoặc tự nhiên diệt, không phải giải có thể trừ được, nên nói trí tuệ vô sự vô năng”. Để trừ hai chấp nầy nên lập dầu và đèn làm thí dụ. Như trong kinh nói: “Này Ca-diếp! Ví như đốt đèn, ánh sáng của đèn đã sáng lên thì bóng tối mới được xua tan, nên đèn sáng tuy không có tác ý, nhưng không có vô sự vô năng. Trí tuệ cũng vậy, không khởi ý là ta có thể dứt hoặc, nhưng cũng chẳng phải không do trí tuệ sinh mà hoặc được trừ diệt, nên biết trí tuệ không phải vô sự vô năng. Nếu nói tác ý thì ta có thể diệt hoặc, gọi đó là tăng ích, tức là bên hữu tác ; nếu nói khi trí tuệ khởi thì vô minh tự diệt không do trí tuệ, gọi đó là tổn giảm, tức là vô tác . Để trừ hai bên nầy, nên nói trí tuệ sinh bất tác ý. Tác ý và bất tác ý không phải tác nên không thêm, không phải bất tác nên không bớt, gọi đó là Trung đạo.

f) Chấp bất sinh đồng sinh hai bên:

1. Chấp bất sinh, ví như phàm phu trong nối tiếp, phiền não hằng khởi không hề sinh đạo, do hoặc chướng ngại, vị lai cũng vậy, nên biết không bao giờ giải thoát, là một bên.

2. Đồng sinh, nói về các hoặc từ thời vô thỉ lâu dài vốn có, nếu đối trị đạo và hoặc đồng thời khởi thì có thể diệt hoặc, nếu đạo mới sinh, thì đạo lực nầy yếu, không thể diệt hoặc, nên biết không bao giờ giải thoát.

Để lìa hai bên nầy, nên Phật nói cái đèn thứ hai làm thí dụ: “Này Ca-diếp! Như hang núi cao hiểm tối hoặc miếu, đền, phòng ốc… tối tăm vô số nghìn năm không hề có người đốt đèn soi rõ. Nếu có người có thể trong đó đốt đèn thì được thành hay không? Ca-diếp đáp: Được thành. Phật nói: Nầy Ca-diếp! Bóng tối trong đó nghĩ: Ta ở đây đã lâu, bây giờ ta không đi! Bóng tối đó có thể nghĩ như vậy không? Ca-diếp đáp: Bạch Thế tôn! Không thể. Vì sao? Vì ánh sáng của đèn đã thành, thì bóng tối nhất định phải đi. Phật nói: Nầy Ca-diếp! Cũng vậy phiền não và nghiệp từ vô số kiếp đến nay trong chúng sanh nối tiếp, nếu chúng sanh nào sinh một niệm chánh tư duy, thì phiền não lâu đời đều tự trừ diệt. Này Ca-diếp! Ánh sáng của đèn đó, thí dụ cho trí Vô phân biệt của Thánh; tối tăm kia dụ cho nghiệp phiền não của chúng sanh. Do thí dụ đèn nầy mà phá chấp đạo bất sinh. Vì sao? Vì đạo nói theo nhân duyên mà sinh, nếu nhân duyên chưa hợp thì đạo không được sinh, nếu nhân duyên đầy đủ thì đạo liền sinh, như sau khi đốt đèn thì bóng tối mới diệt. Dụ ám diệt , là phá chấp đồng sinh, vì phần tối suy yếu nên có thể diệt, là cảnh giới không có điên đảo, vì bạch tịnh rất mạnh, có cảnh chân thật, không có điên đảo, gọi đó là sáu thứ hai bên, để hiển sáu thứ Trung đạo.

4. Tướng Ly chướng: Chướng có ba thứ: 1. Chướng Phiền não: Có thể lìa chướng nầy thì đắc A-la-hán tuệ giải thoát. 2. Chướng Thiền định: Là do lìa chướng nầy mà đắc A-la-hán câu giải thoát và Độc giác… 3. Chướng Nhất thiết, là điều mà Bồ-tát đạo phá, lìa chướng nầy thì đắc thành chánh giác. Pháp thân Như lai trong ba vị, tuy có ba chướng nhưng không phải sự nhiễm ô.

5. Pháp thân giới thanh tịnh tướng, gồm có bốn thí dụ, mỗi thí dụ có bốn nghĩa.

Bốn nghĩa thứ nhất là: 1. Pháp thân không biến đổi như vàng báu. 2. Như như thanh tịnh như nước. 3. Đệ Nhất nghĩa đế vô tướng như hư không. 4. Đại Bát-nhã hiển rõ gồm nhiếp giác ngộ.

Bốn nghĩa thứ hai là: 1. Thần thông chuyển biến như vàng báu. 2. Từ bi thấu nhuần như nước. 3. Tự tánh không bỏ chúng sanh như hư không. 4. Bát-nhã giải tịnh như giác.

Bốn nghĩa thứ ba là: 1. Nhân vốn thanh tịnh không nhiễm như vàng . 2. Thắng đạo tẩy sạch như nước. 3. Giải thoát không phiền luỵ như hư không. 4. Quả thể hiển hiện như giác.

Bốn nghĩa thứ tư là: 1. Lạc tánh lợi ích như vàng. ). Tịnh thể thanh khiết như nước. 3. Thường đức không hoại như hư không. 4. Nghĩa Ngã không vướng mắc như giác.

Hỏi: năm tướng nầy mỗi mỗi đều hiển nghĩa gì?

Đáp: Thứ nhất là tướng vô vi, hiển nghĩa chủng loại. Vì sao? Vì Pháp thân Như lai lấy vô vi làm chủng loại tướng. Thứ hai là vô biệt dị, hiển nghĩa tướng, phải biết là nói tướng Như lai, không phải một, không phải hai làm tướng. Thứ ba là tướng lìa hai bên, hiển nghĩa bàn chân và lưng bàn chân. Túc tức là tất cả Thánh đạo của Bồ-tát. Phu là chỗ nương của Thánh đạo để xa lìa hai bên, lý có thể nói theo Trung đạo mà được đến Pháp thân. Thứ tư là tướng lìa tất cả chướng, hiển Pháp thân công đức không có các nhiễm ô, trí chướng độ thoát hẳn. Thứ năm là tướng Pháp thân thanh tịnh , nói lên quả Pháp thân vô cấu uế trong lặng.

Lại nữa, phải biết nghĩa thứ tự của năm tướng: Thứ nhất tướng vô vi, hiển thường trụ. Thứ hai tướng vô biệt dị, hiển nghĩa chân thật. Thứ ba tướng lìa hai bên, hiển nghĩa đối trị. Thứ tư tướng ly nhất thiết chướng, hiển nghĩa giải thoát. Thứ năm pháp giới thanh tịnh, hiển nghĩa tự tánh thanh tịnh. Như vậy tướng sinh cũng được từ trước hướng đến sau, từ sau hướng đến trước.

Lại nữa, năm nghĩa thứ tự: 1. Tự tánh nên nói vô vi. 2. Vô phân biệt nên nói không phải một, không phải khác. 3. Cảnh giới Thánh trí nên nói lìa hai bên. 4. Tự tánh thanh tịnh nên nói lìa tất cả chướng. 5. Rốt ráo thành tựu nên nói pháp giới thanh tịnh. Gọi đó là năm tướng.

Lại nữa, 5 đức: 1. Bất khả lượng. 2. Bất khả số. 3. Không thể nghĩ. 4. Vô dữ đẳng. 5. Thanh tịnh rốt ráo.

a) Bất khả lượng: Có bốn nghĩa: 1. Do thời tiết lâu xa nên bất khả lượng. 2. Công dụng lớn nên bất khả lượng. 3. Không dư không đủ nên bất khả lượng. 4. Không có trung gian nên bất khả lượng. Như trong kinh nói: “Phật hỏi Xá-lợi-phất: Ông có thể như lượng mà thông đạt công đức của Như lai hay không? Xá-lợi-phất nói: Bạch Thế tôn! Không thể. Phật lại hỏi: Ông làm sao tin được công đức của Như lai? Xá-lợi-phất nói: Hay con hiện tại nói theo Thanh văn (nghe âm thanh) mà có thể quán thấy giới công đức… của Như lai, chẳng có chỗ nào mà không sinh ít có. Ví như có người đi đến vườn hoa của chư thiên, giữa đường chợt thấy cây báu trang nghiêm mà sinh tâm ít có, con nay cũng vậy. Bạch Đức Thế tôn! Ví như có người ở bên ngoài thành lớn, thấy ai nấy ra vào đều đáng yêu mến, bèn nghĩ rằng: Người trong thành đều đáng yêu mến! Con cũng vậy, vì nói theo Thanh văn nên có thể quán thấy giới công đức… của Như lai, chẳng có gì mà không phải là ít có, dùng tín biết”.

b) Bất khả số: Là không thể nghĩ bàn công đức là một hay là nhiều, số đó vô cùng, còn hơn số cát sông hằng, như trong kinh Mã Tiên Hành có kệ rằng:

Hoặc người có ngàn đầu,
Mỗi đầu có trăm miệng,
Mỗi miệng có trăm lưỡi ,
Mỗi lưỡi trăm tiếng nói.
Một phần của mười lực,
Cùng kiếp nói không hết.

c) Không thể nghĩ: Là cảnh giới phi giác quán.

d) Vô dữ đẳng: Là không chung với ba thừa – Thanh văn, Độc giác và Bồ-tát.

e) Thanh tịnh rốt ráo: Là vô minh trụ địa bị diệt không sót. Đó gọi là năm đức của Pháp thân.

Lại nữa, ứng thân, uy lực ứng dụng rộng lớn, thân nầy vốn có ba đức: 1. Đại Bát-nhã. 2. Đại thiền định. 3. Đại từ bi.

a) Đại Bát-nhã: Thánh trí Vô phân biệt là thể tướng.

b) Đại thiền định: Vô tác Ý là thể tướng của nó, vì đã lìa ý xuất nhập.

c) Đại từ bi: Là có thể nhổ trừ, có thể cứu giúp là thể tướng, như ý của chúng sanh mà khiến cho được tròn đầy. Cho nên phải có ba pháp nầy: 1. Làm pháp lạc. 2. Làm đại thông. 3. Làm bạt tế. Do đó đại bi làm bạt tế ba đường ác khổ, đặt trời người vào đại định, có thể hiển sáu thông khiến chúng sinh tin ưa. Bát-nhã làm thọ pháp lạc, có thể thành thục giải thoát. Đó gọi là ứng thân.

Lại nữa, hóa thân, có ba đại pháp: 1. Đại bi làm gốc. 2. Thiền định làm biến hiện. 3. Bát-nhã có thể khiến cho có năm công năng:

  1. Khiến sinh chán sợ.
  2. Khiến nhập Thánh đạo.
  3. Khiến xả chấp cũ.
  4. Khiến tin ưa đại pháp.
  5. Khiến thọ ký đại Bồ-đề.

Ba đại pháp nầy trong nhân địa huân tu như như, an lập bản nguyện, do bản nguyện nầy sau khi đến đạo thì thuận theo ba thân, có thể làm các việc lợi ích cho chúng sanh, nên xuất hiện trong đời năm trược. Có mười bốn việc: 1. Hiện sự bản sanh. 2. Hiện sinh cõi trời đâusuất. 3. Từ cõi trời xuống ở trong trung ấm. 4. Nhập thai. 5. Xuất thai. 6. Học kỹ năng. 7. Hiện đồng tử dạo chơi. 8. Xuất gia. 9. Khổ hạnh. 10. Đến dưới cội Bồ-đề. 11. Phá quân ma. 12. Thành Phật. 13. Xoay bánh xe pháp. 14. Nhập Niết-bàn. Mười bốn việc nầy thị hiện trong đời năm trược, kiếp sống của chúng sanh hết thì mười bốn việc nầy làm năm nhân duyên:

1. Vì nói vô thường, khổ, vô ngã, không, Niết-bàn vắng lặng. Do âm thanh của chánh thuyết nầy có thể khiến cho chúng sanh trong ba cõi sinh kinh sợ.

2. Đã sinh kinh sợ rồi, khiến cho nhập Thánh đạo Nhị thừa.

3. Nhập Thánh đạo Nhị thừa rồi, liền sinh tâm rốt ráo Niết-bàn, vì phá các tâm tăng thượng mạn nầy nên nói giáo pháp chân thật của pháp Đại thừa Pháp Hoa khiến các chúng sanh xả bỏ điều chấp cũ, mà nhiếp lấy phương tiện từ bi Bát-nhã.

4. Đã nhiếp lấy rồi, thì ở trong vô thượng thừa mà thuần thục.

5. Đã thuần thục rồi, thì liền thọ ký đạo quả Bồ-đề vô thượng. Đó gọi là hóa thân sự.

Lại nữa, nói theo ba thân nầy, tùy mỗi thân đều có một đức. Pháp thân thì nhỏ nhiệm nên sâu xa là đức. Ưng thân oai thần đầy đủ túc nên quảng đại là đức. Hóa thân có thể cứu giúp chúng sanh phàm phu… nên hòa thiện là đức.

Lại nữa, ba thân nầy thường có thể sinh khởi các sư lợi ích của thế gian nên nói là thường trụ. Thường trụ nói theo mười nhân duyên: 1. Nhân duyên vô biên. 2. Thế giới Chúng sanh vô biên. 3. Đại bi vô biên. 4. Như ý túc vô biên. 5. Trí Vô phân biệt vô biên. 6. Thường ở trong thiền định không tán loạn. 7. An vui mát mẻ. 8. Thực hành tám pháp thế gian mà không nhiễm. 9. Cam-lộ vắng lặng xa lìa tử ma. 10. Bản tánh pháp nhiên, vô sinh vô diệt.

a) Nhân duyên vô biên nên thường: Từ vô lượng kiếp đến nay, xả bỏ thân mạng và tài sản là để gồm nhiếp chánh pháp, chánh pháp đã vô biên tế, vô cùng, vô tận, lại do nhân vô cùng mà chiêu cảm quả vô cùng. Quả tức là ba thân nên được là thường.

b) Thế giới Chúng sanh vô biên nên thường: Là khi mới phát tâm, kết bốn hoằng thệ nguyện, khởi mười đại nguyện vô tận: Nếu Chúng sanh không thể tận, thì nguyện của tôi vô tận; chúng sanh nếu có thể tận, thì nguyện của tôi mới tận. Nhưng chúng sanh đã chính là là vô tận, nên hóa thân phải thường ở thế gian, để giáo hóa dẫn dắt chúng sanh vô tận nầy.

c) Đại bi vô biên nên thường: nếu các Bồ-tát phần hữu đại bi, thì còn có thể thường cứu độ chúng sanh, tâm không giới hạn, trụ lâu trong sinh tử, không nhập Niết-bàn, huống gì các đức tròn đầy của Như lai, thường ở đại bi cứu giúp, hằng ban ân tuệ, thì lẽ nào có bờ mé! Cho nên nói là thường.

d) Tứ Như ý vô biên nên thường: Là người thế gian có đắc bốn Thần túc cũng còn có thể trụ thọ mạng bốn mươi tiểu kiếp, huống gì Như lai là đại thần túc sư mà lại không thể trụ thọ mạng ức trăm ngàn kiếp để rộng hóa độ chúng sanh! Cho nên nói là thường.

e) Trí tuệ Vô phân biệt vô biên nên thường: Là xa lìa hai chấp sinh tử và Niết-bàn, hoàn toàn tương ưng với đệ Nhất nghĩa đế, bất động bất xuất nên biết là thường.

f) Thường ở trong thiền định nên thường: Là thế gian có người đắc thiền định, cũng còn có thể không bị nước lửa đốt cháy nhận chìm, đao kiếm không gây thương tích, huống gì Như lai thường ở trong thiền định mà có thể hoại hay sao! Cho nên gọi là thường.

g) An vui mát mẻ nên thường: an vui tức là tâm kim cương, có thể trừ niệm vô thường khổ sau rốt của vô minh trụ địa, vì không có khổ nên gọi là an vui, quả Phật hiển thành nên gọi là mát mẻ là đạo giải thoát nên gọi là thường.

h) Thực hành tám pháp của thế gian mà không nhiễm nên thường: Là thân Phật tuy là ở trước đạo, tương ưng sinh tử mà không bị phiền não kia nhiễm ô, vì không có duyên vọng tưởng, nên là thường trụ.

i)Cam-lộ vắng lặng xa lìa tử ma nên thường: Cam-lộ có thể khiến cho người sống lâu, tiên không chết, tâm kim cương có thể trừ niệm chiêu cảm sau rốt của vô minh mà đắc quả Phật thường lạc, vì thường lạc nên vắng lặng, vì vắng lặng nên xa lìa tử ma, vì xa lìa tử ma nên là pháp thường trụ.

j) Bản tánh pháp nhiên vô sinh vô diệt nên thường: Vì Pháp thân không phải trước không nay có, hay trước có nay không, tuy hành trong ba đời nhưng không phải pháp của ba đời. Vì sao? Vì Pháp thân vốn đã có, không phải hiện tại mới có, vượt qua pháp ba đời nên gọi là thường.

Hỏi: Phật nói các kinh Đại thừa, hoàn toàn đều nói các pháp không như mây, như mộng, như huyễn. Vì phiền não có thể che chướng nên lấy mây làm thí dụ, vì tất cả nghiệp không chân thật nên lấy mộng làm thí dụ, vì là sự khởi tất cả năm ấm, quả báo, nghiệp phiền não nên lấy huyễn làm thí dụ. Trước đã nói kinh nầy hiển nghĩa nầy, nhưng vì sao lại nói tất cả chúng sanh đều có Phật tánh?

Đáp: Đã như ban đầu nói năm công đức trừ năm tội lỗi, vì nói có Phật tánh nên nói là có. Lại nữa, chín thứ thí dụ nầy vì để hiển bày Phật tánh có năm nghĩa phải biết:

1. Chân thật hữu.

2. Nói theo phương tiện thì có thể được thấy.

3. Đã được thấy rồi thì công đức vô cùng.

4. Vô sơ bất ưng tương ưng xác.

Giải thích: “Vô sơ (vô thỉ)”, là nghiệp phiền não báo đều là vô thỉ nên nói vô sơ. “Bất ưng (không xứng)”, là do ba pháp thỉ trên trái nghịch với Pháp thân, nên nói bất ưng. “Tương ưng”, là nói theo Pháp thân mà được khởi ba pháp nầy nên nói tương ưng. “Xác”, là ba pháp nầy có thể che giấu Pháp thân nên gọi là xác (màng bọc).

5. Vô sơ tương ưng tánh thiện làm pháp.

Giải thích: “Vô sơ”, là vì tánh đắc Bát-nhã, đại bi, thiền định, Pháp thân đều là vốn có, nên nói vô sơ thể dụng không hề lìa nhau nên nói tương ưng, gọi là vô sơ. “Tương ưng tánh thiện làm pháp”, là tự tánh của Pháp thân không có biến đổi, do Bát-nhã nên tánh có oai đức, do thiền định nên tánh có thể thấm nhuần, do đại bi nên xứng với tánh thiện làm pháp. Như vậy chín thí dụ giải thích nghĩa thứ nhất không có mé trước, mé sau đổi khác trong sự phân ra có sáu thứ đã xong.

1. Vô nhiễm tịnh đổi khác:

Pháp thân không bị sinh tử, Ấm, Giới, Nhập… làm nhiễm ô, nên nói vô nhiễm; không phải điều được tạo tác của trí nên nói vô tịnh.

2. Vô sinh đổi khác:

Vì Pháp thân vô sinh nên không phải do khởi mà thành, vì không phải do khởi mà thành nên chẳng phải mới có, không luận về đổi khác.

3. Vô lão biến dị:

Vì Pháp thân vô động chuyển, không bị thay đổi, nên nói không có già.

4. Vô y trụ đổi khác.

Nếu pháp có dựa có trụ, tức là có đổi khác. Pháp thân không do các pháp khác nên vô y (không nương tựa), không có thực tại đích xác nên nói vô trụ.

5. Vô diệt đổi khác:

Pháp thân thường trụ không thể phá hoại nên nói vô diệt đổi khác, gọi là vô đổi khác.

Sáu thứ nghĩa khác của sự phân ra đã nói xong. Lại nữa, hợp chung sáu nghĩa riêng nầy làm ba thứ:

1. Trước sau vắng lặng: Là không có mé trước và mé sau khác nhau.

2. Vô lưu: Tức là không có nhiễm và tịnh khác nhau.

3. Vô vi: Là không có bốn tướng sinh trụ diệt… nên không có đổi khác, do đó tất cả pháp vọng tưởng có ba thứ đổi khác: a. Quả báo tận nên đổi khác. b. Đối trị sự phá nên đổi khác. c. Sát-na niệm niệm diệt nên đổi khác. Pháp thân thì không như thế, vì lìa ba lỗi nên: 1. Vì trước sau vắng lặng do đó không có quả báo tận đổi khác. 2. Vì vô lưu nên không có đối trị phá đổi khác. 3. Vì không phải pháp Hữu vi nên không có niệm niệm hoại đổi khác, gọi là vô đổi khác.

 

Phẩm thứ 10: KHÔNG SAI KHÁC

Lại nữa, phải biết nghĩa không sai khác. Không sai khác, là tánh Như lai nầy đã đến vị cực thanh tịnh. Nếu lược nói là trong giới vô lưu dựa theo tánh Như lai có bốn nghĩa, nhờ bốn nghĩa nầy mà lập bốn danh, dựa theo bốn nhân (người) để hiển bốn đức. Bốn nghĩa gồm: 1. Tất cả pháp Phật trước sau không lìa nhau. 2. Tất cả xứ đều như. 3. Không phải pháp vọng tưởng điên đảo. 4. Bản tánh vắng lặng.

Giải thích: “Tất cả pháp Phật trước sau không lìa nhau”, như kinh Thắng man nói: “Bạch Thế tôn! Như lai tàng không bỏ luống qua nhiều như số cát sông hằng công đức không lìa nhau, không bỏ trí, không thể tư duy công đức chư Phật. Biết Như lai tạng do công đức của Như lai nên bất không. Bất không, tức là nói chư Phật đầy đủ công đức. Tánh nầy “tất cả xứ đều như”, là tất cả pháp không có tự tánh. Như kinh Vô Thượng Y nói: “Tất cả chúng sanh có ấm giới nhập, là sự hiện chủng loại hơn kém trong ngoài, vô thỉ thời tiết lưu chuyển nối tiếp, là sự đắc sáng tỏ tột cùng diệu thiện của pháp như thế. Vì nghĩa đó nên biết tất cả xứ đều như. “Không phải pháp vọng tưởng điên đảo”, như Kinh Giải Tiết nói: “Phật bảo Bồ-tát Vô Tận Ý: Nầy thiện nam! Tánh Như lai là chân thật đế. Nếu Như lai xuất thế hoặc không xuất thế thì tánh tướng thường như, không phải pháp vọng”. Do kinh nầy nên biết không có pháp vọng tưởng điên đảo gọi là chân thật đế. “Bản tánh vắng lặng”, như kinh Văn-thù-sư-lợi biến hành nói: “Phật bảo: Nầy Văn-thù-sư-lợi !Bản tánh của chư Phật Như lai, tự Nhập Niết-bàn bất sinh bất diệt, vì nghĩa đó nên biết tự tánh xưa nay vắng lặng.

Lại nữa, lập bốn danh: 1. Do pháp Phật không lìa nhau nên gọi là Pháp thân. 2. Do tánh nhất thiết xứ như nên gọi là Như lai. 3. Do không luống dối điên đảo nên gọi là Chân thật đế. 4. Do xưa nay vắng lặng nên gọi là Nhập Niết-bàn. bốn nghĩa và bốn danh đó đối với tánh Như lai không sai khác nên gọi là tướng vô sai khác.

Lại nữa, Theo bốn người:

1. Chẳng phải cảnh giới của chúng sanh thân kiến. Vì chân tánh nầy là đối trị tà chấp, nên vì người thân kiến gọi là Pháp thân.

Hỏi: Thế nào là đối với người ấy gọi chân như là Pháp thân?

Đáp: Là sắc ấm… của các phàm phu đó không có tánh nầy, chỉ gượng chấp có ngã và có ngã sở, do hai chấp người pháp nầy làm nhiễm ô tâm đó. Thân kiến diệt xứ là giới cam-lộ, nếu không thể tin ưa thì làm sao có thể thông đạt pháp giới Như lai? Nếu thấy giới nầy thì thân kiến chấp là diệt, tuy thân kiến đã dứt nhưng chưa trừ giới nầy, vì thường như thế, nên giới nầy mới gọi là chân thân. Sự chấp của phàm phu đã không phải chân thật nên không đồng thời tồn tại, không được gọi là thân, vì đối với thân kiến của người phàm phu như vậy mà gọi là thân.

2. Đối với người điên đảo mà gọi tên là Như lai: Người điên đảo, là người Nhị thừa. Như lai thường trụ phải tu phải hành, nhưng mà đảo trái với tu vô thường tưởng… vì sao? Vì tu nầy nói theo cảnh luống dối mà khởi nên gọi là đảo tu. Lạc, ngã và tịnh cũng vậy, do đảo hành nên tất cả Nhị thừa không thể tiến tu đắc tương xứng đạo quả với Như lai. Do đó chân như của Thường, Lạc… không phải cảnh giới của người Nhị thừa. Chân như nầy không giống như vô thường… vì đối trị thế gian, chân như nầy là Phi như, Trung hữu như, Vô phi như, cũng như hai thừa.

Như là chữ như trong Phi như, Phi như trong Vô phi như.

Hỏi: Thế nào là như của người Nhị thừa nầy?

Đáp: Phỏng theo luống dối mà quán tương tự của vô thường… làm chân như. Quán luống dối nầy chỉ có hữu trong nhân, quả địa thì không có, nên Chân như nầy hoặc thành hoặc hoại, thì trong nhân là thành, quả địa thì hoại. Như của Bồ-tát là lìa luống dối, dựa theo chân tánh để quán chân. Như vậy hai xứ như trong nhân quả không khác nhau, chỉ thành mà không hoại, nên như của người Nhị thừa đuổi theo định diệt mà chỉ đi không có đến. Như của Bồ-tát là nhân quả thường có, khứ lai không khác nhau, xả nhân đến quả, nên xứng với như khứ, từ quả phát xuất ứng dụng, nên gọi là Như lai, do đó Như lai không phải là cảnh giới của Nhị thừa, nên để đối trị Nhị thừa mà đặt tên Như lai.

3. Đối với người tâm tán động gọi là Chân đế. Chân như, là pháp không thêm không bớt. Người tâm tán động, là người mới thực hành Đại thừa Bồ-tát. Mê Như lai tạng có hai loại người: 1. Chỉ có tin diệt trừ các pháp, gọi đó là không. Khi chưa phân tích tất cả pháp thì gọi đó là hữu, nếu phân tích rồi thì gọi là không. 2. Cho rằng có pháp thật, gọi đó là không, nay ta phải tu phải đắc. Hai loại người nầy là mê Như lai tàng, hạng thứ nhất thì chấp vô nên mê, hạng thứ hai chấp hữu nên mê.

Hỏi: Như lai tạng theo lý là tướng gì?

Đáp: Như kệ nói:

Không pháp nào tổn được,
Không pháp nào tăng được,
Phải thấy thật, như thật,
Thấy thật được giải thoát.
Do khách trần nên không,
Cùng pháp giới lìa nhau,
Pháp vô thượng bất không,
Cùng pháp giới theo nhau.

Tánh Như lai, là tự thanh tịnh. Năng nhiễm khách trần là tự tánh không, nên nói “Không pháp nào tổn được”. Chân như, và nhân của thanh tịnh không lìa nhau. Nhân thanh tịnh nhiều hơn số cát sông hằng, bằng với trí bất xả không thể nghĩ duy, công đức của chư Phật hằng tương ưng, nên nói “Không pháp nào tăng được”. Nếu pháp vô nhân, thì vô nhân pháp nầy là quán chân như không, lấy pháp hữu khác mà quán như bất không, nên nói “Chân như cũng chẳng phải bất không”. Vì sao? Vì lìa hai bên tăng giảm, chẳng có pháp nào có thể tổn nên là không, chẳng có pháp nào có thể tăng nên phi không. Nếu khởi quán như vậy thì gọi là quán chân thật, nên được xa lìa hai bên tăng giảm mà làm Bồ-tát mới hành, vì chưa có thể thấy được lý của tạng nầy. Để đối trị loại người ấy nên nói Chân thật đế, từ Sơ địa đến mười địa là cảnh giới quán đối với lý nầy của loại người nầy. Thực Hành hạnh mười địa, do đó không phải quan hệ với cảnh giới mới hành.

4. Đối với Bồ-tát mười địa gọi là Niết-bàn. Chỉ một mình Phật có khả năng đắc Niết-bàn, ngoài ra các chư Bồ-tát cũng không thể đến được. Như kinh Thắng man nói: “Bạch Đức Thế tôn! Do đắc Niết-bàn. Thế tôn thành tựu Như lai A-la-ha Tam-miệu-tam-phật-đà đắc tất cả vô lượng công đức không thể nghĩ duy thanh tịnh rốt ráo của chư Phật, do đó bốn thứ công đức của Niết-bàn không có tướng sai khác.

Lại nữa, bốn thứ công đức: 1. Nhất thiết công đức. 2. Vô lượng công đức. 3. Không thể nghĩ duy công đức. 4. Thanh tịnh rốt ráo công đức. Vì đắc Niết-bàn nên thành Như lai, do đó Như lai không có sai khác với Niết-bàn. Vì sao? Nếu lìa Phật thì không đắc Niết-bàn, nếu lìa Niết-bàn thì không đắc Phật.

Giải thích: Công đức:

a) Nhất thiết công đức: Tức là ở vị địa Bất động thứ tám, không phân biệt, không thất thoát, không trung gian, tự nhiên mà thành, vì Thánh đạo của Bồ-tát thường tương ưng. Tất cả công đức của chư Phật Như lai trong giới vô lưu đều được thành tựu

b) Vô lượng công đức: Là vị của địa Thiện tuệ thứ chín, vô số thiền định và hiển môn Đà-la-ni, có thể gồm nhiếp chỗ nương của vô lượng công đức trí, nên vô lượng công đức đều được thành tựu.

c) Không thể nghĩ duy công đức: Tức là vị của địa Pháp vân thứ mười, là chỗ nương của pháp tạng bí mật nơi tất cả Như lai chứng kiến sáng tỏ, nên không thể nghĩ duy, đều được thành tựu.

d) Thanh tịnh rốt ráo công đức: Là chướng nhất thiết trí của tất cả hoặc và tập khí đã dứt hết, do dứt hết trí chướng nên thanh tịnh rốt ráo, thành tựu Niết-bàn, cùng với bốn công đức nầy gồm nhiếp nhau không lìa nhau. Chỉ có Phật đắc Niết-bàn, những người khác thì chưa được. Do đó tánh Như lai đối với bốn nghĩa, bốn danh, bốn nhân và bốn đức nầy không có sai khác. Vì nhân duyên đó, mười tướng của tự tánh nầy vì để hiển ba nghĩa: 1. Hiển bổn hữu không thể nghĩ nghì cảnh giới (cảnh giới bất khả tư nghị vốn sẵn có). 2. Hiển y đạo lý tu tu hành khả đắc (y theo đạo lý tu mà tu hành có thể chứng đắc). 3. Hiển đắc dĩ năng linh vô lượng công đức tròn đầy (hiển đã đắc rồi có thể khiến cho vô lượng công đức tròn đầy), cho nên soạn luận nầy.